Nẻo về văn hóa văn minh Việt Nam - Phần 2: Nét đặc sắc của một vùng văn hóa hơn trăm lễ hội của Thăng Long ngàn năm (Tiếp theo) - Lê Văn Hảo
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Nẻo về văn hóa văn minh Việt Nam - Phần 2: Nét đặc sắc của một vùng văn hóa hơn trăm lễ hội của Thăng Long ngàn năm (Tiếp theo) - Lê Văn Hảo", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- neo_ve_van_hoa_van_minh_viet_nam_phan_2_net_dac_sac_cua_mot.pdf
Nội dung text: Nẻo về văn hóa văn minh Việt Nam - Phần 2: Nét đặc sắc của một vùng văn hóa hơn trăm lễ hội của Thăng Long ngàn năm (Tiếp theo) - Lê Văn Hảo
- Nẻo về văn hóa văn minh Việt Nam * Việt Nam nước non ngàn dặm Lê Văn Hảo PHẦN 2: Nét đặc sắc của một vùng văn hóa : hơn trăm lễ hội của Thăng Long ngàn năm Mới đây, giữa nhiều hoạt động quan trọng, các nhà Hà Nội học đã làm một việc rất có ý nghĩa là thống kê và mô tả rành mạch 113 lễ hội Thăng Long trên tổng số 240 lễ hội Việt Nam đã ghi nhận được. Đó là những lễ hội
- hiện còn hay mới phục hồi trên địa bàn 7 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành, quả là một kỷ lục trên một vùng văn hóa rộng 900 km2, với ba triệu dân (Lễ hội Thăng Long, Lê Trung Vũ chủ biên, 2001). 113 lễ hội Thăng Long diễn ra từ tháng Giêng đến tháng (Mười) Một âm lịch, nhiều nhất là trong ba tháng đầu năm và tháng Tám (có đến 101 lễ hội, phần lớn là hội làng, hội đình, hội chùa, hội đền), với khoảng 10 hội mang tính chất toàn miền, toàn quốc : những hội liên quan đến Quang Trung Nguyễn Huệ (Đống Đa), An Dương Vương (Cổ Loa), Gióng (nhiều làng), Hai Bà Trưng (nhiều làng), Lý Ông Trọng (làng Chèm), Từ Đạo Hạnh (làng Láng) ; liên quan đến thuần phong mỹ tục và văn hóa nghệ thuật dân gian : thổi cơm thi, đua trải (thuyền), hát ả đào (làng Thị Cầu, Đăm, Lỗ Khê, Lệ Mật và nhiều nữa). Chỉ có Thăng Long xưa mới có tứ trấn Đông Đoài Bắc Nam, một phương thức sáng tạo không gian thiêng của tổ tiên ta phủ lên bốn phương trời, từ đó nảy sinh sức mạnh của thần thánh, hỗ trợ cho uy lực quyền vua thêm vững mạnh mà đất nước và nhân dân cũng thêm phồn thịnh và yên vui. Do đó Thăng Long có lễ hội tứ trấn : hội đền Bạch Mã (ở phương đông), hội đền Voi Phuc( (ở phương tây), hội quán Trấn Vũ (ở phương bắc), hội đền
- Kim Liên (ở phương Nam) là những lễ hội lớn của kinh đô xưa nhằm giữ vững mối tương quan nội lực của một vùng đất anh hùng và văn hiến. Và cũng chỉ Thăng Long xưa mới có tứ bất tử, bốn vị thần có công với dân với nước nên được tôn vinh lâu dài trong sinh hoạt văn hóa chốn kinh kỳ, và lễ hội tứ bất tử, gồm hội Tầm Xá, hội Phù Đổng, hội phủ Tây Hồ và hội Chử đạo tổ vẫn thịnh hành để đề cao những thánh Tản, thánh Gióng, mẫu Liễu Hạnh, Chử Đồng Tử, và đề cao luôn nàng Tiên Dung vì cả hai đều là biểu tượng cho lòng nhân hậu, hiếu thảo, vị tha, cho tình yêu bền vững không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, cho tinh thần năng nổ kinh doanh, đi đôi với ý chí hạnh phúc, nghị lực đổi đời. Vì vậy, số lượng lớn và chất lượng của lễ hội Thăng Long có một tầm cao văn hiến đáng kể. Từ cuộc sống không ngừng sáng tạo đến con người thanh lịch của chốn kinh kỳ ngàn năm Đã nói đến một ngàn năm tinh hoa văn hóa nghệ thuật của đất Thăng Long từ khi có tháp Báo Thiên, chuông Qui Điền, đã nói đến nghệ thuật ẩm thực, văn hóa lễ hội thì cũng phải nói đến cuộc sống không ngừng sáng tạo nơi 36 phố phường, với hàng chục, hàng trăm ngành nghề, sản phẩm thủ công mỹ thuật mỹ nghệ : từ
- tranh Hàng Trống, tranh Kim Hoàng đến gốm Bát Tràng, giấy dó Bưởi, tơ lụa, chạm bạc, chạm gỗ, sơn mài, khảm trai, đúc tượng, đúc chuông, trồng rau, trồng hoa làm cho cuộc sồng thêm đẹp, vui, hấp dẫn. Từ bao đời các nghệ sĩ, nghệ nhân Thăng Long không ngừng sáng tạo những vở chèo, vở tuồng, tiết mục múa rối, chuyện tích dân gian, ca múa nhạc dân gian, trò chơi, trò diễn, thuần phong mỹ tục, cùng với hàng trăm đình chùa, đền miếu để tô điểm cho kinh đô như các nhà Hà Nội học đã tổng kết trong bộ Địa chí văn hóa dân gian Thăng Long Đông Đô Hà Nội (1991). Quên sao được những bài ca dao đa tình : Chàng về thiếp nhớ đăm đăm, Giường trên chiếu dưới ai nằm đêm nay, Chàng về thiếp nhớ lắm thay, Giường trên chiếu dưới đêm nay ai nằm.
- Quên sao được những làn điệu chèo : hát cách, hát sắp, làn ngay, làn thảm, sử xuân, sử rầu, cách cú, đường trường, gà rừng, lới lơ với những hình tượng khó quên : Thị Kính hàm oan, Thị Mầu lẵng lơ, Xúy Vân giả dại, Đào Huế đánh ghen, Tuần Ty ngọng nghịu Quên sao được những làn điệu ca trù, hát xẩm, qua biểu diễn của những nghệ sĩ dân gian thiên tài Quách Thị
- Hồ, Hà Thị Cầu Kể sao cho hết những sáng tạo trăm màu nghìn vẻ của chốn kinh kỳ mãi mãi tiêu biểu cho nền văn minh Việt Nam, cho nét thanh lịch Việt Nam qua những dáng dấp Hà Nội vô cùng đáng yêu ! Rồi một câu hỏi được đặt ra : những phẩm chất gì đã làm nên tinh hoa ấy ? Theo nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc : "Trước hết đó là yêu nước, yêu dân tộc Thứ đến là nghị lực, một nghị lực lớn kết tinh của ý chí mạnh mẽ, khả năng hành động và đức tính bền bỉ Kế đó là chất thông minh và tài hoa. Thông minh thì nhạy cảm, nghĩ nhanh, lắm sáng kiến, đồng thời cũng năng động Luôn luôn tạo ra cái mới, sản phẩm mới, thơ văn mới, nghệ thuật mới ; óc sáng lại thêm khéo tay và tài hoa nên nghề giỏi, sản phẩm - vô thể và hữu thể - đều tinh xảo, hoàn mỹ. Cuối cùng là lòng nhân hậu. Kẻ Chợ là thương trường lớn, mà thương trường là chiến trường nhưng con người vẫn giữ được lòng nhân hậu. Dân tứ chiếng đến quần cư mà hòa đồng, mà nương tựa vào nhau Ở thôn quê có người hàng xóm, hàng xã thì kinh đô có người hàng phố, hàng phường với nhau. Tất cả làm ra chất lịch lãm Tràng An, sang mà tinh tế, mà ý nghĩa của nó là lòng tôn trọng các giá trị
- tinh thần, đạo lý, văn hóa trong làm ăn, ứng xử, sinh hoạt lành mạnh". Đã có nhiều năm sống ở Hà Nội tôi cảm nhận sâu sắc lới nói ấy là sự thật. Bốn xứ Đông - Đoài - Nam - Bắc của đại vùng văn hóa đồng bằng Bắc bộ Bốn vùng văn hóa : bốn xứ Đông-Đoài-Nam- Bắc Giữa lòng miền đồng bằng Bắc Bộ, cái nôi của nền văn minh sông Hồng, nền văn hóa Việt cổ , có vùng văn hóa Thăng Long-Hà Nội , và chung quanh bốn phương tám hướng có bốn vùng văn hóa Đông Đoài Nam Bắc đã làm nên đại vùng văn hóa Bắc Bộ Việt Nam ngàn năm. Người Thăng Long xưa tự hào mình là người Kẻ Ch ợ và gọi những kẻ từ khắp nơi khắp chốn đến với kinh đô, là dân tứ xứ ( Đông Đoài Nam Bắc ) hay dân tứ trấn (Hải Đông, Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc) hay dân tứ chiếng (chữ "chiếng" đọc trại từ chữ trấn mà ra) với sắc thái xem thường (nhiều hay ít) : "trai tứ chiếng, gái giang hồ". Rời Thăng Long, đi theo hướng tây-đông rồi nam- bắc, chúng ta sẽ lần lượt làm quen với bốn vùng văn hóa gọi theo người xưa là : xứ Đoài , vùng đất của các tỉnh
- trung du Phú Thọ, Vĩnh Phúc và tỉnh đồng bằng Hà Tây ngày nay ; xứ Đông, vùng đất của các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, lên một chút là Hải Phòng, xuống một chút là Thái Bình ; xứ Nam là vùng đất của Hà Nam, Nam Định, xuống một chút là Ninh Bình ; và xứ Bắc, vùng đất của Bắc Ninh, Bắc Giang ngày nay. Văn hóa xứ Đoài, từ trung du đến đồng bằng Bắc Bộ Xứ Đoài có Phú Thọ, Vĩnh Phúc ở phía bắc, Hà Tây ở phía nam, tiếp giáp Thăng Long - Hà Nội. Phú Thọ - Vĩnh Phúc là đất trung du, nơi gặp gỡ của ba dòng sông lớn : Hồng, Lô, Đà, nơi có kinh đô Phong Châu của vua tổ Hùng Vương, nơi người Việt cổ tổ tiên ta, con cháu rồng Lạc tiên Âu, đã dựng nước Văn Lang rồi Âu Lạc, đã sáng tạo nên những trống đồng, thạp đồng to đẹp, tượng trưng cho một văn hóa Đông Sơn hay văn hóa Lạc Việt, hay văn minh sông Hồng cách nay trên dưới ba ngàn năm. Từ lâu dân ta vẫn luôn tâm niệm : "Dù ai đi ngược về xuôi, Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba". "Tổ" ấy là các vua Hùng và hội đền Hùng từ xưa đến nay vẫn là một lễ hội lớn của cả dân tộc. Tại xã Hy Cương (huyện Phong Châu, Phú Thọ), đền Hùng là một
- quần thể kiến trúc hoành tráng gồm nhiều đền đài và di tích, mỗi năm tiếp đón hàng chục vãn khách hành hương giỗ tổ. Bên cạnh lăng vua Hùng c ó giếng ngọc, nơi các công chúa Ngọc Hoa, Tiên Dung đã từng soi bóng; có cột Đá Thề, tương truyền vua Thục đã dựng để thề nguyền gìn giữ cơ nghiệp Hùng Vương. Trong ngày hội đền trên núi Nghĩa Lĩnh có nghi lễ rước voi với ý nghĩa muôn loài qui phục vua Hùng, có người Mường và người Việt cùng đánh trống đồng, cồng chiêng, cùng rước cỗ (bánh dầy, bánh chưng, xôi nhiều màu), rước kiệu bay, đua thuyền rồng trên hồ Đa Vai dưới chân núi Tất cả để tỏ lòng biết ơn vua Tổ đã dựng nước, thương dân, dạy dân trồng lúa, tắm chung với dân trên các bến sông Hồng Lô Đà ( Bạch Hạc, Việt Trì ) một địa chỉ quen thuộc của các nhà khảo cổ học Việt Nam hôm qua và ngày nay. Người Việt nào muốn nghe những điệu dân ca, những điệu múa cổ nhất, xin mời đến một số làng ở Phú Thọ gặp những nhóm gái trai đã kết nghĩa với nhau để hát ghẹo trong ngày hội xuân. Họ hát những bài rất trữ tình, và hai bên gọi nhau là quan anh, quan chị, tự mình xưng là em, cho nên hát ghẹo Phú Thọ còn có tên là hát Anh Chị. Cũng có thể làm quen với những phường Xoan (ở các làng Thét, Phù Đức, Kim Đới, An Thái của huyện
- Phong Châu để thưởng thức các điệu hát Xoan, múa Xoan, của các họ Xoan biểu diễn tại nhiều đình làng từ mùng 5 tết đến hết mùng 10 tháng 4 lịch âm. Mỗi cuộc hát Xoan gồm ba chặng : lề lối, quả cách và bỏ bộ. Hát và múa đều tuân theo trình tự nghiêm ngặt và phong cách cổ kính. Rời tiểu vùng văn hóa đất tổ Phú Thọ-Vĩnh Phúc đi về hướng nam sẽ gặp tiểu vùng văn hóa Hà Tây của xứ Đoài (trấn Sơn Tây xưa). Tỉnh lỵ của Hà Tây, thị xã Hà Đông chỉ cách Hà Nội 11 km. Hà Tây có hai núi : Tam Đảo, Ba Vì (còn gọi là Tản Viên) cao 1.280 mét, quê hương của Sơn Tinh mà dân địa phương cung kính gọi là thánh Tản, hay Tản Viên sơn thánh được thờ ở nhiều đình, đền, miếu. Hà Tây có bốn sông : Hồng, Đà, Đáy, Nhuệ. Đây là quê hương của nhiều anh hùng, danh nhân, từ Hai Bà Trưng, Phùng Hưng đến Ngô Quyền, Nguyễn Trãi, nơi có nhiều làng nghề nổi tiếng : gấm và lụa vân Vạn Phúc, lụa, the, lĩnh La Khê, tiện gỗ Nhị Khê, thợ nề thợ mộc làng Chàng. Bên cạnh nhiều đền thờ anh hùng, danh nhân là những ngôi chùa danh bất hư truyền : Đậu, Mía, Thầy, Hương Tích, Tây Phương đã cùng với những ngôi đình cổ kính nhất của các thế kỷ 16, 17 : Chu Quyến (đình Chàng), Tây Đằng, Yên Sở, Sơn Lộ, Hạ Hiệp đã
- đi vào lịch sử văn hóa nghệ thuật Việt Nam. Về âm nhạc dân gian, Hà Tây nổi tiếng với hai loại dân ca nghi lễ : hát Rô (Dô) và hát Chèo Tàu, thịnh hành cách nay nhiều thế kỷ. Hát Rô ở xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai gồm 22 bài được hát lên để tôn vinh thánh Tản, trong đó có 10 bài vừa hát vừa múa, gọi là hát bỏ bộ. Sôi nổi hơn nữa là hội hát Chèo Tàu ở bốn thôn của xã Tân Hội, huyện Đan Phượng, gắn với tục sùng bái và thờ cúng Hai Bà Trưng, Triệu Quang Phục, Lý Phật Tử. Đây là một tập hợp nhiều diễn xướng , nghi lễ, điệu hát và điệu múa trình bày trên các sân khấu mô phỏng hình thuyền ( tàu ) và voi ( tượng ) thu hút đông đảo khán thính giả xứ Đoài, Thăng Long và các xứ khác. Trong hàng chục lễ hội của Hà Tây, hội Chùa Hương là vô địch về thời gian mở hội (từ rằm tháng giêng đến hết tháng ba) cũng như về số lượng khách hành hương vãn cảnh (nhiều chục vạn nam phụ lão ấu) . Nếu khách du có sức khoẻ , nhiệt tình hay đức tin thì có thể dự hội nhiều ngày , qua nhiều lộ trình đồi suối dài nhiều kilômét giữa một tắng cảnh tuyệt vời từ bến Đục qua suối Yến để đến với hơn một chục đền chùa hang động mà điểm đỉnh là động Hương Tích " Nam thiên đệ nhất động " mịt mù hương khói. Khắp nơi vang lên tiếng chào " nam mô a di đà Phật " thành kính và nhân hậu,
- thỉnh thoảng bị phá bỉnh bởi những tiếng tán thán lạc đề " nam mô chao ôi là đẹp " hay " nam mô chao ôi là mệt " của tuổi trẻ nghịch ngợm trêu nhau nhưng rồi tuổi già cũng sẵn sàng mỉm cười bỏ qua. Chùa Hương với dòng nước xanh xiết bao êm đềm Con thuyền đưa tôi tới nơi thần tiên" Văn hóa xứ Đông, từ vịnh Hạ Long đến sông nước Thái Bình Xứ Đông có hạt nhân là trấn Hải Đông xưa, nhưng bao gồm một vùng văn hóa rộng lớn ở phía đông Thăng Long, đó là phần đất bắt đầu từ Hưng Yên-Hải Dương, ngược lên phía bắc đến Hải Phòng, Quảng Ninh, xuôi về phía nam đến tận Thái Bình. Đây là quê hương của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Hữu Trác, Lê Quí Đôn với nhiều di tích thắng cảnh : lăng vua Trần, đền Chử Đồng, Phố Hiến, đền Kiếp Bạc thờ đức thánh Trần, Côn Sơn mang kỷ niệm bất diệt của Nguyễn Trãi Xứ Đông cũng có nhiều sông, hồi, đầm: các sông Hồng, Thái Bình , Kinh Thầy, hồ Nhân Huệ, đầm Dạ Trạch Đặc sản xứ Đông được cả nước hâm mộ là nhãn lồng Hưng Yên, vải thiều Thanh Hà, gà Đống Cao, táo Gia Lộc, bánh đậu xanh Hải Dương Nói đến xứ Đông, trước hết phải nhắc đến Phố
- Hiến vang bóng một thời như dân ta đã ca ngợi : "nhất Kinh Kỳ, nhì Phố Hiến", từng là một đô thị thương nghiệp quan trọng của Đại Việt của các thế kỷ 17, 18 ở Đàng Ngoài. Nằm bên bờ sông của thị xã Hưng Yên, Phố Hiến đã dung nạp nhiều thương điếm của Hà Lan (từ 1637), Anh (từ 1673), Pháp (từ 1680), v.v. Bên cạnh các thương điếm của Trung Quốc, Nhật Bản đã có mặt từ thế kỷ 16. Từ Phố Hiến, thương nhân Đại Việt đã xuất khẩu ra nhiều nước Á-Âu những mặt hàng có giá trị : quế, sa nhân, xạ hương, lưu huỳnh, thiếc, đồ sành sứ (Bát Tràng, Chu Đậu), đồ sơn, đường, gạo, vải, nhãn, cau, hồ tiêu cùng một số mặt hàng quí hiếm như bông vải, lụa, đũi, sa Phố Hiến có 20 phố phường vừa sản xuất vừa buôn bán như Hàng Cau, Hàng Cá, Hàng Da, Hàng Nón Hoa, Hàng Nhuộm, Hàng Sũ Phố Hiến còn nổi tiếng với đình Hiến Nam, chợ quốc tế Vạn Lai Triều. Cảnh quan buôn bán tại đây cũng tấp nập như Hội An xứ Đàng Trong cùng thời, nhưng với thời gian Phố Hiến dần dần bị sa sút và đã suy tàn vào cuối thế kỷ 18. Về ca nhạc dân gian, hát đúm là một sinh hoạt dân ca có ở nhiều vùng của đồng bằng Bắc Bộ nhưng độc đáo nhất và nổi tiếng là hát đúm Thủy Nguyên của vùng Hải Phòng. Đây là tiếng hát của những cô thợ dệt, những
- bà mẹ quay xa do cảm hứng trong khi vừa dệt vải kéo sợi vừa nghe tiếng xa quay sè sè, tiếng ống suốt ro ro, tiếng thoi đưa lách cách mà bật lên tiếng hát. Hội chọi trâu Đồ Sơn được tổ chức hàng năm như nhân dân vùng Hải Phòng và xứ Đông từng tâm niệm : "Dù ai buôn đâu bán đâu Mồng mười tháng tám chọi trâu thì về" Ba làng Đồ Sơn, Đồ Hải, Ngọc Xuyên gồm 14 thôn, mỗi thôn chọn một trâu đực từ 8 đến 10 tuổi cho một chàng trai chưa vợ và khỏe mạnh chăn nuôi. Cuối tháng 7 có chọi thử chọn ra ba đôi trâu khỏe nhất để thi chọi ngày hội. Đấu trường (gióng) là khu đất trống trước đình làng Đồ Sơn. Sáng ngày hội, từng cặp trâu thi có vải che mắt được trịnh trọng rước vào gióng trong tiếng trống thúc liên hồi. Bỏ vải che mắt ra, chúng bắt đầu chọi nhau giữa tiếng reo hò ầm ĩ của nhiều ngàn khán giả. Làng nào có trâu thắng sẽ được thưởng. Nhưng được hay thua tất cả đều biọ mổ thịt tế thần, tế xong thịt được chia cho cả ba làng và những người có công nuôi trâu. Đây là lễ hội vừa đề cao tinh thần thượng võ vừa khuyến khích tài năng chăn nuôi con vật có ích của nghề nông. Hội Chử Đồng Tử diễn ra tại làng Yên Vinh, xã DạTrạch, huyện Châu Giang, Hải Dương, nơi có đầm Dạ Trạch. Hội gồm nhiều trò hấp dẫn như lễ dâng hương
- ghi nhớ công ơn vợ chồng Tiên Dung, Chử Đồng đối với dân, múa Tiên, múa Sư Tử, múa Con Đĩ đánh bồng, đấu vật, chọi gà, bắt vịt Cái đinh của hội là đám rước kiệu Tiên Dung và Chử Đồng, một đám rước thật dài và thật trọng thể qua nhiều bờ bãi quanh làng về đến đền Dạ Trạch là một dịp để dân làng và dân vùng thưởng thức các tiết mục diễn xướng, trò chơi dân gian tiêu biểu của xứ Đông. Hội đền Kiếp Bạc là lễ hội lớn của toàn xứ và toàn quốc, thuở xưa được đại diện của triều đình chủ trì, tổ chức tại xã Vân Yên, huyện Chí Linh, Hải Dương, để tưởng niệm anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, qua nhiều nghi lễ và trò vui mà nổi bật là lễ dâng hương trọng thể và cuộc thi bơi trãi tưng bừng, kỷ niệm cuộc thủy chiến xưa trên sông Bạch Đằng hiển hách do hai tì tướng Yết Kiêu và Dã Tượng chỉ huy. Đêm đến hàng ngàn khúc chuối cắm nến, cắm hương được thả xhống sông để tưởng niệm các chiến sĩ đội thủy quân của đức thánh Trần. Nhiều nghi lễ cúng bái, sóc thẻ, lên đồng diễn ra trong suốt mấy ngày hội không làm phai mờ tinh thần yêu nước, ghi nhớ chiến công có một không hai của quân và dân Đại Việt chống rợ Mông Cổ đã reo rắc tai họa cho nhiều dân tộc Á Âu thời Trung Cổ. Hội Chùa Keo của xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư,
- Thái Bình, gồm hội Xuân và hội Thu. Hội Xuân mở từ mùng 4 Tết, kéo dài nhiều ngày với nhiều trò vui : thi thổi cơm, thi bắt vịt, thi ném pháo Hội Thu diễn ra từ 13 đến rằm tháng 9 với nhiều tiết mục hấp dẫn : lễ rước kiệu thánh Không Lộ, múa vồ ếch, múa chèo cạn ban đêm, thi bơi trãi ban ngày với sự tham gia của 8 giáp. Mỗi trãi có 24 tay đua , mặc khố, chít khăn, đua ba vòng trên khúc sông Thái Bình trước chùa. Ở miền Bắc nhiều nơi có chùa mang tên chùa Keo nhưng nổi tiếng nhất là Chùa Keo Thái Bình với một kiệt tác của kiến trúc tôn giáo Việt Nam là tháp chuông thật đẹp đẽ, cao 12 m, gồm ba tầng treo ba quả chuông lớn nhỏ, bộ khung của tháp chuông làm bằng gỗ quí, kết cấu phức tạp, tinh vi, gồm một hệ thống cột, xà, đấu, con sơn, lan can liên kết nhau chủ yếu bằng mộng ngầm, nâng 12 mái ngói với 12 đầu đao uốn cong như 12 cánh của một đóa sen vĩ đại đang nở. Vùng văn hóa xứ Nam, với di tích của ba triều đại và một vùng thiên nhiên đẹp Xứ Nam là trấn Sơn Nam xưa, vùng đất của ba tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình. Xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, nay còn di tích Hoa Lư, kinh đô của Đại Cồ Việt thời Đinh-tiền Lê, từ 968 đến 1009 trước khi Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long. Thành Hoa Lư với diện
- tích hơn 300 hecta đã giữ lại cho những nhà khảo cổ học Việt Nam hàng trăm di vật quí báu như những cột kinh Phật, những viên gạch lớn mang dòng chữ : "Giang Tây quân" hay "Đại Việt quốc quân thành chuyên", các di tích cung điện cho phép nói đến một văn hóa Hoa Lư (thế kỷ 10) trước thời kỳ nở rộ của văn hóa Thăng Long (thế kỷ 11-18). Ở các huyện Gia Viễn, Hoa Lư, Nho Quan của Ninh Bình, núi đá vôi bị xâm thực mạnh để lại giữa vùng đồng trũng một thắng cảnh "vịnh Hạ Long trên cạn". Thắng cảnh Bích Động được gọi là Nam Thiên đệ nhị động (sau chùa Hương), hang Tam Cốc và động Địch Lộng có chùa được gọi là Nam Thiên đệ tam động, thắng cảnh núi Non Nước (Dục Thúy), nhà thờ Phát Diệm, một kiệt tác được xây dựng cuối thế kỷ 19 theo nghệ thuật kiến trúc hoàn toàn Việt Nam như một ngôi đình vĩ đại, vườn quốc gia Cúc Phương Tất cả đã biến tiểu vùng văn hóa Ninh Bình thành một khu vực vào loại đẹp đẽ nhất của tổ quốc. Hà Nam-Nam Định, trước hết là quê hương của các vua Trần (1226-1400). Tại thôn Tức Mạc, xã Lộc Vương, ngoại thành Nam Định, có đền Trần gồm đền Thượng và đền Hạ. Đền Thượng thờ 14 vua và các tướng nhà Trần. Đền Hạ thờ Trần Hưng Đạo của các
- tướng có công đánh dẹp quân Mông-Nguyên. Quanh đó còn có đền thờ Trần Thủ Độ, Trần Quang Khải. Hội đền Trần mở ba năm một lần vào tháng 3 là một lễ hội lớn của xứ Nam. Hội Trường Yên ở Ninh Bình được tổ chức tại đền vua Đinh Tiên Hoàng và đền vua Lê Đại Hành với nhiều trò diễn : rước rồng, cờ lau tập trận, kéo chữ, đua thuyền trên sông Hoàng Long. Hội mở từ mùng 10 đến rằm tháng 3 và kết thúc bằng trò đốt pháo bông truyền thống: các nghệ nhân pháo bông tài giỏi nhất của xứ Nam đã sáng tạo được hình ảnh vua Đinh mặc hoàng bào cưỡi rồng hiện lên rực rỡ giữa không trung. Đây là kỳ công của mỹ thuật mỹ nghệ dân gian không thấy ở các lễ hội khác. Hội Phủ Giầy, mở từ mùng một đến mùng 10 tháng 3 tại xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định. Nghi thức đáng chú ý là lễ rước kiệu thánh mẫu Liễu Hạnh từ Núi Gôi về hai phủ Tiêu Hương và Vân Cát. Có thể đây là đám rước long trọng nhất, tốn kém nhất với nhiều cô gái đồng trinh đẹp đẽ có vinh dự được chọn để khiêng long đình, võng lọng, cờ quạt của Thánh Mẫu. Sau đám rước , nghi lễ lớn thứ hai là trò Kéo Chữ (xếp chữ), một trò đồng diễn thể dục công phu và đẹp mắt để xếp cho được nhiều chữ Hán mang ý nghĩa chúc tụng như " thiên
- hạ, thái bình " , "quốc thái, dân an " Hội còn nhiều sinh hoạt văn hóa dân gian khác như hát văn, chèo, tuồng, trống quạn, ca trù, đấu vật, kéo co, chọi gà Kiến trúc Phủ Giầy chưa phải là cổ kính nhưng vẫn đẹp: đây là quần thể đền đài mang dấu ấn văn hóa nhà Nguyễn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 cùng thời với lăng Khải Định, và có qui mô hoành tráng hiếm thấy trong hệ thống hệ thống kiến trúc tôn giáo Việt Nam. Hội vật võ Liểu Đôi, tổ chức tại làng Liễu Đôi, huyện Thanh Liêm, Hà Nam, từ mùng 5 đến mùng 10 tháng giêng, là lễ hội mang tinh thần thượng võ sâu sắc và có qui mô lớn trong hệ thống lễ hội truyền thống. Hội diễn ra tại đền Thánh Ông họ Đoàn và đền Tiên Bà họ Bùi. Điều đặc biệt là tại hội vật võ này có nhiều thiếu nữ và phụ nữ cùng tham gia với đao, côn, kiếm. Lễ nổi lửa được cử hành tượng trưng cho ánh hào quang phát ra từ kiếm thần của Thánh Ông, sau đó là lễ trao gươm, lễ múa cờ tụ nghĩa, rồi hội vật bắt đầu với nghi thức và lề luật riêng của Liễu Đôi. Sau đấu vật là các cuộc thi côn, quyền, kiếm và các cuộc thi nấu các món ăn dân giã bằng lươn, ốc, ếch, cá. Lễ hội độc đáo và kỳ lạ này hàng năm thu hút đông đảo nhân dân nhiều vùng lân cận. Trong lãnh vực ca múa nhạc dân gian, xứ Nam có một thể loại độc đáo là hát dậm Quyển Sơn, còn gọi là
- hát dậm Hà Nam, một hệ thống dân ca nghi lễ được trình diễn trước bàn thờ danh tướng Lý Thường Kiệt tại đền Quyển Sơn. Toàn bộ cuộc mùa hát gồm nhiều chặng được hát lên bằng nhiều làn điệu dân ca khác nhau với những tiếng đưa hơi rất cổ kính như " lê là lê lết lê lết lê la là lai hồi la ". Thể loại dân ca này chỉ dành cho nghệ nhân nữ : khi hát các cô gái xếp thành hai hàng trước bàn thờ, bà trùm đứng một mình ở giữa gõ sên đánh nhịp, các cô vừa hát vừa múa và làm động tác chèo thuyền. Sáng tạo dân gian cổ kính này còn nhiều điều bí ẩn đối với các nhà âm nhạc học và dân tộc học. Vùng văn hóa xứ Bắc, nơi hội tụ hài hòa của vua chúa, tôn giáo và văn nghệ dân gian Xứ Bắc, vùng đất của trấn Kinh Bắc xưa, của hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang nay, là một vùng văn hóa nổi tiếng của tổ quốc, nơi ghi dấu Kinh Dương Vương (lăng mộ còn tại A Lữ, Đình Tổ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh), Lạc Long Quân (đền thờ còn tại Bình Ngô, An Binh, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh), và Âu Cơ (miếu thờ còn tại A Lữ) ; cũng là nơi phát tích của triều Lý (thôn Cổ Pháp, huyện Từ Sơn) : "thứ nhất Cổ Bi, thứ nhì Cổ Loa, thứ ba Cổ Pháp". Xứ Bắc có Luy Lâu, là một trung tâm Phật giáo Việt Nam quan trọng ở miền Đông Á vào đầu công
- nguyên thời Bắc thuộc, tương đương với hai trung tâm lớn của Phật giáo Trung Hoa cùng thời là Lạc Dương và Bình Thành. Xứ Bắc là nơi còn lưu giữ những ngôi chùa, ngôi đình có giá trị lịch sử và nghệ thuật quan trọng nhất của Việt Nam: chùa Dâu, Long Hàm, Lục Tổ, Phật Tích, Đức La, Tam Sơn, Vĩnh Nghiêm ; đình Lỗ Hạnh, Thổ Hà, Phù Lưu, Phù Lão, Đình Diềm, Đình Bảng Xứ Bắc có nhiều làng nghề nổi tiếng : dệt tơ lụa và nhuộm (Đình Bảng), gốm, sành, sứ (Thổ Hà và Bát Tràng), đồ thêu (thị xã Bắc Ninh) cùng những đặc sản : giò chả Từ Sơn, cam Bố Hạ, cát sâm Yên Thế Xứ Bắc cũng là nơi đã sáng tạo ra những đỉnh cao của văn nghệ dân gian : truyền thống ăn ngon, mặc đẹp "ăn Bắc, mặc Kinh", tranh Đông Hồ, hát Quan Họ, hội Lim cũng là nơi nổi tiếng về truyền thống thượng võ và hiếu học. Đây là quê hương của người anh hùng làng Dóng : "Trừ giặc còn hiềm ba tuổi đời là muộn Cưỡi mây vẫn giận chín tầng trời chửa cao" ( Phá tặc đãn hiềm tam tuế vãn Đằng vân do hận cửu thiên đê ) Cao Bá Quát Xứ Bắc cũng là xứ sở của rất nhiều ông nghè, ông
- cống, tiến sĩ, trạng nguyên : "một giỏ sinh đồ, một bồ ông cống, một đống ông nghè, một bè ông trạng" hay "một bồ tiến sĩ, một bị trạng nguyên, một thuyền bảng nhãn" Nói đến vùng văn hóa xứ Bắc phải nhắc đến hai đỉnh cao của nó : hát Quan Họ và hội Lim. Xuất xứ Kinh Bắc, có lẽ hát Quan Họ đã xuất hiện từ thời Lý thế kỷ 11 và những nghệ nhân dân gian già trẻ của 49 làng quan họ Bắc Ninh xưa nay làm chúng ta kinh ngạc và thán phục vì những canh hát thâu đêm của họ trong hội làng, trước cửa chùa, trên sườn đồi, trên mặt hồ. Liền anh quan họ mang ô lục soạn, quấn khăn nhiễu tam giang, áo lương, quần trắng ; liền chị quan họ có nón quai thao, khăn mỏ quạ, áo mớ ba, khuyên vàng, xà tích. Trong canh hát thâu đêm suốt sáng, gái trai quan họ mời chào nhau, tâm tình với nhau bằng lời thơ tiếng hát. Họ hát đôi (đôi nữ, đôi nam) và hát đối (đối lời, đối giọng). Những đội hát gồm nhiều cặp quan họ gái và trai được đào tạo theo kiểu truyền nghề từ thế hệ già đến thế hệ trẻ. Khi " thành đôi " rồi ít khi " xé cặp " . Hát đôi được phân công người hát chính và người hát luồn. Quan họ có tới hai trăm làn điệu khác nhau ( Trần Linh Quý và Hồng Thao, Tìm hiểu dân ca quan họ, Hà Nội,
- 1997 ). Hát đối quan họ còn gọi là " nam tòng nữ " , là trò chơi ca nhạc cao siêu, nhất là khi thi hát. Hát quan họ luôn luôn đối giọng v à đối lời. Liền chị hát bài "Mười thương" thì liền anh trả lời bằng bài "Mười nhớ", nhưng phải đúng giai điệu đó. Làn điệu quan họ đặc sắc nhất có lẽ là bài "Giã bạn": Người ơi, người ở đừng về Người về em những khóc thầm Bên song vạt áo ướt đầm như mưa Người về em đứng trông theo Trông nước nước chảy trông bèo bèo trôi Người về em dặn tái hồi Yêu em xin chớ đứng ngồi với ai Người về em dặn lời rằng Đâu hơn người lấy đâu bằng đợi em Đỉnh cao của nghệ thuật và văn hóa quan họ là hội Lim, diễn ra tại xã Lũng Giang, huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh, ngày và suốt đêm 13 tháng Giêng. Hát ngoài đồi : trong ngày hội Lim các liền anh liền chị đi chơi thành từng nhóm nhỏ, bên nam chưa có bạn thì tìm bên nữ mời họ xơi trầu, nếu nữ thuận nhận trầu tức là nhận lời hát cùng với nam ; cũng có khi nữ chủ động mời nam xơi trầu trước. Trong khi hát với nhau,
- nếu thấy ăn ý về giọng hát và cách đối xử thì hẹn nhau đến một ngày nào đó gặp lại xin kết nghĩa (kết bạn quan họ) với nhau cho đến trọn đời. Hát trong nhà : quan họ khách được hẹn mời từ trước, buổi sáng đến thẳng hội. Quan họ bạn đến cổng làng Lim là hát mừng làng đầu năm mới, mứng nhà, mừng bạn. Quan họ chủ đứng ở sân hát đón khách và hát chúc mừng lại, đưa khách vào nhà, cất nón, cất ô rồi ngồi xuống giường ở hai gian bên cạnh, hoặc hai bên tràng kỷ đối diện nhau mà hát. Không nói bằng lời, tất cả diễn ra hoàn toàn bằng lời thơ, tiếng hát. Hát trên thuyền : gái trai bơi thuyền trên ao hồ hay trên sông Làng Bịu (bên cạnh làng Lim) mà hát đối đáp. Hội Lim là hội giao duyên thi tài của gái lịch trai thanh. Điều thú vị là theo phong tục sở tại, gái trai quan họ đã kết nghĩa với nhau thì không lấy nhau, nhưng gái có chồng và trai có vợ vẫn có thể kết nghĩa và hát với nhau trọn đời, không hề có chuyện ghen tuông, mặc dầu những bài hát quan họ chứa đầy chất thơ lãng mạn của tâm hồn. Họ như là những diễn viên trên một sân khấu tình yêu lý tưởng, hát xong ai về nhà nấy để mà thương mà nhớ. Thực là một phong tục văn nghệ, một văn hóa tình cảm ít thấy trên quả đất này. Xứ Thanh * Xứ Nghệ, gạch nối giữa
- hai đại vùng văn hóa Bắc và Trung Xứ Thanh, xứ Nghệ, dải đất cổ kính kết nối hai đại vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ và ven biển miền Trung Xứ Thanh, xứ Nghệ là cách gọi dân gian thân quen đối với vùng đất Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay. Thanh Hóa có biển đẹp Sầm Sơn, sông Mã bất kham, động Bích Đào kỳ ảo, nhiều di chỉ đá cũ, đá mới, đồng thau lừng danh : Núi Đọ, Đa Bút, Đông Sơn ; nhiều làng mạc cổ : Kẻ Rỵ, Kẻ Chè, Cổ Bôn, Cổ Đô, Bột Đà Trang, Bô Lỗ Trang ; nhiều phong tục lễ hội, trò múa, dân ca độc đáo : trò Xuân Phả, hát ả đào, ví phường vải, hò sông Mã Xứ Thanh cũng là quê hương
- của Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi, Hồ Quí Ly, các chúa Trịnh, chúa Nguyễn, vua Nguyễn, cho nên còn đây đền vua Bà, đền Đồng Cổ, thành Tây Đô, di tích Lam Kinh Nghệ An-Hà Tĩnh nào chịu kém thua về truyền thống lịch sử-văn hóa lâu đời : di chỉ Làng Vạc, Hang Bua, Đền Cuông thờ vua Thục (sánh vai đền miếu Cổ Loa ngoài Bắc), đền và mộ Mai Hắc Đế, Đền Cờn, Đình Hoành Sơn, Phượng Hoàng Trung Đô (suýt qua mặt Phú Xuân nếu Quang Trung không mất quá sớm) ; những di tích lưu niệm Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh Thiên nhiên xứ Thanh : Động Bích Đào, biển Sầm Sơn, vườn quốc gia Bến En Đất nước Việt Nam là nơi có vô số hang động đẹp tuyệt vời. Năm 2001, Nguyễn Quang Mỹ và Haward
- Limbert đã đồng chủ biên một công trình song ngữ đồ sộ là cuốn Kỳ quan hang động Việt Nam - The wonders of Vietnamese Caves , kèm hơn 200 ảnh ( 24 X 24 cm) và nhiều bản đồ từ Lạng Sơn đến Quảng Bình ( nơi có động Phong Nha di sản thiên nhiên thế giới ) nhưng không hiểu sao hai học giả này lại bỏ quên động Bích Đào bất hủ của Thanh Hóa. Còn gọi là động Từ Thức, do gắn với huyền thoại về cuộc tình duyên đẹp dở dang giữa người trần Từ Thức với nàng tiên Giáng Kiều. Động Bích Đào nằm ở dãy núi Thần Phù (xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn). Lê Quý Đôn ở thế kỷ 18 đã từng đến đây tức cảnh đề thơ : " Áo gai phiêu bạt thân Từ Thức / Mây nước già dăm mặt Giáng Hương / Thiên Thai bao kẻ từng xây mộng / Nào biết Thiên Thai cũng hí trường ! " Hệ thống động Bích Đào gồm Động Ngoài, Động Giữa, Động Trong với vô số vú đá, măng đá : Kho Gạo, Kho Tiền, Rồng ấp trứng vàng, Phường Bát Âm (lấy dùi gỗ gõ vào từng vú đá nghe phát ra những thanh âm nhiều cung bậc giống tiếng chiêng cồng, thanh la, trống, khánh, chuông, mõ), Bàn Cờ, Áo Mũ, Ngọn Nến, Hương Án, Đường Lên Trời, Đường Xuống Cõi Âm trăm màu ngàn sắc lấp lánh theo sức tưởng tượng dân gian. Gần động Bích Đào có động Bạch Ác, động Mắt Voi, Chùa
- Tiên đã đi vào ca dao : " Trăng trong gió mát thảnh thơi / Thuyền tình mượn chén hồng mai thay trà " . Ngoài các di tích và thắng cảnh , du khách sẽ thích hai đặc sản là chiếu cói Nga Sơn bền đẹp và thịt lệch ( còn gọi là nhệch ) một giống lươn lớn sống ở vùng cửa sông nước lợ, thơm ngon và rất béo bổ . Lệch khoẻ một cách kỳ là, coi chừng khi bắt những con lệch lớn nhất chúng có thể quấn gẫy cánh tay. Vì người ta cho rằng lệch thưởng thức với rượu ngon là món ăn có tác dụng tăng gân cốt, làm hết mỏi gối chồn chân. Biển Sầm Sơn , cách thành phố Thanh Hóa 16 km, không những là một bãi tắm tuyệt vời mà còn có một quần thể di tích danh thắng hấp dẫn. Bãi tắm Sầm Sơn chạy dài hàng chục km, gồm ba bãi
- cát mịn chen với núi đá đủ các hòn lớn nhỏ, nằm ngồi hay chồng lên nhau , với muôn hình ngàn vẻ. Giữa rừng cây bóng mát có đền Độc Cước, đền Tô Hiến Thành, đền Hoàng Minh Tự, đền Cô Tiên, chùa Khải Minh. Trên đường từ đền Độc Cước đến đền Cô Tiên, du khách sẽ gặp hai hòn đá thật lớn chồng lên trên một bệ đá chênh vênh, lấy tay đẩy thấy rung rinh, thế mà chúng đã đứng trụ vững chãi với gió mưa bão táp không biết tự thuở nào. Dân gian hình dung đây là biểu tượng cặp uyên ương chung thủy và đặt tên là hòn Trống Mái , một thắng cảnh của biển Sầm Sơn đã đi vào cổ tích và ca dao : " Dù ai mưa gió bão bùng / Thiếp tôi vẫn giữ thủy chung với chàng " . Cách thành phố Thanh Hóa 36 km, Vườn quốc gia Bến En (huyện Như Xuân) vừa là khu bảo tồn các nguồn gien (gènes) thực vật, động vật quí hiếm vừa là khu du lịch nghỉ dưỡng lý tưởng. Vườn rộng hơn 16.600 ha, với hồ rộng 4.000 ha, trên mặt nước nhô lên 24 đảo lớn nhỏ ; trong hồ có nhiều loài cá, baba, đặc biệt có giống cá mè Sông Mực ngon nổi tiếng xưa nay. Cùng với hồ, Bến En có rừng nguyên sinh phong phú gồm 462 loài cây thuộc 125 bộ : song, mây dùng làm đồ mỹ nghệ, hương bài, màng tang, sến trẩu làm nước hoa, các giống phong lan làm cây cảnh; cây dược liệu có tới 300 loài ; gỗ quí có
- lim, lát hoa, chò chỉ, đinh hương Co cay lim chu vi den 2,06 m cao gần 50 m già đã mấy thế kỉ . Khu vực rừng và hồ còn có tới 300 loài côn trùng và trên 200 giống vật, trong đó có nhiều giống quí hiếm : voi, báo, cọp, gấu ngựa, sói đỏ, vượn đen, vượn bạc má Khí hậu Bến En mát mẻ trong lành, nhiệt độ trung bình 25 ° thích hợp cho việc nghỉ ngơi, du lịch, nghiên cứu khoa học suốt cả bốn mùa giữa bức tranh sơn thủy hữu tình và hoành tráng. Xứ Thanh, đất anh hùng và đế vương : đến Bà Triệu, đền Lê Đại Hành, thành Tây Đô, khu di tích Lam Kinh Nếu vùng Mê Linh, Xứ Đoài, có hai chị em Bà Trưng, thì Xứ Thanh có hai anh em Bà Triệu : sau khi người anh hùng chống giặc Ngô là Triệu Quốc Đạt mất, cô em Triệu Thị Trinh, dân gian quen gọi là Bà Triệu, được tướng sĩ tôn lên làm chủ soái thay anh. Bà mặc áo giáp vàng, cài trâm vàng, đi guốc ngà, cưỡi voi trận, nói lời khí phách : "Ta chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá kình biển Đông, đánh đuổi giặc Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ chớ không chịu khom lưng làm tì thiếp ". Bà lập căn cứ tại làng Bồ Điền ( h. Hậu Lộc ngày nay ) và đã nhiều lần đánh bại quân Ngô. Chúng khiếp sợ kháo nhau : " Múa ngang ngọn giáo chống cọp dễ / Đối mặt vua Bà khó lắm thay ! ".
- Tháng 2 năm 248, tướng Ngô là Lục Dận đem đại quân đến đánh, bà anh dũng hy sinh tại Bồ Điền. Đền bà được dựng tại đấy, dưới chân ngọn núi Bân. Cách đền 1 km trên đỉnh núi Tùng là mộ Bà; dưới chân núi có mộ 3 anh em họ Lý cũng người làng Bồ Điền , là tùy tướng của Bà. Hằng năm, đến 22 và 23 tháng hai âm lịch, hàng vạn dân khắp vùng, khắp tỉnh hành hương về đây tưởng nhớ vị anh hùng trong một lễ hội lớn có rước kiệu, múa rồng, biểu diễn võ thuật Đền thờ Lê Đại Hành dựng tại xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, trên mảnh đất rộng 40.000 m2. Được sự ủng hộ của thái hậu nhà Đinh Dương Vân Nga, Đại Hành hoàng đế đã đánh tan quân xâm lược Tống ở phía bắc và khuất phục quân Chămpa ở phía nam, giữ vững nền độc lập dân tộc. Hiện nay trong đền vua Lê còn giữ nhiều hiện vật quí hiếm : hai trống đồng Đông Sơn cỡ lớn, một đỉnh đồng, một bình hương đồng đen, một chục chiếc choé, một chiếc dĩa đá màu hồng gọi là dĩa Ngọc Tuyết, đường kính 50 cm, ở giữa lòng đĩa có hai dòng chữ Nho màu đỏ : " Sông Nam một mảnh tuyết / Vượng khí vạn năm còn " . Lễ hội đền vua Lê, diễn ra hai ngày 7, 8 tháng ba âm lịch, với các trò chơi đấu vật, múa võ cũng là một lễ hội lớn của xứ Thanh.
- Cách thành phố Thanh Hóa 45 km, ở phần đất của ba làng Tây Giai, Xuân Giai và Đông Môn (huyện Vĩnh Lộc), một bức thành đá đồ sộ đứng sừng sững từ hơn 600 năm nay , đó là thành Tây Đô (còn gọi là Tây Kinh, Tây Giai) mà từ lâu nhân dân quen gọi là thành nhà Hồ, bởi lẽ người chủ trương xây dựng nó là Hồ Quí Ly, đừng đầu một triều đại ngắn ngủi đầu thế kỷ 15 (1400-1407). Trong giai đoạn này, nhà Trần suy thoái nghiêm trọng. Kinh đô Thăng Long hai lần bị quân Chămpa cướp phá. Triều Minh ở phía bắc nước Đại Việt cũng có âm mưu thôn tính nước ta. Hồ Quý Ly lúc ấy là quan đầu triều giỏi chữ nghĩa, giàu tham vọng, muốn lật đổ nhà Trần lên làm vua để thực hiện những cải cách cần thiết hòng cứu vãn tình thế. Năm 1397 Hồ Quý Ly từ Thăng Long cử Đỗ Tỉnh vào Thanh Hóa, quê hương của họ Hồ, tìm một
- căn cứ địa vững chắc để xây dựng thành trì và chuẩn bị dời đô. Vùng đất huyện Vĩnh Lộc có địa thế khá hiểm yếu nên đã được chọn làm nơi dựng đô mới sẽ gọi là Tây Đô. Thành được xây cấp tốc chỉ sau ba tháng (giêng-ba 1397) đã hoàn thành về mặt phòng thủ. Thành hình chữ nhật, hai mặt nam-bắc dài 900 m, hai mặt đông-tây dài 700 m, cao trung bình 5 - 6 m, có nơi đến 10 m. Thành được đắp đất, mặt ngoài tường thành được ốp đá, toàn những phiến đá rất lớn, dài tới 4,5 m, rộng trên 1 m, nặng tới 15-20 tấn. Mặt trong tường thành đắp đất thoai thoải để quân lính lên xuống dễ dàng. Khối lượng đất sử dụng ước tính trên dưới 1 triệu m3. Mặt thành rộng có đường để voi ngựa đi lại và bố trí các ụ pháo. Thành có bốn cổng : tiền, hậu, tả, hữu. Ba cổng hậu, tả, hữu cao 5,4 m , rộng 5,8 m, dày 13,7 m. Riêng cổng tiền hướng chính nam đồ sộ nhất và vẫn còn hầu như nguyên vẹn : dài tới 30 m, dày 14 m gồm 2 cửa: hai cửa hai bên cao 7,8 m, rộng 5 m, cửa giữa cao 8 m, rộng 5,8 m. Trong nội thành Tây Đô có điện Hoàng Nguyên, Thái miếu, các cung Diên Thọ, Phú Cực, hồ Dực Tương nguy nga tráng lệ không thua kém Thăng Long. Tại Tây Đô đã được tổ chức hai kỳ thi thái học sinh (tiến sĩ), năm 1400 và 1405.Đi dọc bốn phía thành nhà Hồ, nhìn
- những phiến đá khổng lồ chồng khít lên nhau, chúng ta tự hỏi người xưa cách nay hơn 6 thế kỷ đã sử dụng những phương tiện, phương pháp gì để có thể vận chuyển và đưa lên cao những khối đá lớn nặng đến thế ? Ở thế kỷ 16 Phùng Khắc Khoan đã có thơ " Sáng sớm qua Tây Đô " : " Nhuận Hồ phụ tử nay đâu tá ? Để gió lẻ loi quấn quýt người " ! Giữa thế kỷ 20, học giả Louis Bezacier đánh giá thành nhà Hồ là " một trong những tác phẩm đẹp nhất của nền kiến trúc Việt Nam xưa " (Hương Nao, Những thắng tích của xứ Thanh, 1997). Khu di tích Lam Kinh (tên ghép từ Lam Sơn và Kinh Đô) cách Thanh Hóa 50 km, thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, quê hương anh hùng dân tộc Lê Lợi, căn cứ địa đầu tiên của Khởi Nghĩa Lam Sơn, đã có từ đầu thế kỷ 15, sau khi triều hậu Lê được thành lập. Từ đó về sau đã được nhiều lần bổ sung, tu sửa. Ngoài những cung điện như Quảng Đức, Sùng Hiếu , Lam Kinh còn có nhiều lăng miếu như Vĩnh Lăng của Lê Thái Tổ, Hựu Lăng của Lê Thái Tôn, Chiêu Lăng của Lê Thánh Tôn, v.v. Trải qua bao biến thiên lịch sử, các công trình kiến trúc xưa đã bị hủy hoại, chỉ còn một số dấu tích : bốn con rồng đá, những kiệt tác điêu khắc thế kỷ 15 và quí nhất là
- bia Vĩnh Lăng làm bằng một phiến đá cao 2,97 m, rộng 1,94 m, dày 0,27 m, đặt trên lưng một con rùa đá lớn đẹp. Bia được dựng năm 1433, trên mặt bia ghi tiểu sử và công trạng Lê Thái Tổ (Lê Lợi) do Nguyễn Trãi soạn. Đây là tấm bia thuộc loại đẹp nhất, lớn nhất, có giá trị lịch sử và văn học cao trong kho tàng bi ký Việt Nam. Thiên nhiên xứ Nghệ và truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời của một vùng địa linh nhân kiệt Từ thuở đất nước có tên Văn Lang, xứ Nghệ đã là một trung tâm của nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng , với di chỉ Làng Vạc và nhiều di chỉ khác ( Hà Văn Tấn chủ biên, Văn Hóa Đông Sơn ở VN, 1994). Từ thời Bắc thuộc đến thời cận-hiện đại, xứ Nghệ " non xanh nước biếc " của Hang Bua, Cửa Lò, Núi Hồng, Sông Lam đã ghi lại dấu tích bao anh hùng, hào kiệt, và danh nhân, từ vua Thục (Đền Cuông), vua Mai (đền Mai Hắc Đế), vua Quang Trung (Phượng Hoàng Trung Đô) đến Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu cùng với những công trình nghệ thuật như đình Hoành Sơn, đình Trung Cần, những làng văn hóa Tiên Điền, Trường Lưu, Cổ Đạm Xứ Nghệ đã cống hiến cho tổ quốc biết bao văn nghệ sĩ, nhà văn hóa, nhà bác học làm rạng danh văn hóa , văn minh Việt Nam. Xứ Nghệ có hai nơi thờ Thục An Dương Vương :
- đền Đức Vua ở Nghi Xách ( huyện Nghi Lộc ) và đền Cuông ở Diễn An ( huyện Diễn Châu). Nếu đền và đình Cổ Loa tọa lạc giữa đất Cổ Loa là nơi vua Thục xây thành, dựng nước Âu Lạc thì đền Cuông được đặt giữa sườn núi Mộ Dạ, gần nơi vua từ giã cõi đời. " Chớ đem thành bại luận anh hùng " và anh hùng là bất tử . Thục An Dương Vương của chúng ta không hề chết vì thần Rùa Vàng đã rẽ nước đưa vua xuống Biển Đông. Nhà thơ Chu Mạnh Trinh đã nói lên nỗi niềm của người đời sau đối với cha con vua Thục : "Nghĩa cha sâu thẳm, cạn tình chồng Giãi nỗi kỳ oan mãi chửa thông ! " (thơ đề am Mỵ Châu, Cổ Loa) Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu Trái tim lầm chỗ để trong đầu Nỏ thần sơ ý trao tay giặc Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu (Tố Hữu) Cách thành phố Vinh 22 km, ven sông Lam, trên phần đất thị trấn Nam Đàn có đền thờ Mai Thúc Loan, người anh hùng đã có công đánh đuổi giặc Đường, lập nước Vạn Xuân ở thế kỷ 8. Cách đền vua Mai 3 km, ngược dòng sông Lam, là khu mộ vua dưới chân núi Đụn. Ngày xưa hằng năm tại đền và mộ vua, nhiều hội lễ được
- tổ chức trọng thể: hội Đền rằm tháng giêng, hội giỗ hoàng hậu rằm tháng 7, hội giỗ vua rằm tháng 9 âm lịch. Hội đền mùa xuân có qui mô lớn, trang nghiêm và đông đảo nhất với nhiều trò vui : rước kiệu, đánh vật, bắn nỏ, chọi gà, đua thuyền, đánh đu, cờ người, múa hát rôm rả trong nhiều ngày. Tháng 10-1788, Nguyễn Huệ quyết định đóng đô ở Nghệ An, giao cho trấn thủ Thận và cố vấn Nguyễn Thiếp tổ chức xây dựng thành Phượng Hoàng Trung Đô ở khu vực núi Dũng Quyết, vùng Bến Thủy, thành phố Vinh ngày nay. Thành ngoài xây bằng đất và đá ong, hình tứ giác, chu vi 2.820 m, bờ thành cao 3-4 m, diện tích 22 ha, bao quanh thành ngoại là con hào rộng 30 m, sâu 3 m. Thành nội xây bằng gạch vồ và đá ong, chu vi 1.680 m, với hai dãy hành lang nối liền với điện Thái Hòa, nơi vua thiết triều. Tháng 11-1789 thúc giục Nguyễn Thiếp hoàn thành việc xây dựng Trung Đô và sau đó Quang Trung đã làm việc tại đây ít nhất là hai lần : tháng 5-1791 và tháng 1- 1792. Nhưng sáu tháng sau, vua đột ngột qua đời nên không kịp dời đô từ Phú Xuân ra Trung Đô. Nhà sử học và nhà văn hóa học hôm nay có lẽ không lầm khi cho rằng Trung Đô là chứng tích hào hùng thể hiện đầu óc chiến lược và tầm nhìn văn hóa của người anh hùng dân
- tộc trong quá trình đấu tranh thống nhất đất nước và xây dựng cuộc sống an lạc, ấm no cho dân khi vua khẳng định : " Nay kinh đô Phú Xuân hình thế trắc trở, mà trị an Bắc Hà sự thế rất khó khăn ( ) Chỉ đóng đô ở Nghệ An là độ dường vừa cân phân vừa có thể khống chế được trong Nam ngoài Bắc, và sẽ giúp cho người tứ phương đến kêu kiện tiện việc đi về " (tờ chiếu 1/10/1788). Phải chăng đó là một biểu hiện tư tưởng thân dân của Quang Trung ? Xứ Thanh, xứ Nghệ đã và đang gìn giữ cho dân tộc một kho tàng văn nghệ dân gian độc đáo , đẹp đẽ Xứ Thanh, xứ Nghệ đã sản sinh nhiều truyện cười, truyện trạng, đóng góp to lớn vào nền văn hóa trào phúng dân gian. Về truyện cười xứ Thanh, trong năm 1987, Nguyễn Đức hiền và Hà Văn Tấn cho công bố cuốn Trạng Quỳnh lần đầu tiên đưa ra lý giải thuyết phục về mối liên hệ giữa nhân vật lịch sử Nguyễn Quỳnh quê ở Thanh Hóa và trạng Quỳnh dân gian, hình tượng trung tâm của một chùm 40 truyện Trạng được truyền tụng khắp nước ta từ Nam đến Bắc, và được coi là đỉnh cao của di sản truyện cười, truyện Trạng Việt Nam. Riêng nhà văn, nhà folklor học Nguyễn Đức Hiền, trước khi mất (2004) còn
- kịp công bố một tập đại thành Nguyễn Quỳnh - Trạng Quỳnh - Truyện Trạng Quỳnh dày hơn 400 trang khổ lớn, kèm nhiều hình ảnh và tài liệu Hán-Nôm được in lại nhiều lần như một best seller của folklor Việt Nam. Truyện cười xứ Nghệ cũng rất phong phú, tiêu biểu là ba chùm truyện : truyện Chàng Ngốc (Ngốc học khôn, Ngốc được kiện, Những cuộc phiêu lưu của anh chàng Ngôc), truyện Ông Bờ Ao (tức ông Tả Ao) và nhất là chùm truyện Cố Bợ (Ông Bợ, Thằng Bợ hay Quỷ Bợ) với hình tượng nhân vật nghịch ngợm, phá phách nhất của kho tàng truyện cười Việt Nam, đến nỗi dân gian cũng phải kêu trời và la làng bởi vì : "Con trời, Cố giỏi nghề chi ? / Nghề đi chọc táo, nghề đi ghẹo người / Nhà tôi vốn thị thanh bần / Cố đốt cho cháy nhăn răng cố cười " ( Vè Cố Bợ ). Năm 1997, lần đầu tiên Vũ Ngọc Khánh và Phạm Minh Thảo đã công bố bộ Kho tàng Diễn xướng Dân gian Việt Nam đồ sộ dày gần 900 trang, mà một phần lớn dành giới thiệu hơn một chục hội lễ và trò diễn lưu hành ở Thanh Hóa trong nhiều thế kỷ , đáng chú ý nhất là những trò diễn có tính cách sân khấu dân gian vô cùng độc đáo : tổ khúc Múa đèn, trò Tiên cuội, trò Trống mõ, trò Bắt cọp, trò Hùm, trò Lào, trò Xiêm, trò Tú Huần, trò Lăng Ba Khúc và nhất là hệ thống trò Xuân Phả, một
- đỉnh cao của diễn xướng dân gian Việt Nam gồm trò Hoa Lang, múa Chiêm Thành, múa Lục Hồn Nhung, múa Ải Lao, trò Ngô Quốc. Tất cả các trò diễn kỳ lạ này đều là những tổ khúc múa hát có kịch bản hoàn chỉnh và nhiều nhân vật mang mặt nạ không hề thấy ở các vùng văn hóa khác. Bên cạnh những hiện tượng folklor còn đầy bí ẩn này, cái hấp dẫn chúng ta nhất trong di sản văn hóa xứ Thanh, xứ Nghệ chắc chắn là kho tàng dân ca. Xứ Thanh là một vùng phong phú về dân ca với hát Cửa đình Thanh Hóa, còn gọi là hát Nhà Trò, một dị bản của hát ả đào (ca trù) ngoài Bắc. Hát trống quân, hát ghẹo Thanh Hóa (hát huê tình), chèo chải Thiệu Hóa, chèo chải Hoằng Hóa, hát khúc Tĩnh Gia và nổi tiếng nhất là tổ khúc Hò Sông Mã. Xứ Nghệ lại có một di sản dân ca rất khác với xứ Thanh : hát ả đào Cổ Đạm, hát giặm Hà Tĩnh, hát ví Nghệ Tĩnh. Hát giặm không phổ biến khắp xứ mà chỉ thịnh hành ở một số địa phương như Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh với hai hình thức hát giặm nam nữ và hát giặm vè. Còn hát ví thì phổ biến khắp xứ vì nó gắn với các ngành nghề được tổ chức thành phường. Trên sông nước có ví đò đưa (ví nước ngược, ví nước xuôi, ví đò đưa sông Lam, sông La, sông Phố) ; các làng vùng
- biển có ví phường nôốc, ví phường chắp gai đan lưới ; các làng ven núi có ví phường củi (có nơi gọi là ví phường reo) ; vùng các thị xã, thị trấn, các chợ đông đúc có ví phường buôn Quen thuộc nhất là ví phường gặt, phường nhổ mạ, phường cấy, phường đan, phường nón, phường bện võng, phường róc cau, phường róc mía, phường cỏ, phường măng, phường bẽ chè, phường bẽ ngô, mót ngô, phường đường, phường vàng và nổi tiếng nhất là ví phường vải (Ninh Viết Giao, Về văn học dân gian xứ Nghệ, 2004). Hai đỉnh cao của dân ca xứ Nghệ, xứ Thanh là Hát phường vải và hò sông Mã. Hát phường vải phổ biến nhất ở các vùng Nam Đàn, Đô Lương, Hưng Nguyên, Diễn Châu, Can Lộc Đức Thọ, Yên Thành Hương Sơn là những nơi thịnh hành nghề kéo sợi, dệt vải, cũng là nơi trước đây nhiều anh khóa, nhà nho thích dự các cuộc hát phường vải vừa phụ nghệ nhân tài tử , vừa làm " cố vấn nghệ thuật " cho bên gái hay bên trai trong cuộc thi đua tài trí và âm nhạc. Hát phường vải trước nay bao giờ cũng tuân theo thủ tục chặt chẽ, và ở Nghệ Tĩnh nơi mà hát phường vải phổ biến nhất, có truyền thống nhất, có nề nếp và qui cách nhất, có nhiều tay bẽ câu hát lỗi lạc nhất (Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu ), được người dân các nơi
- đến hát và nghe hát nhiều nhất thì phải kể đến mười mấy làng của huyện Nam Đàn ven sông Lam. Cách nay nhiều thế kỷ có lẽ ví phường vải lúc đầu chỉ là những câu hát của các chị em miệt mài hành nghề kéo vải mà thôi. Nhưng rồi một đêm đẹp trời nào đó, một chàng trai hay chữ và hát hay đi qua, nghe được tiếng ca tình tứ êm đềm, lắng dịu của các cô vọng ra "giọng cao đón gió, giọng trầm lắng sương", "tiếng êm như nhiễu, tiếng nhẹ nhàng như tơ" thì anh xúc động dừng chân lắng nghe, rồi cũng cất lên tiếng hát đối đáp. Thế là lề lối thủ tục hát phường vải ra đời và diễn ra những cuộc hát đối đáp giao duyên kéo dài 2, 3 hay có khi 5, 6 đêm mới đủ mọi chặng, mọi bước. Chặng một, ba bước : hát dạo - hát chào, hát mừng - hát hỏi. Chặng hai, một bước : hát đố, hát đối là bước rất quan trọng, có được mời vào nhà để tiếp tục hát hay không là ở chặng này. Chặng ba, ba bước : hát mời (vào nhà) - hát xe kết (bước căn bản, bước dài nhất) gồm hát thương, hát nhớ, hát than, hát trách Và đích cuối cùng của hát xe kết là hát cưới, sau khi nàng với chàng đã thuận tình xe kết với nhau ; bước cuối là hát tiễn. Tóm lại, hát phường vải là cần mẫn, trí tuệ, đua tài, khoe sắc, giao duyên. Bắt đầu trai hát : "Đi ngang trước cửa nàng Kiều
- Dừng chân đứng lại dặt dìu đôi câu" và cuối cùng gái hát : "Ra về răng được mà về Ở đây tay gối đầu kề nỏ hơn !". Có chàng lại hát đáp cho có vẻ Tây một chút : "Ra về cất tiếng "ô voa" Nhãn hồng gởi lại , "mù soa" em cầm Ở Thanh Hóa, người dân 16 huyện, để vận chuyển giao thông trao đổi hàng hóa giữa miền xuôi mạn ngược, xưa nay vẫn nhờ vào sông Mã, một con sông tuy lắm thác ghềnh, khó chèo chống ngược xuôi, nhưng cũng có nhiều khúc sông nước chảy hiền hòa. Dọc sông có nhiều cảnh đẹp, đền chùa, làng xóm với những đêm trăng thanh, những chiều gió mát Để lao động sông nước đỡ vất vả nhọc nhằn, để khách đi đò vui tai vừa lòng và cũng để thổ lộ tâm tình, các trai đò nhiệt tình cất lên vô số lời hát câu ca của tổ khúc Hò Sông Mã. Hò sông Mã, với hơn một chục làn điệu, có qui cách, thủ tục hẳn hoi gắn liền với quá trình lao động của anh trai đò. Bắt đầu là hò rời bến (còn gọi là hò mời khách). Đó là điệu hò nhịp một. Khi trời trở gió, thuyền bị ngược nước, trai đò dùng sào song vừa chống vừa hò đò ngược , cũng gọi là hò chống sào hay sắng nước ngược (với hai loại sắng nước nhỏ , sắng nước lớn). Khi thuận
- buồm xuôi gió, trai đò hò đò xuôi gồm nhiều làn điệu : hò bắc cái, hò nhịp đôi, hò đường trường (còn gọi là hò dọng giã hay hò dung dã), hò niệm Phật, hò làn ai, hò làn văn, hò ru ngủ. Khi chẳng may thuyền mắc vào bãi cát ngầm, trai đò vừa hò mắc cạn vừa lội xuống vác thuyền ra khỏi lạch. Hò mắc cạn gồm hai làn điệu : lúc mực nước quá cạn thuyền chìm sâu trong cát, phải vác thuyền thì họ hò vác; Nếu có thể buộc giây vào kéo từng thôi cho thuyền ra khỏi lạch thì họ hò kéo. Mỗi lần đến một bến nào đó, trai đò hò cập bến để mọi người nghỉ ngơi, ăn uống, mua bán : "Trông lên phố chợ cao cao Miệng khoan tay bắt lái vào cho mau Dô ta dô tà dô ta oa oa oa dô ta dô ta dô tà". Rời con đò sông Mã, khách còn luyến nhớ mãi những câu hò gợi cảm gợi tình của trai đò : - "Xăm xăm tới gốc cây hồng Hỏi thăm cô ấy có chồng hay chưa? Dô khoan dô khoan dô khoan a hề hò khoan ố dô khoan". - "Hỡi cô con gái nằm đò Mận xanh ăn vậy đừng chờ đào non Là dô dô huầy là dô dô huầy". Tự ngàn xưa, nhờ hàng trăm câu hò sông Mã mà hàng trăm chuyến đò dọc hào hùng, trăm con đò ngang
- duyên dáng, vẫn vững tay chèo tay chống trên sóng nước hữu tình. Xứ Huế - Thuận Hóa - Phú Xuân giữa đại vùng văn hóa ven biển miền Trung Rời hai vùng văn hóa xứ Thanh xứ Nghệ đi về hướng Nam của đất nước, ta sẽ gặp vùng văn hóa xứ Huế giữa đại vùng văn hóa ven biển miền Trung. Xứ Huế , theo nghĩa rộng, bao gồm một vùng đất cổ từ Bố Chính Địa Lý, Ma Linh đến Ô và Ri, vốn thuộc vương quốc Lam Ấp - Chăm pa từ cuối thế kỷ 2 (sau Công Nguyên), và chỉ từ thời Lý-Trần (tk 11 - 14 ) nó
- mới thuộc về vương quốc Đại Việt. Nói cách khác, xứ Huế xa xưa chính là vùng đất Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và thành phố Huế ngày nay. Do đó nói vùng văn hóa xứ Huế là nói tới ba tiểu vùng văn hóa Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và nhất là vùng văn hóa Phú Xuân - Huế. Tiểu vùng văn hóa Quảng Bình của xứ Huế truyền thống Có thời là một phần đất của tỉnh Bình Trị Thiên cũ (sau 1975) nhập rồi lại tách (1988), tỉnh Quảng Bình ngày nay với 8.000 km2 và 850.000 dân có một tính cách văn hóa-tinh thần đặc sắc xứng đáng với tên gọi tiểu vùng văn hóa Quảng Bình, với những thắng cảnh, địa danh nổi tiếng : đèo Ngang, sông Gianh, sông Nhật Lệ, phá Hạc Hải, Bàu Tró, Bàu Sen, Lũy Thầy, núi Chùa Non, núi Đâu Mâu, tám làng văn vật : Lệ Sơn, La Hà, Cảnh Dương, Thổ Ngõa, Văn La, Võ Xá, Cổ Đạm, Kim Mai ( " Sơn, Hà, Cảnh, Thổ, Văn, Võ, Cổ, Kim " ), chợ Ba Đồn, hai vựa thóc trù phú Lệ Thủy, Quảng Ninh ( " Nhất Đồng Nai, nhì Hai huyện " ) . Nhờ vậy mà Quảng Bình đã nhiều lần đi vào tục ngữ, ca dao, dân ca, thơ Lê Thánh Tông, Bà Thanh Quan, Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm, : - "Lũy Thầy ai đắp mà cao
- Sông Gianh ai bới ai đào mà sâu" - " Sông Nhật Lệ dòng sâu biết mấy Núi Đâu Mâu cao bấy nhiêu tầng " - " Ai về Đồng Hới, Lý Hòa Buồm giong đôi ngọn thương đà nên thương " - " Ba Đồn là đất châu Ô Một đoàn con gái chạy vô thăm chồng " -"Dừng chân đứng lại trời non nước ".v.v. Hai đỉnh cao của tiểu vùng văn hóa Quảng Bình chắc chắn là Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng và hệ thống Hò khoan Lệ Thủy. Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng đã được UNESCO tuyên dương là một di sản thiên nhiên của nhân loại ( tháng 7 - 2003 ) vì nhiều cái "nhất" : nằm trong vùng đá vôi già nhất (hàng trăm triệu năm) , có rừng nguyên sinh rộng nhất (200.000 ha) ; có dòng sông ngầm xuyên núi dài nhất (14 km) , có những thạch nhũ tráng lệ kỳ ảo nhất, v.v., theo đánh giá của Hội Hang Động Việt Nam và Hội Hang Động Hoàng Gia Anh sau 12 năm thám hiểm, nghiên cứu (1990-2001). Còn hệ thống Hò khoan Lệ Thủy ở Quảng Bình cũng có vài cái "nhất" khi vang lên trên những cánh đồng phì nhiêu, những dòng sông hữu tình, hay trong những hội hò khoan thâu đêm suốt sáng được đông đảo người
- nghe yêu cầu nghệ nhân phải hò trong hơn một chục đêm hội liên tiếp cho hết hàng trăm câu của một tổ khúc sáu điệu trữ tình làm cho người nghe quên ăn quên ngủ vì quá ngon, quá no với những hò mái chè, hò mái nện, hò mái ba, hò mái nhì, hò mái duỗi, hò mái xắp. Khi cần đằm thắm thì hò khoan Lệ Thủy vô cùng tha thiết : "Nước cạn em xuống sông mò cua bắt cá Nước nậy (lớn) em lên rừng hái rau má rau mưng Anh ơi chua cay mặn ngọt đã từng Dẫu chàng ăn đi mà thiếp nhịn Một hai ba bốn xin đừng theo ai ". Nhưng khi cần phản đối thì ý tình cũng quyết liệt : " Ai nói với anh em đã có chồng ? Tức mình em đổ cá xuống sông em về" với ngụ ý là sau khi "đổ cá" có thể "đá cổ" luôn đó ai ơi ! Cần nói thêm rằng, bên cạnh tổ khúc Hò khoan Lệ Thủy nổi tiếng này, nghệ nhân Quảng Bình xưa đã sáng tác hơn 20 điệu hò khác : hò vân, hò là, hò hí la, hò phơi xăm, hò nậu xăm, ò mái đò, hò lĩa trâu, hò ý gia, hò mái dài, ho hoi lên, v.v., như đã được thống kê trong những năm gần đây ( Lê Văn Hảo, Hò Bình Trị thiên, 1979, Tôn Thất Bình, Dân ca Bình Trị Thiên, 1997,
- ). Tiểu vùng văn hóa Quảng Trị Tên tỉnh Quảng Trị chỉ mới xuất hiện từ đầu thời Gia Long nhưng mảnh đất này đã từng thuộc quận Nhật Nam thời Bắc thuộc, rồi thuộc châu Ma Linh và châu Ô của Chăm pa. Quảng Trị có núi thiêng Tá Linh Sơn và động Voi Mẹp, núi Mai Lĩnh, sông Thạch Hãn, sông Hiền Lương ; ở thời cận hiện đại, Mai Lĩnh và Thạch Hãn đã trở thành biểu tượng của tỉnh Quảng Trị vì tính chất kỳ vĩ, hữu tình của "non Mai, sông Hãn" Chẳng thơm cũng thể hương đàn, Không trong cũng nước nguồn Hàn chảy ra. Bất chấp gió Lào khắc nghiệt, Quảng Trị vẫn có một mảng Trường Sơn uy nghi ở phía Tây và một dải Đại Trường Sa dằng dặc ven Biển Đông, với hàng chục bãi tắm tươi đẹp mà nổi tiếng nhất là bãi biển Cửa Tùng thời Pháp thuộc từng được mệnh danh là "nữ hoàng của các bãi tắm", " Hòn ngọc của các bãi biển thừa lương " ( từ ngữ cổ : thú thừa lương là thú hóng mát ). Quảng Trị còn có danh thắng Đắc Krông hùng vĩ ; Nguyễn Hoàng, một kiện tướng của sự nghiệp Nam tiến vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã để lại dấu vết ở Đình Cát, Ái Tử, Trà Bát. Ở Trà Bát nay còn ngôi chùa Liễu Ba với pho tượng đồng quí báu mang phong cách thời
- Mạc (tk 16 ), khu Chợ Thuận với nhiều di tích Chăm cổ : giếng, mộ, đồ gốm. Cảm động nhất là di tích miếu thờ Huyền Trân, người con gái Việt đã đem về cho tổ quốc một dải đất dài rộng từ nam Quảng Trị đến bắc Quảng Nam (1306) : sau 700 năm hương khói, miếu Huyền Trân nay vẫn còn ở Xóm Chùa, huyện Cam Lộ. " Hai châu Ô Lý vuông nghìn dặm Một gái Huyền Trân của mấy mươi " Nếu thành Tân Sở ở vùng Đèo Cùa (Cam Lộ) ghi dấu lòngn yêu nước của vua Hàm Nghi ngày nay ít ai lui tới thì trái lại Nhà thờ La Vang, nơi tương truyền Đức Mẹ đã hiện ra cuối đời Tây Sơn và vùng danh thắng Suối nước nóng Tân Lâm (trên 40°C và chữa được nhiều bệnh ) lại là nơi thu hút hàng ngàn du khách và hàng vạn tín đồ hành hương, từ thời Pháp thuộc đến tận ngày nay. Cách cố đô Phú Xuân - Huế khoảng 60 km, Quảng Trị là nơi lưu giữ một di sản văn nghệ dân gian đặc sắc, đây là quê hương của nhiều nghệ nhân, nghệ sĩ, nhạc sĩ, nhạc sư, danh ca : Châu Loan, Duy Khánh, Nguyễn Hữu Ba Nếu nhiều điệu lý, điệu hò là di sản chung của Quảng Trị - Thừa Thiên thì Quảng Trị cũng có những điệu dân ca riêng biệt của mình : hòđập bắp, hò dô hậy (hô giang hậy), hò Hải Thanh (hò Như Lệ), hò mái nhì Triệu Hải (một điệu hò trên cạn)
- Nhiều vùng văn hóa ở miền Bắc có hát trống quân rất bình dân thì nghệ nhân Quảng Trị đã sáng tạo ra nhạc trống quân, một loại hình khí nhạc nửa dân gian nửa cổ điển : ra đời gần 200 năm nay tại hai làng Điếu Ngao và Bích Khê (phủ Triệu Phong). Nhạc trống quân Quản Trị đã trở thành một diễn xướng sân khấu bề thế với một dàn nhạc gồm nhiều trống con, kèn bóp và một xập xõa, biểu diễn bảy khúc nhạc ( bảy " giá " ) độc đáo từ chậm rãi, dõng dạc, trang nghiêm đến rất nhanh, sôi nổi, hào hùng, với những tên " giá " độc đáo giàu tính thượng võ : Quân tiểu, Quân đại, Mở cờ ( Lê Quang Nghệ, Đi tìm điệu Trống quân Quảng Trị, 1996 ). Tiểu vùng văn hóa Thuận Hóa – Thừa Thiên Thuận Hóa - Thừa Thiên là một vùng thiên nhiên kỳ thú bao quanh cố đô Phú Xuân - Kẻ Huế và thành phố Huế hiện đại. Từ tây sang đông, Thuận Hóa - Thừa Thiên có dải Trường Sơn, đèo Hải Vân, Vườn Quốc Gia Bạch Mã, sông Hương, hệ thống đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, hệ thống bãi biển Thuận An - Cảnh Dương, hệ thống các làng nghề, làng chài, làng nông cổ kính đủ để biến Thừa Thiên thành một vùng du lịch lý tưởng ( du lịch thám hiểm, du lịch sinh thái, du lịch văn hóa ). Không xa Vườn Quốc Gia Phong Nha - Kẻ Bàng và Hội An - Mỹ Sơn là những di sản thiên nhiên , di sản văn hóa
- của nhân loại. Nếu Phú Xuân - Huế là nơi đặc biệt giàu có về nhã nhạc cung đình thì Thuận Hóa - Thừa Thiên lại nổi tiếng về nhiều điệu hát hò : hò ô (hò mái ô), hò giã gạo ( hò khoan ), hò lơ, hò xay lúa, hò nện (hò hụi), hò quét vôi, hò kéo thác, hò dẩy nôốc, hò nghé ngọ (hò gọi nghé), hò khau đay, hò khau song, hò giả điệp, hò đưa linh, hò bài chòi, hò bài thai, hò bài tiệm, hò nàng Vung, hát ru em (ru con), hát hầu văn, tóm lại chỉ có hò hát ở Nam Bộ mới cạnh tranh được với hò hát xứ Huế về số lượng và chất lượng. Thuận Hóa - Thừa Thiên còn là một tiểu vùng phong phú về di sản lễ hội dân gian và tôn giáo : hội vật làng Sình, lễ cầu ngư Thai Dương Hạ, lễ hội điện Hòn Chén, lễ cúng âm hồn ( từ 23 đến cuối tháng Năm â.l. kỷ niệm sự biến " thất thủ kinh đô " mùa hè 1885 ), lễ thu tế ở các đình làng và các nhà thờ họ ghi ơn các vị khai canh, khai khẩn, tổ nghề , chưa kể các Tết Nguyên Đán, Đoan Ngọ, Trung Thu, các lễ Phật Đản, Vu Lan, Giáng Sinh Vùng văn hóa Phú Xuân - Huế : nơi tiếp biến văn minh Mường - Việt - Chăm, chốn giao hòa văn hóa dân gian - cổ điển - cung đình
- Nói văn hóa là nói thiên nhiên, nhân văn và sáng tạo. Huế được thương, được nhớ trước hết nhờ cái duyên thầm của cảnh vật và con người, cái duyên kín đáo tỏa ra từ dáng đi, giọng nói, nụ cười, tà áo, chiếc nón , cái duyên trầm lắng đó cũng bao trùm nước non, man mác trong đất trời, thâm nhập vào cỏ cây, nhè nhẹ như mây bay gió thoảng, êm ả chiều tà Văn Lâu, Vọng Cảnh, bâng khuâng trăng thu Kim Long, Vĩ Dạ, dìu dặt chiều xuân Thiên Mụ, Nam Giao, nồng nàng trưa hè Tam Giang, Cửa Thuận, dạt dào nắng sớm Kim Phụng, Ngự Bình
- Đến Huế dù chỉ một ngày là sáng lên Trường Sơn, chiều xuống Biển Đông, hoặc sáng dạo thuyền trên sông ngắm vườn, thăm chùa, viếng lăng tẩm, tắm biển rồi ăn trưa dưới bóng phi lao Cửa Thuận, nghỉ đêm giữa sóng êm gió nhẹ phá Tam Giang, được ru ngủ bằng tiếng dế núi, thức giấc vì tiếng chim rừng Bạch Mã. Núi Ngự Bình, đồi Thiên An đã đẹp, núi Kim Phụng còn xinh tươi hơn : một ngày đẹp trời nào đó từ trên đỉnh Kim Phụng tầm mắt quán xuyến núi rừng Trường Sơn xanh thẳm sau lưng, ruộng đồng xứ Huế mênh mông trước mặt, dải lụa biếc Hương Giang uốn lượn đi tìm cho
- được dải cát xa mờ Cửa Thuận, nơi màu biển chan hòa màu trời, ngoảnh mặt lại bỗng thấy núi với mây tím một màu thăm thẳm như muốn đánh ghen với màu tím Huế thủy chung. Muốn ngợi ca thiên nhiên Huế chỉ cần vài ba câu về một dòng sông tên Hương. Xưa gọi là sông Lô Dung, Linh Giang, hay sông Dinh, nay là dòng xanh mang tên Hương do mùi thơm tinh khiết của những sâm rừng, xương bồ mọc khắp vùng. Hương có hai ngọn nguồn xuất phát từ sâu thẳm Trường Sơn : nguồn Tả Trạch từ núi Trường Động chảy về hướng tây bắc lao mình qua 55 ngọn thác hùng vĩ rồi chầm chậm đi qua ngã ba Bằng Lảng ; nguồn Hữu Trạch ngắn hơn, sau khi vượt qua 14 ngọn thác hiểm trở và qua khỏi bền đò Tuần, cũng tới ngã ba sông hợp dòng với Tả Trạch, và thế là Hương vừa mới ra đời đã nhè nhẹ lặng lờ xuôi về Biển Đông. Từ Bằng Lảng đến Cửa Thuận, Hương chuyển dời thật chậm, uốn éo quanh co làm duyên làm dáng giữa núi rừng từ thác Thủ cuộn sóng về bến Tuần. Hương làm nhà thơ xúc động thốt lên :
- " Cỏ thơm có dống thạch xương bồ Sinh ở hai nguồn Tả , Hữu trạch Hơi thơm đềm nước, nước trong veo Hợp thành sông thơm chảy róc rách " (Tôn Thất Lương, Hương Giang hành) Rồi Hương chầm chậm lướt qua những xóm thôn, vườn tược Nguyệt Biều, Kim Long, Đập Đá, Vĩ Dạ, Đông Ba, Gia Hội, Chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh, quyện theo vô vàn mùi thơm bông Huế : quỳnh huyền vi, cau ngan ngát, sen thanh cao, ngọc lan thoang thoảng, dạ lý nồng nàn, phù dung quyến rũ Hương tấu lên một bản giao hưởng xanh xanh với những hợp âm là sắc độ tế nhị của nước trời cây cỏ, điểm xuyết bằng mảng đỏ rạo rực
- nồng thắm phượng vĩ mùa thi, mảng trắng ngây thơ dịu nhẹ tà áo với nón bài thơ nữ sinh dập dìu "hoa thơm bướm lượn" trên nẻo về mái trường, công viên hay trên cầu Trường Tiền, cầu Phú Xuân lộng gió. Cảnh quan đôi bờ cố đô, nào thành quách phố xá, dinh thự, chùa tháp, vườn hoa bóng lồng mặt nước lấp lánh lung linh, làm cho Hương vốn yêu kiều càng nên thơ nên mộng : ngày là dải lụa biếc hong ánh nắng trời, đêm là tấm thảm nhung ghi dáng trăng sao, Hương làm cho khúc Nam ai, Quả phụ thêm nỉ non, ngậm ngùi, ai oán, cho tiếng Mái nhì, Mái đẩy thêm dìu dặt, diệu vợi, mênh mang. Nhà thơ Nguyễn Du đã từng thở than : Sông Hương một mảnh trăng Gợi niềm sầu vĩnh cữu. Và một nhà văn hóa châu Phi, tổng giám đốc UNESCO một thời, đã từng thốt ra lời ngợi ca bất hũ : "Huế là bài thơ đô thị tuyệt tác, [ ] là thành phố đượm nét hài hòa trọn vẹn" (A.M. M’Bow, 1981). Sáng tạo thứ nhất của văn hóa Phú Xuân - Huế : nghệ thuật kiến trúc
- Cuối năm 1993, Ủy ban Di sản Thế giới thuộc UNESCO đã long trọng tuyên bố đã ghi tên quần thể di tích Huế vào danh mục di sản thế giới. Trong gần bốn thế kỷ (1558-1945), xứ Huế - Thuận Hóa - Phú Xuân từng là trung tâm chính trị - văn hóa của nửa nước (Đàng Trong của vương quốc Đại Việt) thời các chúa Nguyễn, rồi kinh đô của cả nước (Đại Việt, Đại
- Nam, Việt Nam) thời các vua Tây Sơn và Nguyễn : người dân, thợ giỏi và nghệ nhân xứ Huế cùng với dân, thợ và nghệ nhân các xứ khác đã dựng nên bao kỳ công kiến trúc, từ thành Hóa Châu thế kỷ 14, chùa Thiên Mụ đầu thế kỷ 17, đàn tế trời xưng vương trên đỉnh núi Tam Tầng cuối tk. 18, thành quách và cung điện Phú Xuân đầu tk. 19 cho đến những công trình cuối mùa nhưng vẫn đẹp xinh như lăng Khải Định, cung An Định, điện Kiên Trung nửa đầu tk. 20, chưa kể những nhà rường nhà rội, nha vườn xứ Huế xứng đáng cạnh tranh với những ngôi nhà cổ kính của Hội An xứ Quảng. Trải bao vật đổi sao dời, phần lớn di sản kiến trúc Phú Xuân - Huế đã trở về với cát bụi (lỗi tại chiến tranh, khí hậu, hận thù hay dốt nát ), nhưng may mắn thay " mười phần mất bảy còn ba, mất hai còn một " nghĩa là di tích Huế vẫn còn sót lại khá đủ để được tuyên dương là một di sản văn hóa của nhân loại.
- Chỉ trong thời khoảng 27 năm dưới hai triều Gia Long - Minh Mạng (1802-1828), hàng triệu nhân công và nghệ nhân của xứ Huế và nhiều miền của vương quốc Việt Nam - Đại Nam, đã xây dựng nên quần thể kinh thành, hoàng thành và tử cấm thành, với hơn 100 công trình kiến trúc và mỹ thuật, kể cả một Ngọ Môn hoành tráng mà xinh xắn và hàng chục cung điện, lầu gác lộng lẫy son vàng ở bờ bắc sông Hương ; ở bờ nam là hệ thống bảy công viên - lăng tẩm rất khác nhau từ Gia Long tới Khải Định. Giữa hai khu vực ấy rải rác gần xa là Đàn Nam
- Giao, đấu trường Hổ Quyền, Văn Thánh miếu tàng trữ 32 bia tiến sĩ, chùa Thiên Mụ cổ kính nhất xứ Huế (1601), điện Hòn Chén thờ vị mẫu Chăm-Việt Thiên Y A Na, cầu ngói Thanh Toàn (1776) được công nhận là di tích quốc gia v.v. Nghiên cứu "Kiến trúc cố đô Huể, nhà Huế học Phan Thuận An đã nhận xét : " Khác với những hệ thống hoàng cung của các triều đại trước trong lịch sử Việt Nam không bao giờ xây miếu thờ các vua , chú tiền nhiệm ở bên trong, Đại Nội Huế có đến 5 ngôi miếu thờ lớn ( Triệu miếu, Thái miếu, Hưng miếu, Thế miếu, điện Phụng Tiên ) như vậy, chứng tỏ nhà Nguyễn rất trọng vọng tổ tiên mình ". Cách nay gần một thế kỷ nhà văn hóa Phạm Quỳnh đã nói ra những lời hay nhất về vẻ đẹp lăng tẩm của Huế: "Lăng đây là gồm cả màu trời sắc nước, núi cao, rừng rậm, gió thổi ngọn cây, suối reo hang đá Lăng đây là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, ghép thêm một bối cảnh nhân tạo tuyệt khéo. Lăng đây là cái nhân công tô điểm cho sơn thủy Không viết lấy lời gì mà tả được cái cảm lạ, cái êm đềm vô cùng". Lăng tẩm Huế là nơi nhà thơ đã thấy "tang tóc mỉm cười, niềm vui thổn thức", đây không phải là cõi chết mà là cõi thơ, cõi mộng, nơi tình thiên nhiên quyện lấy tình nghệ thuật cho hương vị yêu đời thêm say đắm, dạt dào.
- Sáng tạo thứ hai của văn hóa xứ Huế : nghệ thuật âm thanh Có thể lấy đám cưới Huyền Trân - Chế Mân và sự chuyển hóa hai châu Ô Ri thành châu Thuận, châu Hóa, làm cái mốc sinh thành của âm nhạc xứ Huế, đứa con đứa cháu của âm nhạc Đại Việt, Thăng Long, âm nhạc xứ Thanh xứ Nghệ theo những đợt di dân của người Việt trên dòng chảy Nam tiến thế kỷ này sang thế kỷ khác, và dĩ nhiên khi họ vào đây chung sống với người Chăm của quê hương cũ Indrapura, âm nhạc xứ Huế đã trở thành đứa em sinh sau đẻ muôn của âm nhạc Champa. Nhà dân tộc học đã nói bóng bẩy nhưng có cơ sở : trải qua một quá trình giao lưu văn hóa lâu dài trong lịch sử,
- "nhạc Việt đã nhuộm màu Chàm" (Trần Văn Khê, Âm nhạc Việt Nam truyền thống, 1962). Trong các thang âm của âm nhạc Chăm, có một thang âm ngũ cung chia ra thành nhiều quảng nhỏ hơn một cung : do - ré (già) - fa (già) - sol - la (non), làm cho nhạc Chăm đượm vẻ u hoài và nỗi buồn man mác, rất gần với thang âm ngũ cung dân gian của các điệu lý, điệu hò Huế, mà cũng gần với thang âm cổ điển của các điệu ca Huế (Lê Văn Hảo, Tìm hiểu quan hệ giao lưu văn hóa Việt - Chăm, 1979). Giao lưu văn hóa Việt - Chăm đã cung cấp cho chúng ta nhiều bằng chứng đầy thuyết phục, cho phép đi đến kết luận : âm nhạc xứ Huế là hậu quả của giao lưu và tiếp biến âm nhạc Việt - Chăm mà cũng là nơi giao thoa hoàn hảo giữa nhạc dân gian - nhạc cổ điển - nhạc cung đình. Và lịch sử còn cho biết có nhiều vua chúa xứ Huế tâm hồn rất bình dân và tha thiết mến yêu mến nhạc dân gian. Điệu Bắc của nhạc Huế chắc chắn là kế thừa từ điệu Bắc của nhạc Đàng Ngoài, nhưng rõ ràng là điệu Nam của nó với những hơi xuân, hơi thương, hơi dựng, hơi ai, hơi oán của ca Huế, và những câu hò điệu lý buồn thương nhất của xứ Huế (hò mái nhì, lý hoài nam, lý tương tư ) đã thấm đượm hồn vía nghệ thuật âm nhạc vương quốc Champa vang bóng một thời.
- Sáng tạo thứ ba của văn hóa xứ Huế : nghệ thuật ăn uống Nhân dịp Tết Con Gà đầu năm nay 2005, Công Ty Quảng cáo Triển lãm Hội chợ Việt Nam và Hội Doanh nghiệp Trẻ Thừa Thiên-Huế đã tổ chức một sinh hoạt văn hoá kinh tế lớn là Hội Chợ Huế Xuân 2005, mà đáng chú ý là Chương trình văn hóa ẩm thực Huế của Hội Chợ với nhiều hoạt động đáng chú ý : - Hội thảo " Văn hóa Ẩm thực Huế, Truyền thống và hiện đạỉ do Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật ăn uống (Hà Nội) phụ trách (15, 16, 17-1-2005) tại Khách sạn Nguyễn Huệ;
- - Hội thi "Sinh viên làm bánh Huế " do Ban tổ chức Hội Chợ Huế Xuân 2005 và tạp chí văn hóa , Nghệ thuật ăn uống phối hợp tổ chức tại công viên Thương bạc với sự tham dự của 100 sv (90 nữ, 10 nam) - Cuộc Trình diễn nấu các món ăn theo lối Huế do các nghệ nhân nấu ăn của Công Ty Du lịch Hương Giang trổ tài thực hiện ngay tại trung tâm Hội chợ Huế Xuân 2005 bên bờ Sông Hương. Chưa bao giờ nghệ thuật ăn uống Huế được vinh danh trong trong một sinh hoạt văn hóa lớn như thế với hàng vạn người Việt và nước ngoài chứng kiến. Tham gia Văn hóa Ẩm thực Huế xuân này, ngoài các long trọng viên có nhiều nhà Huế học, nhà nghiên cứu văn hóa Huế, nhà văn, doanh nhân, giám đốc các công ty du lịch, khách sạn, các chủ nhà hàng tư nhân nổi tiếng ở Huế. Hội thảo này là một bước tiến trong công cuộc tìm hiểu, nghiên cứu đánh giá sáng tạo ẩm thực của văn hóa xứ Huế. Nó cho thấy món ngon xứ Huế là một kết hợp hài hòa món ngon Chăm cổ với món ngon Việt cổ, món ngon Mường cổ, món ngon dân gian Huế lâu đời và nhiều món ngon nhất cả nước, được đưa về Phú Xuân Huế dâng chúa, tiến vua, cùng các món ăn Tàu, Pháp, Mỹ, Nga v.v do giao lưu và tiếp biến văn hóa từ nhiều thế kỷ.
- Theo những thống kê mới nhất, cả nước có khoảng 1.700 món ăn thì xứ Huế có tới 1.300 món : món ăn dân gian, món ăn cung đình và món ăn chay. Nếu danh y Lê Hữu Trác (1720-1790) trong Nữ công thắng lãm đã thống kê (tất nhiên là chưa đầy đủ) ở vương quốc Đại Việt cuối thế kỷ 18 có 144 món : 21 món cơm, cháo, bún, 16 món xôi, 61 loại bánh, 28 loại mứt, 9 món ăn chay, 9 loại tương ngon thì ở Huế đầu thế kỷ 20 Trương Đặng Thị Bích đã chọn lọc được 100 món dân gian và cung đình Huế để đưa vào cuốn sách dạy nấu ăn bằng thơ tứ tuyệt Thực phổ bách thiện và giữa thế kỷ 20, Hoàng Thị Kim Cúc, bước đầu đã giới thiệu được 600 món ăn Huế trong đó có 125 món chay, 34 loại canh, 50 món tráng miệng, 47 loại bánh, 70 loại mứt, 30 loại gia vị, v.v. đặc biệt là vị giáo sư gia chánh xuất sắc nhất của trường Đồng Khánh (cũng là người trong mộng của Hàn Mặc Tử) liệt kê được 60 thực đơn hoàn chỉnh của bốn mùa xuân hạ thu
- đông Huế đã trở thành mẫu mực cho các thế hệ nội trợ Việt Nam. Đến đầu thế kỷ 21 này, sách về món ăn Huế đã vượt quá con số 50. Ăn uống đối với xứ Huế, người Huế hình như từ lâu đã trở thành một nghệ thuật, một văn hóa, một triết lý sống. Phong cách ăn của Huế chắc chắn đã làm vừa lòng nghệ sĩ và nhà triết học ẩm thực Tản Đà với những nguyên tắc hợp tình hợp lý như : ăn nóng (trừ cơm hến), ăn theo mùa (mùa nào thức ấy), ăn bổ dưỡng (thức ăn cũng là liều thuốc bổ), ăn giản dị và thanh đạm nhưng vẫn ăn tinh tế, phức hợp, đa dạng, hài hòa âm dương, ăn thơm ngon và đẹp mắt (mâm cơm đẹp như bức tranh đan thanh), ăn giữa khung cảnh thiên nhiên dễ chịu. Bữa ăn Huế dù giản dị đến mấy đi nữa vẫn luôn luôn là bữa tiệc của hoa tay nội trợ, của tình cảm, ân
- nghĩa, tình người : người phụ nữ Huế nấu ăn bằng tất cả tâm hồn mình để làm vui lòng mẹ cha, chồng con và bạn bè. Trước khi ăn, con cái trân trọng mời mẹ cha, vợ mời chồng, bạn bè ân cần mời nhau, nhường miếng ngon cho nhau. Nghệ thuật ẩm thực Huế diễn ra ở bất kỳ nơi đâu : ăn trong nhà, ăn ngoài vườn, ăn trên đò, ăn trên đầm, trên phá, ăn ngoài biển, ăn trong chùa, ăn giữa lăng Nghệ thuật ăn cũng là nghệ thuật sống, khi tình người chan hòa với tình non xanh nước biếc ; một dĩa sò huyết Lăng Cô, một chén cơm hến, một chén chè bắp bên Cồn đơn sơ lắm, mà sao nó vương vấn cái dịu ngọt đất trời, cái nồng nàn nắng gió, cái dìu dặt trăng sao. Hình như món ăn Huế dù giản dị, tinh tế hay cầu kỳ vẫn luôn luôn có một cái duyên hài hòa, thâm trầm của tâm hồn xứ Huế. Cái duyên thầm ấy cứ đeo đẳng mãi một vài biểu tượng đơn sơ của xứ Huế : một dòng sông, một ngọn núi, một ngôi nhà vườn, một đóa quỳnh khuya, một tà áo tím, một chiếc nón bài thơ, một nụ cười e ấp, một tiếng dạ nhỏ nhẹ, bằng lòng cũng dạ, không bằng lòng cũng dạ. Ôi, tiếng dạ Huế như có một phép mầu làm mê hoặc lòng người ! Nó ngắn trong một giây mà sao cứ vang vọng ray rứt suốt một đời. Tiếng dạ ấy đầm đẹ, bổi hổi bồi hồi như
- cái vẫy nón, ngoắc tay, hay như lời năn nỉ ỉ ôi nghe rất tội : "Ra về đã tới giữa đồng Nón che tay ngoắc động lòng bước lui !". hay : "Có thương thì thương cho chắc, cho chắn, cho xoắn, cho vó, cho có lòng thương, Đừng như con thỏ đầu truông Khi vui giỡn bóng khi buồn giỡn trăng".