Tư tưởng về quyền con người (Phần 2)

pdf 381 trang ngocly 160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tư tưởng về quyền con người (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftu_tuong_ve_quyen_con_nguoi_phan_2.pdf

Nội dung text: Tư tưởng về quyền con người (Phần 2)

  1. 352 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI QUYỀN CON NGƯỜI TRONG MỘT SỐ VĂN BẢN PHÁP LUẬT VÀ TÁC PHẨM CỦA MỘT SỐ NHÀ TƯ TƯỞNG NỔI TIẾNG TỪ SAU 1945 1. Liên Hợp Quốc Hiến chương Liên Hợp Quốc, 1945 (trích) Lời mở đầu Chúng tôi, nhân dân các quốc gia liên hợp, quyết tâm: phòng ngừa cho những thế hệ tƣơng lai khỏi thảm họa chiến tranh, đã xảy ra hai lần trong đời chúng ta, gây cho nhân loại đau thƣơng không kể xiết, và khẳng định lại sự tin tƣởng vào những quyền cơ bản của con ngƣời, vào nhân phẩm và giá trị của con ngƣời, vào quyền bình đẳng giữa nam và nữ và giữa các quốc gia lớn bé, và tạo mọi điều kiện cần thiết để giữ gìn công lý và tôn trọng những nghĩa vụ do những hiệp ƣớc và các nguồn khác do luật quốc tế đặt ra, và khuyến khích sự tiến bộ xã hội và nâng cao điều kiện sống trong một nền tự do rộng rãi hơn, và vì mục đích:  khoan dung và chung sống hòa trên tinh thần láng giềng thân thiện, và  chung nhau góp sức để duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, và bằng cách thừa nhận những nguyên tắc và xác định những phƣơng pháp, bảo đảm không dùng vũ lực, trừ trƣờng hợp vì lợi ích chung, và sử dụng cơ chế quốc tế để thúc đẩy sự tiến bộ kinh tế và xã hội của tất cả các dân tộc, Đã quyết định tập trung mọi nỗ lực của chúng tôi để đạt đƣợc những mục đích đó. Vì vậy, các Chính phủ của chúng tôi, thông qua các đại diện có đủ thẩm
  2. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 353 quyền hợp lệ, họp tại thành phố San Francisco, đã thỏa thuận thông qua Hiến chƣơng Liên Hợp Quốc và từ đây lập ra một tổ chức quốc tế lấy tên là Liên Hợp Quốc. Chương I - Mục đích và Nguyên tắc Điều 1 Mục đích của Liên Hợp Quốc là: 1. Duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, và để đạt đƣợc mục đích đó: tiến hành những biện pháp tập thể có hiệu quả nhằm ngăn ngừa và loại trừ các mối đe dọa hòa bình, nhằm trừng trị mọi hành vi xâm lƣợc và phá hoại hòa bình khác, điều chỉnh hoặc giải quyết các tranh chấp quốc tế hoặc những tình huống có thể dẫn đến sự phá hoại hòa bình, bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với các nguyên tắc của công lý và pháp luật quốc tế; 2. Phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và tự quyết của các dân tộc và tiến hành những biện pháp phù hợp khác để củng cố hòa bình thế giới; 3. Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo, và trong việc khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con ngƣời và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi ngƣời không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hoặc tôn giáo; và 4. Trở thành trung tâm phối hợp mọi hành động của các dân tộc, nhằm đạt đƣợc những mục đích chung nói trên. Điều 2 Để đạt đƣợc những Mục đích nêu ở Điều 1, Liên Hợp Quốc và các thành viên sẽ hành động phù hợp với những nguyên tắc sau đây: 1. Liên Hợp Quốc đƣợc xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của tất cả các thành viên. 2. Tất cả các thành viên đều phải thực hiện một cách có thiện ý những nghĩa vụ mà họ phải đảm nhận theo Hiến chƣơng này, nhằm đảm bảo hƣởng toàn bộ các quyền và ƣu đãi do tƣ cách thành viên mà có.
  3. 354 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI 3. Tất cả các thành viên giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng biện pháp hòa bình, theo cách không làm nguy hại đến hòa bình và an ninh quốc tế, và công lý. 4. Tất cả các thành viên từ bỏ việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào, hoặc bằng cách khác trái với những Mục đích của Liên Hợp Quốc. 5. Tất cả các thành viên phải hỗ trợ đầy đủ cho Liên Hợp Quốc trong mọi hành động mà nó áp dụng theo đúng Hiến chƣơng này và từ bỏ giúp đỡ bất cứ quốc gia nào đang bị Liên Hợp Quốc áp dụng các hành động phòng ngừa hoặc cƣỡng chế; 6. Liên Hợp Quốc sẽ đảm bảo rằng các quốc gia không phải là thành viên cũng hành động theo những nguyên tắc này, nếu nhƣ điều đó là cần thiết để duy trì hòa bình và an ninh thế giới; 7. Không có bất kỳ điều gì trong Hiến chƣơng này cho phép Liên Hợp Quốc đƣợc can thiệp vào những công việc thực chất thuộc thẩm quyền nội bộ của bất cứ quốc gia nào, hoặc đòi hỏi các thành viên phải đƣa những công việc loại này ra giải quyết theo quy định của Hiến chƣơng; tuy nhiên, nguyên tắc này không liên quan đến việc thi hành những biện pháp cƣỡng chế nói ở Chƣơng VII. Điều 13 1. Đại hội đồng tổ chức nghiên cứu và thông qua những kiến nghị nhằm: a. Tăng cƣờng sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chính trị và thúc đẩy các biện pháp pháp điển hóa và sự phát triển của luật quốc tế theo hƣớng tiến bộ; b. Tăng cƣờng sự hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế và hỗ trợ việc thực hiện các quyền của con ngƣời và các tự do cơ bản đối với mọi ngƣời không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ và tôn giáo. 2. Những nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền hạn khác của Đại hội đồng có liên quan đến những vấn đề ghi ở khoản 1 (b) trên đây đƣợc quy định trong
  4. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 355 các Chƣơng IX và X. Điều 55 Với mục đích nhằm tạo những điều kiện ổn định và tốt đẹp cần thiết để duy trì những quan hệ hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc, dựa trên sự tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc, Liên Hợp Quốc khuyến khích: 1. nâng cao mức sống, công ăn việc làm đầy đủ và những điều kiện tiến bộ và phát triển trong lĩnh vực kinh tế, xã hội; 2. giải quyết những vấn đề quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, y tế và những vấn đề liên quan khác; và sự hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực văn hóa và giáo dục; và 3. tôn trọng và tuân thủ triệt để các quyền con ngƣời và các quyền tự do cơ bản của tất cả mọi ngƣời không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn giáo. Điều 62 1. Hội đồng Kinh tế và Xã hội có quyền tiến hành hoặc đề xƣớng những nghiên cứu và báo cáo liên quan đến các vấn đề quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế và những lĩnh vực liên quan khác, và có thể gửi những kiến nghị về các vấn đề đó cho Đại hội đồng, các thành viên Liên Hợp Quốc và các tổ chức chuyên môn hữu quan. 2. Hội đồng Kinh tế và Xã hội có quyền đƣa ra những kiến nghị nhằm khuyến khích sự tôn trọng và tuân thủ các quyền con ngƣời và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi ngƣời. 3. Hội đồng Kinh tế và Xã hội có quyền chuẩn bị những dự thảo điều ƣớc về các vấn đề thuộc thẩm quyền của mình để trình Đại hội đồng. 4. Hội đồng Kinh tế và Xã hội có quyền triệu tập những hội nghị quốc tế về những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình, theo các thủ tục do Liên Hợp Quốc quy định.
  5. 356 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI Điều 73 Các thành viên của Liên Hợp Quốc có trách nhiệm hoặc đƣợc cho là có trách nhiệm cai trị những lãnh thổ mà dân tộc tại đó chƣa giành đƣợc chủ quyền đầy đủ phải công nhận nguyên tắc đặt lợi ích của ngƣời dân tại lãnh thổ đó lên cao nhất, và trong khuôn khổ hệ thống hòa bình và an ninh quốc tế do Hiến chƣơng này thiết lập, thừa nhận với niềm tin thiêng liêng bổn phận thúc đẩy phúc lợi của ngƣời dân của các vùng đó lên mức cao nhất, và, với mục đích: 1. Với sự tôn trọng văn hóa của dân tộc hữu quan, đảm bảo sự tiến bộ về chính trị, kinh tế, xã hội, và giáo dục, đối xử công bằng, và bảo vệ họ khỏi sự ngƣợc đãi; 2. phát triển quyền tự trị, thể theo nguyện vọng chính trị của dân tộc, và hỗ trợ họ tăng cƣờng phát triển các thể chế chính trị tự do, tƣơng ứng với tình hình cụ thể của mỗi lãnh thổ và dân tộc trong lãnh thổ đó và các giai đoạn tiến bộ khác nhau; 3. tăng cƣờng hòa bình và an ninh quốc tế; 4. khuyến khích các biện pháp phát triển mang tính xây dựng, ủng hộ việc nghiên cứu, và hợp tác với nhau và, bất cứ nơi nào và bất cứ nơi đâu có thể, với các cơ quan quốc tế chuyên trách có mục tiêu đạt đƣợc các mục đích xã hội, kinh tế, và khoa học thực tiễn nhƣ đã nói ở Điều này; và 5. báo cáo thƣờng xuyên cho Tổng thƣ ký để thu thập thông tin, ở mức giới hạn có xem xét đến vấn đề an ninh và lập hiến, các thông tin thống kê và thông tin khác có bản chất liên quan đến điều kiện kinh tế, xã hội, và giáo dục trong các lãnh thổ mà họ chịu trách nhiệm, ngoài các lãnh thổ đƣợc quy định tại Chƣơng XII và XIII. Điều 76 Những mục đích cơ bản của hệ thống ủy thác, phù hợp với Mục đích của Liên Hợp Quốc đƣợc nói ở Điều 1 của Hiến chƣơng này, là: 1. tăng cƣờng hòa bình và an ninh quốc tế; 2. thúc đẩy sự tiến bộ chính trị, kinh tế, xã hội, và giáo dục của cƣ dân ở
  6. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 357 những lãnh thổ ủy thác, và sự phát triển không ngừng để đạt đến một chính quyền tự chủ hoặc độc lập phù hợp với tình hình cụ thể của mỗi lãnh thổ và ngƣời dân tại đó cùng những nguyện vọng công khai của các dân tộc liên quan, và phù hợp với các điều khoản của từng thỏa thuận ủy thác quy định; 3. khuyến khích tôn trọng những quyền con ngƣời và vì các quyền tự do cơ bản cho mọi ngƣời không phân biệt sắc tộc, giới tính, ngôn ngữ, hay tôn giáo, và để khuyến khích công nhận sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc trên thế giới; và 4. đảm bảo đối xử công bằng trong các vấn đề xã hội, kinh tế, và thƣơng mại cho tất cả Thành viên Liên Hợp Quốc và công dân của họ, và cũng đối xử công bằng cho các công dân trong việc thi hành công lý, không làm tổn hại cho các mục tiêu đã nói ở trên và tuân theo những điều khoản của Điều 80. Tuyên ngôn Toàn thế giới về Nhân quyền, 1948 Tiểu dẫn: Tuyên ngôn Toàn thế giới về Nhân quyền (the Universal Declaration of Human Rights) đƣợc Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết số 217A (III) ngày 10/12/1948 tại lâu đài Palais de Chaillot ở Paris, Pháp. Đây là văn kiện pháp lý quốc tế đầu tiên đề cập riêng đến các quyền con ngƣời. Tuyên ngôn gồm Lời nói đầu và 30 điều, ghi nhận một hệ thống các quyền và tự do cơ bản của con ngƣời trên tất cả các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Mặc dù về mặt hình thức không phải là một điều ƣớc quốc tế, Tuyên ngôn Toàn thế giới về Nhân quyền có một giá trị luân lý to lớn, đƣợc thừa nhận nhƣ là những tập quán pháp lý quốc tế và đƣợc hầu hết quốc gia trên thế giới tự nguyện tuân thủ. Tuyên ngôn là văn kiện đầu tiên trong hệ thống ba văn kiện hợp thành Bộ luật Quốc tế về Nhân quyền (the Bill of International Human Rights) (hai văn kiện còn lại là Công ƣớc Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, và Công ƣớc Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, cùng đƣợc Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua vào năm 1966). Với tính chất nhƣ nêu ở trên, Tuyên ngôn Toàn thế giới về Nhân quyền xác lập những chuẩn mực chung và là những mục tiêu chung cho sự phấn đấu của mọi quốc gia, dân tộc và thành viên của nhân loại. Bản Tuyên ngôn này từ lâu đã là nguồn tham chiếu trong việc xây dựng hiến pháp của các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc.
  7. 358 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI Lời nói đầu Với nhận thức rằng: Việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới; Sự coi thƣờng và xâm phạm các quyền con ngƣời đã dẫn đến những hành động tàn bạo xúc phạm tới lƣơng tâm nhân loại, và việc xây dựng một thế giới trong đó con ngƣời đƣợc tự do ngôn luận, tự do tín ngƣỡng, không còn phải chịu nỗi sợ hãi và nghèo khổ cùng cực, đƣợc coi là khát vọng cao nhất của loài ngƣời, Điều cốt yếu là quyền con ngƣời cần phải đƣợc pháp luật bảo vệ để con ngƣời không buộc phải nổi dậy nhƣ là một biện pháp cuối cùng nhằm chống lại sự độc tài và áp bức. Việc thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc là rất cần thiết. Các dân tộc thuộc Liên Hợp Quốc đã tái khẳng định trong Hiến chƣơng niềm tin vào các quyền cơ bản của con ngƣời, vào nhân phẩm và giá trị của mỗi con ngƣời, vào các quyền bình đẳng giữa nam và nữ, và đã bày tỏ quyết tâm thúc đẩy sự tiến bộ xã hội cũng nhƣ xây dựng các điều kiện sống tốt hơn, với sự tự do rộng rãi hơn; Các quốc gia thành viên đã cam kết, cùng với Liên Hợp Quốc, phấn đấu thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do cơ bản của con ngƣời; Sự nhận thức thống nhất về các quyền và tự do kể trên là yếu tố quan trọng nhất để thực hiện đầy đủ cam kết này. Do đó, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc công bố, Bản Tuyên ngôn Toàn thế giới về Nhân quyền này là thƣớc đo chung cho tất cả các quốc gia và các dân tộc, và cho cả mọi cá nhân và tổ chức xã hội, đánh giá việc thực hiện các mục tiêu của mình mà, trên cơ sở luôn ghi nhớ bản Tuyên ngôn này, sẽ phấn đấu thúc đẩy sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con ngƣời thông qua truyền bá và giáo dục; cũng nhƣ thúc đẩy sự thừa nhận và tuân thủ chung và hữu hiệu các quyền đó không chỉ với ngƣời dân nƣớc mình mà với cả các dân tộc ở các lãnh thổ thuộc quyền quản thác của nƣớc mình, thông qua các biện pháp tích cực, kể cả trong phạm vi quốc gia và quốc tế.
  8. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 359 Điều 1. Mọi ngƣời sinh ra đều đƣợc tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền. Mọi ngƣời đều đƣợc tạo hóa ban cho lý trí và lƣơng tâm, và cần phải đối xử với nhau bằng tình anh em. Điều 2. Mọi ngƣời đều đƣợc hƣởng tất cả các quyền và tự do nêu trong bản Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay các địa vị khác. Ngoài ra, cũng không có bất cứ sự phân biệt nào với một ngƣời mà dựa trên địa vị chính trị, pháp lý hoặc quốc tế của quốc gia hoặc lãnh thổ mà ngƣời đó xuất thân, dù đó là lãnh thổ độc lập, ủy trị, quản thác, chƣa đƣợc tự quản hay đang phải chịu bất kỳ hạn chế nào khác về chủ quyền. Điều 3. Mọi ngƣời đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân. Điều 4. Không ai bị bắt làm nô lệ hoặc bị cƣỡng bức làm việc nhƣ nô lệ; mọi hình thức nô lệ và buôn bán nô lệ đều bị cấm. Điều 5. Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm. Điều 6. Mọi ngƣời đều có quyền đƣợc công nhận tƣ cách là con ngƣời trƣớc pháp luật ở mọi nơi. Điều 7. Mọi ngƣời đều bình đẳng trƣớc pháp luật và đƣợc pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt nào. Mọi ngƣời đều có quyền đƣợc bảo vệ một cách bình đẳng chống lại bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vi phạm bản Tuyên ngôn này, và chống lại bất kỳ sự kích động phân biệt đối xử nào nhƣ vậy. Điều 8.
  9. 360 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI Mọi ngƣời đều có quyền đƣợc các tòa án quốc gia có thẩm quyền bảo vệ bằng các biện pháp hữu hiệu để chống lại những hành vi vi phạm các quyền cơ bản của họ mà đã đƣợc hiến pháp hay luật pháp quy định. Điều 9. Không ai bị bắt, giam giữ hay lƣu đày một cách tùy tiện. Điều 10. Mọi ngƣời đều bình đẳng về quyền đƣợc xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án độc lập và khách quan để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng nhƣ về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ. Điều 11. 1. Mọi ngƣời, nếu bị cáo buôc về hình sự, đều có quyền đƣợc coi là vô tội cho đến khi đƣợc chứng minh là phạm tội theo pháp luật, tại một phiên tòa xét xử công khai, nơi ngƣời đó đƣợc bảo đảm những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình. 2. Không ai bị cáo buộc là phạm tội vì bất cứ hành vi hoặc sự tắc trách nào mà không cấu thành một phạm tội hình sự theo pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc tế vào thời điểm thực hiện hành vi hay có sự tắc trách đó. Cũng không ai bị tuyên phạt nặng hơn mức hình phạt đƣợc quy định vào thời điểm hành vi phạm tội đƣợc thực hiện. Điều 12. Không ai phải chịu sự can thiệp một cách tùy tiện vào cuộc sống riêng tƣ, gia đình, nơi ở hoặc thƣ tín, cũng nhƣ bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín cá nhân. Mọi ngƣời đều có quyền đƣợc pháp luật bảo vệ chống lại sự can thiệp và xâm phạm nhƣ vậy. Điều 13. 1. Mọi ngƣời đều có quyền tự do đi lại và tự do cƣ trú trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia. 2. Mọi ngƣời đều có quyền rời khỏi bất kỳ nƣớc nào, kể cả nƣớc mình, cũng nhƣ có quyền trở về nƣớc mình. Điều 14.
  10. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 361 1. Mọi ngƣời đều có quyền tìm kiếm và đƣợc lánh nạn ở nƣớc khác khi bị ngƣợc đãi. 2. Quyền này không đƣợc áp dụng trong trƣờng hợp đƣơng sự bị truy tố về những tội phạm không mang tính chất chính trị hay vì những hành vi đi ngƣợc lại với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hợp Quốc. Điều 15. 1. Mọi ngƣời đều có quyền có quốc tịch của một nƣớc nào đó. 2. Không ai bị tƣớc quốc tịch hoặc bị khƣớc từ quyền đƣợc đổi quốc tịch một cách tùy tiện. Điều 16. 1. Nam và nữ khi đủ tuổi đều có quyền kết hôn và xây dựng gia đình mà không có bất kỳ sự hạn chế nào về chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Nam và nữ có quyền bình đẳng trong việc kết hôn, trong thời gian chung sống và khi ly hôn. 2. Việc kết hôn chỉ đƣợc tiến hành với sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của cặp vợ chồng tƣơng lai. 3. Gia đình là tế bào tự nhiên và cơ bản của xã hội, đƣợc nhà nƣớc và xã hội bảo vệ. Điều 17. 1. Mọi ngƣời đều có quyền sở hữu tài sản của riêng mình hoặc tài sản sở hữu chung với ngƣời khác. 2. Không ai bị tƣớc đoạt tài sản một cách tùy tiện. Điều 18. Mọi ngƣời đều có quyền tự do tƣ tƣởng, tín ngƣỡng và tôn giáo, kể cả tự do thay đổi tín ngƣỡng hoặc tôn giáo của mình, và tự do bày tỏ tín ngƣỡng hay tôn giáo của mình bằng các hình thức nhƣ truyền giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ, dƣới hình thức cá nhân hay tập thể, tại nơi công cộng hoặc nơi riêng tƣ. Điều 19.
  11. 362 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI Mọi ngƣời đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến; kể cả tự do bảo lƣu quan điểm mà không bị can thiệp; cũng nhƣ tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá các ý tƣởng và thông tin bằng bất kỳ phƣơng tiện truyền thông nào, và không có giới hạn về biên giới. Điều 20. 1. Mọi ngƣời đều có quyền tự do hội họp và lập hội một cách hòa bình. 2. Không ai bị ép buộc phải tham gia vào bất cứ hiệp hội nào. Điều 21. 1. Mọi ngƣời đều có quyền tham gia quản lý đất nƣớc mình, một cách trực tiếp hoặc thông qua các đại diện mà họ đƣợc tự do lựa chọn. 2. Mọi ngƣời đều có quyền đƣợc tiếp cận các dịch vụ công cộng ở nƣớc mình một cách bình đẳng. 3. Ý chí của nhân dân phải là cơ sở tạo nên quyền lực của chính quyền; ý chí đó phải đƣợc thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và chân thực, đƣợc tổ chức theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín, hoặc bằng những thủ tục bầu cử tự do tƣơng tự. Điều 22. Với tƣ cách là một thành viên của xã hội, mọi ngƣời đều có quyền đƣợc hƣởng an sinh xã hội cũng nhƣ đƣợc hƣởng các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa không thể thiếu để bảo đảm nhân phẩm và tự do phát triển về nhân cách; thông qua những nỗ lực quốc gia và sự hợp tác quốc tế; phù hợp với hệ thống tổ chức và nguồn lực của mỗi quốc gia. Điều 23. 1. Mọi ngƣời đều có quyền làm việc, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, đƣợc hƣởng những điều kiện làm việc công bằng, thuận lợi và đƣợc bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp. 2. Mọi ngƣời đều có quyền đƣợc trả công ngang nhau cho những công việc nhƣ nhau mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào. 3. Mọi ngƣời lao động đều có quyền đƣợc hƣởng chế độ thù lao công bằng và hợp lý nhằm bảo đảm sự tồn tại của bản thân và gia đình xứng đáng với nhân phẩm, và đƣợc trợ cấp khi cần thiết bằng các biện pháp bảo trợ
  12. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 363 xã hội. 4. Mọi ngƣời đều có quyền thành lập hoặc gia nhập công đoàn để bảo vệ các quyền lợi của mình. Điều 24. Mọi ngƣời đều có quyền nghỉ ngơi và thƣ giãn, kể cả quyền đƣợc giới hạn hợp lý số giờ làm việc và đƣợc hƣởng những ngày nghỉ định kỳ có hƣởng lƣơng. Điều 25. 1. Mọi ngƣời đều có quyền đƣợc hƣởng một mức sống thích đáng, đủ để đảm bảo sức khỏe và phúc lợi của bản thân và gia đình, về các khía cạnh ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết, cũng nhƣ có quyền đƣợc bảo hiểm trong trƣờng hợp thất nghiệp, đau ốm, tàn phế, góa bụa, già nua hoặc thiếu phƣơng tiện sinh sống do những hoàn cảnh khách quan vƣợt quá khả năng đối phó của họ. 2. Các bà mẹ và trẻ em có quyền đƣợc hƣởng sự chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt. Mọi trẻ em, dù sinh ra trong hay ngoài giá thú, đều phải đƣợc hƣởng sự bảo trợ xã hội nhƣ nhau. Điều 26. 1. Mọi ngƣời đều có quyền đƣợc học tập. Giáo dục phải miễn phí, ít nhất là ở các bậc tiểu học và trung học cơ sở. Giáo dục tiểu học phải là bắt buộc. Giáo dục kỹ thuật và dạy nghề phải mang tính phổ thông và giáo dục đại học hay cao hơn phải theo nguyên tắc công bằng cho bất cứ ai có khả năng. 2. Giáo dục phải nhằm giúp con ngƣời phát triển đầy đủ về nhân cách và thúc đẩy sự tôn trọng với các quyền và tự do cơ bản của con ngƣời. Giáo dục cũng phải nhằm tăng cƣờng sự hiểu biết, lòng khoan dung và tình hữu nghị giữa tất cả các dân tộc, các nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo, cũng nhƣ phải nhằm đẩy mạnh các hoạt động của Liên Hợp Quốc về duy trì hòa bình. 3. Cha mẹ có quyền ƣu tiên lựa chọn các hình thức giáo dục cho con cái họ. Điều 27. 1. Mọi ngƣời có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hóa của cộng đồng,
  13. 364 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI đƣợc thƣởng thức nghệ thuật và chia sẻ những tiến bộ khoa học cũng nhƣ những lợi ích xuất phát từ những tiến bộ khoa học. 2. Mọi ngƣời đều có quyền đƣợc bảo vệ các quyền lợi vật chất và tinh thần phát sinh từ bất kỳ sáng tạo khoa học, văn học hay nghệ thuật nào mà ngƣời đó là tác giả. Điều 28. Mọi ngƣời đều có quyền đƣợc hƣởng một trật tự xã hội và quốc tế mà trong đó các quyền và tự do cơ bản nêu trong bản Tuyên ngôn này có thể đƣợc thực hiện một cách đầy đủ. Điều 29. 1. Mọi ngƣời đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng là nơi duy nhất mà ở đó nhân cách của bản thân họ có thể phát triển tự do và đầy đủ. 2. Khi hƣởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi ngƣời chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của ngƣời khác, cũng nhƣ nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ. 3. Trong mọi trƣờng hợp, việc thực hiện các quyền tự do này cũng không đƣợc trái với các mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hợp Quốc. Điều 30. Không đƣợc diễn giải bất kỳ điều khoản nào trong bản Tuyên ngôn này theo hƣớng ngầm ý cho phép bất kỳ quốc gia, nhóm ngƣời hoặc cá nhân nào đƣợc quyền tham gia vào bất cứ hoạt động hoặc thực hiện bất kỳ hành vi nào nhằm mục đích phá hoại bất kỳ quyền hoặc tự do nào nêu trong bản Tuyên ngôn này. Công ước Quốc tế về Các quyền Kinh tế, Xã hội, Văn hóa, 1966 (Trích) Lời nói đầu Các quốc gia thành viên Công ƣớc này, Xét rằng, theo những nguyên tắc nêu trong Hiến chƣơng Liên Hợp Quốc, việc thừa nhận phẩm giá vốn có và những quyền bình đẳng, không thể chuyển nhƣợng
  14. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 365 của mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại là nền tảng cho tự do, công lý và hòa bình trên thế giới; Thừa nhận rằng, những quyền này bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của con ngƣời; Thừa nhận rằng, theo Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con ngƣời thì chỉ có thể đạt đƣợc lý tƣởng về con ngƣời tự do, không phải chịu nỗi sợ hãi và thiếu thốn, nếu tạo đƣợc những điều kiện để mọi ngƣời đều có thể hƣởng các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cũng nhƣ các quyền dân sự, chính trị của mình; Xét rằng, theo Hiến chƣơng Liên Hợp Quốc, các quốc gia có nghĩa vụ thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do của con ngƣời. Nhận thấy rằng, mỗi cá nhân, trong khi có nghĩa vụ đối với các cá nhân khác và đối với cộng đồng mình, phải có trách nhiệm phấn đấu cho việc thúc đẩy và tuân thủ các quyền đã đƣợc thừa nhận trong Công ƣớc; Đã nhất trí những điều khoản sau đây: PHẦN I Điều 1. 1. Mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa. 2. Vì lợi ích của mình, các dân tộc đều có quyền tự do định đoạt các nguồn tài nguyên thiên nhiên và của cải của mình miễn là không làm phƣơng hại đến các nghĩa vụ phát sinh từ hợp tác kinh tế quốc tế, mà dựa trên nguyên tắc các bên cùng có lợi và các nguyên tắc của pháp luật quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không đƣợc phép tƣớc đi những phƣơng tiện sinh tồn của một dân tộc. 3. Các quốc gia thành viên Công ƣớc này, kể cả các quốc gia có trách nhiệm quản lý các Lãnh thổ Ủy trị và các Lãnh thổ Quản thác, phải thúc đẩy việc thực hiện quyền tự quyết và phải tôn trọng quyền đó phù hợp với các quy định của Hiến chƣơng Liên Hợp Quốc. PHẦN II
  15. 366 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI Điều 2. 1. Mỗi quốc gia thành viên Công ƣớc này cam kết sẽ tiến hành các biện pháp, một cách riêng rẽ và thông qua sự hợp tác giúp đỡ quốc tế, đặc biệt là các biện pháp kinh tế và kỹ thuật, sử dụng tới mức tối đa các tài nguyên sẵn có của mình, nhằm đạt đƣợc việc bảo đảm ngày càng đầy đủ các quyền đƣợc thừa nhận trong Công ƣớc này bằng mọi biện pháp thích hợp, đặc biệt kể cả việc thông qua những biện pháp lập pháp. 2. Các quốc gia thành viên cam kết bảo đảm rằng các quyền đƣợc nêu trong Công ƣớc này sẽ đƣợc thực hiện không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc các quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc các địa vị khác. 3. Các quốc gia đang phát triển có thể quyết định mức độ đảm bảo các quyền kinh tế mà đã đƣợc ghi nhận trong Công ƣớc này cho những ngƣời không phải là công dân của họ, có xem xét thích đáng đến các quyền con ngƣời và nền kinh tế quốc dân của mình. Điều 3. Các quốc gia thành viên cam kết đảm bảo quyền bình đẳng giữa nam và nữ đối với mọi quyền kinh tế, xã hội và văn hóa mà Công ƣớc này quy định. Điều 4. Các quốc gia thành viên thừa nhận rằng, trong khi ấn định các quyền mà mỗi cá nhân đƣợc hƣởng phù hợp với các quy định của Công ƣớc này, mỗi quốc gia chỉ có thể đặt ra những hạn chế bằng các quy định pháp luật trong chừng mực những hạn chế ấy không trái với bản chất của các quyền nói trên và hoàn toàn vì mục đích thúc đẩy phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ. Điều 5. 1. Không một quy định nào trong Công ƣớc này có thể đƣợc giải thích với hàm ý cho phép bất kỳ một quốc gia, nhóm ngƣời, hoặc cá nhân nào đƣợc quyền tham gia hoặc tiến hành bất kỳ hành động nào nhằm phá hoại các quyền hoặc tự do đƣợc Công ƣớc này ghi nhận, hoặc nhằm giới hạn các quyền đó quá mức Công ƣớc này quy định. 2. Không đƣợc hạn chế hoặc giảm bất kỳ quyền cơ bản nào của con ngƣời ở
  16. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 367 bất kỳ quốc gia thành viên nào của Công ƣớc này mà đã đƣợc công nhận hay tồn tại ở các nƣớc đó dƣới hình thức luật, công ƣớc, các quy tắc hoặc tập quán, với lý do là Công ƣớc này không công nhận các quyền đó hoặc công nhận chúng ở mức thấp hơn. PHẦN III Điều 6. 1. Các quốc gia thành viên Công ƣớc này thừa nhận quyền làm việc, trong đó bao gồm quyền của tất cả mọi ngƣời có cơ hội kiếm sống bằng công việc do họ tự do lựa chọn hoặc chấp nhận, và các quốc gia phải thi hành các biện pháp thích hợp để đảm bảo quyền này. 2. Các quốc gia thành viên Công ƣớc phải tiến hành các biện pháp để thực hiện đầy đủ quyền này, bao gồm triển khai các chƣơng trình đào tạo kỹ thuật và hƣớng nghiệp, các chính sách và biện pháp kỹ thuật nhằm đạt tới sự phát triển vững chắc về kinh tế, xã hội và văn hóa, tạo công ăn việc làm đầy đủ và hữu ích với điều kiện đảm bảo các quyền tự do cơ bản về chính trị và kinh tế của từng cá nhân. Điều 7. Các quốc gia thành viên Công ƣớc thừa nhận quyền của mọi ngƣời đƣợc hƣởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi, đặc biệt đảm bảo: 1. Thù lao cho tất cả mọi ngƣời làm công tối thiểu phải đảm bảo: a. Tiền lƣơng thỏa đáng và tiền công bằng nhau cho những công việc có giá trị nhƣ nhau, không có sự phân biệt đối xử nào; đặc biệt, phụ nữ phải đƣợc đảm bảo những điều kiện làm việc không kém hơn đàn ông, đƣợc trả công ngang nhau đối với những công việc giống nhau; b. Một cuộc sống tƣơng đối đầy đủ cho họ và gia đình họ phù hợp với các quy định của Công ƣớc này. 2. Những điều kiện làm việc an toàn và lành mạnh, 3. Cơ hội ngang nhau cho mọi ngƣời trong việc đƣợc đề bạt lên chức vụ thích hợp cao hơn, chỉ cần xét tới thâm niên và năng lực làm việc; 4. Sự nghỉ ngơi, thời gian rảnh rỗi, giới hạn hợp lý số giờ làm việc, những ngày nghỉ thƣờng kỳ đƣợc hƣởng lƣơng cũng nhƣ thù lao cho những ngày nghỉ lễ.
  17. 368 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI Điều 8. 1. Các quốc gia thành viên Công ƣớc cam kết bảo đảm: a. Quyền của mọi ngƣời đƣợc thành lập và gia nhập công đoàn do mình lựa chọn, theo quy chế của tổ chức đó, để thúc đẩy và bảo vệ các lợi ích kinh tế và xã hội của mình. Việc thực hiện quyền này chỉ bị những hạn chế quy định trong pháp pháp luật và là cần thiết đối với một xã hội dân chủ, vì lợi ích của an ninh quốc gia và trật tự công cộng, hoặc vì mục đích bảo vệ các quyền và tự do của những ngƣời khác; b. Quyền của các tổ chức công đoàn đƣợc thành lập các liên hiệp công đoàn quốc gia và quyền của các liên hiệp công đoàn quốc gia đƣợc thành lập hay gia nhập các tổ chức công đoàn quốc tế; c. Quyền của các công đoàn đƣợc hoạt động tự do, không bị bất kỳ sự hạn chế nào ngoài những hạn chế do pháp luật quy định và là cần thiết đối với một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia và trật tự công cộng, hoặc nhằm mục đích bảo vệ các quyền và tự do của ngƣời khác; d. Quyền đình công với điều kiện là quyền này phải đƣợc thực hiện phù hợp với pháp luật của mỗi nƣớc. 2. Điều khoản này không ngăn cản việc áp đặt những hạn chế hợp pháp trong việc thi hành những quyền nói trên đối với những nhân viên phục vụ trong các lực lƣợng vũ trang, cảnh sát hoặc bộ máy chính quyền. 3. Không quy định nào trong điều này cho phép các quốc gia thành viên của Công ƣớc về Tự do Lập hội và Bảo vệ Quyền đƣợc lập hội năm 1948 của Tổ chức Lao động Quốc tế đƣợc sử dụng các biện pháp lập pháp hoặc hành pháp mà có thể làm tổn hại đến các bảo đảm nêu trong Công ƣớc đó. Điều 9. Các quốc gia thành viên Công ƣớc này thừa nhận quyền của mọi ngƣời đƣợc hƣởng an sinh xã hội, kể cả bảo hiểm xã hội. Điều 10. Các quốc gia thành viên Công ƣớc thừa nhận rằng: 1. Cần dành sự giúp đỡ và bảo hộ tới mức tối đa có thể đƣợc cho gia đình - tế bào cơ bản và tự nhiên của xã hội - nhất là đối với việc tạo lập gia đình
  18. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 369 và trong khi gia đình chịu trách nhiệm chăm sóc và giáo dục trẻ em đang sống lệ thuộc. Việc kết hôn phải đƣợc cặp vợ chồng tƣơng lai chấp thuận tự do. 2. Cần dành sự bảo hộ đặc biệt cho các bà mẹ trong một khoảng thời gian thích đáng trƣớc và sau khi sinh con. Trong khoảng thời gian đó, các bà mẹ cần đƣợc nghỉ có lƣơng hoặc nghỉ với đầy đủ các phúc lợi an sinh xã hội. 3. Cần áp dụng những biện pháp bảo vệ và trợ giúp đặc biệt đối với mọi trẻ em và thanh thiếu niên mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vì các lý do xuất thân hoặc các điều kiện khác. Trẻ em và thanh thiếu niên cần đƣợc bảo vệ để không bị bóc lột về kinh tế và xã hội. Việc thuê trẻ em và thanh thiếu niên làm các công việc có hại cho tinh thần, sức khỏe hoặc nguy hiểm tới tính mạng, hay có hại tới sự phát triển bình thƣờng của các em phải bị trừng trị theo pháp luật. Các quốc gia cần định ra những giới hạn về độ tuổi mà việc thuê lao động trẻ em dƣới hạn tuổi đó phải bị pháp luật nghiêm cấm và trừng phạt. Điều 11. 1. Các quốc gia thành viên Công ƣớc này thừa nhận quyền của mọi ngƣời đƣợc có một mức sống thích đáng cho bản thân và gia đình mình, bao gồm các khía cạnh về ăn, mặc, nhà ở, và đƣợc không ngừng cải thiện điều kiện sống. Các quốc gia thành viên phải thi hành những biện pháp thích hợp để bảo đảm việc thực hiện quyền này, và vì mục đích đó, thừa nhận tầm quan trọng thiết yếu của hợp tác quốc tế dựa trên sự tự do chấp thuận. 2. Trên cơ sở thừa nhận quyền cơ bản của mọi ngƣời là không bị đói, các quốc gia thành viên Công ƣớc sẽ thực hiện, tự mình và thông qua hợp tác quốc tế, các biện pháp, kể cả các chƣơng trình cụ thể cần thiết, nhằm: a. Cải thiện các phƣơng pháp sản xuất, bảo quản và phân phối lƣơng thực, thực phẩm bằng cách vận dụng các kiến thức khoa học kỹ thuật; bằng cách phổ biến kiến thức về các nguyên tắc dinh dƣỡng, bằng cách phát triển và cải tổ lại hệ thống đất trồng trọt sao cho có thể phát triển và sử dụng các tài nguyên thiên nhiên này một cách hiệu quả nhất; b. Bảo đảm phân phối công bằng các nguồn lƣơng thực, thực phẩm của thế giới dựa theo nhu cầu, có tính đến các vấn đề của những nƣớc xuất khẩu
  19. 370 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI và những nƣớc nhập khẩu lƣơng thực, thực phẩm. Điều 12. 1. Các quốc gia thành viên Công ƣớc thừa nhận quyền của mọi ngƣời đƣợc hƣởng một tiêu chuẩn sức khỏe về thể chất và tinh thần ở mức cao nhất có thể đƣợc. 2. Các biện pháp mà một quốc gia thành viên Công ƣớc cần thi hành để thực hiện đầy đủ quyền này bao gồm những biện pháp cần thiết nhằm: a. Giảm bớt tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh và trẻ em, và nhằm đạt đƣợc sự phát triển lành mạnh của trẻ em; b. Cải thiện mọi mặt về vệ sinh môi trƣờng và vệ sinh công nghiệp; c. Ngăn ngừa, xử lý và hạn chế các dịch bệnh, bệnh ngoài da, bệnh nghề nghiệp và các loại bệnh khác; d. Tạo các điều kiện để bảo đảm mọi dịch vụ và sự chăm sóc y tế khi đau yếu. Điều 13. 1. Các quốc gia thành viên Công ƣớc thừa nhận quyền của mọi ngƣời đƣợc học tập. Các quốc gia nhất trí rằng giáo dục phải hƣớng vào việc phát triển đầy đủ nhân cách và ý thức về nhân phẩm, và phải nhằm tăng cƣờng sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con ngƣời. Các quốc gia cũng nhất trí rằng giáo dục cần phải giúp mọi ngƣời tham gia hiệu quả vào xã hội tự do, thúc đẩy sự hiểu biết, khoan dung và tình hữu nghị giữa các dân tộc và các nhóm về chủng tộc, sắc tộc hoặc tôn giáo, cũng nhƣ nhằm đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động duy trì hòa bình của Liên Hợp Quốc. 2. Nhằm thực hiện đầy đủ quyền này, các quốc gia thành viên Công ƣớc thừa nhận rằng: a. Giáo dục tiểu học là phổ cập và miễn phí với mọi ngƣời; b. Bằng mọi biện pháp thích hợp, cụ thể là từng bƣớc áp dụng giáo dục miễn phí, phải làm cho giáo dục trung học dƣới nhiều hình thức khác nhau, kể cả giáo dục trung học kỹ thuật và dạy nghề, trở nên sẵn có và đến đƣợc với mọi ngƣời.
  20. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 371 c. Bằng mọi biện pháp thích hợp, cụ thể là từng bƣớc áp dụng giáo dục miễn phí, phải làm cho giáo dục đại học trở thành nơi mọi ngƣời có thể tiếp cận một cách bình đẳng trên cơ sở năng lực của mỗi ngƣời; d. Giáo dục cơ bản phải đƣợc khuyến khích hoặc tăng cƣờng tới mức cao nhất có thể đƣợc cho những ngƣời chƣa tiếp cận hoặc chƣa hoàn thành toàn bộ chƣơng trình giáo dục tiểu học. e. Việc phát triển một hệ thống trƣờng học ở tất cả các cấp phải đƣợc thực hiện tích cực, một chế độ học bổng thích đáng phải đƣợc thiết lập và những điều kiện vật chất cho đội ngũ giáo viên phải đƣợc cải thiện không ngừng. 3. Các quốc gia thành viên Công ƣớc cam kết tôn trọng quyền tự do của các bậc cha mẹ và của những ngƣời giám hộ hợp pháp (nếu có) trong việc lựa chọn trƣờng cho con cái họ, ngoài những trƣờng do chính quyền lập ra, mà đáp ứng đƣợc các tiêu chuẩn giáo dục tối thiểu do nhà nƣớc quy định hoặc thông qua, cũng nhƣ trong việc bảo đảm giáo dục về tôn giáo và đạo đức cho con cái họ theo ý nguyện riêng của họ. 4. Không một quy định nào trong điều này đƣợc giải thích nhằm làm phƣơng hại đến quyền của các cá nhân và tổ chức đƣợc tự do thành lập và điều hành các cơ sở giáo dục, với điều kiện các cơ sở giáo dục đó luôn tuân thủ các nguyên tắc đƣợc nêu trong khoản 1 của điều này và đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn tối thiểu mà nhà nƣớc quy định. Điều 14. Mỗi quốc gia thành viên Công ƣớc mà vào lúc trở thành thành viên chƣa thể bảo đảm thực hiện đƣợc việc giáo dục tiểu học phổ cập và miễn phí trong phạm vi lãnh thổ nƣớc mình hoặc các vùng lãnh thổ khác thuộc quyền tài phán của nƣớc mình, cam kết, trong vòng hai năm sẽ lập ra và thông qua một kế hoạch hành động chi tiết, nhằm thực hiện từng bƣớc nguyên tắc giáo dục tiểu học phổ cập và miễn phí cho mọi ngƣời trong một khoảng thời gian hợp lý đã đƣợc ấn định trong kế hoạch đó. Điều 15. 1. Các quốc gia thành viên Công ƣớc thừa nhận mọi ngƣời đều có quyền:
  21. 372 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI a. Đƣợc tham gia vào đời sống văn hóa; b. Đƣợc hƣởng các lợi ích của tiến bộ khoa học và các ứng dụng của nó; c. Đƣợc bảo hộ các quyền lợi tinh thần và vật chất phát sinh từ bất kỳ sáng tạo khoa học, văn học nghệ thuật nào của mình. 2. Các biện pháp mà các quốc gia thành viên Công ƣớc sẽ tiến hành nhằm thực hiện đầy đủ quyền này phải bao gồm các biện pháp cần thiết để bảo tồn, phát triển và phổ biến khoa học và văn hóa. 3. Các thành viên Công ƣớc cam kết tôn trọng quyền tự do không thể thiếu đƣợc đối với nghiên cứu khoa học và các hoạt động sáng tạo. 4. Các quốc gia thành viên Công ƣớc thừa nhận lợi ích của việc khuyến khích và phát triển các mối quan hệ và hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khoa học và văn hóa. Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự, Chính trị, 1966 (Trích) Lời nói đầu Các quốc gia thành viên Công ƣớc này, Xét rằng, theo những nguyên tắc nêu trong Hiến chƣơng Liên Hợp Quốc, việc công nhận phẩm giá vốn có và những quyền bình đẳng và bất di dịch của mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại là nền tảng cho tự do, công lý và hòa bình trên thế giới; Thừa nhận rằng, những quyền này bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của con ngƣời; Thừa nhận rằng, theo Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con ngƣời thì chỉ có thể đạt đƣợc lý tƣởng về con ngƣời tự do không phải chịu sợ hãi và thiếu thốn, nếu tạo đƣợc những điều kiện để mỗi ngƣời có thể hƣởng các quyền dân sự và chính trị cũng nhƣ các quyền kinh tế, xã hội văn hóa của mình; Xét rằng, theo Hiến chƣơng Liên Hợp Quốc, các quốc gia có nghĩa vụ thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do của con ngƣời; Nhận thấy rằng, mỗi cá nhân, trong khi có nghĩa vụ đối với ngƣời khác và đối
  22. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 373 với cộng đồng của mình, phải có trách nhiệm phấn đấu cho việc thúc đẩy và tôn trọng các quyền đã đƣợc thừa nhận trong Công ƣớc này; Đã nhất trí những điều khoản sau đây: PHẦN I Điều 1. 1. Mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa. 2. Vì lợi ích của mình, mọi dân tộc đều có thể tự do định đoạt tài nguyên thiên nhiên và của cải của mình, miễn là không làm phƣơng hại đến các nghĩa vụ phát sinh từ hợp tác kinh tế quốc tế mà dựa trên nguyên tắc các bên cùng có lợi và các nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không đƣợc phép tƣớc đi những phƣơng tiện sinh tồn của một dân tộc. 3. Các quốc gia thành viên Công ƣớc này, kể cả các quốc gia có trách nhiệm quản lý các Lãnh thổ Ủy trị và các Lãnh thổ Quản thác, phải thúc đẩy việc thực hiện quyền tự quyết dân tộc và phải tôn trọng quyền đó phù hợp với các quy định của Hiến chƣơng Liên Hợp Quốc. PHẦN II Điều 2. 1. Các quốc gia thành viên Công ƣớc cam kết tôn trọng và bảo đảm cho mọi ngƣời trong phạm vi lãnh thổ và thẩm quyền tài phán của mình các quyền đã đƣợc công nhận trong Công ƣớc này, không có bất kỳ sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc địa vị khác. 2. Trong trƣờng hợp quy định trên đây chƣa đƣợc thể hiện bằng các biện pháp lập pháp hoặc các biện pháp khác, thì mỗi quốc gia thành viên Công ƣớc cam kết sẽ tiến hành các bƣớc cần thiết, phù hợp với trình tự pháp luật nƣớc mình và những quy định của Công ƣớc này, để ban hành pháp luật và những biện pháp cần thiết khác nhằm thực hiện các quyền đƣợc công nhận trong Công ƣớc này.
  23. 374 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI 3. Các quốc gia thành viên Công ƣớc cam kết: a. Bảo đảm rằng bất cứ ngƣời nào bị xâm phạm các quyền và tự do nhƣ đƣợc công nhận trong Công ƣớc này đều nhận đƣợc các biện pháp khắc phục hiệu quả, cho dù sự xâm phạm này là do hành vi của những ngƣời thừa hành công vụ gây ra; b. Bảo đảm rằng bất kỳ ngƣời nào có yêu cầu về các biện pháp khắc phục sẽ đƣợc các cơ quan tƣ pháp, hành pháp hoặc lập pháp có thẩm quyền hoặc bất kỳ cơ quan nào khác có thẩm quyền do hệ thống pháp luật của quốc gia quy định, xác định quyền lợi cho họ và sẽ mở rộng khả năng áp dụng các biện pháp khắc phục mang tính tƣ pháp; c. Đảm bảo rằng các cơ quan có thẩm quyền sẽ thi hành các biện pháp khắc phục đã đƣợc đề ra. Điều 3. Các quốc gia thành viên Công ƣớc này cam kết đảm bảo quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong việc thực hiện tất cả các quyền dân sự và chính trị mà Công ƣớc đã quy định. Điều 4. 1. Trong thời gian có tình trạng khẩn cấp xảy ra đe dọa sự sống còn của quốc gia và đã đƣợc chính thức công bố, các quốc gia thành viên có thể áp dụng những biện pháp hạn chế các quyền nêu ra trong Công ƣớc này, trong chừng mực do nhu cầu khẩn cấp của tình hình, với điều kiện những biện pháp này không trái với những nghĩa vụ khác của quốc gia đó xuất phát từ luật pháp quốc tế và không chứa đựng bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo hoặc nguồn gốc xã hội. 2. Điều này không đƣợc áp dụng để hạn chế các quyền quy định trong điều 6, 7, 8 (các khoản 1 và 2), 11, 15, 16 và 18. 3. Bất kỳ quốc gia thành viên nào của Công ƣớc này khi sử dụng quyền đƣợc hạn chế nêu trong điều này đều phải thông báo ngay cho các quốc gia thành viên khác, thông qua trung gian là Tổng thƣ ký Liên Hợp Quốc, về những quy định mà quốc gia đó đã hạn chế áp dụng và lý do của việc đó. Việc thông báo tiếp theo sẽ đƣợc thực hiện, cũng thông qua trung gian
  24. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 375 trên, vào thời điểm quốc gia chấm dứt việc áp dụng sự hạn chế đó. Điều 5. 1. Không một quy định nào trong Công ƣớc này có thể đƣợc giải thích với hàm ý cho phép bất kỳ quốc gia, nhóm ngƣời hay cá nhân nào đƣợc quyền tham gia hay tiến hành bất kỳ hành động nào nhằm phá hoạt bất kỳ quyền và tự do nào đƣợc Công ƣớc này thừa nhận hoặc nhằm giới hạn những quyền và tự do đó quá mức Công ƣớc này quy định. 2. Không đƣợc hạn chế hoặc hủy bỏ bất kỳ quyền cơ bản nào của con ngƣời mà đã đƣợc công nhận hoặc hiện đang tồn tại ở bất kỳ quốc gia thành viên nào của Công ƣớc này trên cơ sở luật, điều ƣớc, các quy định pháp luật hoặc tập quán, với lý do là Công ƣớc này không công nhận những quyền ấy hoặc công nhận ở một mức độ thấp hơn. PHẦN III Điều 6. 1. Mọi ngƣời đều có quyền cố hữu là đƣợc sống. Quyền này phải đƣợc pháp luật bảo vệ. Không ai có thể bị tƣớc mạng sống một cách tùy tiện. 2. Ở những nƣớc mà hình phạt tử hình chƣa đƣợc xóa bỏ thì chỉ đƣợc phép áp dụng án tử hình đối với những tội ác nghiêm trọng nhất, căn cứ vào luật pháp hiện hành tại thời điểm tội phạm đƣợc thực hiện và không đƣợc trái với những quy định của Công ƣớc này và của Công ƣớc về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng. Hình phạt tử hình chỉ đƣợc thi hành trên cơ sở bản án đã có hiệu lực pháp luật, do một tòa án có thẩm quyền phán quyết. 3. Khi việc tƣớc mạng sống của con ngƣời cấu thành tội diệt chủng, cần hiểu rằng không một quy định nào của điều này cho phép bất kỳ quốc gia thành viên nào của Công ƣớc này, bằng bất kỳ cách nào, đƣợc giảm nhẹ bất kỳ nghĩa vụ nào mà họ phải thực hiện theo quy định của Công ƣớc về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng. 4. Bất kỳ ngƣời nào bị kết án tử hình đều có quyền xin ân giảm hoặc xin thay đổi mức hình phạt. Việc ân xá, ân giảm hoặc chuyển đổi hình phạt tử hình có thể đƣợc áp dụng đối với mọi trƣờng hợp. 5. Không đƣợc phép tuyên án tử hình với ngƣời phạm tội dƣới 18 tuổi và không đƣợc thi hành án tử hình đối với phụ nữ đang mang thai.
  25. 376 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI 6. Không một quy định nào trong điều này có thể đƣợc viện dẫn để trì hoãn hoặc ngăn cản việc xóa bỏ hình phạt tử hình tại bất kỳ quốc gia thành viên nào của Công ƣớc. Điều 7. Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt một cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm. Đặc biệt, không ai có thể bị sử dụng để làm thí nghiệm y học hoặc khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của ngƣời đó. Điều 8. 1. Không ai bị bắt làm nô lệ; mọi hình thức nô lệ và buôn bán nô lệ đều bị cấm. 2. Không ai bị bắt làm nô dịch. 3. a. Không ai bị yêu cầu phải lao động bắt buộc hoặc cƣỡng bức; b. Mục a, khoản 3 điều này không cản trở việc thực hiện lao động cƣỡng bức theo bản án của một tòa án có thẩm quyền ở những nƣớc còn áp dụng hình phạt tù kèm lao động cƣỡng bức nhƣ một hình phạt đối với tội phạm. c. Theo nghĩa của khoản này, thuật ngữ "lao động bắt buộc hoặc cƣỡng bức" không bao gồm: i. Bất kỳ công việc hoặc sự phục vụ nào không đƣợc nói tại điểm b, mà thông thƣờng đòi hỏi một ngƣời đang bị giam giữ theo quyết định hợp pháp của tòa án hoặc một ngƣời khi đƣợc trả tự do có điều kiện phải làm; ii. Bất kỳ sự phục vụ nào mang tính chất quân sự và bất kỳ sự phục vụ quốc gia nào do luật pháp của một nƣớc quy định đối với những ngƣời từ chối làm nghĩa vụ quân sự vì lý do lƣơng tâm, trong trƣờng hợp quốc gia đó cho phép từ chối thực hiện nghĩa vụ quân sự vì lý do lƣơng tâm; iii. Bất kỳ sự phục vụ nào đƣợc yêu cầu trong trƣờng hợp khẩn cấp hoặc thiên tai đe dọa đến tính mạng hoặc đời sống của cả cộng đồng;
  26. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 377 iv. Bất kỳ công việc hoặc sự phục vụ nào là một phần của các nghĩa vụ dân sự thông thƣờng. Điều 9. 1. Mọi ngƣời đều có quyền hƣởng tự do và an toàn cá nhân. Không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ. Không ai bị tƣớc quyền tự do trừ trƣờng hợp việc tƣớc quyền đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà luật pháp đã quy định. 2. Bất cứ ngƣời nào bị bắt giữ đều phải đƣợc thông báo vào lúc bị bắt về những lý do họ bị bắt và phải đƣợc thông báo không chậm trễ về sự buộc tội đối với họ. 3. Bất cứ ngƣời nào bị bắt hoặc bị giam giữ vì một tội hình sự phải đƣợc sớm đƣa ra tòa án hoặc một cơ quan tài phán có thẩm quyền thực hiện chức năng tƣ pháp và phải đƣợc xét xử trong thời hạn hợp lý hoặc đƣợc trả tự do. Việc tạm giam một ngƣời trong thời gian chờ xét xử không đƣợc đƣa thành nguyên tắc chung, nhƣng việc trả tự do cho họ có thể kèm theo những điều kiện để bảo đảm họ sẽ có mặt tại tòa án để xét xử vào bất cứ khi nào và để thi hành án nếu bị kết tội. 4. Bất cứ ngƣời nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị tƣớc tự do đều có quyền yêu cầu đƣợc xét xử trƣớc tòa án, nhằm mục đích để tòa án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và ra lệnh trả lại tự do cho họ, nếu việc giam giữ là bất hợp pháp. 5. Bất cứ ngƣời nào trở thành nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam giữ bất hợp pháp đều có quyền đƣợc yêu cầu bồi thƣờng. Điều 10. 1. Những ngƣời bị tƣớc tự do phải đƣợc đối xử nhân đạo với sự tôn trọng nhân phẩm vốn có của con ngƣời. 2. a. Trừ những hoàn cảnh đặc biệt, bị can, bị cáo phải đƣợc giam giữ tách biệt với những ngƣời đã bị kết án và phải đƣợc đối xử theo chế độ riêng, phù hợp với quy chế dành cho những ngƣời bị tạm
  27. 378 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI giam; b. Những bị can chƣa thành niên phải đƣợc giam giữ tách riêng khỏi ngƣời lớn và phải đƣợc đƣa ra xét xử càng sớm càng tốt. 3. Việc đối xử với tù nhân trong hệ thống trại giam nhằm mục đích chính yếu là cải tạo và đƣa họ trở lại xã hội. Những phạm nhân vị thành niên phải đƣợc tách riêng khỏi ngƣời lớn và phải đƣợc đối xử phù hợp với lứa tuổi và tƣ cách pháp lý của họ. Điều 11. Không ai bị bỏ tù chỉ vì lý do không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng. Điều 12. 1. Bất cứ ai cƣ trú hợp pháp trên lãnh thổ của một quốc gia đều có quyền tự do đi lại và tự do lựa chọn nơi cƣ trú trong phạm vi lãnh thổ quốc gia đó. 2. Mọi ngƣời đều có quyền tự do rời khỏi bất kỳ nƣớc nào, kể cả nƣớc mình . 3. Những quyền trên đây sẽ không phải chịu bất kỳ hạn chế nào, trừ những hạn chế do luật định và là cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội hoặc các quyền tự do của ngƣời khác, và phải phù hợp với những quyền khác đƣợc Công ƣớc này công nhận. 4. Không ai bị tƣớc đoạt một cách tùy tiện quyền đƣợc trở về nƣớc mình Điều 13. Một ngƣời nƣớc ngoài cƣ trú hợp pháp trên lãnh thổ một quốc gia thành viên Công ƣớc chỉ có thể bị trục xuất khỏi nƣớc đó theo quyết định phù hợp pháp luật, và trừ trƣờng hợp có yêu cầu khác xuất phát từ lý do chính đáng về an ninh quốc gia; ngƣời bị trục xuất phải đƣợc phép đệ trình những lý lẽ phản đối việc trục xuất, đƣợc yêu cầu nhà chức trách có thẩm quyền, hoặc một ngƣời hoặc những ngƣời mà nhà chức trách có thẩm quyền đặc biệt cử ra, xem xét lại trƣờng hợp của mình, và đƣợc có đại diện khi trƣờng hợp của mình đƣợc xem xét lại.
  28. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 379 Điều 14. 1. Mọi ngƣời đều bình đẳng trƣớc các tòa án và cơ quan tài phán. Mọi ngƣời đều có quyền đƣợc xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và đƣợc lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội ngƣời đó trong các vụ án hình sự, hoặc để xác định quyền và nghĩa vụ của ngƣời đó trong các vụ kiện dân sự. Báo chí và công chúng có thể không đƣợc phép tham dự toàn bộ hoặc một phần của phiên tòa vì lý do đạo đức, trật tự công cộng hoặc an ninh quốc gia trong một xã hội dân chủ, hoặc vì lợi ích cuộc sống riêng tƣ của các bên tham gia tố tụng, hoặc trong chừng mực cần thiết, theo ý kiến của tòa án, trong những hoàn cảnh đặc biệt mà việc xét xử công khai có thể làm phƣơng hại đến lợi ích của công lý. Tuy nhiên mọi phán quyết trong vụ án hình sự hoặc vụ kiện dân sự phải đƣợc tuyên công khai, trừ trƣờng hợp vì lợi ích của ngƣời chƣa thành niên hay vụ việc liên quan đến những tranh chấp hôn nhân hoặc quyền giám hộ trẻ em. 2. Ngƣời bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền đƣợc coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội của ngƣời đó đƣợc chứng minh theo pháp luật. 3. Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi ngƣời đều có quyền đƣợc hƣởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu sau đây: a. Đƣợc thông báo không chậm trễ và chi tiết bằng một ngôn ngữ mà ngƣời đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình; b. Có đủ thời gian và điều kiện thuận lợi để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với ngƣời bào chữa do chính mình lựa chọn; c. Đƣợc xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý; d. Đƣợc có mặt trong khi xét xử và đƣợc tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; đƣợc thông báo về quyền này nếu chƣa có sự trợ giúp pháp lý; và đƣợc nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉ định trong trƣờng hợp lợi ích của công lý đòi hỏi và không phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu không có đủ điều kiện trả; e. Đƣợc thẩm vấn hoặc yêu cầu thẩm vấn những nhân chứng buộc tội mình, và đƣợc mời ngƣời làm chứng gỡ tội cho mình tới phiên tòa và thẩm vấn họ tại tòa với những điều kiện tƣơng tự nhƣ đối với những
  29. 380 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI ngƣời làm chứng buộc tội mình; f. Đƣợc có phiên dịch miễn phí nếu không hiểu hoặc không nói đƣợc ngôn ngữ sử dụng trong phiên toà; g. Không bị buộc phải đƣa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội. 4. Tố tụng áp dụng đối với những ngƣời chƣa thành niên phải xem xét tới độ tuổi của họ và mục đích thúc đẩy sự phục hồi nhân cách của họ. 5. Bất cứ ngƣời nào bị kết án là phạm tội đều có quyền yêu cầu tòa án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp luật. 6. Khi một ngƣời bị kết án về một tội hình sự bởi một quyết định chung thẩm và sau đó bản án bị hủy bỏ, hoặc ngƣời đó đƣợc tha trên cơ sở tình tiết mới hoặc phát hiện mới cho thấy rõ ràng có sự xét xử oan, thì ngƣời đã phải chịu hình phạt theo bản án trên, theo luật, có quyền yêu cầu đƣợc bồi thƣờng, trừ trƣờng hợp cơ quan tố tụng chứng minh rằng việc sự thật không đƣợc làm sáng tỏ tại thời điểm đó hoàn toàn hoặc một phần là do lỗi của ngƣời bị kết án gây ra. 7. Không ai bị đƣa ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ hai về cùng một tội phạm mà ngƣời đó đã bị kết án hoặc đã đƣợc tuyên trắng án phù hợp với pháp luật và thủ tục tố tụng hình sự của mỗi nƣớc. Điều 15. 1. Không ai bị coi là phạm tội vì một hành động hoặc không hành động mà không cấu thành tội phạm theo pháp luật quốc gia hoặc pháp luật quốc tế tại thời điểm thực hiện hành vi đó. Cũng không đƣợc áp dụng hình phạt nặng hơn hình phạt đã ấn định tại thời điểm hành vi phạm tội đƣợc thực hiện. Nếu sau khi xảy ra hành vi phạm tội mà luật pháp quy định hình phạt nhẹ hơn với hành vi đó, thì ngƣời phạm tội đƣợc hƣởng mức hình phạt nhẹ hơn. 2. Không một quy định nào trong điều này cản trở việc xét xử hoặc trừng phạt bất kỳ ngƣời nào vì bất kỳ hành động hoặc không hành động nào của họ mà tại thời điểm thực hiện đƣợc coi là tội phạm theo những nguyên tắc pháp luật chung đã đƣợc cộng đồng các quốc gia công nhận.
  30. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 381 Điều 16. Mọi ngƣời đều có quyền đƣợc công nhận là thể nhân trƣớc pháp luật ở mọi nơi. Điều 17. 1. Không ai bị can thiệp một cách tùy tiện hoặc bất hợp pháp vào đời sống riêng tƣ, gia đình, nhà ở, thƣ tín, hoặc bị xâm phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín. 2. Mọi ngƣời đều có quyền đƣợc pháp luật bảo vệ chống lại những can thiệp hoặc xâm phạm nhƣ vậy. Điều 18. 1. Mọi ngƣời đều có quyền tự do tƣ tƣởng, tự do tín ngƣỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngƣỡng do mình lựa chọn, và tự do bày tỏ tín ngƣỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những ngƣời khác, công khai hoặc kín đáo, dƣới các hình thức nhƣ thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng. 2. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngƣỡng của họ. 3. Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngƣỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của ngƣời khác. 4. Các quốc gia thành viên Công ƣớc cam kết tôn trọng quyền tự do của các bậc cha mẹ, và của những ngƣời giám hộ hợp pháp nếu có, trong việc giáo dục về tôn giáo và đạo đức cho con cái họ theo ý nguyện của riêng họ. Điều 19. 1. Mọi ngƣời đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp. 2. Mọi ngƣời có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dƣới hình thức
  31. 382 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI nghệ thuật, thông qua bất kỳ phƣơng tiện thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ. 3. Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải đƣợc quy định trong pháp luật và là cần thiết để: a. Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của ngƣời khác, b. Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội. Điều 20. 1. Mọi hình thức tuyên truyền cho chiến tranh đều bị pháp luật nghiêm cấm. 2. Mọi chủ trƣơng gây hằn thù dân tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo để kích động sự phân biệt đối xử về chủng tộc, sự thù địch, hoặc bạo lực đều phải bị pháp luật nghiêm cấm. Điều 21. Quyền hội họp hòa bình phải đƣợc công nhận. Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế, trừ những hạn chế do pháp luật quy định và là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khỏe và đạo đức xã hội hoặc bảo vệ quyền và tự do của những ngƣời khác. Điều 22. 1. Mọi ngƣời có quyền tự do lập hội với những ngƣời khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình. 2. Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế, trừ những hạn chế do pháp luật quy định và là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng hay các quyền và tự do của ngƣời khác. Điều này không ngăn cản việc đặt ra những hạn chế hợp pháp trong việc thực hiện quyền này đối với những ngƣời làm việc trong các lực lƣợng vũ trang và cảnh sát. 3. Không một quy định nào của điều này cho phép các quốc gia thành viên
  32. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 383 đã tham gia Công ƣớc về Tự do Lập hội và Bảo vệ Quyền lập hội năm 1948 của Tổ chức Lao động Quốc tế đƣợc tiến hành những biện pháp lập pháp hoặc hành pháp làm phƣơng hại đến những bảo đảm nêu trong Công ƣớc đó. Điều 23. 1. Gia đình là một tế bào cơ bản và tự nhiên của xã hội, cần phải đƣợc nhà nƣớc và xã hội bảo hộ. 2. Quyền kết hôn và lập gia đình của nam và nữ đến tuổi kết hôn phải đƣợc thừa nhận. 3. Không đƣợc tổ chức việc kết hôn nếu không có sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của cặp vợ chồng tƣơng lai. 4. Các quốc gia thành viên Công ƣớc phải tiến hành các biện pháp thích hợp để bảo đảm sự bình đẳng về quyền và trách nhiệm của vợ và chồng trong suốt thời gian chung sống và khi ly hôn. Trong trƣờng hợp ly hôn, phải có quy định bảo đảm sự bảo hộ cần thiết với con cái. Điều 24. 1. Mọi trẻ em, không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản hoặc dòng dõi đều có quyền đƣợc hƣởng những biện pháp bảo hộ của gia đình, xã hội và nhà nƣớc cần thiết cho ngƣời chƣa thành niên. 2. Mọi trẻ em đều phải đƣợc đăng ký khai sinh ngay sau khi ra đời và phải có tên gọi. 3. Mọi trẻ em đều có quyền có quốc tịch. Điều 25. Mọi công dân, không có bất kỳ sự phân biệt nào nhƣ đã nêu ở Điều 2 và không có bất kỳ sự hạn chế bất hợp lý nào, đều có quyền và cơ hội để: 1. Tham gia điều hành các công việc xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua những đại diện do họ tự do lựa chọn;
  33. 384 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI 2. Bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử định kỳ trung thực, bằng phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín, nhằm đảm bảo cho cử tri đƣợc tự do bày tỏ ý nguyện của mình; 3. Đƣợc tiếp cận với các dịch vụ công cộng ở đất nƣớc mình trên cơ sở bình đẳng. Điều 26. Mọi ngƣời đều bình đẳng trƣớc pháp luật và có quyền đƣợc pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào. Về mặt này, pháp luật phải nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử và đảm bảo cho mọi ngƣời sự bảo hộ bình đẳng và có hiệu quả chống lại những phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc các địa vị khác. Điều 27. Ở những quốc gia có nhiều nhóm thiểu số về sắc tộc, tôn giáo và ngôn ngữ, những cá nhân thuộc các nhóm thiểu số đó, cùng với những thành viên khác của cộng đồng mình, không bị khƣớc từ quyền có đời sống văn hóa riêng, quyền đƣợc theo và thực hành tôn giáo riêng, hoặc quyền đƣợc sử dụng ngôn ngữ riêng của họ. 2. Eleanor Roosevelt Tiểu dẫn: Anna Eleanor Roosevelt (1884 –1962) là chính khách Mỹ, là Đệ nhất Phu nhân (từ năm 1933 đến 1945) của Tổng thống Franklin D. Roosevelt. Bà hoạt động tích cực trong phong trào ủng hộ nữ quyền, đồng thời có nhiều đóng góp tích cực trong nỗ lực hình thành nhiều định chế quốc tế (Liên Hợp Quốc, Freedom House ). Bà từng là Chủ tịch Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc, có vai trò quan trọng trong việc soạn thảo Tuyên ngôn Toàn thế giới về Nhân quyền năm 1948. Phần dƣới đây giới thiệu một tác phẩm tiêu biểu của bà liên quan đến quyền tự quyết của con ngƣời và của các dân tộc. Giá trị pháp lý toàn cầu của quyền tự quyết của con người, 1952
  34. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 385 Ƣớc vọng tự quyết định vận mệnh của mình mà không bị kẻ khác sai khiến hay kiểm soát là một trong những khát khao sâu thẳm trong tất cả các cảm xúc của con ngƣời. Trong suốt quá trình lịch sử, các nhóm cá nhân có cùng chung mối quan hệ về ngôn ngữ, tôn giáo và văn hóa đã phát triển ý thức đoàn kết nhƣ một dân tộc và có khuynh hƣớng không bằng lòng với những cố gắng của ngƣời ngoài cuộc, ngƣời nƣớc ngoài khi can thiệp vào công việc của họ. Cảm xúc này mạnh mẽ đến mức nhiều ngƣời của rất nhiều dân tộc khác nhau, ở những thời điểm khác nhau, vẫn sẵn sàng đánh đổi mạng sống của mình lấy tự do không bị cai trị bởi ngƣời khác. Thực tế là chiến tranh thƣờng bắt nguồn khi một dân tộc không tôn trọng những ƣớc muốn của một dân tộc khác. Thực tế đó đã khiến chúng ta, các thành viên của Liên Hợp Quốc đồng ý rằng một trong những mục tiêu lớn của chúng ta là ―phát triển mối quan hệ thân ái giữa các quốc gia với nhau trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc quyền bình đẳng và quyền tự quyết của mỗi dân tộc‖. Trong những cuộc thảo luận hiện nay, chúng ta thấy mình đang đối mặt với việc không chỉ cần coi trọng hơn ý nghĩa đạo đức của nguyên tắc này mà, đồng thời, cần phải có một định nghĩa rõ ràng hơn để nguyên tắc này có giá trị toàn cầu trong một thế giới phức tạp nhƣ hiện nay. Trong khi nền tảng của khái niệm tự quyết, tôi cho rằng, cũng xƣa cũ nhƣ xã hội con ngƣời, thì thuật ngữ ―tự quyết‖ lại khá mới mẻ. Dƣờng nhƣ thuật ngữ này đƣợc sử dụng lần đầu tiên trong cuộc chiến của một số nƣớc châu Âu ở thế kỷ XIX giành quyền ly khai của dân tộc. Thuật ngữ này cũng xuất hiện trong các tác phẩm của các nhà triết học cấp tiến Đức năm 1848 nhƣ cuốn Selbsbestimmungsrecht, tác phẩm này đƣợc dịch sang tiếng Anh với tựa đề ―Quyền tự quyết của các dân tộc‖ trong một nghị quyết đƣợc thông qua tại Hội thảo Xã hội chủ nghĩa ở châu Âu năm 1915. Một số diễn giả, bao gồm đại diện của Ai Cập và Anh, đã chỉ ra rằng cụm từ này đã đƣợc lƣu hành khá rộng rãi nhƣ là một nguyên tắc ngoại giao quốc tế do Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson phổ biến. Tuy nhiên, một số diễn giả cũng đã nhắc nhở chúng ta rằng, ngay từ đầu Woodrow Wilson cũng đã nhận định rằng nguyên tắc tự quyết cũng có những giới hạn của nó. Bởi vì tôi nghĩ, tâm trí chúng ta cần phải luôn nhớ đến suy nghĩ của tổng thống Wilson về vấn đề này, tôi muốn nhắc lại những lời tuyên bố của ông khi đƣa ra bốn nguyên tắc trƣớc Quốc hội Mỹ vào ngày 11/02/1918. Ông khẳng định rằng, tất cả những ƣớc vọng rõ ràng của đất nƣớc đều phải đƣợc sự tán thành kèm theo sự hài lòng tột bậc có thể đạt đƣợc mà không phải đƣa ra
  35. 386 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI những nhân tố gây bất hòa mới hay làm sống dậy những mối bất hòa và phản kháng mà vào thời điểm đó có thể làm rạn vỡ hòa bình của châu Âu và tiếp đó là của toàn thế giới. Ngày nay, chúng ta thảo luận vấn đề tự quyết trong một hoàn cảnh hoàn toàn khác và phức tạp hơn nhiều. Sân khấu không còn là của riêng các nƣớc châu Âu nữa mà đã trở thành toàn cầu. Chỉ trong một nghị quyết gồm vài đoạn, chúng ta đang đƣa ra những chỉ dẫn hƣớng dẫn cụ thể để tôn trọng một nguyên tắc, không chỉ ở châu Âu mà còn ở châu Á, châu Phi và các nƣớc châu Mỹ nữa. Trong một khoảnh khắc, hãy nghĩ đến những nền văn hóa của nhiều dân tộc mà chúng ta đang bàn đến quyền tự quyết của họ - nền văn hóa của giáo mác và những ngôi nhà bằng đất, nền văn hóa nông nghiệp rộng lớn, văn hóa phức tạp của những thành phố công nghiệp, và cả những tổ hợp văn hóa rối rắm. Sự phức tạp đó, với tôi, đủ để chúng ta phải cẩn trọng để khỏi quá tỉ mỉ, hẹp hòi hay cứng nhắc khi thiết kế những quy luật để khuyến khích sự tôn trọng đối với nguyên tắc tự quyết. Trong cuộc tranh luận này, cùng với bất kỳ nghị quyết nào mà chúng ta thông qua, chúng ta đang đúc khuôn cho các thế hệ tiến tới một nguyên tắc hành xử quốc tế. Nếu tự quyết là một quyền thuộc về tất cả mọi ngƣời thì quả là không phù hợp với chúng ta khi chỉ đƣa ra ở đây trong một nghị quyết chung chỉ đề cập tới việc tôn trọng (quyền ấy) với một vài dân tộc nhất định. Những lời lẽ của chúng ta tạo ra phải áp dụng đƣợc, nhất là với những ngƣời đã từng có quyền này và đã từng bị tƣớc đoạt, cũng nhƣ đối với những ngƣời chƣa bao giờ nắm giữ đƣợc quyền ấy. Chúng ta, vì thế, cũng nhƣ nhiều ngƣời đi trƣớc, phải tự vấn rằng điều gì tạo nên một ―dân tộc‖ mà với họ nguyên tắc tôn trọng tự quyết sẽ đƣợc áp dụng. Đặc điểm của họ là gì? Đâu sẽ là ranh giới văn hóa, địa lý hoặc chính trị của họ? Trong khi tìm kiếm câu trả lời, chúng tôi thấy rằng ngay cả khái niệm một ―dân tộc‖ cũng đang trong quá trình tiến hóa nhanh chóng. Có lẽ, gia đình hoặc dòng tộc chính là nhóm ngƣời đầu tiên tìm kiếm nhằm duy trì sự tự do hoàn toàn khỏi sự kiểm soát của những kẻ khác. Xu hƣớng lịch sử, ở các mức độ khác nhau với vô số những lần thụt lùi, dƣờng nhƣ hình thành những nhóm ngày càng lớn, từ những dân tộc đã từng tách biệt và dần dần nghĩ về nhóm của mình nhƣ một dân tộc đơn nhất. Hầu nhƣ mọi quốc gia có mặt tại đây ngày hôm nay đều đƣợc tạo nên nhƣ những yếu tố khác hẳn nhau của một quần thể đã tụ họp lại bằng cách này hay cách khác vào một hệ thống chính trị hợp nhất hoặc liên bang.
  36. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 387 Ở đây bật lên sự khác biệt giữa những dân tộc trƣớc đây từng tách biệt nay đã hoặc đang chìm đắm và những dân tộc mới và lớn hơn đang hình thành. Quá trình tiến hóa và sát nhập này vẫn đang tiếp tục diễn ra. Đây cũng là một xu hƣớng làm giảm khả năng xung đột, tranh chấp. Liệu chúng ta có phải thi thành sự quan tâm hết mức để cho bất kỳ điều gì chúng ta làm ở đây sẽ không đóng băng xu hƣớng vận động của các dân tộc theo dòng lịch sử và nhƣ thế, thay vì tăng cƣờng tình đoàn kết giữa con ngƣời, lại chú trọng vào những trở ngại cụ thể với tình đoàn kết ấy? Ở Hoa Kỳ, chúng tôi đã có đƣợc niềm tin chắc chắn từ trải nghiệm của chính chúng tôi rằng, việc các dân tộc kết hợp với nhau là một quá trình làm phong phú hơn. Ngay nơi đây, tại thành phố New York, số ngƣời có nguồn gốc Ai Len là 550.000, còn đông hơn cả thành phố Dublin; số ngƣời Ý, cũng đƣợc xác định tƣơng tự, là khoảng trên 1.000.000 ngƣời và vƣợt qua dân số Naples. New York có nhiều ngƣời gốc Do Thái hơn toàn bộ nƣớc Israel. Con số 12.000 ngƣời nói tiếng Ả Rập ở đây tƣơng đƣơng với dân số của một thành phố nhỏ ở Trung Đông. Tuy thế, nhƣ tôi tin chắc các bạn đã chứng kiến nhiều lần, con cái của những ngƣời ấy không phải là ngƣời Ai Len, ngƣời Ý, ngƣời Do thái hoặc ngƣời Ả Rập. Chúng là ngƣời Mỹ. Chúng tôi không tự cho rằng quá trình tạo ra một dân tộc mới là dễ dàng hay chúng tôi đã đạt đƣợc thành công trong quá trình này với từng thành tố của dân số chúng tôi, nhƣng chúng tôi biết có thể làm đƣợc điều đó và chúng tôi tin tƣởng rằng quá trình này sẽ đƣợc ƣa chuộng hơn là quá trình cách ly các dân tộc. Đồng thời, chúng tôi tin rằng vẫn có thể có tính đa dạng, và có ƣớc vọng duy trì tính đa dạng cao trong các thể chế chính trị lớn. Trong suốt hệ thống chính phủ liên bang của chúng tôi, mỗi bang và mỗi cộng đồng đều bảo lƣu cho ngƣời dân của mình tiếng nói tối đa trong những công việc của mình. Lousiana vẫn tiếp tục hệ thống pháp lý có nguồn gốc từ Pháp đã đƣợc truyền qua những ngƣời khai hoang đầu tiên của nơi đây. Arizona và New Mexico sử dụng tiếng Tây Ban Nha nhƣ là một trong những ngôn ngữ chính thức của thể chế pháp luật của họ. Trên toàn đất nƣớc, mọi ngƣời cầu nguyện bằng tiếng Na Uy và tiếng Nga, phát hành báo chí bằng tiếng Đức và tiếng Hy Lạp, phát thanh qua sóng radio bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Tại mỗi bang, hạt và thị trấn, mọi ngƣời tự quyết định cho chính bản thân họ việc ai sẽ là ngƣời dạy trong các trƣờng học và điều gì sẽ đƣợc dạy. Các nhân viên cảnh sát cũng chính là ngƣời trong cộng đồng và phải tuân
  37. 388 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI thủ sự kiểm soát của cộng đồng. Đó là sự tự quyết đƣợc thực hành ở một mức độ cao mà vẫn không phải hy sinh sự hợp tác trong những lĩnh vực lớn hơn với lợi ích chung. Mỗi yếu tố của cộng đồng quốc gia đều có đóng góp đối với chính phủ quốc gia, tham gia vào chính phủ, và giúp hình thành các quyết định có liên quan đến vận mệnh của đất nƣớc. Dù vậy, cũng phải thấy rõ rằng thừa nhận việc tự động thực hiện một cách đầy đủ sự tự quyết chính trị với từng bộ phận dân cƣ khác nhau của chúng tôi có thể phƣơng hại đến lợi ích của toàn bộ. Và những phần lãnh thổ có cùng tƣơng lai phát triển hoặc suy thoái với lãnh thổ chúng tôi cũng cần cân nhắc chính những điều đó. Trong bối cảnh này, chúng ta tự hỏi: Liệu tự quyết có đồng nghĩa với quyền ly khai hay không? Tự quyết có bao gồm cả quyền ly khai hay là lý lẽ biện hộ cho sự tách rời của các dân tộc hay không? Tự quyết có nghĩa là một dân tộc có quyền tách ra, kết hợp với những quyền lực khác, không kể đến tác động của kinh tế đối với cả hai bên, không kể đến tác động lên sự ổn định nội bộ và an toàn bên ngoài, không kể đến tác động đối với các nƣớc láng giềng hoặc cộng đồng quốc tế hay không? Tất nhiên là không. Nhƣ tôi đã đề xuất, khái niệm về quyền tự quyết của các dân tộc là một nguyên tắc quan trọng và có cơ sở, tuy nhiên nhƣ nhiều nguyên tắc khác, không thể áp dụng nguyên tắc này trong giới hạn tuyệt đối hoặc cứng nhắc. Cho rằng chỉ có hai lựa chọn – độc lập hay là nô lệ là điều không phù hợp với thực tế. Cũng nhƣ khi khái niệm về tự do cá nhân con ngƣời đƣợc đẩy đến cực đoan máy móc thì sẽ sinh ra tình trạng hỗn loạn, nguyên tắc tự quyết của các dân tộc mà áp dụng không có giới hạn sẽ dẫn đến tình trạng hỗn loạn. Nhƣng có phải vì thế mà nguyên tắc này hay nguyên tắc kia không còn hiệu lực? Tất nhiên là không. Ngƣợc lại, chúng tôi cảm nhận chắc chắn rằng, sự tự do của con ngƣời có thể đƣợc biểu lộ đầy đủ nhất của họ chỉ trong giới hạn trách nhiệm. Nghị quyết trƣớc đây, trong ít nhất một phƣơng diện khác, đƣa ra vấn đề chuyên chế. Nghị quyết này tuyên bố việc trao quyền tự quyết, trên cơ sở một ―yêu cầu có chính phủ tự trị,‖ qua việc tìm hiểu rõ ràng ý nguyện của nhân dân thông qua trƣng cầu dân ý. Chúng tôi buộc phải hỏi rằng, liệu đây có phải là một hạn chế với khái niệm tự quyết? Liệu yêu cầu có một chính phủ tự trị là vấn đề duy nhất cần trƣng cầu ý dân? Liệu trƣng cầu ý dân có phải là phƣơng pháp tham vấn duy nhất?
  38. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 389 Nếu tự quyết cũng đồng nghĩa với tự trị, chúng ta sẽ thấy dễ trả lời những vấn đề này hơn. Nhƣng tự quyết áp dụng với những lãnh thổ không tự trị, với những dân tộc không có cơ hội phát triển một hệ thống chính trị đầy đủ là một vấn đề phức tạp hơn nhiều. Điều này đƣợc áp dụng đối với tất cả các giai đoạn trong quá trình đƣa đến tự trị. Tự quyết là một quá trình. Về bản chất, đó là quá trình dân chủ, đối ngƣợc với quá trình sai khiến trong bất kỳ xã hội đã phát triển hoặc chƣa phát triển nào. Nhƣ những diễn giả khác đã trình bày, đó là một quá trình liên quan đến trách nhiệm cũng nhƣ quyền. Đó là quá trình mà con ngƣời phát triển các điều luật cũng nhƣ công lý của chính mình. Đó không chỉ đơn thuần là quyền đƣa ra một bộ luật, hay đơn thuần là việc soạn thảo một bộ luật, mà quá trình này còn có nghĩa là sự ƣng thuận tuân thủ những bộ luật đó vì lợi ích chung của xã hội, ngay cả khi vì thế mà phải giới hạn tự do của các cá nhân hay các nhóm. Tự quyết là một quá trình mà mọi ngƣời chấp nhận tự trang trải cho công việc của mình, chia sẻ gánh nặng giữa mọi ngƣời và đều nhận thấy những đóng góp cá nhân cho điều thiện chung đã đƣợc thực hiện. Tự quyết là việc xây dựng đƣờng sá, trƣờng học, không chỉ quyết định xây mà còn tìm kỹ sƣ thiết kế, tài chính, nhân lực, giáo viên, và coi sóc công việc đến khi hoàn thành. Những điều đó chính là thực chất của tự quyết. Nếu tự quyết đƣợc dựng xây ngày một tăng trong từng giai đoạn của sự phát triển của một dân tộc, thì tự trị hay các thể chế độc lập của dân tộc ấy, một khi đạt đƣợc, sẽ vững vàng và trƣờng tồn. Nếu chúng ta quan niệm tự quyết cũng giống với tự trị, thì chúng ta bỏ qua bản chất của quá trình mà bằng quá trình đó chúng ta đạt đƣợc tự trị thực sự. Nếu nhầm lẫn về hình thức với nội dung, chúng ta có thể làm nguy hại đến chính những quyền chúng ta muốn khuyến khích. Nguyên tắc tự quyết không chỉ đƣợc áp dụng với nhiều khía cạnh trong quá trình phát triển của bất kỳ dân tộc nào, mà còn có nhiều cách khác nữa để tìm hiểu nguyện vọng của con ngƣời và những phƣơng cách này phải phù hợp với những vấn đề liên quan, cũng nhƣ với trình độ, ngôn ngữ và hiểu biết của các công dân. Hơn nữa, nhƣ tôi đã chỉ ra chỉ ít phút trƣớc, sẽ là điều không may nếu chúng ta giới hạn khái niệm tự quyết trong thế giới không tự trị. Chúng ta đã thấy ngay trong chính thời đại của mình hiển nhiên những dân tộc và những quốc gia mạnh mẽ, tự hào và độc lập đã bị giày xéo bởi những kẻ xâm lăng và nằm dƣới sự
  39. 390 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI thống trị độc tài của chúng. Những quốc gia và dân tộc đều có quyền khôi phục độc lập của mình. Tại một thời điểm trong lịch sử, khi sự tự do của rất nhiều cá nhân và dân tộc đã bị hủy hoại hoặc bị đe dọa nghiêm trọng, theo ý kiến của phái đoàn chúng tôi, thì điều quan trọng là Liên Hợp Quốc đã tái khẳng định nguyên tắc tự quyết và kêu gọi sự tôn trọng của quốc tế với nguyên tắc ấy. Quan trọng hơn nữa, Liên Hợp Quốc làm nhƣ vậy với tất cả các dân tộc mà không chỉ với những nƣớc thuộc địa. Khi cân nhắc những khuyến nghị cho bản thảo cuối cùng này của Ủy ban Nhân quyền, phái đoàn của tôi khẩn thiết đề xuất rằng chúng ta cùng xem xét những khuyến nghị ấy trong bối cảnh toàn cầu và với trách nhiệm, để không làm thất bại chính mục đích vì nguyên tắc tự quyết đã đƣợc đặt ra trong Hiến chƣơng – đó là ―để xây dựng tình hữu nghị giữa các quốc gia‖. Sở thông tin nhà nước, ngày 8 tháng 12 năm 1952 3. Martin Luther King, Jr. Tiểu dẫn: Martin Luther King, Jr. (1929 – 1968) là một mục sƣ và là nhà hoạt động dân quyền cho ngƣời da màu. Ông là một trong những nhà lãnh đạo có ảnh hƣởng lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ cũng nhƣ lịch sử đƣơng đại của phong trào đấu tranh bất bạo động. M. L. King đƣợc nhiều ngƣời trên khắp thế giới ngƣỡng mộ nhƣ một ngƣời anh hùng, nhà kiến tạo hòa bình và vị thánh tử đạo. M. L. King dẫn đầu cuộc tẩy chay xe buýt diễn ra ở Montgomery, Alabama (1955- 1956), tham gia thành lập Hội nghị Lãnh đạo Cơ đốc miền Nam (1957) và trở thành chủ tịch đầu tiên của tổ chức này. Năm 1963, King tổ chức cuộc tuần hành tại thủ đô Washington D.C và đọc bài diễn văn nổi tiếng ―Tôi có một giấc mơ‖ trƣớc hàng ngàn ngƣời tụ tập về đây. Ông nâng cao nhận thức của công chúng về phong trào dân quyền và đƣợc nhìn nhận là một trong những nhà hùng biện vĩ đại nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Năm 1964, King là nhân vật trẻ tuổi nhất đƣợc chọn để nhận Giải Nobel Hòa bình vì những nỗ lực chấm dứt nạn kỳ thị chủng tộc qua phƣơng pháp bất tuân dân sự và các biện pháp bất bạo động khác. King bị ám sát tại Memphis, Tennessee vào năm 1968. Ở đây, chúng tôi giới thiệu bài diễn văn của M. L. King vào ngày 28 tháng 8 năm 1963, tại Đài tƣởng niệm Tổng thống Lincoln ở thủ đô Washington D.C. Trong bài diễn văn, King lặp lại nhiều cụm từ nhƣ ―bây giờ là thời điểm‖ (now is the time), ―chúng ta không bao giờ có thể hài lòng‖ (we can never be satisfied), ―tôi có một giấc mơ‖ (I have a dream) nhằm nhấn mạnh tính khẩn thiết và khát vọng tự do, công bằng của ngƣời da màu. Điều này cũng thể hiện tài hùng biện của King.
  40. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 391 Tôi có một giấc mơ, 196371 Hôm nay, tôi rất vui tham gia cùng với các bạn vào sự kiện sẽ đi vào lịch sử nhƣ là cuộc biểu tình lớn nhất vì tự do trong lịch sử nƣớc ta. Một thế kỷ trƣớc đây, một ngƣời Mỹ vĩ đại, mà chúng ta đang đứng dƣới bóng (của đài tƣởng niệm) ngày hôm nay, đã ký Tuyên Ngôn Giải Phóng. Quyết định quan trọng này đã đến nhƣ là một ánh sáng hy vọng tuyệt vời cho hàng triệu ngƣời nô lệ da đen đã bị thiêu đốt trong ngọn lửa của sự bất công. Nó đến nhƣ một bình minh vui tƣơi kết thúc đêm dài nô lệ. Nhƣng một trăm năm sau, ngƣời da đen vẫn chƣa tự do. Một trăm năm sau, cuộc sống của ngƣời da đen vẫn bị tê liệt một cách đáng thƣơng bởi sự kỳ thị và các chuỗi phân biệt đối xử. Một trăm năm sau, ngƣời da đen sống trên một hòn đảo cô đơn của nghèo đói ở giữa một đại dƣơng thịnh vƣợng vật chất bao la. Một trăm năm sau, ngƣời da đen vẫn tiều tụy dần trong các góc tối của xã hội Mỹ và thấy mình đang lƣu vong trên chính mảnh đất quê hƣơng. Và vì vậy chúng ta đã đến đây hôm nay để lên tiếng vì tình trạng này. Theo nghĩa nào đó, chúng ta đến thủ đô để đổi một tờ séc thành tiền mặt. Khi các kiến trúc sƣ của nền cộng hòa viết ra những từ ngữ tuyệt vời trong Hiến pháp và Tuyên ngôn Độc lập, họ đã ký một kỳ phiếu mà mỗi ngƣời Mỹ đều là ngƣời thừa kế. Kỳ phiếu này là một lời hứa rằng tất cả mọi ngƣời, đúng vậy, ngƣời da đen cũng nhƣ ngƣời da trắng, sẽ đƣợc bảo đảm "các quyền không thể tách rời" về "cuộc sống, tự do và mƣu cầu hạnh phúc." Rõ ràng ngày hôm nay nƣớc Mỹ đã thất bại trong việc thực thi lời hứa liên quan đến những ngƣời da màu. Thay vì tôn trọng nghĩa vụ thiêng liêng này, nƣớc Mỹ đã đƣa cho ngƣời da đen một tờ séc không tốt, một tờ séc đã bị trả lại sau khi bị đánh dấu "không đủ tiền." Nhƣng chúng ta không thể tin rằng ngân hàng công lý bị phá sản. Chúng ta không thể tin rằng không có đủ tiền trong kho các cơ hội của quốc gia này. Và nhƣ vậy, chúng ta đã đến để đổi tờ séc này lấy tiền mặt, một tờ séc sẽ cung cấp cho chúng ta sự giàu có về tự do và bảo đảm công lý. Chúng ta cũng đã đến với địa điểm thiêng liêng này để nhắc nhở nƣớc Mỹ về sự cấp bách của hiện thời. Không còn thời gian để tham gia vào việc xoa dịu hoặc để uống thuốc an thần của sự chậm rãi. Bây giờ là thời điểm để hiện thực hóa các hứa hẹn về dân chủ. Bây giờ là thời điểm để vƣơn lên từ thung lũng tối 71 Nguồn: dịch từ
  41. 392 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI tăm và hoang vắng của sự kỳ thị lên đến con đƣờng ngập nắng của công bằng về chủng tộc. Bây giờ là thời điểm để nâng quốc gia của chúng ta từ dải cát bất công chủng tộc lên nền đá vững chắc của tình anh em. Bây giờ là thời điểm để làm cho công lý thành hiện thực cho tất cả con cái của Thiên Chúa. Có thể gây tử vong cho quốc gia nếu bỏ qua tính cấp bách của hiện thời. Mùa hè ngột ngạt của sự bất bình chính đáng của ngƣời da đen này sẽ không đi qua cho đến khi có một mùa thu của tự do và bình đẳng tiếp thêm sinh lực. Năm 1963 không phải là một kết thúc, mà là sự bắt đầu. Và những ngƣời hy vọng rằng ngƣời da đen cần thiết nghỉ xả hơi và bây giờ sẽ hài lòng khi việc thức tỉnh nếu quốc gia trở lại nhƣ bình thƣờng. Và sẽ chẳng có sự nghỉ ngơi hay sự yên bình ở nƣớc Mỹ cho đến khi ngƣời da đen đƣợc trao quyền công dân của mình. Cơn lốc xoáy của cuộc nổi dậy sẽ tiếp tục làm rung chuyển nền tảng của đất nƣớc chúng ta cho đến ngày mai tƣơi sáng khi công lý trỗi dậy. Nhƣng có một điều mà tôi cần phải nói với đồng bào mình, những ngƣời đứng trên ngƣỡng cửa ấm áp dẫn vào cung điện của công lý: Trong tiến trình đạt đƣợc vị trí xứng đáng của chúng ta, chúng ta không nên phạm phải những việc làm sai trái. Chúng ta hãy đừng tìm cách đáp ứng cơn khát tự do của mình bằng cách uống từ chén cay đắng và hận thù. Chúng ta phải mãi mãi tiến hành cuộc đấu tranh của mình trong tinh thần tôn trọng nhân phẩm và kỷ luật. Chúng ta không đƣợc phép biến cuộc biểu tình sáng tạo của chúng ta thành bạo lực thể chất. Lần nữa và lần nữa, chúng ta phải lên đến các đỉnh cao vĩ đại bằng việc đối diện vũ lực bằng sức mạnh tinh thần. Những lực lƣợng hiếu chiến đã nhấn chìm các cộng đồng ngƣời da đen không nên khiến chúng ta mất lòng tin vào tất cả ngƣời da trắng, vì nhiều anh em trắng của chúng ta, chứng tỏ bởi sự hiện diện của họ ở đây hôm nay, đã đến để nhận ra rằng số phận của họ gắn liền với vận mệnh của chúng ta. Và họ đã nhận ra rằng tự do của họ là không thể tách rời tự do của chúng ta. Chúng ta không thể đi một mình. Và khi chúng ta đi, chúng ta phải hứa rằng sẽ luôn tiến bƣớc về phía trƣớc. Chúng ta không thể quay trở lại. Có những ngƣời đang hỏi những ngƣời dấn thân cho dân quyền, "Khi nào anh sẽ hài lòng?" Chúng ta không bao giờ có thể hài lòng chừng nào ngƣời da đen vẫn
  42. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 393 là nạn nhân của những nỗi kinh hoàng không kể xiết bởi sự tàn bạo của cảnh sát. Chúng ta không bao giờ có thể hài lòng chừng nào con ngƣời chúng ta, mệt mỏi rã rời khi đi lại, không thể có đƣợc chỗ nghỉ trong các nhà nghỉ bên đƣờng cao tốc và các khách sạn trong thành phố. Chúng ta không thể hài lòng chừng nào việc dịch chuyển cơ bản của ngƣời da đen chỉ là từ một khu ổ chuột nhỏ để một khu lớn hơn. Chúng ta không bao giờ có thể hài lòng chừng nào con em chúng ta bị tƣớc bỏ ý thức về bản thân và bị cƣớp đi nhân phẩm của mình bởi các bảng chỉ dẫn: "Chỉ dành cho ngƣời da trắng‖. Chúng ta không thể hài lòng chừng nào một ngƣời da đen ở Mississippi không thể bỏ phiếu và một ngƣời da đen ở New York tin rằng anh ta không có gì để mà bỏ phiếu. Không, không, chúng ta không hài lòng, và chúng ta sẽ không hài lòng cho đến khi "công lý chảy cuộn xuống nhƣ nƣớc và công bình chảy nhƣ một dòng suối mạnh." Tôi biết rằng một số trong các bạn đã đến đây từ các trải nghiệm sâu sắc và nhiều khổ đau. Một số các bạn vừa mới ra khỏi xà lim. Và một số trong các bạn đã đến từ những nơi mà cuộc kiếm tìm của bạn - kiếm tìm tự do khiến bạn bị đánh đập bởi bão táp khủng bố và chao đảo bởi những cơn gió tàn bạo của cảnh sát. Các bạn đã là những cựu chiến binh của khổ đau. Hãy tiếp tục công việc với niềm tin rằng chịu đựng đau khổ không mong muốn chính là cứu chuộc. Hãy trở về Mississippi, trở về Alabama, trở về Nam Carolina, trở về Georgia, trở về Louisiana, trở về khu nhà ổ chuột ở những thành phố miền Bắc của chúng ta, biết rằng tình trạng này có thể và sẽ đƣợc thay đổi bằng cách nào đó . Chúng ta hãy đừng đắm mình trong thung lũng của tuyệt vọng, tôi nói với các bạn hôm nay, những bạn bè của tôi. Và dù chúng ta phải đối mặt với những khó khăn của hôm nay và ngày mai, tôi vẫn có một giấc mơ. Đó là một giấc mơ bắt rễ sâu từ giấc mơ Mỹ. Tôi có một giấc mơ rằng một ngày đất nƣớc này sẽ trỗi dậy và thể hiện ý nghĩa thực sự của niềm tin rằng: "Chúng tôi coi những chân lý này là hiển nhiên, rằng tất cả mọi ngƣời sinh ra đều bình đẳng." Tôi có một giấc mơ rằng một ngày trên những ngọn đồi ở Georgia, các con trai của ngƣời nô lệ và các con trai của chủ nô trƣớc đây sẽ có thể ngồi lại với nhau nhƣ anh em. Tôi có một giấc mơ rằng một ngày ngay cả tiểu bang Mississippi, một bang ngột ngạt vì độ nóng của bất công, ngột ngạt vì độ nóng của áp bức, sẽ biến thành một hòn đảo của tự do và công lý.
  43. 394 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI Tôi có một giấc mơ rằng bốn con nhỏ của tôi sẽ một ngày đƣợc sống trong một đất nƣớc mà chúng sẽ không bị đánh giá bởi màu da mà bởi phẩm chất của mình. Ngày hôm nay, tôi có một giấc mơ! Tôi có một giấc mơ rằng một ngày, tận ở Alabama, nơi hiện còn những kẻ phân biệt chủng tộc ngu ngốc, còn vị thống đốc tuôn ra những lời "can thiệ p" và "vô hiệu" - một ngày ngay tại Alabama, các cậu bé và cô bé da đen sẽ có thể nắm tay với các cậu bé và cô bé da trắng nhƣ anh em và chị em. Ngày hôm nay, tôi có một giấc mơ! Tôi có một giấc mơ rằng một ngày mọi thung lũng sẽ đƣợc lấp đầy và mọi ngọn đồi, núi sẽ đƣợc hạ thấp xuống, những nơi mấp mô sẽ trở thành đồng bằng, những khúc quanh co sẽ đƣợc làm thẳng, ―và vinh quang của Chúa sẽ đƣợc bộc lộ và mọi ngƣời sẽ cùng nhau nhìn thấy nó." (2) Đó là hy vọng của chúng ta và đó là niềm tin mà tôi mang theo trở lại miền Nam. Với niềm tin này, chúng ta sẽ có thể đập tan ngọn núi tuyệt vọng thành một tảng đá hi vọng. Với niềm tin này, chúng ta sẽ có thể chuyển đổi bất hòa đang réo inh ỏi trong đất nƣớc thành bản giao hƣởng tuyệt đẹp của tình anh em. Với niềm tin này, chúng ta sẽ có thể cùng nhau làm việc, cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau đấu tranh, cùng nhau vào tù, cùng nhau đứng lên vì tự do, biết rằng chúng ta đến một ngày sẽ đƣợc tự do. Và đó sẽ là ngày - là ngày mà tất cả của con cái Chúa sẽ có thể hát lên với ý nghĩa mới: Đất nước tôi là của người, mảnh đất ngọt ngào của tự do, vì người tôi hát. Miền đất nơi cha tôi mất, mảnh đất của niềm tự hào, Từ mọi triền núi, hãy để tự do vang vọng! Và nếu nƣớc Mỹ là một đất nƣớc vĩ đại, điều này phải trở thành sự thật. Và vậy hãy để tự do vang vọng từ những ngọn núi khổng lồ ở New Hampshire. Hãy để tự do vang vọng từ núi non hùng vĩ ở New York.
  44. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 395 Hãy để tự do vang vọng từ cao nguyên Alleghenies ở Pennsylvania. Hãy để tự do vang vọng từ đỉnh Rockies tuyết phủ ở Colorado. Hãy để tự do vang vọng từ những núi đồi tròn trịa ở California. Nhƣng không chỉ có vậy: Hãy để tự do vang vọng từ núi Stone ở Georgia. Hãy để tự do vang vọng từ núi Lookout ở Tennessee. Hãy để tự do vang vọng từ tất cả đồi núi ở Mississippi. Từ mọi triền núi, hãy để tự do vang vọng. Và khi điều này xảy ra, khi chúng ta cho phép tự do lên tiếng, khi chúng ta để nó vang vọng từ mọi làng và mọi thôn, từ mọi tiểu bang và mọi thành phố, chúng ta sẽ có thể tăng tốc độ tiến đến ngày đó khi mà tất cả con cái của Thiên Chúa, ngƣời da đen và ngƣời da trắng, ngƣời Do Thái và dân ngoại, Tin Lành và Công giáo, sẽ có thể nắm tay nhau và hát vang lời ca của nghi lễ xƣa của ngƣời da đen: Cuối cùng là tự do! Cuối cùng là tự do! Cảm ơn Thiên Chúa Toàn Năng, chúng con cuối cùng được tự do! Chú thích: 1) Amos 05:24 (trích trong Kinh Thánh) 2) Isaiah 40:4-5 (trích trong Kinh Thánh). 4. Aung San Suu Kyi Tiểu dẫn: Aung San Suu Kyi sinh năm 1945 tại Rangoon, Miến Điện. Từ những năm 1980, bà bắt đầu hoạt động đòi tự do và dân chủ cho Miến Điện và bị chính quyền quân sự giam lỏng tại nhà riêng trong nhiều năm, mãi cho đến gần đây mới đƣợc trả tự do. Bà đƣợc trao giải thƣởng Nobel Hòa bình vào năm 1991. Suu Kyi đã trở thành một trong những biểu tƣợng của cuộc tranh đấu ôn hòa cho dân chủ ở châu Á. Năm 1995, cuốn sách “Freedom from Fear and other Writings” (Thoát khỏi sự sự hãi và các bài viết khác) của Suu Kyi đƣợc xuất bản, với lời giới thiệu của Václav Havel, Desmond M. Tutu và Michael Aris. Năm 2008, NXB Văn hóa Thông tin đã xuất bản bản dịch tiếng Việt cuốn sách này với tên gọi ―Aung San Suu Kyi - Đấu tranh cho tự do‖, do Huỳnh Văn Thanh biên dịch. Dƣới đây, chúng tôi trích giới thiệu một số bài
  45. 396 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI diễn văn quan trọng của Aung San Suu Kyi đăng trong cuốn sách đã nêu. Vai trò công dân trong cuộc đấu tranh vì dân chủ (Diễn văn đọc nhân ngày Độc lập của Miến Điện (3/12) năm 1988) Mặc dù chúng ta không biết điều gì sẽ xảy ra, nhƣng chúng ta cũng cần phải thực hiện bằng hết cả sức mình, không chút run sợ, theo con đƣờng của lẽ phải. Mặc dù chúng ta không biết điều gì sẽ xảy ra, nhƣng việc chúng ta tham gia vào cuộc đấu tranh này là đúng. Nếu các bạn hỏi chúng ta có sẽ giành đƣợc dân chủ hay không, sẽ có tổng tuyển cử hay chăng, thì đây tôi sẽ trả lời nhƣ thế này: Đừng nghĩ những điều này có sẽ xảy đến hay không. Chỉ cần tiếp tục làm những gì mà bạn đang tin là đúng. Sau này, kết quả của những gì bạn đang làm sẽ trở nên rành rành trƣớc mắt chúng ta thôi. Trách nhiệm của ngƣời ta là làm điều xứng đáng. Tất cả chúng ta đã bƣớc vào cuộc đấu tranh vì dân chủ này bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có thể thắng. Chẳng hạn, một ngƣời bƣớc vào một cuộc đua hay mua một tờ vé số là vì anh ta tin tƣởng rằng mình có thể thắng cuộc hay trúng giải. Do đó, cũng vậy, nếu có ai đó hỏi tôi rằng tôi có tin tƣởng chúng ta có thể thắng lợi trong cuộc đấu tranh vì dân chủ hay không, tôi sẽ trả lời một cách thành thực rằng: "Có, chúng ta có thể thắng lợi", và bởi vì tôi tin chúng ta có thể thắng, nên tôi đã chọn tham gia. Tôi sẽ giống nhƣ các sinh viên và các bạn trẻ tiếp tục công việc của họ, đồng thời tin chắc trong đầu rằng chúng ta có thể thắng lợi. Chúng ta vẫn còn đang có những cuộc đấu tranh lớn chờ ở phía trƣớc; chúng ta vẫn đang còn nhiều việc phải làm, và không chỉ trong một vài tháng là xong đâu. Chúng ta vẫn phải tiếp tục làm việc và đấu tranh trong nhiều năm. Mặc dù có những cuộc bầu cử và lực lƣợng dân chủ đã thắng lợi đi chăng nữa, phong trào vẫn chƣa phải đã hết việc để làm; chúng ta vẫn phải tiếp tục. Hôm nay thì các sinh viên và các bạn trẻ đang ở độ tuổi hai mƣơi. Tuổi thọ ở Miến Điện là vào khoảng sáu mƣơi, và có thể rằng dƣới chế độ dân chủ cũng nhƣ điều kiện sinh hoạt đƣợc cải thiện thì con số đó sẽ là bảy mƣơi. Điều đó có nghĩa rằng thanh niên của ngày hôm nay sẽ còn năm mƣơi năm đấu tranh đang chờ ở phía trƣớc. Dân chủ là một điều mà ngƣời ta phải nuôi dƣỡng đến trọn đời, nếu nó vẫn còn sống và khỏe mạnh. Giống nhƣ sức khỏe của một ngƣời vậy: mặc dù cha mẹ đã nuôi anh ta đến tuổi tráng niên, khỏe mạnh, nhƣng nếu anh không biết chăm sóc mình, sức khỏe của anh ta sẽ sa sút, xuống dốc. Nếu mỗi ngƣời trong các bạn luôn tâm niệm trong suốt cuộc đời rằng các bạn có trách nhiệm đối với sự thịnh
  46. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 397 vƣợng của đất nƣớc mình, khi ấy chúng ta sẽ chẳng có lý do gì để lo sợ rằng sức khỏe của đất nƣớc chúng ta bị xuống dốc cả. Chúng ta cần phải làm việc gắn bó với hết thảy những ai đang cố sức vì dân chủ. Tôi không có ý nói đến thái độ hợp tác nửa vời - chúng ta cần làm việc chung với nhau bằng trọn trái tim và tâm hồn. Hôm nay là ngày kỷ niệm Độc lập. Tôi rất mong mọi ngƣời hãy quyết định, bắt đầu kể từ hôm nay, rằng bạn sẽ cố sức vì lợi ích của đất nƣớc, nghĩa là vì đồng bào của mình, vì sự ổn định của Liên bang Miến Điện và vì lợi ích của hết thảy mọi ngƣời. Khi ra sức vì lợi ích của đất nƣớc, chúng ta phải không có thái độ trung thành với riêng những ai đó hay với những mục tiêu thiển cận. Đừng có những thái độ trung thành nhƣ vậy. Tôi rất mong chúng ta tiếp tục cuộc hành trình của mình bằng sự cảm thông chân chính và bằng một tâm hồn trong sáng. Tôi luôn luôn nói với mọi ngƣời rằng phải có những khát vọng cao - có những khát vọng cao nhất. Thư ngỏ gửi Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc (Mặc dù bức thư này không đề ngày tháng, nhưng rõ ràng đây là bức thư do A Ung San Suu Kyi đệ trình Ủy ban nhân quyền Liên Hợp Quốc trong khi hoạt động đấu tranh chính thức của đảng do bà lãnh đạo đang gia tăng và trước khi bà bị quản thúc tại tư gia vào ngày 20/7/1989. Vào năm 1990, Ủy ban đã có những biện pháp nhằm điều tra tình hình nhân quyền tại Miến Điện theo thủ tục 1503). I. Mục tiêu chính của Liên minh Quốc gia Vì Dân chủ (NLD) cùng các tổ chức khác đang đấu tranh cho việc thiết lập chính quyền dân chủ tại Miến Điện là tạo ra những thay đổi chính trị và xã hội, mà sẽ đảm bảo một xã hội tiến bộ, ổn định và hòa bình, nhƣ đã đƣợc nêu ra trong bản Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền, trong đó các quyền tự do cơ bản của con ngƣời đƣợc luật pháp bảo vệ. II. Những ai đang đấu tranh cho nền dân chủ tại Miến Điện cũng đều mong muốn phân biệt rõ giữa "sự cai trị bằng luật pháp", điều vốn có nghĩa là sự quản lý công bằng và vô tƣ của luật pháp hiến định - tức những biện pháp do một quốc hội dân cử thông qua - và tiến trình luật pháp lẫn trật tự mà chỉ đơn thuần là sự cƣỡng chế bằng sắc lệnh độc đoán của một chính quyền không do nhân dân ủy thác mà có. III. Những ai tin tƣởng vào sự thiêng liêng của nhân quyền không phản đối khái niệm luật pháp và trật tự, nhƣng họ muốn đƣợc đảm bảo rằng, luật pháp chẳng phải là "ý muốn của phe thắng thế‖, và trật tự không chỉ đơn thuần là
  47. 398 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI "phản xạ của nỗi sợ tràn lan‖. Đại đa số nhân dân Miến Điện đều khao khát một nhà nƣớc mà biết giữ gìn dhamma và abhaya - tức lòng chính trực và không có sợ hãi. IV. Tuyên bố rằng những quan tâm đến nhân quyền phải đƣợc cân bằng nhờ vào lòng tôn trọng luật pháp sẽ chỉ có giá trị nếu luật pháp bảo đảm rằng sự công bằng đƣợc thực hiện và ngƣời ta đã thấy nó đang đƣợc thực hiện. Không thể nói những sắc lệnh có mục đích thực hiện các biện pháp chống lại những ai đang đấu tranh bảo vệ tình trạng các quyền mà Liên Hợp Quốc thừa nhận nhƣ là cốt lõi của tự do, hòa bình và công bằng thoát khỏi cảnh bị chà đạp là lực lƣợng đạo đức hay hợp pháp đƣợc. V. Chính sách trƣớc sau nhƣ một của NLD là tôn trọng và giữ gìn tất cả những luật pháp công bằng. Cùng với đó, NLD cũng nhƣ đại đa số dân chúng Miến Điện đồng thừa nhận rằng, những ai mong muốn xây dựng một đất nƣớc vững mạnh và hòa bình đều phải có bổn phận tránh những biện pháp tấn công vào chính nền tảng sự thật và phẩm hạnh của con ngƣời. VI. Rất nhiều tù nhân chính trị đang bị giam giữ ở Miến Điện ngày nay đều bị quy vào tội hình sự bởi nỗ lực của họ nhằm thực hiện các điều 19, 20 và 21 của bản Tuyên ngôn Toàn thế giới về Nhân quyền. Thêm nữa, họ còn phản đối những hành động trái ngƣợc các điều 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, và 12. VII. NLD hay những ngƣời đang bày tỏ sự ủng hộ đối với NLD đều không hề mong muốn có xung đột và đối đầu - điều chỉ mang lại sự khốn khổ hơn nữa cho nhân dân vốn đã và đang bị đau khổ nhiều trƣớc sự hà khắc chính trị và sự khốn đốn kinh tế. Tìm kiếm sự hiểu biết thông qua đối thoại và thƣơng lƣợng chính là nguyên tắc đƣợc thừa nhận của truyền thống dân chủ, điều mà NLD vẫn luôn luôn tuân thủ kể từ bƣớc đầu thành lập vào năm 1988. VIII. Những ai đang mong muốn sớm có một cuộc chuyển đổi hòa bình sang một chính quyền dân chủ đều hiểu giá trị của phát biểu sau đây: "Phủ nhận quyền của con ngƣời tức là khơi mào cho sự bất ổn về chính trị lẫn xã hội‖. Do đó, những nỗ lực của họ đều là nhằm tạo ra những điều kiện mà sẽ tránh đƣợc tình trạng rối ren chính trị và xã hội này. Thế nhƣng, các nỗ lực của họ đã gặp phải sự cản trở bởi thái độ của nhà cầm quyền là không biết tôn trọng ý muốn của đa số. IX. Hy vọng rằng Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc sẽ có thể giành đƣợc những điều kiện cho phép những ai quan tâm vận động cho nhân quyền tại Miến Điện (nhất là các tù nhân chính trị) đƣợc chân thành nói lên quan điểm của mình
  48. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 399 mà không phải lo sợ bị trả thù đối với bản thân mình, ngƣời thân của mình hay bạn bè mình. X. Tuy biết rằng phải trông cậy vào chính sức mạnh của lòng can đảm, kiên nhẫn và sức chịu đựng ngoan cƣờng của chính mình để cuộc đấu tranh - vì một hệ thống chính trị mà sẽ đảm bảo các quyền tự do cơ bản của con ngƣời - đi đến thắng lợi, nhƣng nhân dân Miến Điện cũng mong có đƣợc sự giúp đỡ của Ủy ban cho sự nghiệp chính nghĩa của mình. 5. Amatya Sen Tiểu dẫn: Amartya Kumar Sen sinh năm 1933, là nhà kinh tế học, triết gia Ấn Độ. Năm 1998, ông giành đƣợc giải Nobel kinh tế bởi những đóng góp trong xây dựng lý thuyết về kinh tế phúc lợi, công trình về sự khan hiếm các nguồn lực, nguyên lý phát triển con ngƣời, những cơ chế nằm bên dƣới sự nghèo nàn và lý thuyết về chủ nghĩa tự do chính trị. Từ năm 1998 đến 2004 ông giữ cƣơng vị hiệu trƣởng trƣờng Trinity thuộc Đại học Cambridge. A. Sen đặc biệt quan tâm đến những cuộc thảo luận về toàn cầu hóa và đã thực hiện rất nhiều bài giảng trƣớc các ủy viên ban quản trị lâu năm của Ngân hàng Thế giới về chủ đề này. Ông cũng là chủ tịch danh dự của Oxfam. Năm 1999, Amartya Sen xuất bản cuốn Development as Freedom (Phát triển là quyền tự do) (Oxford, Oxford University Press). Cuốn sách nhanh chóng trở nên nổi tiếng nhƣ là một đóng góp quan trọng không chỉ về kinh tế phát triển mà cả về chính trị học, triết học. Nội dung xuyên suốt của nó là mối tƣơng tác giữa phát triển kinh tế và tự do. Các quyền tự do không chỉ là mục đích cơ bản của sự phát triển, mà còn là một trong số các phƣơng tiện chủ yếu của sự phát triển. Chất lƣợng cuộc sống không nên chỉ đo bằng của cải mà cần đo bằng cả mức độ tự do mà con ngƣời đƣợc hƣởng. Ở Việt Nam, năm 2002, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ƣơng (CIEM) và Nhà xuất bản Thống kê đã xuất bản bản dịch tiếng Việt của cuốn sách này với tiêu đề ―Phát triển là quyền tự do‖ (ngƣời dịch: Lƣu Đoàn Huynh và Diệu Bình). Dƣới đây, chúng tôi giới thiệu một số đoạn trích từ Lời giới thiệu, Chƣơng I và VI của cuốn sách này. Phát triển là quyền tự do Lời giới thiệu Nhƣ đƣợc lập luận ở đây, sự phát triển có thể đƣợc coi là một quá trình mở rộng các quyền tự do thực sự mà ngƣời dân đƣợc hƣởng. Việc tập trung vào các quyền tự do của con ngƣời là tƣơng phản với những quan điểm hạn hẹp hơn về sự phát triển, chẳng hạn nhƣ định nghĩa phát triển là tăng trƣởng tổng sản phẩm
  49. 400 | TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI quốc dân (GNP), hoặc tăng thu nhập cá nhân, hoặc công nghiệp hóa, hoặc tiến bộ công nghệ, hoặc là hiện đại hóa xã hội. Tất nhiên, tăng trƣởng GNP hoặc thu nhập cá nhân có thể có ý nghĩa hết sức quan trọng với vai trò là phương tiện để mở rộng các quyền tự do mà các thành viên của xã hội đƣợc hƣởng. Song các quyền tự do cũng phụ thuộc vào những nhân tố quyết định khác, chẳng hạn nhƣ những sắp xếp về xã hội và kinh tế (thí dụ, các cơ sở giáo dục và y tế) và các quyền chính trị và dân sự (thí dụ, quyền tự do tham gia vào các cuộc thảo luận và xem xét). Cũng nhƣ vậy, công nghiệp hóa hoặc tiến bộ công nghệ hoặc hiện đại hóa xã hội có thể đóng góp quan trọng vào việc mở rộng quyền tự do của con ngƣời, nhƣng tự do còn phụ thuộc vào những ảnh hƣởng khác nữa. Nếu quyền tự do là điều mà sự phát triển thúc đẩy, thì có một sự tranh luận lớn về việc nên tập trung vào mục tiêu hàng đầu đó, chứ không phải một số phƣơng tiện cụ thể, hay tập trung vào một danh sách công cụ đƣợc lựa chọn đặc biệt nào đó. Việc nhìn nhận sự phát triển theo nghĩa mở rộng các quyền tự do thiết yếu sẽ dẫn dắt sự chú ý tới các mục đích làm cho phát triển trở nên quan trọng, chứ không chỉ đơn thuần chú ý đến một số trong nhiều phƣơng tiện có vai trò nổi bật trong quá trình phát triển. Sự phát triển đòi hỏi phải gạt bỏ những nguồn gốc chủ yếu của các hiện tƣợng không tự do: sự nghèo khổ cũng nhƣ sự chuyên chế, ít cơ hội về kinh tế cũng nhƣ sự tƣớc đoạt xã hội có hệ thống, sự sao lãng các cơ sở công cộng cũng nhƣ sự không bao dung hoặc sự đàn áp quá mức của các nhà nƣớc độc tài. Cho dù nói chung sự giàu có đã tăng lên đến mức chƣa từng thấy, song thế giới đƣơng đại lại phủ nhận các quyền tự do cơ bản của một số đông nhân dân - thậm chí có lẽ của đa số nhân dân. Đôi khi việc thiếu các quyền tự do cơ bản có liên quan trực tiếp với tình trạng nghèo khổ về kinh tế, làm cho ngƣời dân không có quyền tự do để giải quyết cơn đói của mình, hoặc để có đủ dinh dƣỡng, hoặc chữa trị các bệnh tật có thể chữa khỏi, hoặc có cơ hội để đƣợc mặc đủ hoặc có chỗ ở, hoặc có nƣớc sạch hoặc các cơ sở vệ sinh. Trong các trƣờng hợp khác, không tự do có liên quan chặt chẽ đến việc thiếu các cơ sở công cộng và chăm sóc xã hội, chẳng hạn nhƣ thiếu các chƣơng trình phòng chống dịch bệnh, hoặc các sắp xếp có tổ chức về chăm sóc y tế hoặc cơ sở giáo dục, hoặc các thể chế hiệu quả nhằm duy trì hòa bình và trật tự ở địa phƣơng. Cũng trong các trƣờng hợp khác, sự vi phạm quyền tự do là kết quả trực tiếp của việc các chế độ độc tài bác bỏ các quyền tự do chính trị và dân sự và hạn chế quyền tự do tham gia vào đời sống xã hội, chính trị và kinh tế của cộng đồng.
  50. TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN CỦA NHÂN LOẠI TRONG THẾ KỶ XX | 401 Tính hiệu quả và các mối liên kết với nhau Quyền tự do là nhân tố trung tâm của quá trình phát triển vì hai lý do sau đây: 1. Lý do về ước lượng: việc đánh giá sự tiến bộ phải đƣợc tiến hành chủ yếu căn cứ vào việc liệu các quyền tự do của con ngƣời có đƣợc tăng cƣờng hay không; 2. Lý do về hiệu quả: việc đạt đƣợc sự phát triển là hoàn toàn phụ thuộc vào quyền tự do hoạt động của con ngƣời. Tôi đã trình bày động cơ thứ nhất: lý do về ƣớc lƣợng nhằm tập trung vào quyền tự do. Còn về lý do hiệu quả, tức lý do thứ hai, chúng ta phải xem xét các mối quan hệ thực tế thích hợp, đặc biệt là những mối quan hệ tăng cƣờng lẫn nhau giữa các loại quyền tự do khác nhau. Chính vì các mối quan hệ lẫn nhau ấy, mà cuốn sách này trình bày khá chi tiết, cho nên hoạt động mang tính tự do và bền vững nổi lên với vai trò là một động lực lớn của sự phát triển. Chẳng những bản thân hoạt động tự do là một bộ phận cấu thành của phát triển, mà nó còn góp phần tăng cƣờng các loại hình hoạt động tự do khác. Các mối quan hệ thực tế đƣợc tìm hiểu rộng rãi trong cuốn sách này gắn liền hai khía cạnh của ý tƣởng cho rằng ‖Phát triển là quyền tự do‖. Mối quan hệ giữa tự do cá nhân và việc đạt đƣợc sự phát triển xã hội vƣợt ra ngoài mối quan hệ cấu thành - cho dù mối quan hệ này là quan trọng. Điều mà con ngƣời có thể đạt đƣợc một cách tích cực lại chịu ảnh hƣởng của các cơ hội kinh tế, tự do chính trị, quyền lực xã hội, và điều kiện có thể có về sức khỏe tốt, giáo dục cơ bản và sự khuyến khích cũng nhƣ nuôi dƣỡng các sáng kiến. Các sắp xếp về thể chế cho những cơ hội ấy cũng chịu ảnh hƣởng của việc thực thi các quyền tự do của con ngƣời, thông qua sự tự do tham gia vào lựa chọn xã hội và xây dựng các quyết định công cộng thúc đẩy sự tiến bộ của các cơ hội đó. Những mối quan hệ lẫn nhau này cũng đƣợc tìm hiểu ở đây. Một số minh họa: tự do chính trị và chất lượng cuộc sống Tầm quan trọng của việc coi tự do là mục đích chính của phát triển có thể đƣợc minh họa bằng một số thí dụ đơn giản. Mặc dù tầm vƣơn đầy đủ của viễn cảnh này chỉ có thể nổi bật lên từ một một sự phân tích rộng rãi hơn (đƣợc tiến hành ở các chƣơng sau), song tính chất cơ bản của ý tƣởng cho rằng ‖phát triển là quyền tự do‖ có thể đƣợc minh họa một cách dễ dàng bằng một số thí dụ cơ bản. Thứ nhất, trong bối cảnh những quan điểm hẹp hơn coi phát triển là tăng