Dạy trẻ thông minh sớm - Glenn Doman

pdf 285 trang ngocly 3760
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Dạy trẻ thông minh sớm - Glenn Doman", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfday_tre_thong_minh_som_glenn_doman.pdf

Nội dung text: Dạy trẻ thông minh sớm - Glenn Doman

  1. 0] □ smm Phát triển và nuôi dưỡng tiếm nâng bé yêu cùa bạn (Cuộc Cách mạng Mém lán đáu tiên trong lịch sử) Glenn Doman, Janet Doman Tác giả cửa cuón sách bán chạy nhát Dợy trẻ biết đọc sớm
  2. Dành tặng vợ tôi, Katỉe Massỉngham Doman,ngưòi có sở thích truyền đạt cho hàng ngàn bà mẹ trên khắp thếgỉ&i kinh nghiêm nuôi dạy trẻ - và cô sẽ vẫn tiếp tục công cuộc đó thông qua cuốn sách này, miễn sao trên đòi còn có những bà mẹ muốn dạy dỗ con cái và còn có những đứa trẻ muốn học hỏi.
  3. Lời nói đầu on cái chính là món quà lón nhất mà chúng ta đưực cuộc đòi ban tặng. Đâu đâu trên thế giói này, chúng ta, những người làm cha mẹ, Cđều yêu thương con mình. Các bà mẹ luôn có những hành động anh hùng và thể hiện sức mạnh thể chất thần kỳ chỉ nhằm chở che cho con mình thoát khỏi những mối đe dọa trong cuộc sống. Khắp noi noi, các bậc phụ huynh luôn muốn con cái có đưực nhiều điều tốt đẹp hon thếhệ mình. Từ thuở sơ khai của loài người, các ông bố bà mẹ đã dạy cho con cái họ các kỹ năng có ích cho bọn trẻ, giúp chúng trở thành những người giỏi hơn khi kiếm tìm đồ ăn, giỏi hơn khi nuôi dạy và bảo vệ con cái mình. Trong một thế giói kỹ thuật cao, quá đông dân số và thay đổi vói nhịp độ chóng mặt ở thế kỷ XXI, việc duy trì yếu tố phù họp nhất đòi hỏi mỗi cá nhân phải có thể chất tốt, tạng người mạnh khỏe, phát triển khả năng trí tuệ và cảm xúc để đạt được thành công trong một môi trường đầy cạnh tranh về kinh tế, địa chính trị, hóa sinh. Nếu hôm nay chúng ta có thể tạo được cho con cái nền tảng giáo dục chắc chắn thì ngày mai chúng sẽ trở thành những nhà lãnh đạo của một thế giói tốt đẹp hơn, an toàn hơn. Phương thức chuẩn bị trang bị cho con cái chúng ta sống sót và phát triển vượt trội trong thế giói hiện đại đã trở thành đề tài thu hút ngòi bút của rất nhiều nhà giáo dục, bác sĩ nhi khoa, chính trị gia, bác sĩ tâm lý nhi và các chuyên gia tâm thần học. Điều đáng chú ý là trong danh sách các chuyên gia tư vấn và các tác giả có thiện chí lại không xuất hiện “các bà mẹ”! Đa số các bài viết về phương pháp đúng đắn để giáo dục con cái là khi đứa trẻ bước vào độ tuổi mẫu giáo hay đi học tiểu học, thường mặc định ở mốc năm tuổi. Bất cứ bài viết nào về cách nuôi dạy trẻ dưới độ tuổi này đều thường có khuynh hướng trả lòi câu hỏi “nên chọn loại tã giấy nào cho con bạn” hoặc “bạn nên cho bé bú sữa mẹ bao lâu” hoặc “loại thực phẩm bán sẵn nào đáp ứng tốt nhất nhu cầu dinh dưỡng của bé”!
  4. Bước tiến đáng kể khi nghiên cứu các trẻ sơ sinh trong năm đầu đời đưực Tiến sĩ Arnold Gesell trình bày chi tiết và trích dẫn ở Chương 2 trong công trình của mình. Công trình đó dẫn tói việc sử dụng rộng rãi thuật ngữ “đồng hồ sinh học” của tính sẵn sàng phát triển cho những hoạt động nhất định. Các tác giảcủa cuốn sách nàyđã chỉra những điểm sai lầm và mập mờ trong tiến trình phát triển “đồng hồ sinh học”. Nếu khái niệm này đúng đắn thì tại sao một số trẻ thậm chí đọc đưực thông thạo trước khi đến trường và tại sao một số trẻ có thể nói câu đầy đủ và diễn đạt ý lưu loát bằng nhiều thứ tiếng trước khi đồng hồ sinh học mách bảo chúng? Tại sao trẻ con lại thích nghe nhạc Mozart y như khi chúng mê mẩn bài hát “Đếm sao” và tại sao chúng tiếp nhận những câu chuyện núi lửa và động đất dễ dàng như khi lắng nghe những chuyện phiêu lưu của Chim Khổng Lồ trên “Phố Hạt Vừng”? Vói nghiên cứu thấu đáo và rành mạch tiến hành trên hàng ngàn đứa trẻ từ nhiều nền văn hóa, nhiều xã hội, trải qua nửa thế kỷ thực nghiệm ở Viện, các tác giả đã rút ra được một câu chuyện có sức thuyết phục về lý do tại sao trẻ em thẩm thấu thông tin nhanh nhạy và cách chúng phát triển theo ý thích. Các tác giả giải thích đưực cách thức tận dụng những khả năng tuyệt vòi của trẻ sơ sinh để dạy cho trẻ ngay từ khi chúng mói ra đòi, trong một bầu không khí thoải mái, mến thương. Việc bạn dạy con cái khi chúng sẵn sàng tiếp nhận, khi chúng biết cách thâu nhận kiến thức mà không phải mất nhiều nỗ lực và biết tận hưởng từng khoảnh khắc học hỏi sẽ mang đến cho con bạn cơ hội tốt nhất để phát triển thể chất, sức khỏe cùng các kỹ năng trí tuệ để tỏa sáng trong một thế giói ngày càng phức tạp. Sẽ không có được lần thứ hai trí óc trẻ phát triển khả năng học hỏi như trong ba năm đầu đời. Bác sĩ y khoa Mihai Dimancescu
  5. Lời giới thiệu ão bộ - cơ quan kỳ diệu của cơ thể bắt đầu phát triển từ trong bụng mẹ. Dù sự học là việc cả đời, nhưng ngay từ năm đầu đòi, não bộ N vẫn có cơ hội phát triển dài lâu và học hỏi được nhiều điều đặc biệt. Khi mói lọt lòng hay trong vài tuần đầu tiên là khoảng thòi gian đáng nhớ vơi nhiều sự kiện lạ thường. Đây không đơn thuần chỉ là sự khởi đầu thụ động mà là điểm khai mở cho trí não học hỏi và phát triển. Trong suốt năm đầu tiên, khả năng học hỏi và phát triển đáng kể của trẻ em tiếp tục tiến triển. Bộ não trẻ lớn lên nhanh chóng, điều này được phản ánh rõ nét nhờ những biến đổi lớn của chu vi đầu trẻ. Thòi kỳ này đóng vai trò hết sức quan trọng đối vói sự phát triển của não bộ. Hiện nay, các bác sĩ, các nhà khoa học và các nhà giáo dục đều hiểu rằng những năm đầu đòi mang tính chất quyết định đến các kỹ năng sau này - và sự khuyến khích thích đáng cùng những trải nghiệm tương ứng là yếu tố chủ chốt nhằm tối ưu hóa quá trình lớn lên và phát triển của trẻ. Những năm đầu đòi này đặc biệt quan trọng. Ai cũng nhận ra một điều rằng đứa bé càng sớm được kích thích các giác quan, khả năng chuyển động lẫn việc sử dụng ngôn ngữ thì dường như các kỹ năng, sự lớn lên và quá trình phát triển của não càng được tối ưu hóa. Trước khi chào đời, trong bào thai đã có sự phân chia thành hàng tỉ tế bào não. Các tế bào não này chỉ còn đựi sự kích thích để tạo ra một mạng lưới chức năng cho phép đứa trẻ nhìn, nghe, cảm nhận, nếm, ngửi và các kinh nghiệm giúp phát triển quá trình vận động, ngôn ngữ và các khả năng thông thường. Mỗi đứa trẻ bình thường ngay từ lúc mói ra đòi đã có thể tự thực hiện một số chức năng căn bản, nhưng đứa trẻ đó cần có sự phối họp giữa các giác quan lẫn những trải nghiệm khỏi đầu để lớn lên, cải thiện các chức
  6. năng vốn có, đồng thòi học hỏi hoặc tạo ra các mối gắn kết. Khi một đứa trẻ bắt đầu nhận biết về vật thể nhờ năm giác quan và hiểu đưực phần nào ý nghĩa, một hình thức học hỏi đã bắt đầu diễn ra. Đứa trẻ mói ra đòi cũng phải học cách gắn kết các thông tin thâu nhận từ giác quan để sản sinh ra sự vận động, âm thanh và lòi nói tưong xứng. Các giác quan phải cung cấp đưực thông tin tói các vùng não liên quan, tói vùng giải mã giác quan nguyên khỏi, tói trí nhớ và vùng chiến lược của não bộ để hình thành nên phản ứng đúng đắn (chẳng hạn hoạt động vận động). Sự vận động (khả năng hoạt động, ngôn ngữ và lòi nói thông thường) phải do các giác quan điều khiển nhằm tối ưu hóa phản ứng của cơ thể. Vói những đứa trẻ “bình thường” mạnh khỏe, đây là một chu trình kỳ diệu làm tăng cường khả năng học hỏi. Vói những đứa trẻ bị tổn thương não bộ, đây có thể là chu trình khắc nghiệt, vói tín hiệu sai từ giác quan gây nên phản ứng lệch lạc hoặc không phù họp. Trẻ sinh non sớm nhận được sự kích thích giác quan hơn trẻ sinh đủ tháng đủ ngày, vốn đang nằm trong bụng mẹ ở cùng thòi điểm. Ví dụ như, trẻ sinh non có được lọi thế nhận ra sự đối lập giữa sáng - tối, trong khi đứa trẻ đang nằm trong tử cung chưa được tiếp cận vói những nguồn kích thích tương tự. Khi trẻ mói chào đòi, bộ não trải qua ba quá trình tự nhiên nhưng hết sức quan trọng mà chúng ta có thể gọi tên là được kích thích, học hỏi và củng cố vỏ não. Được kích thích là một hiện tượng căn bản, thú vị liên quan đến não. Đối vói trẻ, hàng tỷ tế bào não đã hình thành ngay từ lúc ra đòi. Tuy nhiên, chỉ có những tế bào não nào sớm được sử dụng, kích thích bằng các biện pháp thường xuyên, liên tục và mạnh mẽ thì mói được củng cố, trở thành mối liên kết thần kinh lâu dài, thực hiện chức năng của các chu trình hay mạng lưói quan trọng. Những tế bào não không được sử dụng hiệu quả đều “trơ ì”. Điều này có nghĩa, nếu không được dùng đến, các tế bào đó đều chết đi. Thật không may, có nhiều đứa trẻ khi sinh ra có não bộ “bình thường” hoặc không bị tổn thương nhưng lại rơi vào những môi trường thiếu hụt sự kích thích giác quan, mất đi cơ hội phát triển những khả năng đặc biệt. Một số trẻ sống trong những trại trẻ mồ côi đông đúc thái quá. Một số trẻ được
  7. bố mẹ hay người chăm sóc chúng thiếu kiến thức cần thiết nên môi trường sống của những đứa trẻ này rất nhạt nhẽo, vô vị, trầm lặng, không sự động viên, bọn trẻ có rất ít cơ hội phát triển giác quan hay khả năng vận động. Những đứa trẻ này bị phó thác cho các loại xe đẩy, giường cũi, khung tập đi hoặc các loại thiết bị hạn chế khác, không được phép hoạt động tự do, không có sự kích thích hay phối họp giữa các giác quan - cơ quan vận động tương xứng. Các nghiên cứu đều cho thấy những đứa trẻ bị nhốt vào khung tập đi sẽ bị phát triển chậm hơn hẳn những đứa trẻ được trườn, bò, tập đi trong một môi trường an toàn. Thêm vào đó, các thiết bị như khung tập đi chính là một nguyên nhân hàng đầu gây tổn thương cho trẻ nhỏ. Nếu trẻ bị tước đoạt sự kích thích cảm giác, hoạt động vận động và cơ hội bộc lộ thì nó sẽ mất cơ hội vận hành toàn bộ chức năng cơ thể. Dù cho việc loại thải tế bào não trơ ì là hiện tượng khắc nghiệt nhưng nó thể hiện tính thực dụng của não bộ lẫn cơ thể. Não bộ đòi hỏi nguồn năng lượng lẫn dưỡng chất có chất lượng cao, nhanh nhạy và chiếm đến 20% lượng oxy nạp vào cơ thể. Những khu vực não nào không được dùng đến thì sẽ được cho ngừng hoạt động, để dành các nguồn kể trên cho vùng não có nhu cầu. Đồng thòi vói quá trình được kích thích, một hiện tượng khác đối lập vói nó là quá trình học hỏi cũng diễn ra. Sự củng cố chu trình hoạt động của nơ ron não tạo nên hệ thống nơ ron hoạt động lâu dài nếu được kích thích họp lý. Quá trình củng cố vỏ não cũng diễn ra song song. Trong đó, các nơ ron phát triển lóp bảo vệ, giúp thiết lập các mối liên kết và thúc đẩy trao đổi thông tin. Nói đơn giản, não bộ phát triển nhờ được sử dụng, một người chỉ có hai lựa chọn là “sử dụng hoặc đánh mất tế bào não”. Nhưng não chúng ta hoạt động theo cơ chế nào? Liệu có thể tác động để não hoạt động tốt hơn nữa? Vì sao các giai đoạn trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ lại đặc biệt? Hệ thống thần kinh và bộ não chúng ta hoạt động ra sao?
  8. Hệ thống thần kinh và bộ não chúng ta làm những gì? Chức năng của nó ra sao? Các bà mẹ có thể làm gì để giúp cho quá trình phát triển giác quan và khả năng vận động của con cái? Khi không được trang bị đủ kiến thức, liệu các bà mẹ có làm điều gì đó gây hạn chế hay chấm dứt sự phát triển tối ưu cho bộ não của trẻ? Con của bạn có khỏe mạnh? Con của bạn có bình thường? Khái niệm về một đứa trẻ bình thường? Nếu não con bạn bị tổn thưong, có cách nào để nhận biết? Bạn có thể làm gì để giúp con nếu con gặp vấn đề về não bộ? Những câu hỏi này cùng hàng tá vấn đề khác là mối quan tâm của các bậc phụ huynh. Viện Nghiên cứu các Thành Tựu của Tiềm năng Con ngưòi, do Glenn Doman sáng lập năm 1955, đã và đang đặt ra các câu hỏi này lẫn tìm kiếm câu trả lòi cho chúng trong suốt nửa thế kỷ vừa qua. Cuốn sách này trình bày tỉ mỉ cách đánh giá mức độ phát triển các giác quan và khả năng vận động của trẻ, cách thiết lập một chưong trình giúp tăng cường, thúc đẩy sự phát triển đó. Đây là cẩm nang hướng dẫn hữu ích giúp cho quá trình lớn lên và phát triển của não bộ trẻ trong 12 tháng đầu đòi. Tất cả các thông tin trong cuốn sách đưực diễn đạt đon giản, giúp cho các ông bố bà mẹ dù không có kiến thức y khoa nền tảng vẫn có thể hiểu đưực. Đọc cuốn sách, chúng ta hiểu được những đứa trẻ mói sinh sẽ nhìn nhận ra sao, cảm thấy như thế nào về thế giói quanh chúng. Chúng ta hiểu thêm về những khó khăn và những cảm xúc bột phát mà trẻ phải đối diện. Vói những kiến thức có trong cuốn sách, chúng ta biết đưực đứa trẻ cần gì, muốn gì và chúng ta có đưực niềm vui khi xây dựng môi trường lý tưởng cho trẻ. Mỗi ngày qua đi đều rất đáng giá, con cái chúng ta mong muốn đưực
  9. khám phá thế giói xung quanh ngay từ lúc chào đời. Việc chăm sóc cho bộ não trẻ cũng quan trọng không kém việc chăm chút cho dạ dày của chúng. Mục tiêu của cuốn sách này là giúp các bậc phụ huynh hiểu về hệ thống thần kinh và bộ não. Khi đó, các ông bố bà mẹ có thể làm theo những hướng dẫn rành mạch để phát triển khả năng của con cái mình. Đây không chỉ là một quá trình đặc biệt quan trọng mà còn giúp cho cha mẹ và con cái có những phút giây thoải mái. Bác sĩ y khoa Denise Malkowicz
  10. / Kiêm tìm trạng thái thông minh và khỏe mạnh hi chúng tôi bắt đầu điều trị cho những trẻ bị tổn thương não bộ, đa phần các cháu đều không thể vận động hay giao tiếp. Nhiều cháu K mất hẳn cả hai khả năng này. Bởi vậy, điều quan tâm hàng đầu của chúng tôi là hiểu đưực bản chất quá trình vận động và giao tiếp. Nghiên cứu của chúng tôi khỏi đầu cũng giống các nghiên cứu khác, tìm hiểu trong các tài liệu y tế để biết được toàn bộ những kiến thức cần thiết tính đến thòi điểm nghiên cứu. Chúng tôi đã hết sức ngạc nhiên. Chúng tôi lặng người khi phát hiện ra rằng hầu như chưa có tài liệu nào viết về sự phát triển của trẻ nhỏ. Công trình của Anord Gesell, nhà nghiên cứu tiên phong trong lĩnh vực sự phát triển của trẻ nhỏ, chính là toàn bộ tài liệu có đưực. Theo như các tài liệu y khoa, có lẽ Gesell là người đầu tiên cống hiến trọn đòi vì sự nghiệp nghiên cứu các trẻ khỏe mạnh. Gesell đã nghiên cứu trên quy mô lớn các trẻ khỏe mạnh, không chỉ về phương diện vận động và nói năng mà còn phát triển về mặt xã hội. Tuy nhiên, ông đã không tìm cách lý giải về sự lớn lên của trẻ; ông chỉ tận tâm trở thành người quan sát trẻ nhỏ và quá trình lớn lên của chúng. Chúng tôi càng lúc càng trở nên hứng thú hon vói đề tài này. Khi mà Gesell quan tâm đến việc khi nào đứa trẻ học đi học nói thì chúng tôi muốn biết bằng cách nào chúng làm đưực như vậy và lý do tại sao. Chúng tôi muốn tìm ra các nhân tố chủ chốt trong quá trình lớn lên của trẻ. Rõ ràng chúng tôi phải tự tìm câu trả lòi cho những mối băn khoăn kể trên. Ban đầu, chúng tôi tìm gặp những ngưòi đưực cho là có hiểu biết về lĩnh vực này. “Quá trình lớn lên của một đứa trẻ diễn ra như thế nào?”. “Những nhân tố nào là cần thiết đối vói quá trình lớn lên của trẻ?” Chúng tôi đã hỏi các bác sĩ nhi khoa, các nhà trị liệu, các y tá, các bác sĩ sản khoa, và hết thảy các chuyên viên làm các công việc liên quan đến quá trình lớn
  11. lên của những đứa trẻ khỏe mạnh. Chúng tôi ngạc nhiên và lấy làm buồn lòng vì phải đối mặt vói tình trạng thiếu thông tin trầm trọng. Dần dà, chúng tôi bắt đầu hiểu đưực nguyên do: những người được chúng tôi tham khảo ý kiến đều hiếm khi đưực tiếp xúc vói các trẻ khỏe mạnh! Lý do khiến trẻ đưực đưa đến gặp các bác sĩ, y tá, các nhà trị liệu là bởi đứa trẻ không khỏe như bình thường. Do đó những người đưực hỏi vừa nêu ở trên ban đầu chỉ toàn gặp những đứa trẻ ốm yếu bệnh tật. Vì thế, qua các kiến thức sách vở cũng như thực tế phỏng vấn những người trong nghề, chúng tôi nhận ra rằng trái vói nhiều tài liệu về những đứa trẻ mang bệnh tật này nọ, mảng tài liệu về những trẻ khỏe mạnh cùng quá trình lớn lên của chúng lại cực kỳ ít ỏi. Cuối cùng chúng tôi hiểu ra, những người thấu rõ hon cả quá trình lớn lên của những đứa trẻ mạnh khỏe chính là mẹ chúng. Tuy nhiên, mặc dù các bà mẹ có rất nhiều chuyện để kể cho chúng tôi thì có điểm bất lợi là họ khá mù mờ về thòi điểm trẻ thực hiện đưực loại hành động nào và điểm gì đặc biệt khi thực hiện hành động đó. Khoa học yêu cầu chúng ta độ chính xác cao, vì thế chúng tôi quyết định tìm đến vói nguồn nghiên cứu - chính bản thân các trẻ sơ sinh. Thế giói này trở thành phòng thí nghiệm của chúng tôi và trẻ con trở thành đối tượng nghiên cứu chính. Chúng tôi xin phép các bậc phụ huynh để tìm hiểu các nhóm trẻ. Ban đầu, chúng tôi tập trung hẳn vào mảng vận động. Chúng tôi cẩn thận theo dõi từ khi đứa trẻ ra đòi đến khi bắt đầu tập đi. Chúng tôi thầm tự nhủ, đối vói những đứa trẻ không có khả năng Thế giói này trở thành phòng vận động hoặc bị tách khỏi môi thí nghiệm của chúng tôi và trường, đâu là những nhân tố chủ trẻ con trở thành đối tượng chốt quy định điều này? Đâu là nghiên cứu chính. những nhân tố thúc đẩy đứa trẻ nhanh chóng biết đi nếu đưực để tự xoay xở? Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu trên rất nhiều trẻ sơ sinh. Sau vài năm cần mẫn nghiên cứu, chúng tôi biết mình đã phát hiện ra được phương thức mà mỗi cá nhân vận động khi còn bé xíu. Khi loại bỏ tất cả những yếu tố bên ngoài không gắn bó thiết thân vói
  12. quá trình vận động, có thể nhận thấy trên con đường tập đi có bốn giai đoạn quan trọng nhất. Giai đoạn đầu tiên bắt đầu ngay khi đứa trẻ chào đòi, trẻ có thể cử động tay chân và toàn thân nhưng không thể sử dụng các cử động này để di chuyển từ noi này sang noi khác. Chúng tôi gọi giai đoạn này là “Cử động mà không di động” (xem Hình 2.1). Hình 2-1: Cử động mà không di động Giai đoạn thứ hai diễn ra khi đứa trẻ hiểu đưực, có khi kéo dài hàng giờ, rằng bằng cách cử động tay và chân theo những hướng nhất định cùng vói cử động của bụng trên sàn, nó có thể di chuyển từ điểm A đến điểm B. Chúng tôi gọi Hình 2-2: Trườn giai đoạn này là “Trườn” (xem Hình 2.2). Không lâu sau đó diễn ra giai đoạn thứ ba khi đứa trẻ lần đầu học đưực cách đánh bại trọng lực, nhổm dậy nhờ tay và đầu gối, di chuyển trên sàn nhanh chóng hon và khéo léo hon. Chúng tôi gọi giai đoạn này là “Bò” (xem Hình 2.3). Giai đoạn nổi trội V. V Hình 2-3: Bò cuối cùng diên ra khi đứa trẻ học cách đứng trên hai chân và tập đi, chúng ta đều biết đây là giai đoạn “Bước đi” (xem Hình 2.4). Hình 2-4: Bước đi Việc hiểu đưực tầm quan trọng của bốn giai đoạn này có ý nghĩa quan trọng. Chúng ta có thể nhận biết đưực tầm quan trọng của chúng nếu coi chúng là các cấp học. Hãy coi giai đoạn thứ nhất, cử động chân tay và thân thê mà không di động, là thòi kỳ mẫu giáo; coi giai đoạn thứ hai - trườn - là trường tiểu học; coi giai đoạn thứ ba - bò - là bậc trung học; và hãy coi giai đoạn thứ tư - bước đi - là thòi kỳ học đại học. Trẻ em không thể bỏ qua một cấp học nào. Không ai có thể học xong đại học mà không qua các trường lóp phổ thông.
  13. Có một câu ngạn ngữ xưa nói rằng bạn phải trườn, phải bò trước khi biết cách bước đi. Chúng tôi có thể khẳng định hoàn toàn chắc chắn rằng bạn phải cử động chân tay trước khi biết trườn, và bạn phải biết trườn nhờ cơ bụng trước khi bò trên bốn chi. Chúng tôi bắt đầu tin tưởng rằng không có đứa trẻ khỏe mạnh Có một câu ngạn ngữ xưa nói nào lại có thể bỏ qua một trong một rằng bạn phải trườn, phải bò giai đoạn trên, bất kể thực tế một số trước khi biết cách bước đi. bà mẹ nói rằng con họ không hề trải qua giai đoạn trườn. Tuy nhiên, khi các bà mẹ đó được hỏi: “Có phải ý cô là con cô chỉ có nằm trong nôi cho đến ngày bò trên bốn chi hay đứng trên hai chân và bước đi?”, họ đều suy nghĩ lại và thừa nhận con họ có tập trườn trong một thòi gian ngắn ngủi. Không có cách nào đi hết một con đường nếu bỏ qua một chặng đường nào đó, tuy nhiên, có sự khác biệt rất lớn về mặt thòi gian. Một số trẻ phải mất đến mười tháng cho giai đoạn trườn và hai tháng cho giai đoạn bò, trong khi một số khác lại trải qua hai tháng trườn, mưòi tháng bò. Dầu sao thì bốn giai đoạn quan trọng nêu trên luôn luôn diễn ra theo đúng thứ tự. Suốt từ thòi xa xưa, con đường này không hề có khúc cua nào đối vói những trẻ mạnh khỏe. Chúng tôi còn tin tưởng hai yếu tố khác. Trước hết, chúng tôi tin rằng nếu vì bất kỳ lý do nào, một đứa trẻ bỏ qua một chặng trên con đường quen thuộc, chắc chắn đứa trẻ đó không bình thường và nó sẽ không thể biết đi nếu không được tạo cơ hội thực hiện nốt giai đoạn bị bỏ dở. Chúng tôi hoàn toàn bị thuyết phục rằng nếu ai đó đón lấy một đứa trẻ khỏe mạnh rồi dùng loại dụng cụ nào đó giữ nó bất động ngay từ khi mói sinh, rồi cứ thế cho ăn, chăm sóc đến khi đứa trẻ được mười hai tháng tuổi thì thả nó trên sàn rồi bảo, “Đi xem nào, giờ con đã mười hai tháng tuổi rồi, lúc này một đứa trẻ bình thường đã bước đi được,” thì chắc chắn đứa trẻ đó sẽ không đi được. Thay vào đó, trước tiên đứa trẻ sẽ cử động chân, tay, cơ thể; thứ hai nó sẽ trườn; thứ ba, bò; cuối cùng mói là bước đi. Đây không phải là trình tự thòi gian đơn thuần, ngược lại đây là con đường được vạch sẵn mà mỗi bước phía trước là cần thiết cho bước tiếp theo. Thứ hai, chúng tôi cũng tin rằng nếu bất cứ giai đoạn nào trong bốn giai
  14. đoạn cơ bản này không bị bỏ qua hoàn toàn mà chỉ được thực hiện sơ sài, chẳng hạn như trường họp một đứa trẻ bắt đầu tập đi trước khi bò đủ độ cần thiết thì sẽ dẫn đến những hệ quả tiêu cực, chẳng hạn như khả năng phối họp toàn thân không tốt, khả năng tập trung không cao, không hoàn toàn thuận tay trái hay tay phải, lại thêm các vấn đề về khả năng học hỏi - đa phần liên quan đến kỹ năng đọc và viết. Có thể thấy, trườn và bò là các giai đoạn thiết yếu, không chỉ để chuẩn bị cho giai đoạn tập đi mà còn cho hoạt động của não bộ về sau - những giai đoạn mà hai bán cầu não học cách hỗ trự nhau. Sau nhiều năm quan sát hàng ngàn đứa trẻ từ nhiều nơi trên thế giói, chúng tôi càng tin tưởng rằng khi thấy một đứa trẻ không trải qua tuần tự các giai đoạn quan trọng, khi ấy chúng ta đang quan sát một đứa trẻ về sau có những biểu hiện bất thường về thần kinh. Giờ thì chúng tôi đã có những công cụ ban đầu. Chúng tôi biết được cái gì là bình thường, ít ra là đối vói quá trình vận động. Điều này giúp chúng tôi xác định hai nhiệm vụ tiếp theo: 1) Tìm hiểu xem những thông tin ở trên có thể giúp gì cho một đứa trẻ bị tổn thương não bộ, và 2) Biết được những gì là bình thường đối vói những chức năng khác quan trọng đối vói con người. Sau hai thập kỷ nghiên cứu, có thể thấy những gì chúng tôi nghiên Có thể thấy, trườn và bò là các cứu không đơn thuần chỉ là liệu giai đoạn thiết yếu, không chỉ pháp vật lý, là quá trình vận động để chuẩn bị cho giai đoạn tập mà còn là sự phát triển não bộ của đi mà còn cho hoạt động của trẻ. não bộ về sau. Cho đến giờ, chúng tôi đã vận dụng hàng ngàn cách khác nhau để thúc đẩy não bộ của trẻ, tạo điều kiện môi trường sống. Kết quả là, ngày càng có nhiều trẻ bị tổn thương não bộ học được cách nhìn, nghe, đi lại và nói năng hơn bất cứ thòi kỳ nào trong lịch sử. Đối vói một số trường họp đặc biệt, đứa trẻ đã trở lại hoàn toàn khỏe mạnh.
  15. Một thế hệ trẻ em kiểu mới ột cách tự nhiên, hành trình tìm kiếm những cách thức hiệu quả hơn trong việc cải thiện khả năng vận động của trẻ bị tổn thương M não đưa chúng tôi đến bước tìm hiểu sự phát triển trí tuệ nói chung của những đứa trẻ này. Những năm đầu thập niên 1960, chúng tôi bắt đầu dạy tập đọc cho các cháu nhỏ bị tổn thương não bộ. Nhiều cháu gặp khó khăn trong quá trình nắm bắt, chúng tôi suy ra rằng nếu các trẻ này càng bắt đầu học hỏi sớm bao nhiêu thì cơ hội thành công càng lớn bấy nhiêu. Chúng tôi cũng chữa trị cho nhiều cháu không vấp phải những trở ngại trong việc hiểu vấn đề. Chúng bị tổn thương phần não giữa và khu vực dưới vỏ não. Những cháu này gặp nhiều khó khăn trong việc vận động, ngôn ngữ, cách diễn đạt thông thường, mặc dù khả năng nắm bắt của chúng cực nhanh. Trên thực tế, những đứa trẻ vốn bị khiếm khuyết từ trong bào thai như thế này lại hết sức thông minh. Trong khi những đứa trẻ khác cùng trang lứa còn mải mê trườn, bò, tập đi, nhảy nhót quanh nhà, do tổn thương bẩm sinh, những đứa trẻ này chỉ quan sát và lắng nghe. Năng lực quan sát và nắm bắt vấn đề sắc bén của chúng nhanh chóng phát triển. Kết quả là chúng dễ dàng hiểu thấu được mọi vật và mọi người xung quanh. Do không thể di chuyển hoặc cử động vô cùng khó khăn, chúng rất cần được người lớn giúp đạt được những gì mình cần hay muốn. Bởi vậy khi những đứa trẻ này lên hai hay lên ba tuổi, chúng đã có khả năng nhận thức bằng những trẻ lớn hơn chúng vài tuổi, và chúng sẽ duy trì trạng thái trí tuệ sắc bén này suốt cuộc đòi. Thử thách mà chúng tôi phải đối mặt là tìm cách giúp đỡ những đứa trẻ này để chúng có thể đi lại, nói năng, điều khiển tay như bạn bè đồng trang lứa vẫn làm. Bởi vì chúng có khả năng nắm bắt nhanh nhạy, chúng tôi suy ra việc dạy những trẻ này học đọc sớm sẽ mang lại nhiều lợi ích cho chúng.
  16. Do đó chúng tôi bắt đầu hướng dẫn các bậc cha mẹ cách thức dạy đứa con hai hay ba tuổi bị tổn thưong não học đọc. Việc này sớm mang lại kết quả đáng ngạc nhiên. Những trẻ bị tổn thưong não giữa và phần dưói vỏ não vốn không gặp phải khó khăn khi nắm bắt sự việc đã dễ dàng học đọc. Càng đáng ngạc nhiên hon, những trẻ gặp phải vấn đề trong việc nắm bắt vấn đề cũng học đọc rất nhanh chóng và dễ dàng. Quan trọng hon, chúng tôi choáng váng khi nhận ra khả năng hiểu vấn đề của chúng đã được cải thiện đáng kể cùng vói quá trình kích thích mói mẻ này. Các cháu hết sức thích thú vói chưong trình mói, các bậc phụ huynh thở phào và tất nhiên chúng tôi cũng nhẹ nhõm hẳn. Ở thòi điểm đó, những trẻ bị tổn thưong não bộ vẫn thường xuyên đưực đưa đến Viện để các chuyên gia theo dõi. Các chưong trình mói đưực soạn thảo cho tùng cháu một, dựa trên nhũng tiến bộ mà mỗi cháu đạt đưực, và các bậc phụ huynh khi về nhà sẽ tuân thủ chưong trình mói đều đặn hàng ngày trong khoảng chùng sáu tháng liền. Chưong trình rèn luyện tại nhà cân bằng giữa mục tiêu vận động và mục tiêu rèn luyện thể chất để đảm bảo các cháu khỏe mạnh và hoàn thiện các chức năng. Lúc đó chúng tôi bổ sung thêm chưong trình dạy đọc sóm cho các cháu. Xem xét kết quả của chưong trình rèn luyện, chúng tôi nhận thấy Có thể nhận thấy rõ ràng mặc dù bị tổn thưong não bộ nhưng nhũng đứa trẻ bình thường các trẻ này có thể đọc và hiểu đưực thực ra không hoàn toàn khỏe những gì đã đọc nhanh hon so vói mạnh như chúng ta mong những trẻ bình thường ở cùng độ muốn. tuổi. Những đứa trẻ lên bốn tuổi đó chưa biết đi hay nói nhưng khả năng đọc của chúng đã ngang bằng trẻ học lóp Ba hay lóp Bốn, đôi khi còn cao hon. Điều này có nghĩa là gì?
  17. Có phải chúng chỉ bị tổn thương phần não điều khiển phần thân dưới, còn phần trí tuệ thì cực kỳ xuất chúng? Có lẽ nào tổn thương não bộ lại là một lợi thế? Không ai nghĩ thế cả. Vậy điều này có nghĩa là gì? Chúng tôi thầm tự nhủ có gì đó không ổn - không phải vói những đứa trẻ bị tổn thương não bộ đang trên đường hồi phục mà vói những đứa trẻ khỏe mạnh đồng trang lứa, vì sao chúng không làm được những điều như các trẻ bị tổn thương não bộ. Có thể nhận thấy rõ ràng những đứa trẻ bình thường thực ra không hoàn toàn khỏe mạnh như chúng ta mong muốn. Trong khi bị ý nghĩ này ám ảnh dai dẳng, chúng tôi nhận ra một kiểu trẻ con mói. Cậu bé kiểu mói cùng bố mẹ và anh trai bị tổn thương não đến văn phòng của chúng tôi. Cậu thường ngồi yên trong khi người lớn nói chuyện, xem xét, đánh giá quá trình thực hiện và những hướng dẫn mói dài dòng. Cậu thường đặt ra những câu hỏi sắc sảo và xung phong trả lòi những câu hỏi bất chợt nảy sinh. Cậu nói năng lưu loát, vận động nhịp nhàng, ứng xử tốt và thực sự quan tâm đến quá trình điều trị cho người anh bị bệnh. Cậu bé không giống bất cứ đứa trẻ nào chúng tôi từng gặp. Cậu bé có phần giống một người lớn thu nhỏ, chỉ có điều dễ thương hơn, ngộ nghĩnh hơn một người lớn thông thường ta vẫn gặp. Cậu bé có nhiều nét tính cách trẻ thơ khiến người khác vô cùng yêu mến. Trái lại, những đặc tính đôi khi khiến trẻ con trở thành “cục nợ” đối vói người lớn lại hoàn toàn không có ở cậu bé. Đáng lẽ chúng tôi phải sớm nhận ra cậu bé mói đúng. Khi chương trình điều trị thần kinh bắt đầu áp dụng cho đứa trẻ bị tổn thương não là anh hay chị của cậu bé, cậu chỉ vừa mói chào đòi. Mẹ cậu rất thông minh khi lúc nào cũng đưa cậu đi cùng vói anh bị tổn thương não. Cậu bé luôn được tham gia mọi hoạt động trong chương trình điều trị mà mẹ và anh mình tham gia. Nếu anh của cậu học trườn bằng cơ bụng, cậu cũng có cơ hội học trườn cùng anh mình. Vậy là cậu đã có cơ hội để trườn toài khắp trên sàn nhà.
  18. Nếu anh của cậu cuộn người lăn tròn để cải thiện trạng thái thăng bằng và hệ tiền đình, cậu bé cũng được cuộn người lăn tròn theo người anh của mình. Và do đó não bộ của cậu đưực kích thích ở phần vỏ não tiền đình và thăng bằng, khác hoàn toàn vói trường họp đưực kích thích ngẫu nhiên. Khi mẹ cậu bắt đầu dạy anh cậu học đọc, cậu bé ngồi cạnh bên anh mình. Bất cứ từ nào mà anh cậu nhìn thấy, cậu cũng nhìn thấy. Do khả năng thị giác của anh cậu có vấn đề, các từ dạy đọc đều đưực viết rất to. Cậu bé có thể dễ dàng nhìn thấy những chữ viết to đó, kết quả là cơ quan thị giác của cậu có cơ hội phát triển nhanh hơn và tốt hơn. Các từ này đều được nhặt ra từ giao tiếp trong gia đình, do đó cậu bé cũng có thể hiểu được nhanh chóng. Khi chưa tròn một tuổi, cậu bé đã có thể phát âm rành mạch các từ đơn khác nhau. Nói ngắn gọn, các ông bố bà mẹ đã tận dụng khiếm khuyết của tạo Điều kiện môi trường thuận hóa, mang lại cho đứa trẻ bị tổn lợi tạo ra nhiều kích thích tìm thương não một môi trường cải đến não bộ và vô vàn cơ hội thiện thần kinh hết sức tốt đẹp, đê chuyển tải những phản hồi từ các bé có thể khắc phục những não bộ. thương tổn, khép lại những chu trình do thương tổn gây ra. Điều kiện môi trường thuận lọi tạo ra nhiều kích thích tìm đến não bộ và vô vàn cơ hội chuyển tải những phản hồi từ não bộ. Chúng tôi đưa ra giả thuyết là nếu một môi trường như thế có thể mang đến những kích thích cần thiết để giúp trẻ bị tổn thương não bộ phục hồi, không lý gì nó lại không mang lại lựi ích tương tự đối vói trẻ bình thường? Xét đến cùng, đứa trẻ sơ sinh khỏe mạnh cũng phải đối mặt vói các thử thách như vói đứa trẻ bị tổn thương não bộ. Cũng giống như ở trẻ bị tổn thương não bộ, hệ thần kinh của trẻ sơ sinh hoàn toàn chưa hoàn chỉnh. Trên thực tế, một trẻ sơ sinh khỏe mạnh và một trẻ bị tổn thương não bộ, dù có một số nét khác nhau cơ bản, nhưng hoạt động thần kinh vẫn khá giống nhau. Nếu chúng ta biết cách giúp đứa trẻ bị tổn thương vùng não thị giác biết cách nhìn, giúp đứa trẻ bị tổn thương vùng thính giác biết cách nghe, giúp đứa trẻ bị liệt phục hồi chức năng vận động, chẳng lẽ chúng ta không biết cách tạo ra môi trường thông suốt cho mọi trẻ sơ sinh?
  19. Một chương trình được thiết kế công phu có chủ đích sẽ mang đến cho đứa trẻ sơ sinh những điều kiện khuyến khích sự phát triển tối đa. Thêm vào đó, chương trình còn đóng vai trò như một dạng kế hoạch bảo hiểm, giúp giải quyết bất cứ vấn đề nào liên quan đến thần kinh mà đứa trẻ có nguy cơ đối mặt khi để chúng tự lớn lên. Đây chính là một tương lai đầy Một chương trình được thiết hứa hẹn cho tập thể các nhà nghiên kế công phu có chủ đích sẽ cứu. Chính nó đã làm nảy sinh bao mang đến cho đứa trẻ sơ sinh nhiêu cuộc tranh luận và bàn thảo những điều kiện khuyến khích vào lúc ba giờ sáng. Những cuộc sự phát triển tối đa. thảo luận chỉ được kết thúc khi ai đó nhắc nhở rằng chúng tôi còn phải lo cho rất nhiều trẻ khuyết tật, số mệnh chúng phụ thuộc vào khả năng chúng tôi tìm ra cách thức giúp chúng sớm hồi phục. Cả nhóm chúng tôi ai cũng tận tụy hết lòng, nhưng lượng người quá ít ỏi. Chúng tôi biết mình không đủ sức lo nghĩ cho những đứa trẻ bình thường trong khi các trẻ khuyết tật vẫn kiên trì chống chọi để sống sót trong một thế giói mà chúng thường bị xếp vào tận đáy và quên lãng. Chính vì thế, giấc mơ mang lại những điều tốt đẹp cho trẻ sơ sinh dựa trên nền tảng tri thức như trên vẫn chỉ là một giấc mơ trong một thòi gian dài. Và rồi bất chợt, các bé nói năng lưu loát, vận động nhịp nhàng và hết sức dễ thương bắt đầu xuất hiện ở văn phòng của chúng tôi ngày càng nhiều. Đấy không phải một giấc mơ. Và cũng không còn là những lý thuyết đơn điệu. Các bé rất thực và vô cùng sống động. Lúc bấy giờ, chúng tôi không còn lựa chọn nào khác. Chúng tôi đã bị mê hoặc. Chúng tôi biết, cho dù mất bao nhiêu thòi gian và tiền của chăng nữa, chúng tôi vẫn sẽ làm điều gì đó để các bé khỏe mạnh.
  20. Trẻ sơ sinh gưòi lớn chúng ta lúc nào cũng cho rằng giai đoạn sơ sinh thực sự rất đơn giản. Hoạt động của một trẻ sơ sinh chỉ là bú no nê rồi ngủ. N Đối vói chúng ta những việc này chẳng có gì khó khăn cả, bởi thế chúng ta nghĩ thòi kỳ sơ sinh chính là khoảng thòi gian trẻ tận hưởng và thích nghi dần vói ngôi nhà mói. Trên thực tế, trẻ không thực sự được thoải mái như thế. Đến vói thế giói này, trẻ vừa hoàn thành một hành trình gian nan nhất từng có trong đòi. Cho dù quá trình chào đòi có diễn ra suôn sẻ đi nữa thì nó vẫn có rất nhiều việc cần làm. Chúng ta đã đề cập khá nhiều về sự vất vả của những người mẹ trong quá trình sinh nở, bởi thực sự đây là công việc vô cùng gian nan. Nhưng sinh nở là hoạt động tương tác, trẻ cũng gặp phải nhiều khó khăn không kém mẹ nó, để được có mặt trên cõi đời này. Khi đã lọt lòng, trẻ phải thích nghi tức thòi vói thực tế không còn được nằm trong bầu nước ối của mẹ nữa. Đứa trẻ không chỉ phải học cách cử động chân, tay khi không có lực hỗ trự của nước ối, nó còn phải nhanh chóng kiểm soát nhịp hô hấp để được sống sót. Thật đáng ngạc nhiên bởi trẻ thực hiện được hai việc này gần như ngay lúc vừa chào đòi. Khi đã quen dần vói môi trường mói, qua tay các bác sĩ, y tá, cha mẹ, đứa trẻ phải đón nhận nhiệm vụ cam go là phân biệt các sự vật xung quanh. Lúc mói lọt lòng, trẻ không nhìn thấy gì, giống một dạng mù. Tuy nhiên, do tiếp xúc vói ánh sáng lần đầu khi chào đòi, trẻ ngay lập tức dùng thử năng lực thị giác của bản thân. Đứa trẻ có những phản ứng vói ánh sáng dù ban đầu các phản ứng đó đều rất chóng vánh. Nỗ lực sử dụng thị giác chỉ diễn ra ngắn ngủi. Đứa trẻ sẽ nhanh chóng thấm mệt và ngủ ngay
  21. sau khi cố gắng nhìn bằng mắt. Đứa trẻ cũng chẳng nghe đưực Khoa học đã chứng minh các là bao. Khoa học đã chứng minh các bào thai có những phản ứng bào thai có những phản ứng đối vói đối vói âm thanh và giọng nói âm thanh và giọng nói nếu chúng nếu chúng phát ra đủ to. phát ra đủ to. Tuy nhiên, lúc mói ra đòi, về cơ bản đứa trẻ gần như bị điếc. Nó có thể nghe một số tiếng động lớn, nhưng không nghe được hầu hết các loại âm thanh. Thường thì đứa trẻ được sinh ra trong một môi trường chứa đựng nhiều tiếng động ồn ào. Những âm thanh này gây rối loạn thính giác của trẻ. Tiếng động hỗn loạn khiến trẻ khó lòng nghe được gì. Tất nhiên cơ quan xúc giác của trẻ đã hoạt động, nhưng chỉ mói ở dạng thô sơ. Trẻ có thể dùng khứu giác để tìm kiếm mẹ, và nếu hệ thần kinh của trẻ hoàn toàn không có vấn đề gì thì chẳng bao lâu sau khi chào đòi, trẻ đã có thể bú và nuốt bình thường. Trẻ có thể tự do cử động tay chân nhưng các chuyển động hướng về phía trước hết sức khó khăn, nhất là vì đứa trẻ bị quấn khăn tã kín mít rồi đặt nằm ngửa trong nôi. Trẻ có thể khóc nhưng hệ hô hấp của nó chưa phát triển hoàn thiện nên tiếng khóc hầu như chẳng có mấy cung bậc. Bởi thế, trẻ chỉ dùng đúng một tiếng khóc để phản ứng trước mọi sự việc xung quanh. Đứa trẻ có thể nắm một ngón tay đặt lên tay nó ngay từ khi chào đòi. Các bậc phụ huynh thường hết sức bị ấn tượng bởi đứa trẻ có khả năng nắm rất chặt. Tuy nhiên, dù biết nắm tay khá chắc, thậm chí còn khá mạnh, đứa trẻ lại không biết cách thả ngón tay ra cho dù nó có muốn chăng nữa. Nói chung, những trẻ vừa ra đòi đều trong tình trạng mù, điếc, gần như vô tri vô giác, bé cũng không thể điều khiển tay và khó phát ra âm thanh. Đây hoàn toàn là trạng thái chẳng lấy gì làm vui vẻ, thoải mái cả. Những trẻ sơ sinh không hẳn sung sướng như chúng ta vẫn hằng Những trẻ sơ sinh đang nỗ hình dung. Trái lại, chúng là những lực đấu tranh vói tình thế cam
  22. cá thể nhỏ bé đang nỗ lực đấu tranh go để vượt qua tình cảm mù vói tình thế cam go để vượt qua lòa, điếc lác và bất động tình cảnh mù lòa, điếc lác và bất động. Chúng hết sức nỗ lực. Là trẻ sơ sinh chẳng hề dễ dàng và an toàn. Ngay từ khoảnh khắc đầu tiên, trẻ sơ sinh đã coi việc học nhìn, nghe, cảm nhận và chuyển động là những nhiệm vụ của mình. Nó sẽ tận dụng mọi giây phút tỉnh táo để thực hiện những nhiệm vụ này. Câu hỏi duy nhất cần đặt ra là liệu chúng ta có nên giúp đỡ trẻ hay để nó tự xoay xở. Không một vị phụ huynh minh mẫn nào muốn can thiệp vào nỗ lực riêng của trẻ nhưng chúng ta luôn vô tình can thiệp vào con đường riêng của trẻ. Những phương pháp sinh nở và chăm sóc trẻ sơ sinh hiện đại lý giải rất ít về những việc chúng ta cần làm và vì sao phải làm như thế. Khi nói đến lý do khiến chúng ta làm gì đó, thường chỉ đơn giản bởi tính tiện lựi. Đáng buồn thay, những gì tỏ ra có hiệu quả hay tiện lợi đối vói người lớn lại thường gây tác động xấu đến trẻ nhỏ. Chúng ta hãy cùng nhìn lại điều kiện môi trường điển hình dành cho trẻ sơ sinh và đặt ra câu hỏi sau: Sự chuẩn bị đó là vì lọi ích đứa trẻ hay lọi ích của chúng ta? Sau khi ra đòi, trẻ thường xuyên bị tách khỏi mẹ, bị quấn tã, đặt nằm ngửa và nếu được gia đình đồng ý cháu sẽ được đưa đến khu chăm sóc đặc biệt vói các bé cùng độ tuổi. Những việc này tốt cho trẻ hay Đáng buồn thay, những gì tỏ chỉ thuận tiện cho đội ngũ chuyên ra có hiệu quả hay tiện lựi đối viên y tế theo dõi? vói người lớn lại thường gây tác động xấu đến trẻ nhỏ. Tạo hóa đã định ra tỷ lệ một mẹ / một con để đứa trẻ luôn được mẹ để mắt chăm sóc mọi lúc mọi nơi. Chúng ta vô hiệu hóa cách sắp đặt đó, mang trẻ đi, đưa trẻ góp mặt vào
  23. đám trẻ sơ sinh luôn được để ý chăm lo, không phải bởi mẹ chúng mà bởi các y tá tận tâm. Để giúp các y tá có thể trông được rất nhiều trẻ trong cùng lúc, các trẻ sơ sinh được đặt nằm ngửa, nhờ đó các y tá có thể đảm bảo chắc chắn bọn trẻ thở được. Đứa trẻ được quấn kỹ trong chăn vì nhiệt độ ở khu chăm sóc đặc biệt không đủ ấm để bé được ở trần. Nếu chúng ta điều chỉnh nhiệt độ đủ ấm cho bé khỏi phải vướng víu khăn tã thì các y tá sẽ thấy phát sốt. Dù lúc mói chào đòi đứa trẻ không thể nhìn hay nghe rõ tiếng nhưng có thể ngửi thấy mùi của ngươi mẹ. Khi bị đưa sang khu chăm sóc đặc biệt, trẻ không còn được ngửi mùi của mẹ nữa. Điều này gây nên cảm giác bất an đối vói trẻ. Bản năng sinh tồn mách bảo trẻ : “Lúc nào cũng phải ở bên mẹ!” Bởi thế trẻ khóc váng lên đòi có mẹ ở bên. Mẹ thì vẫn đang ở phòng hậu sinh cách đó đến vài ba chục mét nên không thể nghe tiếng khóc và đáp ứng yêu cầu của trẻ. Trẻ biết mẹ nó không có ở đó, nỗ lực gọi mẹ của nó không được đáp trả. Đây hoàn toàn không phải trạng thái vui vẻ thoải mái đối vói trẻ. Tình thế đáng sợ này còn trở nên tồi tệ hơn khi mà trẻ nghe được những tiếng khóc lớn nhằng nhẵng của những bạn đồng cảnh ngộ ở khu chăm sóc đặc biệt đang đòi mẹ. Vậy mà chúng ta vẫn gọi đấy là “khu chăm sóc đặc biệt”? Ý định của chúng ta có thể là tốt đẹp nhưng chúng ta chỉ chú tâm vào những điều kiện thuận tiện cho người lớn chúng ta. Kê cả trong trường họp chúng ta cố tình chọc tức, đe dọa đứa trẻ thì có lẽ cũng không còn một môi trường nào khác tệ hại hơn nữa. Khi đứa trẻ được đón về nhà, nó vẫn bị quấn trong hàng bao nhiêu lóp chăn tã, bất kể mùa nào trong năm. Chúng ta bật điều hòa ở mức nhiệt độ khiến chúng ta thấy thoải mái. Nhưng các trẻ sơ sinh thường cần môi trường ấm áp hơn chúng ta, bởi thế chúng thường được bao bọc rất kỹ càng trong vài tháng đầu đòi.
  24. Đưực bọc trong những lóp chăn dày sụ và mặc những bộ đồ bó khít khiến trẻ khó có thể cựa quậy đưực. Lúc mói sinh, đa phần các trẻ đều mũm mĩm bụ bẫm nên khó cử động, đã vậy trẻ lại còn bị quấn trong chiếc tã cồng kềnh, bị mặc cho bộ quần áo thùng thình, rồi bị bọc trong hàng lóp chăn, trông trẻ chẳng khác nào một võ sĩ sumo đang vật lộn cố thoát ra khỏi chiếc kén của mình. Và trẻ hầu như chẳng cử động đưực mấy. Trẻ sẽ khuơ tay đạp chân loạn xị vào những thòi điểm hiếm hoi đưực thoát khỏi vòng vây của áo quần chăn tã. Chính vì thế mà khoảng thòi gian thay tã cho bé thật gian nan. Đây là thòi điểm ngắn ngủi duy nhất trong ngày mà bé được tự do. Bé cựa quậy liên tục, khiến cho chúng ta phát cáu vì không mặc đưực áo cho bé. Bị áo quần chăn tã quấn chặt khiến cho bé luôn tìm cách cử động. Ngoài ra, ngay từ khi mói ra đòi, bé hầu như toàn bị đặt nằm ngửa. Vói tư thế này, bé chẳng khác nào một con rùa bị lật ngửa. Mọi cử động chân tay của bé đều vô hiệu lực. Bé chẳng thể nào nhích dậy được. Tuy nhiên, nếu bé được đặt nằm Kê cả khi chúng ta tạo cơ hội sấp trên một mặt sàn nhẵn và ấm, cho trẻ được cử động, chúng tất cả những cử động tay chân ngẫu ta vẫn giói hạn nghiêm ngặt nhiên lại giúp bé di chuyển cực kỳ vùng di chuyển bằng cách đặt hiệu quả. Bất cứ lúc nào được đặt trẻ trong nôi, cũi, xe đẩy hoặc nằm sấp, bé sẽ ngay lập tức thử khung tập đi. hàng trăm lần để học cách cử động tay chân sao cho trườn được. Tạo hóa đã ban cho trẻ sơ sinh niềm dam mê chuyển động, và bé tận dụng mọi kẽ hở có thể cho công việc này. Nếu bạn nhẩm tính khoảng thòi gian các bé sơ sinh ngày nay được thả cho tự do trườn trên mặt sàn ấm và nhẵn, chắc hẳn bạn sẽ thấy đó chỉ là con số không. Kê cả khi chúng ta tạo cơ hội cho trẻ được cử động, chúng ta vẫn giói hạn nghiêm ngặt vùng di chuyển bằng cách đặt trẻ trong nôi, cũi, xe đẩy hoặc khung tập đi. Các dụng cụ và thiết bị này được tạo ra vói mục đích trông nom trẻ từ xa. Chúng được thiết kế nhằm kiểm soát trẻ để chúng ta có thể rảnh tay làm việc mà không cần phải kèm sát chúng. Điều này nghe
  25. ra có vẻ mang lại tiện ích cần thiết, thậm chí là công cụ bảo vệ an toàn cho trẻ nhưng thực chất, chúng không hề tiện lựi về lâu về dài và cũng không hề an toàn trong ngắn hạn. Không thể nói các dụng cụ và thiết bị này tiện lọi khi mà chúng tạo ra một môi trường trong đó trẻ so* sinh không đưực tự do phát triển các kỹ năng trườn, bò. Giờ chúng ta đã biết các giai đoạn này đóng vai trò thiết yếu đối vói sự phát triển của trẻ. Bất cứ loại dụng cụ, thiết bị nào tạo ra khoảng cách giữa chúng ta và đứa trẻ đều chỉ ru chúng ta bằng cảm giác an toàn giả tạo. Chỗ phòng khám của chúng tôi có rất nhiều trẻ bị tổn thưong não bộ trước đây vốn là các trẻ bình thường do lật khỏi nôi ngã chấn thưong đầu hoặc do trèo khỏi cũi và ngã vào hồ boi. Bài học rút ra rất đon giản - các trẻ sơ sinh đưực ở gần mẹ và gần mặt sàn bao nhiêu thì càng an toàn bấy nhiêu, dù xét trong ngắn hạn hay dài hạn. Vói vai trò là bố mẹ, là thành viên của xã hội, chúng ta cần phải Bài học rút ra rất đon giản - xem xét cẩn thận danh mục ưu tiên các trẻ sơ sinh đưực ở gần mẹ khi quyết định mang đến cho cuộc và gần mặt sàn bao nhiêu thì đòi này một sinh linh bé nhỏ. càng an toàn bấy nhiêu, dù xét trong ngắn hạn hay dài hạn. Nhìn nhận lại kỹ càng hon, chúng ta có thể thấy mình đã quá ích kỷ, vô tình và cực kỳ thiển cận khi tạo ra các điều kiện môi trường cho trẻ sơ sinh lại chỉ hoàn toàn dựa trên tiện ích dành cho chúng ta, tước đi quyền lọi căn bản của trẻ là được vận động, khám phá và phát triển tối đa năng lực bản thân. Dù không hề cố tình nhưng chúng ta đã ngáng đường phát triển của trẻ. Các nhu cầu của trẻ sơ sinh có ý nghĩa quan trọng hơn sự tiện lựi tạm thòi của chúng ta. Các điều kiện môi trường cần được xác lập sao cho đảm bảo an toàn và mang lại lợi ích lâu dài cho quá trình phát triển của trẻ. Gia đình và xã hội xét về tổng thể đều được hưởng những mối lợi ích
  26. lớn lao từ niềm vui và khả năng vưựt trội của các bé đưực nuôi dưỡng đúng cách, đáp ứng các nhu cầu tự nhiên của trẻ.
  27. Tắt đồng hồ báo thức húng ta đã nhắc nhiều về những điều không nên làm nhưng lại chỉ mói manh nha nói đến những điều chúng ta nên làm để tạo ra môi Ctrường tốt đẹp hon cho con cái chúng ta. Đã đến lúc chúng ta cần xem xét kỹ hon. Bấy lâu nay, mọi người vẫn tin tưởng rằng nhũng mốc chủ chốt trong quá trình phát triển của trẻ sẽ tự nhiên đến, đó đon thuần là kết quả của việc đứa trẻ lón dần theo năm tháng. Lý thuyết này có nghĩa lúc một tuổi, đứa trẻ sẽ biết đi nhờ vào cơ chế tự thân nào đó - khá giống như chiếc đồng hồ được đặt giờ ở thòi điểm trẻ mười hai tháng tuổi, đồng hồ reo tức là trẻ có khả năng đi lại. Cũng giống như thế khi tiếng chuông đồng hồ báo đã đến thòi điểm nói, đứa trẻ sẽ bắt đầu phát ra từ. Theo lý thuyết này mỗi đứa trẻ đều có một chiếc đồng hồ báo thức và đưực định sẵn những giai đoạn phát triển quan trọng. Lý thuyết này cho rằng thòi gian tuyến tính sẽ làm nảy sinh năng lực của con người, khả năng nhận thức cũng tồn tại vốn dĩ như bình minh hay hoàng hôn. Họ gọi đây là “sự sẵn sàng”. Chẳng hạn, chuông đồng hồ báo thức reo vào thòi điểm trẻ sáu tuổi, lúc này đứa trẻ đã “sẵn sàng tập đọc”. Khái niệm “sự sẵn sàng” và toàn bộ lý thuyết đồng hồ báo thức chỉ là những thông tin vô nghĩa được ngụy trang tinh vi. Nếu theo lý thuyết trên sự sẵn Khái niệm “sự sẵn sàng” và sàng tập đọc đã được ấn định vào toàn bộ lý thuyết đồng hồ báo mốc sáu tuổi thì chúng ta biết giải thức chỉ là những thông tin vô thích ra sao trước thực tế có đến nghĩa được ngụy trang tinh vi. 30% học sinh trong hệ thống giáo dục của chúng ta không đọc thông
  28. thạo khi đã bước sang tuổi mưòi tám? Tại sao đồng hồ sinh học báo thức của chúng không đổ chuông vào lúc chúng sáu hay bảy tuổi? Tại sao mãi đến năm chúng mười tám tuổi rồi, tiếng chuông đồng hồ vẫn không chịu reo lên? Sẽ khó khăn hon nữa nếu muốn giải thích trường họp hàng ngàn đứa trẻ bị tổn thưong não bộ lại có thể đọc đưực dễ dàng dù mói ba tuổi. Nhờ mẹ, những đứa trẻ này coi việc đọc là niềm vui lớn lao nhất. Vì sao đồng hồ báo thức khả năng đọc của những đứa trẻ này lại sớm đổ chuông? Đúng là mười hai tháng tuổi là mốc trung bình mà một đứa trẻ bắt đầu tập đi. Nhưng phải chăng đây là mối liên hệ nào đó hay chỉ đon thuần thòi gian trôi qua và đứa trẻ có đưực khả năng đi lại? Hoàn toàn không. Sau một thòi gian dài ở gần những trẻ khỏe mạnh đưực dành cho môi trường sống tuyệt hảo để phát triển ngay từ khi mói lọt lòng, chúng tôi phải tự đặt ra câu hỏi, “Vì sao chúng có thể tập đi, tập nói và học đưực cách điều khiển tay sớm hon bạn bè đồng trang lứa?” Tại sao chiếc đồng hồ của chúng lại reo trư&c thòi điểm đưực ấn định? Tại sao chúng lại có khả năng học hỏi sớm thế? Và chúng tôi đã khám phá ra một trong những điều thú vị nhất: quá trình phát triển của trẻ là sản phẩm của tổng các kích thích từ môi trường sống. Quá trình này không phụ thuộc vào chiếc đồng hồ báo thức đặt lịch sẵn. Nhờ đó, chúng tôi bắt đầu tìm kiếm mọi phưong pháp để “làm cho Quá trình phát triển của trẻ là đồng hồ báo thức của các trẻ bị tổn sản phẩm của tổng các kích thưong não đổ chuông”. Kết quả là thích từ môi trường sống. chúng tôi tìm được hàng trăm cách. Quá trình này không phụ thuộc vào chiếc đồng hồ báo Chúng tôi xóa bỏ mô hình đồng thức đặt lịch sẵn. hồ báo thức ấn định sẵn. Điều chúng tôi khám phá được là một
  29. chân lý hết sức giản đon và tinh tế: Bộ não lớn lên nhờ hoạt động, không phải do chiếc đồng hồ báo thức đưực ấn định sẵn nào cả. Có thể đẩy nhanh quá trình phát triển của bộ não bằng cách tăng cường độ kích thích vào bất cứ giai đoạn nào trong đòi, nhưng sẽ hiệu quả hon cả vào giai đoạn não bộ phát triển nhanh nhất: sáu năm đầu đòi. Sáu năm đầu đòi rất quý giá bởi trong suốt thòi kỳ này, bộ não phát triển vói nhịp độ đáng nể. Tuy nhiên, sự phát triển của bộ não nhanh nhất vào năm đầu đòi của trẻ. Như chúng tôi đã chỉ ra ở trên, một đứa trẻ sơ sinh khỏe mạnh, cũng giống như các sinh vật bé bỏng, về cơ bản bị mù tạm thòi. Bé chỉ có thể nhìn được bóng tối và ánh sáng. Bé có thể “phản ứng trước ánh sáng”. Điều này có nghĩa nếu chúng ta chiếu một tia sáng vào mắt bé, đồng tử mắt bé sẽ co lại để ngăn quá nhiều ánh sáng xâm nhập vào vùng thị giác trên não. Nếu chúng ta tắt ánh sáng đi, đồng tử sẽ giãn trở lại, cho phép một lượng ánh sáng vừa phải tiến vào dây thần kinh thị giác. Giờ chúng ta hãy cùng xem xét ba đứa trẻ: 1. Một trẻ sinh non hai tháng ở Chicago, giờ bé chính xác được hai tháng tuổi. 2. Một trẻ sinh đủ ngày đủ tháng khỏe mạnh, thụ thai cùng ngày vói đứa bé sinh non, cũng sinh ra ở Chicago. 3. Một trẻ ba tháng tuổi khỏe mạnh, thành viên của bộ lạc Xingu thuộc vùng Mato Grosso, Brazil. Nếu thuyết đồng hồ báo thức thực sự đúng thì đứa trẻ ba tháng tuổi của bộ lạc Xingu có khả năng nhìn rõ nhất, đứa trẻ sinh đủ ngày đủ tháng ở Chicago nhìn kém hơn, còn đứa trẻ thiếu tháng thụ thai cùng ngày sẽ nhìn kém hơn cả. Trên thực tế, kết quả hoàn toàn ngược lại. Vì sao lại thế?
  30. Trước tiên hãy xét trường họp đứa trẻ hai tháng tuổi yếu thế hon do sinh thiếu tháng, bé sórn phải giã từ môi trường tử cung yên bình của mẹ. Chúng tôi quan sát đứa bé này ngay khi cháu vừa chào đòi và nhận thấy việc chào đòi sớm không ảnh hưởng đến khả năng thị giác của cháu. Cháu có phản ứng bình thường trước ánh sáng, phân biệt đưực ánh sáng và bóng tối. Đứa trẻ Chicago sinh đủ tháng đủ ngày, thụ thai cùng ngày vói đứa trẻ thiếu tháng, chào đòi sau đứa trẻ thiếu tháng đúng hai tháng. Chúng tôi quan sát thấy cháu cũng có khả năng thị giác bình thường. Cháu có phản ứng trước ánh sáng, do đó phân biệt đưực ánh sáng và bóng tối. Cả hai đứa trẻ nói trên đều có “đồng hồ báo thức” cùng lịch trình. Nếu dựa trên thòi điểm thụ thai, cả hai cùng độ tuổi. Tính theo ngày chào đòi, đứa trẻ sinh đủ tháng đủ ngày chỉ mói phân biệt được ánh sáng và bóng tối trong khi đứa trẻ sinh thiếu tháng (lúc này đã đưực hai tháng tuổi) đã có thể nhìn ra các đường nét và hình bóng, điều hoàn toàn bình thường đối vói một đứa trẻ hai tháng tuổi khỏe mạnh. Chúng tôi gặp rất nhiều trường họp như vậy. Điều này có ý nghĩa gì? Vì sao đứa trẻ sinh non yếu thế hon lại nhìn ra được các đường nét Bộ não lửn lên nhờ hoạt trong khi đứa trẻ sinh đủ tháng đủ động, không phải do chiếc ngày, đúng chính xác ngày tính từ đồng hồ báo thức đưực ấn khi thụ thai, lại chỉ mói nhìn ra định sẵn nào cả. đưực ánh sáng và bóng tối? Câu trả lòi đã khá rõ ràng rồi, phải không nào? Đứa trẻ yếu thế đã có môi trường xung quanh để học nhìn trong suốt hai tháng, còn đứa trẻ sinh đủ tháng thì chưa. Không ai có thể đọc sách đưực nếu không có sách để đọc. Không ai có thể choi dưong cầm nếu không có đàn để tập luyện. Không ai có thể boi đưực nếu không có môi trường nước để nhảy vào.
  31. Không ai có thể nhìn thấy thế giói nếu không có cái gì để nhìn. Phải mất từ một đến hai tháng học cách nhìn thì chức năng thị giác trên não mói đưực chuyển sang giai đoạn bắt đầu biết phân loại những gì nhìn đưực. Vậy còn em bé Xingu ba tháng tuổi từ vùng thảo nguyên bao la của Brazil thì sao? Cách đây 40 năm, họ vẫn sống cô lập, anh em huyền thoại nhà Villas-Boas là những người duy nhất từ thế giói bên ngoài từng nhìn thấy họ. Bởi thế khi đoàn nghiên cứu của Viện đến bộ lạc vào năm 1966, chúng tôi là người thứ ba, thứ tư, thứ năm và thứ sáu từ bên ngoài nền văn hóa của họ từng gặp và sống cùng họ. Đứa trẻ Xingu khá bụ bẫm so vói các bé ba tháng tuổi. Cháu đưực nuôi lớn ở bộ lạc Xingu, thuộc vùng Mato Grosso ở miền Trung Brazil. Nếu mô hình đồng hồ báo thức ấn định sẵn là đúng đắn thì chắc chắn đứa trẻ Xingu ba tháng tuổi sẽ nhìn tốt hon đứa trẻ sinh thiếu tháng hoặc đứa trẻ sinh đủ tháng đủ ngày đã nhắc đến ở trên. Thực tế hoàn toàn trái ngưực. Đứa bé sinh non lại nhìn rõ hon cả. Đứa trẻ sinh đủ tháng đủ ngày mói đưực vài ngày tuổi nhìn kém hon. Còn đứa trẻ Xingu của chúng ta lại chẳng nhìn đưực gì. Tại sao có điều này? Nếu thiếu đi điều kiện thích họp để tập nhìn thì thòi gian tuyến tính chẳng mang lại ích lợi gì. Trên thực tế, nó còn là điều bất lựi. Có chuyện gì xảy đến vói đứa trẻ Xingu của chúng ta? Bé rất xinh xắn, cũng giống như mọi trẻ em khác ở Xingu. Ớ bộ lạc của bé, mọi ngưòi sống trong những lều cỏ lớn không có cửa sổ và chỉ có một cửa ra vào bé xíu. Cửa ra vào đưực làm bé như vậy để bảo vệ những ngưòi sống trong lều. Bạn sẽ không thể bước vào trong một ngôi nhà Xingu mà không khom người và cúi đầu. Kết quả là các ngôi lều Xingu đều tối như hũ nút, bên trong các lều hầu như chẳng có chút ánh sáng nào. Khi một đứa trẻ Xingu chào đòi, vì những tín niệm riêng của người Xingu, đứa trẻ sẽ đưực giữ ở trong lều gần như suốt một năm đầu đòi.
  32. Khi đội nghiên cứu của chúng tôi đến thăm những con người xinh đẹp của vùng Mato Grosso, chúng tôi đưực họ giúp đỡ rất nhiệt tình. Chúng tôi gặp một gia đình có con nhỏ ba tháng tuổi, đề nghị được ngắm và chụp ảnh cháu bé. Bố mẹ bé đưa cháu ra ngoài tròi để các bức ảnh có chất lượng tốt hom. Chúng tôi nghiên cứu tình trạng phát triển của các cơ quan thị giác, thính giác và xúc giác của cháu bé. Cháu bé có phản ứng trước ánh sáng, nhưng mói chỉ phân biệt đưực ánh sáng và bóng tối. Dù đã ba tháng tuổi nhưng cháu không nhìn ra được đường nét hoặc chi tiết. Tại sao lại xảy ra điều này? Trong suốt một năm đầu đòi, các bé của bộ lạc không được tiếp xúc vói ánh sáng. Kết quả của phong tục này, các bé không có khả năng thị giác cho đến khi được đưa ra khỏi các ngôi lều. Các bé có phản ứng trước ánh sáng, nhưng vậy có nghĩa đồng tử của các bé cũng biết hạn chế ánh sáng xâm nhập giống như đồng tử của các trẻ sơ sinh khác, nhưng khả năng nhìn của các bé bộ lạc chỉ dừng lại ở đó. Do đó, đứa trẻ Xingu ba tháng tuổi của chúng ta lớn nhất nếu xét theo tuổi tác nhưng nếu xét về sự phát triển thị giác thì bé chẳng khác nào tình trạng của một trẻ vừa chào đòi. Đứa trẻ sinh thiếu tháng yếu thế có đến hai tháng để tập nhìn trước ngày dự sinh của cháu. Nếu xét theo độ tuổi tính từ ngày thụ thai, cháu bé hơn nhưng cháu được tiếp xúc vói môi trường SÓTO hơn đứa trẻ sinh đủ tháng đủ ngày tận hai tháng tròn, về khả năng thị giác, cháu vượt đứa trẻ Xingu đến năm tháng. Cháu có khả năng thị giác của trẻ hai tháng tuổi. Có điều này bởi trên thực tế không hề có chiếc đồng hồ báo thức ấn định sẵn. Bộ não lớn lên nhờ hoạt động, không phải nhờ một thòi gian biểu định sẵn. Chúng ta hãy xét ba gia đình sống cạnh nhau ở vùng ngoại ô: Có gia đình Xanh, cạnh đó là gia đình Nâu và cuối cùng là gia đình Trắng.
  33. Vào cùng một ngày, các bà mẹ của ba gia đình cùng sinh con. Bộ não lửn lên nhờ hoạt động, không phải nhờ một Năm tuần sau, khi ông Xanh về thòi gian biểu định sẵn. nhà thì được nghe bà Xanh khoe: “Anh đoán đưực không? Sáng nay ánh mắt của con đã di chuyển theo hướng của em đấy. Con đang nằm sấp trên giường, khi em đi lại ở khoảng giữa con và cửa sổ, em thấy rõ con nhìn theo em cho dù em đi giật lùi khỏi phòng.” Và ông Xanh nói: “Có vậy thôi sao?” Bà Xanh trả lòi, “Từ từ hẵng nào. Con chúng mình mói năm tuần, bác sĩ của con nói bọn trẻ sẽ không nhìn đưực gì nhiều cho đến khi được mười tuần tuổi. Con chúng mình thật đặc biệt biết bao.” Mưòi tuần sau khi bé chào đòi, ông Nâu về nhà và nghe bà Nâu kể: “Anh biết sao không? Hôm nay con đã biết nhìn theo em đấy.” Ông Nâu nói, “Có vậy thôi sao?” Bà Nâu liền đáp, “Hôm nay con mình tròn mười tuần tuổi, đây là thòi điểm một đứa trẻ bắt đầu biết nhìn các sự vật. Như thế con của chúng mình hoàn toàn khỏe mạnh.” Mưòi lăm tuần sau khi các bé ra đòi, ông Trắng về nhà và nghe bà Trắng rủ rỉ: “Anh yêu, tối nay chúng mình phải nói chuyện nghiêm túc thôi.” Nghe giọng vự mình hết sức nghiêm trọng, ông Trắng liền hỏi, “Là chuyện tiền nong hả, vậy thì chúng ta nói bây giờ luôn cũng đưực.” Nhưng bà Trắng đáp, “Không, không phải chuyện tiền nong; chuyện này còn quan trọng hon nhiều. Là chuyện về con chúng mình. Anh biết hôm nay con chúng mình tròn mười lăm tuần tuổi, vậy mà mắt con vẫn chưa biết nhìn.” Ông Trắng hỏi, “Chỉ có vậy thôi sao?” Bà Trắng kêu lên, “Đáng lẽ con phải biết nhìn từ năm tuần trước. Chắc chắn con chúng mình bị bệnh gì đó rồi.” Cả ba bà mẹ nói trên đều tự rút ra những kết luận cho riêng mình. Bà Xanh cho rằng con mình cực kỳ đặc biệt. Bà Nâu nghĩ mình có một đứa trẻ khỏe mạnh bình thường. Còn bà Trắng nhận định con mình có vấn đề. Và cả ba ngưòi bọn họ đều đúng cả. Nhưng để rồi cuối cùng họ rút ra những kết luận nào?
  34. Bà Xanh tự nhủ, “Mình thông minh, chồng mình cũng vậy, thế nên con chúng mình cũng rất thông minh.” Bà Nâu nói vói chính mình, “Mình là ngưòi bình thường, chồng mình cũng là người bình thường, bọn mình xuất thân từ những gia đình bình thường, bởi vậy con chúng mình cũng phát triển bình thường.” Còn bà Trắng không ngừng tự vấn, “Mình hoàn toàn bình thường, cả chồng mình cũng vậy, nhưng mình không chắc về gia đình nhà chồng. Bà dì Mabel của chồng mình bị ” về cơ bản, cả ba bà mẹ đều cho rằng tình trạng con cái họ đều được gen quy định sẵn. Nhưng ba đứa con của ba gia đình hoàn toàn không phải là sản phẩm của sự khác biệt về gen. Chúng là sản phẩm của môi trường sống. Đứa bé nhà Xanh là sản phẩm của một môi trường hoàn hảo (cho dù nhà Xanh không chủ tâm tạo ra môi trường này). Đứa bé nhà Nâu là sản phẩm của môi trường phát triển thị giác bình thường, đây cũng hoàn toàn là trường họp ngẫu nhiên. Đứa bé nhà Trắng là sản phẩm của một môi trường thiếu đi các kích thích dành cho thị giác. Thật không may, đây cũng lại là trường họp ngẫu nhiên. Thật đáng buồn khi chúng ta Thật đáng buồn khi chúng ta nuôi dưỡng con cái nhờ vào những nuôi dưỡng con cái nhờ vào yếu tố ngẫu nhiên. những yếu tố ngẫu nhiên. Chúng ta cho con ăn những thực phẩm tốt nhất mà chúng ta mua được. Vậy mà chúng ta nuôi dưỡng bộ não của trẻ một cách ngẫu nhiên. Hơn hết cả, chúng ta nên mang đến cho con mình quyền lợi quan trọng nhất, quyền được phát triển tối đa năng lực bản thân. Rốt cuộc, đây cũng
  35. chính là lý do khiến bạn đọc cuốn sách này. Cuốn sách này sẽ chỉ cho bạn cách nuôi dưỡng bộ não quý báu của con bạn hon là chỉ ngồi chờ chiếc đồng hồ báo thức vô nghĩa đổ chuông. Hãy nhó* rằng: Bộ não l&n lên nhừ hoạt động. Vói trường họp các gia đình Xanh, Nâu và Trắng, sự khác biệt nằm ở các yếu tố kích thích vùng thị giác trên não bộ, chúng sẽ kết họp vói các yếu tố khác làm nên bộ não hoàn chỉnh. Mỗi đứa trẻ là sản phẩm của số lần các ông bố bà mẹ bật và tắt đèn. Mặt tròi lặn và mặt tròi mọc. Đó cũng là hai tác nhân kích thích đối vói trẻ. Ngoài ra, yếu tố quan trọng hon là có bao nhiều lần ánh sáng gây phản ứng ở mắt trẻ. Việc chúng ta bật đèn trong căn phòng tối sẽ gây ra phản ứng vói ánh sáng. Đồng tử trẻ sẽ tự động co lại trước ánh sáng và giãn nở ra trong bóng tối. Ớ nhiều gia đình, mỗi ngày hoạt động này diễn ra ngẫu nhiên vài ba lần. Từ trước đến nay, làm gì có ông bố nào về nhà và hỏi vự mình, “Hôm nay em đã bật và tắt đèn cho con đưực bao lần rồi?” Nhưng vói các gia đình đến Viện Nghiên cứu Tiềm năng Con ngưòi của chúng tôi, đây chính xác là việc diễn ra hàng ngày. Các ông bố, bà mẹ của những trẻ bị tổn thưong vùng não thị giác biến vài lần ngẫu nhiên thành hàng trăm lần bật tắt đèn mỗi ngày để con họ có thể phát triển, hoàn thiện và củng cố các phản ứng vói ánh sáng, đây là một trong những bước quan trọng hàng đầu giúp trẻ nhìn đưực. Các bậc phụ huynh của những trẻ sơ sinh khỏe mạnh biến vài lần ngẫu nhiên thành hàng chục lần bật tắt đèn mỗi ngày để bé có thể củng cố và hoàn thiện phản ứng trước ánh sáng, nhờ đó nhanh chóng sử dụng đưực năng lực thị giác. Việc bé sơ sinh khỏe mạnh sớm đạt được năng lực thị giác không đơn giản chỉ để cha mẹ chúng ta khoe rằng, “Thật tuyệt biết bao. Con tôi phát triển nhanh hơn các bé đồng trang lứa.” Như thế thì đâu có lọi gì cho bé? Lợi ích của việc bé sớm đạt được năng lực thị giác lớn lao hơn thế
  36. nhiều. Một bé bình thường bị giam hãm trong căn phòng thiếu các yếu tố kích thích thị giác thì dù não bộ của bé có đang phát triển vói nhịp độ nhanh nhất, bé có thể thâu nhận đưực rất nhiều thông tin nhưng sự hạn chế về thị giác ngăn cản khả năng này của bé. Vói trẻ sơ sinh được nhận nhiều kích thích hơn, nhờ đó bé sẽ đạt được năng lực thị giác sớm hơn hàng tuần, thậm chí hàng tháng, có cơ hội tuyệt vòi khi được nhìn ngắm vạn vật xung quanh trong suốt thòi kỳ não bộ của bé phát triển vói nhịp độ nhanh chóng. Năng lực thị giác góp phần hoàn Các năng lực của trẻ là sản thiện các chức năng khác của hệ phẩm của sự kích thích và các thần kinh. Một khi đã nhìn được, bé cơ hội trẻ có được, không sẽ sớm hiểu được những gì chúng phải do tiếng chuông đồng hồ ta nói vói bé. Một khi bé đã nhìn báo thức định sẵn hay biểu đồ được, nhu cầu vận động của bé sẽ gen có trước. tăng lên đáng kể. Kết quả là bé sẽ gắng sức cử động nhiều hơn. Những cử động này vừa kích thích cơ quan xúc giác của bé, vừa giúp bé phát triển khả năng nhìn. Những cử động ngày càng tăng của bé giúp lồng ngực bé nở to ra, do đó hệ hô hấp của bé cũng được cải thiện. Việc thở tốt hơn cho phép bé dễ dàng phát ra âm thanh và truyền đạt các ý muốn của mình dễ hơn. Như vậy đã bắt đầu một chu trình những sự kiện tốt đẹp, mỗi sự kiện thúc đẩy sự kiện khác, mỗi sự kiện khơi mở đường đi cho một khả năng mói của bé. Bộ não càng được hoạt động nhiều thì nó sẽ càng nhanh lớn, và bé sẽ có được nhiều khả năng hơn. Đây chính là cách tối ưu để tận dụng hoạt động của não bộ. Các kích thích cần được tạo ra một cách có mục đích chứ không phải nhờ yếu tố ngẫu nhiên. Những kích thích ngẫu nhiên sẽ chẳng bao giờ đủ vói các bé bị tổn thương não bộ, thực tế này cũng đúng vói các trẻ sơ sinh bình thường. Các năng lực của trẻ là sản phẩm của sự kích thích và các cơ hội trẻ có được, không phải do tiếng chuông đồng hồ báo thức định sẵn hay biểu đồ
  37. gen có trước. Thực tế cách thức bộnão phát triển có ý nghĩa honnhiều so vói ý nghĩ về sự lớn lên của bộ não. Những cái có thực luôn luôn tốt hon những chiếc “bánh vẽ”. Ớ trên, chúng ta đã biết được cách vùng não thị giác phát triển nhờ đưực hoạt động. Bộ não đưực cấu thành từ sáu vùng não, tất cả các vùng não này đều lớn lên nhờ đưực hoạt động. Đã đến lúc xem xét sáu vùng não này.
  38. Bản Mô tả Quá trình Phát triển ản Mô tả Quá trình Phát triển là mô hình các giai đoạn phát triển mà một trẻ bình thường sẽ trải qua kể từ khi chào đòi đến lúc sáu tuổi. BNó phản ánh tiến trình phát triển của bộ não. Bản mô tả đưực phát triển sau nhiều năm tìm hiểu và nghiên cứu sự phát triển của trẻ. Chúng tôi nhận thấy có sáu năng lực tiêu biểu của con ngưòi, làm cho con người khác biệt vói các sinh vật khác. Sáu năng lực này chỉ riêng con người mói có, tất cả đều đưực điều khiển bởi vỏ não trước. Ba năng lực trong số này về bản chất đều là các dạng vận động, phụ thuộc hoàn toàn vào ba năng lực còn lại, vốn hình thành bẩm sinh. Ba năng lực vận động của riêng con người bao gồm: 1. Đi, chạy vói tư thế đứng thẳng và bước di chuyển chéo. 2. Nói các dạng ngôn ngữ ký hiệu phức tạp, tuân theo các quy tắc thống nhất, chẳng hạn như tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nhật, tiếng Ý, 3. Viết đưực các ký hiệu ngôn ngữ nhờ sự phối họp ngón cái và ngón trỏ. Ba năng lực hoạt động này là tài sản duy nhất chỉ có ở loài người, mỗi năng lực chịu sự điều khiển của một vùng vỏ não trước. Những năng lực hoạt động này dựa trên ba năng lực giác quan độc đáo: 1. Nhìn theo cách thức riêng để đọc đưực ký hiệu ngôn ngữ. 2. Nghe theo cách thức riêng để hiểu đưực ký hiệu ngôn ngữ đó.
  39. 3. Cảm nhận theo cách riêng để nhận diện một vật thể nhờ chạm vào nó hoặc không, xác nhận bằng cách nhìn, nghe, ngửi hoặc nếm. Các kỹ năng này cũng hoàn toàn chỉ có riêng ở con người, mỗi kỹ năng do một vùng vỏ não chỉ đạo. Sau khi nghiên cứu quá trình phát triển của cả các trẻ bị tổn thưong não bộ lẫn các trẻ bình thường, chúng tôi nhận thấy sáu năng lực này phát triển qua bảy giai đoạn, bắt đầu từ khi trẻ chào đòi và kết thúc khi trẻ được sáu tuổi. Bảy giai đoạn năng lực tưong ứng vói bảy thòi kỳ phát triển của bộ não. Chúng diễn ra ở các phần não khác nhau, tất cả đều đã xuất hiện ngay từ khi trẻ chào đòi, chúng dần phát triển và hoàn thiện theo thòi gian. • Giai đoạn I: Trước cuống não và tủy sống • Giai đoạn I I : Cuống não và phần dưới não trước • Giai đoạn III: Não giữa và phần dưói vỏ não • Giai đoạn IV: Vỏ não ban đầu • Giai đoạn V: vỏ não mói • Giai đoạn VI: vỏ não nguyên thủy • Giai đoạn VII: vỏ não phức tạp Chúng tôi nhận thấy & trẻ bình thường, các giai đoạn này diễn ra khá đồng nhất về mặt thòi gian để thúc đẩy các chức năng. Bảy giai đoạn chính yếu diễn ra những biến đổi lớn lao bao gồm: • Lúc mói sinh • 2,5 tháng • 7 tháng • 12 tháng • 18 tháng
  40. • 36 tháng • 72 tháng Nếu sắp xếp các yếu tố này lại, chúng ta có thể tạo ra một biểu đồ chỉ rõ sáu năng lực trọng yếu và độc tôn của con người cùng bảy giai đoạn phát triển của chúng ở các trẻ bình thường (xem Hình 7.1). Sau khi đã xác định các giai đoạn quan trọng mà một bé sơ sinh phải trải qua để hoàn thiện quá trình phát triển, chúng ta cần chỉ ra được năng lực nào giữ vai trò quyết định đối vói sự phát triển của loài người. Việc này đòi hỏi sự quan sát kỹ lưỡng hàng trăm đứa trẻ khỏe mạnh trong tất cả các giai đoạn phát triển. Cuộc nghiên cứu này đã kéo dài đến năm mươi năm và cho đến nay vẫn đang tiếp tục. Bản Mô tả này tóm lược quá trình phát triển của bộ não từ lúc đứa trẻ ra đòi cho đến khi não hoàn thiện vào năm trẻ sáu tuổi. Đây là tài liệu mạch lạc diễn tả rõ ràng và khúc chiết để bất cứ ông bố bà mẹ nào cũng có thể hiểu được nội dung, những phần nào quan trọng và dễ dàng áp dụng. Thử thách đặt ra cho chúng tôi khi tạo ra Bản Mô tả Quá trình Phát triển chính là việc quyết định nên loại bỏ những yếu tố nào chứ không phải gộp thêm yếu tố nào vào đây. Có hàng ngàn sự kiện theo đúng nghĩa đen diễn ra trong quá trình phát triển của trẻ trong sáu năm đầu đòi. Gesell và các cộng sự của ông đã mất hàng năm tròi tập họp và phân loại các sự kiện đó. Đây là một công việc đáng được ghi nhận. về cơ bản, họ đã ghi chép lại mọi hoạt động mà đứa trẻ thực hiện trong những năm tháng quan trọng từ lúc mói chào đòi đến năm bé được năm tuổi. Nhưng chúng tôi muốn biết một điều mang ý nghĩa quan trọng hom: Trong số hàng ngàn sự kiện mà một đứa trẻ trải qua trong suốt quá trình lỏm lên từ khi mói chào đài đến năm lên sáu, những sự kiện nào đóng vai trò chủ chốt? Nói ngắn gọn hom, trong vô số hoạt động của đứa trẻ, những hoạt động nào là nguyên nhân và những hoạt động nào là kết quả?
  41. Những hoạt động nào sẽ ngăn cản đứa trẻ phát triển bình thường nếu chúng bị loại khỏi cuộc sống của trẻ? Mỗi giai đoạn trong số bảy giai đoạn phát triển này giữ vai trò chính yếu đối vói các phần khác nhau của bộ não. Mặc dù tất cả các phần của bộ não hiện diện ngay khi trẻ chào đòi, chúng lần lưựt thực hiện các chức năng của mình, từ giai đoạn phát triển thấp nhất lúc mói ra đòi đến giai đoạn phát triển cao nhất khi lên sáu tuổi ở những trẻ phát triển bình thường. BẢN MÔ TẢ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN ọc Đ Viết cảm giác cảm Hiểu ngôn ngữ ngôn Hiểu nhờ diện Nhận z © o* v ỏ NÂO 72 tháng VII PHỨCTẠP i l i i i { i [ i [ i i VI v ỏ n Ao 36 tháng NGUYÊNTHỦY V VỎ NÃO MỚI 18 tháng 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 ___ ___ ___ ___ ___ ___ ___ Năng Nâng lưc thính giác lưcNâng thính Năng lực ngôn ngú lực ngôn Năng Nảng lực vận động lựcNảng vận Hiểu ngôn ngử ngôn Hiểu Nảng lực xúc lựcgiác Nảng xúc lưc lưc __ ___ ___ ___ __ VỎNẢO ___ ___ điều khiển 1 khiển điều 12 tháng ___ IV b a n đ Au ___ ___ ___ 1 1 1 1 1 1 *<oi n Ao g iữ a v à PHÁN DƯỚI 7 tháng III v ỏ n Ao
  42. CUỐNGNÂO VÀ PHÁN DƯỚI 2,5 tháng II NÂOTRƯỚC V u u u V ì r in ộgmạnh m động tiếng đầu đời đầu Phản ứng Phản Babinski Phàn ứng đối với đối ứng Phàn ứng Phàn với ánh sáng ánh với Phản ứng Phản ứng Phản cẩm nắm cẩm tiếng khóc tiếng ứng Phản cử động cử TRƯỚC Lúc CUỐNGNẢO 1 mới sinh VÀTỦY SÓNG Hình 7-1: Dạng Sơ giản của Bản Mô tả Quá trình Phát triển Sau đó chúng ta cần bổ sung: 1. Một biểu đồ biểu thị bộ não của con ngưòi vói các giai đoạn phát triển tuần tự. 2. Chức năng riêng của mỗi phần trong 42 ô. 3. Đánh dấu màu sắc khác nhau cho mỗi thòi kỳ phát triển của bộ não. Như vậy quá trình phát triển của trẻ có thể đưực theo sát qua các giai đoạn và các cột trên bản Mô tả. Nhờ đó, các bậc cha mẹ có thể biết chắc chắn độ tuổi chính xác của bộ não con mình và xử lý vấn đề nào bất thường. Trên thực tế, Bản Mô tả cho chúng ta biết sáu giai đoạn tuổi của bộ não: tuổi thị giác, tuổi thính giác, tuổi xúc giác, tuổi vận động, tuổi ngôn ngữ và tuổi điều khiển tay. Ngưòi mẹ sẽ xác định xem con mình đang ở thòi kỳ tưong ứng cột nào để tìm ra đưực năng lực tưong ứng của con mình và biết được năng lực nào ở độ tuổi của bé chưa đạt đến. Sau đó, hãy kẻ một đường thẳng ngay trên giai đoạn cao nhất mà trẻ đã đạt đến ỏ* mỗi cột. Các bậc cha mẹ thường mong muốn những giai đoạn phát triển cao nhất sẽ ngang bằng ở tất cả các cột, nhưng đây là trường họp rất hiếm gặp. Phần năng lực giác quan trong bản Mô tả, theo đúng yêu cầu, đưực đặt & vị trí đứng trước các năng lực hoạt động. Đứa trẻ phải đạt đưực năng lực
  43. giác quan trước, sau đó các năng lực giác quan sẽ làm nảy sinh năng lực hoạt động. Nói ngắn gọn, các thông tin phải đưực truyền đến bộ não trước khi chúng ta muốn chúng đưực phản hồi. Vì lý do này mà các năng lực hoạt động trong Bản Mô tả thường xuất hiện sau các năng lực giác quan. Có thể một ô thấp hon trong cột nào đó không thực sự hoàn hảo. Não bộ vẫn có thể đạt đến giai đoạn cao hon cho dù tất cả các giai đoạn thấp hon chưa hoàn thiện hết. Tuy nhiên, trẻ sẽ không đạt đến mức hoàn hảo ở đỉnh của Bản Mô tả (Giai đoạn VII) nếu chưa hoàn thiện tất cả các giai đoạn thấp hon. Cuối cùng, chúng ta có đưực bản phác thảo vốn đưực coi là Bản Mô tả Quá trình Phát triển của Viện (xem Hình 7.2). Như chúng tôi đã đề cập, trong quá khứ có thuyết cho rằng quá trình phát triển của não đã đưực định trước và không thể thay đổi do bộ gen quy định dựa trên lịch trình thòi gian tuyến tính cứng nhắc. Chúng tôi đã chứng minh đưực điều này không hề đúng. Trật tự phát triển của các thòi kỳ (thị giác, thính giác, xúc giác thuộc các năng lực giác quan trên Bản Mô tả và vận động, ngôn ngữ, khả năng điều khiển tay thuộc các năng lực hoạt động) thể hiện chức năng của bộ não khi thực thi tuần tự các giai đoạn phát triển. Trật tự thời gian có khả năng biển đổi linh động dựa trên hai nhân tố: 1. Nhịp độ, cường độ và trường độ của các kích thích đến não do môi trường sống của trẻ gây ra. 2. Tình trạng bộ não của trẻ. Bản Mô tả Quá trình Phát triển chỉ ra chi tiết những giai đoạn phát triển của trẻ từ lúc chào đòi đến năm sáu tuổi, khi sự phát triển của bộ não đã đạt đến mức hoàn thiện. Khi tạo ra Bản Mô tả này, chúng tôi không sử dụng các thuật ngữ tâm lý học, thuật ngữ xã hội phát triển hay thuật ngữ y khoa. Những thuật ngữ liên quan đến mặt thòi gian đưực dùng ở đây gắn bó vói sự phát triển của trẻ, các sự kiện có thể diễn ra, tuy nhiên chúng không ảnh hưởng nhiều đến quá trình phát triển của trẻ.
  44. Hình 7.2: Bản Mô tả Quá trình Phát triến của Viện Phấn não Khung thời gian Năng lực thị giác Năng lực thính giác Năng lực cảm xúc chiếm ưu thẻ' VII Vỏ não Nhanh 36 tháng Đọc và hiểu toàn bộ Hiểu được các từ và câu Nhận diện vật thế bằng xúc giác phức tạp đúng cấu trúc Trung binh 72 tháng Khả nâng hiểu sâu sác Khá năng hiểu sâu sác Khả năng hiếu sâu sâc của con người của con người của con người Tháp 144 tháng VI Vỏ não Nhanh 18 tháng Nhận diện được các Hiểu được 2000 từ và Khả năng nhận diện các đặc điếm nguyên thủy kỷ hiệu và kỷ tự đã các cảu đơn giản của vật thể nhờ xúc giác Trung binh 36 tháng từng được xem qua Khá năng hiều nhờ vỏ Khá nàng hiểu nhờ vỏ Khả nàng hiểu nhờ vỏ não Chậm 72 tháng não nguyên thủy não nguyên thủy nguyên thùy V Vỏ não mới Nhanh 9 tháng Phân biệt các biểu tượng Hiểu được 10 đến 25 từ Nhờ xúc giác phản biệt được các thị giác đom giàn trông và cặp câu vật thề có vẻ giống nhau nhưng Trung bình 18 tháng có vẻ giống nhau nhưng thực chất lại khác biệt thực chất lại khác biệt Chậm 36 tháng Khá nâng hiều nhờ vỏ Khá nàng hiểu nhờ vỏ não sớm nào sớm Khá nâng hiểu nhờ vỏ nào sớm IV Vỏ nâo Nhanh 6 tháng Kết hợp một cách giản Hiểu được hai từ Tiếp xúc và nhận biết được ban đáu đơn được những vật trong câu ba chiếu cùa vật thể đơn giản Trung bình 12 tháng nhìn được Khả năng hiểu nhờ vỏ Khá năng hiều nhờ vỏ Khả năng hiểu nhờ vỏ não ban đâu Chậm 24 tháng não ban đáu não ban đâu IIV Năo giữa Nhanh 3,5 tháng Nhận biết được chi tiết Nhận biết được ỷ nghĩa Nhận biết được sự khác biệt và phán dưới từ hình thề các âm thanh vể cảm giác vỏ não Trung binh 7 tháng Nhận biết nghĩa Nhận biết nghĩa Nhận biết nghĩa Chậm 14 tháng llll Cuống nâo Nhanh 1 tháng Nhận biết tồng thể Phản ứng trước những Nhận biết những tiếp xúc ban đấu và phán dưới tiếng động to não trưỏc Trung binh 2,5 tháng Khái niệm ban đáu Khái niệm ban đáu Khái niệm ban đáu Chậm 5 tháng 1 Trước cuống Nhanh Từ lúc ra đời Phản ứng với ánh sáng Phản ứng với Phản ứng co chân tay não và tủy tiếng động mạnh sóng đến 0,5 tháng tuổi Trung bình Từ lúc ra đời đén 1 tháng tuổi Chậm Từ lúc ra dời đến 2 tháng tuổi Phàn ứng ban đáu Phàn ứng ban đáu Phàn ứng ban đáu Không đưực sao chép Bản Mô tả Quá trình Phát triển khi chưa nhận được sự cho phép của Glenn J. Doman ® , 8801 Stenton Ave, Wyndmoor, PA 19038 Hoa Kỳ © Chỉnh sửa qua các năm 1964, 1971,1977,1980, 2003. Thêm vào đó, các thuật ngữ này có ý nghĩa khác nhau đối vói các đối tưựng khác nhau. Vì thế, nó làm giảm tính hữu dụng của công cụ đáng tin cậy này, có thể giải thích do sự khác biệt trong Bản Mô tả của các chủ thể quan sát khác nhau ghi lại những khả năng riêng biệt của những đứa trẻ bình thường.
  45. Năng lực vận động Năng lực ngôn ngữ Năng lực điếu khiển tay BẢN MÔ TẢ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN Sử dụng chân thuấn thục nhờ Hoàn thiện các từ và các câu Sử dụng tay viết nhờ bán cáu bán cấu não vượt trội đúng cấu trúc não vượt trội TAC GIẢ: GLENN J. DOMAN Biểu hiện sâu sác Biếu hiện sâu sác Biểu hiện sâu sác Đi và chạy vóri các bước đan xen 2000 từ và các câu ngắn Thực hiện chức năng bằng hai tay với kỹ năng đặc biệt Biểu hiện ban đáu Biểu hiện ban đáu Biểu hiện ban đáu Bước đi, tay được tự do với khả 10 đến 25 từ và cặp câu Các hoạt động song song năng cản bằng vừa học được kích thích vồ não Biểu hiện sớm Biểu hiện sớm Biếu hiện sớm Điéu khiển tay nhờ vò não Bước đi, phẩn lớn thời gian tay Hai từ phát âm tự nhiên, trái ngược dang ngang giữthăng bằng có nghĩa Biểu hiện đâu tiên Biểu hiện đâu tiên Biểu hiện đáu tiên Bò nhờ chống tay và đáu Tạo ra những tiếng động Động tác cấm nắm gối, di chuyển bằng cách cử có nghĩa động chéo Phản ứng có ý nghĩa Phàn ứng có ý nghĩa Phàn ứng có ý nghía Trườn sấp, tư thế đẩy vé phía Khóc khi cảm nhặn mối đe Biết cách thả tay trước nhờ chéo chi dọa từcuộc sống Phản ứng quan trọng Phàn ứng quan trọng Phàn ứng quan trọng VIỆN NGHIÊN Cử động chân tay nhưng Cắm nắm ngẫu nhiên cứu Khóc khi chào đời không làm cơ thể di chuyển CACTIẾM n â n g c o n n g ư ờ i ' 8801 STENSON AVENUE, VVYNDMOOR, Phán ứng ngãu nhiên PENSYLVANIA 19038 Phản ứng ngâu nhiên Phàn ứng ngàu nhiên Chúng tôi sáng tạo ra Bản Mô tả này xuất phát từ nhu cầu có đưực sự so sánh chính xác khi nghiên cứu từ các trẻ tổn thương não bộ cho đến các trẻ đặc biệt thông minh. Các trẻ vốn rất khác so vói các tiêu chuẩn phát triển, vậy nên cần có thang đo chống lại các tiêu chuẩn hay mức độ trung bình. Mục tiêu chúng tôi đặt ra cho từng cháu là giúp trẻ trải qua các giai đoạn phát triển này theo đúng tuần tự và thực hiện nhanh nhất có thể trong khi tận dụng tối đa chức năng của từng cơ quan của cơ thể. Chúng tôi sử dụng Bản Mô tả Quá trình Phát triển như một thang đo tiêu chuẩn đối vói sự phát triển thông thường. Dựa vào đó, chúng tôi đo
  46. mức độ tiến bộ của các trẻ, sau đó chúng tôi thiết kế chương trình tập luyện tại gia để đẩy nhanh quá trình phát triển. Bốn mươi hai mục trong Bản Mô tả chính là các yếu tố chủ chốt trong đòi trẻ từ khi sinh ra đến năm lên sáu tuổi. Tốc độ và chất lượng có được sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến trí tuệ, thê chất và các mối quan hệ xã hội của trẻ trong suốt cuộc đòi. Việc hoàn thiện hết thảy bốn mươi hai chức năng quan trọng bên trên là sản phẩm thuần khiết từ những lần trẻ có cơ hội thực hiện từng chức năng riêng biệt.
  47. Đánh giá trẻ khi vừa chào đời iệc đánh giá các chức năng cơ bản của trẻ sơ sinh có ý nghĩa vô cùng V quan trọng, công việc này không hề quá khó khăn. Bước đánh giá đầu tiên cần được thực hiện càng sớm càng tốt sau khi trẻ chào đòi. Lý tưởng hơn cả, thao tác này nên diễn ra trong vòng hai mươi tư giờ sau sinh, nếu không được như thế thì người mẹ cần tiến hành sớm nhất có thể. Nếu bạn nhận thấy các cơ quan chức năng hay phản ứng của bé không tốt thì cũng đừng nên lấy đó làm điều lo sự hay hoảng hồn, căn bản là bạn cần cân nhắc lựa chọn hành động phù họp. Thực ra, toàn bộ mục đích của việc đánh giá là nhằm tạo ra một chương trình kích thích hoạt động hiệu quả cho não của bé, bất chấp mọi kết quả của quá trình đánh giá sơ bộ này. Đối vói một trẻ sơ sinh, các ông bố bà mẹ chỉ cần đánh giá Giai đoạn I của Bản Mô tả Quá trình Phát triển. Tất cả các chức năng đều nằm ở khu vực đáy bản Mô tả. Đây là giai đoạn diễn ra các phản ứng trong quá trình phát triển. Đối vói trẻ khỏe mạnh, tất cả các chức năng của giai đoạn này hiện diện ngay từ khi bé mói chào đòi. Lúc mói sinh, bé đã có các phản ứng đối vói môi trường. Có thể nhận diện và quan sát các phản ứng này ngay sau khi sinh. Bé chào đòi vói não bộ có đầy đủ các phần sẵn sàng hoạt động, nhưng chỉ có tủy sống và khu vực não trước thực thi chức năng của chúng ngay lúc mói sinh. Công cụ cần thiết: NĂNG Lực THỊ GIÁC: GIAI -Đ è n pin ĐOẠN I Phản ứng đối với ánh sáng Ớ giai đoạn này, người mẹ chỉ cần đánh giá khả năng trẻ phản ứng trước ánh sáng. Khả năng phản ứng đối vói ánh sáng chính là phản ứng
  48. của đồng tử trước ánh sáng. Nếu ánh sáng không nhiều, đồng tử giãn nở cho phép nhiều ánh sáng tiến qua. Nếu có nhiều ánh sáng, đồng tử sẽ co lại. Sự co lại của đồng tử được gọi là khả năng phản ứng đối vói ánh sáng. Đây là loại phản ứng vô cùng quan trọng sẽ diễn ra trong suốt cuộc đòi. Tình trạng của phản ứng này mở ra một cánh cửa nhỏ hẹp nhưng cần thiết, qua đó chúng ta có thể nhìn thấy các vật thể, ở một mức độ nào đó, nó cho biết não chúng ta có bình thường hay không. Muốn đánh giá đưực khả năng phản ứng đối vói ánh sáng ở trẻ sơ sinh, điều quan trọng là chúng ta cần biết thế nào là một phản ứng bình thường đê có chuẩn so sánh. Thông thường, việc quan sát phản ứng này ở người lớn dễ dàng hon, các bà mẹ có thể học cách nhận ra các phản ứng này bằng cách quan sát phản ứng đối vói ánh sáng ở chồng mình và ngưực lại các ông bố học hỏi thông qua phản ứng đối vói ánh sáng ở vự mình. Bạn sẽ cần đến một chiếc đèn pin tViAnơ rlnnơ \TCt m A t n tU t A n(T trvi ___ chóng chiếu thẳng vào mắt. Bạn sẽ nhận ra đồng tử lập tức co lại khi ánh sáng lấn át mắt bạn (xem Hình 8.2). Phản ứng co lại diễn ra ngay tức khắc, đồng tử sẽ co lại thành điểm nhỏ. Đây là một phản ứng bình thường. Giờ hãy chờ thêm mười giây. Sau đó nhẹ nhàng che mắt phải rồi lặp lại quy trình như trên vói mắt trái. Bạn cũng sẽ thấy đưực phản ứng tưong tự. Nếu phản ứng của mắt trái kém nhanh nhạy hom phản ứng ở mắt phải, có lẽ nguyên nhân do bạn không Hình 8-2: Đồng tử co lại trước ánh sáng điều chỉnh thòi gian cân bằng giữa
  49. hai đợt kích thích mắt trái và mắt phải. Cho dù bạn đã che mắt trái trong khi chiếu ánh sáng vào mắt phải, con mắt bị che vẫn có phản ứng đồng thòi. Đây chính là lý do bạn cần chờ trước khi thử đợt kích thích mói. Giờ bạn đã tạo ra và quan sát phản ứng bình thường đối vói ánh sáng. Đê chắc chắn mình hiểu hoàn toàn, bạn có thể thử lại vài lần, có thể nhờ thêm những người khác thử để biết chắc bạn đang tìm kiếm điều gì. Nếu công việc này diễn ra nhẹ nhàng, có nghĩa bạn đã đi đúng đường. Việc này thực sự dễ dàng. Lúc này, bạn đã sẵn sàng đánh giá loại phản ứng quan trọng này khi con bạn chào đòi. Có lẽ, bạn sẽ sớm nhận ra việc Phàn ứng đói với ánh sáng đánh giá một trẻ sơ sinh khó khăn nhiều hon khi đánh giá một ngưòi Hoàn hóo lớn. Hãy nhớ rằng, bạn đang tìm Sự thu nhận phàn ứng phản ứng co đồng tử lập tức ở cả hai mắt. Nếu có kết quả, bạn có thể ghi từ Hình 8-3: Phản ứng hoàn hảo đối vói ánh “Hoàn hảo” vào ô phản ứng đối vói sáng. ánh sáng trên Bản Mô tả và vẽ một đường thẳng nằm ngang màu đen trên đỉnh ô này (xem Hình 8.3). Một phản ứng đưực coi là kém hoàn hảo hon khi một hoặc hai mắt Phàn ứng dói với ánh sáng phản ứng chậm hoặc phản ứng không ■HoÀn hóo đầy đủ trước ánh sáng. Phản ứng không đầy đủ trước ánh sáng là phản Sự thu nhận phàn ứng ứng khi đồng tử không co lại tối đa. Hình 8-4. Phản ứng bình thường đối vói ánh Nếu mắt của trẻ chậm hoặc phản ứng sáng không đầy đủ, bạn hãy viết từ “Bình thường” bằng mực đen lên ô phản ứng đối vói ánh sáng trong Bản Mô tả và vẽ đường thẳng nằm ngang màu đen trên đỉnh ô này (xem Hình 8.4). Một đứa trẻ bị mù thường không có chút phản ứng nào trên cả hai mắt. Vói trường họp này, chúng ta vẽ đường màu đen ở đáy ô phản ứng đối vói ánh sáng (xem Hình 8.5).
  50. NĂNG Lực THÍNH GIÁC: Phản ứng đói với ánh sáng GIAI ĐOẠN I Phản ứng đối vó*i tiếng động Sự thu nhận phàn ứng ló*n TVI / .1 V 1 Vv Hình 8-5: Không phản ứng đối vói ánh sáng Phán ứng tiếp theo mà bạn cân đánh giá ở trẻ là phản ứng đối vói tiếng động lớn. Phản ứng đối vói tiếng động lớn xảy ra khi có sự xuất hiện của tiếng động lơn, đột ngột, chói tai. Khi bất thần có những tiếng động dạng này, chúng ta sẽ nhảy dựng lên hoặc giật mình. Tất cả chúng ta đều từng trải qua hành động này. Ở trẻ sơ sinh, phản ứng này xuất hiện do cảm giác sợ hãi, bởi vì cơ thể của trẻ co lại hết sức đột ngột. Tuy nhiên, một phản ứng đích thực đối vói tiếng động lớn không phải là hoạt động có ý thức bởi đúng như tên gọi, đó chỉ là một phản ứng của cơ thể và ở giai đoạn thấp. Phản ứng đối vói tiếng động lớn không chỉ rất bình thường, tdiễn ra ở trẻ sơ sinh và người lớn. Phản ứng đối vói tiếng động xuất hiện khi có tiếng động lớn, Công cụ cần thiết: chói tai. Độ chói của tiếng động có - 2 khối gỗ dày(Kích thước sức ảnh hưởng mạnh hơn độ lớn, 5cmxiocm, dài !5-20cm) cho dù cả hai nhân tố này đều gây ảnh hưởng đến trẻ. Bởi thế, có lẽ chúng ta thường gặp phản ứng đối vói tiếng động lớn khi có tiếng sập cửa, tiếng bát đĩa vỡ hoặc khi có người đột ngột hắng giọng hơn là khi có một âm thanh to dần lên, chẳng hạn như tiếng còi cứu hỏa. Sự xuất hiện của phản ứng đối vói tiếng động lớn nhằm cảnh báo chúng ta về sự xuất hiện của một âm thanh lớn đột ngột tự nhiên gây cảm giác đe dọa chúng ta. Một lần nữa, trước tiên người mẹ sẽ học cách nhận diện loại phản ứng này từ chồng mình. Đơn giản nhất, chúng ta sử dụng hai khối gỗ dày. Chọn hai khúc gỗ kích thước 5 cm X ìocm, dài từ 15 đến 2 0 centimet là họp lý nhất. Gõ hai khúc gỗ vào nhau sẽ tạo ra tiếng động lớn, đủ để gây ra loại
  51. phản ứng đối vói tiếng động ở trẻ sơ sinh. Đê quan sát loại phản ứng này ở người lớn, phải bất ngờ tạo tiếng động mạnh. Hành động này của bạn sẽ không được tán thưởng, nhưng bạn sẽ được chứng kiến đúng thực chất phản ứng đối vói tiếng động mạnh. Người bố cần trải qua khoảnh khắc bất chợt nào đó, còn người mẹ không chỉ có cơ hội đánh giá loại phản ứng này mà còn được trải nghiệm rõ nét. Đến lúc đó, bạn đã thực sự sẵn Phàn ứng với tiéng dộng mạnh sàng đưa ra nhận định về sự phản -Hoàn hảo ứng của trẻ đối vói tiếng động mạnh. Giữ hai khối gỗ, đảm bảo bạn cách Sự thu nhận phàn ứng chỗ trẻ ít nhất là hon nửa mét rồi chập mạnh hai khối gỗ vào nhau. Hình 8-6: Phản ứng hoàn hảo đối vói tiếng động mạnh Thông thường, bạn sẽ thấy trẻ lập tức giật thột, đa phần các trường họp toàn thân trẻ như đờ ra. Nếu bạn quan sát thấy một phản Phản ứng với tiêng dộng mạnh ứng tức thòi và toàn vẹn, hãy viết từ Bình thường “Hoàn hảo” vào ô dành cho phản ứng đối vói tiếng động mạnh trên Bản Mô Sự thu nhận phàn ứng tả và kẻ một đường màu đen thuộc Hình 8-7: Phản ứng bình thường vói tiếng cạnh trên của ô này (xem Hình 8.6). động mạnh Nếu trẻ phản ứng có phần chậm chạp, hãy viết “Bình thường” vào ô dành cho phản ứng đối vói tiếng động mạnh trên Bản Mô tả và kẻ một đường màu đen lên mép trên của ô này (xem Hình 8.7). Một trẻ gặp vấn đề về thính giác Phả ứng dói với tiêng dộng mạnh sẽ bộc lộ vài dấu hiệu cho thấy trẻ nghe được âm thanh nhưng không có phản ứng giật mình. Một trẻ bị điếc sẽ Sự thu nhận phàn ứng không nghe được chút gì cả và không Hình 8-8: Không phản ứng vói tiếng động đáp lại. Đoi VƠI tat ca cac tre này, mạnh chúng ta sẽ vẽ một đường thẳng màu đen ở đáy ô phản ứng đối vói tiếng động mạnh (xem Hình 8.8).
  52. NĂNG Lực XÚC GIÁC: GIAI ĐOẠN I Phản ứng Babinski^1) Bây giờ, chúng ta cần đánh giá phản úng Babinski bằng cách quan sát đôi chân bé. Phản ứng này xuất hiện ở các trẻ bình thường ngay từ lúc mói sinh cho đến khoảng chừng mười hai tháng tuổi. Đến lúc đó, phản ứng này sẽ đưực thay thế bằng phản ứng cả bàn chân, loại phản ứng sẽ theo chúng ta suốt phần đòi còn lại. Có thể tạo ra phản ứng Babinski bằng cách vuốt nhẹ phần mặt móng tay cái dọc rìa ngoài lòng bàn chân trẻ, từ gót cho đến phần ngón chân. Khi ta thực hiện xong động tác này, ngón chân cái của bé sẽ nhỏng lên, các ngón chân còn lại xòe thành hình quạt hướng ra ngoài (xem Hình 8.9). Có thể quan sát phản ứng của chân ở người lớn. Nếu người mẹ gãi nhẹ lòng bàn chân người bố từ gót đến ngón chân, các ngón chân của bố sẽ cụp lại thay vì mở rộng ra và hướng lên trên. Tất yếu bố sẽ rút lòng bàn chân khỏi nguồn kích thích (xem Hình 8.10). Tuy nhiên trong trường họp này, bố mẹ sẽ không thể tự thử phản ứng Babinski. Thay vào đó, người mẹ nên đánh giá phản ứng này bằng cách thử vói nhiều trẻ trong độ tuổi sơ sinh đến mười hai tháng tuổi. Mục đích thử phản ứng Babinski là nhằm giúp bé sơ sinh gom lực bàn chân để có thể trườn. Khi ngón chân cái nhỏng lên và các ngón còn lại xòe ra ngoài, động tác này giúp bé bám chặt hơn, dễ dàng di chuyển lên phía trước hơn. Khi đã có thể trườn và bò, bé không còn cần đến loại phản ứng
  53. này nữa. Trên thực tế, phản ứng này Phản ứrụ không có tác dụng gì đối vói quá trình tập đi. Khi bắt đầu đi đưực, bé sẽ mất phản ứng này và cần đến phản ứng của Sự th u n h bàn chân. Hình 8-11: Phản ứng Babinski hoàn hảo Hình 8-12: Phản ứng Babinski bình thường Nếu bạn quan sát thấy các biểu hiện của phản ứng Babinski ở cả hai chân bé khi kiểm tra, hãy viết từ “Hoàn hảo” vào ô dành cho phản ứng Babinski trên Bản Mô tả và kẻ một đường màu đen lên mép trên của ô này (xem Hình 8.11). Nếu một chân có phản ứng bình thường còn chân kia không thì hãy viết từ “Bình thường” vào ô dành cho phản ứng Babinski trên Bản Mô tả và kẻ một đường thẳng màu đen lên mép trên của ô này (xem Hình 8.12). Thường thì ở các trẻ vô tri vô giác sẽ Phàn ứng Babinski không có phản ứng Babinski. Khi chúng ta phát hiện trẻ thuộc dạng này, chúng ta sẽ kẻ một đường màu đen lên cạnh Sự thu nhận phàn ứng đáy của ô này (xem Hình 8.13). Hình 8-13: Không có phản ứng Babinski NĂNG Lực VẬN ĐỘNG: GIAI ĐOẠN I Tự do di chuyển Lúc mói sinh, bé có thể tự do cựa quậy cả bốn chi. Bạn dễ dàng quan sát đưực hiện tưựng này. Sẽ rất có ích nếu ngưòi mẹ quan sát các trẻ đưực vài ngày hoặc vài tuần tuổi trước khi sinh bé. Bạn cũng quan sát đưực những cử động tự do của cả bốn chi khi bé đưực đặt nằm ngửa. Đây chính là tư thế giúp bạn đánh giá đưực khả năng
  54. hoạt động và chức năng các cơ quan của Cử dộng tay chân mà không làm trẻ ở giai đoạn I. di chuyến cơ thể Nếu bé có thể thoải mái cử động bốn chi, bạn hãy viết từ “Hoàn hảo” vào ô chỉ S ự thu nhận phàn ứng cử động của tay và chân trong Bản Mô tả Hình 8-14: Cử động hoàn hảo Quá trình Phát triển và kẻ một đường thẳng màu đen lên mép trên của ô này (xem Hình 8.14). Nếu bé không thể cử động từ một chi trở lên, hoặc cử động của một chi có Cử dộng tay chân mà không làm di chuyển cơ thể phần kém cỏi hơn các chi còn lại, hãy viết “Bình thường” vào ô chỉ cử động ___ M ì của tay và chân trong Bản Mô tả (xem Sự thu nhận phàn ứng Hình 8.15). Hình 8-15: Cử động bình thường Ớ trẻ bị liệt, một hay nhiều hơn một chi của bé không thể cử động. Trong trường họp này, chúng ta sẽ kẻ đường thẳng màu đen lên cạnh đáy của ô trên Bản Mô tả (xem Hình 8.16). Ngoài ra, ngay từ lúc trẻ ra đòi (càng Cử dộng tay chân mà không làm sớm càng tốt), bạn nên thử đặt trẻ ở di chuyển cơ thể trần, nằm sấp và quan sát các cử động của trẻ. Một trẻ khỏe mạnh có các biểu Sự thu nhận phàn ứng hiện rõ ràng sẽ nhanh chóng cựa quậy các chi, thậm chí ngay vài giây sau khi Hình 8-16: Không cử động đưọc chào đòi. Theo truyền thống của một số nước, ngay sau khi ra đòi, bé được đặt nằm trên người mẹ, tạo điều kiện cho bé trườn lên từ hông mẹ, tìm bầu vú mẹ để bú. Đây là một tục lệ hết sức thông thái. Nó chứng tỏ rằng trên thực tế, đến cả một trẻ sơ sinh cũng có thể trườn được nếu được kịp thòi trao cho cơ hội. NĂNG Lực NGÔN NGỮ: GIAI ĐOẠN I Tiếng khóc đầu đ(Vi Chắc chắn tiếng khóc đầu đòi của trẻ sơ sinh chính là hình thức đánh
  55. giá tồn tại lâu đòi nhất để kiểm tra bé có bình thường hay không. Ngay khi vừa lọt lòng mẹ, thường thì bé sẽ khóc thét lên oa oa. Sự thu nhận phàn ứng Nếu vừa sinh ra hoặc chẳng bao lâu Hình 8-17: Tiếng khóc đầu đòi hoàn hảo sau khi ra đòi mà bé của bạn đã khóc rất to thì bạn hãy viết từ “Hoàn hảo” vào ô chỉ tiếng khóc đầu đòi trên Bản Mô tả và kẻ một đường thẳng màu đen lên mép trên ô này (xem Hình 8.17). Nếu bé của bạn khóc nhỏ và yếu, hãy viết “Bình thường” vào ô tiếng khóc đầu Bình thường đòi và kẻ một đường màu đen lên mép trên ô này (xem Hình 8.18). Sự thu nhận phàn ứng Hình 8-18: Tiếng khóc đầu đòi bình thường Tiêng khóc dấu dời Một số trẻ bị tổn thưong không thể khóc ngay khi chào đòi hoặc một lúc lâu Sự thu nhận phàn ứng sau đó. Trong trường họp này, chúng ta sẽ kẻ một đường thẳng màu đen lên Hình 8-19: Không khóc khi ra đời cạnh đáy của ô (xem Hình 8.19). NĂNG Lực ĐIẾU KHIỂN TAY: GIAI ĐOẠN I Phản ứng cầm nắm Có thể dễ dàng nhận ra phản ứng cầm nắm ở trẻ bình thường ngay khi bé vừa chào đòi.
  56. Khi ta đặt thứ gì đó vào tay trẻ, trẻ sẽ tự động nắm lấy tại vị trí vật đưực đặt vào. Đây chính là phản ứng cầm nắm. Phản ứng này cho phép đứa trẻ giữ đưực vật gì đó, nếu cần thiết, ngay từ lúc mói ra đòi. Cách đon giản nhất để đánh giá loại phản ứng này & bé con của bạn là đặt trẻ nằm ngửa, sau đó đặt ngón trỏ phải của bạn vào nắm tay trái của trẻ và ngón trỏ trái vào nắm tay phải của trẻ. Rồi nhẹ Hình 8-21: Phản ứng cầm nắm hoàn hảo tthang keo tre ve phía bạn bang hai ngon tay trỏ. Khi trẻ cảm nhận đưực lực kéo từ hai ngón tay trỏ của bạn, bạn sẽ nhận thấy nắm tay của trẻ nắm chặt lại một cách rõ ràng. Đây chính là phản ứng cầm nắm (xem Hình 8.20). Nếu con bạn có phản ứng này ở cả Phàn ứng cấm nắm hai tay, hãy viết từ “Hoàn hảo” vào ô phản ứng cầm nắm trên Bản Mô tả và kẻ đường thẳng màu đen lên mép trên ô Sự thu nhận phàn ứng này (xem Hình 8.21). Hình 8-22: Phản ứng cầm nắm bình thường . , . , , , Nếu một bên tay trẻ phản ứng không nhanh nhạy bằng tay còn lại hoặc không có phản ứng cầm nắm, hãy viết từ “Bình thường” lên ô phản ứng
  57. cầm nắm trên Bản Mô tả và kẻ đường thẳng màu đen lên mép ô này (xem Hình 8.22). Một số trẻ bị thương tổn não không Phàn ứng cám nắm có được phản ứng cầm nắm này khi chào đòi. Trong trường họp này, chúng Sự thu nhận phàn ứng ta sẽ kẻ một đường thẳng màu đen lên cạnh đáy của ô phản ứng cầm nắm (xem Hình 8-23: Không có phản ứng cầm nắm Hình 8.23). TÓM LƯỢC Giờ thì bạn đã hoàn thành công đoạn đánh giá đầu tiên đối vói bé. Bạn đã kẻ được sáu đường thẳng màu đen ở các ô thuộc sáu cột khác nhau của Bản Mô tả Quá trình Phát triển và đánh dấu các ô này ứng vói các biểu hiện tình trạng của đứa con vừa chào đòi của bạn. Công đoạn đánh giá đầu tiên này cung cấp cho bạn đưừng thần kinh cơ bản của bé. Bạn nhớ đánh dấu công đoạn ban đầu này của Bản Mô tả bằng màu mực đen. Màu đen luôn đại diện cho công đoạn mở đầu. Một trẻ hoàn toàn khỏe mạnh sẽ có một đường thẳng đen nằm trên mép sáu ô màu vàng cam trong Bản Mô tả và mang trạng thái “Hoàn hảo” ở cả sáu ô này. Nếu có ô nào đó có trạng thái “Bình thường”, bạn sẽ lập tức biết được giác quan nào cần được tăng kích thích hoặc khu vực nào cần được tạo nhiều cơ hội phát triển hoàn toàn. Chỉ đơn giản thế thôi. Nếu trên Bản Mô tả có ô nào đó mà đường kẻ đen nằm ở cạnh đáy thì chúng ta hiểu rằng bé gặp vấn đề thực sự nghiêm trọng. Biết càng sóm bạn sẽ càng kịp thòi thiết kế một chương trình hỗ trự não bộ hiệu quả cho bé. Việc này bảo đảm cho trẻ có cơ hội giành lại các chức năng bị khuyết thiếu và có những tiến triển trên Bản Mô tả trong thòi gian nhanh nhất. Khi đã học được cách sử dụng Bản Mô tả Quá trình Phát triển này, bạn đã hoàn thành bước quan trọng đầu tiên để đánh giá bé.
  58. Giờ bạn đã đưực trang bị đầy đủ cách sử dụng Bản Mô tả này để thiết kế một chương trình hiệu quả thúc đẩy sự phát triển trí não của bé.
  59. Chương trình phát triên giác quan cho bé ỵêu của bạn iờ thì chúng ta đã có thể thiết kế một chương trình đặc biệt giúp phát triển trí não bé yêu của bạn - không phải một cách ngẫu nhiên G mà có chủ đích. Chúng ta sẽ điều chỉnh chương trình cho phù họp vói trạng thái não bộ của cháu, nhưng trước hết bạn cần phải hiểu thêm về cấu trúc bộ não. về mặt thực thể, bộ não được chia làm hai phần chính, phần não trước và phần não sau. Phần não sau của bộ não và dây sống đóng vai trò là đường dẫn thông tin vào. Các đường dẫn này vận hành một chiều đến não. Đây chính là năm giác quan của chúng ta: thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác và khứu giác. Những thiện trí như Leonardo, Shakespeare, Beethoven hay Thomas Jefferson cũng đều nhận biết về thế giói thông qua năm đường dẫn. Trong số năm giác quan này, thị giác, thính giác và xúc giác là cần thiết nhất đối vói cuộc sống con người. Khi trẻ trải qua sáu năm đầu đòi, ba đường dẫn này sẽ chuyển thành khả năng đọc, hiểu và nhận thức bằng sờ mó. Do các giác quan này là hoàn toàn không thể thay thế, cho nên chúng ta cần nuôi dưỡng chúng bằng các hình thức kích thích họp lý. Phần não trước và dây sống bao gồm các dây thần kinh vận động. Nhiệm vụ của chúng là xử lý những thông tin mà não bộ nhận được qua các dây thần kinh cảm giác. Các dây thần kinh vận động bao gồm khả năng di chuyển, năng lực ngôn ngữ và khả năng điều khiển tay. Những yếu tố này cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng đối vói trẻ bởi về sau chúng sẽ sinh ra các hoạt động đi lại, nói năng và viết chữ. Do các dây thần kinh vận động là con đường độc đáo dẫn ra từ bộ não nên chúng ta không thê nuôi dưỡng chúng bằng cách kích thích như cách chúng ta vẫn làm đối vói các dây thần kinh cảm giác dẫn các thông tin đầu
  60. vào. Để phát triển các đường dây đầu ra, chúng ta phải tạo cơ hội tối đa cho trẻ được cử động, phát ra âm thanh và điều khiển tay. Tất nhiên trong bộ não có mối liên kết giữa các dây thần kinh đầu vào và các dây thần kinh đầu ra. Các kỹ sư gọi đây là một “chu trình điều khiển học”. Do chu trình này mà chúng ta chịu ảnh hưởng từ môi trường sống và phản ứng bằng các hành động nhất định đối vói môi trường sống. Biểu đồ sau miêu tả mối kết nối này, tức “chu trình điều khiển học” (xem Hình 9.1). Tất nhiên, chúng ta sẽ không thể thiết kế được một chương trình phù họp nhất để giúp cho trẻ tận dụng toàn bộ tiềm năng nếu không biết chính xác trẻ đang ở mức độ nào của Bản Mô tả Quá trình Phát triển. Điều này lý giải vì sao chúng ta cần hết sức cẩn trọng khi bắt đầu quá trình đánh giá trẻ. Kê cả khi bạn dùng các tri thức trong sách này để giúp những trẻ không còn ở độ tuổi sơ sinh, bước đầu tiên vẫn là đánh giá tỉ mỉ trẻ bằng Bản Mô tả. Sau khi hoàn thành quy trình đánh giá, một trong những nhân tố quan trọng là có được những công cụ phù họp để thiết kế chương trình hỗ trự các giác quan vói mục đích cải thiện quá trình phát triển của trẻ. Đối vói những trẻ khỏe mạnh, điều này đồng nghĩa vói việc khơi mở cho trẻ một khỏi đầu tốt đẹp. Đối vói trẻ gặp những khuyết thiếu nào đó, chương trình này sẽ giúp trẻ lấp đầy những chỗ thiếu hụt. Bản Mô tả Quá trình Phát triển không chỉ rất đơn giản, dễ sử dụng để đánh giá trẻ mà còn tạo ra chương trình phát triển giác quan hiệu quả nhất cho trẻ. Phần các giác quan của Bản Mô tả được cấu thành từ ba trong số năm giác quan đầu vào của não bộ. Ớ đây không nhắc đến vị giác và khứu giác do hai cơ quan cảm giác này ít ảnh hưởng đến sự phát triển não bộ như ba loại giác quan còn lại.
  61. KHÉP KÍN CHU TRINHl Hình 9-1: Chu trình điều khiển học Đê phát triển dây thần kinh cảm giác này, trẻ cần đưực kích thích về mặt thị giác, thính giác và xúc giác. Toàn bộ các kích thích này do các ông bố, bà mẹ và môi trường sống mà họ tạo ra cho con mình. Nếu có ô nào đó trong khu vực năng lực các giác quan của trẻ trên Bản Mô tả không đưực như các trẻ bình thường cùng độ tuổi, ô đó sẽ đưực ưu tiên hàng đầu khi thiết kế chưong trình phát triển giác quan của trẻ. Tuy nhiên, chưong trình phát triển giác quan còn đưực thiết kế nhằm củng cố những khả năng trẻ đã có sẵn. Có một quan điểm sai lầm mọi người thường mắc phải khi chắc mẩm rằng một khi đứa trẻ đã trải qua một giai đoạn phát triển thì bé sẽ không cần những kích thích cho giai đoạn đó nữa. Trên thực tế, việc đạt đến một giai đoạn mói chỉ là một khỏi đầu. Ớ mỗi giai đoạn, đứa trẻ cần rất nhiều nhân tố củng cố để vưon lên giai đoạn kế tiếp, quá trình này sẽ diễn ra
  62. nhanh hon so vói khi phó mặc cho yếu tố ngẫu nhiên. Chưong trình kích thích các giác quan mà một quy trình tự nhiên và đon giản giúp cho trẻ lần đầu nhìn, nghe và cảm thấy thế giói xung quanh. Điều này mang lại lựi ích vô cùng lón lao đối vói bé sơ sinh. Xét cho cùng, không dễ gì gây ra mù, điếc hay vô tri vô giác bẩm sinh. Có nhiều người cho rằng đứa trẻ cần thòi gian mói nhìn, nghe hay cảm nhận được bởi vì như thế sẽ “tự nhiên” hơn. Nhưng chẳng có gì tự nhiên, cũng chẳng hề đáng khi mà trẻ bị mù, điếc hay mất cảm giác suốt hàng tuần hoặc hàng tháng tròi, lâu hơn mức cần thiết. Thực ra đứa trẻ nào cũng tiềm tàng nỗi khao khát khám phá và hiểu thêm về thế giói xung quanh. Nhìn, nghe và cảm nhận chính là những nhân tố cơ bản cho hành trình khám phá này. TÓM LƯỢC 1. Các bậc phụ huynh nên tạo các kích thích giác quan dưới dạng kích thích phát triển thị giác, thính giác và xúc giác. 2. Bất cứ đường biểu hiện nào dưới mức tuổi của trẻ trên Bản Mô tả sẽ được ưu tiên hàng đầu trong chương trình phát triển. 3. Trọng tâm ưu tiên của chương trình là củng cố giai đoạn trẻ vừa đạt được. 4. Chương trình phát triển cũng nên mang đến các dạng kích thích giác quan dành cho giai đoạn kế tiếp vói khả năng hiện tại của trẻ. CHƯƠNG TRÌNH KÍCH THÍCH GIÁC QƯAN Chúng ta đã biết trẻ sơ sinh về cơ bản vừa xuất phát từ một thế giói khiến trẻ mù, điếc và vô tri vô giác, bởi thế nhiệm vụ của chúng ta vô cùng rõ ràng. Chúng ta cần mang đến cho trẻ càng nhiều kích thích càng tốt để trẻ nhanh chóng thích nghi vói thế giói mói đầy khó khăn và hỗn loạn mà trẻ vừa gia nhập. Đối vói một bé vừa chào đòi, công việc nhìn, nghe và cảm nhận thực sự rất khó nhọc. Bé phải hết sức nỗ lực mói có thể sử dụng các cơ quan thị giác, thính giác và xúc giác.
  63. Ngưòi lớn chúng ta chẳng mất nhiều công sức vẫn có thể nhìn, nghe và cảm nhận, bởi thế chúng ta khó lòng hình dung đưực nỗ lực lớn lao và sự dốc sức của bé để có thể nhìn, nghe và cảm nhận. Chúng ta cần tạo ra một môi trường giúp trẻ dễ dàng nhìn, dễ dàng nghe và dễ dàng cảm nhận. Các điều kiện môi trường sẽ khuyến khích trẻ tận dụng cơ quan thị giác, thính giác và xúc giác thường xuyên hơn. Chúng ta không buộc trẻ thực hiện các công việc này. Chúng ta chỉ đơn giản tạo ra các kích thích đối vói các dây thần kinh cảm giác, trao cho bé cơ hội bộc lộ phản ứng. Chúng ta không được quên một yếu tố cơ bản: Bộ não l&n lên nhờ hoạt động. Các dây thần kinh thị giác, thính giác và xúc giác là một phần của bộ não. Dây thần kinh thị giác của trẻ dẫn truyền thông tin từ mắt đến não phát triển nhờ được hoạt động. Dây thần kinh thính giác của trẻ dẫn truyền thông tin từ tai đến não phát triển nhờ được hoạt động. Dây thần kinh xúc giác của trẻ dẫn truyền thông tin từ da đến não phát triển nhờ được hoạt động. Điều này có nghĩa là bất cứ lúc nào bé nhìn, dây thần kinh thị giác của bé cũng thực sự phát triển. Nhờ đó khả năng nhìn của bé trở nên tốt hơn và dễ dàng hơn. Chu trình cải thiện này chỉ thành công khi dây thần kinh thị giác của bé đã phát triển hoàn toàn. Một chương trình kích thích giác quan giúp xác định được quá trình phát triển thị giác diễn ra như thế nào khi bé vừa lên ba, biểu hiện như thế nào là hoàn hảo, hoặc khi bé lên sáu tuổi, biểu hiện như thế nào là bình thường, hoặc khi bé được chín tuổi, biểu hiện như thế nào là nghiêm trọng, thế nào là một trường họp đáng lo ngại và thế nào được gọi là mù lòa. Những kết quả khác nhau tùy thuộc việc trẻ có cơ hội phát triển thị giác sớm sủa, thường xuyên và hoàn toàn hay không; tất nhiên nó còn phụ thuộc vào cấu trúc não bộ của trẻ nữa.