Với lý luận giỏi - Giới thiệu những ngụy biện thông thường

pdf 143 trang ngocly 130
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Với lý luận giỏi - Giới thiệu những ngụy biện thông thường", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvoi_ly_luan_gioi_gioi_thieu_nhung_nguy_bien_thong_thuong.pdf

Nội dung text: Với lý luận giỏi - Giới thiệu những ngụy biện thông thường

  1. Với Lý Luận Giỏi Giới Thiệu Những Ngụy Biện Thông Thường Morris S. Engel Engel, Morris S. With Good Reason An Introduction to Informal Fallacies. 5th edition. New York: St. Martin's Press, 1994.
  2. Mục Lục Mục Lục i Tác Giả iii Phần I 1 Chương 1 1 Bản Chất và Phạm Vi của Lo-gic 1 1. Lý Luận vừa là Một Môn Khoa Học và Môn Nghệ Thuật 2 2. Lo-gic là Nghiên Cứu về Tranh Luận 3 3. Tranh Luận và Không-Tranh-Luận 4 4. Loại Bỏ Sự Dông Dài 6 5. Những Bộ Phận Khuyết Thiếu 8 6. Làm Nổi Bật những Thành Phần Khả Nghi 11 7. Đánh Giá các Tranh Luận: Đúng, Giá Trị và Hợp Lý 14 8. Những Tranh Luận Suy Diễn và Quy Nạp 17 9. Lý Luận và Giáo Dục 20 10. Tóm Tắt 20 Chương 2 22 Phương Tiện Truyền Đạt của Ngôn Ngữ 22 1. Ngôn Ngữ và Tư Duy 22 2. Dấu Hiệu và Biểu Tượng 25 3. Từ ngữ và Vật Chất 26 4. Sự Hữu Dụng của Ngôn Ngữ 29 5. Sự Tối Nghĩa và Mơ Hồ 30 6. Những Tranh Luận về Từ Ngữ 31 7. Định Nghĩa 33 8. Nghệ Thuật Nói Chuyện Trực Tiếp 37 9. Tóm Tắt 39 Phần II 41 Chương 3 41 Những Ngụy Biện do Sự Tối Nghĩa 41 1. Lối Nói Lập Lờ 44 2. Câu Nói Nước Đôi 49 3. Dấu Trọng Âm 53 4. Phép Tu Từ 57 5. Sự Phân Hóa và Kết Cấu 61 6. Tóm Tắt 64 Chuong 4 65 Những Ngụy Biện của Giả Định 65 Bỏ Qua Những Yếu Tố Cơ Bản 65 1. Khái Quát Hoá 65 2. Gôm Đũa Cả Nắm 68 3. Lý Luận Rẽ Đôi 70 i
  3. Lảng Tránh Sự Thật 72 4. Lập Lại Vấn Đề 72 5. Ngôn Ngữ Cường Điệu hay Thành Kiến 76 6. Phức Tạp Hóa Vấn Đề 78 7. Biện Hộ Đặc Biệt 81 Bóp Méo Sự Thật 83 8. Tương Đồng Giả Tạo 83 9. Sai Nguyên Nhân 87 10. Lý Luận Rập Khuôn 91 11. Luận Điểm Không Phù Hợp 93 12. Tóm Tắt 95 Chương 5 97 Ngụy Biện Tính Xác Đáng 97 1. Công Kích Cá Nhân 97 Căn nguyên 98 Lăng mạ 99 Suy diễn gián tiếp 100 Xem ai nói đó 101 Đầu độc nguồn nước 102 2. Kêu Gọi Đám Đông 104 3. Kêu Gọi Lòng Thương 107 4. Kêu Gọi Quyền Lực 109 Quyền lực của cái duy nhất 109 Quyền lực của số đông 110 Quyền lực của số ít được lựa chọn 112 Quyền lực của truyền thống 113 5. Đánh Vào Sự Không Biết 113 6. Kêu Gọi Sự Sợ Hãi 116 7. Tóm Tắt 118 Phần III 121 Chương 6 121 Viết Rõ Ràng và Chặt Chẽ 121 1. Khái Quát Về Cấu Trúc Một Bài Luận 122 Mở đầu 123 Thân bài 123 Phần kết 126 2. Xây Dựng Một Bài Luận 127 Tìm kiếm chủ đề 127 Cụ thể hoá chủ đề của bạn 129 Quá trình động não 129 Viết tự do 130 Đặt vấn đề 130 Xây dựng một luận đề 130 Xem xét về mặt tu từ 131 Độc giả và sự lựa chọn ngôn từ 132 Xắp xếp các đoạn văn một cách hiệu quả. 133 Sửa chữa 135 3. Chú Ý Cuối Cùng: Ngữ Pháp và Cách Sử Dụng 135 Chương 7 136 Những Bài Đọc Gợi Ý 136 Bảng Chú Dẫn Error! Bookmark not defined. ii
  4. Tác Giả Engel, Morris S. With Good Reason An Introduction to Informal Fallacies. 5th ed. New York: St. Martin's Press, 1994. Morris S. Engel. Với Lý Luận Giỏi Giới Thiệu Những Ngụy Biện Thông Thường. x/b 5th. New York: St. Martin's Press, 1994. S. Morris Engel (Tiến Sĩ Khoa Học, Đại Học Toronto) là một giáo sư triết học tại Đại Học York ở Toronto, Ontario. Trước đó, ông dạy tại trường Đại Học Miền Nam California (University of Southern California). Những tác phẩm của ông bao gồm Nghiên Cứu Triết Học (The Study of Philosophy), 31e (1990) và Cái Bẫy của Ngôn Ngữ (The Language Trap), (1984 và 1994), bên cạnh những cuốn sách học thuật như học thuyết của Wittgenstein về sự chuyên chế của ngôn ngữ (1971). Những mối quan tâm về học thuật của giáo sư Engel là ngôn ngữ của lo-gic và triết học. Tuy nhiên, ông cũng nổi tiếng với nhiều tác phẩm về Tiếng Đức Cổ (Yiddish). Những tác phẩm của ông gồm Dybbuk (Lên Đồng) (1974-1979), Lễ Ban Phước Hashem (Kiddish Hashem) (1977), v.v Phiên Dịch: Tô Yến Nhi, Võ Hồng Long, Vũ Thắng và Lê Nga Điều Hành: Nguyễn Lưu Trọng Quyền. Phiên bản nhất này, chúng tôi dịch lại cuốn sách của Giáo Sư Morris S. Engel. Trong những phiên bản sau, chúng tôi sẽ sưu tầm những sai lầm trong các bài tham luận trên báo chí Việt Nam trong và ngoài nước. Trong thời gian sưu tầm, những ví dụ sẽ được đăng tại Phố Rùm của trang www.kinhtehoc.com. Kính mong độc giả quan tâm và ủng hộ, vào trang mạng trên đóng góp các ví dụ tiếng việt thực tế hơn. iii
  5. With Good Reason An Introduction to Informal Fallacies Phần I Chương 1 Bản Chất và Phạm Vi của Lo-gic Bất kỳ ai đọc quyển sách này đều đã quen thuộc với việc tranh cãi dường như không bao giờ có hồi kết về trí tuệ và các luận điệu của chúng ta, cái việc mà đã là một đặc tính nổi bật của cuộc sống trong suốt những năm cuối thế kỷ 20. Thông qua từng các phương tiện truyền thông đại chúng, chúng ta đã bị dội bom với những lập luận về mua cái này hay cái kia, tin diễn giả này hay diễn giả khác, làm điều này hay làm điều khác. Những thông điệp có tính thuyết phục xuất phát từ bạn bè, gia đình và chính phủ, thậm chí từ những người lạ mà ta chỉ thảo luận trong chốc lát. Chúng ta thường lấy những điều “phi lo-gic” (vô lý) để nỗ lực thuyết phục chúng ta, nhưng chúng ta có thể phát hiện rằng rất khó khăn để chống lại nỗ lực đó bởi vì chúng ta không chắc là tại sao tính lo-gic của những tranh luận là không có hoặc nó sai ở điểm nào. Thật là không may mắn khi mà trong cuộc tranh luận, người nào nói dài nhất, to nhất thường được xem là kẻ “chiến thắng”, thậm chí ông hay bà ta tranh cãi chẳng hay ho gì cả. Đó là bởi vì không có ai đáp lại trong cuộc tranh luận và nếu không có ai chỉ ra rằng những lập luận là yếu hay không thích hợp, thì chúng ta sẽ đi đến suy nghĩ: người tranh luận có thể đúng và hơn nữa chẳng có ai có thể chỉ rằng nó sai và tương tự như vậy. Đó là lý do tại sao chúng ta chán ngán trong việc tranh cãi về một điều nếu nó không thể nghi ngờ hay tranh cãi. Chúng ta cùng những người khác có thể bị ảnh hưởng một cách tinh vi hay thậm chí nặng nề bởi nó, có thể trong thực tế sẽ xoá dần đi những bất đồng quan điểm ban đầu với nó, và cũng có thể phát hiện ra rằng rất khó khăn để từ chối tranh luận của người khác hoặc thậm chí kêu gọi hành động xuất phát từ nó. Tất cả có thể dẫn chúng ta đến cảm giác là chúng ta không có sự lựa chọn nhưng vẫn phải nói và phải làm những việc mà chúng ta với lương tri không chọn hoặc không tin tưởng. Bằng cách nào chúng ta biết rằng chúng ta nên mua cái gì, tin cái gì và làm những việc khẩn cấp? Những lý do đó là gì, và chúng thuyết phục đến mức nào? Tại sao chúng tồn tại, nếu không thì tại sao chúng bắt buộc chúng ta? Và làm thế nào chúng ta có thể chắc chắn hơn rằng những phân tích cá nhân về các vấn đề có liên quan đến chúng ta là có lý như chúng ta đã thực hiện? Một mục đích của nghiên cứu lo-gic là đạt được các công cụ www.kinhtehoc.com 1
  6. Nature and Scope of Logic Vũ Thắng dịch mà với chúng có thể phân biệt một lập luận đúng với một lập luận sai. Theo đó, lo-gic có thể được xem là một trong những nghiên cứu mạnh mẽ nhất chúng ta có thể tiến hành, đặc biệt là trong thời đại như chúng ta đang sống, thời mà có quá nhiều yêu sách và phản đối các yêu sách. 1. Lý Luận vừa là Một Môn Khoa Học và Môn Nghệ Thuật Có phải lý luận học là một môn khoa học (như thiên văn học hay di truyền học), hoặc là một môn nghệ thuật thực hành (như thể dục hay nấu ăn) không? Có phải mục tiêu của nó là mô tả sự tự nhiên và cấu trúc tư duy đúng, theo cách của một môn khoa học chính xác? Hoặc là nó dạy chúng ta làm thế nào để lý luận đúng như là chúng ta có thể hướng dẫn ai đó chơi kèn? Nói ngắn gọn là có phải mục tiêu cơ bản của nó là giúp chúng ta hiểu lập luận rõ ràng là gì và dạy chúng ta làm thế nào để lập luận đúng đắn? Một tình huống có thể được nêu ra để nhìn nhận lý luận học bằng một trong những cách này. Một số người cho rằng lý luận học ngoài là một môn khoa học, nó khám phá, hệ thống, và thiết lập các nguyên tắc để lập luận đúng. Họ thậm chí còn gợi ý là giảng dạy cách lập luận có lo-gic là vô ý nghĩa, giống như là chúng ta chẳng cần đợi những nhà tâm lý học dạy chúng ta ăn. Hoặc là chúng ta biết làm thế nào để lập luận hoặc chúng ta không biết. Nếu chúng ta có đầy đủ mọi năng lực, chúng ta chẳng cần những hướng dẫn. Nếu chúng ta không có nó thì những hướng dẫn c ũng chẳng giúp được gì. Những người khác lại cho rằng giá trị cơ bản của lo-gic là nâng cao sức mạnh của những lập luận và tăng cường khả năng của chúng ta để đánh giá sự đúng đắn của những lập luận và sửa chữa những điểm yếu. Với những lợi ích này, lo-gic phải được coi là một môn nghệ thuật cũng như là một môn khoa học không chỉ để thông tin cho tư duy mà còn huấn luyện nó. Một vài người định nghĩa lo-gic là một nghệ thuật tự do, những nghiên cứu của nó cung cấp hiểu biết tốt hơn về sự tự nhiên và giúp chúng ta thoát khỏi những suy nghĩ và hành động ngu dốt. Trong quyển sách này, chúng ta sẽ theo đuổi việc thực hành trên góc độ coi đó vừa là một nghệ thuật vừa là một môn thực hành và quan trọng không kém là tiến hành những nghiên cứu mang tính lý thuyết của nó. Thực tế là có vài người sẽ phàn nàn là việc nghiên cứu mang tính thực hành cuả nó với những phân tích về thành kiến, thiên vị, và sự cố chấp thậm chí là quan trọng hơn việc nghiên cứu mang tính lý thuyết. Lịch sử là một cuốn danh mục về những sự kiện mà một cuộc tranh luận tồi tệ đã thuyết phục cả nhiều đám người hành động một cách xấu xa, thậm chí là tàn bạo. Rất nhiều sự tàn bạo cực điểm trong Thế Chiến II đều là bằng chứng chúng ta cần nói lên rằng với bản chất tự nhiên chúng ta dễ bị thuyết phục để thù ghét và giết người. Tất nhiên là có nhiều nhân tố đã đóng góp vào tình hình mà sự huỷ diệt có thể xảy ra nhưng nó không thể đơn giản là đặc điểm nổi bật để cố tình lập luận sai trái. Nhưng việc lập luận tồi tệ chắc chắn đã thúc đẩy rất nhiều hành động cá nhân mà đã công nhận tính hợp lý cho nó. Và tương tự thế bạo lực và thù hận tiếp tục chi phối xã hội chúng ta. Do đó việc nghiên cứu lo- 2
  7. With Good Reason An Introduction to Informal Fallacies gic đúng đắn là cách thức để chúng ta có thể cố gắng hết sức để giảm bớt những hành vi như thế trong chính chúng ta và bảo vệ chúng ta khỏi nó. Nhà trào phúng Jonathan Swift ở thế kỷ 18 đã xuất bản một tiểu luận có tựa đề “Một Lời Đề Nghị Khiêm Tốn” trong đó ông đã kín đáo gợi ý rằng tập tục ăn thịt đồng loại là một điều hết sức hợp lý, là một giải pháp mang tính thực tế cho vấn đề quá tải dân số trong nghèo đói. Trong những gì xuất hiện là một lý luận đẹp đẽ có tính thuyết phục “một điều lo-gic chặt chẽ sẽ dẫn đến tranh cãi khủng khiếp từ những giả thiết đáng kinh ngạc vì thế giả thiết đơn giản rằng người đọc tán thành trước khi anh ta biết anh ta tán thành cái gì.” (Norton Anthology of Emglish Literature, Quyển 1, dòng 3, trang 209). Điều mà Swift thực sự muốn làm là bằng cách đơn giản nào chúng ta có thể bị dẫn tới những suy nghĩ và quan điểm khiếp sợ không dám nói lên hành động nào cả bởi một người tranh luận biết cách làm thế nào giả tạo được sự hợp lý. Đó là lý do tại sao chúng ta nên biết cảm nhận sự hợp lý bằng bản thân chúng ta nhờ vậy chúng ta có thể phân biệt những thứ giả tạo tinh vi với những thứ thật. 2. Lo-gic là Nghiên Cứu về Tranh Luận Lo-gic là nghiên cứu về tranh luận. Với cách dùng theo nghĩa này, từ này không có nghĩa là cãi nhau (như khi chúng ta “vướng mắc vào một vụ cãi lộn”) mà là một phần của lập luận theo đó một hay nhiều mệnh đề được đưa ra để hỗ trợ cho các mệnh đề khác. Mệnh đề được hỗ trợ là kết luận của tranh luận. Những lập luận được đưa ra để hỗ trợ kết luận được gọi là tiền đề. Chúng ta có thể nói rằng “Có cái này (kết luận) bởi vì có cái kia (tiền đề)” hoặc “Đây là cái này (tiền đề) vì thế có cái kia (kết luận)”. Tiền đề nói chung được đưa ra trước bằng những từ ngữ như là bởi vì, do, từ khi, trên cơ sở này, tương tự, giống như là. Mặt khác, kết luận thường được đưa ra bằng những từ như vì lý do đó, từ lúc này, kết quả là, nó phải theo là, theo cách đó, vì vậy, chúng ta có thể suy ra rằng, và chúng ta có thể kết luận rằng. Vì thế, bước đầu tiên để tiến tới thông hiểu về tranh luận là học phân biệt tiền đề và kết luận. Để làm điều này, hãy tìm những từ chỉ dẫn, như chúng đã được nêu ra, và liệt kê. Trong những tranh luận mà những từ chỉ dẫn chỉ như thế bị thiếu, hãy cố gắng tìm kết luận bằng cách xem đâu là chủ đề của tranh luận: điều mà tranh luận đang cố gắng thiết lập. Đó sẽ là kết luận của nó; phần có lại là những ý nền tảng để hỗ trợ hoặc là tiền đề . Phân biệt kết luận với tiền đề trong hai lập luận dưới đây khá đơn giản. Trong trường hợp thứ nhất, một trong những mệnh đề của nó được đưa ra bằng từ “bởi vì” (nó cho chúng ta biết cái gì theo sau là tiền đề và phần còn lại chắc chắn là kết luận của nó). Trong trường hợp thứ hai, một trong những mệnh đề của nó được giới thiệu bởi từ “vì lý do này” (nó cho chúng ta biết cái gì theo sau là một kết luận và phần còn lại đương nhiên là tiền đề của nó): a. Jones sẽ không học tập tốt trong khoá học này bởi vì anh ấy có ít thời gian để tập trung vào công việc trường lớp và hầu như không tham gia vào lớp học nào. b. Cô ta xung khắc với hầu hết mọi người trong văn phòng, vì lý do này mà dường như cô ta sẽ không được nâng đỡ để phát triển. www.kinhtehoc.com 3
  8. Nature and Scope of Logic Vũ Thắng dịch Tuy nhiên, trong hai ví dụ dưới đây lại không có những từ chỉ dẫn bổ ích: c. Chẳng có con cáo nào ở vùng này. Cả ngày, chúng tôi chẳng nhìn thấy con nào. d. Tất cả những người Đảng bảo thủ phản đối việc xây dựng nhà công cộng. Thượng nghị sĩ Smith phản đối việc này, ông ta nhất định phải là một người Đảng bảo thủ. Để phân biệt tiền để với kết luận của nó trong những trường hợp loại này phải tự đặt ra các câu hỏi như: cái gì đang được tranh cãi và người ta đang cố gắng thuyết phục chúng ta cái gì? Hoặc trong trường hợp tình huống (c), điều được tranh cãi không phải là “cả ngày chúng tôi không nhìn thấy con cáo nào” bởi vì người khác đã chắc chắn biết điều này và chẳng qua là nhắc lại nó mà thôi nhưng quan trọng hơn là với sự thật đã biết đó, chắc chắn là không có con cáo nào trong khu vực này. Đấy chính là kết luận của tranh luận. Tương tự như với ví dụ (d), điều được tranh luận không phải là “tất cả người Đảng Bảo thủ phản đối việc xây dựng nhà công cộng” đối với tranh luận này, những giả thiết là những mệnh đề về thực tế được chia xẻ và quan trọng là với những thực tế đó, Smith là một người của Đảng Bảo thủ. Việc tìm ra kết luận của một tranh luận không được chỉ dẫn rõ ràng như trên không phải luôn luôn dễ dàng và chắc chắn. Sự giúp đỡ tốt nhất của chúng ta là chú tâm cẩn thận vào nội dung và lối diễn đạt của tranh luận và chỉ dẫn của những lập luận. • Một tranh luận là một phần của việc lập luận mà trong đấy một hay nhiều mệnh đề được đưa ra để hỗ trợ cho các mệnh đề khác. • Một mệnh đề được hỗ trợ được gọi là kết luận của tranh luận; những lập luận được đưa ra để hỗ trỡ được gọi là các tiền đề. • Những từ chỉ dẫn như là từ đó, bởi vì, vì thông thường đưa ra những tiền đề; những từ do đó, vì vậy, và kết quả là nói chung là đưa ra những kết luận. • Trong những tranh luận thiếu những từ chỉ dẫn như vậy, hãy cố gắng tìm ra kết luận bằng cách xác định chính xác quan điểm mà tranh luận đang cố gắng thiết lập. Đó sẽ là kết luận, phần còn lại chính là nền tảng hỗ trợ hay là các tiền đề. 3. Tranh Luận và Không-Tranh-Luận Như chúng ta đã thấy, một tranh luận là một phần của việc lập luận mà trong đó một hay nhiều mệnh đề được đưa ra để hỗ trợ các mệnh đề khác. Nếu như một điều được viết đưa ra một tuyên bố nhưng không đưa ra những lý do để chúng ta tin tưởng nó, thì nó không phải là một tranh luận. Tương tự, một thông điệp mà không làm người ta thừa nhận 4
  9. With Good Reason An Introduction to Informal Fallacies thì cũng không phải một tranh luận. Vì thế những câu hỏi không phải là tranh luận, tương tự như thế đối với một tuyên bố, phàn nàn, tán thành hoặc xin lỗi. Một lần nữa, những thông điệp như vậy không phải là là tranh luận, chúng không có những cố gắng để thuyết phục chúng ta. Ví dụ, “Có kế hoạch nào để đưa ‘the Little Rascals’ lên không trung lại không?” chỉ là một câu hỏi mà không phải là một tranh luận. Nó yêu cầu các thông tin, mà không tán thành tuyên bố nào. Cũng tương tự cho các ví dụ dưới đây: a) Tôi không định xem nữa các chương trình TV với những pha cười. Lại có thể có những người cười khi một ai đóng cửa. Tôi sẽ cười khi tôi muốn cười. Tôi nghĩ là họ nên để các pha cười ở chương trình tin buổi tối khi những dự báo viên thời tiết đang trên không trung. b) Tôi tiêu $125 để tham dự một buổi lên đồng và người dẫn đã xuất hiện với áo jacket đua, quần jeans, và áo T-shirt quảng cáo cho một cửa hàng bán guitar ở California. Tôi đã xem xét về sự trải nghiệm tồi ở Philadelphia. Ông ấy chắc chắn là thầy số tốt nhất mà tôi gặp trong sáu mươi năm của cuộc đời nhưng bạn có thể thấy thấy cách tiếp cận mang chất Kung-Fu của ông ấy đối với thế giới tâm linh. c) Sự thoả mãn chân thành nhất trong cuộc đời đến khi thực hiện và rũ bỏ được trách nhiệm, đối mặt và giải quyết được các vấn đề, đối mặt với thực tế và là một người độc lập. Ví dụ (a) là một cách diễn đạt về sự khinh miệt và tởm lợm, (b) là một lời phàn nàn, và (c) chắc chắn là một quan điểm tất cả không có những nỗ lực nào để thuyết phục chúng ta. Vì thế, không một cái nào trong chúng là tranh luận. Điều này không có nghĩa là những thông điệp này là những ý kiến tồi; chúng chỉ đơn thuần không phải là những tranh luận mà thôi. Chúng chứa đầy tính quy củ và thường có những chức năng cần thiết. Khó khăn hơn nữa là những trường hợp mà ở đó những lập luận được đưa ra thực sự nhưng chỉ nhằm để phân định hơn là để bào chữa. Mặc dù bề ngoài giống như các tranh luận, các thông điệp như thế thường chẳng hơn gì một bộ sưu tập các mệnh đề, cái này mở rộng trên cái kia. Ví dụ, chúng ta hãy xem xét câu cách ngôn nổi tiếng của Francis Bacon: d) Người mà chìm đắm trong chuyện vợ con chắc chắn bị cầm tù bởi thời vận cũng như danh tiết hay rắc rối, vì họ là vật cản đến với sự nghiệp lớn. Hơn cả việc đưa ra những lý do giải thích, theo quan điểm của Bacon, phụ nữ và con trẻ ngăn trở con đường của người đàn ông (bị cầm tù bởi thời vận), ông chỉ đơn giản là giải thích cho bản thân bằng cách mở rộng và nhắc lại quan điểm. Vì thế nó không phải là một tranh luận. Nhưng nhiều tình huống không phải luôn luôn cắt nghĩa đơn giản được, người ta thường sẽ gặp các ví dụ mà giải thích và nhận xét thường trộn vào nhau. e) Ở Hollywood, danh tiết của một cô gái còn kém quan trọng hơn cả kiểu đầu của cô ta. Bạn sẽ bị phán xét thông qua cách bạn trông ra sao, chứ không phải là bạn www.kinhtehoc.com 5
  10. Nature and Scope of Logic Vũ Thắng dịch là cái gì. Hollywood là nơi mà họ sẽ trả bạn cả ngàn dollar vì một cái hôn, và năm mươi cent cho tâm hồn của bạn. Tôi biết, bởi vì tôi đã thường xuyên từ chối lời đề nghị thứ nhất và giữ lại năm mươi cent. (Marilyn Monroe, Câu chuyện của tôi) Mặc dù đoạn trích này chứa đầy những lập luận và dường như là một nỗ lực để rút ra kết luận rằng ở Hollywood “đức hạnh của một cô gái còn thấp hơn kiểu đầu của cô ta” và là “nơi mà người ta sẽ trả bạn cả ngàn dollar cho một cái hôn, và năm mươi cent cho tâm hồn của bạn,” mặc dù thế ý định chủ yếu và chi phối của nó không phải là thuyết phục người đọc về tất cả điểm này như thể anh hay cô ta chưa biết về nó mà là cho phép Monroe chia xẻ với người đọc một cách nhìn nhận chung, có lẽ còn đưa được ý tưởng đó đi xa hơn. Và có lẽ đó là cách khác mà chúng ta dựa vào để phân biệt một đoạn văn mà mục đích chủ yếu là để giải thích hơn là để thuyết phục: một sự giải thích đưa ra một vài thứ mà đã được coi là sự thật và cố gắng làm sáng tỏ hơn; một tranh luận lại đưa ra một vài điều nói chúng la không được biết đến và đồng ý và cố gắng thiết lập nó là đúng. Một lời giải thích, cái mà chỉ để nói, bắt đầu bằng một mệnh đề chắc chắn là đúng và cố gắng hoàn chỉnh những gì tác giả ngụ ý một cách chính xác, để khẳng định. Còn một tranh luận cố gắng thiết lập rằng mệnh đề nêu trong câu hỏi là đúng bằng cách đưa ra những lập luận cho nó. Mục đích của một tranh luận là bắt chúng ta đồng ý với người nói hay người viết về cái gì đó. Không phải tất cả những gì viết hay giao tiếp là tranh luận. Có rất nhiều thứ đơn giản không phải là tranh luận, chúng ta không cần mong đợi những điều này phải được trình bày một cách rất lo-gic. Nếu một đoạn văn rất khó để phân loại, hãy cố gắng quyết định: cái gì là mục tiêu chi phối hay chủ đạo của nó? để xả hơi, để khảo sát, hoặc yêu cầu, thông tin, để giải thích, để thuyết phục? 4. Loại Bỏ Sự Dông Dài Tranh luận theo diễn đạt phổ biến thường bị vướng víu bởi những lần lặp lại, dông dài, và không minh bạch. Để nhìn thấy rõ hơn những tranh luận như thế là gì cần thiết phải làm sạch những thứ mục ruỗng khỏi nó. Thỉnh thoảng điều này cũng dính tới việc lờ đi những lời giới thiệu khá dài dòng giống như ví dụ dưới đây chỉ dẫn cổ điển về việc bán hàng của Og Mandino “Người Bán Hàng Vĩ Đại Nhất Thế Giới” a) Ngày hôm nay, tôi sẽ làm chủ cảm xúc của mình. Thuỷ triều lên, và thuỷ triều xuống. Mùa đông đi và mùa hè đến. Cái nóng giảm đi và lạnh tăng dần. Mặt trời mọc, và mặt trời lại lặn. Trăng tròn rồi lại khuyết. Con chim bay lên rồi lại hạ xuống. Hoa nở rồi hoa tàn. Hạt giống được reo rắc và rồi mùa màng được thu hoạch. Tât cả tự nhiên là một vòng tuần hoàn các trạng thái và tôi cũng là một phần của tự nhiên. Và do thế, giống như thuỷ triều, tâm trạng của tôi sẽ hưng phấn và tâm trạng sẽ ảm đạm. Ngày hôm nay, tôi sẽ làm chủ cảm xúc của mình. 6
  11. With Good Reason An Introduction to Informal Fallacies Những gì tranh luận này thừa nhận được chứa trong từ câu thứ hai đến câu cuối cùng của nó. “Tất cả tự nhiên là một vòng tuần hoàn các trạng thái và tôi cũng là một phần của tự nhiên. Và do thế tâm trạng của tôi sẽ hưng phấn và tâm trạng của tôi sẽ ảm đạm” Với mục đích để đánh giá có lo-gic, tất cả những gì được đưa ra trước không ăn nhập, tuy nhiên lại rất hay và có thể suy tưởng ra từ nó. Những gì lời giới thiệu đề cập đến mà kết luận cũng đề cập như thế thì có thể không cần thiết phải nhắc lại những gì đã được công bố đầy đủ. Ví dụ trên là một điển hình của những nhắc lại không cần thiết. Có phải ba câu cuối của đoạn văn nói lên được điều gì mà chúng chưa được nhắc đến ở phía trước không? b) Điều quan trọng là bạn phải nghiên cứu cả quyển sách này với sự cẩn thận . Cơ quan bảo hiểm liên bang nơi phụ trách các kỳ thi về bảo hiểm luôn thực hiện trách nhiệm của họ một cách nghiêm túc để bảo vệ cộng đồng khỏi những người không đủ trình độ. Vì lý do đó, các kỳ thi về bảo hiểm cuộc sống không thể dễ dàng đỗ qua. Những người phụ trách trong tương lai đã nghiên cứu một cách hời hợt thường ngạc nhiên khi biết rằng họ đã thi trượt. May mắn là, những người phụ trách trong tương lai đó những người mà đã đủ trình độ đã tiến hành nghiên cứu với sự quyết tâm cao hơn và đã thi đỗ trong các dịp vớt. Khi mà cuộc thi không được coi là dễ dàng, chúng cũng không bị coi là khó một cách vô lý. Mục đích của kỳ thi là kiểm tra kiến thức của bạn về một loại thông tin có trong sách. Nếu mà bạn đã nghiên cứu thông suốt thì bạn sẽ có cơ hội để đỗ. Tuy nhiên thường thì một ví dụ dài dòng một cách giản đơn và cần phải rút gọn triệt để trước khi cấu trúc của nó có thể xem xét một cách rõ ràng như là ví dụ về hút thuốc lá đã được nêu ra ở trên. Trước khi những tranh luận kiểu này có thể có thể được đánh giá xác đáng, chúng cần phải được viết lại càng trong sáng càng tốt và những tiền đề và kết luận được sắp xếp theo trật tự lo-gic. Sửa lại hai tranh luận được nêu ra trong những câu dài lê thê, chúng ta phát hiện ra rằng chúng cơ bản đề cập đến những điều sau: a) Tất cả tự nhiên là một vòng tuần hoàn các trạng thái; tôi là một phần của tự nhiên; do vậy tôi cũng phải chấp nhận sự thật là tôi cũng phụ thuộc vào sự dao động của tâm trạng. b) Những kỳ thi về bảo hiểm không dễ dàng vượt qua nếu không có sự chuẩn bị kỹ càng. Vì thế, để chính bản thân bạn chuẩn bị chúng đúng mực, hãy mua và đọc quyển sách này cẩn thận. Trong việc loại bỏ những rườm rà khỏi các tranh luận, chúng ta sẽ phải loại bỏ một vài thứ thơ thẩn, bóng bẩy của nguyên bản. Đây là một sự hy sinh, tuy nhiên chúng ta cần phải làm để đạt được sự trong sáng của lo-gic. Những tranh luận mà có tính lặp lại với rất nhiều từ, hoặc chứa các mệnh đề không ăn nhập nói chung thường thất bại trong việc đưa ra những ý nghĩa chủ đạo. Để đạt được một tranh luận thực sự, những sự rườm ra cần phải bị loại bỏ. www.kinhtehoc.com 7
  12. Nature and Scope of Logic Vũ Thắng dịch Nói chung, những cụm từ hay mệnh đề không cần thiết thường được chứa trong phần giới thiệu hay kết luận. Thông thường, những từ vô nghĩa cần phải loại bỏ hoàn toàn, và tranh luận sẽ được cấu trúc lại để có một trật tự lo-gic. 5. Những Bộ Phận Khuyết Thiếu Như chúng ta thấy, cấu trúc cơ bản của một tranh luận thường bị che dấu bởi sự rườm rà, chúng ta cần phải loại bỏ những thứ đó, vì thế những tiền đề và kết luận có thể xuất hiện rõ hơn trước chúng ta. Nhưng cấu trúc của một tranh luận cũng có thể bị che khuất bởi chúng ta (như là hậu quả của việc định hướng sai và lầm lẫn) bởi vì nó quá rời rạc và có bộ phận bị bỏ quên. Những tranh luận như thế này có thể gây ầm ĩ hơn như chúng vẫn thường thế bởi vì chúng ta không nhận biết các giả thiết quan trọng được chúng thuyết lập và chúng dựa vào đó để tồn tại. Những giả thuyết này cần phải được đào lên nếu như bị ẩn đi, hoặc phải làm rõ ràng nếu như không được diễn đạt. Mỗi lần chúng được làm rõ ràng, sẽ dễ dàng hơn để làm sáng tỏ vai trò của các bộ phận bị bỏ quên này (những giả thuyết) trong lập luận và để đo mức độ mà tranh luận phụ thuộc và nó. Sẽ dễ dàng hơn để tìm ra những bộ phận khuyết thiếu cuả một tranh luận nếu chúng ta theo dõi, trong nhiều cuộc tranh luận, những luận điểm hỗ trợ được đưa ra chứa đựng mệnh đề của một nguyên lý cơ bản và được đưa ra như là bằng chứng cho kết luận và viện dẫn của một tình huống. Sau đó, kết luận suy diễn ra rằng những gì đúng với nguyên lý cơ bản thì cũng đúng với tình huống của câu hỏi. Sau đây là một ví dụ cổ điển: a) Tất cả đàn ông đều phải chết. Socrates là một người đàn ông (tình huống). Socrates sẽ phải chết (kết luận) Trong tình huống trên, ví dụ là của Aristote (Số 27) và của Samuel Johnson (Số 28) rất phù hợp với kiểu mẫu này. Bằng cách rút gọn và đặt chúng đúng dạng lo-gic, những gì bạn thu được sẽ giống như dưới đây: b) Hạnh phúc là có những gì bạn cần. Một trong những thứ bạn cần là bạn bè. Vì thế, để có hạnh phúc, bạn cần có bạn bè. c) Thi ca là một nghệ thuật có thể bắt chước.Thơ ca siêu hình học không thể bắt chước. Vì vậy thơ ca siêu hình học không phải là thi ca. Vì thế, những cuộc tranh luận siêu hình học theo loại này có thể thiếu hoặc là mệnh đề của nguyên lý chung (trong lo-gic, được gọi là tiền đề), hoặc là sự tham khảo đầy đủ cho tình huống của câu hoi (tiền đề phụ), hoặc là sự suy diễn (kết luận). Có một vài ví dụ như sau: d) Đây là những thức ăn tự nhiên và vì thế tốt cho bạn. Phần được loại bỏ ở đây là tiền đề chính: tất cả những thức ăn tự nhiên sẽ tốt cho bạn. (chỉ dẫn bộ phận bị bỏ quên): Tất cả những thức ăn tự nhiên tốt cho bạn. Đây là những thức ăn tự nhiên. Những thức ăn này tốt cho bạn. 8
  13. With Good Reason An Introduction to Informal Fallacies e) Bạn sẽ là một cô giáo tuyệt vời. Như bạn biết, những người thích trẻ em luôn luôn làm được điều này. Ở đây, phần được lược bỏ là tiền đề phụ: bạn rất thích trẻ em. Tất cả những ai thích trẻ em đều là những cô giáo tốt. Bạn thích trẻ con. Bạn sẽ là cô mẫu giáo tuyệt vời. f) “Yon Cassius có một cái nhìn đói khát và thèm thuồng; những người đàn ông như vậy rất nguy hiểm” Ở đây, phần bị lược bỏ là kết luận: Cassius là nguy hiểm. Tất cả những ai có cái nhìn đói khát và thèm thuồng là nguy hiểm. Cassius có cái nhìn như vậy. Cassius là nguy hiểm. Không phải tất cả những loại bỏ như vậy là tự nhiên, hoặc là được thực hiện để đạt được sự bóng bẩy văn chương hoặc vắn tắt. Thông thường những gì được loại bỏ đều có tính gây nghi vấn cao và thường được loại bỏ rất có ý đồ: g) Đây chắc chắn là một quyển sách hay; nó được Câu Lạc Bộ Những Quyển Sách Bán Chạy nhất hàng tháng chọn. Những gì còn lại không được tuyên bố ở đây là tiền đề chính: tất cả những quyển sách được Câu Lạc Bộ chọn là những quyển sách hay. Vì lý do dễ hiểu đó, tuyên bố một cách rõ ràng là thu hút sự chú ý và nó sẽ trở thành những thách thức của các câu hỏi. Cũng tương tự đúng như thế cho hai ví dụ dưới đây: h) Tất cả chất cồn đều rút ngắn cuộc sống, vì thế Jim sẽ không sống lâu. i) Kẻ hèn nhát luôn đáng khinh miệt, và đây rõ ràng là một trường hợp của sự hèn nhát. Mặc dù trong những trường hợp ngắn như vậy, những bộ phận khuyết thiếu thường dễ dàng làm tư duy chuyển đột ngột hoạt động, nó vẫn là một lợi điểm, trong suy nghĩ của người tranh luận, không xác định chúng rõ ràng, do đó làm thế một lần nữa là thu hút sự chú ý và thách thức những phản đối. Càng khó để cắt nghĩa, và càng xa những thói thông thường, những ví dụ càng dài và càng rắm rối. Thỉnh thoảng, chúng có những cơ hội lớn hơn để tạo ra ảnh hưởng, dẫn dụ và vì lý do này một nỗ lực lớn hơn phải làm để ẩn đi những giả thuyết mà tranh luận đứng trên đấy. Bởi vì những tranh luận thường phức tạp hơn về mặt động từ nên dễ dàng để mất dấu những bộ phận khuyết thiếu. Sau đây là một quảng cáo về băng với những dòng đơn sơ: j) Hầu hết mọi người đều cảm thấy cô đơn vào lúc nào đó và do nhiều thứ đây là một trạng thái song hành bất biến. Từ những đứa trẻ mới cảm thấy nó không có bạn cho đến những ngưòi già cảm thấy thừa thãi trong tâm trạng trống vắng lạnh lẽo. Những đứa trẻ mới lớn thường cảm thấy chúng chẳng là ai và những đứa www.kinhtehoc.com 9
  14. Nature and Scope of Logic Vũ Thắng dịch mới trưởng thành cảm thấy không có bạn bè gì cả. Đoạn ghi lại nổi bật này không chỉ là những tin tức đáng quan tâm mà còn chứa đựng cách tiếp cận chủ động để giải quyết sự trống rỗng này. Diễn đạt lại đoạn tranh luận này, chúng ta phát hiện ra rằng nó khẳng định những điều sau: Mọi người đều phải chịu đựng sự cô đơn. Đoạn ghi này là một phương thuốc cho sự cô đơn. Đoạn ghi này sẽ khuây khoả sự cô đơn của bạn. Điều mà chúng ta bây giờ có thể nhìn thấy là kết luận đã bị bỏ qua. Diễn đạt nó một cách trong sáng có thể dấy lên câu hỏi trong tâm trí người khác. Thậm chí nếu sự thật là đoạn ghi này đã giúp những người khác, liệu nó có thể giúp tôi không? Tất nhiên là không phải tất cả những lược bỏ loại này có thể gây ra ngờ vực. Thường thì một người sẽ loại bỏ một bộ phận bởi vì nó quá là rõ ràng để diễn đạt rõ ràng. Thỉnh thoảng người ta cũng loại bỏ một bộ phận bởi vì các lý do xúc động, và thỉnh thoảng cũng bởi vì người ta mong muốn được chăm sóc và quan tâm. Trong ví dụ về gia cầm, chúng ta được thông tin là để kích thích tăng trưởng và tăng cường đề kháng, bây giờ gia cầm được nuôi ăn và chăm sóc với các liều lượng thuốc lớn chứa nhiều những hoá chất nguy hiểm. Kết luận rút ra là, cần phải khôn ngoan hơn để phát hiện nguy hiểm thường được đề cập đơn giản do những cách chăn nuôi mới và kinh doanh mới đối với chúng ta. Nó đã không được tuyên bố minh bạch. Nếu như đây là tất cả những gì, thì những do dự đó có thể được bảo vệ khỏi những quan điểm khoa học hoặc những quy định của pháp luật. Tuy nhiên về lo-gic, chúng ta nên luôn luôn làm rõ quan điểm để biết được cái gì đang được khẳng định và chúng ta đang được yêu cầu tán thành cái gì. Một vài tranh luận rất khó để đánh giá bởi vì chúng thiếu một hay nhiều những nhân tố cần thiết để làm thành một tranh luận chắc chắn. Chúng ta phải phân tích những tranh luận đó cẩn thận để quyết định những giả thuyết nào chúng ẩn đi, những nhân tố nào khuyết thiếu: tiền đề chính, tiền đề phụ hoặc kết luận. Thỉnh thoảng những bộ phận của một tranh luận có thể được lược bỏ bởi những nguyên nhân hợp lệ. Nhưng chúng ta phải làm rõ và đánh giá trong các tình huống để quyết định sức mạnh tổng thể của một tranh luận. Tìm kiếm những bộ phận khuyết thiếu theo phương pháp tam đoạn luận. Những bộ phận khuyết thiếu rất có thể được tìm thấy dễ dàng bằng cách nhận biết rằng rất nhiều tranh luận của chúng ta đều theo dạng tam đoạn luận cổ điển của Aristotle, đây là một ví dụ về nó: 10
  15. With Good Reason An Introduction to Informal Fallacies [phần giữa] [phần chính] Tất cả đàn ông đều phải chết [phần giữa] Socrates là đàn ông. [ý phụ] [ý chính] Socrates phải chết. Những tranh luận như thế chứa ba hoặc duy nhất ba bộ phận chính hoặc thuật ngữ. Trong ví dụ trên, đó là Socrates, cái chết tất yếu, và đàn ông. Chủ đề của kết luận của một tranh luận như thế được goi là thuật ngữ phụ, khẳng định lo-gic của kết luận được gọi là thuật ngữ chính, và thuật ngữ còn lại, cái mà xuất hiện trong mỗi tiền đề của tranh luận nhưng không trong kết luận được gọi là thuật ngữ chuyển tiếp. (Chú ý rằng từ “xác nhận” trong văn cảnh này được dùng khác với khi chúng ta dùng để thảo luận về ngữ pháp). Tranh luận chỉ ra rằng làm thế nào mà từ chủ ngữ (Socrates) và từ xác nhận mang tính lo- gic (phải chết) lại liên kết với nhau thông qua cách thức mà mỗi từ liên kết với từ trung gian (đàn ông). Dù chỉ biết chút ít về phương pháp tam đoạn luận cổ điển, chúng ta có thể tìm ra những phần khuyết thiếu của chúng khá đơn giản. Ví dụ, trong tranh luận “Đây là những thức ăn tự nhiên, vì thế chúng tốt cho bạn” có thể thiết lập theo phương pháp tam đoạn luận như sau: . [phần giữa] Những thức ăn này là thức ăn tự nhiên. [ý phụ] [ý chính] Những thức ăn này tốt cho bạn. Sáng tỏ ngay lập tức phần khuyết thiếu phải là cái gì: một tiền đề chứa đựng thuật ngữ chính và thuật ngữ trung gian. Phần khuyết thiếu là: tất cả những thức ăn tự nhiên (từ trung gian) là tốt cho bạn (phần chính). 6. Làm Nổi Bật những Thành Phần Khả Nghi Trong hoàn cảnh của tranh luận, một thành phần bị nghi ngờ nếu nó được nêu ra để chuyển tải nhiều điều hơn khả năng của nó. Những thành phần như thế thường khơi gợi những nghi ngờ của chúng ta, nhưng lại có xu hướng để lại cho chúng ta những mất mát để làm thế nào đáp trả. Chúng ta sẽ kiểm tra chúng một cách rất chi tiết trong phần 2. Tuy nhiên, bởi vì những thành phần đáng nghi lại có mặt khắp nơi và thường gây những ảnh hưởng mạnh mẽ đến chúng ta, nên điều rất quan trọng là chúng ta biết rõ về chúng một cách sớm ngay từ những điểm đầu tiên trong công việc của chúng ta về việc tranh luận. www.kinhtehoc.com 11
  16. Nature and Scope of Logic Vũ Thắng dịch Để quyết định một tranh luận có chứa những thành phần đáng nghi hay không, chúng ta cần hỏi những câu hỏi như: từ ngữ của tranh luận này có sáng sủa để chúng ta biết chắc chắn những gì bản thân anh ta hay cô ta cam kết? Có phải những sự thật được trình bày để hỗ trợ hiệu quả của kết luận như là một hỗ trợ? Chúng có thích đáng không? Chúng ta có chấp nhận chúng là đúng không? Cụ thể hơn, những minh hoạ có thích hợp không? Chúng có ý nghĩa không? Và ở mức độ nào? Những vấn đề đáng được xây dựng hơn là đơn giản quẳng vào sọt rác của những thứ phát ngán? Ví dụ hãy đề cập đến lá thư gửi cho biên tập cho buổi nhậm chức Tổng Thống: “Để đáp lại những lá thư phản đối việc trình bày phô trương và sử dụng tiền nong sai mục đích quá đáng để thực hiện lễ nhậm chức của Tổng Thống, tôi muốn nhắc nhở những người phản đối rằng từ những thời điểm không thể ghi nhớ, quần chúng sùng bái đã chào mừng những người lãnh đạo chính quyền hết sức trang trọng. Vậy thì tại sao Tổng Thống của liên bang lại nên tổ chức buổi lễ của ông ở văn phòng trong trang phục đáng vứt đi và bụi bặm? Vẻ tráng lệ và nghi lễ và sự thể hiện của quần áo lộng lẫy, trang sức, đồ lông thú và những thứ rực rỡ khác đã đi vào lịch sử như là một phần không thể thiếu của những lễ đăng quang, không chỉ ở Quốc Gia Hoa Kỳ mà còn ở hầu hết những nơi của thế giới tự do.” Điều mà người viết thất bại là khi sự thực là Tổng Thống và những người lãnh đạo của “thế giới tự do” là lãnh đạo của chính quyền, có một điều khác biệt thiết yếu giữa Tổng Thống của Hoa Kỳ và các lãnh đạo của các quốc gia khác. Khi văn phòng của Tổng Thống được thành lập, cuộc cách mạng của người Mỹ là nỗi đau đầu của nhà vua; họ đã không có dự định thành lập một thể chế quân chủ với chức vị Tổng Thống thay thế vua. Không giống như các chế độ quân chủ, Tổng Thống được lựa chọn bằng bỏ phiếu của quần chúng và bị coi là người đầy tớ của nhân dân. Vì thế sẽ không có chuyện dùng làm lễ nhậm chức của Tổng Thống rênh rang và hậu hỹ như được tổ chức cho các lãnh đạo chính quyền khác. Bài báo sau cũng có tính nghi vấn tương tự, nhưng vì những lý do khác: “Trước nhất ông Thompson, ông nghĩ ông là thằng quái nào? Ai cho ông cái quyền tối cao trong cuộc sống ở cái trường đại học này? Phải chính ông, cũng giống như bất cứ ai, đã cho mình cái quyền làm theo ý mình, nhưng những lời bình phẩm vô giáo dục và ngu ngốc của ông đáng được giới hạn Bởi Ban Điều Tra Quốc Gia. Sự tấn công vô nghĩa của ông vào hệ thống người Hy Lạp của trường đại học có một tiếng tăm hiếm có là việc trẻ con nhất, lố bịch nhất, đấy còn là không đề cập đến phần ngu xuẩn thực sự của văn phong ở những trang này đã được in rất lâu. Thái độ trẻ con của ông không chỉ xúc phạm đến mọi thành viên của Row mà còn toàn thể cái trường đại học này. Mặc dù cái đầu óc trẻ con của ông từ chối thừa nhận nó, trường đại học này trong thực tế rất tự hào về cộng đồng của người Hy Lạp ở đây thậm chí cả với những nhược điểm của nó.” Hơn là kể cho chúng ta quan điểm của ông Thompson là gì và chúng sai ở đâu, người viết đã lao vào cuộc tấn công cá nhân, đơn giản bằng cách xổ ra cơn thịnh nộ và khinh miệt của anh ta. Bằng cách gọi những quan sát của đối thủ là “không có giáo dục", "ngu ngốc,” “vô nghĩa”, “lố bịch,” vv , chẳng kể cho chúng ta điều gì về lời bình phẩm kia cả, và cùng chẳng vì sao mà người viết cho là chúng không có giá trị. 12
  17. With Good Reason An Introduction to Informal Fallacies Chúng ta chẳng cần phải là bậc thầy trong nghệ thuật lập luận cũng biết rằng sự đúng đắn của chúng ta trong tranh luận . Vì thế, chúng ta không nên chần chừ trong việc yêu cầu bằng chứng khi một phần trình bày hay giải thích dường như quá bừa bãi hoặc đáng ngờ. Ví dụ, hãy xem xét phần tranh luận của người được uỷ quyền bảo vệ trong tình huống lạm dụng trẻ em ở trường McMartin được báo cáo dưới đây: Một nhân chứng mười tuổi trong vụ quấy rối ở trường trung học cơ sở McMartin đã bình tĩnh nhớ lại ngày thứ ba đến ba lần kể từ khi cậu bị cho là thủ phạm giết một con ngựa một tuần trước đó khi cậu và những bạn trẻ khác bị buộc phải chứng kiến. Trong ngày thi, cả ngày thứ bốn của kỳ thi chuyển, cậu bé nói, trong một cuộc dạo chơi cánh đồng ở gần một trang trại không xác định, người bảo vệ Raymond Buckey, 26 tuổi, đã xẻ đôi một con ngựa con bằng một con dao dài 2 foot, anh ta dùng nó như một cái rìu. “Anh ta chặt nó ra” cậu bé kể với người được uỷ quyền Bradley Brunnon, người đại diện cho người sáng lập Virginia McMartin, 77 tuổi. “Thậm chí là ra từng mảnh, đúng không?” Brunon hỏi. “Phải” cậu bé trả lời. Brunon cho in ra những chi tiết. Khi được hỏi Buckey đã đâm bao nhiêu nhát vào con ngựa sau khi nó ngã, đứa bẻ trả lời “Cháu không đếm” Khi được hỏi Buckey vấy đầy máu sau khi giết con ngựa, nó trả lời “cháu không biết, cháu không nhìn Ray, cháu nhìn con ngựa” Bên nguyên đã phản đối tác dụng những câu hỏi chi tiết của người được uỷ quyền bảo vệ, kêu gọi chất vấn sự không ăn khớp, nhắc đi nhắc lại và đáng tranh luận Tuy nhiên, người được uỷ quyền bảo vệ đấu tranh cho rằng những câu hỏi như thế là cần thiết để chỉ ra rằng đứa trẻ hoặc là đang kể chuyện hoặc là có một ký ức mơ hồ, và họ chỉ rằng đứa trẻ thường xuyên trả lời là “cháu không nhớ” hoặc là “cháu không biết”. “Nếu nó thực sự đã nhìn thấy sự kiện hãi hùng đó, nó sẽ phải nhớ chi tiết của nó”, Brunon nói với quan toà trong một trong những cuộc tranh luận của ngày thứ ba về các câu hỏi. Rõ ràng, trong quan điểm của người được uỷ quyền Brunon, lời khai của đứa trẻ sẽ bị nghi ngờ không tuỳ thuộc vào việc nếu đứa trẻ có thể nhớ một cách chi tiết hay không (mà chắc chắn là nó sẽ nhớ hoặc không nhớ): nếu đứa trẻ nhớ các chi tiết, đặc biệt là không có mớm chước đó, thì Brunon sẽ phản đối là đứa trẻ đang bịa (hoặc là được mớm bởi bố mẹ nó hay bên bên nguyên), còn nếu đứa trẻ không nhớ, Brunon sẽ phê bình là đữa trẻ đã có một ký ức mơ hồ, điều này sẽ làm cho bản cung khai của đứa trẻ có chút gì nghi vấn. Đặc biệt là điều đáng nghi vấn là cách bảo vệ của Bruno rằng nếu “đứa trẻ đã nhìn thấy sự www.kinhtehoc.com 13
  18. Nature and Scope of Logic Vũ Thắng dịch việc khủng khiếp đó, nó sẽ phải nhớ các chi tiết”. Đó là việc Bruno tin tưởng rằng có cái gì khủng khiếp như việc xẻ đôi một con ngựa đã gây sốc đối với đứa trẻ đến nỗi mà mọi chi tiết của vụ mổ thịt, ăn sâu một cách mạnh mẽ vào tâm trí của đứa bé mãi mãi. Nhưng điều đó có thể không luôn luôn đúng. Có nhiều trường hợp đối với người ta, đặc biệt là trẻ con, kìm nén những ký ức về các sự kiện quá khủng khiếp với họ để có thể nghĩ lại. Cũng có thế là trong những khoảng thời gian nhất định, đứa trẻ sẽ nhớ các sự kiện cơ bản nhưng không được chi tiết. Nó có thể không tham sự vào tất cả các chi tiết của vụ xẻ thịt và không thể hồi tưởng lại chúng sau đó. Vì thế các kết luận của Brunon không được đảm bảo. 7. Đánh Giá các Tranh Luận: Đúng, Giá Trị và Hợp Lý Thỉnh thoảng, người ta được nghe là, “nó có thể lo-gic đấy nhưng không đúng,” hoặc là “tất cả những gì đúng không phải luôn luôn lo-gic.” Cả hai cách nhìn này đều đúng, tất nhiên chúng không có nghĩa là lo-gic là không liên quan đến sự thật. Thực tế, lo- gic định nghĩa sự thật một cách nghiêm ngặt và nó tách biệt với hai khái niệm khác là hợp lý và giá trị, thỉnh thoảng nó cũng lẫn lộn với chúng trong bản gốc. Ba khái niệm này cùng nhau tạo ra một cơ sở để đánh giá bất kỳ tranh luận nào. Aristotle, người đã thiết lập khoa học của lo-gic trong thế kỷ thứ tư trước công nguyên, là người đầu tiên phát hiện ra sự khác biệt giữa sự thật và tính hợp lý. Có lẽ đây là cống hiến quan trọng của ông đối với lĩnh vực này. Tính chất giá trị đề cập đến tính đúng đắn mà kết luận rút ra từ những tiền đề của nó liệu những kết luận có phụ thuộc vào chúng hay không. Mặt khác, sự thật lại đề cập liệu những tiền đề và kết luận đó có phù hợp với thực tế không. Vì thế, có thể trong lý luận, bắt đầu với những tiền đề đúng đắn nhưng lại đạt được những kết luận sai (bởi vì chúng ta đã lập luận tồi với những tiền đề đó) hoặc là lập luận đúng, có giá trị nhưng lại không đạt được kết luận thực tế nào (bởi vì những tiền đề của chúng ta là sai). Tính hợp lý đạt được khi những tiền đề của một tranh luận là đúng và những kết luận của nó được tạo ra có giá trị từ chúng. Còn nếu không, tranh luận là không hợp lý. Đúng đắn và sai lầm, hợp lý và không hợp lý, có thể kết hợp xuất hiện rất nhiều trong những tranh luận, tạo ra bốn khả năng sau đây: 1. Chúng ta có thể có thực tế đúng (những tiền đề của chúng ta là đúng), và chúng ta có thể sử dụng chúng đúng cách (những suy diễn của chúng ta có giá trị). Trong một tình huống như thế, không chỉ có tranh luận của chúng ta là hợp lý mà kết luận cũng đúng. Toàn bộ tranh luận sẽ có cơ sở và hợp lý. a) Tất cả đàn ông đều sẽ chết. Socraté là một người đàn ông. Vì thế, Socrates sẽ chết. 14
  19. With Good Reason An Introduction to Informal Fallacies 2. Chúng ta có thể có thực tế đúng đắn (những tiền đề của chúng ta là đúng đắn), nhưng chúng ta có thể sử dụng chúng không thích đáng (lý lẽ thiếu giá trị). Trong trường hợp này, kết luận của chúng ta sẽ không hữu hiệu và toàn bộ tranh luận là không đúng. b) Tất cả mèo đều là động vật. Tất cả lợn đều là động vật. Vì thế tất cả lợn đều là mèo. Trong một số trường hợp, kết luận của những tranh luận có thể ngẫu nhiên đúng, như trong trường hợp sau: c) Tất cả mèo đều là động vật. Tất cả hổ đều là đều là động vật. Vì thế tất cả hổ đều là mèo. Trong những trường hợp như thế này, chúng ta không thể xác định sự thật của kết luận từ tranh luận. Kết luận có thể đúng nhưng không phải là đúng trên cơ sở bảo vệ của tranh luận này. 3. Chúng ta có thể có thực tế sai (một hay nhiều tiền đề của chúng ta là sai), nhưng chúng ta có thể sử dụng chúng thích đáng (lập luận có giá trị). Trong trường hợp này, lý luân có giá trị nhưng kết luận không hợp lý. d)Tất cả những siêu sao điện ảnh đều sống ở Hollywood. Robert Redford là một siêu sao điện ảnh. Vì thế Robert Redford sống ở Hollywood. Ở đây, tuyên bố thứ nhất sai rõ ràng, mặc dù lập luận có giá trị và kết luận có theo những tiền đề. Như trường hợp 2 ở trên, kết luận có thể đúng nhưng chúng ta không thể xác định tính đúng đắn của nó trong hoàn cảnh của tranh luận đó. Nó có thể đúng mặc dù tiền đề thứ nhất là sai, nói cách khác, nó có thể sai mặc dù lập luận đúng. Để đạt được kết luận mà chúng ta có thể cho là đúng, sẽ không đủ nếu chỉ lập luận đúng, chúng ta phải làm điều đó từ những tiền đề đúng đắn. 4. Cuối cùng, có tình huống mà một hoặc nhiều tiền đề của chúng ta là sai và chúng ta cũng sử dụng chúng không đúng cách (lập luận thiếu giá trị). Trong trường hợp như thế, tranh luận vừa không hợp lý và kết luận không đúng. e) Tôi thích khoá học này Tất cả các kỳ thi chung kết đều dễ. Vì thế, tôi sẽ nhận được thứ hạng cao trong khoá học. www.kinhtehoc.com 15
  20. Nature and Scope of Logic Vũ Thắng dịch Bốn dạng của tranh luận: Tiền Đề + Lý Luận = Kết Luận Đúng Giá Trị Hợp Lý Đúng Thiếu Giá Trị Không hợp lý Sai Giá Trị Không hợp lý Sai Thiếu Giá Trị Không hợp lý Đúng đắn và sai lầm là mô tả thuộc tính của bản thân các mệnh đề. Giá trị và thiếu giá trị đề cập đến việc lập luận và được xác định độc lập với tính đúng hoặc sai lầm của các tiền đề hoặc kết luận của tranh luận Nếu lý luận có giá trị, một cuộc tranh luận có các tiền đề đúng, thì tranh luận đó chắc chắn có cơ sở, lý luận hợp lý. Nếu không, nó chắc chắn không có cơ sở. Vì thế, tất cả các cuộc tranh luận có cơ sở phải có tính hợp lý, nhưng những lý luận có giá trị vẫn có thể là có kết luận hợp lý hoặc là vô lý. Một kết luận đạt được bằng các lập luận sai hoặc không giá trị có thể ngẫu nhiên đúng. Điều này không bắt buộc chúng ta phải chấp nhận nó vẫn không có tính hợp lý. Từ khi chúng ta xác định chỉ có một dạng tranh luận là có kết luận chắc chắn đúng, bạn đọc sẽ băn khoăn tại sao chúng ta lại nên quan tâm đến những tranh luận mà tiền đề của chúng sai. Cho dù là tốt hơn hay xấu hơn, thỉnh thoảng chúng ta ở những tình huống mà chúng ta không biết tiền đề của chúng ta đúng hay không. Vì có thể suy diễn có giá trị, kết quả đạt được từ những tiền đề nếu đúng cho phép chúng ta đánh giá liệu chúng có đúng hay không. Tuy nhiên, bằng suy diễn hợp lý, chúng ta có thể rút ra kết luận mà chúng ta biết là sai, sau đó chúng ta có thể chắc chắn ít nhất là một trong những tiền đề của chúng ta là sai, bởi vì một kết luận sai không thể được suy diễn hợp lý từ những tiền đề đúng. Một ví dụ thú vị từ lịch sử khoa học liên quan đến thuyết ánh sáng. Lúc đầu, thuyết này cho rằng những phần tử ánh sáng phải đi trên đường thẳng xuyên qua không gian trống. Nhưng cuối cùng người ta nhận ra rằng nếu thuyết này là đúng thì các phần tử ánh sáng di chuyển qua một lỗ tròn trong một vùng mà ánh sáng không thể đi qua sẽ tạo ra một vòng ánh sáng trên một nền sau vùng đó. Tuy nhiên trong một thí nghiệm sau đó sử dụng một lỗ rất nhỏ, hình ảnh được tạo ra trên nền không phải là một vòng tròn ánh sáng, mà gồm những vòng sáng và các vòng tối đồng tâm xen kẽ nhau. Thí nghiệm đã chỉ ra rằng ánh sáng không di chuyển theo những đường thẳng mà là theo hình sóng. Thuyết ánh sáng đi thẳng đã bị thay thế bởi thuyết sóng ánh sáng. Do đó, ta biết rằng một điều gì đó được tạo ra từ một điều khác thậm chí là điều này sai thì nó vẫn có thể có ích lợi to lớn. Theo nghĩa này nếu bạn không hài lòng với một kết luận dường như là được suy ra một cách hợp lý từ một tiền đề, có thể là do bạn không hoàn toàn đồng ý với tiền đề mà kết luận được suy diễn đúng đắn từ đó. Do đó, vấn đề phức tạp có thể nằm ở tiền đề. 16
  21. With Good Reason An Introduction to Informal Fallacies Nói một cách khác, khi chúng ta không biết tiền đề là đúng hay sai, chúng ta xem xét cách lý luận; lý luận có giá trị hay không? Trong các lý luận có giá trị và nếu tiền đề đúng, thì kết luận là hợp lý. Tiền Đề + Lý Luận = Kết Luận Đúng + Giá Trị = Hợp Lý Sai + Giá Trị = Không hợp lý Ví dụ, hãy xem xét tranh luận sau: f) Nạo thai là sự huỷ bỏ bào thai, và sự huỷ bỏ một bào thai là lấy đi sự sống của một con người. Do đó, nếu lấy đi sự sống của một con người là là tội ác thì nạo thai cũng vậy. Cái gì là tiền đề của của tranh luận này? Cái gì là kết luận? Kết luận có được ra hợp lý từ những tiền đề không? Làm thế nào bạn có thể phản đối tranh luận này? (TQ hiệu đính: bạn có chập nhận rằng bào thai là sự sống chưa, và ai là người định ra cái điều bào thai là sự sống? Nói cách khác, tiền đề “bào thai là sự sống” có đúng hay không?). Mẫu những tranh luận được suy diễn có cơ sở thường rất ích. Vì vậy nếu chúng ta lập luận hợp lý từ những tiền đề đúng đắn, chúng ta cần thiết phải đạt được một kết luận đúng mà chúng ta có thể kiểm tra tính đúng đắn của nó trực tiếp hoặc không. 8. Những Tranh Luận Suy Diễn và Quy Nạp Chúng ta đã phân biệt giữa tranh luận và không phải là tranh luận, tách biệt những tiền đề với kết luận, loại bỏ những rườm rà, cung cấp những bộ phận khuyết thiếu, và làm nổi bật những yếu tố phân tích nghi vấn sau đó, điều để lại cho chúng ta hai câu hỏi quan trọng và cần thiết của một tranh luận: những tiền đề có đúng không, kết luận có thật sự bám sát chúng không? Đối với câu hỏi thứ nhất, chúng ta muốn biết liệu những sự thật được tuyên bố trong tranh luận có thật sự đúng hay không. Hoặc liệu chúng có thể hiện sai hoặc bóp méo không? Liệu chúng có thành kiến không? Liệu có thể chúng gây ấn tượng sai như đã tuyên bố? Sau tất cả, những tiền đề có phải là nền tảng của tranh luận, nếu nó không đáng tin cậy hoặc yếu, tranh luận mà được xây dựng trên chúng có thể không tốt. Tuy nhiên, có cách khác để một tranh luận có thể đi đến chỗ sai: khi mối quan hệ giữa tiền đề và kết luận trong tình trạng mà những tiền đề thất bại trong việc hỗ trợ kết luận của câu hỏi. Một tiền đề có thể hỗ trợ kết luận đầy đủ (fully), hoặc bán phần (partially), hoặc chẳng có gì như được chỉ ra dưới đây: Dạng đầy đủ: Tất cả đàn ông đều sẽ chết. Socrates là đàn ông. Socrates sẽ chết. www.kinhtehoc.com 17
  22. Nature and Scope of Logic Vũ Thắng dịch Dạng bán phần: Hầu hết những người Scandinavi đều có tóc vàng. Em họ tôi Christine là dân Scandinavi. Cô ấy cũng tóc vàng. Hoặc dạng không có gì: “Hãy chắc chắn đánh răng với kem Colgate. Walt Frazier sẽ không nghĩ tới việc đánh răng với loại nào khác.” Chúng ta hãy xem xét những tranh luận hấp dẫn thuộc dạng ba trong phần hai. Ở đây, chúng ta xem xét hai dạng đầu tiên: dạng thứ nhất được gọi là suy diễn, dạng thứ hai là quy nạp. Tranh luận mang tính suy diễn là tranh luận mà trong đó kết luận được tạo ra nhất thiết phải là kết quả tất yếu của các tiền đề. Mặt khác, những tranh luận mang tính quy nạp là những ý tưởng mà trong đó kết luận được tạo ra có thể chỉ là một kết quả tất yếu của những tiền đề. Hai ví dụ sẽ giúp minh hoạ sự khác biệt giữa gợi ý nhất thiết và có thể: a. Suy diễn. Tất cả những hạt đậu trong cái túi kia là đen. Tất cả những hạt này là từ cái túi đó. Do đó, tất cả các hạt đậu này đều đen. b. Quy nạp. Tất cả các hạt đậu này đều từ cái túi đó. Tất cả các hạt đậu này đều đen. Do đó, tất cả các hạt đậu trong túi đó đen. Trong hai tranh luận này, chỉ có trường hợp thứ nhất (tranh luận a) có kết luận chắc chắn là kết quả tất yếu của những tiền đề tất cả những hạt đậu trong cái túi đó là đen, tôi không thể tìm ra màu khác. Kết luận của tranh luận (b) chỉ là kết quả ở một mức độ có thể của những tiền đề có thể có vài hạt đậu trong túi đó không phải là đen, nhưng tôi không định lấy chúng. Một sự khác biệt giữa những tranh luận có tính suy diễn và quy nạp, mà nó sẽ được quan sát, là những tiền đề của tranh luận suy diễn chứa tất cả các thông tin cần thiết để đạt được kết luận nhất thiết và kết quả tất yếu. Kết luận không đề cập đến cái gì ngoài những tiền đề. Mặt khác, trong kết luận của tranh luận quy nạp, chúng ta phải liều lĩnh dựa vào thông tin được chứa đựng trong những tiền đề. Vì thế, kết luận của chúng ta có thể không bao giờ là chắc chắn, mặc dù khả năng nó đúng là cao. Đó là bởi vì những tranh luận mang tính suy diễn chắc chắn thành công hoặc thất bại để chứng minh kết luận của chúng để chúng ta có thể nói rằng chúng là hợp lý hay không hợp lý; mặt khác, những tranh luận quy nạp được nhận xét là tốt hay xấu, mạnh hay yếu. 18
  23. With Good Reason An Introduction to Informal Fallacies Một ví dụ cổ điển của tranh luận quy nạp làm nổi bật vấn đề về tính chắc chắn. c) Mặt trời mọc lên hằng ngày kể từ khi thời gian được ghi nhớ. Vì thế, mặt trời sẽ mọc vào sáng mai. Chúng ta cảm nhận chắc chắn rằng ngày mai mặt trời sẽ mọc, nhưng phát biểu một cách lo-gic thì mối quan hệ giữa kết luận (ngày mai) với những tiền đề (hôm qua) của nó chỉ là có thể chứ không chắc chắn. (Như nhà lo-gic học nổi tiếng Bertrand Russell đã một lần nêu ra trong tác phẩm “Những Vấn Đề Của Triết Học”, “người đàn ông mà cho gà ăn hàng ngày cả đời anh ta thì cuối cùng cũng vặn cổ nó mà thôi”). Trong những tranh luận quy nạp, chúng ta khẳng định rằng trong kết luận, sự thật bản thân nó không được nêu ra trong những tiền đề. Ví dụ, trong tranh luận (c) ở trên, những tiền đề chỉ chắc chắn cho quá khứ, chúng không chắc chắn cho cái gì sẽ sảy ra trong tương lai. Do đó, những tiền đề không bác bỏ khả năng kết luận là sai, từ lúc chúng tạo ra kết luận mà tính đúng đắn của kết luận có thể dựa trên cơ sở của những tiền đề hoặc không. Bản chất của tranh luận quy nạp là đưa chúng ta ra ngoài những gì đã được khẳng định trong những tiền đề vì thế chúng ta chỉ thấy được những gì mà tiền đề ám chỉ cho những sự kiện khác. Lập luận suy diễn thì đối lập như thế một cách chắn chắn. Ở đây, chúng ta không cố gắng đi ra ngoài những tiền đề nhưng hiểu sâu sắc cụ thể hơn những gì chúng nêu ra. Trong ví dụ sau, mọi điều được đề cập trong kết luận chỉ được tạo ra một cách chắn chắn từ những thông tin được chuyển tải trong những tiền đề. d) Nếu có 50,001 người sống trong một thị trấn và nếu không một ai có nhiều hơn 50,000 sợi tóc trên đầu và không có ai trọc lóc. Thì có ít nhất hai người trong thị trấn có cùng số tóc trên đầu. Ví dụ này minh hoạ cho tính chất chính xác của những suy diễn có thể. Trong khi những tranh luận quy nạp mở rộng nội dung của những tiền đề bằng cách hy sinh tính nhất thiết, thì những tranh luận suy diễn đạt được tính nhất thiết bằng cách hy sinh việc mở rộng nội dung. Hầu hết những tranh luận mà ta bắt gặp hằng ngày là loại quy nạp, và đó là những gì chúng ta sẽ đương đầu nhiều nhất trong quyển sách này. • Một tranh luận suy diễn cố gắng chỉ ra rằng kết luận phải là kết quả tất yếu của những tiền đề; một tranh luận quy nạp có thể chỉ là kết quả của những tiền đề. • Do đó, những tiền đề của một tranh luận suy diễn phải đưa ra tất cả những dữ liệu hoặc thông tin cần thiết để tạo ra kết luận trong câu hỏi. Những tiền đề của một tranh luận quy nạp chỉ cần chứa đủ thông tin để tạo ta kết luận tương đối kết luận này đi ra ngoài những gì được đưa ra một cách chắc chắn trong những tiền đề. • Vì thế, những tranh luận quy nạp có thể chứa đựng một lượng thông tin lớn, nhưng chúng lại từ bỏ việc chứng minh những kết luận là chắc chắn đúng. • Những tranh luận suy diễn thường hợp lý hoặc không hợp lý; những tranh luận quy nạp lại thường mạnh hay yếu. www.kinhtehoc.com 19
  24. Nature and Scope of Logic Vũ Thắng dịch 9. Lý Luận và Giáo Dục Như chúng ta đã nói, nghiên cứu lo-gic giúp chúng ta giải thoát khỏi những suy nghĩ và hành động ngớ ngẩn. Một trong những điều quan trọng khác mà chúng dạy ta là chứng minh một thứ gì đó một cách chắc chắn. Như chúng ta đã thấy, nghiên cứu lo-gic đặc biệt là nghiên cứu tính hợp lý dạy chúng ta rất nhiều thứ. Vì thế, ví dụ, chúng ta có thể biết chắc chắn rằng tất cả ngôi nhà trên phố đường số 10 lúc nhúc chuột cống chỉ nếu khi chúng ta đã kiểm tra tất cả và phát hiện ra chuột trong mọi ngôi nhà. Chỉ bằng những điều kiện này, chúng ta mới có thể biết điều này chắc chắn đúng. Đây là một suy nghĩ nghiêm túc, từ lúc tất cả xu hướng của chúng ta là tin tưởng điều ngược lại mà chúng ta có thể tạo ra những kết luận chắc chắn trên cơ sở những bằng chứng có vẻ là “vừa đủ” hoặc những bằng chứng đại diện. Hãy nói rằng một hoặc nhiều hơn những điều dưới đây là đúng: chúng ta đã đến phố số 10 mọi ngày thứ hai trong hai tháng và luôn luôn hoặc thường xuyên nhìn thấy chuột cống trên vỉa hè ở đó; chúng ta đã vào tám trong số mười nhà ở phố số 10 và nhìn thấy chuột cống trong tất cả tám ngôi nhà đó; ai đó mà chúng ta tuyệt đối tin tưởng, đảm bảo với chúng ta rằng tất cả những ngôi nhà đó lúc nhúc chuột; chúng ta vừa đọc một bản kiểm tra của chính phủ tuyên bố là phố số 10 bị tàn phá bởi một lượng cực lớn chuột cống; và bản tin lúc mười một giờ vừa truyền đi sự phơi bày của vấn đề và trình chiếu những đoạn phim chuột cống nhung nhúc có biển báo của phố số 10. Mỗi một điều hỗ trợ này chứng tỏ rằng có thể mọi ngồi nhà trên phố đều có chuột, nhưng không một điều hỗ trợ nào lại loại bỏ được khả năng một số ngôi nhà không có chuột. Vì vậy, chúng ta sẽ có xu hướng kết luận là chúng ta biết rằng mọi ngôi nhà ở phố số 10 đều lúc nhúc chuột. Để giữ những xu hướng có tính cách kiểm tra là một trong những lợi ích của nghiên cứu lo-gic. Như chúng ta có thể nói, đây cũng là một trong những lợi ích lớn của giáo dục lo-gic. Vì vậy có thể xác định khi nào thì thích hợp và công bằng để nói một điều gì đó như là chúng ta biết (1+1=2), và khi nào thì thích hợp để nói một điều gì đó như là chúng ta suy nghĩ (đồ ăn chứa nhiều chất béo thường ngày sẽ gây ra ung thư), và cuối cùng, khi nào chỉ thích hợp để nói rằng điều chúng ta tin (Thượng Đế tồn tại God exists) đấy chính là điểm nổi bật của một người có giáo dục. (TQ hiệu đính: sự thật, ý kiến và niềm tin là ba chuyện khác nhau. Người có học và có giáo dục là người biết phân biệt ba trường hợp trên, và áp dụng mỗi trường hợp tùy lúc). 10. Tóm Tắt Chương này đã khám phá một loại của những quy tắc lo-gic và một vài bộ phận cấu thành của nó là gì. Như chúng ta đã thấy, mặc dù nó là những quy tắc mang tính lý thuyết, lo-gic cũng là một lĩnh vực thực hành của nghiên cứu, nó đưa ra những lợi ích to lớn trong việc cư xử hàng ngày. Chúng ta đã chú ý rằng lo-gic là nghiên cứu về tranh luận và mọi tranh luận chứa hai thành phần cơ bản: những tiền đề và kết luận. Chúng ta cũng đã thấy đây là điểm phân biệt tranh luận và phi tranh luận. Tuy nhiên, không phải tất cả những tranh luận đều thể hiện kết cấu này một cách đơn giản. Như diễn đạt phổ biến, những tranh luận bị vướng víu bởi rất nhiều sự rườm rà và không ăn nhập và thường dựa trên những phần bị ẩn đi hoặc có 20
  25. With Good Reason An Introduction to Informal Fallacies các giả thiết không được diễn đạt. Chúng ta đã học rằng làm thế nào để nhận ra và loại bỏ những phần rườm rà như vậy, làm thế nào phơi bày những bộ phận nghi ngờ và làm sao để nhận biết những giả thiết bị ẩn đi và không được đề cập. Triển khai những nghiên cứu về tranh luận chúng ta đã nhìn rõ hơn một tranh luận có ba đặc tính cơ bản để đánh giá nó như thế nào. Điều đầu tiên trong chúng là tính đúng đắn hoặc sai lầm của những tiền đề. Thứ hai là tính giá trị hoặc vô giá trị việc lập luận từ những tiền đề. Và đặc tính thứ ba là tính hợp lý, điều mà tồn tại khi những tiền đề là đúng và việc lập luận là có giá trị, hoặc không có cơ sở khi thiếu tính đúng đắn hoặc lập luận có giá trị Sau đó, chúng ta đã thấy làm thế nào trong những tranh luận suy diễn hợp lý, những tiền đề chứa đựng tất cả các thông tin cần thiết cho kết luận; còn trong những tranh luận quy nạp, kết luận đi ra ngoài những dữ liệu được chứa đựng trong những tiền đề. Vì thế, thậm chí trong những tranh luận quy nạp tốt nhất, kết luận chỉ mang tính tương đối; trong khi kết luận trong một tranh luận suy diễn hợp lý, nhất thiết phải là kết quả tất yếu. Một trong những bài học quan trọng chúng ta đã học ở đây là một điều (kết luận) có thể thực sự là kết quả tất yếu của một điều khác (một tiền đề) mà kết luận đó không nhất thiết phải đúng. Kết luận có đúng hay không, phụ thuộc vào bản thân tiền đề có đúng không. Nói ngắn gọn, một kết luận có thể là kết quả tất yếu của một tiền đề nhưng vẫn sai. Cuối cùng, chúng ta đã chú ý rằng một vài lợi ích đến với chúng ta từ việc nghiên cứu lo- gic và được giáo dục thật sự có nghĩa là gì. www.kinhtehoc.com 21
  26. The Medium of Language Tô Yến Nhi dịch Chương 2 Phương Tiện Truyền Đạt của Ngôn Ngữ Một yếu tố quan trọng trong bất kỳ một lý luận nào đã được đề cập ngắn gọn trong Chương 1. Yếu tố đó là ngôn ngữ hiện hữu mà giả thuyết và kết luận được nêu rõ. Bởi vì những từ ngữ được sử dụng trong lý lẽ mang tính cốt yếu, nó sẽ có lợi cho việc nghiên cứu những nét đặc trưng nào đó của ngôn ngữ mà có thể giúp đỡ hoặc gây trở ngại cho những ý nghĩ rõ ràng. Chúng ta sẽ khảo sát mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy, và sẽ minh họa một vài sự nhầm lẫn mà kết quả từ việc sử dụng ngôn ngữ không chính xác. Chúng ta cũng sẽ thấy rằng tất cả ngôn ngữ là tượng trưng và cách sử dụng ngôn ngữ mấu chốt giữa nhiều cuộc tranh luận. Khi chúng ta đối diện với một lý luận, chúng ta cần biết nó có rõ ràng hay không. Chúng ta phải đồng ý với ý nghĩa của tất cả các từ ngữ và cách diễn đạt của nó, từng cái một trong sự phối hợp. Nếu chúng ta không hiểu ý nghĩa của những lời trình bày trong lý luận đó, chúng ta có thể tiếp nhận những kết quả sai lệch, hoặc thậm chí vẫn không bị thuyết phục bởi những gì đó được coi như một trường hợp hoàn toàn đúng đắn và hợp lý. Ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp bằng lời nói, vì thế việc nghiên cứu lý luận (study of lo-gic) có liên quan tới chính nó với những cấu trúc và chức năng của ngôn ngữ. Trong chương này chúng ta sẽ nghiên cứu các phương tiện truyền đạt của ngôn ngữ và tìm hiểu tại sao một số lý luận thành công trong việc chuyển tải ý nghĩa đến chúng ta trong khi một số khác lại không. 1. Ngôn Ngữ và Tư Duy Francis Bacon, một triết gia đã hết sức thẳng thắn đưa ra sự rõ ràng trong quan sát và tư duy, một lần đã nhận xét người ta "tưởng tượng rằng những ý nghĩ của họ có sự điều khiển của ngôn ngữ, nhưng hay xãy ra trường hợp ngôn ngữ sinh ra những quy tắc lên trên ý nghĩ của họ." Nhận xét của Bacon hữu dụng trong việc nhắc nhở chúng ta rằng ngôn ngữ không chỉ có thể cản trở sự truyền đạt tư duy của chúng ta và ngay cả chính bản thân nó. Do cách thức tự nhiên, từng bước một mà chúng ta thu được ngôn ngữ, rất ít khi chúng ta ngừng quan sát rằng nó là một công cụ và cũng giống như tất cả các công cụ khác, giá trị của nó phụ thuộc vào kỹ năng của người sử dụng. 22
  27. The Medium of Language Tô Yến Nhi dịch Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy là một câu hỏi lâu đời. Trong quá khứ, có hai quan điểm bao quát: một là nắm được vấn đề ngôn ngữ chỉ đơn thuần là phương tiện truyền bá hoặc chỉ là vỏ bọc bên ngoài của tư duy; hai là xác nhận dòng ngôn ngữ và tư duy là một, tư duy chỉ là lời nói không có âm thanh. Gần đây hơn, nghiên cứu hướng về xác nhận quan điểm ngôn ngữ và tư duy được liên kết chặt chẽ, ngôn ngữ không chỉ là âm thanh mà là sự kết hợp giữa âm thanh và tri giác mà các yếu tố đều phụ thuộc vào nhau. Những học thuyết hiện đại nắm được rằng những từ ngữ không có tư duy không thể phân biệt với những âm thanh khác được biết đến trong tự nhiên. Những học thuyết xác nhận như thế, tuy nhiên, mặc dù chúng ta có thể có "những suy nghĩ mơ hồ" hay những ý tưởng chúng ta không thể ghép thành lời, chúng ta không thể có suy nghĩ "rõ ràng" nếu như không thể diễn tả nó bằng ngôn ngữ. Người đem lại cho chúng ta kiến thức về trạng thái ngôn ngữ này là nhà ngôn ngữ học người Mỹ Benjamin Lee Whorf, có ghi chép: “Khi những nhà ngôn ngữ học có thể nghiên cứu, một cách cẩn trọng và khoa học, một số lượng lớn các ngôn ngữ của các dạng khác xa nhau, nền tảng của sự liên quan giữa chúng được mở rộng; họ đã trãi qua một sự gián đoạn của một hiện tượng nắm giữ được cái tổng quát cho đến nay, và một ý nghĩa mới trọn vẹn nảy sinh trong phạm vi hiểu biết của họ. Người ta phát hiện ra rằng nền tảng hệ thống ngôn ngữ học (trong từ ngữ, văn phạm khác) của mỗi ngôn ngữ không chỉ là một công cụ sao chép để diễn đạt những ý kiến, nhưng đúng hơn là một bộ máy tạo ra ý nghĩ Chúng ta phân tích trạng thái tự nhiên, tổ chức thành những khái niệm, ghép lại những ý nghĩa như chúng ta làm, bởi vì chúng ta tham gia vào một cuộc tranh luận để tổ chức nó theo cách thức này một sự thỏa thuận nắm được toàn bộ lời nói của mình và được hệ thống hóa trong những khuôn mẫu của ngôn ngữ.” (Ngôn Ngữ, Tư Duy và Thực Tế, biên tập John B. Caroll. M.I.T, Cambridge Ấn bản. 1964, trang 212-214). Theo quan điểm này, trên thực tế tư duy được tạo thành bởi ngôn ngữ mà nó được sắp xếp. Có nhiều ví dụ hổ trợ cho giả thuyết này. Người Zulu có những từ ngữ như "con bò trắng (white cow)" và "con bò đỏ (red cow)" nhưng lại không có từ "con bò (cow)". Thiếu từ ngữ, thiếu đi cả ý nghĩa. Tương tự, những thổ dân ở miền trung Brazil không có những từ có nghĩa như "cây cọ" (palm)" hay "con vẹt" (parrot), mặc dù họ có một con số lớn các tên gọi cụ thể khác thay thế cho "cây cọ" và "con vẹt". Vì vậy, họ cũng không thể đáp ứng những mức độ cao hơn của sự trừu tượng hóa này. Từ những điểm ngôn ngữ khác nhau như thế, chúng ta thiết lập những giả định về những phương thức khác nhau của tư duy. Tuy nhiên, điều đó là quan trọng để cố gắng tránh việc xem trọng những khả năng phán đoán trong tất cả những sự so sánh như thế. Đôi khi chúng ta thừa nhận rằng ngôn ngữ của những người nguyên thủy thì thô sơ giống như chúng ta cho rằng cuộc sống của họ cũng vậy. Nhưng giả thuyết này cũng không đúng. Tất cả các ngôn ngữ, thậm chí hầu hết cả những bộ lạc ban sơ đó, hoàn toàn cổ xưa, tất cả đều phức tạp. Một số ngôn ngữ của họ là một hình thức rất cao của sự tinh tế và tạo ra giá trị của ngôn ngữ học, để kết hợp chặt chẽ, để phát triển ngôn ngữ của chính mình. Những cấu trúc câu chắc chắn của người Zulu hay miền trung Brazil cho www.kinhtehoc.com 23
  28. With Good Reason An Introduction to Informal Fallacies phép họ tránh được những kẻ hở mà một ngôn ngữ bao hàm những sự trừu tượng nhiều hơn có thể phát sinh đối với người sử dụng. Quan điểm khác thiết thực hơn về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy là của nhà báo và tiểu thuyết gia người Anh George Orwell. Trong bài tiểu luận nổi tiếng "Chính Trị Và Ngôn Ngữ Tiếng Anh" ("Politics and the English Language"), Orwell biện luận rằng sự hiện hữu rõ ràng của những tư duy về những thực tế chính trị của thời đại chúng ta thì rất khó khăn bởi vì ngôn ngữ của chúng ta bị sửa đổi sai lạc bởi lối nói hoa mỹ của những chính khách, để che đậy những chính sách tàn bạo và không thể biện hộ của họ, phải sử dụng đến lối nói trại và thuật ngữ một cách cân đối. “Bây giờ rõ ràng rằng biến cách của một ngôn ngữ cơ bản nhất phải có những nguyên nhân thuộc về chính trị và kinh tế: điều đó không liên quan tới ảnh hưởng xấu của bản thân tác giả. Nhưng một ảnh hưởng có thể trở thành một nguyên nhân, củng cố cho nguyên nhân chính và nảy sinh ảnh hưởng giống như thế ở một hình thái nổi bật, và tương tự thế một cách không hạn định. Một người có thể uống rượu bởi vì họ cảm thấy mình thất bại, và sau đó thất bại càng nhiều bởi vì họ uống rượu. Điều đó khá giống những gì đang diễn ra trong ngôn ngữ tiếng Anh. Nó trở nên xấu đi và sai lệch bởi chúng ta suy nghĩ thiển cận, nhưng tính luộm thuộm trong ngôn ngữ làm cho chúng ta dễ có nhưng suy nghĩ như thế.” (Trích Những Bài Tiểu Luận Chọn Lọc. New York, 1953) Nhưng Orwell tiếp tục biện luận, chúng ta không nên cam chịu tình thế của mình. “Điểm đặc biệt là quá trình mang tính thuận nghịch. Tiếng Anh hiện đại, đặc biệt là viết tiếng Anh, đầy những thói quen xấu mà được lan truyền bởi tính mô phỏng và có thể tránh được nếu như họ có vấn đề cần thiết. Nếu họ thoát khỏi những thói quen này, họ có thể suy nghĩ rõ ràng hơn, và việc suy nghĩ rõ ràng là một bước quan trọng trước tiên đối với cải cách chính trị: để đánh bật lại tiếng Anh có hại không phải là phù phiếm và cũng không phải là mối quan tâm riêng biệt của những tác giả chuyên nghiệp.” (xem trên) Nhận xét của Orwell giúp chúng ta thấy rằng sự tự giác về ngôn ngữ chúng ta nói và cách ta nói không chỉ là một mối quan tâm đáng kể của những nhà nghiên cứu làm ra vẻ mô phạm và các giáo viên đào tạo kiểu cách. Như vậy, hay ít hơn nữa cũng là mối quan tâm sống còn của mọi người. • Ngôn ngữ chỉ đạt hiệu quả khi người sử dụng nó một cách khéo léo. • Tư duy của chúng ta có thể được tượng hình rõ bằng ngôn ngữ khi chúng được sắp xếp. Không có từ ngữ, vì thế ý tưởng cũng không được tạo thành. • Chúng ta có thể mở rộng điểm này để tranh luận nếu chúng ta sử dụng ngôn ngữ tệ và không khéo léo thì ý tưởng của chúng ta không độc đáo và tinh tế. Do đó, một số lý luận để có ý tưởng hay, chúng ta phải lưu ý đến sử dụng ngôn ngữ tốt. 24
  29. The Medium of Language Tô Yến Nhi dịch 2. Dấu Hiệu và Biểu Tượng Trong những nét đặc trưng góp phần vào thế mạnh của ngôn ngữ như một công cụ để truyền đạt thông tin là đặc tính tượng trưng, sử dụng những từ ngữ để thay thế cho một điều gì đó vượt xa hơn so với ý nghĩa thực của chúng. Để đánh giá đúng đặc tính này của ngôn ngữ, chúng ta cần nghiên cứu dấu hiệu và biểu tượng, và phân biệt chúng. Một dấu hiệu là bất cứ những gì chúng ta sử dụng để ám chỉ hay nhắc đến như một dấu hiệu một điều gì đó. Ví dụ về "những dấu hiệu trong cuộc sống", hay chúng ta nói khói là một dấu hiệu của sự cháy . Trong những trường hợp như thế, những dấu hiệu đáng lưu ý là những dấu hiệu tự nhiên. Với một dấu hiệu tự nhiên chúng ta muốn nói rằng sự liên kết giữa dấu hiệu và điều nó hàm ý thực sự tồn tại trong tự nhiên. Vì thế sự liên kết là tự nhiên bởi nó không phải thuộc về khả năng của chúng ta. Chúng ta phát hiện ra những dấu hiệu như thế, chúng ta không tự tạo ra chúng. Chúng là những thành phần hay những tín hiệu của những sự việc mà chúng biểu hiện, như khói là một dấu hiệu của sự cháy, không phải vì nó miêu tả về lửa mà vì nó là một phần của quá trình cháy. Ngược lại, một biểu tượng được tạo thành để thay thế một điều gì đó. Vì thế, những biểu tượng quy ước, không tự nhiên như, chúng là sản phẩm có nhận thức của tư duy con người và không có liên kết tự nhiên với những gì chúng miêu tả. Do đó, nếu trạm khí tượng kéo lên một lá cờ chỉ có một màu đỏ cảnh báo với công chúng về một trận bão sắp tới, biểu tượng này chỉ có hiệu quả nếu những người quan sát hiểu được ý nghĩa của nó. Bởi vì tất cả các biểu tượng được nhân tạo, không thuộc tự nhiên, đó là chúng ta, những đối tượng mà bất cứ các dòng ý nghĩa nào truyền tải. Điều này đúng với những biểu tượng phi ngôn ngữ như dấu thập, cờ, và đèn đỏ. Nó cũng đúng với những biểu tượng ngôn ngữ biểu lộ như từ tượng thanh, nó bao hàm những âm thanh gợi lên ý nghĩa của chúng, như những âm thanh tiếng vo voz, tiếng huýt gió, tiếng sóng vỗ, và tiếng gừ gừ. Nói một cách cơ bản nó đúng với tất cả những từ ngữ trong ngôn ngữ của chúng ta. Ví dụ, từ "tháng" không có nghĩa gì cả trừ khi chúng ta đã học qua rằng nó tượng trưng cho một quãng thời gian. Nếu không có môt hệ thống biểu tượng bất kỳ, mô phỏng, truyền đạt thông tin có thể trở nên giới hạn. Hầu hết các hiện tượng không có những âm thanh và âm thanh tiêu biểu mà giọng con người có thể mô phỏng một cách dễ dàng. Điều này giải thích tại sao số từ tượng thanh trong bất cứ ngôn ngữ nào đều rất ít. Một nguyên nhân khác giải thích tại sao một ngôn ngữ tạo nên một tổng thể đơn độc của những từ tượng thanh sẽ không lôi cuốn chúng ta nhiều như thể có một phần chính yếu rộng lớn của những ý tưởng đó không thể được miêu tả theo cách này bởi vì chúng không phát ra âm thanh. Điều này đúng với hầu hết những từ ngữ trong ngôn ngữ của chúng ta thay thế cho sự trừu tượng, như từ "tháng". Ngôn ngữ nối tiếp trong việc phân loại những khái niệm trừu tượng như thế bằng cách sử dụng những biểu tượng bất kỳ, không tượng trưng. Vì thế, ngôn ngữ được dùng làm biểu tượng về mặt cơ bản. www.kinhtehoc.com 25
  30. With Good Reason An Introduction to Informal Fallacies 3. Từ ngữ và Vật Chất Sự tương phản giữa dấu hiệu và biểu tượng làm cho nó rõ ràng như thế, từ tất cả những chức năng của từ ngữ như các biểu tượng, không có sự liên kết tự nhiên nào được thiết lập giữa chúng và những vật chất chúng biểu hiện. Bây giờ người ta tin rằng có một dạng thích hợp được kế thừa giữa từ ngữ và sự việc chúng miêu tả được phổ biến một cách kỳ lạ. Một trong những cuộc đối thoại của Plato, Cratylus, tìm hiểu cặn kẻ câu hỏi này. Một phát ngôn viên nhận xét, "tôi nghĩ những bản miêu tả có thật của những vấn đề này là ở đây, theo triết thuyết của Socrates, rằng có một sức mạnh nào đó lớn hơn con người đã đặt tên cho các sự vật, chúng chắc hẳn phải đúng" (Cratylus 438). Sự tín ngưỡng giống như thế trong nguồn gốc miễn cưỡng của người cổ xưa khi nói cho người lạ nghe tên tuổi của mình vì sợ rằng sự hiểu biết sẽ cho người khác sức mạnh của họ. Khuynh hướng nhận ra các từ ngữ với vật chất là hiển nhiên trong nhiều bài luyện tập ma thuật của những bộ lạc nguyên thuỷ và sự tín ngưỡng của một số tôn giáo. Con người đã sớm sử dụng những thể thức ma thuật trong hầu hết các khía cạnh của cuộc sống: để bảo đảm thành công trong việc săn bắt, làm mưa, ngăn chặn sự thiệt hại, loại trừ những câu thần chú xấu xa và nguyền rủa kẻ thù của họ. Trong các nghi thức tôn giáo người ta tin tưởng sự lập lại những từ ngữ nào đó có thể điều trị những chứng bệnh trong linh hồn và thể xác con người, tránh cái xấu xa, và đảm bảo sự cứu rỗi linh hồn. Chúng ta cũng tìm thấy ở một vài tôn giáo tín ngưỡng rằng những lời nói chắc chắn đó rất linh nghiệm và thiêng liêng mà chúng sẽ không bao giờ bị phá vỡ. Trong số tên gọi của Thượng Đế những người Do Thái cổ xưa ( ngày nay là những người Do Thái chính thống), Yahweh hay Jehovah, đã "không thể đặt tên" (unnamable) và cách phát âm cũng bị cấm trong cả cách nói và kinh cầu nguyện. Thượng Đế được nhắc đến một cách diễn tả quanh co là Adonai, có nghĩa "Chúa tể". Trong thần thoại Hy Lạp có từ Hades (Âm ty), vì vua của thế giới bên dưới, được gọi là Diêm Vương ("người ban tặng sự phồn vinh") trong đối thoại thông thường để ngăn chặn cách phát âm đáng sợ là Hades (Âm ty). Lời răng dạy rằng con người không nên "gọi tên của Chúa vô cớ" hình như nguồn gốc của luật pháp Hoa Kỳ chống lại những lời báng bổ, vẫn còn là một tệ nạn ở nhiều nơi. Nguyên nhân hình thành những tên gọi phát sinh trong kinh Cựu Ước: “Ở trên mặt đất vị Chúa tể đã tạo ra súc vật trên cánh đồng và chim chóc trên bầu trời. Và đem chúng đến cho Adam thấy, bất cứ những gì Adam gọi mỗi sinh vật sống, đó là tên của chúng. Adam đã đặt tên cho tất cả gia súc, chim chóc và cho mọi súc vật trên cánh đồng.” (Genesis 2: 19-20) Mark Twain đã viết thêm tiếp theo cho câu chuyện kinh thánh này, mà ông ta đã dựa vào sự tín ngưỡng rằng một tên gọi có một mối quan hệ cố hữu với vật được gọi tên. Theo Twain, khi Adam không thể nghĩ ra tên gọi cho một trong những con vật, anh ta đã khẩn khoản yêu cầu Eve giúp đỡ "Anh sẽ đặt tên gì cho con vật này nhỉ?", Eve trả lời: "Cứ gọi nó là con ngựa." "Tại sao lại gọi là con ngựa?" Eve nói: "À, nó trong giống như một con ngựa, phải không?" 26
  31. The Medium of Language Tô Yến Nhi dịch Sai sót của việc nhận ra những tên gọi với những vật là nguyên do của nhiều sự hài hước. Vô số những đứa bé con mở to mắt hỏi cha mẹ của chúng "Khi con sinh ra, làm sao cha mẹ biết con là Charlie và không phải là một đứa con trai khác?" Người ta cố gắng hiệu chỉnh xu hướng cho rằng theo tự nhiên những tên gọi đó "thuộc về" những vật chúng miêu tả, người theo chủ nghĩa duy lý người Anh, Thomas Hobbes cảnh báo, trong một câu cách ngôn nổi tiếng hiện nay, "Từ ngữ là công cụ tính toán của người khôn ngoan, họ sử dụng nhưng không nhận thức; nhưng chúng (từ ngữ) cũng là những đồng tiền ngu xuẩn".1 Abraham Lincoln cố gắng tạo ra những điểm giống nhau khi ông hỏi một khán giả, "Nếu tôi gọi cái đuôi con ngựa là một cái chân, thì con ngựa sẽ có bao nhiêu chân tất cả?" Họ trả lời "5". Lincoln nói "Không, việc gọi cái đuôi con ngựa là cái chân không làm cho chúng thành một cái chân." Chúng ta sẽ mỉm cười với những câu chuyện như thế, nhưng sau một thời gian những tên gọi chúng ta sử dụng để nhận dạng vật thể được liên kết trong tâm trí chúng ta với những vật thể của chúng mà thỉnh thoảng chúng ta lại dễ quên trong giây lát, ví dụ, một con heo không được đặt tên vì nó là con vật dơ bẩn. Hay chúng ta nói, "Nói đến ma quỷ thì hắn sẽ xuất hiện". Trong những trường hợp như thế, giả định sai (thứ nhất, TQ hiệu đính) rằng dấu hiệu tương đồng với vật cất, dắt ta đến một giả định sai thứ hai - bằng cách này hay cách khác ngôn ngữ chúng ta sử dụng ảnh hưởng đến sự vật, sự việc chúng ta đề cập đến. Nhà ngôn ngữ và ý nghĩa học (semanticist) lỗi lạc S. I. Hayakawa, một đoạn trong quyển sách "Ngôn Ngữ Trong Tư Duy và Hành Động" của ông đã cho đầu đề thích đáng "Thế Giới Không Phải Là Vật Chất", có trích dẫn một vài ví dụ đầy kịch tính của sự nhầm lẫn phổ biến này: “Người ta nhớ đến một diễn viên, đóng vai kẻ hung ác trong một đoàn kịch sân khấu lưu động, đến giây phút thật căng thẳng trong vở kịch, đã bị bắn bởi một cao bồi trong khán giả. Nhưng sự hỗn loạn như thế này dường như không giam giữ những người đi xem hát chất phát. Trong thời gian gần đây, Paul Muni, sau khi đóng một phần vai của Clarence Darrow trong Người Kế Thừa Hơi Thở, được mời đến đọc diễn văn tại Luật Sư Đoàn Hoa Kỳ; Ralph Bellamy, sau khi thủ vai Franklin D. Roosevelt trong Bình Minh ở Campobello, được một số trường đại học mời đến nói chuyện về Roosevelt.” (Phiên bản thứ 4, New York: Harcourt Brace Jovanovich 1978, trang 25-26) Chúng ta thiên về những lỗi nêu ra như đã minh hoạ một cách quá đáng đến Nổi Hội Đồng Thương Mại Liên Bang (Federal Trade Commission) phải gia tăng kiểm soát cách các nhà sản xuất quảng cáo sản phẩm của họ. Những điều lệ ngăn cấm như dán nhản hiệu "hàng nhập" trong khi thưc ra các chăn mền đó là hàng nội địa (khi chăn mền được dán nhãn với cái tên nước ngoài như "Khandah" hay "Calcutta", để gây ấn tượng như thể chúng là chăn mền phương Đông trong khi thực ra là hàng nội địa). Thuốc aspirin đưa ra một ví dụ khác cho thấy sức mạnh của những nhãn hiệu. Ở một số tiểu bang, aspirin được phân loại một cách chính thức như "ma tuý" và vì thế chỉ có thể bán khi có giấy bác sĩ. Ở 1 Words are wise men's counters, they do but reckon by them; but they are the money of fools. (Leviathan, phần I, chương 4) www.kinhtehoc.com 27
  32. With Good Reason An Introduction to Informal Fallacies những tiểu bang khác thì không được phân loại như một ma tuý và số lương được sử dụng hàng ngày càng rộng rãi. Tuy nhiên, những cư dân ở một số tiểu bang mà aspirin được coi là một loại ma tuý có thể quyết định một ngày nào đó phân loại nó lại (đổi tên) như thuốc "phi ma tuý" không phải vì bất cứ cái gì mới họ phát hiện ra về aspirin nhưng đơn giản vì họ muốn nó được sử dụng rộng rãi. Ở đây, ngôn ngữ không thể tự mình giúp đỡ cho sự tự nhiên, nhưng nó phục vụ cho chúng ta và cho những nhu cầu đặc biệt của chính mình. (TQ hiệu đính, con người dùng ngôn ngữ phục vụ lơi ích cho chính họ; khi muốn kiểm soát thuốc aspirin, họ nói aspirin là loại thuốc "ma tuý", nhưng khi muốn bán và tiêu dùng thuốc aspirin rộng rãi, họ lại liệt kê thuốc aspirin là loại "phi ma tuý", mặc dù tính chất của thuốc asprin không có thay đổi). Nghệ thuật đổi tên để giấu đi ý nghĩa họ không hài lòng được gọi là cách đọc trại tên (euphemism). Lối đọc trại đi là bất cứ sự diễn đạt nào có thể chấp nhận được, miễn là chúng ta thay thế cái chúng ta không hài lòng. Thí dụ, khi chúng ta không muốn đề cặp đến chết chóc, chúng ta phải sử dụng đến lối nói trại đi như qua đời, từ trần, bằng cách ấy chúng ta cố gắng thay đổi sự kiện mặc dù thậm chí chúng ta không thể phủ nhận. Ngày nay ta gọi ghế hạng ba (third class) là ghế du lịch (tourist class), một người bán hàng lưu động là người chào hàng, người ở đợ là người giúp việc và những người nhặt rác là kỹ sư vệ sinh. Một vài vật thể dường như lại phát sinh nhiều cách nói trại hơn những vật khác. Từ ngữ kết hợp với chức năng tổng thể là một trường hợp thiết yếu, và có thể thấy bằng cách xem xét sự đa dạng của những từ ngữ được sử dụng cho từ “gong”. Nhưng cái gong bắt đầu trở nên thô thiển và được thay thế bằng từ Latinh là necessarium. Sau đó cái phòng đó được gọi là nhà xí (còn bây giờ chúng ta gọi là phòng tắm), mà cái tên được ẩn đi bằng cách viết tắt là WC. Theo lo-gic, trong tất cả cách sử dụng ngôn ngữ, chúng ta cần ghi nhớ rằng cách dùng một từ, dù từ ngữ là "tốt" hay "xấu", chính nó không thể bảo đảm sự tồn tại những nét đặc trưng mà nó hàm ý. Chúng ta sẽ có cơ hội tìm hiểu cặn kẽ hơn về lối nói trại và sự đối lập của chúng khi chúng ta nghiên cứu những lỗi theo lo-gic trong Phần II. • Từ ngữ là những âm thanh được cấu thành để đáp ứng cho những biểu tượng về những vật chất nó mang tên. Một vật có thể được đặt bằng bất cứ tên gì, miễn là mọi người đồng ý sử dụng từ hoặc nhóm từ như nhau để gọi nó. Như vậy, có một sự liên kết không tự nhiên giữa một từ ngữ và vật thể nó biểu tượng hóa. • Tuy nhiên chúng ta hay cho rằng từ ngữ có một sức mạnh đặc biệt, tin rằng chúng rất linh thiêng hoặc có ma thuật trong sử dụng thông thường. • Chúng ta cũng sử dụng những từ ngữ nào đó để vận dụng cho thực tế, trong một sự chọn lựa theo cảm giác những lối nói trại để ám chỉ những sự vật, sự việc xấu để chúng có thể trở nên hay hơn. 28
  33. The Medium of Language Tô Yến Nhi dịch • Cả hai xu hướng trên thì hoàn toàn ít xúc cảm trong động cơ thúc đẩy của chúng và có khuynh hướng che đậy di sự phân tích của chúng ta của một vấn đề. Trong tranh luận, chúng ta nên ngăn chặn chúng. 4. Sự Hữu Dụng của Ngôn Ngữ Một giá trị cơ bản mà ngôn ngữ có thể được sử dụng là cung cấp thông tin về thế giới, thí dụ: "Cái bàn này được làm bằng gỗ sồi" hay "Tôi làm mất đồng hồ rồi". Mục đích chủ yếu của ngôn ngữ là truyền tải thông tin được miêu tả, không phức tạp, không mơ hồ. Nhưng có lẽ chúng ta cũng sử dụng ngôn ngữ để biểu lộ cảm giác của mình hay để gợi lên cảm giác của người khác. Chúng ta hét lên "Thật là một ngày đẹp trời!", không cho người khác biết về thời tiết nhưng để biểu lộ niềm vui của ta về nó. Hoặc chúng ta có thể nói với chủ nhà : "Dường như ở đây hơi lạnh", không như một lời nhận xét bình thường nhưng để thuyết phục họ bật máy điều hòa. Nói ngắn gọn, ngôn ngữ có thể được sử dụng không chỉ cung cấp tin tức mà còn trịnh trọng và gây xúc cảm, giữa một sự đa dạng của những giá trị sử dụng khác. Mỗi giá trị sử dụng có phạm vi hợp lý của nó. Những gì có thể đáng chê trách, tuy nhiên, nó lại gây nhầm lẫn đối với những người khác. Một vài sự nhầm lẫn về ngôn ngữ và mục đích chỉ đơn thuần là sự tiêu khiển. Lời chào "Bạn khỏe không?" thực sự không phải là một lời yêu cầu thông tin về tình trạng sức khỏe của người khác. Câu trả lời thích hợp rất đơn giản "Tôi khỏe, cám ơn bạn". Quan trọng hơn sự nhầm lẫn này giữa giá trị sử dụng trang trọng của ngôn ngữ với giá trị thông tin là sự nhầm lẫn của biểu lộ cảm xúc và cung cấp tin tức. Trong những trường hợp như thế, ngôn ngữ có thể được sử dụng không thích hợp với mục đích và có thể đưa chúng ta tới mục tiêu một cách vòng vo hay làm lạc hướng chúng ta. Bài diễn văn "Cây Thập Giá Bằng Vàng" (Cross of Gold) nổi tiếng của William Jennings Bryan đối lập với bảng vị vàng đưa ra một thí dụ minh họa sâu sắc về ngôn ngữ cảm xúc. Sự mạnh mẽ của nó, được trình bày trong những từ cuối như sau: "Bạn sẽ không đè nặng lên trán người lao động những bụi gai này. Bạn sẽ không đóng đinh nhân loại lên một cây thập giá bằng vàng!" Yêu cầu khẩn khoản của Bryan lợi dụng những cảm giác sâu kín kết hợp với chủ nghĩa tượng trưng thuộc về tôn giáo của bức tượng Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên thánh giá, cây thập giá và đầu những bụi gai. Bằng sự liên kết những vấn đề của bảng vị vàng với những biểu tượng tôn giáo này, bài diễn văn đã cố gắng chuyển tải đến biểu tượng vàng những cảm xúc mạnh mẽ với những biểu tượng tôn giáo này được củng cố lâu dài. Yếu tố chủ chốt để cô lập khi tìm hiểu chắc chắn một giá trị sử dụng ngôn ngữ được đưa ra thích hợp hay không là mục đích của nó. Có phải mục đích chủ yếu của sự truyền đạt thông tin là để cho một người nào đó biết? Nó có biểu lộ những cám xúc nào đó? Nó có ý định khiến chúng ta làm một điều gì đó hay không? Có lẽ nó là tất cả cùng một lúc? Để thiết lập mục tiêu, cần cân nhắc ngôn ngữ có được bảo vệ với mục tiêu đó hay không. Nếu những cơ sở lập luận riêng lẻ đang bị đe dọa, một việc sử dụng quá nhiều ngôn ngữ đượm màu cảm xúc có thể chỉ là một cản trở và được đánh giá với sự ngờ vực. Thậm chí nghệ thuật tu từ sẽ bị lãng đi, nơi mà thông tin là mục đích duy nhất. Với những cơ sở www.kinhtehoc.com 29
  34. With Good Reason An Introduction to Informal Fallacies lập luận được truyền đạt một cách hiệu quả nhất khi chúng được bắt đầu trong một cách thẳng thắn và khách quan. Sự thật là ngôn ngữ cảm xúc thường bị hạn chế hợp lý không có nghĩa trong bất cứ cách nào trong một kiểu mẫu kém hơn của ngôn ngữ. Một nhà nhơ, thuộc lĩnh vực hàng đầu không phải là lý trí, có khả năng đạt được mục đích của họ bằng cách lựa chọn từ ngữ mà chúng ta có thể đánh giá cao bằng những cảm giác đúng hơn là lý trí của mình. Điều này có lẽ là ý nghĩa lời nhận xét của T. S. Eliot rằng thi ca nói chung có thể truyền đạt được ý nghĩa của nó trước khi người ta có thể hiểu. Đó cũng chắc chắn là nguyên nhân của cơ sở lập luận những cố gắng để biến đổi một bài thơ thành những thuật ngữ hoàn toàn dễ hiểu bởi lý trí của chúng ta có khuynh hướng triệt phá nét đặc trưng mà nó có giống như một bài thơ. Người ta nói rằng Alfred Noyes Tennyson đã phản đối câu nói của William, "Và ngồi trên bãi cỏ cùng thưởng thức thức uống thơm ngát chiết từ thảo mộc Trung Quốc" Tennyson nêu lên câu hỏi "Tại sao ông ta không nói: Ngồi trên bãi cỏ uống trà?", tuy nhiên, lấy câu của những từ đắc để miêu tả và dẫn chứng những khía cạnh đặc biệt nào đó về kinh nghiệm dùng trà, mặc dù nó chỉ đạo để giữ lại nội dung về ngữ nghĩa học. Mục đích của các nhà thơ, cũng như của tất cả giá trị sử dụng của ngôn ngữ, là để tận dụng các từ ngữ thích hợp cho nhiệm vụ sắp tới. Tuy nhiên, giá trị cảm xúc của một bài diễn văn hay tiểu luận không liên quan đến giá trị hợp lý của nó. Khi chúng ta đọc hay nghe một quan điểm hợp lý, chúng ta chỉ quan tâm đến nội dung thông tin của lời nhận xét và hỗ trợ một số lời phát biểu đến những người khác. Đúng là như thế, nó là một tín hiệu của sự tinh tế có thể nhận ra những giá trị sử dụng khác nhau của ngôn ngữ và để đánh giá những trường hợp của mỗi giá trị sử dụng bởi tiêu chuẩn thích đáng của chúng. Nhưng, khi chấp nhận rằng không có một bài diễn thuyết hay tiểu luận nào đơn thuần là không có giá trị bởi vì nó gây cảm xúc, chúng ta cần kềm chế trong suy nghĩ và cảm giác rằng mức độ cảm xúc của một lý luận không có nảy sinh bất cứ điều gì trên giá trị của nó. 5. Sự Tối Nghĩa và Mơ Hồ Sự tối nghĩa và mơ hồ thì tương tự như nhau, chúng đều là đặc tính của ngôn ngữ không chính xác. Tuy nhiên, có một sự phân biệt giữa chúng. Một từ hoặc sự miêu tả được gọi là tối nghĩa nếu nó có nhiều hơn một nghĩa. Nó mơ hồ nếu ý nghĩa của nó không rõ ràng. Ngôn ngữ tối nghĩa gây khó khăn cho chúng ta với một số ý nghĩa, mà vấn đề ý nghĩa nào chính xác thì khó mà xác định được, trong khi mơ hồ chúng ta có nhiêm vụ phải tìm ra bất cứ những ý nghĩa nào mà nó có. Nói: "Đó là một quyển sách tồi nhất mà tôi từng đọc" là một lời nhận xét tối nghĩa. "Ôi, một quyển sách" là câu mơ hồ. Trong nhiều trường hợp ngữ cảnh (context), ngôn ngữ tối nghĩa nảy sinh sẽ xác định ý nghĩa nào được ngụ ý. Tầm quan trọng của ngữ cảnh tất yếu không phải là một khuyết điểm của ngôn ngữ nhưng đúng hơn là một dấu hiệu của sự linh động. Cho đến khi đặt vào một ngữ cảnh cụ thể, một vài từ ngữ hoàn toàn có lợi nhất thiết vẫn không được xác định. . Ví dụ, "rầu" cũng có nghĩa là “buồn” và cũng có nghĩa là "lo lắng”. Tuy thế, 30
  35. The Medium of Language Tô Yến Nhi dịch nếu chúng vẫn không xác định vị trí trong một ngữ cảnh, những từ ngữ như thế được gọi là tối nghĩa. Trường hợp mơ hồ thì khác. Một số từ ngữ thường rất mơ hồ, không kể tới ngữ cảnh, với những ý nghĩa của chúng không đơn thuần và không xác định mà còn không rõ ràng. Ví dụ, từ giàu có luôn mơ hồ, vì nó không bao giờ rõ ràng sự giàu sang một con người có được là bao nhiêu trước khi dành để gọi họ giàu sang. Không giống như tối nghĩa (sự thật là ngữ cảnh thay đổi nghĩa của từ), mơ hồ có một số nguyên do. Đôi khi mơ hồ chỉ phản ánh sự nhầm lẫn của chúng ta. Ví dụ, ở độ tuổi nào một người được gọi là "trung niên"? Và một người bị hói như thế nào trước khi chúng ta gọi một cách chính xác là người đó "bị hói đầu"? Tuy thế, ở những thời điểm khác, mơ hồ không liên quan tới sự khiếm khuyết về mức độ rõ ràng nhưng đúng hơn là sự bào mòn tự nhiên của ngôn ngữ. Những từ ngữ nào trở nên cằn cỗi do việc lạm dụng, làm mất đi tính chính xác mà chúng có. Những từ thuộc về phạm trù này bao gồm tốt, thú vị, tuyệt, tao nhã và được ưa chuộng. Trong điều kiện một vài từ mơ hồ chứa đựng quá nhiều nghĩa, chúng sẽ mất đi tính chính xác. Ví dụ: dân chủ, chủ nghĩa cộng sản, nghệ thuật, sự tiến triển, văn hóa và thậm chí ngay cả từ mơ hồ. Trong những trường hợp như thế những thuật ngữ cần được định nghĩa trước khi sử dụng. Cuối cùng, ví dụ một từ ngữ vừa tối nghĩa lại vừa mơ hồ - đó là từ nghệ sĩ. • Ngôn ngữ có thể được sử dụng theo một lối đơn giản để đem lại thông tin, để biểu lộ cảm xúc hay gợi lên trong người khác cảm xúc, đưa ra những chỉ dẫn hoặc trình tự (một cách trực tiếp), hay hướng dẫn tiêu chuẩn trao đổi xã hội (trịnh trọng). • Khi những giá trị sử dụng này bị xáo trộn, ngôn ngữ được chọn có thể không thích hợp với tình huống, và do đó không đạt hiệu quả. • Nếu một tranh luận được bày tỏ nhiều hơn ngôn ngữ cung cấp thông tin, xác định những ý nghĩa cơ bản làm cho chúng ta đánh giá nó tốt hơn. • Một từ hoặc một biểu hiện có thể hiểu hơn một nghĩa được xem là tối nghĩa • Một từ hoặc một biểu hiện không được rõ ràng gọi là mơ hồ. • Mơ hồ có thể là kết quả từ sự lẫn lộn về ý nghĩa chính xác của một từ; nó cũng có thể phản ánh sư lạm dụng của từ ngữ. 6. Những Tranh Luận về Từ Ngữ Trong sự khảo sát của chúng ta về vai trò của ngôn ngữ trong tranh luận, thật quan trọng để tạo nên một sự phân biệt giữa hai dạng của tranh luận, tranh luận thực tế và tranh luận về từ, trước khi tiến tới phân tích những tranh luận cụ thể trong Phần II. Một tranh luận được cho là thực tế khi một ý kiến cho rằng một nhận xét nào đó là thật trong khi một www.kinhtehoc.com 31
  36. With Good Reason An Introduction to Informal Fallacies số ý kiến khác cho là sai. Những tranh luận thực tế nảy sinh khi những quan điểm khác nhau xác thực tồn tại đối với những vấn đề thực tế. Mặt khác, tranh luận về từ hay ngôn ngữ xuất hiện khi một ý kiến tin rằng một nhận xét nào đó là đúng trong khi một ý kiến khác cho rằng nhận xét khác là sai. Đúng hơn là một ý kiến khác nhau trên cùng một nhận xét, có một quan điểm khác trên cùng một vấn đề. Như thế trường hợp những ý kiến tranh luận bất đồng bởi không ý kiến nào nhận thức rõ tranh luận bên nhận xét như nhau. Trong tranh luận về từ những ý kiến có hoặc không thể được tán thành đối với sự kiện trong những trường hợp, bởi vì cách mà mỗi người hiểu những từ ngữ mấu chốt trong tranh luận, họ không thể nói lên tranh luận của họ thật sự không kể đến họ có đồng ý hay không. Những lý luận về "Ồng Trời" xãy ra thường xuyên trong trạng thái tự nhiên này. Trong những lý luận như thế đó là một sự đánh giá một tranh luận để thấy rằng, từ những nghĩa mỗi ý kiến về Ông trời đều khác nhau, không tranh luận về tất cả những vật chất giống nhau. Một sinh viên khoa thần học đã thốt lên sau một tranh luận điển hình : "Bây giờ tôi hiểu rồi! Ông Chúa trời của bạn là ma quỷ của chúng tôi, và ma quỷ của chúng tôi là Ông trời của bạn!" Thông suốt chương này, chúng ta thấy những từ ngữ không đơn thuần chỉ đáp ứng cho việc truyền đạt thông tin mà còn cả cảm giác, thái độ và quan điểm. Từ những từ ngữ giống nhau có thể truyền đạt thông tin, thỉnh thoảng cũng được dùng để biểu lộ cảm xúc và quan điểm, chính là nguyên nhân của những sự nhầm lẫn về từ rất thường xuyên. Để có được sự nhất trí, những ý kiến tranh luận phải phù hợp không chỉ đối với những ý nghĩa mô tả của chúng mà còn cả những ý nghĩa biểu lộ đạt yêu cầu. Một thí dụ thích đáng là từ sự xâm lược, đặc biệt được sử dụng trong tranh luận quốc tế. Trong khi ý kiến của hai quốc gia có thể thống nhất có nghĩa diễn đạt (expressive) của từ - đó là một từ "xấu"- họ không thống nhất về ý nghĩa mô tả (descriptive) của nó. Vì thế, đối với một bên, sự xâm lược dường như không bao gồm sự tuyên truyền; không đưa thiết bị quân sự, không đưa cơ quan tình báo hay tiếng súng vào một quốc gia khác, không thiết lập quân đội nước ngoài với cơ quan chỉ thị chính yếu Đối với bên kia, tất cả những cái trên là hành động xậm lược. Giờ đây, bên này chê trách bên kia là đạo đức giả khi bên kia từ chối trách nhiệm về việc làm sai trái của "sự xâm lược" là không hiểu được những vấn đề của ngữ nghĩa học tiềm ẩn sự hiểu lầm này. (TQ hiệu đính, một bên mang quân đội, vv vào một nước khác, họ không coi đó là hành động xâm lược, mà là hành động giải phóng, trong khi bên kia thì coi việc sử dụng quân đội, vv là hành động xâm lược. Hai bên đồng ý về ý nghĩa diễn đạt của từ "xâm lược" là xấu sa, nhưng hai bên không đồng ý về ý nghĩa diễn đạt của từ "xâm lược": thế nào được coi là xâm lược). Một thí dụ khác, hãy tưởng tượng một tranh luận về sự xâm lược mà có một sự tán thành trên ý nghĩa của từ nhưng một bên nhấn mạnh rằng nó không chỉ miêu tả tính tư lợi được khai sáng, trong khi một ý kiến khác cho rằng nó phải đáng lo ngại. Sau đó, những tranh luận về từ có thể nảy sinh trong cả hai chiều hướng: (1) mặc dù khi cả hai bên góp phần tham gia vào mức độ gây cảm xúc giống nhau của vấn đề, không giống như sự am hiểu về mức độ miêu tả; (2) hay mặc dù khi cả hai bên đều thống nhất trong những mức độ miêu tả của vấn đề, có những câu trả lời hoàn toàn khác nhau về mức độ gây cảm xúc. Cả 32
  37. The Medium of Language Tô Yến Nhi dịch hai dạng tranh luận về từ thường được bổ sung bởi một khả năng phán đoán của vấn đề nan giải. Những người cảm thấy không chắc chắn trong những cuộc tranh luận hay họ nên tiến hành như thế nào. Trong những trường hợp này, phương thức tốt nhất là để xác định vị trí bằng cách tìm hiểu một ý kiến khác về những gì họ muốn nói bởi những thuật ngữ của vấn đề . Một tranh luận có thể bằng lời nói cho đến khi có một khả năng phán đoán xa hơn, như trong câu hỏi thường gặp sau đây đối với những sinh viên mới bằt đầu của khoa triết học: Một cái cây ngã trong một khu rừng bỏ hoang có gây ra một âm thanh không? Rõ ràng chỉ có một từ mấu chốt trong câu hỏi này và đó là từ âm thanh. Từ câu trả lời chúng ta sẽ có khuynh hướng đưa câu hỏi này phụ thuộc vào ý nghĩa mà chúng ta gán cho từ đó, thật quan trọng nếu chúng ta thiết lập sự khởi đầu chỉ với những gì nó hàm ý. Đáng tiếc, khi được sử dụng trong ngữ cảnh này, nó là tối nghĩa, bởi vì nó có thể vừa là một cảm giác có thể nghe thấy (a) hay một chuỗi sóng trong không khí có khả năng gây ra một cảm giác có thể nghe thấy (b) khi chúng tác động vào tai con người. Vì vậy, câu hỏi cây ngã trong một khu rừng bỏ hoang có tạo nên âm thanh hay không có thể trả "có" hoặc "không" - một trong hai câu trả lời đều hợp lý như nhau phụ thuộc vào ý nghĩa mà chúng ta gắn liền cho từ then chốt. Chúng ta có thể trả lời "Vâng, nó tạo nên âm thanh, nếu chúng ta muốn nói âm thanh ở đây là 'sự dao động trong không khí'. Những dao động như thế nảy sinh một cách hiển nhiên mọi người ở đó có thể tiếp nhận được chúng hay không. Mặt khác, chúng ta cũng có thể trả lời: "Không, nó không tạo ra âm thanh, nếu chúng ta muốn nói âm thanh là sự cảm nhận những cảm giác hiện thời. Khi không có ai ở đó để cảm nhận những cảm giác như thế thì ta nói không có âm thanh nào được tạo ra". Tranh luận truyền thống không còn sử dụng được nữa để trả lời câu hỏi này theo từng chữ một về bản chất, với cuộc tranh luận đưa ra sự nhầm lẫn ở đó là một sự khác nhau trong một vấn đề riêng lẻ giữa những ý kiến khi sự thật chúng tranh luận về hai vấn đề riêng biệt. 7. Định Nghĩa Bất cứ ai đưa ra một cuộc tranh luận cho sự cân nhắc nghiêm túc là một nhiệm vụ để phát biểu giả thuyết và kết luận của họ một cách rõ ràng. Một phương pháp tạo nên một cuộc tranh luận rõ ràng là đưa những định nghĩa của những thuật ngữ mấu chốt. Một định nghĩa là một lời nhận xét rằng một từ hay một cụm từ có ý nghĩa giống như một từ hoặc cụm từ khác. Nó gồm có 3 yếu tố: (1) sự diễn tả được định nghĩa, mà những nhà lo-gic học gọi là một từ hay ngữ đang được định nghĩa; (2) sự diễn tả hạn chế nội dung của từ hay ngữ , gọi là xác định đặc điểm và (3) một sự khẳng định hay sự quy định rằng sự diễn tả được định nghĩa có cùng ý nghĩa như sự diễn tả hạn chế nội dung của từ hay ngữ. Thí dụ, nếu chúng ta chấp nhận tài liệu gốc của Tân từ điển Webster, từ cơ duỗi có thể được trình bày rõ ràng như: Cơ duỗi có nghĩa là "một cơ bắp hỗ trợ cho việc co duỗi một bộ phận của cơ thể ( như chân, tay)". Sự biểu hiện được định nghĩa (một từ hay một ngữ đang được định nghĩa) là từ cơ duỗi, một từ không quen thuộc lắm với hầu hết chúng ta. Sự biểu hiện hạn chế nội dung của từ hay ngữ (định nghĩa) là "một cơ bắp hỗ trợ cho việc co duỗi một bộ phận của cơ thể ( như chân, tay)", một mệnh đề mà chứa những từ ngữ rất quen thuộc với chúng ta. www.kinhtehoc.com 33
  38. With Good Reason An Introduction to Informal Fallacies Những nhà lo-gic học tham khảo những định nghĩa giống như vậy từ Tân từ điển Webster như những định nghĩa tường thuật (reportive definitions) và đối chiếu chúng với những định nghĩa ước định (stipulative definitions). Một định nghĩa tường thuật như một lời phát biểu rằng một từ ngữ hay cụm từ được sử dụng trong một kiểu cách nào bởi một nhóm ngôn ngữ học cụ thể, ví dụ như những phát ngôn viên của Anh Ngữ tiêu chuẩn. Mặt khác, một định nghĩa ước định là một lời phát biểu bởi một người nói hay người viết có ý định sử dụng một từ trong một đường lối nào đó. Định nghĩa tường thuật có thể được được đánh giá là đúng hoặc sai. Những định nghĩa ước định có thể chỉ được đánh giá là hữu ích hay vô ích. Trong nhiều trường hợp dạng hữu ích nhất của định nghĩa cho mục đích của tranh luận là một sự kết hợp giữa tường thuật và ước định. Chúng ta hãy gọi nó là định nghĩa bình giải (explicative definition). Một từ ngữ tùy thuộc vào một định nghĩa bình giải có một điểm mấu chốt mà mọi người đồng ý, nhưng phần tối nghĩa mơ hồ phải được gạn lọc trước khi sử dụng trong tranh luận. Một định nghĩa bình giải chấp nhận cách sử dụng thống nhất của sự mô tả được định nghĩa nhưng tiếp tục ước định sự mô tả đó được sử dụng như thế nào trong những trường hợp không được làm rõ ràng bởi từ điển tường thuật của nó thống nhất về cách sử dụng. Thí dụ, giả sử một người đang tranh luận rằng những quốc gia trong khối thị trường chung Châu Âu nên tạo thành một cộng đồng liên bang. Anh ta sẽ phải định nghĩa thế nào là cộng đồng liên bang. Định nghĩa phải phù hợp với lối mô tả được sử dụng bởi những người nói. Thí dụ, một người không thể xem nhẹ sự mô tả định nghĩa ý kiến của những thực thể chính trị độc lập từ bỏ chủ quyền của họ đến một chính quyền trung ương. Tuy nhiên, một tường thuật không đáng kể về cách sử dụng chuẩn của cộng đồng liên bang sẽ không được rõ ràng bao nhiêu và hình thức chủ quyền nào một nhóm thực thể chính trị độc lập sẽ phải từ bỏ một chính quyền trung ương để kể đến như một cộng đồng liên bang. Ở điểm này, anh ta sẽ phải ước định từ ngữ được sử dụng như thế nào trong lý lẽ riêng biệt của anh ta. (TQ hiệu đính, ý chính của đọan này là, có những từ khái quát chúng ta cần phải định nghĩa trước khi tranh luận; những từ đó như "cộng đồng", "liên bang", "đoàn kết", v.v Ví dụ, chúng ta hiểu thế nào là đoàn kết, nhưng "đoàn kết" bao nhiêu thì mới được coi là đoàn kết, và nếu thiếu một chút thì gọi là gì?). Định nghĩa của từ điển Webster về cơ duỗi là một ví dụ về những gì các nhà lo-gic học gọi là định nghĩa mỗi dấu hiệu phân biệt đặc trưng (per genus et differentia). Một định nghĩa về mỗi dấu hiệu phân biệt đặc trưng là một sự mô tả định nghĩa nói đến điều khoảng đối với những lớp cùng chủng loại của nó và sau đó phân biệt nó từ tất cả những hạng loại khác trong tầng lớp đó. Thí dụ, Webster phân loại một cơ duỗi như một cơ bắp và sau đó tiếp tục chỉ ra loại cơ bắp cụ thể đó. Không phải tất cả các từ ngữ đều có thể định nghĩa theo hướng đó, nhưng có nhiều từ vẫn có thể, và một định nghĩa hoàn chỉnh mỗi dấu hiệu phân biệt đặc trưng là một công cụ đặc trưng của tư duy. Mục tiêu của một định nghĩa hoàn chỉnh là phải rành mạch. Sự mô tả hạn chế nội dung của từ hay ngữ phải rõ ràng đối với người nghe hoặc người đọc hơn sự mô tả định nghĩa. Nó không sử dụng sự hạn chế nội dung của từ hay ngữ làm một từ then chốt của một lý lẽ trong những từ ngữ mà chính chúng là mơ hồ hay không rõ nghĩa, đối với giá trị của những định nghĩa được đưa ra đó là sự tương đồng về mặt ngữ pháp với từ hay cụm từ được định nghĩa, về ngữ nghĩa, sự mô tả hạn chế nội dung của từ của bất cứ định nghĩa nào 34