Phương pháp dạy học môn Tự nhiên xã hội ở Tiểu học

doc 92 trang ngocly 2060
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Phương pháp dạy học môn Tự nhiên xã hội ở Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docphuong_phap_day_hoc_mon_tu_nhien_xa_hoi_o_tieu_hoc.doc

Nội dung text: Phương pháp dạy học môn Tự nhiên xã hội ở Tiểu học

  1. o0o Phương pháp dạy học môn tự nhiên xã hội ở tiểu học 1
  2. PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CHƯƠNG 1: CÁC MÔN VỀ TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI Ở TIỂU HỌC I. VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ CÁC MÔN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI (TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI, KHOA HỌC, LỊCH SỬ VÀ ĐỊA LÝ) Ở TIỂU HỌC Từ năm học 1996- 1997 môn Tự nhiên và Xã hội (TN-XH) được chính thức đưa vào dạy đại trà ở tiểu học. Đây là môn học được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển từ các môn học trước nó như "Khoa học thường thức" (1956), "Tìm hiểu khoa học" (1986), "Tìm hiểu Tự nhiên và Xã hội"(1993). Thực hiện chủ trương đổi mới chương trình và sách giáo khoa ở tiểu học, sau năm 2000 môn Tự nhiên và Xã hội được cấu trúc lại thành các môn: Tự nhiên và Xã hội (lớp 1,2,3), Khoa học, Lịch sử và Địa lý. Các môn học này được kế thừa, bổ sung và hoàn thiện từ các chủ đề và phân môn của môn TN-XH và môn Sức khoẻ trước đây. Đây là những môn học có vị trí quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu kép của giáo dục tiểu học: tạo điều kiện cho học sinh tiếp tục học tốt các môn học tương ứng ở các lớp trên, hoặc bước vào cuộc sống lao động. II. MỤC TIÊU CHUNG CỦA CÁC MÔN VỀ TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI Các môn về TN-XH nhằm giúp học sinh lĩnh hội những tri thức ban đầu và thiết thực về con người, tự nhiên và xã hội xung quanh. Qua đó, phát triển cho các em năng lực quan sát, năng lực tư duy, lòng ham hiểu biết khoa học và khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, góp phần hình thành nhân cách cho học sinh. Cụ thể: 1.Về kiến thức: Giúp học sinh lĩnh hội những kiến thức cơ bản, ban đầu và thiết thực về: * Con người: học sinh có những hiểu biết cơ bản về con người ở các phương diện: + Sinh học: sơ lược về cấu tạo, chức phận và sự hoạt động của các cơ quan trong cơ thể người và mối liên hệ giữa con người và môi trường. + Nhân văn: Tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người, các thành quả lao động, sáng tạo của con người, mối quan hệ giữa con người và con người trong gia đình và cộng đồng. * Sức khoẻ: Vệ sinh cá nhân, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường, phòng tránh một số bệnh tật và tai nạn, các vấn đề về sức khoẻ tinh thần. * Xã hội: Học sinh có những hiểu biết ban đầu về xã hội theo thời gian (Biết được một số sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu, điển hình trong lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho đến ngày nay), theo không gian (Biết được nơi bản thân, gia đình và cộng đồng cư trú, sơ lược về đất nước Việt Nam, về các châu lục và các nước trên thề giới). * Thế giới vật chất xung quanh: 2
  3. + Giới tự nhiên vô sinh: các vật thể, các chất + Giới tự nhiên hữu sinh: động, thực vật Ngoài những tri thức cơ bản trên, học sinh còn được cung cấp một số vấn đề về dân số, môi trường. 2. Về kỹ năng: Hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng như: - Biết quan sát và làm một số thí nghiệm thực hành khoa học đơn giản và gần gũi với đời sống hàng ngày. - Biết phân tích, so sánh, dánh giá một số mối quan hệ đơn giản, những dấu hiệu chung và riêng của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội. - Biết giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường, biết phòng tránh một số bệnh tật và tai nạn. - Biết vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống hàng ngày. 3. Về thái độ: hình thành và phát triển ở học sinh thái độ và thói quen như: - Ham hiểu biết khoa học. -Yêu thiên nhiên, đất nước, con người, có ý thức bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường sống. - Hình thành thái độ và cách ứng xử đúng đắn đối với bản thân, gia đình, cộng đồng. Có ý thức thực hiện các quy tắc giữ vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và cộng đồng, sống hoà hợp với môi trường và cộng đồng. III. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÁC MÔN VỀ TN-XH 1. Đặc điểm chương trình Chương trình các môn TN-XH ( Khoa học, Lịch sử và Địa lý) có những đặc điểm sau: 1.1. Chương trình được xây dựng theo quan điểm tích hợp. Dạy học theo tư tưởng tích hợp được UNESCO định nghĩa như sau: " Dạy học theo tư tưởng tích hợp là cách trình bày các khái niệm và nguyên lý khoa học cho phép diễn đạt sự thống nhất cơ bản của tư tưởng khoa học, tránh nhấn mạnh quá muộn hoặc quá sớm sự sai khác giữa các lĩnh vực khoa học khác nhau"(Hội nghị về khoa học giáo dục của UNESCO- Paris, 1972). Dạy học theo tư tưởng tích hợp còn gọi là dạy học hợp nhất các khoa học. Quan điểm tích hợp được thể hiện trong các môn về TN - XH ở các khía cạnh sau: - Các môn về TN-XH xem xét tự nhiên- xã hội- con người trong một thể thống nhất, có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó con người là yếu tố cơ bản. - Chương trình các môn tích hợp kiến thức của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau như: Vật lý, Hoá học, Sinh học, Địa lý, Lịch sử, Sức khoẻ, Dân số, Môi trường, Kỹ năng sống. - Tuỳ theo trình độ nhận thức của HS ở từng giai đoạn mà chương trình có cấu trúc cho phù hợp. Cụ thể: 3
  4. + Chương trình môn TN-XH (lớp1,2,3) được cấu trúc thành 3 chủ đề lớn: Con người và sức khoẻ, Xã hội, Tự nhiên. Chương trình được cấu trúc đồng tâm, được mở rộng và nâng cao dần qua các lớp. + Chương trình môn Khoa học được cấu trúc thành các chủ đề : Con người và sức khỏe, Vật chất và năng lượng, Động vật và thực vật, Môi trường và tài nguyên thiên nhiên. + Chương trình môn Địa lý và Lịch sử được tích hợp theo quan điểm liên môn, bao gồm các kiến thức về lịch sử và địa lý Việt Nam, sơ lược địa lý thế giới. 1.2.Trong chương trình môn cácTN-XH, kiến thức được trình bày từ gần đến xa, từ dễ đến khó nhằm phù hợp đặc điểm nhận thức của học sinh. 1.3. Chương trình các môn về TN-XH (Đặc biệt là môn TN-XH, Khoa học) được cấu trúc linh hoạt, mềm dẻo, thực tiễn, thiết thực, tạo điều kiện cho giáo viên có thể vận dụng các phương pháp mới vào quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Đồng thời, giúp học sinh có thể vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống hàng ngày. 2. Phân phối chương trình: Môn Lớp Số tiết/ tuần Tổng số tiết 1 1 35 2 1 35 TN-XH 3 2 70 Khoa học 4 2 70 5 2 70 Lịch sử và Địa 4 2 (ĐL: 1, LS:1) 70 lý 5 2 (ĐL: 1, LS:1) 70 IV. ĐẶC ĐIỂM SÁCH GIÁO KHOA CÁC MÔN VỀ TN-XH 1. SGK môn TN-XH và môn Khoa học a. Cách trình bày chung: SGK môn TN-XH, môn Khoa học chủ yếu được trình bày bằng những hình ảnh phong phú, sinh động, màu sắc tươi sáng bao gồm kênh hình và kênh chữ phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học. - Khác với SGK môn TN- XH cũ, kênh hình làm nhiệm vụ kép: vừa đóng vai trò cung cấp thông tin, là nguồn tri thức quan trọng của bài học, vừa đóng vai trò chỉ dẫn các hoạt động học tập cho học sinh thông qua các kí hiệu: + " Kính lúp": Yêu cầu học sinh quan sát và trả lời câu hỏi. + " Dấu chấm hỏi": Yêu cầu học sinh liên hệ thực tế và trả lời. + "Cái kéo và quả đấm": Yêu cầu học sinh thực hiện trò chơi học tập. + "Bút chì": Yêu cầu học sinh vẽ những gì đã học. 4
  5. + "Ống nhòm": Yêu cầu HS làm nhiệm vụ thí nghiệm, thực hành. + Bóng đèn toả sáng: bạn cần biết. - Kênh chữ: Chủ yếu là các câu hỏi, các lệnh yêu cầu học sinh làm việc, trả lời câu hỏi. Ở một số bài ở lớp 2 và lớp 3 và nhất là trong môn Khoa học, kênh chữ đã được tăng cường, đóng vai trò là nguồn cung cấp thông tin của bài học. b. Cách trình bày một chủ đề: Mỗi chủ đề đều có một trang riêng để giới thiệu tên chủ đề và một hình ảnh tượng trưng cho chủ đề đó. Mỗi chủ đề được phân biệt bằng một dải màu và một hình ảnh khác nhau. Cụ thể: Chủ đề "Con người và sức khoẻ" được phân biệt bởi màu hồng với kí hiệu là một cậu bé; chủ đề "Xã hội" được phân biệt bởi màu xanh lá cây với kí hiệu là một cô bé; chủ đề "Tự nhiên" được phân biệt bởi màu xanh da trời và có kí hiệu là một ông Mặt Trời. Riêng SGK môn Khoa học: chủ đề" Con người và sức khoẻ" được kí hiệu là 2 học sinh nam, nữ; chủ đề " Vật chất và năng lượng" có kí hiệu Mặt trời; chủ đề " Động vật và thực vật" có kí hiệu là 2 bông hoa hướng dương; chủ đề "Môi trường và tài nguyên thiên nhiên" có kí hiệu là bầu trời xanh. c. Cách trình bày một bài học: Mỗi bài học được trình bày gọn trong hai trang mở liền nhau để học sinh tiện theo dõi. So với sách giáo khoa cũ, cấu trúc của mỗi bài học linh hoạt, mềm dẻo hơn. Có thể bắt đầu bằng những câu hỏi nhằm yêu cầu học sinh huy động vốn hiểu biết của mình hoặc liên hệ thực tế rồi mới đi đến phát hiện kiến thức mới của bài qua việc quan sát các hình ảnh trong SGK hay các mẫu vật. Cũng có thể bắt đầu bằng lệnh yêu cầu học sinh quan sát tranh ảnh trong SGK hay quan sát thiên nhiên, học ngoài hiện trường để tìm ra kiến thức mới rồi mới tới những câu hỏi nhằm yêu cầu học sinh vận dụng những điều đã học vào thực tiễn cuộc sống. Kết thúc bài học thường là trò chơi hoặc yêu cầu học sinh vẽ, hoặc tiến hành các thí nghiệm, hoặc thực hành những điều mà các em đã học. Với cấu trúc như vậy, mỗi bài học là một chuỗi các trình tự hoạt động học tập của học sinh, đồng thời giúp cho giáo viên lựa chọn các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp. Cuốn sách được coi là người bạn của HS, vì vậy, cách xưng hô với học sinh là "bạn". 2. Sách giáo khoa môn Lịch sử và Địa lý a. Khổ sách: 17 x 24. b. Cách trình bày chung của cuốn sách: - Kênh chữ: Khác với SGK môn TN-XH 1,2,3, trong SGK môn Lịch sử và Địa lý kênh chữ đóng vai trò chủ yếu trong việc cung cấp kiến thức, thể hiện nội dung trọng tâm của bài được đặt trong phần đóng khung và hệ thống câu hỏi cuối bài. Ngoài ra còn có những câu hỏi và lệnh ở giữa bài được in nghiêng để học sinh dễ nhận biết và được dùng để hướng dẫn HS làm việc với kênh hình và liên hệ thực tế để tìm ra kiến thức mới. 5
  6. - Kênh hình: So với SGK phần Lịch sử và Địa lý trước đây, kênh hình được tăng lên không những về số lượng mà còn cả về thể loại. Kênh hình không chỉ minh hoạ cho kênh chữ mà còn là nguồn cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng cho HS. c. Cách trình bày một bài học: Khác với SGK môn TN-XH và môn Khoa học, cấu trúc mỗi bài học trong môn Lịch sử và Địa lý gồm có 3 phần: - Phần cung cấp kiến thức bằng kênh hình, kênh chữ. - Phần câu hỏi hoặc yêu cầu các hoạt động học tập: + Câu hỏi hoặc yêu cầu các hoạt động học tập được in nghiêng ở giữa bài gợi ý giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động để khai thác thông tin, rèn luyện kỹ năng. + Câu hỏi ở cuối bài nhằm giúp giáo viên kiểm tra việc thực hiện mục tiêu của bài và củng cố kiến thức của học sinh sau mỗi bài học. - Phần tóm tắt trọng tâm của bài được đóng khung màu. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 1: 1. Phân tích mục tiêu của các môn về Tự nhiên và Xã hội 2. Phân tích đặc điểm chương trình các môn về Tự nhiên và Xã hội. Cho ví dụ minh hoạ. 3. Phân tích đặc điểm sách giáo khoa các môn: Tự nhiên và Xã hội, Khoa học, Lịch sử và Địa lý. Chương II PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC MÔN VỀ TN - XH I. ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC MÔN VỀ TN – XH Một trong những vấn đề trọng tâm của việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa ở bậc tiểu học nói chung, trong các môn về TN-XH nói riêng là đổi mới PPDH. Đổi mới PPDH được hiểu là đưa các PPDH mới vào nhà trường trên cơ sở phát huy mặt tích cực của các PPDH truyền thống nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Từ đặc điểm chương trình và SGK các môn về TN-XH, từ quan điểm đổi mới PPDH ở bậc tiểu học, việc sử dụng PPDH các môn về TN-XH cần dựa trên các định hướng cơ bản sau: - Đề cao vai trò chủ thể của người học: Đây chính là cách dạy học hướng tập trung vào học sinh, học sinh thực sự là chủ thể nắm tri thức, rèn luyện kỹ năng. Trong dạy học các môn TN-XH, thay cho việc chủ yếu là giảng giải, thuyết trình, đọc, nói theo tài liệu có sẵn, GV cần huy động tối đa kinh nghiệm và vốn tri thức có sẵn của HS để tổ chức cho các em tự phát hiện tri thức mới của bài học. GV thiết kế, hệ thống câu hỏi, bài tập giao cho HS thực hiện với sự hướng dẫn, giúp đỡ khi cần thiết, tổ chức các hoạt động như quan sát, thảo luận nhóm, trò chơi học tập qua đó giúp HS lĩnh hội kiến thức của bài học một cách tích cực, chủ động. 6
  7. - Đưa các PPDH mới vào quá trình dạy học các môn về TN-XH trên cơ sở phát huy những ưu điểm của các PPDH truyền thống nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Trong dạy học các môn về TN-XH không phủ nhận việc sử dụng các PPDH truyền thống như gỉang giải, hỏi đáp Tuy nhiên, GVcần sử dụng các PPDH này theo quan điểm phát triển, kích thích, phát huy vai trò chủ động, tích cực nhận thức của HS, tạo mọi điều kiện cho HS được tham gia tích cực vào việc xây dựng bài học. Bên cạnh phát huy ưu điểm của các PPDH truyền thống, cần vận dụng một cách linh hoạt các PPDH mới như thảo luận, điều tra, đóng vai, động não Đây là các PPDH yêu cầu HS phải hoạt động tích cực với các nguồn tri thức như vật thật, tranh ảnh, sơ đồ ,đồng thời vận dụng vốn tri thức, vốn hiểu biết của mình để tự phát hiện kiến thức của bài học. - Liên quan đến việc đổi mới PPDH, đòi hỏi phải đổi mới các hình thức tổ chức dạy học, đổi mới cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, đổi mới cách đánh giá trong dạy học các môn về TN-XH. II. HỆ THỐNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC MÔN VỀ TN-XH Các môn về TN-XH tích hợp kiến thức của các ngành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Vì vậy phương pháp dạy học các môn này cũng rất phong phú và đa dạng. Trong các giáo trình giáo dục học dành cho các hệ đào tạo giáo viên tiểu học ở các trường sư phạm hiện nay, các nhà giáo dục học vẫn sử dụng cách phân loại các PPDH theo nguồn tri thức và đặc điểm tri giác thông tin theo các nhóm sau: -Nhóm các phương pháp dạy học dùng lời. -Nhóm các phương pháp dạy học trực quan. -Nhóm các phương pháp dạy học thực hành. Tuy nhiên, căn cứ vào đặc điểm các môn về TN-XH, vào đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học, theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học tiểu học, các phương pháp dạy học được dùng phổ biến trong dạy học các môn về TN-XH là: các phương pháp thuyết trình, hỏi đáp, quan sát, thí nghiệm, kể chuyện, điều tra, thảo luận 1. Các phương pháp thuyết trình: 1.1.Khái niệm: Thuyết trình là phương pháp dạy học thông dụng, trong đó giáo viên dùng lời nói để trình bày, giải thích nội dung bài học một cách chi tiết, dễ hiểu cho học sinh tiếp thu. 1.2. Các dạng thuyết trình được sử dụng trong dạy học các môn TN-XH: a. Giảng giải: Là dạng thuyết trình, trong đó giáo viên dùng lời nói của mình để làm sáng rõ những khái niệm, thuật ngữ, bản chất lô gic của một hiện tượng nào đó, những mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội. 7
  8. Phương pháp này thường được sử dụng trong các bài học lĩnh hội tri thức mới về những vấn đề khó, phức tạp mà học sinh không đủ khả năng tự tìm hiểu qua các hoạt động độc lập. Giảng giải còn được dùng để hướng dẫn cách thức tiến hành các hoạt động của học sinh. Để sử dụng phương pháp này có hiệu quả, cần lưu ý một số vấn đề sau: - Lời nói của giáo viên phải rõ ràng, chính xác, sinh động, giàu hình ảnh, tốc độ vừa phải. - Ngắn gọn dễ hiểu đối với học sinh: sử dụng những từ ngữ đơn giản, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh nhưng không làm cho học sinh hiểu sai khái niệm khoa học được đề cập đến. - Cần sử dụng giảng giải theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, tránh lạm dụng nó. b. Kể chuyện: Là dạng thuyết trình đặc biệt, được sử dụng trong dạy học môn TN-XH, nhất là với nhóm kiến thức lịch sử. Kể chuyện là cách dùng lời nói trình bày một cách sinh động, có hình ảnh và truyền cảm đến học sinh về một nhân vật, một sự kiện lịch sử, hoặc một hiện tượng tự nhiên, một phát minh khoa học, một vùng đất xa lạ. * Ưu điểm của phương pháp kể chuyện. - Kể chuyện tạo nên một bức tranh sinh động về những sự kiện, hiện tượng, về những nhân vật dễ gây hứng thú cho học tập cho học sinh. - Việc kể chuyện góp phần phát triển trí tưởng tượng cho học sinh. - Sức mạnh của chuyện kể của giáo viên còn ở sự tạo ra cho học sinh niềm tin vào cái Chân - Thiện - Mỹ, vào sức sáng tạo vô hạn của con người trong việc cải tạo thế giới tự nhiên và xã hội. Ngoài ra khi kể lại những câu chuyện, học sinh được tập diễn đạt câu chuyện theo ý tưởng và ngôn ngữ của mình từ đó phát triển ngôn ngữ, tư duy, khả năng diễn đạt của các em. *Tình huống sử dụng : Giáo viên có thể sử dụng phương pháp kể chuyện khi giới thiệu bài mới để gây hứng thú học tập cho học sinh, hoặc có thể sử dụng xen kẽ trong tiết học, vào cuối tiết học, cũng có thể giáo viên sử dụng phương pháp kể chuyện trong phần lớn thời gian của tiết học nhất là khi dạy các bài học trình bày các sự kiện lịch sử như diễn biến của cuộc khởi nghĩa, trận đánh trong phân môn Lịch sử. * Ví dụ về sử dụng phương pháp kể chuyện. - Ví dụ sử dụng phương pháp kể chuyện khi bắt đầu bài học. Không khí gồm những thành phần nào? (Khoa học 4) 8
  9. Để gây hứng thú học tập, kích thích trí tò mò cho học sinh, GV có thể bắt đầu bài học bằng chuyện kể sau : Người đầu tiên trên thế giới phát hiện tra các thành phần của không khí là nhà bác học người Pháp tên là Lavôdiê. Ông đã khám phá ra các thành phần của không khí bằng cách nào? Không khí gồm những thành phần nào? Bài học hôm nay bằng các thí nghiệm chúng ta sẽ trả lời cho các câu hỏi này. * Một số yêu cầu khi sử dụng phương pháp kể chuyện Khi sử dụng phương pháp kể chuyện cần lưu ý một số vấn đề sau : - Lựa chọn các câu chuyện sao cho phù hợp với mục tiêu, nội dung bài học. - Xác định thời điểm sử dụng kể chuyện (vào giai đoạn nào của tiết học). - Dự kiến được các PP, phương tiện có thể sử dụng kết hợp với kể chuyện - Lời kể của giáo viên phải sinh động, hấp dẫn, giàu hình ảnh, uyển chuyển, kết hợp lời kể với cử chỉ, nét mặt, với việc sử dụng các phương tiện trực quan cần thiết. Có như vậy mới lôi cuốn, gây hứng thú cho học sinh. - Dành thời gian cho học sinh thảo luận hoặc cho học sinh kể lại câu chuyện bằng ngôn ngữ của mình. 2. Phương pháp quan sát. Quan sát là phương pháp dạy học đặc trưng của các môn về TN-XH, nhất là môn TN-XH lớp 1,2,3 và môn Khoa học. 2.1 Khái niệm: Phương pháp quan sát là cách thức tổ chức cho học sinh sử dụng các giác quan khác nhau để tri giác các sự vật, hiện tượng một cách có mục đích, có kế hoạch, có trọng tâm, qua đó rút ra được những kết luận khoa học. 2.2. Tác dụng của phương pháp quan sát: Đối với học sinh tiểu học, tư duy trực quan cụ thể còn chiếm ưu thế, thông qua việc tổ chức cho học sinh quan sát mới hình thành cho các em những biểu tượng và những khái niệm đầy đủ, chính xác, sinh động về thế giới tự nhiên và xã hội xung quanh. Qua đó, phát triển năng lực quan sát, năng lực tư duy và ngôn ngữ cho các em. 2.3 Cách thức sử dụng: Giáo viên sử dụng phương pháp quan sát để dạy các bài học mà học sinh có thể chiếm lĩnh kiến thức từ các sự vật, hiện tượng diễn ra trong tự nhiên và xã hội xung quanh hoặc từ tranh ảnh, mô hình, sơ đồ, biểu đồ, mẫu vật. Có thể tổ chức cho học sinh tiến hành quan sát theo trình tự sau: * Lựa chọn đối tượng quan sát: Đối tượng quan sát có thể là các hiện tượng đang xảy ra trong môi trường tự nhiên, trong cuộc sống hàng ngày, vật thật hay tranh ảnh, sơ đồ, bản đồ, mô hình Căn cứ vào mục tiêu, nội dung của từng bài học mà giáo viên lựa chọn đối tượng quan sát cho phù hợp. 9
  10. * Xác định mục đích quan sát: Trong một bài học không phải mọi kiến thức cần cung cấp cho học sinh đều được rút ra từ quan sát, vì vậy khi đã chuẩn bị được đối tượng quan sát cần xác định việc quan sát phải đạt những mục đích nào ? Ví dụ: Quan sát các loại quả (TN-XH 3) Nếu như đối tượng quan sát là các loại quả thật thì giáo viên yêu cầu học sinh sử dụng các giác quan khác nhau để quan sát màu sắc, hình dạng, kích thước, mùi vị, dùng tay (hoặc dao) bổ đôi quả để quan sát thịt và hạt của các loại quả, so sánh chúng với nhau. Trong trường hợp chỉ có tranh vẽ các loại quả thì giáo viên có thể yêu cầu học sinh nhận xét về màu sắc, hình dạng, kích thước, dựa vào kinh nghiệm của mình để nhận xét mùi vị của quả. *Tổ chức và hướng dẫn quan sát: - Có thể tổ chức cho học sinh quan sát cá nhân, theo nhóm hoặc toàn lớp là tuỳ thuộc vào số đồ dùng dạy học có được. Các nhóm có thể cùng quan sát một đối tượng để giải quyết chung một nhiệm vụ học tập hoặc mỗi nhóm có thể có một đối tượng quan sát riêng, giải quyết nhiệm vụ riêng. Nếu đối tượng quan sát là vật thật (động, thực vật tươi sống, các dạng vật liệu thường dùng ), GV cần khuyến khích học sinh sử dụng các giác quan khác nhau vào quá trình quan sát nhằm thu được biểu tượng đầy đủ, chính xác, sinh động về đối tượng. Trong trường hợp đối tượng quan sát là tranh ảnh, sơ đồ, bản đồ, mô hình, các diễn biến thí nghiệm GV hướng dẫn HS sử dụng thị giác để quan sát các đối tượng một cách có mục đích, có kế hoạch. - Cần hướng dẫn HS quan sát đối tượng theo một trình tự nhất định: từ tổng thể đến các chi tiết, bộ phận, từ bên ngoài vào bên trong. - Cần hướng dẫn HS so sánh, liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác đã biết để tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa chúng. *Tổ chức cho HS báo cáo kết quả quan sát: Kết thúc quan sát từng cá nhân hoặc đại diện các nhóm báo cáo kết quả quan sát, cả lớp lắng nghe, bổ sung ý kiến. * Hoàn thiện kết quả quan sát, rút ra kết luận chung. 2.4. Một số điểm lưu ý khi sử dụng PP quan sát Để sử dụng phương pháp quan sát có hiệu quả, cần lưu ý một số điểm sau: - GV cần chuẩn bị chu đáo kế hoạch dạy học, xác định rõ thời điểm tổ chức cho HS quan sát. - Cần chuẩn bị đầy đủ các đối tượng quan sát phù hợp với mục tiêu, nội dung bài học: tranh ảnh, mẫu vật, sơ đồ, bản đồ - GV cần chuẩn bị được hệ thống câu hỏi, bài tập chính để hướng dẫn học sinh quan sát các sự vật, hiện tượng có mục đích, có trọng tâm. Những câu hỏi đó cần bắt đầu bằng những từ chỉ hành động mà muốn trả lời được học sinh phải sử dụng các giác 10
  11. quan của mình để phán đoán, cảm nhận sự vật và hiện tượng (hãy nhìn, hãy nghe, hãy sờ, hãy ngửi, nếm). Hệ thống câu hỏi này cũng cần được sắp xếp từ những câu hỏi khái quát (nhằm hướng dẫn các em quan sát tổng thể trước) đến những câu hỏi chi tiết, cụ thể (nhằm hướng dẫn các em quan sát các bộ phận); những câu hỏi hướng dẫn học sinh quan sát từ bên ngoài rồi mới đi vào bên trong. Tiếp theo là những câu hỏi yêu cầu học sinh phải so sánh liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác đã biết để tìm ra những đặc điểm giống nhau hoặc khác nhau. Cuối cùng là những câu hỏi yêu cầu học sinh dẫn đến nhận xét hay kết luận chung về sự vật, hiện tượng được quan sát. - Việc tổ chức, hướng dẫn quan sát cần phải phức tạp dần phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh ở các lứa tuổi khác nhau. Ví dụ, ở các lớp 1,2,3 chủ yếu cho HS quan sát các sự vật hiện tượng dưới sự hướng dẫn trực tiếp của GV, chỉ yêu cầu các em phát biểu kết quả quan sát bằng lời, chưa yêu cầu ghi chép. ở các lớp 4,5 nhiệm vụ quan sát cần được nâng cao hơn. Có thể hướng dẫn HS độc lập quan sát có hệ thống không chỉ trên lớp, mà còn quan sát các sự vật, hiện tượng diễn ra trong một thời gian dài nhất định, có yêu cầu ghi chép kết qủa, rút ra nhận xét, viết tường trình. 2.5 Ví dụ về sử dụng PP quan sát Theo tinh thần đổi mới PPDH ở tiểu học, có thể tổ chức cho học sinh quan sát kết hợp thảo luận nhóm để các em có thể rút ra kiến thức của bài học. Lá cây (TN-XH 3). + Lựa chọn đối tượng quan sát: Mục tiêu chủ yếu của bài này là giúp học sinh nhận biết được các loại lá cây có hình dạng, kích thước khác nhau, đa số lá cây có màu xanh, một số lá có màu đỏ hoặc màu vàng. Lá cây có các phần: Cuống lá, phiến lá, trên phiến lá có gân lá. Ở bài này đối tượng quan sát tốt nhất là các loại lá cây thật. Giáo viên và học sinh chuẩn bị một số lá cây có hình dạng, kích thước khác nhau như: Lá trầu không, lá tía tô, lá lúa, lá phượng, lá rau ngót. +Tổ chức cho học sinh quan sát kết hợp thảo luận nhóm: Giáo viên chia học sinh thành từng nhóm, phát phiếu giao việc và các loại lá cây cho các nhóm. Trong phiếu giao việc giáo viên xác định rõ mục đích quan sát , hướng dẫn học sinh quan sát một cách tổng thể về lá cây, thảo luận về đặc điểm của các loại lá cây, điền kết quả vào phiếu giao việc. Phiếu giao việc : Câu1. Em hãy quan sát các loại lá cây và điền vào bảng sau: TT Tên lá Màu sắc Hình dạng Kích thước 11
  12. Câu 2. Hãy chỉ trên từng lá đâu là cuống lá, phiến lá, gân lá. Câu3. Các loại lá cây có những đặc điểm gì giống và khác nhau? Các nhóm trên cơ sở phiếu giao việc và hướng dẫn của giáo viên tiến hành quan sát, thảo luận về màu sắc, hình dạng, kích thước của các loại lá, chỉ ra được lá cây thường có màu xanh lục , cũng có lá có màu đỏ hoặc màu vàng, các lá khác nhau có hình dạng, kích thước khác nhau. Kết thúc thảo luận nhóm, đại diện các nhóm lên trình bày kết quả quan sát của mình, cả lớp lắng nghe, bổ sung ý kiến, giáo viên nhận xét, ghi những kết luận lên bảng. Để giúp học sinh nắm được cấu tạo của lá, các nhóm tiếp tục quan sát, thảo luận và ghi kết quả quan sát vào câu 2 của phiếu. Các nhóm quan sát thảo luận và đưa ra được kết luận : lá có các phần: Cuống lá, phiến lá, trên phiến lá có gân lá. *Phần tổng kết : Giáo viên gọi học sinh nêu đặc điểm các loại lá cây và các phần của chúng. Giáo viên cũng dành ít phút để biểu dương các nhóm đã tích cực quan sát, có kết quả quan sát tốt. 3. Phương pháp hỏi đáp. 3.1. Khái niệm: Phương pháp hỏi đáp là cách thức đối thoại giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau dựa trên hệ thống câu hỏi nhằm dẫn dắt học sinh đi đến những kết luận khoa học, hoặc vận dụng vốn hiểu biết của mình để tìm hiểu những vấn đề học tập, vấn đề của cuộc sống, trong tự nhiên và xã hội. 3.2. Tác dụng của phương pháp hỏi đáp - Thông qua việc hỏi đáp giáo viên tạo ra trong học sinh nhu cầu nhận thức và các em được tham gia giải quyết những vấn đề do bài học đặt ra. - Thông qua việc hỏi đáp giáo viên có thể dễ dàng nắm được năng lực học tập, trình độ nhận thức của học sinh, từ đó điều chỉnh hoạt động dạy của mình để nâng cao hiệu quả dạy học. - Khi sử dụng phương pháp hỏi đáp, không khí lớp học sôi động hơn, học sinh tích cực, hứng thú học tập hơn, do đó phát triển được tư duy độc lập, tính tích cực nhận thức và năng lực diễn đạt bằng lời của học sinh. 3.3. Cách thức sử dụng: Tuỳ theo yêu cầu sư phạm, giáo viên có thể sử dụng 3 dạng hỏi đáp : + Hỏi đáp tái hiện: Loại hỏi đáp thường được sử dụng để kiểm tra bài cũ, ôn tập, hoặc để khai thác vốn sống, vốn hiểu biết của học sinh làm điểm tựa cho việc lĩnh hội tri thức mới của bài học. Ví dụ: Kể tên một vài bệnh về tim mạch mà bạn biết. (bài 9: Phòng bệnh tim mạch, TN-XH 3) 12
  13. -Kể tên một số thức ăn chứa nhiều chất đạm mà bạn biết.(bài 5. Vai trò của chất đạm và chất béo. Khoa học 4) + Hỏi đáp thông báo: Trên cơ sở những kiến thức tối thiểu làm điểm tựa, giáo viên đặt câu hỏi cho HS nhằm dẫn dắt các em lĩnh hội tri thức mới. Ví dụ: Thú con mới sinh ra đã có hình dạng giống thú mẹ chưa? Thú con mới ra đời được thú mẹ nuôi bằng gì? (Bài 59. Sự sinh sản của thú. Khoa học 5) + Hỏi đáp có tính chất tìm tòi khám phá: Dạng hỏi đáp này có tác dụng kích thích sự suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo của học sinh. Đó là những câu hỏi yêu cầu học sinh dựa vào kiến thức đã học để suy luận, giải thích được nguyên nhân, bản chất, mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Ví dụ: -Hãy giải thích tại sao ban ngày gió từ biển thổi vào đất liền và ban đêm gió từ đát liền thổi ra biển? (Bài 37: Tại sao có gió? Khoa học 4) - Tại sao châu Phi có khí hậu khô nóng bậc nhất thế giới? (Bài 23. Châu Phi, Lịch sử và Địa lý 5). Trong quá trình dạy học giáo viên cần sử dụng linh hoạt các dạng hỏi đáp trên, cần chú trọng tới dạng hỏi đáp tìm tòi khám phá vì nó phát huy được tính tích cực, độc lập, tư duy sáng tạo của học sinh. 3.4. Một số điểm lưu ý khi sử dụng phương pháp hỏi đáp. Nghệ thuật đặt câu hỏi là yếu tố quyết định thành công của phương pháp hỏi đáp. Vì vậy, khi đặt câu hỏi giáo viên cần lưu ý một số điểm sau: - Phải rõ ràng, chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu - Phải lôgic, phù hợp với nội dung bài dạy - Phải phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh - Phải kích thích được sự suy nghĩ, tìm tòi của học sinh. - Tránh đặt những câu hỏi chung chung, quá dễ hoặc quá khó, tránh đặt những câu hỏi trong đó đã có sẵn câu trả lời, học sinh có thể đoán ra mà không cần động não gì cả. Tránh đặt những câu hỏi yêu cầu học sinh đoán mò hoặc chỉ trả lời có hoặc không. -Cần lưu ý rèn luyện cho học sinh biết cách trả lời thành câu tương đối hoàn chỉnh với vốn từ ngữ của các em. Mặt khác phải dạy cho các em biết cách tự đặt ra những câu hỏi trong quá trình học tập. 3.5. Ví dụ minh hoạ Bài 60. Nhu cầu không khí của thực vật (Khoa học 5) Để giúp học sinh tìm hiểu về sự trao đổi khí của thực vật trong quá trình quang hợp và hô hấp, trước hết GV có thể đặt câu hỏi yêu cầu HS ôn lại các kiến thức cũ: - Không khí gồm những thành phần nào? 13
  14. - Không khí có vai trò như thế nào đối với con người, động, thực vật? Tiếp đến, GV yêu cầu HS quan sát hình vẽ trang 120, 121 SGK, và dựa vào kiến thức lớp dưới để trả lời các câu hỏi (có thể cho HS làm việc theo cặp, tự đặt câu hỏi cho nhau và trả lời): - Trong quá trình quang hợp thực vật hấp thụ khí gì và thải ra khí gì? - Trong quá trình hô hấp thực vật hấp thụ khí gì và thải ra khí gì? - Quá trình quang hợp xảy ra khi nào? - Quá trình hô hấp xảy ra khi nào? - Điều gì xảy ra với thực vật nếu một trong hai quá trình trên bị ngừng? Trên cơ sở câu trả lời của HS, GV kết luận: Thực vật cần không khí để quang hợp và hô hấp. Nếu thiếu không khí thì cây sẽ bị chết, dù được cung cấp đầy đủ nước, chất khoáng và ánh sáng. 4. Phương pháp thí nghiệm. Thí nghiệm là phương pháp được sử dụng phổ biến trong dạy học môn Khoa học vì đây là môn học tích hợp kiến thức của nhiều ngành khoa học thực nghiệm (Vật lý, Hoá học, Sinh học). 4.1. Tác dụng của phương pháp thí nghiệm Đối với học sinh tiểu học, tư duy trực quan cụ thể còn chiếm ưu thế, thí nghiệm tuy không nhiều trong chương trình nhưng lại có ý nghĩa lớn lao trong việc tạo ra niềm tin có cơ sở khoa học vào kiến thức mới. Học sinh dễ hiểu các hiện tượng phức tạp, do đó kích thích được sự say mê khoa học và hứng thú học tập. - Trong quá trình tiến hành thí nghiệm, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh quan sát, phán đoán, phân tích, so sánh, tổng hợp để rút ra những kết luận khoa học, các thao tác tư duy được phát triển: - Việc làm thí nghiệm góp phần hình thành cho học sinh kỹ năng kỹ xảo thực hành và vận dụng tri thức vào thực tiễn. 4.2. Đặc điểm thí nghiệm ở tiểu học: - Khác với các lớp trên, ở tiểu học thí nghiệm chỉ tìm hiểu những hiện tượng về định tính mà chưa đi sâu vào định lượng. - Các thí nghiệm trong chương trình Khoa học lớp 4,5 có thể phân thành các loại sau: + Loại nghiên cứu mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết qủa. + Loại nghiên cứu điều kiện (cái này là điều kiện của cái kia). + Loại nghiên cứu tính chất của vật. 4.3. Cách thức sử dụng: Thí nghiệm có thể tiến hành theo trình tự sau: Bước 1: Xác định mục đích thí nghiệm 14
  15. Việc xác định đúng mục đích thí nghiệm là rất quan trọng, giúp cho việc biểu diễn thí nghiệm đúng mục tiêu đề ra, thí nghiệm đạt được hiệu quả cao. Bước 2: Vạch kế hoạch thí nghiệm: Giáo viên cần liệt kê những dụng cụ thí nghiệm cần có và những điều kiện để tiến hành thí nghiệm. Đồng thời phải vạch được kế hoạch cụ thể: làm gì trước? làm gì sau? thực hiện thao tác gì trên vật nào? quan sát dấu hiệu gì? ở đâu? bằng giác quan nào hoặc bằng phương tiện gì? Mặt khác, việc vạch kế hoạch thí nghiệm một cách đúng đắn có thể khắc phục được một số khó khăn khi gặp những bài học có nhiều thí nghiệm chứng minh mà thời gian ở lớp có hạn. Bước 3: Tiến hành thí nghiệm: - Giáo viên giới thiệu dụng cụ thí nghiệm, cách bố trí, lắp rắp thí nghiệm, đề ra những mâu thuận nhận thức để gây hứng thú, trí tò mò của học sinh đối với thí nghiệm. Có thể tổ chức cho HS tiến hành thí nghiệm theo từng cá nhân, theo nhóm hoặc cả lớp tùy theo mục tiêu, đặc điểm của từng thí nghiệm . - Giáo viên cần sử dụng hệ thống câu hỏi dẫn dắt phù hợp với tiến trình thí nghiệm (câu hỏi trước khi, trong khi và sau khi làm thí nghiệm). Bước 4: Tổng kết thí nghiệm và liên hệ thực tế: ở bước này giáo viên hoặc hoc sinh nêu lại diễn biến thí nghiệm, rút ra những kết luận khoa học. Giáo viên nêu một số ứng dụng trong cuộc sống có liên quan đến thí nghiệm hoặc giải thích một số hiện tượng xẩy ra trong tự nhiên. 4.3. Một số yêu cầu khi sử dụng phương pháp thí nghiệm *Đối với thí nghiệm: -Thí nghiệm phải bảo đảm tính vừa sức, rõ ràng, hiệu quả và an toàn. -Các thiết bị cần đảm bảo tính khoa học và tính trực quan. *Đối với giáo viên: + Khi biểu diễn thí nghiệm phải làm sao cho tất cả học sinh đều nhìn rõ các bộ phận và các chi tiết chính của dụng cụ thí nghiệm, nếu cần đưa đến từng bàn cho học sinh quan sát. + Thí nghiệm phải đảm bảo thành công: Muốn vậy giáo viên phải chuẩn bị chu đáo và thử đi thử lại nhiều lần. +Phải chuẩn bị chu đáo hệ thống câu hỏi dẫn dắt theo tiến trình của thí nghiệm. +Trong tiến trình thí nghiệm cần phối hợp một cách hợp lý các PPDH khác. 4.4. Ví dụ minh họa Bài 30 " Làm thế nào để biết có không khí?" (Khoa học 4) I. Mục tiêu: Sau bài học HS biết: - Không khí tồn tại khắp nơi trên trái đất 15
  16. - Làm thí nghiệm để chứng minh không khí có ở quanh mọi vật và các chỗ rỗng trong các vật. - Hiểu khái niệm khí quyển II. Đồ dùng dạy học: - Chuẩn bị các đồ dùng DH theo nhóm: các túi ni lông, dây chun, đinh (hoặc tăm nhọn), chậu, chai không, miếng bọt biển hoặc một mẩu đất khô. III. Hoạt động dạy học Hoạt động 1: TN chứng minh không khí có ở quanh mọi vật Mục tiêu: Phát hiện sự tồn tại của không khí và không khí có ở quanh mọi vật. Cách thức tiến hành: -GV chia HS thành các nhóm, yêu cầu các nhóm chuẩn bị các dụng cụ TN: túi ni lông nhỏ, dây chun. GV hướng dẫn các nhóm làm cho không khí vào đầy túi ni lông rồi lấy dây chun buộc lại. - Các nhóm trả lời câu hỏi: -Cái gì đã làm cho túi ni lông căng phồng? -Điều đó chứng tỏ xung quanh ta có gì? GV hướng dẫn HS lấy đinh (hoặc tăm nhọn) đâm thủng túi ni lông đang căng phồng Hiện tượng gì đã xảy ra? để tay lên chỗ thủng ta có cảm giác gì? Qua TN trên chúng ta có thể rút ra kết luận gì? Hoạt động 2: Thí nghiệm chứng minh không khí có trong những chỗ rỗng của mọi vật. Mục tiêu: HS biết được không khí có ở khắp nơi, kể cả trong những chỗ rỗng của vật. Cách tiến hành: GV yêu cầu các nhóm chuẩn bị các dụng cụ TN lên bàn: chậu thuỷ tinh, chai rỗng, miếng bọt biển (hoặc mẩu đất khô) Câu hỏi trước khi làm TN: Điều gì sẽ xảy ra khi ta nhúng chìm chai rỗng và miếng bọt biển vào chậu nước? -Các nhóm tiến hành TN, quan sát và mô tả hiện tượng khi nhúng chìm chai và miếng bọt biển vào chậu nước. -Các nhóm báo cáo kết quả và giải thích tại sao có nhiều bong bóng khí thoát ra từ miệng chai và tại sao có nhiều bọt nước nhỏ li ti thoát ra từ miếng bọt biển qua 2 thí nghiệm. Qua các thí nghiệm trên chúng ta có thể rút ra kết luận gì về sự tồn tại của không khí? 16
  17. Kết luận: Không khí có ở khắp nơi: ở xung quanh mọi vật và mọi chỗ rỗng bên trong của vật. Hoạt động 3: Tìm hiểu khái niệm khí quyển - GV cho HS tìm hiểu khái niệm khí quyển và tìm một số ví dụ chứng tỏ không khí có ở khắp nơi. 5. Phương pháp thực hành Phương pháp thực hành được sử dụng phổ biến trong dạy học các môn về TN-XH, nhất là các bài có nội dung về giáo dục sức khoẻ. * Tác dụng của phương pháp thực hành -Củng cố những kiến thức mà học sinh đã lĩnh hội -Hình thành, củng cố kỹ năng cho học sinh -Hình thành một số thói quen tốt cho học sinh -Làm cho giờ học sinh động, học sinh học tập hứng thú, tích cực * Cách thức sử dụng -Thực hành có thể thực hiện trong tiết học: thực hành rửa mặt, thực hành đánh răng, thực hành quét dọn lớp học. -Thực hành có thể tiến hành ngoài lớp học như: thực hành vệ sinh trường học, vệ sinh nhà ở, vệ sinh môi trường ở địa phương. -Có thể tổ chức cho học sinh thực hành theo cá nhân, theo nhóm, cả lớp - Thực hành có thể tổ chức dưới dạng trò chơi học tập. Ví dụ trò chơi "Dự báo thời tiết" *Ví dụ về sử dụng phương pháp thực hành Bài 7. Thực hành: Đánh răng và rửa mặt (TN-XH 1) I. Mục tiêu - Giúp học sinh biết đánh răng và rửa mặt đúng cách - Biết áp dụng chúng vào việc làm vệ sinh cá nhân hàng ngày. II. Đồ dùng dạy học -GV: chuẩn bị mô hình hàm răng, bàn chải, kem đánh răng, chậu rửa mặt, xà phòng thơm, các xô chậu đựng nước sạch. HS: Mỗi học sinh chuẩn bị 1 bàn chải, cốc, khăn mặt III. Hoạt động dạy học Hoạt động 1: Thực hành đánh răng Mục tiêu: giúp học sinh biết đánh răng đúng cách Cách tiến hành: Bước 1: Làm việc cả lớp GV cho học sinh quan sát mô hình hàm răng và đặt câu hỏi: 17
  18. - Đâu là mặt trong của răng? - Đâu là mặt ngoài của răng? -Đâu là mặt nhai của răng? Một số học sinh chỉ vào mô hình hàm răng và trả lời Hàng ngày các em chải răng như thế nào? (gọi một số HS trả lời và lên làm thử các động tác chải răng bằng bàn chải GV mang đến lớp, trên mô hình hàm răng. Một số học sinh nhận xét bạn nào làm đúng, bạn nào làm sai. GV hỏi cả lớp : Cách chải răng như thế nào là đúng? GV làm mẫu lại động tác đánh răng với mô hình hàm răng, đồng thời giải thích cách làm: + Chuẩn bị cốc và nước sạch + Lấy kem đánh răng vào bàn chải + Chải răng theo hướngđưa bàn chải từ trên xuống, từ dưới lên + Lần lượt chải mặt ngoài, mặt trong và mặt nhai của răng. + Súc miệng kỹ + Rửa sạch và cất bàn chải vào đúng nơi qui định sau khi đánh răng. Bước 2: Làm việc cá nhân Lần lượt từng cá nhân thực hành đánh răng theo chỉ dẫn trên của GV. GV theo dõi, hướng dẫn, giúp học sinh đánh răng đúng cách. Hoạt động 2: Thực hành rửa mặt Mục tiêu: giúp HS biết rửa mặt đúng cách Cách tiến hành: Bước 1: Giáo viên hướng dẫn chung cho cả lớp GV nêu câu hỏi: Ai có thể cho cả lớp biết: rửa mặt như thế nào là đúng cách và hợp vệ sinh nhất? Vì sao? Một số học sinh trả lời câu hỏi và thực hiện động tác rửa mặt, cả lớp nhận xét đúng, sai. GV giải thích và hướng dẫn cách rửa mặt hợp vệ sinh: + Chuẩn bị khăn sạch, nước sạch. + Rửa tay sạch bằng xà phòng + Dùng hai bàn tay đã sạch hứng nước sạch để rửa mặt, xoa kỹ xung quanh mắt, trán, hai má, miệng và cằm + Dùng khăn sạch lau khô vùng mắt trước rồi mới lau các nơi khác. + Vò sạch khăn và vắt khô, dùng khăn lau vành tai và cổ. + Cuối cùng giặt khăn mặt bằng xã phòng và phơi ra nắng hoặc chỗ khô ráo, thoáng. 18
  19. Bước 2: Từng học sinh thực hành rửa mặt theo hướng dẫn của GV (nếu đủ điều kiện về vệ sinh) Dặn dò: GV nhắc nhở học sinh đánh răng vào buổi sáng sau khi thức dậy và buổi tối sau khi ăn, thường xuyên rửa mặt sạch sẽ bằng nước sạch, khăn sạch. 6. Phương pháp thảo luận. Thảo luận là sự bàn bạc, trao đổi ý kiến giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau về một vấn đề học tập hoặc một vấn đề về cuộc sống. Trong dạy học các môn về TN-XH, thảo luận được sử dụng rộng rãi: Thảo luận có thể là một phần của bài học để tìm tòi, xác định vấn đề hoặc để nhận định, đánh gía một vấn đề. Về hình thức, thảo luận có thể được tiến hành theo nhóm nhỏ hoặc cả lớp. * Thảo luận cả lớp: Khác với phương pháp hỏi đáp, khi tổ chức cho học sinh thảo luận cả lớp học sinh giữ vai trò chính trong việc nêu câu hỏi và trả lời. Nếu một vấn đề đưa ra được phân tích ở nhiều khía cạnh và có những ý kiến trái ngược nhau xuất hiện phải tranh luận sôi nổi mới tìm ra kết luận, đó là những dấu hiệu chứng tỏ giáo viên sử dụng phương pháp thảo luận thành công. Muốn thảo luận thành công giáo viên cần phải đặt kế hoạch một cách cẩn thận, trước hết ở khâu lựa chọn chủ đề thảo luận. Chủ đề thảo luận được lựa chọn có thể là chủ đề mở, có thể xem xét chúng ở nhiều mặt, nhiều khía cạnh theo những quan điểm khác nhau. Ví dụ: Chúng ta nên ăn uống như thế nào để cơ thể khoẻ mạnh?( TN-XH 2) Bạn đã làm gì để môi trường xung quanh nhà bạn sạch sẽ?( TN-XH 2) - Khi ở trường, bạn nên chơi và không nên chơi những trò chơi gì? Tại sao? (TN-XH 3).v.v Sau khi nêu chủ đề cần thảo luận cho cả lớp, giáo viên có thể lấy tinh thần xung phong hoặc cử một học sinh nói đầu tiên. Giáo viên theo dõi tiến triển của cuộc thảo luận, hướng ý kiến của học sinh theo đúng kế hoạch dự kiến. *Thảo luận nhóm: Thảo luận nhóm tạo điều kiện để học sinh trình bày ý kiến, quan điểm của mình về một vấn đề học tập trong một khoảng thời gian nhất định. Từng thành viên trong nhóm có thể bày tỏ ý kiến của mình, cùng lắng nghe ý kiến của các bạn khác để hoàn thành nhiệm vụ chung của cả nhóm. * Cách thức tiến hành: Thảo luận nhóm có thể tiến hành theo các bước sau: - Chia nhóm : tuỳ theo số lượng học sinh trong lớp mà GV có thể chia nhóm cho phù hợp, có thể chia theo vị trí bàn học 2 hoặc 4, hoặc 6 học sinh. 19
  20. - Tổ chức cho HS thảo luận nhóm: Ổn định tổ chức, giao nhiệm vụ thảo luận cho các nhóm thông qua phiếu học tập hoặc lời chỉ dẫn trực tiếp của GV. Các nhóm tiến hành bàn bạc thảo luận để hoàn thành nhiệm vụ được giao, GV theo dõi hoạt động của các nhóm, kịp thời giúp đỡ những nhóm gặp khó khăn. - Tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả thảo luận nhóm: Kết thúc thời gian thảo luận nhóm đại diện các nhóm lên trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình. Cả lớp lắng nghe, bổ sung ý kiến. Trên cơ sở ý kiến của học sinh, GV nhận xét, đưa ra kết luận chung. Để thảo luận nhóm có kết quả, giáo viên cần tập cho học sinh cách làm việc trong nhóm, từ việc chia nhóm, cử nhóm trưởng, thay mặt nhóm để trình bày kết quả làm việc trước lớp. Ví dụ: Bài 32 "Làng quê và đô thị" (TN-XH3) Khi dạy bài này giáo viên có thể tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm như sau: + Giáo viên chia học sinh thành từng nhóm (mỗi nhóm từ 4-6 em), phát phiếu giao việc cho từng nhóm( phiếu giao việc của các nhóm như nhau). Nội dung phiếu giao việc như sau: Em hãy quan sát các hình 1,2,3 trang 62 SGK để tìm ra sự khác biệt giữa làng quê và đô thị rồi ghi vào bảng sau: Đặc điểm Làng quê Đô thị - Phong cảnh, nhà cửa, - Hoạt động sống chủ yếu của nhân dân. - Đường sá, hoạt động giao thông. + Các nhóm ổn định tổ chức, tiến hành thảo luận để tìm ra những đặc trưng của làng quê và đô thị về phong cảnh, lao động sống của con ngưòi, hoạt động giao thông . Giáo viên theo dõi hoạt động của các nhóm, giúp đỡ những nhóm gặp khó khăn, hướng việc thảo luận của các em vào những vấn đề trọng tâm, cơ bản. + Đại diện các nhóm báo cáo kết quả làm việc của nhóm mình, các nhóm khác bổ sung ý kiến. + Giáo viên kết luận về đặc điểm của làng quê và đô thị: ở làng quê, người dân thường sống bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi, chài lưới và các nghề thủ công, ; xung quanh nhà thường có vườn cây, chuồng trại, ; đường làng nhỏ, ít người và xe cộ qua lại. ở đô thị, người dân thường đi làm trong các công sở, cửa hàng, nhà máy , nhà ở tập trung san sát; đường phố có nhiều người và xe cộ đi lại. Tiếp đó, giáo viên cho học sinh liên hệ mình sống ở làng quê hay đô thị. Để củng cố bài học giáo viên có thể tổ chức trò chơi" Ai nhanh hơn?" GV hoặc HS sưu tầm tranh ảnh về làng quê và đô thị. GV chia lớp thành 2 đội, phát tranh ảnh về làng quê và đô thị cho 2 đội. 20
  21. Cách chơi như sau: Khi GV hô "bắt đầu!" 2 đội phải nhanh chóng chọn và dán ảnh về làng quê hay đô thị vào vị trí thích hợp. Đội nào dán được nhiều tranh về làng quê và đô thị hơn thì đội đó thắng cuộc. 7. Phương pháp điều tra. Điều tra là tìm tòi, khám phá về một vấn đề và để tìm ra câu trả lời cho một vấn đề buộc học sinh phải tiến hành một hoạt động: sưu tầm thông tin, sắp xếp những thông tin đó, rút ra kết luận. Cũng có thể nói điều tra tức là tìm câu trả lời nhờ sưu tầm và phân tích các thông tin, các số liệu. Để hướng dẫn học sinh học tập theo phương pháp điều tra, giáo viên cần lựa chọn các vấn đề phù hợp với trình độ học sinh, cần dự kiến trước và lên kế hoạch hướng dẫn học sinh: + Thu thập thông tin ở đâu ? Như thế nào ? Cách ghi chép ra sao ? Cách phân tích, xử lí thông tin, rút ra kết luận như thế nào ? + Về tổ chức, giáo viên có thể giao nhiệm vụ cụ thể cho từng học sinh hoặc từng nhóm học sinh. Điều tra là một cách học tích cực, trong đó coi trọng việc tổ chức hoạt động độc lập cho học sinh, các em được tích cực tham gia vào toàn bộ quá trình học tập từ việc xác định vấn đề đến việc rút ra kết luận. Trong qúa trình đó các em còn được rèn luyện cách suy nghĩ có phê phán. Một số bài học có thể sử dụng phương pháp điều tra như: -Tỉnh (Thành phố) nơi bạn đang sống (TN-XH 3). -Hoạt động nông nghiệp (TN-XH 3). -Hoạt động công nghiệp, thương mại (TN-XH 3) -Vệ sinh môi trường (TN-XH 3) -Ôn tập: Xã hội (TN-XH 3) -Tìm hiểu lịch sử, địa lý địa phương - Tìm hiểu con người và môi trường III. VẤN ĐỀ LỰACHỌN, VẬN DỤNG PPDH CÁC MÔN VỀ TN-XH. Do nội dung các môn về TN-XH rất phong phú và đa dạng nên các phương pháp dạy học các môn học này cũng rất đa dạng. Bản thân mỗi phương pháp dạy học trên đây dều có những ưu và nhược điểm nhất định, không có phương pháp nào được coi là vạn năng. Do đó, trong quá trình dạy học người giáo viên cần vận dụng chúng hết sức linh hoạt, đảm bảo cho học sinh học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, hứng thú. Khi lựa chọn phương pháp cho một bài dạy cụ thể, cần phải chú ý một số vấn đề sau: + Các phương pháp sẽ dùng có phù hợp với mục tiêu bài dạy không ? 21
  22. + Nội dung bài học này nên sử dụng những phương pháp dạy học nào? Phương pháp nào là chủ đạo, phương pháp nào là hỗ trợ? + Để sử dụng phương pháp này giáo viên và học sinh cần phải chuẩn bị những đồ dùng dạy học gì ? + Trình độ học sinh trong lớp có phù hợp với phương pháp mà giáo viên sẽ sử dụng không ? + Mỗi giáo viên lên lớp có quyền quyết định lựa chọn các phương pháp thích hợp. Vấn đề cơ bản là cần biết lựa chọn những phương pháp dạy học nào tạo điều kiện để học sinh được tham gia vào hoạt động chiếm lĩnh kiến thức một cách tối đa phù hợp với trình độ nhận thức của các em. IV. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC CÁC MÔN VỀ TN-XH 1. Ý nghĩa của phương tiện dạy học các môn về TN-XH. Học sinh tiểu học đang ở lứa tuổi nhận thức cảm tính còn chiếm ưu thế, do đó phương tiện dạy học có vai trò rất lớn. Các môn về TN-XH có nhiều phương tiện dạy học nhất so với các môn học khác ở trường tiểu học cả về số lượng và chủng loại. Có tới 90% số tiết cần sử dụng đồ dùng dạy học ở các mức độ khác nhau. Các phương tiện dạy học có tác dụng: -Giúp cho học sinh thu nhận thông tin về các sự vật, hiện tượng một cách sinh động, đầy đủ, chính xác, qua đó các em đễ hiểu, dễ nhớ kiến thức mới. -Kiểm tra mở rộng, đào sâu những tri thức đã lĩnh hội được. Phát triển hứng thú nhận thức, năng lực quan sát, năng lực phân tích, tổng hợp các hiện tượng. -Giúp cho giáo viên có điều kiện thuận lợi để trình bày bài giảng một cách sinh động, đầy đủ, sâu sắc. Như vậy, các phương tiện dạy học nếu được sử dụng đúng đắn sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu suất lao động của giáo viên và học sinh . 2. Phân loại phương tiện dạy học các môn về TN-XH. Phương tiện dạy học các môn về TN-XH rất phong phú và đa dạng, mỗi loại có những tác dụng, ưu điểm khác nhau. 2.1. Bản đồ, quả địa cầu, sơ đồ, lược đồ: Đây là những phương tiện dạy học không thể thiếu được để giảng dạy các kiến thức về địa lý, lịch sử. Học sinh tiểu học cần phải hiểu được rằng Trái đất được biểu hiện trên bản đồ và quả địa cầu. Một trong những kỹ năng địa lý quan trọng mà giáo viên tiểu học cần hình thành cho học sinh là kỹ năng sử dụng bản đồ , quả địa cầu, sơ đồ, lược đồ , biểu bảng. 2.2. Vật thật: Các vật thật được sử dụng rộng rãi trong các môn TN-XH như các loại động, thực vật tươi sống, các mẫu vật khoáng sản Trong các đồ dùng trực quan thì các vật thật thường có nhều ưu điểm hơn cả vì nó giúp cho việc hình thành biểu tượng sinh động nhất về các sự vật hiện tượng. Đặc biệt với các vật tươi sống còn cho phép hình thành ở học sinh biểu tượng đầy đủ nhất vì 22
  23. với chúng giáo viên có thể lôi cuốn tối đa các giác quan của học sinh vào quá trình quan sát. 2.3. Tranh ảnh: Trong những trường hợp học sinh không thể quan sát trực tiếp các sự vật hiện tượng thì ta thường dùng tranh ảnh để thay thế. Tranh ảnh nhiều khi có tác dung làm đơn giản hoá các sự vật, hiện tượng, làm cho chúng rõ ràng, dễ hiểu, dễ quan sát đối với học sinh. 2.4. Mô hình: Mô hình tạo ra những hình ảnh cụ thể của các sự vật hoặc hiện tượng, thể hiện được vị trí trong không gian của chúng. Mô hình thường được đắp nổi như hình ảnh của các vật thật nhưng có kích thước nhỏ hoặc to hơn. Ngoài các mô hình tĩnh, người ta còn sử dụng các mô hình động để diễn tả một quá trình của một hiện tượng nào đó: Mô hình biểu thị sự tiêu hoá thức ăn, mô hình biểu thị sự vận động của trái đất quanh trục của nó và quanh mặt trời. 2.5. Dụng cụ thí nghiệm: Đây là những phương tiện không thể thiếu được trong dạy học môn Khoa học. Những dụng cụ thí nghiệm thường dùng trong môn Khoa học như: Đèn cồn, các loại cốc, chai, lọ, chậu thuỷ tinh trong suốt, các ống nghiệm có hình dạng, kích thước khác nhau 2.6. Các phương tiện nghe- nhìn: Phim đèn chiếu, phim video, máy tính Các phương tiện nghe nhìn có ưu điểm là trong một khoảng thời gian ngắn có thể cung cấp cho học sinh một lượng thông tin lớn một cách rất sinh động. 3. Tự làm đồ dùng dạy học. Trong bất kỳ điều kiện kinh tế nào thì việc tự làm các đồ dùng dạy học luôn đóng một vai trò quan trọng, ngay cả ở các nước phát triển người ta vẫn khuyến khích giáo viên và học sinh làm đồ dùng học tập. Đồ dùng dạy học tự làm không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn có ý nghĩa về giáo dục. * Các hướng tự làm đồ dùng dạy học: - Tự sưu tầm tranh ảnh, tư liệu phục vụ cho môn học các bức tranh, ảnh màu, bưu thiếp về thiên nhiên, về các danh lam thắng cảnh, các danh nhân, các anh hùng dân tộc. -Chương trình môn TN-XH ở các lớp 1,2,3 bao hàm những nội dung học tập và tìm hiểu về địa phương, ngoài những đồ dùng dạy học do cơ quan chức năng đã sản xuất, ban giám hiệu nhà trường và tập thể giáo viên học sinh cần tích cực tham gia thu thập đóng góp tư liệu phục vụ cho môn học. Ví dụ: Sơ đồ nhà trường, sơ đồ bộ máy tổ chức nhà trường, tư liệu về truyền thống nhà trường. Sơ đồ, lược đồ, làng, xã, quận (huyện), tỉnh( thành phố). Các hình ảnh tư liệu về động thực vật đặc trưng, các danh lam thắng cảnh, các hoạt động kinh tế, phương tiện giao thông, di tích lịch sử văn hoá địa phương. * Tự vẽ tranh. 4. Yêu cầu đối với phương tiện dạy học các môn TN-XH. 23
  24. Dù loại hình nào, nguồn cung cấp nào, các phương tiện dạy học các môn TN-XH cũng phải đảm bảo được tính khoa học và tính sư phạm. Thể hiện: - Phải chứa đựng những thông tin cần học, những thông tin đảm bảo chính xác, phù hợp với trình độ học tập của học sinh. -Phải là công cụ để giáo viên tổ chức, chỉ đạo các hoạt động học tập cho học sinh. - Phải kích thích hứng thú học tập, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. - Đồ dùng dạy học phải sử dụng đúng lúc, đúng chỗ. - Bất kỳ đồ dùng dạy học nào phải khai thác tối đa hiêụ quả sử dụng của nó. -Đảm bảo tính thẩm mỹ, tính trực quan CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG II 1. Phân tích định hướng đổi mới phương pháp dạy học các môn vềTN-XH. 2. Cho ví dụ về tổ chức cho học sinh quan sát trong dạy học các môn vềTN-XH. 3.Cho ví dụ về tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm trong dạy học các môn về TN- XH. 4. Cho ví dụ về phương pháp thí nghiệm trong dạy học các môn về TN-XH. 5. Tại sao trong quá trình dạy học các môn TN-XH, giáo viên cần vận dụng phối hợp các phương pháp dạy học khác nhau. Cho ví dụ minh hoạ. 6. Trình bày ý nghĩa, cách thức sử dụng phương tiện dạy học các môn TN-XH. Chương III HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC CÁC MÔN VỀ TN-XH I. SỬ DỤNG CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC CÁC MÔN VỀ TN-XH Các môn về TN-XH cũng giống như các môn học khác ở trong trường tiểu học nước ta, được tiến hành theo hình thức lớp - bài. Đây là hình thức dạy học cơ bản nhất vì các kiến thức được truyền thụ một cách có hệ thống. Chỉ có thông qua giờ lên lớp các nguyên tắc, phương pháp dạy học và giáo dục mới được thực hiện một cách chặt chẽ, đảm bảo sự phát triển cá nhân thông qua tập thể lớp. Do đó phần lớn thời gian của chương trình các môn về TN-XH dành cho việc lên lớp. Tuy nhiên ngoài hình thức lên lớp còn có các hình thức tổ chức dạy học khác như bài giảng ngoài thiên nhiên, tham quan. Dưới đây là những hình thức tổ chức dạy học cơ bản được sử dụng trong dạy học các môn về TN-XH theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học. 1. Dạy học trên lớp Trong dạy học các môn TN-XH có thể vận dụng ba hình thức tổ chức dạy học trên lớp: dạy học cá nhân, dạy học theo nhóm, dạy học đồng loạt cả lớp. 1.1. Dạy học theo nhóm 24
  25. a. Ưu điểm: - Là hình thức tổ chức dạy học rất sinh động. Cụ thể : + Khi làm việc theo nhóm học sinh có thể học hỏi lẫn nhau. Từng em trong nhóm có thể bộc lộ ý kiến của mình và lắng nghe ý kiến của các bạn để cùng hoàn thành nhiệm vụ chung của cả nhóm. Qua đó, rèn cho HS kỹ năng giao tiếp, sự hợp tác, tương trợ lẫn nhau trong học tập. + Giáo viên và học sinh đều phải thay đổi cách dạy và cách học theo hướng tích cực. + Học sinh học tập tích cực, độc lập, không còn là những người tiếp thu kiến thức một cách thụ động, biết tìm tòi phát hiện tri thức của bài học bằng chính hoạt động của mình. + Giáo viên có điều kiện quan sát theo dõi và giúp đỡ các hoạt động của học sinh, nhất là những học sinh, những nhóm gặp khó khăn trong khi thực hiện công việc được giao. b. Chia nhóm và tổ chức hoạt động nhóm: * Chia nhóm: Có thể tiến hành chia nhóm theo các cách như sau : + Gọi số : + Chia từng cặp một + Dùng biểu tượng hoặc màu sắc * Tổ chức hoạt động nhóm : Trong nhóm thường có các thành phần : - Người điều khiển, người ghi chép, người báo cáo, các thành viên khác. Các học sinh trong nhóm lần lượt thay nhau đóng vai trò các thành viên trên. * Yêu cầu khi hoạt động nhóm: Các thành viên phải tuân thủ sự điều khiển của trưởng nhóm, mọi người ngồi hướng vào nhau, chăm chú lắng nghe ý kiến của người khác. Lần lượt từng thành viên đưa ra ý kiến của mình, cả nhóm trao đổi đưa ra ý kiến thống nhất. * Nhiệm vụ của giáo viên trong quá trình dạy học theo nhóm. - Hướng dẫn, điều khiển các hoạt động học tập của học sinh trong từng nhóm. -Theo dõi diễn biến công việc của các nhóm, kịp thời giúp đỡ những nhóm gặp khó khăn. c. Một số điều kiện để dạy học theo nhóm có hiệu quả. - Về phía giáo viên : + Cần chuẩn bị kỹ kế hoạch dạy học, dự kiến trước các tình huống có thể xảy ra trong khi học sinh học tập theo nhóm. Trước hết giáo viên cần phải đặt kế hoạch để làm việc với từng nhóm, dự kiến làm việc với nhóm nào trước, nhóm nào sau, giải thích rõ ràng công việc của các nhóm. 25
  26. + Chuẩn bị đầy đủ phiếu giao việc, đồ dùng dạy học như tranh ảnh, bản đồ, lược đồ, mẫu vật, sách giáo khoa. Trong qúa trình học sinh học tập theo nhóm, giáo viên phải theo dõi diễn biến công việc của từng nhóm. Làm việc và hoàn thành công việc là rất quan trọng, tức là giáo viên phải có được thông tin phản hồi từ phía học sinh để có nhận định, dánh giá, khen chê, động viên khuyến khích từng nhóm. Xen kẽ hoạt động nhóm nên kể những câu chuyện vui hoặc những trò chơi học tập để gây hứng thú học tập trong giờ học. - Về phía học sinh : Các nhóm học sinh được giao nhiệm vụ rõ ràng và phải làm ra những sản phẩm cụ thể để có thể báo cáo laị kết quả làm việc trước lớp.Kết thúc hoạt động nhóm, các nhóm lần lượt báo cáo kết quả làm việc của mình trước lớp. Cả lớp lắng nghe, bổ sung ý kiến, giáo viên tổng kết, đưa ra kết luận chung. - Về cơ sở vật chất : bàn ghế học sinh phải đầy đủ, phù hợp với cách sắp xếp chỗ ngồi theo nhóm để các em dễ dàng di chuyển và ngồi lại với nhau. 1.2. Dạy học cá nhân Tổ chức cho học sinh học cá nhân sẽ tạo điều kiện phát huy tối đa năng lực của học sinh để các em giải quyết các nhiệm vụ học tập ở lớp. Việc học cá nhân chỉ đạt hiệu quả khi mỗi học sinh được thực sự làm việc với đối tượng học tập ( quan sát tranh ảnh, mẫu vật, hoặc làm việc với phiếu học tập ) nhằm giải quyết nhiệm vụ học tập theo yêu cầu của bài học. Giáo viên cần dự kiến những câu hỏi phụ và những hoạt động phụ có tính chất gợi ý để những học sinh kém có thể hoàn thành được công việc. Đồng thời cũng phải chuẩn bị thêm các nhiệm vụ học tập cho học sinh khá vì những em này thường hoàn thành nhanh những công việc mà giáo viên giao cho cả lớp. Trong khi cả lớp làm bài giáo viên có thể trực tiếp kiểm tra từng em thực hiện nhiệm vụ. 1.3. Dạy học toàn lớp. Giáo viên thường tổ chức dạy học toàn lớp khi cần thông báo, giải thích, tổng kết các ý kiến của học sinh, hướng dẫn chung cho cả lớp thực hiện nhiệm vụ học tập, tổ chức cho cả lớp cùng trao đổi ý kiến, cùng nghe đại diện các nhóm báo cáo kết quả làm việc ở nhóm. Có thể thực hiện đầu tiết, giữa tiết, cuối tiết. Trong quá trình dạy học toàn lớp, trừ một số trường hợp giáo viên phải giảng giải minh hoạ, còn nên gợi ý, tổ chức, hướng dẫn để học sinh tham gia giải quyết các vấn đề chung của lớp như cùng thảo luận để tìm giải pháp hợp lý cho một vấn đề. Giáo viên phải đảm bảo thu hút toàn thể học sinh trong giờ học tức là những lời nói, câu hỏi của giáo viên đảm bảo cho học sinh ở mọi vị trí trong lớp đều nghe được. Các đồ dùng dạy học , các thí nghiệm biểu diễn phải để ở vị trí mà học sinh có thể quan sát dễ dàng. - Lời nói của giáo viên rõ ràng, gọn, đủ thông tin, tốc độ vừa phải. Tóm lại : Ba hình thức tổ chức dạy học trên cần được vận dụng linh hoạt tuỳ thuộc vào nội dung của từng bài học. Có bài học vận dụng phối hợp cả dạy học cá nhân, 26
  27. nhóm, cả lớp, có bài học có thể sử dụng 2 hình thức, có thể có bài chỉ sử dụng hình thức dạy đồng loạt cả lớp. 2. Dạy học ngoài lớp - tham quan 2.1. Dạy học ngoài lớp (ngoài thiên nhiên ). Các môn về TN-XH có nhiều nội dung gắn liền với môi trường TN-XH của địa phương, nơi các em học sinh đang sinh sống. Vì vậy, việc tổ chức các tiết học ngoài lớp là hết sức cần thiết. Nhiều bài giảng có thể tiến hành ngoài thiên nhiên như : - Quan sát cuộc sống xung quanh - Quan sát một số cây trồng và vật nuôi - Quan sát dấu hiệu của thời tiết - Xác định phương hướng bằng Mặt trời. - Tìm hiểu về hệ thống biển báo giao thông đường bộ. Ưu điểm : - Là hình thức tổ chức sinh động, gây hứng thú học tập cho học sinh.Thông qua việc quan sát thiên nhiên, học sinh thêm yêu quí, có ý thức bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống. Giúp học sinh được quan sát trực tiếp các đối tượng học tập mà không có loại đồ dùng dạy học nào, hoặc lời miêu tả nào của giáo viên có thể sánh được về mặt trực quan, từ đó giúp các em chính xác được các biểu tượng Ví dụ: "Mặt trời và phương hướng" (TN-XH 2) I. Mục tiêu: Sau bài học HS biết: - Kể tên 4 phương chính và biết quy ước phương Mặt trời mọc là phương Đông. - Biết cách xác định phương hướng bằng Mặt trời. II. Hoạt động dạy học: - Bài học có thể tiến hành tại sân trường, vào buổi sáng. Học sinh đứng thành hai hàng song song và so le nhau, những học sinh thấp đứng trước. - Giáo viên ổn định tổ chức và kiểm tra bài cũ: Mặt trời có hình dạng thế nào? * Bài mới : Có thể đặt câu hỏi dẫn dắt. Hàng ngày xem ti vi hoặc nghe đài ta thường nghe dự báo thời tiết ví dụ như : Phía tây Bắc Bộ , phía đông Bắc Bộ. Những từ Đông, Tây, Nam, Bắc có ý nghĩa như thế nào? Làm thế nào để xác định được các phương hướng đó, chúng ta cùng tìm hiểu qua bài học hôm nay. -Hàng ngày Mặt trời mọc vào lúc nào, lặn vào lúc nào? - Trong không gian có mấy phương chính ? Đó là những phương nào ? Có 4 phương chính: Đông, Tây, Nam, Bắc. Cho một số học sinh nhắc lại : có 4 phương hướng chính: Đông, Tây, Nam, Bắc. Đặt câu hỏi tiếp : làm thế nào người ta có thể xác định phương hướng? 27
  28. Thông thường người ta thường dựa vào mặt trời để xác định phương hướng. - Mặt trời mọc ở phương nào? - Mặt trời mọc ở phương Đông - Mặt trời lặn ở phía nào ? - Mặt trời lặn ở phương Tây. Một số học sinh nhắc lại : Mặt trời mọc ở phương Đông, lặn ở phương Tây. GV: Hai phương hướng còn lại : Bắc và Nam chúng ta có thể xác định như thế nào? GV nêu qui ước xác định phương hướng bằng Mặt trời: Nếu một người dang thẳng 2 cánh tay sao cho phía tay phải là là phương Đông, phía tay trái là phương Tây thì phía trước mặt là phương Bắc, sau lưng là phương Nam. Giáo viên đứng làm mẫu cho học sinh . - Luyện tập : Cho một số học sinh đứng xác định theo phương hướng mặt trời mọc và nhắc lại qui định trên. (Một số học sinh tham gia nhận xét và chỉ ra sai sót của bạn). - Cho học sinh xác định phương hướng của một số cơ sở trong trường, ví dụ : lớp ta quay mặt ra hướng nào, văn phòng trường quay mặt ra hướng nào? cổng trường quay mặt ra hướng nào ? Củng cố trò chơi : chọn khoảng 6 em cả nam và nữ đứng thành hai hàng. Khi giáo viên hô hướng nào thì học sinh quay mặt về hướng đó. Nếu ai sai thì phải nhảy lò cò về chỗ. Người thắng cuộc sẽ là người xác định đúng 4 hướng. - Yêu cầu một số học sinh nhắc lại cách xác định phưong hướng. + Mở rộng kiến thức : Ngoài cách xác định phương hướng bằng cách dựa vào mặt trời, người ta còn những cách xác định khác bằng Sao bắc đẩu hoặc la bàn. Bài tập về nhà : Tự xác định xem nhà em quay mặt ra hướng nào. 2.2 Tham quan. Tham quan là một hình thức dạy học ngoài lớp giúp học sinh tìm hiểu những sự vật và hiện tượng có liên quan đến bài học trong chương trình. Chương trình các môn TN-XH đòi hỏi cần tổ chức nhiều buổi tham quan từ lớp đầu cấp cho đến lớp cuối cấp học với nhiều đề tài khác nhau. Ví dụ : tham quan công viên, vườn thú, di tích lịch sử, nhà bảo tàng, cơ sở sản xuất công nông nghiệp, cơ quan hành chính, văn hoá, y tế địa phương. Ưu điểm: + Các buổi tham quan giúp học sinh thấy được các sự vật, hiện tượng trong TN-XH phức tạp, đa dạng và phong phú hơn nhiều so với những điều đã học được trong trường - mở rộng tầm nhìn, vốn hiểu biết của học sinh , gây hứng thú học tập, gây những ấn tượng tốt đẹp. + Một số điểm lưu ý khi cho học sinh tham quan - Tìm hiểu trước địa điểm, chọn thời gian và thời tiết thích hợp trong ngày để việc đi lại của học sinh thuận lợi. - Dự kiến trước các tình huống không thuận lợi có thể xảy ra để khắc phục 28
  29. - Quy định về kỷ luật, an toàn trên đường đi và khi học ở đó. - Phổ biến trước nhiệm vụ học tập cho cả lớp. - Cuối buổi giáo viên tóm tắt kết quả buổi tham quan (về nhận thức kỷ luật trật tự, an toàn, sĩ số ) - Tổng kết tham quan có thể diễn ra dưới hình thức đàm thoại giữa giáo viên và học sinh . Đối với học sinh lớp 4,5 có thể cho học sinh viết thu hoạch dưới dạng trả lời câu hỏi. Ví dụ : Trường học ( TN-XH 1) Giáo viên có thể dẫn cả lớp đi tham quan nhà trường. Trong quá trình tham quan có thể tổ chức cho học sinh quan sát theo trình tự: + Cổng trường : Giáo viên đọc tên trường trên biển treo ngoài cổng, trao đổi về ý nghĩa tên trường. Trường ở thôn nào, xã nào, phường nào? + Các lớp học: Giáo viên dẫn học sinh đi qua các lớp học hoặc đứng ở một vị trí thích hợp để quan sát, phân biệt được từng khối lớp, có thể hỏi học sinh trường có bao nhiêu lớp, bao nhiêu lớp 1,2. + Các phòng làm việc : có thể dẫn học sinh vào thăm các phòng làm việc của ban giám hiệu, (kết hợp giới thiệu vị trí của phòng đó trong trường, tên hiệu trưởng, hiệu phó) học sinh quan sát cách bày biện , cách sắp xếp các đồ dùng trong phòng này để so sánh với các phòng làm việc khác, phòng hội đồng giáo viên, phòng truyền thống, phòng để đồ dùng dạy học. + Vườn trường, sân chơi Giáo viên hưỡng dẫn học sinh quan sát và nhận xét về khu vực này theo các câu hỏi gợi ý: + Sân trường ta rộng hay hẹp, có nhiều cây cối không? nhờ ai mà sân trường ta luôn sạch sẽ. Các em phải làm gì để giữ cho sân trường, vườn trường sạch đẹp? Trở về lớp GV có thể tổ chức trò chơi đóng vai để giới thiệu về trường học của mình. 3. Trò chơi trong dạy học các môn về TN-XH 3.1. Ý nghĩa của trò chơi trong dạy học các môn về TN-XH Đối với học sinh tiểu học học tập là hoạt động chủ đạo, tuy nhiên vui chơi vẫn chiếm vị trí lớn trong đời sống của các em. Theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học, trò chơi được xem là phương pháp, là hình thức tổ chức dạy học. Nó được khuyến khích sử dụng nhằm gây hứng thú học tập, giảm sự căng thẳng cho học sinh, góp phần nâng cao hiệu quả tiết học. Trò chơi có tác dụng phát huy tính tích cực, phát triển sự nhanh trí , tinh thần tập thể, tính tự lập và sáng tạo của học sinh . Trong các tiết học TN-XH giáo viên có thể sử dụng trò chơi, câu đố tuỳ thuộc vào mục đích, nội dung của tiết học, có thể sử dụng ở bất cứ giai đoạn nào của tiết học. Các trò chơi không chỉ thực hiện ở các giờ học chính khoá, trong lớp học mà có thể 29
  30. thực hiện trong những hoạt động học tập ngoài thiên nhiên, và các hoạt động ngoại khoá khác. 3.2. Cách thức sử dụng trò chơi: Trò chơi có thể tiến hành theo các bước sau: Bước 1: Lựa chọn trò chơi: Trên cơ sở mục đích, yêu cầu nội dung của bài học mà giáo viên lựa chọn trò chơi cho phù hợp. Bước 2: Giới thiệu và giải thích trò chơi: giáo viên nêu tên trò chơi, giải thích rõ mục đích, yêu cầu, cách chơi, luật chơi, cách đánh giá thắng thua cho học sinh. Giới thiệu và giải thích phải đơn giản, dễ hiểu để các em nắm vững và hiểu trò chơi, cách chơi. Bước 3: Tổ chức, tiến hành chơi: Để trò chơi đạt kết quả tốt, sau khi hướng dẫn và giải thích xong, nên cho học sinh chơi thử vài lần, sau đó chơi thật. Giáo viên làm trọng tài theo dõi diễn biến trò chơi để có những nhận xét, đánh giá đúng đắn, khách quan. Bước 4: Nhận xét, đánh giá kết quả trò chơi: Kết thúc trò chơi, giáo viên nhận xét, đánh giá kết quả trò chơi. Dựa vào yêu cầu, nội dung, kết quả trò chơi, giáo viên đánh giá thật công bằng, khách quan, cần tạo điều kiện cho học sinh tự nhận xét, đánh giá lẫn nhau, cần biểu dương, khen ngợi những cá nhân, đội chơi có kết quả tốt, hoạt động tích cực. 3.3. Một số yêu cầu đối với trò chơi: + Trò chơi phải phù hợp với yêu cầu, nội dung của bài học, phải phục vụ thiết thực cho bài học. + Trò chơi phải phù hợp với đặc điểm tâm lý, trình độ nhận thức của học sinh lớp. + Trò chơi phải gây được hứng thú cho học sinh và thu hút được nhiều em tham gia. + Các trò chơi không được tốn nhiều thời gian để không ảnh hưởng đến các hoạt động tiếp theo của tiết học. 3.4. Một số ví dụ về trò chơi trong dạy học các môn về TN-XH 1* "Đố bạn hoa gì"?(Bài"Cây hoa"TN-XH1). Giáo viên chọn 4 học sinh tình nguyện, dùng vải bịt mặt tất cả 4 học sinh, đặt vào tay mỗi em một bông hoa khác nhau. Học sinh được sử dụng các giác quan còn lại để nhận biết các loại hoa hoặc cây mình đang cầm. Những em nào nhận đúng hoa mình đang cầm được khen thưởng. Những học sinh không nhận ra loại hoa mình đang cầm là bị thua cuộc, nhảy lò cò về chỗ. 2* Trò chơi : Bạn chọn số nào? ( Ôn tập: Con người và sức khoẻ, TN-XH 3) Mục đích: Củng cố kiến thức về chức phận của các cơ quan chính trong cơ thể Chuẩn bị : Các tấm biển ghi các cơ quan trong cơ thể và đánh số thứ tự. Ví dụ 1- Cơ quan hô hấp, 2- Cơ quan tuần hoàn, 3- Cơ quan bài tiết , 4- Cơ quan thần kinh( Mỗi tên các cơ quan làm hai tấm biển như nhau ). Chia lớp thành hai đội, mỗi đội cử đại diện cầm biển, giáo viên làm trọng tài theo dõi trò chơi. 30
  31. Cách chơi : Khi giáo viên đọc một trong các hoạt động của các cơ quan trong cơ thể thì ai có biển ghi cơ quan nào có hoạt động ấy thì giơ cao, ai giơ nhầm hoặc giơ sau sẽ bị thua, thắng 1 điểm, thua 0 điểm. Ví dụ: - Hít vào thở ra - giơ đúng : cơ quan hô hấp - Biến đổi thức ăn : cơ quan tiêu hoá - Vận chuyển chất bổ: cơ quan tuần hoàn - Nhận khí ôxi, thải khí cácbônic: cơ quan hô hấp - Ôxi được đi khắp cơ thể: cơ quan tuần hoàn - Tạo thành nước tiểu: cơ quan bài tiết - Tạo thành chất bổ: cơ quan tiêu hoá -Kiểm soát mọi hoạt động của cơ thể: cơ quan thần kinh 3* Đố bạn con gì? (Sử dụng trong các bài về động vật ở các lớp 1,2,3). -Mục đích: củng cố kiến thức về động vật cho HS - Chuẩn bị: vẽ một số con vật vào tờ giấy ( chỉ cần những nét đơn giản). Khi chơi có 1 bạn điều khiển, giữ toàn bộ tập hình vẽ của các con vật đó (các con vật đã học) - Đối tác chơi lần lượt từng người với cả lớp Người điều khiển cài lên lưng người chơi (đứng quay lưng xuống lớp) hình một vật bất kỳ đã học (người chơi không được biết ) Luật chơi : người chơi được đặt 10 câu hỏi ( loại câu hỏi có sẵn thông tin chỉ đòi hỏi trả lời đúng hoặc sai ). Người chơi phải làm phép loại trừ để tìm ra đúng tên con vật được đố. Chưa hết 10 câu hỏi hoặc đúng 10 câu người chơi nói đúng tên một con vật là thắng cuộc. (yêu cầu cả lớp im lặng không được cho người chơi biết tên các con vật là gì) Ví dụ một số câu hỏi : - Có phải con vật đó có 4 chân không ? Không - Nó có 2 chân phải không? Đúng - Nó có lông vũ không ? Có - Nó có biết bay không? Có - Nó là chim bồ câu phải không? Không - Nó có phải là con gà không ? Không - Nó biết bắt chước tiếng người không? Có - Nó là con vẹt phải không? Phải 4. Trò chơi đóng vai "Hội nghị Diên Hồng" Dùng cho bài 14 Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông-Nguyên (Lịch sử 4) 31
  32. - Mục đích: Giúp HS biết được tinh thần quyết tâm đánh giặc của quân và dân ta dưới thời Trần, không lùi bước trước sức mạnh của kẻ thù. - Cách tiến hành Bước 1: Làm việc theo nhóm GV chia HS thành các nhóm, yêu cầu các nhóm đọc kỹ nội dung từ "Thời nhà Trần đến "hai chữ "Sát "Thát"". Các nhóm thảo luận và tập đóng các vai: Vai 1: Vua Trần Vai 2: Trần Thủ Độ Vai 3: Trần Hưng Đạo Người dẫn chuyện, các thành viên khác đóng vai các bô lão và vai các chiến sỹ. GV đi tới các nhóm giúp đỡ và khuyến khích HS tập diễn đạt lại lời nói, cử chỉ của nhân vật trong SGK thật sinh động, Bước 2: Làm việc cả lớp: Các nhóm lên bảng thể hiện các vai của mình. Chẳng hạn người dẫn truyện đọc đến đoạn " Khi quân Mông-Nguyên tràn vào nước ta, lo nghĩ trước sức mạnh của quân xâm lược" thì HS đóng vai vua Trần hỏi Trần Thủ Độ với vẻ lo lắng: "Nên đánh hay nên hoà?". HS trong vai Trần Thủ Độ trả lời với giọng kiên quyết "Đầu tôi chưa rơi xuống đất xin bệ hạ đừng lo". HS dẫn chuyện đọc lời dẫn tiếp đoạn: "Trong cuộc kháng chiến lần thứ 2 " HS đóng vai vua Trần hỏi các vị bô lão (các thành viên khác trong nhóm):"Nên đánh hay nên hoà?" . Cả thành viên trong vai các bô lão đồng thanh trả lời với giọng to, dõng dạc: "Đánh!" HS dẫn chuyện đọc tiếp lời dẫn. HS đóng vai Trần Hưng Đạo đọc lời hịch "Dẫu cho trăm thân xin làm" với lời đọc mạnh mẽ dứt khoát. HS dẫn chuyện đọc tiếp lời dẫn. Các thành viên đóng vai các chiến sỹ hô to "Sát thát, Sát thát!". Kết thúc trò chơi: GV cho các nhóm nhận xét kết quả chơi và rút ra kết luận: qua trò chơi chúng ta biết được tinh thần quyết tâm kháng chiến chống quân Mông- Nguyên của quân dân nhà Trần, không lùi bước trước giặc ngoại xâm. 5. Giải ô chữ Dùng cho bài 19: Các nước láng giềng Việt Nam (Địa lý 5) - Mục đích Giúp học sinh củng cố biểu tượng về các nước láng giềng Việt nam -Giáo viên chuẩn bị ô chữ sau: 32
  33. - Cách tiến hành: -Giáo viên giới thiệu trò chơi, cách chơi, luật chơi. -Chia lớp thành 4 đội, mỗi đội cử 6 em tham gia, các học sinh khác làm cổ động viên. Lần lượt các đội chơi được chọn hàng ngang, giáo viên đọc gợi ý từ hàng ngang, các đội chơi suy nghĩ, đội nào bấm chuông (hoặc phất cờ) nhanh đội đó giành quyền trả lời. Trả lời đúng được 10 điểm, trả lời sai không được điểm và phải nhường quyền trả lời cho đội khác. Trò chơi kết thúc khi giải được ô chữ hàng dọc. Đội tìm được hàng dọc được 40 điểm. Đội thắng cuộc là đội có số điểm cao nhất. Sau đây là gợi ý cho từng hàng trong ô chữ và đáp án: - Ô thứ 1 gồm 9 chữ cái: Đây là tên 1 nước láng giềng của Việt Nam? (Campuchia) -Ô thứ 2 gồm 7 chữ cái: Đây là tên thủ đô của Trung Quốc -Ô thứ 3 gồm 7 chữ cái: Đây là một khu vực của Trung Quốc có địa hình chủ yếu là núi và cao nguyên, có khí hậu khắc nghiệt -Ô thứ 4 gồm 8 chữ cái: Đây là tên một nền văn minh cổ đại nổi tiếng thuộc Trung Quốc. -Ô thứ 5 gồm 3 chữ cái: Đây là nước láng giềng ở phía Tây Việt Nam - Ô chữ hàng dọc: Tên một châu lục có diện tích lớn nhất và số dân đông nhất thế giới. Sau đây là đáp án: 1 C Ă M P U C H I A 2 B Ă C K I N H 3 M I Ê N T Â Y 4 T R U N G H O A 5 L A O Kết thúc trò chơi: Căn cứ vào số điểm của các đội, giáo viên công bố đội dành chiến thắng, biểu dương đội có kết quả chơi tốt. Tóm lại: Trò chơi trong dạy học các môn về TN-XH rất phong phú và đa dạng, giáo viên cần khai thác, sử dụngchúng một cách hợp lý tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu, nội dung của từng bài dạy. II. LẬP KẾ HOẠCH BÀI DẠY CÁC MÔN VỀ TN-XH Lập kế hoạch bài dạy chính là thiết kế giáo án cho từng tiết lên lớp của giáo viên. Muốn cho bài lên lớp đạt hiệu quả cao GV cần chuẩn bị giáo án chu đáo, công phu, nghiêm túc. Khi chuẩn bị một giáo án, GV cần lưu ý các vấn đề sau: - Mục tiêu của bài học là gì? - Đối với bài học này cần sử dụng những đồ dùng dạy học nào? 33
  34. - Cần khai thác những nội dung gì của bài dạy? -Có thể sử dụng những phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nào? Phương pháp dạy học nào là chủ đạo? - Bài dạy này có thể thiết kế mấy hoạt động? Phân phối thời gian cho mỗi hoạt động như thế nào? -Các bước lên lớp tiến hành như thế nào cho hợp lý và hấp dẫn? Khi soạn bài GV nên đi theo trình tự sau: I. Xác định mục tiêu của bài học Mục tiêu bài học là những gì mà HS phải đạt được về kiến thức, kỹ năng, thái độ và mức độ của nó như thế nào. Mục tiêu bài học cần đo đạc, đánh giá được. Vì vậy, GV phải xác định mục tiêu bài học thật cụ thể, rõ, ràng, có thể thực hiện được, tránh chung chung, hoặc quá cao tới mức không thể thực hiện được, không đánh giá được. Dưới đây là một số động từ có thể tham khảo khi viết các loại mục tiêu: -Về kiến thức: Liệt kê, mô tả, nêu tên, nêu đặc điểm, nêu ví dụ, xác định, chỉ ra - Về kỹ năng: quan sát, làm thí nghiệm, so sánh, đối chiếu, phân loại, trình bày - Về thái độ: có ý thức, tự giác, giúp đỡ, bảo vệ II. Đồ dùng dạy học Trên cơ sở mục tiêu, nội dung bài học, GV cần xác định các đồ dùng dạy học cần thiết, đồ dùng dạy học có ưu điểm hơn cả. Cần xác định rõ trong số những đồ dùng dạy học đó GV phải chuẩn bị gì, HS phải chuẩn bị gì để liệt kê trong giáo án và chuẩn bị chúng. III. Xác định các hoạt động dạy học Căn cứ vào mục tiêu, nội dung của từng bài học cụ thể, đối tượng học sinh, điều kiện của từng trường mà GV xây dựng các hoạt động dạy học cho phù hợp. Lên kế hoạch, bố trí thời gian cho các hoạt động dạy-học đã xác định. Trong từng hoạt động cần nêu rõ hoạt động nào của GV, hoạt động nào của HS. Hoạt động 1: tên hoạt động, thời gian Mục tiêu: Cách tiến hành Bước 1 Bước 2 Kết luận Hoạt động 2: tên hoạt động, thời gian Mục tiêu: Cách tiến hành Bước 1 34
  35. Bước 2 Kết luận Hoạt động 3: Kết thúc bài học Sau đây là một số giáo án minh hoạ: Bài 1: HOẠT ĐỘNG THỞ VÀ CƠ QUAN HÔ HẤP (TN-XH 3) I. MỤC TIÊU: Sau bài học HS có thể: - Chỉ và nói được các bộ phận của cơ quan hô hấp trên sơ đồ và chức phận của chúng. - Chỉ trên sơ đồ và nói được đường đi của không khí khi ta hít vào và thở ra. - Hiểu được vai trò của hoạt động thở đối với sự sống của con người II. ĐỒ DÙNG DẠY HỌC: -Sơ đồ cơ quan hô hấp ( Sơ đồ phóng to và sơ đồ câm) - Các hình trong SGK - Phiếu học tập III. HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC: Hoạt động1: Thực hành cách thở sâu Mục tiêu: HS biết được sự thay đổi của lồng ngực khi hít vào và thở ra. Cách tiến hành: - Cho cả lớp chơi trò chơi " Hít vào, thở ra" GV cho HS cả lớp đứng tại chỗ đặt một tay lên ngực và cùng thực hiện hít vào thật sâu và thở ra hết sức( GV cùng thực hiện với HS). GV hướng dẫn HS vừa làm vừa theo dõi cử động phồng lên xẹp xuống của lồng ngực khi các em hít vào thở ra. Gọi vài HS lên trước lớp thực hiện lại. - Yêu cầu HS nhận xét sự thay đổi của của lồng ngực khi hít vào thật sâu và thở ra hết sức, so sánh lồng ngực khi hít vào, thở ra bình thường và khi thở sâu, nêu ích lợi của việc thở sâu. GV chốt lại: Khi ta thở lồng ngực phồng lên, xẹp xuống đều đặn đó là cử động hô hấp. Cử động hô hấp gồm hai động tác: hít vào, thở ra. Khi hít vào thật sâu thì phổi phồng lên để nhận nhiều không khí, lồng ngực sẽ nở to ra. Khi ta thở ra hết sức, lồng ngực xẹp xuống, đẩy không khí từ phổi ra ngoài. - Chúng ta hít vào, thở ra được là nhờ cơ quan nào? - Cơ quan hô hấp GV giải thích: cơ quan thực hiện việc trao đổi khí giữa cơ thể và môi trường bên ngoài được gọi là cơ quan hô hấp. 35
  36. Hoạt động 2: Quan sát- thảo luận nhóm: Mục tiêu: - HS biết được các bộ phận và chức năng của cơ quan hô hấp. - Chỉ trên sơ đồ và nói được đường đi của không khí khi ta hít vào và thở ra -Hiểu được vai trò của hoạt động thở đối với sự sống của con người Cách tiến hành: Bước 1: Làm việc theo nhóm GV chia HS thành các nhóm, phát phiếu học tập cho các nhóm Phiếu học tập : Em hãy QS hình 2,3 trang 5 SGK và hoàn thành bài tập sau: Câu1: Cơ quan hô hấp gồm các bộ phận nào? Hãy nêu chức năng của từng bộ phận. Câu 2: Dựa vào hình 3 để mô tả đường đi của không khí khi hít vào, thở ra. Các nhóm tiến hành QS, thảo luận để tìm hiểu các bộ phận của cơ quan hô hấp và chức năng của chúng cũng như đường đi của không khí khi hít vào, thở ra. Bước 2: Làm việc cả lớp: - GV treo sơ đồ các cơ quan hô hấp phóng to, gọi đại diện các nhóm lên chỉ trên sơ đồ các cơ quan hô hấp và chức năng của chúng. -Cho HS tập xác định trên cơ thể mình vị trí của 2 là phổi. Đại diện một số nhóm xác định mô tả đường đi của không khí khi hít vào, thở ra. GV kết luận( kết hợp chỉ trên sơ đồ): Cơ quan hô hấp gồm mũi, khí quản, phế quản và 2 lá phổi. Mũi, khí quản, phế quản là đường dẫn khí, hai lá phổi có chức năng trao đổi khí. GV cho cả lớp chơi trò chơi:" Bịt mũi nín thở", hỏi cảm giác của các em khi nhịn thở lâu. -Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta bị ngừng thở quá 3-4 phút? GV giải thích: Người bình thường có thể nhịn ăn được vài ngày, thậm chí lâu hơn nhưng không thể nhịn thở quá 3-4 phút. Nhờ hoạt động thở của cơ quan hô hấp mà cơ thể chúng ta luôn có đủ khí ô-xi để sống. Nếu bị ngừng thở từ 3-5 phút, người ta có thể bị chết. Liên hệ với cuộc sống hàng ngày: không để dị vật rơi vào đường thở, khi bị dị vật làm tắc đường thở cần cấp cứu ngay lập tức. Có thể tổ chức trò chơi"Ai nhanh hơn": GV treo 2 sơ đồ câm các cơ quan hô hấp. Chia lớp thành 2 đội, mỗi đội cử 3 em. GV phát cho mỗi HS tấm bìa có ghi tên các cơ quan hô hấp. Khi có hiệu lệnh HS lên gắn bìa vào từng bộ phận tương ứng. Đội nào gắn đúng và nhanh là đội đó tháng cuộc. 36
  37. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG III 1. Cho ví dụ về hình thức tổ chức dạy học cá nhân 2. Cho ví dụ về hình thức tổ chức cho học sinh học theo nhóm 3. Cho ví dụ về sử dụng trò chơi trong dạy học các môn TN-XH. 4. Phân tích ưu, nhược điểm của hình thức dạy học theo nhóm. Để dạy học theo nhóm có hiệu quả, cần phải có những điều kiện gì? 5. Lập kế hoạch 1 bài dạy và chỉ rõ các bước tiến hành bài dạy đó CHƯƠNG IV: KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CÁC MÔN VỀ TN-XH 1. Ý NGHĨA CỦA KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ TRONG DẠY HỌC CÁC MÔN VỀ TN-XH Trong quá trình dạy học nói chung, các môn TN-XH nói riêng, việc kiểm tra đánh giá có ý nghĩa rất quan trọng. * Đối với học sinh: - Việc kiểm tra, đánh giá sẽ giúp học sinh biết được mức độ lĩnh hội kiến thức, kỹ năng để từ đó điều chỉnh hoạt động học tập của mình. - Thông qua kiểm tra, đánh giá học sinh phát triển được các năng lực hoạt động trí tuệ như ghi nhớ, tái hiện, phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá. - Thông qua kiểm tra, đánh giá học sinh nâng cao được tinh thần trách nhiệm trong học tập, đồng thời hình thành ở học sinh tính trung thực, tính khiêm tốn, thói quen tự kiểm tra, tự đánh giá. *Đối với giáo viên: Thông qua việc kiểm tra, đánh giá GV có thể thu được thông tin ngược từ phía HS để điều chỉnh hoạt động dạy học. * Đối với các cấp quản lý: Kiểm tra, đánh giá nói chung, trong dạy học các môn TN- XH nói riêng giúp cho các cấp quản lý nắm được thực trạng dạy và học các môn TN- XH để có những biện pháp chỉ đạo kịp thời nhằm nâng cao chất lượng dạy học. II. YÊU CẦU ĐỐI VỚI VIỆC KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ TRONG DẠY HỌC CÁC MÔN VỀ TN-XH 1. Đảm bảo tính toàn diện TN-XH, Khoa học, Lịch sử và Địa lý là những môn học tích hợp tri thức của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, đặc biệt là các lĩnh vực khoa học thực nghiệm(Vật lý, Hoá học, Sinh học) và sức khoẻ. Đây cũng là những môn học có nhiều cơ hội giúp học sinh liên hệ kiến thức với đời sống và sản xuất, kết hợp học với hành. Vì vậy, trong công tác kiểm tra, đánh giá cần đảm bảo đánh giá toàn diện về cả 3 lĩnh vực: kiến thức, 37
  38. kỹ năng, thái độ của học sinh. Trong đánh giá các môn về TN-XH ngoài kiến thức cần tập trung vào các kỹ năng và thái độ cơ bản sau đây: -Quan sát: Biết cách quan sát bằng mắt và cả cách quan sát bằng các phương tiện kỹ thuật (kính lúp, kính hiển vi ) -Mô tả: Biết mô tả sự vật và hiện tượng bằng ngôn ngữ thông thường và mô tả bằng tranh ảnh, sơ đồ, bản đồ -Thí nghiệm, thực hành: Biết làm các thí nghiệm, thực hành đơn giản, gần gũi với đời sống hàng ngày. - Biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống, biết giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trtường - Ham hiểu biết, có ý thức giữ vệ sinh, an toàn trong cuộc sống. 2. Đảm bảo tính khách quan Việc đánh giá kết quả học tập của học sinh phải đảm bảo tính khách quan, chính xác, phải tạo điều kiện để mỗi học sinh bộc lộ những khả năng và trình độ của mình. 3. Đảm bảo cho học sinh được tham gia vào quá trình kiểm tra, đánh giá. Cần tạo điều kiện cho học sinh được tự đánh giá kết quả học tập của bản thân và tự đánh giá lẫn nhau. 4. Phát huy tính sáng tạo của học sinh Trong nội dung kiểm tra, đánh giá, giáo viên không chỉ chú ý đến khả năng ghi nhớ và tái hiện kiến thức, mà còn phải chú ý đến tính sáng tạo của học sinh. Ví dụ: biết tìm ra những ví dụ mới, minh hoạ mới khác với những ví dụ, minh hoạ trong SGK hoặc do giáo viên đưa ra. Hoặc biết tiến hành những hoạt động mang tính chất điều tra, nghiên cứu v.v III. SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ TRONG DẠY HỌC CÁC MÔN VỀ TN-XH 1. Sử dụng phương pháp quan sát: Quan sát là phương pháp đánh giá phổ biến, có thể tiến hành trong hoặc ngoài lớp. Phương pháp này phù hợp với HS tiểu học, nhất là các lớp đầu bậc học, thuận lợi cho việc thu thập thông tin để đánh giá về thái độ, mức độ hoạt động của học sinh trong giờ học. Đối với môn TN-XH ở các lớp 1,2,3 việc đánh giá kết quả học tập của HS chủ yếu là nhận xét của GV mà không cho điểm. Vì vậy việc quan sát, nhận xét thái độ học tập của học sinh trong tiết học đóng vai trò quan trọng. Đối với các môn Khoa học, Lịch sử và Địa lý, ngoài việc đánh giá kết quả học tập của HS bằng điểm số GV cần đánh giá bằng quan sát, nhận xét tinh thần, thái độ học tập của học sinh. 2. Sử dụng phương pháp vấn đáp Phương pháp vấn đáp được sử dụng rộng rãi trong hình thức kiểm tra thường xuyên và kiểm tra từng phần ở tất cả các môn. Nó được sử dụng trong các bước kiểm tra bài cũ, dạy bài mới, củng cố cuối tiết học hoặc trong các tiết ôn tập. Thông qua 38
  39. phương pháp này GV có thể đánh giá sơ bộ về mức độ nắm kiến thức của HS để điều chỉnh việc giảng dạy của mình. Trong một tiết học GV chỉ có thể kiểm tra một số HS nhất định. Vì vậy để sử dụng phương pháp này có hiệu quả, GV cần đảm bảo những yêu cầu sau: - Câu hỏi phải rõ ràng, chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu với HS. -Sau khi nêu câu hỏi chung cho cả lớp cần để một thời gian nhất định để HS chuẩn bị rồi mới chỉ định HS trả lời. - Yêu cầu HS trả lời to, rõ ràng cho cả lớp nghe được, đồng thời yêu cầu cả lớp theo dõi câu trả lời của bạn để nhận xét và bổ sung. - GV cần có thái độ bình tĩnh lắng nghe câu trả lời của HS, đồng thời uốn nắn cách diễn đạt của HS, gợi ý, khuyến khích khi cần thiết. -Việc đánh giá kết quả trả lời không chỉ là việc cho điểm mà cần có nhận xét ưu khuyết điểm trong câu trả lời của HS. 3. Sử dụng câu hỏi tự luận Phương pháp kiểm tra này có thể thực hiện ở đầu hay cuối tiết học, hoặc thực hiện trọn một tiết sau một phần của chương trình, cuối học kỳ hay cuối năm học. Phương pháp này có ưu điểm là: có thể kiểm tra cùng một lúc tất cả HS trong lớp, do đó đánh giá được trình độ chung,có thể đánh giá HS ở nhiều mặt hơn kiểm tra vấn đáp. Qua bài làm GV có thể đánh giá sự phát triển ngôn ngữ, khả năng diễn đạt kiến thức bằng văn viết của HS. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có những nhược điểm như: đề kiểm tra chỉ có thể đề cập một số kiến thức mấu chốt nào đó trong cả chương trình dài, dễ làm cho HS học tủ, học lệch. Đồng thời, khó có điều kiện đánh giá các kỹ năng như quan sát, thí nghiệm, thực hành, sử dụng bản đồ của HS. Để sử dụng phương pháp kiểm tra này có kết quả, GV cần lưu ý: - Nội dung câu hỏi phải vừa sức với HS, số lượng câu hỏi phải phù hợp với thời gian quy định làm bài, bao quát được những thành phần kiến thức khác nhau của môn học. - Bài làm cần được chấm kỹ, những sai sót trong bài làm của HS cần được GV chỉ rõ. Khi trả bài GV cần nhận xét về những ưu, khuyết điểm chính, khuyến khích khi HS tiến bộ, nhắc nhở khi HS sa sút. 4. Sử dụng trắc nghiệm khách quan a. Khái niệm: Trắc nghiệm khách quan là dạng trắc nghiệm trong đó mỗi câu hỏi kèm theo những câu trả lời sẵn. Loại câu hỏi này cung cấp cho HS một phần hay tất cả thông tin cần thiết và đòi hỏi HS phải chọn một câu để trả lời hoặc nối, hoặc chỉ cần điền thêm một vài từ. b. Ưu nhược điểm của trắc nghiệm khách quan 39
  40. Ưu điểm nổi của phương pháp này là: tính khách quan lớn, đề thi bao trùm được những kiến thức mà HS cần tích luỹ, do đó tránh được tình trạng học tủ, học lệch của HS, việc triển khai kiểm tra, thi nhanh, độ chính xác lớn. Phương pháp kiểm tra này phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và trình độ nhận thức của HS tiểu học, phù hợp với đặc điểm các môn TN-XH. Chính vì vậy, theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học nói chung, trong các môn TN-XH nói riêng, trắc nghiệm khách quan được khuyến khích sử dụng để kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS. Tuy nhiên, trắc nghiệm khách quan vẫn có những nhược điểm nhất định: Nó không cho GV biết được mức độ cảm nhận, thái độ của HS đối với vấn đề kiểm tra, khó đánh giá các kỹ năng của HS, HS dễ thông tin cho nhau về kết quả câu hỏi. Mặt khác, việc soạn thảo câu hỏi trắc nghiệm khách quan công phu, đôi khi tốn kém. c. Các loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan và cách sử dụng: * Câu nhiều lựa chọn: Câu hỏi loại này gồm hai phần: phần "gốc" và phần "lựa chọn". Phần gốc là một câu hỏi hay một câu bỏ lửng, phần lựa chọn gồm một số câu trả lời bổ sung để HS lựa chọn, trong đó chỉ có một câu đúng. Ví dụ 1: Tác phẩm "Hồng Đức quốc âm thi tập" do ai sáng tác? (đánh dấu +vào câu mà em cho là đúng nhất) a. Nguyễn Trãi b. Lê Thánh Tông c. Ngô Sĩ Liên d. Lương Thế Vinh (Bài 19: Văn học và khoa học thời Hậu Lê, Lịch sử và Địa lý 4, phần Lịch sử) Ví dụ 2: Đánh dấu + vào câu mà em cho là đúng nhất: Châu lục có diện tích lớn nhất và số dân đông nhất là: a. Châu Âu b. Châu Á c. Châu Mỹ d. Châu Phi (Bài 17- Châu Á -Lịch sử và Địa lý 5, phần Địa lý) Ví dụ 3: Đánh dấu + vào câu mà em cho là đúng nhất: Sự khác nhau cơ bản nhất giữa nam và nữ là: a. Khuôn mặt b. Cách ăn mặc c. Cách để tóc d. Cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh dục 40
  41. (Bài 2-3: Nam hay nữ- Khoa học 5) Loại câu hỏi này có ưu điểm là có thể dùng để đo lường mức độ đạt được ở nhiều loại mục tiêu giáo dục quan trọng: hiểu biết, khả năng giải quyết vấn đề, khả năng đưa ra những phán đoán Nó phát huy được tính tích cực nhận thức của HS, giúp GV có thể phân loại được trình độ nhận thức của HS. Tuy nhiên loại câu này cũng có nhược điểm là khó thiết kế, đòi hỏi ở GV cả thời gian lẫn kinh nghiệm và khả năng nhất định. Khi soạn câu hỏi trắc nghiệm loại này cần lưu ý: - Phần gốc có thể là một câu hỏi hay câu bỏ lửng, phần lựa chọn là đoạn bổ sung để phần gốc trở nên đủ nghĩa. -Phần lựa chọn nên từ 3-5 câu tuỳ theo trình độ kiến thức và tư duy của HS (đối với HS tiểu học tốt nhất là từ 3-4 câu). Nên có những câu nhiễu để phân biệt HS khá giỏi, trung bình, yếu kém. - Ở mỗi câu hỏi không nên có 2 câu trả lời đều đúng nhất. Tránh sắp xếp câu trả lời đúng nhất nằm ở vị trí tương ứng như nhau ở bất kỳ các câu hỏi. -Nên tránh để hai thể phủ định liên tiếp, như hai chữ "không" trong một câu hỏi. * Câu "đúng- sai": Loại câu này có thể là những phát biểu được đánh giá là đúng (Đ) hay sai (S) Ví dụ 1 : Hãy điền Đ hoặc S vào ý mà em cho là phù hợp: HIV có thể lây truyền qua những đường: - Bắt tay nhau - Đường máu - Đường tình dục - Nói chuyện với nhau - Từ mẹ sang con lúc mang thai hoặc khi sinh con -Chơi với nhau (Bài 16: Phòng tránh HIV/AIDS, Khoa học 5) Ví dụ 2: Hãy điền Đ hoặc S vào ý mà em cho là phù hợp a. Dân tộc có số dân đông nhất là: + Người Tày, Nùng, họ sống chủ yếu ở vùng núi + Người Kinh, họ sống chủ yếu ở đồng bằng + Các dân tộc ít người, họ sống chủ yếu ở vùng núi b. Nước ta có mật độ dân số : + Cao so với mật dân số thế giới và một số nước ở châu Á + Thấp so với mật dân số thế giới và một số nước ở châu Á c. Dân cư nước ta phân bố: + Đều giữa các vùng + Không đều giữa các vùng 41
  42. (Bài 9: Các dân tộc, sự phân bố dân cư -Lịch sử và Địa lý 5, phần Địa lý) * Câu ghép đôi: Loại câu này thường gồm hai dãy thông tin: một dãy là những câu hỏi (hay câu dẫn), một dãy là câu trả lời (câu lựa chọn), HS phải nối câu hỏi với câu trả lời tương ứng. Ví dụ: Em hãy nối ô chữ cột A với ô chữ cột B sao cho phù hợp: Năm Sự kiện Khoảng 700 năm TCN Chiến thắng Bạch Đằng Năm 938 Khởi nghĩa Hai Bà Trưng Năm 40 Nước Âu lạc ra đời Năm 179 TCN Nhà nước đầu tiên của nước ta ra đời Cuối thế kỉ III TCN Quân Triệu Đà chiếm được Âu Lạc (Bài 6, Ôn tập Lịch sử và Địa lý 4, phần Lịch sử) * Câu điền: Là câu mà câu dẫn có để một số chỗ trống, HS phải điền vào chỗ trống những từ thích hợp. Ví dụ 1: Điền vào chỗ những từ mà em cho là thích hợp: -Trái Đất chuyển động quanh nên được gọi là -Có không ngừng chuyển động quanh Mặt trời, chúng cùng với Mặt Trời tạo thành - Trong hệ Mặt trời, là hành tinh có sự sống (Bài 61, Trái Đất là một hành tinh trong Hệ Mặt trời, TN-XH 3) Ví dụ 2: Điền vào chỗ những từ mà em cho là thích hợp: Đồng bằng Bắc bộ có dạng hình ,với đỉnh ở , cạnh đáy là Đây là đồng bằng châu thổ lớn của nước ta, do sông và sông bồi đắp nên. Đồng bằng có bề mặt , nhiều , ven sông có để ngăn lũ. IV. MỘT SỐ HƯỚNG DẪN VỀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ CÁC MÔN VỀ TN- XH 1. Đối với môn TN-XH 1,2,3 Việc đánh giá kết quả học tập môn TN-XH cần quan tâm đến các mặt kiến thức, kỹ năng, thái độ theo mục tiêu cụ thể của môn học. GV cần chú trọng đến việc đánh giá bằng lời nhận xét cụ thể mà không cho điểm. Bên cạnh đó cần tạo điều kiện cho HS tự đánh giá lẫn nhau thông qua các hoạt động học tập. Về hình thức, có thể sử dụng vấn đáp, trắc nghiệm, bằng cách quan sát nhận xét thái độ học tập của HS trong tiết học. 2. Đối với môn Khoa học. Việc đánh giá kết quả học tập của HS cần quan tâm đến các mặt : kiến thức, kỹ năng, thái độ theo mục tiêu cụ thể của môn học. -Đánh giá bằng điểm số kết hợp với nhận xét . 42
  43. - Phối hợp các hình thức kiểm tra miệng, kiểm tra viết - Sử dụng các loại câu hỏi tự luận, câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra, đánh giá. 3. Đối với môn Lịch sử và Địa lý Theo tinh thần đổi mới PPDH, việc kiểm tra, đánh giá trong môn LS và ĐL cần dựa trên các định hướng sau: - Nên kiểm tra sự hiểu bài và khả năng vận dụng của HS, không nên yêu cầu HS học thuộc lòng. - Đa dạng hoá các hình thức kiểm tra, chú trọng hình thức kiểm tra bằng trắc nghiệm để kiểm tra được toàn diện, khách quan. - Điểm tổng kết cuối học kỳ hoặc cả năm của HS thực hiện bằng cách lấy điểm số trung bình của 2 điểm Lịch sử và Địa lý, có kèm theo lời nhận xét. THỰC HÀNH: Thiết kế bài kiểm tra đánh giá các môn: TN-XH, Khoa học, Lịch sử và Địa lý bằng trắc nghiệm khách quan PHẦN II HƯỚNG DẪN GIẢNG DẠY CÁC MÔN VỀ TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI CHƯƠNG 1: MÔN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI (LỚP 1,2,3) I. MỤC TIÊU CỦA MÔN TN-XH Môn TN-XH nhằm giúp HS: 1. Có một số kiến thức cơ bản, ban đầu về: - Con người và sức khoẻ: Các giác quan, cấu tạo, chức phận của các hệ cơ quan chính trong cơ thể người, cách giữ vệ sinh cơ thể và phòng tránh bệnh tật, tai nạn thường gặp. - Một số sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên và xã hội. 2. Bước đầu hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng: -Quan sát, nhận xét, nêu thắc mắc, đặt câu hỏi, biết cách diễn đạt những hiểu biết của mính về các sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên và xã hội. 3. Hình thành và phát triển ở HS thái độ và hành vi: - Ham hiểu biết khoa học - Có ý thức thực hiện các quy tắc giữ vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và cộng đồng. - Yêu thiên nhiên, gia đình, trường học, quê hương, có ý thức bảo vệ môi trường. II. HƯỚNG DẪN GIẢNG DẠY CÁC CHỦ ĐỀ CỦA MÔN TN-XH 1. CHỦ ĐỀ: CON NGƯỜI VÀ SỨC KHOẺ 1.1. Mục tiêu: a. Kiến thức: Cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, ban đầu về: - Vị trí, chức năng, cấu tạo của các hệ cơ quan chính trong cơ thể người và cơ sở khoa học của vệ sinh thân thể. 43
  44. - Một số bệnh tật liên quan đến các cơ quan đó và cách phòng tránh. b. Kỹ năng: Biết quan sát, nhận xét, mô tả các cơ quan trong cơ thể người, các loại bệnh tật liên quan đến các cơ quan đó. - Biết ứng xử hợp lý trong đời sống để phòng tránh một số bệnh thông thường, biết tự chăm sóc, giữ gìn sức khoẻ cho bản thân c. Thái độ: Giáo dục giá trị nhân văn cho học sinh thể hiện ở những khía cạnh sau: hình thành cho học sinh nếp sống lành mạnh, khoa học, có ý thức giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh dinh dưỡng. 1.2. Nội dung chủ đề: Lớp 1: - Các bộ phận bên ngoài của cơ thể, các giác quan (mắt, mũi, lưỡi, tai, da) và vai trò nhận biết thế giới xung quanh của chúng. -Sơ lược về sự phát triển ở người (sự phát triển về chiều cao, cân nặng, nhận thức). Vệ sinh thân thể, bảo vệ các giác quan, ăn uống, nghỉ ngơi, vui chơi hợp lý, có lợi cho sức khoẻ. Lớp 2: - Cơ quan vận động: Hệ xương và hệ cơ, phòng chống cong vẹo cột sống, tập thể dục và vận động thường xuyên để cơ, xương phát triển. - Cơ quan tiêu hoá: nhận biết trên sơ đồ, vai trò của từng bộ phận trong hoạt động tiêu hoá, ăn, uống sạch, phòng nhiễm giun. Lớp 3: - Cơ quan hô hấp: nhận biết trên sơ đồ, hoạt động của nó, vệ sinh cơ quan hô hấp, phòng một số bệnh lây qua đường hô hấp. - Cơ quan tuần hoàn: nhận biết trên sơ đồ các bộ phận của nó, hoạt động tuần hoàn, vệ sinh cơ quan tuần hoàn, phòng bệnh tim mạch. - Cơ quan bài tiết nước tiểu: cấu tạo, chức phận, hoạt động của nó, vệ sinh cơ quan bài tiết nước tiểu. - Hệ thần kinh: Cấu tạo, hoạt động, vệ sinh thần kinh. 1.3. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học Chương trình dành 38 tiết để dạy những bài có nội dung về con người và sức khoẻ ở cả ba lớp. 3.1 Đối với các bài về cơ thể người: - GV có thể tổ chức cho HS quan sát tranh ảnh, mô hình, sơ đồ kết hợp thảo luận nhóm để nhận biết vị trí, hình dạng của từng hệ cơ quan trong cơ thể. Có thể cho HS xác định vị trí của chúng trên cơ thể mình hoặc của bạn. Ví dụ: Khi học bài "Cơ quan 44
  45. tiêu hoá"( TN-XH 2) sau khi cho HS quan sát sơ đồ các cơ quan tiêu hoá GV có thể cho HS tập xác định vị trí của chúng trên cơ thể mình hoặc của bạn. - Để tìm hiểu hoạt động của các hệ cơ quan, GV cần tạo điều kiện cho HS thử nghiệm ngay trên cơ thể mình và phân tích các hoạt động đó. Ví dụ: Khi tìm hiểu về hoạt động hô hấp trong bài" Hoạt động thở và cơ quan hô hấp"(TN-XH 3) GV cho HS thực hiện động tác hít vào thật sâu và thở ra hết sức, hướng dẫn các em vừa làm, vừa theo dõi cử động phồng lên xẹp xuống của lồng ngực khi hít vào, thở ra. 3.2. Đối với các bài về sức khoẻ: Mục tiêu của các bài về sức khoẻ là giúp HS có nhận thức, thái độ và hành vi đúng đắn về các vấn đề sức khỏe. Vì vậy, khi dạy các bài học này GV có thể tổ chức cho HS quan sát các hình ảnh trong SGK, liên hệ thực tế, thảo luận theo nhóm và cả lớp để giúp các em biết được nên và không nên làm gì để bảo vệ sức khỏe cho bản thân và gia đình, từ đó các em có những thái độ và hành vi đúng đắn. - GV có thể tổ chức cho HS thực hành để củng có những kiến thức, kỹ năng về sức khoẻ như thực hành đánh răng, rửa mặt. GV có thể sử dụng đóng vai để qua đó học sinh thể hiện nhận thức, thái độ của mình về các vấn đề sức khoẻ. Ví dụ khi dạy bài "Bệnh lao phổi" (TN-XH 3), GV có thể tổ chức cho HS đóng vai bác sĩ, bệnh nhân để qua đó các em tìm hiểu về nguyên nhân, triệu chứng, tác hại của bệnh lao phổi một cách sinh động, hấp dẫn. Tiếp đó GV có thể cho HS thảo luận cả lớp về các biện pháp phòng tránh bệnh lao phổi. Về hình thức tổ chức dạy học: cần sử dụng phối hợp các hình thức dạy học cá nhân, nhóm, cả lớp. Khai thác, sử dụng các trò chơi khác nhau nhằm gây hứng thú nhận thức cho HS. Một số bài có thể tổ chức cho HS thực hành ở ngoài lớp như thực hành đánh răng, rửa mặt( TN-XH 1). Tóm lại, để giảng dạy các bài về con người và sức khoẻ GV cần sử dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học khác nhau như: quan sát, hỏi đáp, thảo luận, thực hành, đóng vai. Cần tạo điều kiện cho HS được thử nghiệm ngay trên chính cơ thể mình để các em thu được biểu tượng về cơ thể người một cách sinh động, chính xác. Ví dụ minh hoạ: Bài 10. Hoạt động bài tiết nước tiểu (TN-XH 3) I. Mục tiêu Sau bài học, HS có thể: -Kể tên các bộ phận của cơ quan bài tiết nước tiểu và nêu được chức năng của chúng. - Giải thích được tại sao hàng ngày mỗi người cần phải uống đủ nước II. Đồ dùng dạy học - Hình cơ quan bài tiết nước tiểu phóng to - Các hình 1,2 SGK trang 22, 23 - Các mảnh bìa có ghi tên các bộ phận của cơ quan bài tiết nước tiểu 45
  46. - Phiếu học tập III. Hoạt động dạy -học Mở bài: GV nêu các câu hỏi cho HS để dẫn dắt vào bài: -Cơ quan nào có chức năng trao đổi khí giữa cơ thể với môi trường bên ngoài? -Cơ quan nào có chức năng vận chuyển máu đi khắp cơ thể? -Ai có thể cho cả lớp biết: cơ quan nào tạo ra nước tiểu và thải nước tiểu ra ngoài? GV: cơ quan tạo ra nước tiểu và thải nước tiểu ra ngoài là cơ quan bài tiết nước tiểu. Cơ quan bài tiết nước tiểu gồm có những bộ phận nào và chức năng của chúng ra sao chúng ta sẽ tìm hiểu qua bài học hôm nay (giới thiệu tên bài học và ghi bảng) Hoạt động 1: Tìm hiểu các bộ phận của cơ quan bài tiết nước tiểu Cách tiến hành Bước 1: Làm việc theo cặp GV yêu cầu 2 HS ngồi cùng bàn quan sát hình 1 trang 22 SGK và chỉ đâu là thận, đâu là ống dẫn nước tiểu, bóng đái, ống đái. Bước 2: Làm việc cả lớp GV treo sơ đồ cơ quan bài tiết nước tiểu phóng to lên bảng, yêu cầu một số HS lên chỉ và nói tên các bộ phận của nó. Một số HS nhận xét GV kết luận (kết hợp chỉ trên sơ đồ): Cơ quan bài tiết nước tiểu gồm 2 quả thận, 2 ống dẫn nước tiểu, bóng đái và ống đái. Hoạt động 2: Tìm hiểu về chức năng của các bộ phận của cơ quan bài tiết nước tiểu Cách tiến hành: Bước 1: Làm việc theo nhóm GV chia HS thành các nhóm, phát phiếu học tập cho các nhóm Phiếu học tập Quan sát hình 2 trang 23 SGK đọc các câu hỏi và câu trả lời của các bạn trong hình rồi hoàn thành các bài tập sau: 1. Thận có chức năng gì? 2. Nước tiểu được đưa xuống bóng đái bằng đường nào? 3. Nước tiểu được chứa ở đâu và thoát ra ngoài bằng đường nào? 4. Mỗi ngày cơ thể chúng ta thải ra ngoài bao nhiêu lít nước tiểu? Bước 2: Làm việc cả lớp Đại diện các nhóm lên trình bày kết quả làm việc của nhóm mình. Các nhóm khác nhận xét, bổ sung ý kiến. GV có thể đặt thêm một số câu hỏi cho cả lớp: 46
  47. -Nước tiểu có mùi gì, màu gì? Giải thích cho HS một số chất có chứa trong nước tiểu. GV yêu cầu một số HS nêu lại chức năng của các bộ phận của cơ cơ quan bài tiết nước tiểu và kết luận: Thận có chức năng lọc máu, lấy ra các chất thải độc hại có trong máu tạo thành nước tiểu. Nước tiểu được đưa xuống bóng đái qua ống dẫn nước tiểu, sau đó được thải ra ngoài qua ống đái. Hoạt động 3: Trò chơi "Ai nhanh hơn?" GV treo 2 sơ đồ cơ quan bài tiết nước tiểu lên bảng (sơ đồ không có chú thích), chia lớp thành 2 đội, mỗi đội cử đại diện lên chơi. GV phát cho mỗi người của 2 đội các mảnh bìa có ghi tên bộ phận của cơ quan bài tiết nước tiểu. Cách chơi: Khi GV hô "Bắt đầu!" từng thành viên của 2 đội lần lượt lên gắn mảnh bìa có ghi tên bộ phận của cơ quan bài tiết nước tiểu tương ứng trên sơ đồ. Hết thời gian chơi đội nào gắn nhanh, gắn đúng thì đội đó thắng cuộc. Cả lớp nhận xét kết quả chơi của 2 đội, GV biểu dương đội có kết quả chơi tốt. THỰC HÀNH: Soạn giáo án và tập dạy các bài về con người và sức khoẻ ở cả ba lớp II. CHỦ ĐỀ XÃ HỘI 1. Mục tiêu: 1.1 Kiến thức: + Giúp học sinh có những hiểu biết cơ bản, ban đầu về gia đình + Giúp học sinh có những hiểu biết cơ bản, ban đầu về nhà trường + Giúp học sinh có những hiểu biết ban đầu về quê hương 1.2 Kỹ năng: Hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng: - Biết quan sát, nhận xét, biết cách diễn đạt những hiểu biết của mình về cuộc sống xung quanh, gia đình, trường học. - Biết cách bảo quản, sử dụng những đồ dùng trong gia đình. - Biết giữ an toàn khi ở nhà, ở trường, trên đường đi học. - Biết giữ vệ sinh nhà ở, trường học, vệ sinh nơi công cộng. -Biết thực hiện một số qui định về an toàn giao thông đường bộ, đường sắt. 1.3 Thái độ: Giáo dục học sinh biết yêu quí, kính trọng, lễ phép với những người thân trong gia đình, họ hàng, có ý thức giúp đỡ bố mẹ những công việc vừa sức. 47