Đồng dao cho trẻ Mầm non

pdf 40 trang ngocly 2400
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đồng dao cho trẻ Mầm non", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfdong_dao_cho_tre_mam_non.pdf

Nội dung text: Đồng dao cho trẻ Mầm non

  1. ĐỒNG DAO CHO TRẺ MẦM NON
  2. Đồng giao cho trẻ mần non Chúng ta đang ở đầu thế kỷ XXI. Mai sau, dù có bao giờ, phần sưu tầm biên khảo nhỏ nhoi này mong còn được đôi khi lần giở trước đèn, để may ra có người mở trang sách cũ tìm hiểu về đất lề quê thói, thấy rõ ràng kho tàng văn học dân gian đặt nặng giáo dục gia đình trên vai người mẹ. Những lời ru ca dao ạ ơi ời hà hơi văn hóa mẹ vào tâm hồn trẻ từ lúc mở mắt chào đời cho đến khi chập chững lững thững những trò chơi đi kèm đồng dao, để từ đó vững bước vào xã hội. Hát mà chơi. Hát mà học. Hát chơi mà học thật. Học làm NGƯỜI. Đồng dao, đồng diêu: câu hát chơi, con nít hay hát. Đó là định nghĩa đơn giản nhất của Huình Tịnh Paulus Của, trong Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, cuốn tự điển đầu tiên của Việt Nam, xuất bản năm 1895 tại Sàigòn. 36 năm sau, Ban Văn học Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo Việt Nam Tự Điển, Mặc Lâm xuất bản tại Hà Nội năm 1931 và Nhà In Imprimarie Trung Bắc Tân Văn phát hành, cũng định nghĩa ngắn gọn. Đồng dao: câu hát trẻ con. Hơn thế kỷ sau, tức là cả 103 năm sau, Đại Từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nhà xuất bản Văn hóa Thông tin phát hành năm 1998, định nghĩa đồng dao: lời hát truyền miệng của trẻ con, nhưng không đưa ra một câu nào. Đồng dao được truyền từ đời này tiếp đời nọ, vùng này qua vùng kia, có khi thay đổi, có khi sai lạc, có khi thất truyền, và bị quên lãng. Tác giả hẩu hết vô danh, hay nói đúng hơn, chính dân gian là tác giả. Dạy con từ thuở lên ba, nhưng từ lúc lọt lòng mẹ qua ba tháng biết lẩy bẩy tháng biết bò cho đến khi lổm ngổm tập ngồi bi bô tập nói lựng chựng bước đi, với Việt Nam ta, tiếp nối lời mẹ ru, đồng dao giữ phần quan trọng trong giáo dục gia đình, chuẩn bị cho trẻ đến trường với khoa sư phạm áp dụng phương pháp giúp trẻ con vừa vui chơi giải trí vừa học hỏi, phát triển các khả năng cơ thể và mở mang trí tuệ. Hát mà chơi. Hát mà học. Hát chơi mà học thật. Thuở ban đầu, đồng dao chỉ được truyền miệng, nhưng nhờ ngắn gọn đơn giản ba, bốn hoặc năm chữ, có khi ngô nghê, nhưng vần điệu tiết tấu nhịp nhàng nên rất dễ hiểu dễ nhớ. Về sau, rất nhiều bài đồng dao được đặt nhạc nên được phổ biến rộng rãi. Trong hàng trăm bài đồng dao truyền miệng và hàng ngàn bản nhạc, chúng tôi chỉ nêu một số bài đồng dao truyền miệng từ Bắc qua Trung vào Nam, còn nhớ hoặc tìm tòi sưu tầm được, và đồng dao được phổ nhạc, cùng một số nhạc phụ lục. Chuyện bổ túc theo đà tiếp nối rất dễ dàng thuận tiện. Những trò chơi đầu tiên chỉ có mẹ và con. Khi trẻ bớt ngủ ngày, tức vào khoảng một tháng sau khi ra đời, trẻ bắt đầu biết nghe và nhìn. Bài học đầu tiên có thể chỉ tập cho con theo dõi, nhận xét, ghi nhận. Mẹ chỉ cho con biết những phần trên cơ thể, cả danh từ lẫn động từ tĩnh từ: mắt mở mắt nhắm, mắt đen mắt nâu, miệng nói môi cười, răng trắng, tai nghe, tóc đen tóc trắng, tóc ngắn tóc dài, tay nắm, chân đạp Trẻ chưa biết ngổi, có thể cùng mẹ chơi trò Cất Rớ Chống Rớ , đặt con nằm ấp trên hai ống chân mẹ, mông con an vị trên hai bàn chân mẹ, hai tay nắm chặt hai tay con, mẹ nằm ngửa, vừa nâng hai chân lên cao vừa đọc: Cất rớ lên! Bỏ rớ xuống! Cá chi? Cá bống! Chống rớ! Cá chi? Cá rô! Chống rớ!! Cá chi? Cá hồng! Chống rớ! 1
  3. Vẫn vị thế đó, có thể đổi cách chơi qua trò cỡi ngựa, hát mà chơi, nhún nhẩy đong đưa theo bài đồng dao: Nhong nhong nhong nhong Ngựa ông đã về Cắt cỏ bồ đề Cho ngựa ông ăn Nhong nhong nhong nhong Mẹ tập con chơi mà học, quan sát theo dõi: Một ngón tay nhúc nhích này/ một ngón tay nhúc nhích này Một ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta vui vầy Hai ngón tay nhúc nhích này/ hai ngón tay nhúc nhích này! Hai ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta vui vầy! và cứ thế tiếp tục cho đến mười ngón. Tay mẹ tay con có nhiều trò thú vị. Hát mà chơi với bài đồng dao Kéo Cưa Lừa Xẻ, khi con biết ngồi, hai mẹ con cùng nắm tay nhau kéo qua kéo lại: Kéo cưa lừa xẻ/ ông thợ nào khỏe/ về ăn cơm trưa Ông thợ nào thua/ về bú tí mẹ hay: Cút ca cút kít/ làm ít ăn nhiều/ nằm đâu ngủ đấy Nó lấy mất cưa/ lấy gì mà kéo!!! Vẫn tay mẹ tay con: Xỉa cá mè/ đè cá chép Tay nào đẹp/ đi hái hoa Tay nào thô/ đi mót củi Tay dính bụi/ đừng dụi mắt Cũng bài Xỉa Cá Mè nhưng chơi với hai chân: Xỉa cá mè/ đè cá chép Chân nào đẹp/ đi buôn men Chân nào đen/ ở nhà làm chó (hay mèo) và sủa gâu gâu như chó hoặc kêu meo meo như mèo để mẹ con cùng vui. Mẹ con vuốt tay vỗ đập tay nhau nhịp hai theo bài đồng dao Vuốt hột nổ nói đến những vật dụng hàng ngày. Bảo con chắp tay lai, mẹ cũng chắp tay xong mở ra vuốt hai bàn tay con, vừa vuốt vừa đọc, mỗi lần vuốt xong là vỗ tay, và có thể tiếp nối vô tận: Vuốt hột nổ Đổ bánh bèo Xao xác quạ kêu Nồi đồng vung méo/ cái kéo thợ may Cái guộng đắp bờ/ cái cờ làng tế Cái ghế để trèo/ cái khoèo mót củi Cái chủi tòe loe/ cái khe nước chảy Cái xảy xảy rơm/ cái nơm chơm cá Cái ná bắn chim/ cái kim may áo Cái gáo múc nước/ cái lược chải đầu Cái câu câu cá/ cái rá vo gạo 2
  4. Mẹ con ngồi đối mặt nhau, mẹ vừa hát vừa tập con vỗ tay. Hát mà học, vì khi lớn lên bé sẽ cùng vui chơi với anh hoặc chị, và cách chơi khó hơn: vừa đọc bài đồng dao vừa tự vỗ tay mình xong vỗ tay trái chéo vào tay trái người kia; trở lại tự vỗ tay, rồi vỗ tay phải mình chéo qua tay phải người kia, và tiếp tục ban đầu chậm sau nhanh dần cho đến hết bài. Một bài đồng dao khác cho trò chơi này là: Tập tầm vông Chị lấy chồng/ em ở góa/ chị ăn cá/ em mút xương Chị nằm giường/ em nằm đất/ chị húp mật/ em liếm ve Chị ăn chè/ em liếm bát/ chị coi hát/ em vỗ tay Chị ăn mày/ em xách bị/ chị làm đĩ/ em thâu tiền Chị đi thuyền/ em đi bộ/ chị kéo gỗ/ em lợp nhà Chị trồng cà/ em trồng bí/ chị tuổi Tý/ em tuổi Thân Chị tuổi Dần/ em tuổi Mẹo Chị kéo kẹo/ em nấu đường/ chị trồng thơm/ em trồng khóm Chị đi xóm/ em coi nhà/ chị thờ cha/ em nuôi mẹ Chị trồng hẹ/ em trồng hành/ chị để dành/ em ăn hết Chị đánh chết/ em la làng/ chị đào hang/ em chui tuốt Vẫn trò chơi dùng hai tay nhưng đông người hơn, có thể dùng một cái gậy hay thanh trúc để các em nắm tay chồng lên nhau lần lượt và tiếp tục cho hết bài. Không có gậy thì chỉ cần chồng tay lên nhau. Trò chơi này gọi là Hát Đúm/ Cùm nụm cùm nịu hay Tay tí tay tiên: Cùm nụm cùm nịu/ tay tí tay tiên Đồng tiền chiếc đũa/ hột lúa ba bông Ăn trộm ăn cắp trứng gà Bù xa bù xít/ con rắn con rít Thì ra tay này! Vẫn tay mẹ tay con, khi con biết xử dụng tay chân, mẹ con cùng chơi trò thi chân đẹp hoặc mẹ giúp con theo dõi chơi Nu na Nu nống cùng các anh chị. Ngồi trong lòng mẹ, bé chỉ tập trung theo dõi, chăm chú nghe và nhìn, lanh mắt lẹ tay nhanh chân học mà chơi theo luật chung: Nu na nu nống/ cái cống nằm trong Cái ong nằm ngoài/ củ khoai chấm mật Phật ngồi Phật khóc/ con cóc nhảy ra/ con gà ú ụ Nhà mụ thổi xôi/ nhà tôi nấu chè Tè he cống rụt! Nu na nu nống/ thằng công cái cạc Đá xỉa đá xoi/ đá đầu con voi/ đá lên đá xuống Đá ruộng bồ câu/ đá râu ông già Đá ra đường cái/ gặp gái đi đường Có phường trống quân/ có chân thì rút! Nu na nu nống/ đánh trống phất cờ/ mở cuộc thi đua Thi chân đẹp đẽ/ chân ai sạch sẽ/ gót đỏ hồng hào không bẩn tí nào/ được vào đánh trống! Khi trẻ khá lớn đi đứng chạy nhảy vững vàng và đến trường, gia nhập những trò chơi tập thể dễ dàng cũng như học những bài đồng dao dần dà dài khó hơn, và mẹ chỉ để mắt theo dõi, hướng dẫn hoặc nhắc nhở giúp đỡ khi cần. 3
  5. Có những bài đồng dao kết cấu liên hoàn lập đi lập lại, làm điệu bộ theo lời diễn đi diễn lại cho đến khi mệt nghỉ: Con vỏi con voi/ cái vòi đi trước Hai chân trước ịch đi ịch trước Hai chân sau ịch đi ịch sau Còn cái đuôi thì đi là sau rốt Tôi xin kể nốt cái chuyện con voi i í ị con voi Cái vòi í i ị đi trước Con công hay múa/ nó múa làm sao? Nó rụt cổ vào/ nó xòe cánh ra Nó đỗ cành đa/ nó kêu ríu rít Nó đỗ cành mít/ nó kêu vịt chè Nó đỗ cành tre/ nó kêu bè muống Nó đỗ dưới ruộng/ nó kêu tầm vông Con công hay múa Lúa ngô là cô đậu nành/ đậu nành là anh dưa chuột Dưa chuột là ruột dưa gang/ dưa gang là nàng dưa hấu Dưa hấu là cậu lúa ngô/ lúa ngô là cô đậu nành Ba bài liên hoàn khác về chim: Ác- là là cha ca-cưỡng/ ca-cưỡng là dượng bồ câu Bồ câu là dâu ác- là/ ác-là là cha cà- cưỡng Bồ-các là bác chim gi/ chim gi là dì sáo sậu Sáo sậu là cậu sáo đen/ sáo đen là em tu-hú Tu-hú là chú bồ-các/ bồ-các là bác chim gi Cái cò mày mổ cái tôm/ cái tôm quắp lại mà ôm cái cò Cái cò mày mổ cái trai/ cái trai quặp lại mà nhai cái cò Cái cò mày mổ cái tôm Một bài đồng dao liên hoàn khác được Đức Quỳnh phổ nhạc và hát từ Bắc vào Nam, lời lẽ ngụ ý hài hước châm biếm: Con chim chích chòe/ nó kêu chích chòe Nó đậu cành chanh/ nó kêu chích chòe Tôi ném hòn sành/ nó quay lông lốc Tôi làm một chốc/ được ba mâm đầy Ông thầy ăn một/ bà cốt ăn hai Cái đầu cái tai/ đem về biếu chúa Chúa hỏi chim gì? – Là con chim chích chòe! Nó kêu chích chòe/ nó đậu cành chanh Bài đồng dao có nhạc trong Nam lời hát như sau: Con chim manh manh/ nó đậu cây chanh Tôi vác miểng sành/ tôi liệng nó chết Tôi làm được bảy mâm/ tôi dâng cho ông một mâm Tôi dâng cho bà một đĩa/ bà hỏi tôi con chim gì? Tôi nói con chim manh manh 4
  6. Có một trò chơi trong Nam gọi là Bắc Kim thang, dùng bài đồng dao ngô nghê ngộ nghĩnh khi các em làm thành vòng tròn, chân trái xỏ rế ngoéo vào chân trái bạn, vừa vỗ tay vừa nhảy lò cò bằng chân phải và giữ không bị té, cùng hát: Bắc kim thang, cà lang bí rợ Cột qua kèo là kèo qua cột Chú bán dầu qua cầu mà té Chú bán ếch ở lại làm chi? Con le le đánh trống thổi kèn Con bìm bịp thổi tò te tí te Em nào không vững thăng bằng bị té là thua, bị phạt búng tai hoặc khẻ tay nếu là con gái, hoặc phải cõng bạn cùng cặp chạy một vòng nếu là con trai. Vui tếu thì phạt bằng quẹt nhọ nồi/ lọ nghẹ lên mặt. Các em trai còn bị phạt làm ngựa cho bạn cỡi, nhẹ thì dùng bài đồng dao ngắn Nhong nhong nhong nhong, mà phạt nặng hoặc trẻ lớn thì dùng bài Lý Ngựa ô. Lý Ngựa ô cũng có ba điệu phổ nhạc, Bắc, Trung và Nam. Trò trốn tìm/ ú tim/cút bắt được trẻ con khắp thế giới vui chơi, và đồng dao ta có rất nhiều bài cả đám cùng loạt đọc lên để chọn người phải đi tìm. Bài đặc biệt có tính cách một bài sấm dính đến lịch sử, nói về giai đoạn rối loạn của triều đình Nhà Nguyễn và phong trào Cần Vương, thời ta bị Pháp đô hộ: Chu tri rành rành/ Cái đanh nổ lửa Con ngựa đứt cương/ ba vương tập đế Cấp kế đi tìm/ ú tim òa ập! Bài đồng dao trốn tìm/ thả đỉa ba ba: Thả đỉa ba ba/ con đỉa đeo bà Con gà tục tác/ mỏ-nhát cầm chầu Con mèo cầm lái/ con rái chạy buồm Con tôm tát nước/ vọc nước giỡn trăng Bài Thả đỉa ba ba khác: Thả đỉa ba ba Chớ bắt đàn bà/ phải tội đàn ông Cơm trắng như bông/ gạo tiền như nước Sang sông về đò/ đổ mắm đổ muối Đổ nải chuối tiêu/ đổ niêu cứt gà Đổ phải nhà nào/ nhà ấy phải chiu! Khi đám trẻ chạy tìm chỗ nấp, em còn lại phải bịt mắt đọc bài đồng dao khác đến hết mới được mở mắt đi tìm: Mít mật mít gai/ mười hai thứ mít Đi vào ăn thịt/ đi ra ăn xôi Bởi chẳng nghe tôi/ tôi bịt mắt chú Ăn đâu ẩn kín/ lúa chín thì về! 5
  7. Chơi Bịt mắt bắt dê, tranh Võ Đình, UNICEF 69 Ngoài Bắc có bài đồng dao khác và Phạm Duy đã mượn ý phổ nhạc: Ông trẳng ông trăng Xuống chơi với tôi/ có bầu có bạn Có oản cơm xôi/ có nồi cơm nếp Có nệp bánh chưng/ có lưng hũ rượu Có chiếu bám đu/ thằng cù xí xoại Bắt trai bỏ giỏ/ cái đỏ ẵm em Đi xem đánh cá/ đem rá vo gạo Có gáo múc nước/ có lược chải đầu Có trâu cầy ruộng/ có muống thả ao Ông sao trên trời Hoặc: Ông tiễn ông tiên Ông có đồng tiền/ ông giắt mái tai/ ông cài lưng khố Ông ra hàng phố/ ông mua miếng trầu/ ông nhai tóp tép Ông mua con tép/ về ông ăn cơm Ông mua mớ rơm/ về ông đánh thổi Ông mua cái chổi/ về ông quét nhà Ông mua con gà/ về cho ăn thóc Ông mua con cóc/ về thả gậm giường Ông mua nén hương/ về cúng ông cụ! Tranh dân gian của Henry Oger đầu thế kỷ XX, chú thích bằng chữ Nôm: Đánh Cờ Chân Chó 6
  8. Làm hùm bắt lợn Khi trẻ đã lớn, đã đi học và có nhiều bạn cùng lứa, có rất nhiều trò chơi dùng những thứ kiếm được ngay chung quanh hoặc tự chế lấy, ví như bắn ná làm bằng nạng ổi, bắn súng bẹ sống lá chuối, bắn súng ống hóp đạn hạt sầu đông hoặc hạt mâm xôi, bắt chuồn chuồn, buôn bán bằng hoa lá, cái lung tung/ cái trống bỏi, chong chóng bằng lá dừa, con gà đất có gắn ống cói ống sậy thổi te te, con giống, cối xay làm bằng hạt xoài cưa hai, đánh căn với hai khúc tre hay gỗ, đánh bi, đánh cờ chân chó, cờ gánh bằng vỏ nghêu vỏ sò, đánh đáo, đánh đu dựng bằng tre, đánh trận giả với cây cành hoa lá như Cờ Lau Tập Trận của Đinh Bộ Lĩnh thuở còn chăn trâu, đánh thẻ, đánh vụ làm bằng gỗ, đá kiện làm bằng đồng xu buộc lông, đá cầu lông, đạp mạng, đạp lon, đi chợ về chợ, kéo co với giây dừa, làm hùm bắt lợn, lộn cầu vồng, lộn chuồn chuồn, liệng cống, năm tiền liền quan, ném còn làm bằng vải vụn, ném vòng làm bằng tre hoặc mây vào cọc tre hay gỗ, nhảy giây làm bằng giây dừa, nhảy lò cò với mảnh ngói mảnh sành mảnh sứ , rải ô quan/ rải ô làng dùng sỏi, sạn hay hạt đậu, xây khăn/ bỏ khăn/ chuyền khăn, thả diều làm bằng tre dán giấy vô số kể. Cờ Lau Tập Trận, tranh Võ Đình Những trò chơi hầu hết cần vận dụng đầu óc bén nhạy tinh tế tính toán chính xác, điều động tay chân nhanh nhẹn, thích nghi với môi trường thiên nhiên và luyện tập quen dần với đời sống tập thể trong cộng đồng. Hát chơi mà học thật. Bài đồng dao trò chơi Xây khăn trong Nam, trẻ ngồi thành vòng tròn, một em cầm khăn chạy ngoài, cùng đọc cho đến hết thì bỏ khăn sau lưng một bạn. Em này phải chú ý theo dõi để nhặt khăn chạy vòng, nhường chỗ cho bạn, nếu không biết sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. 7
  9. Đá cầu bằng đồng xu, tranh dân gian của Henry Oger Xây khăn, khăn nổi khăn chìm Ba bên bốn phía đi tìm cái khăn Thằng chăn bận áo rách vai Không ai may vá, thằng chăn bận hoài Trò chơi Chuồn chuồn miền Trung và Lộn Cầu Vồng ngoài Bắc có cách chơi giống nhau nhưng khác bài đọc: Chuồn chuồn đạp nước kim cang/ bên tê mở cửa bên ni sang lòn Lộn cầu vồng nước trong nước chảy Có anh mười bảy có chị mười ba Hai chị em ta cùng lộn cầu vồng Bài đồng dao trò Dung giăng dung giẻ đọc khi đi quanh nhiều vòng tròn, những vòng này luôn thiếu một để đến cuối khi ngồi xệp xuống sẽ có một em chậm chạp bị loại: Dung giăng dung giẻ/ dắt trẻ đi chơi Đi tới cổng trời/ gặp cậu gặp mợ Cho cháu về quê/ cho dê đi học Cho cóc ở nhà/ cho gà bới bếp Ngồi xệp xuống đây! Một bài đồng dao về cuộc sống luẩn quẩn loanh quanh trong nhà ngoài vườn trong xóm ngoài làng là Ông Ninh Ông Nang được Lê Thương phổ nhạc: Ông Nỉnh ông Ninh/ ông ra đầu đình/ ông gặp ông Nảng ông Nang Ông Nảng ông Nang/ ông ra đầu làng/ ông gặp ông Nỉnh ông Ninh Nang Ninh đầu đình/ và Ninh Nang đầu làng Nang Ninh làng đình/ rồi Ninh Nang đình làng Nang Ninh làng đình Nang Ninh/ Ninh Nang đình làngNang Ninh Nang Ninh làng đình Ninh Cô Chiểu cô Chiêu/ cô qua cầu Kiều/ cô gặp cô Thỏa cô Thoa Cô Thỏa cô Thoa/ cô qua vườn cà/ cô gặp cô Chiểu cô Chiêu Thoa Chiêu cầu Kiều/ và Chiêu Thoa vườn cà Rồi Thoa Chiêu cầu Kiều/ rồi Chiêu Thoa vườn dừa Cả Chiêu Thoa cầu Kiều Chiêu Thoa/ Thoa Chiêu vườn cà Chiêu Thoa Thoa Chiêu vườn cà Thoa 8
  10. Em Thở em Thơ/ em qua hàng dừa/ em gặp em hải em Hai Em Hải em Hai/ em qua vườn xoài/ em gặp em Thở em Thơ Thơ Hai vườn xoài/ và Hai Thơ vườn dừa Rồi Thơ Hai vườn xoài/ và Hai Thơ vườn dừa Cả Thơ Hai vườn xoài Thơ Hai/ Hai Thơ vườn dừa Thơ Hai Thơ Hai vườn xoài Thơ Một bài đồng dao khác được phổ nhạc là Trằng Bờm, nói lên đầu óc thực tiễn của dân quê không cần xa hoa phù phiếm cung ngũ long lầu ngũ phụng dinh thự cao ốc hay đặc sản miếng ngon vật lạ, mà chỉ muốn no bụng: Thằng Bờm có cái quạt mo/ phú ông xin đổi ba bò chín trâu Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu/ phú ông xin đổi ao sâu cá mè Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè/ phú ông xin đổi ba bè gỗ lim Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim/ phú ông xin đổi một đôi chim mồi Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi Phú ông xin đổi nắm xôi Bờm cười!!! Thuở nhỏ tôi nghịch ngợm hát bài đồng dao Thằng Bờm và có nhịp điệu khác: Thì ra mo cau vàng mới tinh/ phú ông lập tâm mua liền! Thằng Bờm mà biết cóc chi/ Thằng Bờm mà biết cái cóc chi! Chăng chẳng lấy trâu/ Bờm rằng thì là Bờm chăng chẳng lấy trâu đâu!!! Trò chơi tôi thích nhất hồi còn tiểu học là đánh thẻ chuyền/ đánh banh đũa, nhưng đến nay không nhớ được trọn bài đồng dao đọc đệm. Duyên may quen một gia đình nhà quê mộc mạc, bà mệ tám mươi sáu và bà mạ sáu mươi, không biết đọc biết viết nhưng còn nhớ kỹ. Bỏ một ngày thăm hỏi cùng ôn trí nhớ, ghi trọn được trò chơi này. Dùng tay phải nắm nguyên bó đũa 6 chiếc hoặc nhiều hơn, cùng một trái banh, có khi chỉ là quả chanh hay một bó vải vụn cuộn thành hình trái banh. Vừa thảy banh lên là trải đũa ra nhanh cho kịp bắt chụp lại trái banh, rồi lần lượt ném banh vừa bắt từng cây đũa một, rồi hai, ba, bốn tức là phải tính chính xác làm sao vừa ném banh lên là phải nhanh mắt nhanh tay tính toán nắm đúng số đũa cần lấy đưa ngay sang tay kia và kịp thời bắt chụp lại trái banh. Trò chơi này hình như chỉ có trẻ Việt Nam ta yêu thích và hợp với con gái. Bài đồng dao đọc theo lúc ném banh, bắt đầu ném banh và bắt một đũa, đọc tối đa đến cuối câu phải tóm lại được trái banh, nếu trật phải nhường người kia chơi: Cái mốt (bắt một đũa) Cái mai/ con trai/ con hến Con nhện/ giăng tơ/ quả táo/ cái gáo Lên đôi (bắt hai đũa) Đôi cái mõ/ đôi nồi chõ Đôi thổi xôi/ đôi nấu chè/ đôi cành tre Lên ba (bắt ba đũa) . Khi nhặt hết đũa thì bỏ tất cả xuống để ném banh bốc cả nắm đổi sang các giai đoạn kế tiếp là con ba lại, con gang, sang tay cầm, kẹp nách, cầm quạt rẽ xương, sang tay giã, giã đơn hoặc giã đôi tùy giao ước ban đầu, nhập giã, rút ống, nhập ống, sang tay tao tức là chuyền. Mỗi giai đoạn này đọc tên báo sự thay đổi chuyển tiếp. Giai đoạn chuyền, một vòng hoặc hai vòng tùy giao ước trước khi chơi, vừa chuyền vừa ném banh rồi chụp banh lại và đọc: Chuyền chuyền một/ chuyền chuyền hai/ chuyền chuyền ba Chuyền chuyền bốn/ chuyền chuyền năm/ chuyền chuyền sáu 9
  11. Cuối cùng là nẻ hay khẻ, tức là đập cả bó đũa vào chân người thua cuộc, vừa đập vừa thảy banh vừa đọc đoạn cuối bài đồng dao: Qua cầu, lặn cỏ/ núi đỏ như ma/ hầm sa/ mây sắc Bắt con cá, chặt đuôi, chặt đầu Têm miềng trầu, hầu chén rượu Ai có tiền, ngồi liền lên ghế Ai không tiền, liệu thế liệu thần Sang tay nẻ, khẻ chân Nẻ/ khẻ chân xong là thắng, Đoạn đồng dao cuối này lại khác nếu do các nữ sinh Đồng Khánh mà nay là những mệ có cháu nội ngoại đề huề: Ai muốn cao, ngồi ghế/ ai muốn thấp, ngồi đòn Ai muốn đỏ, bôi son/ ai muốn vàng, bôi nghệ Qua cầu Chợ Kệ/ về cầu Thanh Lương Sang tay bắt con một. – Ăn! (tức là thắng) Đoạn cuối lúc nẻ, mấy mệ ngoài Bắc lại đọc khác: Đầu quạ quá giang/ sang sông về đò Cò nhẩy gãy cây/ mây bay bèo trôi Ổi xanh, hành bóc/ róc vỏ, đỏ lòng Tôm cong đít vịt Sang cành nẻ/ bẻ cành xanh Vét bàn thiên hạ (tức là thắng) Trong số 54 sắc dân sinh sống tại Việt Nam, người Mường là chị em của người Việt, cùng thờ Vua Hùng, cùng chung truyền thuyết một mẹ trăm con, cùng mặc yếm váy và áo tứ thân và đặc biệt cùng nói chung ngôn ngữ. Trẻ con Mường cũng có đồng dao kèm trò chơi. Ghi lại sau đây một: Lếu lêu làng lộc Tộc ngộc ngọn cơn bo (cây hoang nhỏ có trái trẻ hay hái ăn) Bò ăn no bò ngứa củ ráy Ngứa củ ráy ngứa cả cơn rư (cây nưa) Đưa bò về Mường Tráng Tám mươi người kiếm cỏ/ bò đỏ bò nhà lang 10
  12. Bò vàng, bò nhà đạo Ống Tùng tùng tùng tùng/ ai đánh trống mường trên Lền khên con ca trống gáy (con gà) Gáy gáy trong rẫy ngoài mường/ vườn như vườn nhà ai Ông mo biểu mụ máy/ trấy bín biểu trấy bù (trái bí/bầu) Măng mu biểu măng nứa/ bố đạo biểu mệ nàng Quan sang biểu kẻ khó/ bó ló biểu bó nếp (bó lúa) Cơm nếp biểu cơm chim/ cào cào biểu châu chấu (một loại gạo ngon) Cắt nứa rào cho ta chào cấm/ lấy lưỡi lấm cho ta cầm tiền Lấy lưỡi liềm cho ta cắt bái (cỏ tranh) Lấy lưỡi hái cho ta hái ló (lúa) Náng lấy chó cho ta ăn thịt/ náng con vịt cho ta ăn đùi (nướng) Nuôi con ca cho ta lấy mỡ (gà) Dệt lấy mớ lụa điều/ dệt nhiều nhiều cho ta cưới vợ Trẻ con miền Bắc ngày trước rất thích chơi Phụ đồng Phụ chổi, có tính cách huyền bí như lên đồng. Bài đồng dao được đọc đi đọc lại cho đến khi đứa trẻ ngổi đồng được vía nhập: Phụ đồng phụ chổi/ thổi lổi mà lên Ba bề bốn bên/ sôi lên cho chóng Nhược bằng cửa đóng/ phá ra mà vào Cách chuôm cách ao/ cách ba ngọn rào Cũng vào cho lọt Cái roi von vót/ cái vọt cho đau Hàng trầu hàng cau/ hàng hương hàng hoa Là đồ cúng Phật Hàng chuối hàng mật/ hàng kẹo mạch nha Nào cô bán quế/ vừa đi vừa tế Một lũ học trò/ người cầm quạt mo Là vợ Ông Chổi Thổi lổi mà lên Một trò chơi được đám trẻ gái yêu thích, cách chơi giống nhau nhưng ngoài Bắc gọi là là Trồng Nụ Trồng Cà/ Trồng Nụ Trồng Hoa, và miền Trung gọi là Đi Chợ Về Chợ. Phải có bốn em, chia làm hai cặp. Một cặp ngồi, lần lượt duỗi chồng từng bàn chân lên nhau rồi chồng bàn tay làm hoa, trong khi cặp kia đi qua đi lai rồi nhảy qua nhảy lại, vừa đọc: Đi chợ/ về chợ (chưa đưa chân) Đi canh một/ về canh một (đưa một bàn chân) Đi canh hai/ về canh hai (chồng thêm một chân, là hai bàn chân) Đi canh ba/ về canh ba (chồng thêm, ba bàn chân) Đi canh tư/ về canh tư (chồng thêm, bốn bàn chân) Đi sen búp/ về sen búp (chồng thêm một bàn tay chụm lại) Đi sen nở/ về sen nở (chồng thêm bàn tay hơi xòe nở) Đi sen tàn/ về sen tàn (bàn tay hoa nở xòe rộng hết cỡ) 11
  13. Đi Chợ Về Chợ, tranh Võ Đình, XI-07 Trong trò chơi này, hai em ngồi chồng chân và xòe tay phải giữ thăng bằng, nếu bị đổ chân là thua. Hai em đi qua đi lại nhảy qua nhảy về nếu bị đụng chân hay tay hai em kia là thua. Cặp thua bị loại để hai em khác vào thay. Nhưng trong mấy trò chơi tập thể nhân Tết Trung Thu và Ngày Nhi Đồng Việt Nam, trẻ con Bắc Trung Nam đểu thích trò Rồng Rắn, gồm một đoàn ôm eo ếch nhau nối dài đi vòng vòng quanh sân, vừa đi vừa reo hò theo một em dẫn dầu làm thầy thuốc đọc : - Này, rồng kia! - Dạ! - Rồng đen hay rồng trắng? - Rồng trắng! - Rồng trắng lấy nước gạo mùa Rồng đen lấy nước cho vua đi cày! - Anh em ta cùng kéo lúa về! Dô ô ô ô ô ô ô Ttranh dân gian của Henry Oger Chú thích bằng chữ Nôm: Trẻ Con Làm Rồng Rắn Bài đồng dao Rồng Rắn cản thầy thuốc cầm cái quạt mo không cho ông bắt em nào trong đoàn, vừa đi vừa hát: Rồng rồng rắn rắn/ kéo rắn lên mây Thấy cây lúc lắc/ hỏi ông thầy thuốc có nhà hay không? - Có! - Mở cửa cho vào! - Vào làm gì? - Mượn cái liềm - Liềm làm gì? 12
  14. - Hái củi - Củi làm gì? - Nấu bánh chưng - Cho thầy ăn không? - Không! Trò chơi Rồng Rắn không rõ có từ giai đoạn lịch sử nào, có thể liên hệ đến thảm kịch thời Trịnh Nguyễn phân tranh chiến tranh đẫm máu giữa Đàng Ngoài Đàng Trong, hay gần hơn, là cuộc nội chiến Quốc Cộng xốc nổi đến tận cùng đời sống với những nhân vật níu áo số mệnh nhau, như truyện dài Rồng Rắn của Lê Thị Huệ dẫn nhập. Trò Rồng Rắn được trẻ con tham dự đông đảo nhất, cũng ôm eo ếch nối dài làm con rồng, vừa chạy vòng vòng vừa cùng đọc: Rồng rắn lên mây có cây xúc xắc Xúc xắc xúc xẻ Có thầy thuốc ở nhà không? Một trẻ lớn làm ông thầy thuốc cầm quạt nan phe phẩy đi ra, đủng đỉnh hỏi: Thầy thuốc: - Rồng rắn đi đâu? Rồng rắn: - Rồng rắn đi lấy thuốc cho con. Thầy thuốc: - Con lên mấy? Rồng rắn: - Dạ, con lên một. Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon! Rồng rắn: - Con lên hai. Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon! Rồng rắn: - Con lên ba. Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon! Rồng rắn: - Con lên bốn. Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon! Rồng rắn: Thầy thuốc: Rồng rắn: - Con lên chín. Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon! Rồng rắn: - Con lên mười. Thầy thuốc: - Thuốc ngon vậy! Xin khúc đầu! Rồng rắn: - Những xương cùng xẩu! Thầy thuốc: - Xin khúc giữa! Rồng rắn: - Những máu cùng me! Thầy thuốc: - Xin khúc đuôi! Rồng rắn: - Tha hồ mà đuổi! Đến đây thì đoàn rồng rắn vẫn ôm eo ếch nối nhau chạy đuổi bắt ông thầy thuốc cho kỳ được mới tan cuộc, giữa những tiếng vỗ tay reo hò cổ võ của những người đứng xem, trong số có những bà mẹ chứng kiến con mình lớn khôn trong tập thể, trong cộng đồng. Bài đồng dao này có giá trị như một bài sấm, một bài học lịch sử, và cũng là một bài luân lý giáo khoa thư nói lên tình đoàn kết nhất trí của Rồng Rắn, toàn dân quyết giữ gìn trọn khối chung, đánh đuổi quân xâm lược lăm le chiếm đất đai, đã hớt khúc đầu Nam 13
  15. Quan, lại xén đoạn giữa Trường Sa và gây tai hại đồng bằng Cửu Long miền Nam. Những bài đồng dao và trò chơi trẻ con góp nhặt ở đây chưa đầy đủ và cần bổ túc, nhưng có chủ đích góp phần gìn giữ kho tàng văn học dân gian trước khi bị thất truyền hay quên lãng, chôn vùi dưới hàng hàng lớp lớp đồ nhựa lắp ráp máy móc Toys ‘R’ Us, CDs, DVDs, video games, PC Games, puzzles, dominos, bingo, i-pods, cell phones và vô số trò khác ào ạt trên mạng lưới điện tử của thời đại @ còng. Ngay tại các nước Âu Mỹ, nhiều tài liệu cũng sưu tầm ghi lại trò chơi trẻ con kèm những ballads, là thơ xưa từ thế kỷ XV/ XVI được phổ nhạc có điệp khúc lập đi lập lại, và Shakespeare từng trích dẫn vào tác phẩm. Chúng ta đang ở đầu thế kỷ XXI. Mai sau, dù có bao giờ, phần sưu tầm biên khảo nhỏ nhoi này mong còn được đôi khi lần giở trước đèn, để may ra có người mở trang sách cũ tìm hiểu về đất lề quê thói, thấy rõ ràng kho tàng văn học dân gian đặt nặng giáo dục gia đình trên vai người mẹ. Những lời ru ca dao ạ ơi ời hà hơi văn hóa mẹ vào tâm hồn trẻ từ lúc mở mắt chào đời cho đến khi chập chững lững thững những trò chơi đi kèm đồng dao, để từ đó vững bước vào xã hội. Hát mà chơi. Hát mà học. Hát chơi mà học thật. Học làm NGƯỜI. Cái mốt, cái mai Con trai, cái hến Con nhện chăng tơ Quả mơ, quả mận Lận đận, lên bàn hai Rải bàn hai Hai chúng tôi Hai chúng nó Hai con chó Hai con mèo Hai chèo cau Rải bàn ba Ba lá đa Ba lá đề Ba Một lên tư Rải bàn tư tư ông sư Tư bà vãi một lên năm Năm em nằm Năm lên sáu Đến sáu thì quên thật :-D F.A.G 11/09/2009, 03:28 PM Chơi chuyền Cái mốt, cái mai Con trai, con hến Con nhện chăng tơ Quả mơ, quả mận Cái cận, lên bàn đôi Đôi chúng tôi Đôi chu'ng nó Đôi con chó Đôi con mèo Hai chèo ba Ba đi xa Ba về gần Ba luống cần Một lên tư 14
  16. Tư củ từ Tư củ tỏi Hai hỏi năm Năm em nằm Năm lên sáu Sáu lẻ tư Tư lên bảy Bảy lẻ ba Ba lên tám Tám lẻ dôi Đôi lên chín Chín lẻ một Mốt lên mười. Chuyền chuyền một, một đôi Chơi chuyền Cái mốt, cái mai Con trai, con hến Con nhện chăng tơ Quả mơ, quả mận Cái cận, lên bàn đôi Đôi chúng tôi Đôi chu'ng nó Đôi con chó Đôi con mèo Hai chèo ba Ba đi xa Ba về gần Ba luống cần Một lên tư Tư củ từ Tư củ tỏi Hai hỏi năm Năm em nằm Năm lên sáu Sáu lẻ tư Tư lên bảy Bảy lẻ ba Ba lên tám Tám lẻ dôi Đôi lên chín Chín lẻ một Mốt lên mười. Chuyền chuyền một, một đôi thotit 12/09/2009, 12:19 AM 1. Chặng 1: 10 bàn Bàn 1: Cái mốt, Cái mai, Con trai, cái hến, con nhện, vương tơ, quả mơ, quả mít, chuột chít, lên bàn đôi. Bàn 2: Đôi tôi, đôi chị, đôi cành thị, đôi cành na, đôi lên ba Bàn 3: Ba đi ra, ba đi vào, ba cành đào, một lên tư Bàn 4: Tư ông sư, tư bà vãi, hai lên năm. Bàn 5: năm con tằm, năm lên sáu Bàn 6: Sáu của ấu, Bốn lên bảy Bàn 7: Bảy lá đa, ba lên tám Bàn 8: Tám quả trám, hai lên chín Bàn 9: Chín cái cột, một lên mười Bàn 10: Ngả năm mươi, mười quả đấm, chấm tay vỏ, bỏ tay chuyền 2. Chặng 2: chuyền thẻ, gồm 5 bàn Bàn 1: chuyền chuyền một, một đôi Bàn 2: chuyền chuyền khoai, hai đôi Bàn 3: chuyền chuyền cà, ba đôi Bàn 4: chuyền chuyền từ, tư đôi Bàn 5: chuyền chuyền tằm, năm đôi, Sang bàn chống 3. Chặng 3: chống, gồm 5 bàn Bàn 1: chống cột, một đôi 15
  17. Bàn 2: Chống khoai, hai đôi Bàn 3: chống cà, ba đôi Bàn 4: chống từ, tư đôi Bàn 5: Chống tằm, năm đôi 4. Chặng 4: quét, gồm 5 bàn Đọc giống chặng 3, thay chữ chống bằng chữ quét 5. Chặng 5: đập, gồm 5 bàn Đọc giống chặng 3 thay chữ quét bằng chữ đập 6. Chặng 6: Chải Đọc giống chặng 3 thay chữ quét bằng chữ chải Hồi trước em cũng chơi trò này nhưng quên lời rồi ạ. Đây là lời em chép lại từ cuốn "Trò chơi vận động và rèn luyện của trẻ" của tác giả Phạm Vĩnh Thông, NXB Văn hóa dân tộc, còn kéo dài đến chặng thứ mười bốn cơ ạ. Em còn thấy lời của trò chơi này trong cuốn "Đồng dao" của NXB giáo dục hôm vừa rồi em lấy chỗ chị Laida. bàn 1 mốt này mốt nọ đóng cửa cài then then cho chặt chắt cho mau kẻo đàng sau chị mắg chết đôi con rết lên bàn đôi Bàn 2 đôi nồi xôi đôi nồi chè đôi lá tre đôi lá chuối cuối bàn đôi Bàn 3 Ba đi xa ba về gần ba mớ cân một bàn bốn bàn 4 tư củ từ tư củ tỏi hai hỏi năm (hoặc là: tư lắc lư tư lắc lỏi hai hỏi năm hoặc: tư ông sư tư bà lão nào lên năm) bàn 5 năm em nằm rằm bàn sáu hoặc là: năm trăng rằm nằm bàn sáu) từ bàn sáu thì chả nhớ nổi đến bàn chuyền có câu hát là: sang sông về sông trồng cây ăn quả hái lá ngải giải bàn que Vật cầu 16
  18. Tương truyền đây là môn thể thao dân gian do tướng quân Phạm Ngũ Lão bày ra để rèn luyện thể lực cho quân sĩ, thời nhà Trần chống quân Nguyên - Mông. Vật cầu còn gọi vật cù. Quả cầu (cù) làm bằng gỗ sơn đen hoặc đỏ, có nơi làm bằng quả bưởi to hoặc gọt bằng gốc chuối. Sân chơi có vạch ngang ở giữa, hai đầu đào hai hố sâu lọt quả cầu. Số người chơi không hạn chế. Chia làm hai đội bằng nhau, mỗi bên thắt lưng một màu khác (bên đỏ, bên xanh). Cầu đặt ở chính giữa vạch. Hai bên dàn quân. Nghe xong lệnh xướng, xô vào cướp cầu bằng tay, tung chuyền cho đồng đội đưa về bên sân đối phương, ném xuống hố là thắng. Trống thúc ngũ liên cổ vũ. Có thể dùng mọi cách để tranh cướp cầu về phe mình, còn đối phương thì ra sức bảo vệ đồng đội đã ôm được cầu di chuyển về hố đối lập hoặc tung ra ngoài vòng vây để người khác dẫn tiếp. Hội làng Xuân Dục (huyện Sóc Sơn), Thúy Lĩnh (Thanh Trì) có trò vật cầu. Còn ở Hội Chi Nam - thôn Sen Hồ, xã Lệ Chi, (Gia Lâm) có trò chơi cũng giống như vật cầu. Người chơi chia hai phe, mình trần; một bên khố đỏ, bao vàng; một bên khố xanh, bao trắng. Hai bên “đánh quân” bằng vật và đấu gậy cho đến lúc quân địch (khố xanh, bao trắng) bị thua. Ông đám đội từ đình ra chiếc mâm son trên bày quả dừa. Ông trịnh trọng đặt quả dừa lên ngọn cây tre trồng giữa sân. Ngọn tre đã chẻ sẵn làm tư để cặp chặt lấy quả dừa. Nghe trống lệnh, trai bao vàng xô lại rung cây tre cho quả dừa rơi xuống, rồi chèn nhau để cướp lấy quả dừa. Ai cướp được, tôn là “tông” được ngồi ăn cỗ với già làng ở chiếu nhất. Còn quả dừa đập nát chia cho các trai dự trò chơi mỗi người một mảnh con lấy lộc may. Ném còn Thường chơi trong Hội Lồng tồng của đồng bảo Tày, Nùng, Thái, Mèo vùng Tây Bắc, nhưng do giao lưu văn hóa mà người Khơme ở đồng bằng sông Cửu Long cũng có ném còn. Người Việt vùng Châu thổ sông Hồng thời Lý, vua quan cũng có tục chơi ném còn vào lễ hội xuân. Dân gian chơi ở xã Bồ Đề, Gia Lâm; “ném còn ao chạ” ở hội làng Kiêu Kỵ, Gia Lâm. Bao nhiêu người chơi cũng được, chia làm hai phe nam - nữ đứng hai bên. ở giữa bãi rộng trồng một cây trẻ thẳng, cao, có ngọn, gần đỉnh treo một vòng tròn uốn bằng nan tre, phất giấy hai mặt, một mặt màu vàng tượng trưng cho mặt trăng, một mặt màu đỏ tượng trưng cho mặt trời. Chiếc vòng tròn này được gọi là “phông còn”, nó còn có ý nghĩa vật linh của người con gái (màng trinh), khi bị quả còn ném thủng là biểu lộ mở đầu sự sinh sản bảo tồn nòi giống. Đường kính “phông còn” từ một gang rưỡi đến hai, ba gang tay, tùy cây tre cao thấp. “Quả còn” làm bằng vải, kết nhiều mảnh màu lại thành những múi, bọc chặt lấy những hạt thóc giống, hạt bông, hai sản phẩm chính để tự túc của nhà nông. Có nơi nhồi cả ít đất, cát. Cuối múi là túm tua dài kết bằng chỉ ngũ sắc, dài ba gang tay, đủ để cầm vung vẩy tạo đà định hướng, nhằm ném tung quả còn vào phông còn. Mỗi nhà được làm hai quả còn, ai cũng muốn quả còn nhà mình rực rỡ nhất, đẹp nhất. Mở đầu hội chơi, người chủ trì gọi là “ông từ” đặt hai quả còn to nhất lên mâm, làm lễ cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, trai gái đủ đôi, ngay tại bãi còn. Cúng xong, ông từ tung hai quả còn lộc cho mọi người xô nhau cướp. Ai giành được, năm ấy may mắn. Hội còn đã mở. Trai gái bắt đầu tung còn của mình ném lên phông còn. Ngoài ra, còn lấy quả còn ném giao duyên vào cô gái hoặc chàng trai nào mình đang để ý, như một lời ướm hỏi. Nếu đối tượng đón bắt lấy còn; rồi dùng quả còn của họ ném trả lại là trả lời đã đồng ý giao đãi làm quen với nhau sau hội tung còn. Khi phông còn bị ném thủng, là cầu nguyện đã được viên mãn, ông từ lấy quả còn vừa lọt qua đích, rạch túi, ban hạt giống cho mọi nhà lấy may. Người ném rách phông còn tin tưởng một năm mới tốt lành, hạnh phúc. Cuộc chơi kết thúc bằng lời hẹn hò nửa kín, nửa hở của những cặp trai gái đã bắt còn của nhau. Ném còn là trò chơi mang ý nghĩa phồn thực lâu đời của dân tộc ta. Ném còn vùng đồng bằng sông Hồng có nơi không làm cột phông còn, chỉ chia hai phe nam nữ tung còn cho nhau. Họ tự chọn thành từng đôi. Quả còn tua ngắn, ném một tay và bắt đỡ cũng một tay. Có lúc cả hai cùng ném chéo sang nhau để cùng bắt. Còn như vật giao duyên. Mang hơi ấm bàn tay âm sang giao hòa với hơi dương và ngược lại. Ai bắt được nhiều lần là thắng cuộc, người thua phải đưa bạn đi chiêu đãi nhẹ nhàng: một miếng trầu, một thanh kẹo, chiếc bánh 17
  19. nếp có thể mang đi từ nhà, hoặc món quà lưu niệm: chiếc túi đựng trầu, hộp thuốc lào Có nơi lại đứng vòng tròn quanh bờ ao, ném còn qua ao sang cho nhau. Phải ném đủ mạnh để còn không rơi xuống ao, lại đến chỗ bạn chơi có thể bắt được. Có lần nhảy lên bắt còn ngã xuống ao ướt hết quần áo. Thế mới vui! Thời Lý - Trần, các công chúa lại có tục gieo còn (hoặc cầu tròn) để cầu duyên khi các quan tân khoa vào dự yến vua ban. Ném giỏ Giỏ tre đan mắt cáo, đường kính hai - ba gang tay, buộc vào đầu cây tre cao cỡ 3m, chôn chặt ở sân đình làm cột. Trồng một hoặc hai cột cùng chơi. Quả ném bằng bưởi. Người chơi đứng xếp hàng dọc trước cột. Từng người ném tung quả bưởi vào giỏ. Mỗi người được ném ba đến năm lần theo quy định. Rơi xuống đất được nhặt ném tiếp cho đến hết số lượt. Khi quả bưởi lọt vào giỏ là thắng. Không vào giỏ, hết lượt ra cho người đứng sau lên chơi. Nếu chơi hai cột, lập hai đội số người ngang nhau. Đội nào ném bưởi vào giỏ trước là được cuộc. Trò chơi ném giỏ xưa tổ chức ở hội làng Phù Ninh (nay là xã Ninh Hiệp) huyện Gia Lâm. Đấu gậy bảy Gọi gậy bảy vì độ dài của cây gậy trong trò chơi bằng tre hoặc bằng gỗ bào tròn sơn son, đều có độ dài bảy thước ta, tương đương 2,8m. Cứ hai người đương sức nhau thành một cặp chơi. Một người dùng gậy đánh, một người tay không đỡ. Cả hai mặc áo võ sĩ, thắt lưng gọn ghẽ, đầu chít khăn buộc múi phía sau. Vạch vôi một vòng tròn đường kính 5 - 6m làm sàn đấu. Vào cuộc, võ sĩ cầm gậy bằng hai tay, nhúng 2 đầu gậy vào vôi bột, để nếu đánh trúng đối phương còn dấu tích trên áo họ, rồi múa gậy vài lượt giống như xe đài khi đấu vật. Trống ngũ liên nổi lên. Võ sĩ cầm gậy lúc đánh dứ, lúc tạt ngang gậy, tìm cách đưa đầu gậy chạm vào mình võ sĩ đỡ. Người đỡ có thể túm lấy gậy, đẩy lùi đối phương ra ngoài vòng. Người đánh tìm cách không để bị túm gậy, lừa đánh trúng hoặc tạt gậy làm đối phương phải nhảy tránh bắn ra ngoài vòng. Ai bị gậy đánh trúng người để lại vết vôi hoặc ra ngoài vòng là thua. Trọng tài gõ một tiếng cắc vào tang trống báo hết hiệp. Cuộc chơi có thể nhiêuù hiệp do từng nơi quy định. Hiệp sau đổi lại vị trí người chơi. Đấu gậy có ở nhiều hội làng như Đại Lan (Thanh Trì), Lệ Chi (Gia Lâm). Trung bình tiên Cũng là đấu gậy, nhưng cậy gậy dài hơn và cả hai đấu thủ cùng cầm gậy đánh vào mình nhau. Cây gậy đầu buộc giẻ nhúng vôi. Người đấu đứng dạng hai chân, hơi khuỵu đầu gối, theo thế trung bình tấn của môn võ. Họ lừa nhau, tìm cách đưa đầu gậy đánh vào chỗ hiểm hoặc để lại trên mình đối phương nhiều dấu vôi trên áo võ sĩ là thắng. Đánh roi múa mộc Roi bằng tre vót nhẵn, đầu vuốt nhỏ để có độ dẻo lúc ra roi, đầu roi bịt vải đỏ để dễ nhận thấy. Mộc đan bằng tre, sơn đỏ có thể hình tròn hoặc hình chữ nhật góc vạt tròn. Hai đấu thủ tay cầm roi, tay cầm mộc vừa đánh, vừa đỡ. Phải đánh vào vai và vào sườn mới được tính điểm. Không được đánh vào đầu, vào mặt nhau. Con gái làng Mễ Trì (Từ Liêm) có tiếng giỏi võ. Ca dao Hà Nội cổ còn có câu: "Ai về Kẻ Mễ mà coi Con gái cũng giỏi múa roi, đánh quyền" Trong hội làng Đông Dư (Gia Lâm) có trò đấu võ, đánh roi múa khiên (mộc) cũng là một mục của 18
  20. cuộc đấu. Thi nâng Nâng cây phan ở hội làng Ninh Giàng (nay thuộc xã Ninh Hiệp, Gia Lâm). Cây phan được bó bằng 50 đến 100 cây tre đực nguyên cây, trong đó có một cây cao nhất để buộc cờ hiệu. Các giáp cử một số thanh niên bằng nhau, đều là trai chưa vợ khỏe mạnh, mỗi người trang bị một gậy tre đực dài 1m. Khi hiệu lệnh nổi lên, tất cả dùng gậy tre nâng cây phan đặt lên phản đá rồi cùng tác động xoay cây phan quay nhiều vòng, quay càng nhanh, cờ hiệu bay phất phới là năm ấy làm ăn tốt, dân làng thịnh vượng, các trai dự chơi đều được thưởng. Nếu cây phan không quay tít, cứ xoay ì ạch, cờ hiệu không bay là điềm năm ấy làm ăn khó khăn, đội chơi bị phạt không có thưởng. Nâng đá để tuyển trai đô ở hội làng Thủ Lệ (Voi Phục). Người thi phải xuống tấn, dùng hai tay bốc hòn đá to nặng 50 - 60kg lên khỏi mặt đất. Thi chạy Một trong những trò chơi rèn thể lực ở hội ba làng Thạch Cầu, Cự Linh, Ngô thôn nay đều thuộc xã Thạch Bàn (Gia Lâm) theo tục lệ có ba trò là: Làng Cầu đuổi lợn Làng Cự kéo co Làng Ngò chạy ngựa. “Chạy ngựa” của làng Ngò (Ngô thôn) chính là cuộc thi chạy. Trò thi chạy tổ chức vào hai buổi sáng trong hội làng mùa xuân đầu tháng hai. Thời gian kéo dài suốt hai giờ ta, từ giờ Tỵ đến hết giờ Ngọ (theo giờ tây là từ 9 đến 13 giờ). Đường chạy do làng quy định, phải từ làng Ngò qua làng Cự, làng Cầu cho đến sát cánh đồng làng Vo (xã Hội Xá) mới quay trở lại, chạy về đích là sân đình làng. Phải chọn những quãng đường mấp mô, khúc khuỷu, nhiều khúc ngoặt, có khi lội qua ao, qua hào, vượt rào để thử thách ý chí người dự thi chạy. Đường chạy có người giám sát để không được chạy tắt, tránh qua chỗ khó khăn. Ai về đích trước sân đình đầu tiên được giải của làng, năm ấy có nhiều may mắn. Đánh quân - chạy cờ Nhiều nơi có tục này như một trò chơi trong hội làng, mỗi nơi có những chi tiết khác nhau ở hình thức hoặc tính chất, nhưng tựu trung đều là một cách luyện quân, đánh trận giả. ở làng Triều Khúc gọi là “chạy cờ”. Tráng binh chia làm hai đội, mỗi đội 20 người, trang phục binh sĩ thời trước, thắt lưng khác màu. Người cầm cờ hiệu, người cầm đao, gậy, vũ khí khác. Nghe hiệu lệnh trống, từ sân đình, họ tỏa ra hai ngả theo đường vòng cung và gặp nhau giao chiến, đánh trận giả ở giữa cánh đồng cho tới khi có trống chiêng thu quân, lại quay về đình. Hội làng Vĩnh Ninh (nay thuộc xã Vĩnh Quỳnh, Thanh Trì), làng Chi Nam (xã Lệ Chi, Gia Lâm) đều có trò giao chiến hai bên “địch, ta” đánh lẫn nhau bằng tay chân, võ vật, có lúc cả bằng gậy gộc, ném đất vào nhau. Xong trận, lại vui vẻ chung mâm hưởng lộc thánh. ở làng Đại Lan (Thanh Trì) chỉ đấu gậy. Vùng Kẻ (Từ Liêm) có hội tập trận đánh quân của bốn làng Đống Ba (xã Thượng Cát), Hạ Trì (xã Liên Mạc), làng Tây Đam (xã Tây Tựu) và làng Thượng Cát. Trò luyện quân rất náo động có chiêng, trống, mõ, tù và truyền hiệu lệnh và đốc quân. Ngạn ngữ vùng này còn có câu: "Chiêng thôn Đống, trống Hạ Trì, mõ Tây Đam, tù và Thượng Cát". Đấu vật Hà Nội là một vùng đất võ, có nhiều đô vật, lò vật nổi tiếng từ xa xưa. Thời Hai Bà Trưng có đô 19
  21. Chinh làng Mai Động, sau thành tướng giỏi luyện quân theo Hai Bà đánh giặc. Ông được coi như thủy tổ của môn võ này. Đô Tu người Thanh Liệt sau làm tướng cho vua Lý Nam Đế xuất thân từ lò vật Quỳnh Đô (Thanh Trì). Huyện Đông Anh cũng có nhiều đất vật nổi tiếng như Cổ Loa, Dục Tú, Nam Hồng huyện Từ Liêm có lò Mễ Trì, Gia Lâm có Văn Đức, Đông Dư. Hội đấu vật lớn nhất trong các hội làng là ở Mai Động vào ngày 4 đến mùng 6 Tết. Thanh Trì còn lò Yên Sở cũng khá nổi danh. Sới vật thường ở trước sân đình. Hai bên trải chiếu hoa để các đô vật lễ thần trước khi đấu. Quanh sân cắm cờ ngũ hành. Hai trống cái cho già làng cầm trịch, đánh ba tiếng một, điều khiển trận đấu. Lại cử ba người tuần, một người đánh trống bưng thúc lúc đang vật, cổ vũ đua tài, hai người cầm cờ đuôi nheo nhỏ phất hiệu vật. Các đô vật đều cởi trần, đóng khố. Vật có nhiều giải. Giải thờ hoặc giải hàng là để mở đầu cuộc đấu, khảo sức nhau, thăm dò, biểu diễn để phô trương thanh thế là chính. Keo vật lấy vui, lấy đẹp, vờn nhau, không gay go, quyết liệt như khi đấu giải chính. Lệ vật, muốn thắng phải nhấc bổng đối phương lên khỏi mặt đất, gọi là “bốc”, hoặc vật ngã ngửa "lấm lưng, trắng bụng". Nếu chỉ mới ngã sấp thì chưa thua. Bên gặp tình thế này thường nằm bò áp đất, lừa địch thủ từng miếng không để họ bốc lên, chân rời đất hoặc lật ngửa ra. Đấu giải thường từ giải ba lên dần đến giải nhất. Mỗi giải đều có người đứng ra giữ. Người giữ phải thắng hơn người phá giải một keo theo quy ước chung là: giải ba trong bốn, ngoài ba; giải nhì trong năm ngoài bốn; giải nhất trong sáu ngoài năm. Người giữ giải phải thắng sáu keo mới đoạt giải nhất, còn người phá giải chỉ cần thắng liền năm keo là được. Vào sới vật, hai đô bao giờ cũng mở đầu bằng “xe đài”, múa tay, di chuyển chân uyển chuyển rồi mới lựa thời cơ ra miếng hạ đối thủ. Có nhiều miếng nghề như: ngáng, đệm, cuốn chỉ, ra ràng, bắt bò, nhoài, xốc, bốc, đội Nhưng trong cuộc đấu cấm đánh hiểm như móc hàm, móc nách, móc xương quai sanh hoặc nắm tóc nhau. Đấu vật luôn tạo ra không khí hào hứng, sôi nổi, tiếng cổ vũ reo hò âm vang cùng tiếng trống thúc giòn giã. Các đô vật mồ hôi nhễ nhại, nổi cuồn cuộn những bắp thịt săn chắc. Đấu vật vừa đọ sức, vừa đọ trí, không thể chỉ ỷ lại vào thế mạnh, có khi bị đối thủ nhẹ cân hơn lừa miếng đánh phơi trắng bụng. Kéo co Trò chơi luyện sức và thể hiện ý chí hiệp đồng tập thể. Dễ chơi, thường được tổ chức trong các hội làng với nhiều hình thức. Tiêu biểu hơn cả trong vùng Hà Nội là hội kéo co làng Cự (tức Cự Linh, nay là thôn Ngọc Trì, xã Thạch Bàn, huyện Gia Lâm). Dây kéo có thể dùng dây song, dây chão to bằng tre hoặc đay, thậm chí dùng cả cây tre để kéo. Cũng có lúc không có dụng cụ thì hai người đầu dây nắm chặt cổ tay nhau để cả dây ôm lưng nhau cùng kéo. Người chơi chia làm hai phe đều nhau, đối mặt theo một hàng dọc, theo lệnh hiệu cờ cùng kéo về bên mình. Chính giữa dây kéo được buộc đánh dấu bằng túm vải đỏ, đặt trên vạch vôi phân ranh giới giữa hai phe. Nếu bên nào lôi được túm vải đỏ dịch sang địa phận của mình là thắng. Lúc đã chuyển nhích được một ly là có cơ dồn lực lôi tuột dây về phía mình làm đối phương mất đà ngã chồng lên nhau. Phe nào có người tuột tay ngã ngửa cũng bị thua. Mỗi hiệp khoảng 10 - 15 phút, không phân thắng bại, trọng tài phất cờ cho nghỉ lấy lại sức rồi đấu tiếp. Cuộc thi kéo co ở làng Cự do 48 tráng đinh có phẩm hạnh được các giáp cử ra làm giai kéo, chia thành hai phe gọi là “Man đường” và “Man chợ” đấu với nhau. Giai kéo đều cởi trần đóng khố điều. Dây kéo là một sợi song to bằng cổ tay, nhẵn nhụi dài khoảng bốn chục sải tay. Dây luồn qua lỗ một cây cột trụ to, chôn rất chắc xuống sân đình. Trước khi đấu dây song được nêm chặt ở lỗ cột. Sau khi làm lễ thánh, hai phe dàn đội hình. Các giai kéo ngồi một chân co, một chân duỗi, 20
  22. xen kẽ người quay mặt bên này, người quay mặt bên kia dây, một tay nắm dây duỗi thẳng cánh, một tay nắm dây co trước ngực lại còn cặp dây vào dưới nách. Mỗi phe có một tổng cờ, mặc áo dài đỏ, khăn đỏ, quần trắng, cầm cờ lệnh màu đỏ. Già làng cầm trịch phát lệnh bằng trống khẩu. Nêm được tháo. Tổng cờ phất hiệu cờ, miệng hô “í a, kéo!” rồi chạy lên, chạy xuống đốc thúc giai kéo của phe mình. Các cô, các bà người thân của bên nào thì dùng quạt quạt, lấy khăn lau mồ hôi, cắt cam chanh đưa vào miệng cho người phe mình. Có người còn lấy dầm chèo khoét đất ở dưới chân cho giai kéo có chỗ tì đạp. Người kéo đầu dây phải vừa mạnh, vừa khôn ngoan, biết ghìm dây, lúc cương, lúc nhu để đối phó với từng phút cao điểm dồn lực của bên kia. Đua thuyền - bơi chải Sống ở vùng sông nước, đua thuyền đã trở thành truyền thống trong lễ hội từ lâu đời ở nước ta. Sử cũ từng ghi vua Lê Đại Hành là người đầu tiên tổ chức đua thuyền để rèn luyện thủy quân, đồng thời gắn liền với tín ngưỡng cầu nước cho mùa màng tốt tươi. Thời Lý đã cho xây dựng cung điện ở bờ sông Hồng như Hàm Quang (1011), Linh Quang (1058) để vua, quan ngồi xem hội đua thuyền. Các triều đại về sau vẫn giữ nếp, dần dần đưa vào hội làng, trở thành sinh hoạt văn hóa cổ truyền của cư dân hai bên bờ sông Hồng, sông Đuống, sông Nhuệ và ở cả các làng bên hồ Tây. Đua thuyền còn gọi là bơi chải - chải cũng là tên gọi các thuyền đua. Hà Nội có hàng chục làng có tục bơi chải như Yên Duyên, Vĩnh Tuy (Thanh Trì), Bồ Đề, Thổ Khối (Gia Lâm), Vĩnh Thanh, Võng La, Tầm Xá (Đông Anh), Yên Phụ, Nghi Tàm (Tây Hồ), Thượng Cát, Thụy Phương, Tây Tựu, Phú Diễn (Từ Liêm). Nổi bật hơn cả về quy mô hoành tráng là hội bơi chải làng Đăm (Tây Tựu). Đua thuyền - bơi chải ở mỗi làng có quy cách và thể lệ khác nhau. Kích thước thuyền có dài, có ngắn, nên số tay bơi (người chèo) cũng nhiều ít thay đổi. Thông thường thuyền thoi đóng bằng gỗ, đầu chạm hình rồng, hình hạc, đuôi tôm. Làng chài Võng La lại đua thuyền độc mộc, làm bằng cây gỗ khoét rỗng lòng. Nghi Tàm đua thuyền nan. Tùy thuyền to nhỏ mà số tay bơi được quy định: Tây Tựu 24 người, Thụy Phương 8, Bồ Đề 12, Thượng Cát 16, Yên Duyên 18, Nghi Tàm thuyền nan chỉ có 2 đến 4 tay bơi. Trên mỗi thuyền to lại còn có người lái, người tát nước, ông bay, ông lệnh, ông mõ, ông cờ để phối hợp phục vụ và chỉ huy thuyền đua. Số đội bơi tương ứng với số thuyền, thường mỗi giáp cử ra một đội. Có hội chỉ bơi một lần, một ngày, lại có hội hai, ba ngày. Hội bơi chải Yên Duyên ngày đầu bơi thờ, ngày thứ hai bơi bò - còn gọi bơi dạo, đến ngày thứ ba mới là bơi giải. Mỗi ngày bơi ba lèo, mỗi lèo ba vòng trên đoạn sông dài khoảng 1 cây số. Hết một lèo lại phát giải. Già làng cầm trịch ngồi trên chòi trống, kết hoa lá, tám mái dựng trên bờ đê áp sông. Bơi chải của làng chài Võng La bằng thuyền độc mộc với 6 tay bơi và một lái. Hội làng Bồ Đề có 8 chải, đua từ đền Ghềnh đến thôn Lâm Du, cờ ngũ sắc cắm dọc bờ sông Hồng. Các tay bơi vừa chèo vừa hò cho ăn nhịp lúc thì “ớ khoan khoan cho đều, ớ khoan!” lúc thì ông lệnh hô: “Thẳng cánh ra!”, tất cả hò “dô huầy!”, - “Thấp vai xuống!” - “Dô huầy!”, “Ngẩng cổ lên! - Dô huầy!”. Họ còn ghìm cản thuyền nhau. Chải nào bị đắm, họ hò nhau lật lại thuyền, tát nước, bơi tiếp. Làng Vĩnh Tuy xây một nghè bơi ở ngoài đê, có ngòi nước lượn quanh; năm nước đầy thuyền đua từ nghè ra sông vòng lại nghè khoảng 4 cây số; năm nước cạn, đua thuyền vượt sang sông Hồng rồi quay về nghè bơi làm đích. Trước khi bơi còn làm lễ tế vua Hà và thủy quan tại nghè. Nghi Tàm, Yên Phụ đua thuyền ở Hồ Tây. Nghi Tàm với 4 thuyền nan của hai giáp Thượng, Hạ. Mỗi thuyền hai trai đô đóng khố đỏ, bơi ba vòng hồ, cuối đường đua cắm ba lá cờ màu tương ứng với giải nhất, nhì, ba, thuyền nào cướp được cờ gì quay vào bờ nhận giải ấy. Yên Phụ thuyền 12 tay bơi, đường đua từ sau đình ra chùa Trấn Quốc. Cũng có năm lại bơi sang chỗ mỏ Phượng (nay ở trong khu trường Chu Văn An). Bơi chải Thượng Cát có 6 đội bơi, 3 đội nam và 3 đội nữ, mỗi đội 16 người. Đua theo giới, lần lượt cứ một đội nam lại đến một đội nữ, bơi vòng trong đầm ba lượt. 21
  23. Làng Vĩnh Thanh - còn có tên nôm là làng Ruộng - đua ở hồ làng. 4 giáp, 4 thuyền: hai chạm đầu rồng, hai thuyền đầu hạc. 12 tay bơi là nữ cả, nhưng lại có 5 ông gõ mõ, phất cờ, hô lệnh, lái, tát nước cho các cô. Gái bơi đều chưa chồng, áo cánh màu chàm, quần đen buộc túm, chít khăn mỏ quạ, yếm đào, thắt lưng hoa hiên. Làng Đăm (Tây Tựu) có hội bơi chải từ thế kỷ XV. Nhà thủy đình xây gạch lợp ngói soi bóng xuống khúc sông Nhuệ làm đường bơi. Ban chấm thi ngồi quan sát tại đây. Trai bơi ngồi hai bên mạn chải, tay cầm chèo. Người chấp lệnh và chèo lái mặc áo thụng xanh, quấn khăn và thắt lưng bằng lụa màu. Sáu thuyền đua dàn hàng chữ nhất trước điểm xuất phát. Lệnh pháo vừa nổ, các mái chèo đồng loạt bổ xuống nước đưa chải vun vút trên sông theo tiếng hô, nhịp phách gõ của ông lệnh. Trên sông, cắm những cờ tiêu đuôi nheo màu đỏ để các thuyền tới đó vòng lại. Từ xưa đã có câu ca "Làng Đăm có hội bơi thuyền Có lò đánh vật có miền trồng rau" Bơi Đăm là hội đua thuyền sôi nổi, hào hứng thu hút hàng vạn du khách về xem vào ngày lễ hội hằng năm - mồng 10 tháng Ba âm. Ngoài trò đua chải, trong hội Chèm còn có tục rước nước bằng thuyền, đoàn thuyền từ đình bơi ngược lên Liên Mạc, lúc quay xoay tròn trên sông ba vòng, miêu tả lại cuộc giao tranh thời xưa với thủy quái. ở hội Thượng Cát, diễn tích hai nữ tướng Đinh Bạch Nương và Đinh Tĩnh Nương mặc áo gấm vàng, đi hài, cắp gươm, đứng uy nghi trên thuyền với các tay chèo đều là nữ, sắc phục lộng lẫy như thời dấy quân theo Hai Bà Trưng chống giặc Hán. Đi cầu tre Một cây tre bương to, dài 5m, phạt hết cành, đánh sạch mấu, chôn gốc sâu vào bờ, lèn chặt, để thân cây tre nhô ra ao, nằm trên mặt nước một hai gang tay. Gần đầu ngọn tre cắm một cây cọc, trên buộc một quả pháo. Người dự thi nam nữ đều được, ăn mặc gọn gàng, thắt lưng buông múi, tay cầm một nén hương cháy. Nghe trống hiệu, người dự thi từ bờ bước xuống cầu tre đi dần ra phía ngọn ở giữa ao. Cây tre tròn, bập bềnh, càng đi ra xa càng bị chìm xuống dưới mặt nước, thân tre tròn, trơn nước dễ ngã. Có ngã cũng phải cố giơ cao nén hương để không bị tắt mới có thể lội vào bờ đi lại. Ra đến múp đầu cây tre, người đã ngập nước đến đầu gối, phải dang tay giữ thăng bằng, một tay níu lấy chiếc cọc, một tay châm ngòi pháo. Có khi đi được đến đích không sao, khi châm pháo nổ, lại giật mình ngã tòm xuống nước. Tuy bị ướt hết, nhưng vẫn đoạt giải, có điều nếu ai châm pháo xong, người vẫn khô được giải cao hơn. Đó là trò “đi cầu tre đốt pháo” ở hội làng Bồ Đề (Gia Lâm). Còn ở vùng Bưởi, nhiều làng giấy cũng có trò đi cầu tre gọi là “Đi cầu mai”. Cách làm cầu có khác. Đóng ba cọc tre ở giữa ao đầy nước, một cọc ở bên bờ. Cột một cây tre bương to nối hai điểm cọc. Ngọn tre cột chặt vào ba cọc giữa ao. Gốc tre trong bờ buộc lỏng lẻo để cây tre có thể xoay đảo được. Đầu ba chiếc cọc giữa ao có treo các gói giải thưởng phong kín. Cây tre đặt cách mặt nước khoảng 1m để khi người thi ra đến giữa, cây tre võng xuống cũng không chặm mặt nước. Chân người dự thi đi đất, tre tươi dính bùn, trơn, lại lúc lắc một đầu rất khó đi. Mất thăng bằng là ngã tòm xuống ao, ướt như chuột lột. Người xem reo hò cổ vũ rất vui. Người ngã được lội vào bờ đi lại. Ngã nhiều quá, nản thì thôi. Khi có ba người ra đến đầu ngọn tre giật được ba gói giải thì mãn cuộc. Đuổi lợn Làng Cầu (xã Thạch Bàn, Gia Lâm) có tục mổ lợn tế thần và chia cho dân làng khi vào đám. Hàng giáp phân công mỗi xóm nuôi một lợn cúng thần. Chúng được nuôi vỗ béo, lại là lợn đực giống chạy rất nhanh, khỏe. Đến ngày làm lễ, lợn được tắm rửa sạch sẽ, rồi đem bốn con thả vào sân đình có rào tre xung quanh. 22
  24. Trai làng dự trò chơi đuổi lợn, luân phiên nhau từng người một, sau khi làm lễ thần, mở rào vào trong sân đuổi bắt lợn trong tiếng trống cái thúc ngũ liên và người xem reo hò quanh rào. Lợn nghe trống và tiếng reo hoảng sợ chạy nháo nhào trong sân rộng, đuổi theo nó đã khó lại phải làm sao tóm được thật nhanh hai chân sau để vật ngửa lợn ra mà trói lại. Cho nên phải có mưu mẹo, lừa miếng, cho đỡ tốn sức. Ai đuổi mãi không bắt được lợn, mệt đứt hơi đành phải nhường phiên cho người khác. Cuộc thi cứ thế kéo dài cho đến lúc có bốn trai làng bắt được đủ bốn con lợn mới thôi. Cho nên, đã có năm, đến tận đêm mới bắt hết lợn. Bốn trai làng bắt được lợn vừa đoạt giải thưởng, vừa được vinh dự ngồi ăn cỗ làng ở chiếu nhất. Bắt chạch trong chum Trò chơi này thường diễn ra ở các hội làng Kinh Bắc, Phú Thọ, Vĩnh Yên ở Hà Nội có làng Hồ Khẩu, vùng Bưởi. Đặt một hàng chum trước sân đình, đủ cho số cặp đăng ký dự chơi. Mỗi cặp là một đôi nam nữ chưa chồng, chưa vợ. Gái áo cánh trắng hoặc hoa đào, khăn hồng, yếm đỏ, áo tứ thân, bao xanh, cài dây sà tích bằng bạc. Trai áo cánh lụa, quần ống sớ, thắt lưng màu bỏ đọt cạnh sườn. Trống phát lệnh ba hồi. Từng cặp làm lễ thần hoàng trước ban án, lễ xong; trai đưa cánh tay trái ôm ngang lưng, bàn tay xòe bóp nhẹ vào ngực bạn gái, còn cô gái đưa cánh tay phải ôm ngang lưng trai. Họ vừa đi về phía chum chạch vừa hát những câu ca giao duyên. Đến cạnh chum, họ vẫn đứng trong tư thế ôm nhau, một tay xoa lưng, sờ ngực nhau, còn một tay cùng cho vào chum khoắng tìm bắt chạch. Hai mặt phải đối diện, bốn mắt nhìn nhau. Các bô lão cầm trịch bắt bẻ từng động tác. Tất cả đều phải cùng làm: bắt trạch, xoa ngực, nhìn nhau, mải việc này, lơ đãng việc kia là đều bị lỗi. Cùng với tiếng reo hò, trêu ghẹo của dân làng, tiếng chiêng trống lúc dồn dập cổ vũ, lúc gõ từng tiếng báo phạt. Cặp nào làm đầy đủ các động tác quy định ít phạm lỗi, bắt được chạch trước là đoạt giải. ở làng Hồ Khẩu, cũng bắt trạch như thế, chỉ khác là thay động tác sờ ngực, xoa lưng bằng chàng trai đưa tay trái cầm lấy cổ tay phải của cô gái. Trong lúc bắt chạch, cô gái tìm cách rút tay ra, chàng trai phải cố nắm giữ lấy, nhưng nhẹ nhàng, không làm đỏ cổ tay cô gái thì mới đạt yêu cầu. Cặp nào bắt được chạch trước mà cổ tay cô gái đỏ hằn vết tay nắm cũng không được. Thổi cơm thi Có nhiều hình thức thổi cơm thi khác nhau, nhưng mục tiêu cuối cùng phải đạt được là nồi cơm chín nục, chín đều, không rắn, không nát, không sống, không khê. Thường lệ mỗi giáp của làng cử ra một đội thi. Mỗi đội 5 hoặc 10 người tùy theo các môn thi nhiều hay ít. Mỗi đội ăn mặc áo quần, dây lưng, yếm cùng màu. ở hội làng Huỳnh Cung (xã Tam Hiệp, Thanh Trì) mỗi đội 5 người: 2 trai kéo lửa, 1 trai múc nước và 2 gái thổi cơm. Còn ở làng Thị Cấm (xã Xuân Phương, Từ Liêm là 10 người: 4 người xay thóc giã gạo, 1 người dần sàng gạo, hai người kéo lửa, 1 người lấy nước, 2 người nấu cơm. Đội có cả nam nữ, tùy công việc mà đặt người. Số người gấp đôi vì có thêm phần thi xay, giã, dần sàng gạo. Phần thổi cơm thi chia làm 3 mục: Mục 1 - Thi chạy lấy nước. Mỗi giáp 1 người cầm bình đồng chạy xa khoảng 500m lấy nước vào bình rồi chạy về chỗ nấu cơm. Ai về trước, còn đủ nước vo gạo thổi cơm là thắng. Mục 2 - Thi kéo lửa, hai nam dùng hai thanh dang già, gác bếp lâu ngày, cọ vào nhau cho đến khi bật lửa bén vào bùi nhùi. Mục 3 - Thổi cơm thi, hai cô gái tiếp lửa, nhóm bếp thổi cơm. Thổi niêu đồng hoặc niêu đất. Chất đốt bằng củi nứa, nùi rơm hoặc bã mía còn tươi. Có nơi chia cho mỗi đội mấy cây mía, vừa ăn vừa lấy bã đun bếp như ở Nghĩa Đô. Nồi cơm nào chín trước, cơm trắng, dẻo thơm là đoạt giải. Bát cơm nhất, nhì được dâng cúng 23
  25. thành hoàng. Các hội làng Yên Mỹ (Thanh Trì), Đại Mỗ (Từ Liêm) cuộc thi cũng tương tự. Có nơi bày thêm những khó khăn cho người thổi cơm. Thí dụ: Cô gái thổi cơm phải bế một đứa bé dăm bảy tháng tuổi (con người khác) dỗ sao không khóc, lại phải chăn một con cóc không cho nhảy ra ngoài vòng vôi. Có nơi như Tây Mỗ (Từ Liêm) phải vừa đi vừa thổi. Người thi cột phía sau lưng một chiếc cần tre uốn cong sà xuống trước mặt, nồi đất thổi cơm đánh đai quang treo bằng dây kim loại, buộc vào đầu cần tre. Vừa đi theo nhịp trống không được dừng, vừa đưa bó nứa cháy lửa vào đít nồi để cơm mau chín, chín đều. Gió tạt lửa vào mặt, vào ngực nóng ran, các cô gái đều đỏ hồng đôi má càng thêm xinh. Đến đích, trống báo kết thúc, kiểm tra nồi cơm nào chín nục là đoạt giải. Làng Đồng Lầm (nay là phường Phương Liên) có lệ thổi cơm thi trên thuyền ở ao làng. Ao rộng, bốn bề quẩn gió, rất khó chụm lửa, lại lo thuyền lật. Làng Tây Tựu (Từ Liêm) hội thi thổi cơm trên thuyền chỉ khác nhau vài chi tiết nhỏ. Làng Hạ Mỗ (huyện Đan Phượng) giáp ranh Hà Nội cũng thổi cơm thi trên thuyền. Mỗi cô dự thi tự chọn cho mình một trai làm chân sào. Nồi cơm cũng treo trên cần thả trước ngực. Ban giám khảo phát cho mỗi cô nồi, đuốc, đũa cả, diêm, gạo như nhau. Nước do các cô liệu cho. Thuyền nan dàn ngang dưới ao. Nghe 3 hồi trống lệnh, các đấu thủ mới ào xuống thuyền. Các tay sào chống cho thuyền đi theo đường đã cắm tiêu, đi chậm bị trống chỉ huy thúc. Vào khúc lượn phải vượt nhanh để tránh bị chèn. Thuyền hai người bập bênh, đu đưa rất khó đưa lửa tập trung đáy nồi. Vòng nào cũng có người ngã xuống nước, có khi lật thuyền. Phải cố giữ cho đuốc không tắt, nồi không đổ, để còn cứu thuyền, tát nước, nhảy lên tiếp tục cuộc thi. Ai thổi chín cơm, đưa thuyền về nơi xuất phát, cắm thuyền hàng ngang, đợi Ban giám khảo đi nếm cơm từng thuyền, xếp giải nhất, nhì, ba, rồi mới được lên bờ dự lễ trao giải. Thả chim câu Thi thả chim câu là thú chơi tao nhã, lành mạnh, tương truyền có từ thời các vua Lý, thịnh hành nhất là vùng đất Kinh Bắc xưa. Các làng Dục Tú, Cổ Loa (Đông Anh) Chèm (Từ Liêm) thường mở hội thả chim câu trong lễ hội. Những năm sau hòa bình, thành phố có lệ hội thả chim câu ở đền Ngọc Sơn trên Hồ Gươm vào dịp kỷ niệm ngày sinh Bác Hồ. Đàn chim dự thi phải đủ 10 con, giống nội thuần chủng, phần lớn là chim nâu và chim đen, vì chim bồ câu trắng yếu hơn. Mỗi đàn nhốt trong một lồng tre, đáy lồng rời, buộc lại vào lồng bằng dây lèo. Khi thả chim, đặt lồng lên bàn, chủ đàn tay cởi dây lèo, tay quạt quạt giấy cho đàn chim khởi động, vón cục lại, đến độ chín, mở cả lồng ra lấy quạt gạt cho cả đàn bay lên trong tiếng trống đổ hồi. Nơi thả chim phải là bãi rộng, thoáng, thường là trước cửa đình làng. Ban chấm thi chia làm hai trịch: “trịch ngoại” ở ngay nơi thả chim, thường do một lão nông quắc thước, quần áo lễ hội, chít khăn nhiễu, thắt đai lưng đen, cầm dùi trống cái, ra hiệu lệnh cho từng người dự thi vào lần lượt thả chim; “trịch nội” tập trung ở sân rộng một ngôi nhà gần đó, có một thau to đựng đầy nước soi rõ bóng từng đàn chim bay trên bầu trời. Khi đàn chim dự thi theo con đầu đàn lượn một vòng quanh điểm thả rồi thu đội hình xoắn ốc bay lên thì “trịch nội” đánh ba tiếng trống khẩu, báo hiệu đã nhận đàn vào vòng chung khảo. Đàn chim phải bay qua ba tầng hạ, trung, thượng mà không được phạm lỗi. Càng lên cao cả đàn càng bó chụm lại, vòng lượn nhỏ dần, bốc nhanh, dóng thẳng giữa trịch, trước còn to sau nhỏ dần, đến tầng thượng cả đàn chỉ bằng miệng chén, không trông thấy cánh vỗ là được, gọi là “thượng ly trung chính”. Những lỗi thường mắc là bay hơi chếch gọi là “tiểu biên”, bay kéo dài là “đại tràng”, bay con nhanh, con chậm là “tiểu tùy” hoặc “đại tùy”, không bó đàn là “đại sớ”, một con vọt lên trước đàn là “tiên nhàn nhất chích” đều bị phạt điểm, phạm quy. Lại không được vỡ hội hoặc nhập đàn. Chim bồ câu là “nghĩa điểu”, sống theo đàn, có tính đồng đội cao và khả năng định hướng tốt. Qua rèn luyện, cần nhất là vỗ con chim đầu đàn, thả từ gần nhà đến xa dần, đến khi thả cách xa vài chục cây số chim vẫn về nhà là đưa đi thi được. Nuôi chim dự thi rất công phu, vất vả, tốn kém. Phải chọm lựa trong 30 - 40 con mới được một đàn đồng đều. Phần lớn người nuôi chim dự thi đều ở các làng ngoại thành, ven sông Hồng, sông Đuống. Chọi gà 24
  26. Chọi gà không chỉ chơi trong ngày hội mà có mặt bất thường ở sân bãi có hẹn với nhau. Trò chơi này có từ lâu và đã từng làm lắm người đam mê, nên thành ngữ có câu: "Đông như đám chọi gà". Cũng vì vậy, trong “Hịch tướng sĩ” của Hưng Đạo Vương từng khuyên răn, nhắc nhở đừng mê gà chọi mà lãng quên luyện rèn quân sự vì "cựa gà sắc không đâm thủng áo giáp giặc" ở Hà Nội có nhiều vùng nuôi gà chọi nổi tiếng như Yên Phụ, Quảng Bá, Nghi Tàm, An Phú, Nghĩa Đô, Sinh Từ (nay là phố Nguyễn Khuyến) Tây Tựu có giống gà “Tông còi”, nhỏ, nhẹ nhưng nhanh nhẹn gan dạ, đánh thắng cả loại gà lớn hơn, nặng hơn. Các hội làng có chọi gà như Đông Dư, Linh Quang. Gà chọi phải chọn giống gà nòi, có chế độ chăm sóc nuôi dưỡng đặc biệt, vỗ hàng năm, rồi mới vần cho gà ghép tập đá, rèn luyện sức dẻo dai. Mỗi con thường có miếng hiểm, đòn mé riêng của mình. Đánh, đỡ, tiến, lui đều có tên gọi. Chọi phải từng đôi tương đương với nhau về chiều cao và cân nặng. Nếu chênh lệch quá, con mạnh hơn phải dùng vải bọc cựa để giảm sức đánh. Cho gà chọi ở sân đất hoặc trên bãi cỏ phẳng, có đất chung quanh rộng cho người xem quây vòng tròn. Mỗi trận đấu, nếu đấu giải từ 7 đến 10 “hồ” (hiệp đấu từ 15 đến 20 phút), giữa hai hiệp có “khuya hồ” (là nghỉ từ 3 đến 5 phút). Còn đấu giao hữu, gọi là “lèo” chỉ cần 5 hồ. Lại có thể giao ước đấu đến “kỳ tẩu, kỳ tử” nghĩa là tới khi một con bỏ chạy hoặc chết ngay tại trận. Nếu chủ gà thấy gà mình núng thế, muốn gà đỡ bị hại có thể xin dừng cuộc đấu, tức là chấp nhận mình thua. Chọi chim Thường là chim họa mi, loại hùng điểu, vương điểu, có ý chí chiến đấu cao. Chim nuôi từng cặp trống mái. Cũng phải nuôi dạy, vỗ béo, vỗ nóng tập luyện như nuôi gà chọi. Trận đấu có bốn lồng nhốt hai cặp chim, đặt đối diện, cửa lồng hai chim trông áp sát nhau, ngăn bằng mảnh gỗ mỏng che cho chim không thấy đối thủ. Phát lệnh đấu, trọng tài rút miếng gỗ ra, mở đầu cuộc chiến. Con nào nhảy xuống cầu trước 3 lần mà đối thủ không xuống là thắng. Con thua bị loại ngay. đưa cặp khác vào đấu tiếp. Chỉ hai con trống chọi nhau, còn hai con mái làm nhiệm vụ “xùy” cho bạn tình xông lên, cổ vũ cả bằng giọng hót, lại có lúc cầm trịch cho con trống tạm lùi, nghỉ ngơi. Con mái góp phần quyết định vào mỗi trận đấu. Hội làng Đồng Lầm (Kim Liên) thường có chọi chim. Chọi gà, chọi chim giải thưởng không to, nhưng vinh dự của người chủ nuôi chiến thắng là niềm tự hào rất lớn. Chọi dế Tháng năm, lúa chiêm chín vàng, châu chấu ra nhiều là đến mùa chơi chọi dế. Thường được đám trai choai choai ưa thích. Dế chọi chọn loại mình thuôn, cánh hoa, tiếng gáy to, tính hung hăng, gặp nhau là húc đầu chọi, có tên gọi “dế mèn”. Phải lùa sợi lạt giang khua khoắng hoặc đổ nước vào hang cho dế ra là chộp lấy. Nuôi dế trong hộp cho ăn sương đêm, cỏ non, miếng khoai lang, thỉnh thoảng cho nếm chút rượu để gây máu hiếu chiến. Chỉ lấy con dế đực để chọi. Phải cho nó đấu thử để làm quen vài ba trận. Chiếc mâm cát đặt trên bàn. đưa hai con dế vào sân đấu. Nó nhìn nhau giữ miếng, khe khẽ gáy rồi tiến lại gần nhau. Bất ngờ chống càng, ghé miệng cắn, ghì chặt nhau, lừa miếng tung càng đá hậu. Lúc đã mệt, lùi ra nhưng vẫn gáy khiêu khích. Con nào thấy yếu hơn, có vẻ mệt mỏi, chủ dế lấy tóc buộc vào càng nó xoay tít làm nó say. Thả xuống là nó hung hăng xông vào chọi cho đến được thua ngã ngũ mới thôi. Con dễ đã bị thua một lần được gọi là “dế vỡ” để khỏi lẫn với các con chưa thi đấu lần nào. Thả diều Chơi diều chủ yếu ở các làng bên sông, có vùng bãi rộng, có triền đê cao lộng gió, thả sức nới dây cho diều lên cao không vướng mắc. Diều làm say mê mọi lứa tuổi, thú chơi trang nhã của đồng quê. 25
  27. Tùy lứa tuổi mà làm các loại diều khác nhau. Có loại lớn bồi bằng vải, hoặc hai lượt giấy bản phất cậy, dài tới vài mét, hình cánh cung vút cong như một vầng trăng khuyết. Có thể đặt một hay nhiều sáo. Sáo có bốn loại thể: - “Sáo cồng” bằng cả ống tre dài hai gang, khoét lỗ sao cho lọt gió, thổi nên tiếng âm vang giống tiếng cồng. - “Sáo đẩu” có tiếng kêu rền rĩ như than thở. - “Sáo còi” tiếng phát ra the thé. - “Sáo chim” nghe giống như chim hót. Khung diều phải làm bằng tre cật vót nhẵn, kết cấu bằng các khung nan ngang dọc, các chạc giằng bằng mây, tạo được thế cân bằng. Diều phải có dây lèo như một thứ bánh lái điều chỉnh thăng bằng, đỡ cho hai cánh diều không bị gió bẻ gẫy. Dây thả nối vào dây lèo làm bằng tre cật già không có đốt kiến, sâu mọt, vót đều, nối chắc lại với nhau cho dài dăm trăm sải tay. Cũng có nơi làm dây mây. Lại phải đem luộc cho thêm độ dẻo. Làm diều là một nghệ thuật, thả diều đòi hỏi kỹ thuật cao. Diều lớn phải năm sáu người nâng cho cân hai cánh, lựa chiều gió đâm thẳng vút lên, người kéo dây chạy đưa đà cho diều cứ thế bốc dần lên, không chao đảo, không sậm sựt. Càng lên cao, nong gió, tiếng sáo mới âm vang, tỏa rộng, ngân đều. Trẻ em làm diều cánh cung loại nhỏ, loại nhỡ, có sáo con hoặc không. Đơn giản nữa làm diều cánh phản, khung tre hình vuông, có chùm đuôi dài bằng giấy bay lất phất, cũng vui lắm. Từ thả diều chơi, người ta đi tới thi diều sáo, thả vào lúc hoàng hôn, rồi để diều cứ bay qua đêm, qua vài ngày, nghe tiếng sáo, tính độ cao, nhìn dáng bay đẹp không chao lắc, dây diều không võng mà định giải. Lại còn thi chọi diều, điều khiển dây cho hai diều đấu đầu nhau, đánh nhanh, đánh mạnh, đánh trúng làm hỏng diều đối phương càng nhanh càng tốt. Nhưng có lẽ thi diều hay hơn là chọi diều, phá hoại công trình của nhau thì có được giải cũng chẳng mấy thích thú. Đánh đu Từ lâu đời, các làng hai bên bờ sông Đuống đều có chơi đánh đu trong ngày hội làng, ngày Tết như Dương Xá, Kim Sơn, Ninh Hiệp, Yên Thường, Đông Dư ở huyện Đông Anh có Cổ Loa, Dục Tú, Liên Hà, Nam Hồng Thanh Trì có Thanh Liệt, Tứ Hiệp, Vạn Phúc, Vĩnh Quỳnh Từ Liêm có Tây Tựu, Dịch Vọng, Mễ Trì "Khen ai khéo dựng đu này Để cho trai gái chơi ngày chơi đêm" Ca dao cổ đã ca ngợi trò đánh đu như vậy. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương từng miêu tả: "Trai đu gối hạc, khom khom cật Gái uốn lưng ong, ngửa ngửa lòng" là nói về thứ đánh đu bay này! Đánh đu phải từng cặp nam nữ, người dún kẻ dừng, thay nhau đưa dần cho cần đu dần lên bổng, tới lúc ngang cần, hai người như đè lên nhau, áo khăn quấn quít vào nhau, mới chịu ôm cần đu để cho đu hạ dần, tới lúc chậm lại đã có người bắt đu dừng hẳn cho đôi khác lên thay. Cây đu trồng bằng 6 hoặc 8 cây tre theo thế chân kiềng, chụm đầu vào nhau, câu kết bằng xà đu. Từ xà đu có hai cái gông nối với tay đu hoặc cần đu để tạo khớp cần thiết cho đu chỉ lên tới mức độ nào đó, không cao quá nguy hiểm. Tay đu phải chọn tre đực, bánh tẻ, vừa tầm tay nắm, không có đốt kiến, đảm bảo an toàn cho người lên đu. Trồng cây đu xong, phải được già làng có kinh nghiệm kiểm tra cẩn thận, làm lễ, rồi lên khai đu, nổi trống gọi người xem hội tụ. Nơi trồng cây đu phải thoáng đãng, rộng, không gần cây cối, có chỗ đứng xa cho nhiều người xem. Giải thưởng thi đu được gói buộc vào đầu cành tre nhỏ như cần câu dài, đặt ngang tầm với đỉnh cột đu. Khi người dún đu đưa cần ngang với đỉnh cột thì đưa một tay giật giải. Nếu để giải rơi xuống đất là mất. Đu là môn thể thao không chỉ đòi hỏi sức khỏe dẻo dai, mà còn phải có thần kinh vững vàng, 26
  28. không chóng mặt, hoa mắt, nôn mửa lúc đu đã lên cao. Cây đu đã thành nơi hò hẹn của lứa đôi khi vào hội xuân, để được cùng bạn tình "Dún mình như thể dún đu Càng dún càng dẻo, càng đu càng mềm". Ê ê! Ê ê! Hát cho hát trả Một tốp ngồi hát, mỗi người một câu, theo lần lượt vòng tròn kim đồng hồ đến hết đoạn “cho” rồi hát trở lại ngược chiều kim đồng hồ đoạn “trả”. - Ông giẳng ông giăng Xuống chơi ông Chính Ông Chính cho mõ Xuống chơi nồi chõ Nồi trõ cho vung Đến chơi cây sung Cây sung cho nhựa Đến chơi con ngựa Con ngựa cho gan Đến chơi bà quan Bà quan cho bạc Đến chơi thợ giác Thợ giác cho bầu Đến chơi cần câu Cần câu cho lưỡi Đến chơi cây bưởi Cây bưởi cho hoa Đến chơi cây cà Cây cà cho trái Đến chơi con gái Con gái cho chồng Đến chơi đàn ông Đàn ông cho vợ Đến chơi kẻ chợ Kẻ chợ cho voi Đến chơi cây sòi Cây sòi cho lá Đến chơi con cá Con cá cho vây Đến chơi ông thày Ông thày cho sách Đến chơi thợ ngạch Thợ ngạch cho dao Đến chơi thợ rào Thợ rào cho búa. - Trả búa thợ rào Trả dao thợ ngạch Trả sách ông thày Trả vây con cá Trả lá cây sòi Trả voi kẻ chợ Trả vợ ông đàn 27
  29. Trả chồng con gái Trả trái cây cà Trả hoa cây bưởi Trả lưỡi cần câu Trả bầu thợ giác Trả bạc bà quan Trả gan con ngựa Trả nhựa cây sung Trả vung nồi chõ Trả mõ ông Chính. www.cafesangtao.vn www.my.opera.com/tieuboingoan Posted - 02/20/2008 : 20:46:23 Hát ngược Chia làm hai phe, tìm những câu hát nói ngược không đúng thực tế để gây cười. Bên nào hát được nhiều câu là thắng. Dưới đây là một số câu: - Bao giờ cho đến tháng ba ếch cắn cổ rắn, tha ra ngoài đồng - Hùm nằm cho lợn liếm lông Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi - Ông trăng mà lấy bà trời Tháng năm ăn cưới, tháng mười nộp treo - Con lợn to bằng con mèo Làng ăn chẳng hết, đem treo cột đình - Con voi nằm dưới gậm giường Cóc đi đánh giặc, bốn phương nhọc nhằn - Chuồn chuồn thấy cám thì ăn Lợn kia thấy cám, nhọc nhằn bay qua - Trời mưa cho mối bắt gà Cào cào đuổi cá, chui qua khe rào - Chó con bắt trạch dưới ao Có một quả đào, ném ngã năm cô - Thóc giống cắn chuột trong bồ Một trăm con muỗi đuổi vồ con trâu - Chim chích cắn cổ diều hâu Gà con tha quạ, biết đâu mà tìm - Bong bóng thì chìm, gỗ lim thì nổi Đào ao bằng chổi, quét nhà bằng mai - Hòn đá dẻo dai, hòn xôi chắc rắn Gan lợn thì đắng, bồ hòn thì bùi - Hương hoa thì hôi, nhất thơm là cú Đàn ông to vú, đàn bà rậm râu - Con cá mày ở dưới ao Tao tát nước vào, mày chạy đi đâu - Ngồi buồn vác giỏ đi câu 28
  30. Được ả Thị Màu con gái phú ông - Sông Hồng rộng chẳng tày gang Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi - Chơi cho quạt lá long nhài Cầu Ô gãy nhịp, thuyền chài bong đinh. - Bao giờ cây cải làm đình Gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta - Bao giờ trạch đẻ ngọn đa Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình - Lênh đênh bảy lá thuyền tình Chìm ba bến nước mới tìm thấy hoa. - Con rận bằng con ba ba Đêm nằm nó ngáy cả nhà thất kinh. www.cafesangtao.vn www.my.opera.com/tieuboingoan Posted - 02/20/2008 : 20:47:17 Oẳn tù tì Thường hai em một chơi với nhau. Cùng đứng hay ngồi, tay đung đưa theo nhịp câu hát: Oẳn tù gì Ra cái gì? Ra cái này! Cả hai cùng chìa một tay ra ở các dạng: - Nắm tay là cái búa, chĩa hai ngón trỏ và ngón giữa là cái kéo, chỉ một ngón là cái dùi, xòe cả bàn tay là cái lá. Theo quy ước sau đây mà định được thua: - Búa nện được kéo, được dùi, nhưng lại bị lá bọc. - Lá thua kéo vì kéo cắt được lá, dùi đâm thủng lá. - Dùi khoan được lỗ kéo. Pháo đất Trò chơi thông thường phổ biến ở trẻ em nông thôn. Pháo nặn bằng đất sét thịt, nhào nát, loại bỏ các tạp chất, nghiền nhuyễn cho đến khi đạt độ dẻo quánh thì vê tròn to bằng nắm tay. Dùng các ngón tay miết từ giữa ra thành cái vòm đất khum khum, ở đáy càng mỏng càng tốt nhưng phải đều nhau. Đặt pháo vào lòng bàn tay phải, giơ cao, quật mạnh xuống nền đất cứng hoặc sân gạch. Lưu ý giữ pháo đất cho cân, lúc nổ mới đanh tiếng và chỉ phá vỡ một mảng giữa. Ai có tiếng nổ to, nghe đanh là được cuộc. www.cafesangtao.vn www.my.opera.com/tieuboingoan 29
  31. Posted - 02/20/2008 : 20:50:08 Đánh chuyền Chơi hai hoặc vài người. Cỗ chuyền gồm 10 que tre vót tròn, nhỏ bằng que kem, dài 20cm và một hòn cái (hòn cuội tròn hoặc quả cà pháo). Người chơi ngồi duỗi một chân, rải cỗ chuyền dọc theo ống chân, vừa đọc một câu, vừa tung hòn cái, vừa nhặt số que theo lời bài, đồng thời phải đỡ bắt hòn cái không để rơi. Số que rải xuống hoặc lấy lên phải đúng theo lời ca. Hết bàn 10, người chơi xoay đảo cả 2 tay chùm que, mỗi câu là một lần tung hứng hòn cái, đoạn cuối đặt xuống từng que rồi lại nhặt lên đôi một cho đến hết. Rơi cái, hoặc nhặt sai số que là bị loại. Bài ca: Que mốt (nhặt 1 que) Que mai (nhặt tiếp 1 que và nắm lại trong tay cho đến hết bàn) Cái cò Nỏ năng Con khăng Hòn chắt Nhấm nha Nhấm nhắt Quạ bắt Sang bàn đôi (rải lại ra chân) Đôi tôi (nhặt 2 que) Đôi chị Đôi cái bị Đôi cành hoa Đôi sang ba Rải bàn ba (rải que lại ra chân) Ba quả cà Ba quả táo Ba lá gáo Một sang tư Rải bàn tư (rải lại que) Tư củ từ Tư củ cải Hai sang năm Rải bàn năm (rải lại que) Năm còn năm Năm sang sáu Rải bàn sáu (rải lại que) Sáu củ ấu Bốn sang bảy Rải bàn bảy (rải lại que) Bảy lìa ba Ba sang tám Rải bàn tám (rải lại que) Tám hai lìa Hai sang chín Rải bàn chín (rải lại que) Chín lìa một Một sang mười 30
  32. Ngả năm mươi (đặt xuống 5 que) Mười vơ cả (lại nhặt lên) Ngả xuống đất (đặt cả 10 que xuống) Cất lên tay (nhặt cả lên) Xoay ống nhổ (quay cả cụm que) Đổ tay chuyền Chuyền chuyền một (xoay một vòng que trên hai tay) Một đôi Chuyền chuyền hai Hai đôi Chuyền chuyền ba Ba đôi Chuyền chuyền bốn Bốn đôi Chuyền chuyền năm Năm đôi Đầu quạ (Bắt đầu thả từng que xuống chân) Quá giang Sang sông Về đò Cò nhảy Gẫy cây Mây leo Bèo trôi ổi xanh Hành bóc Trứng đỏ lòng (quơ 2 que lên một lần) Tôm cong đít vịt Vào làng xin thịt Ra làng xin xôi Anh chị em ơi, cho tôi vét bàn thiên hạ. www.cafesangtao.vn www.my.opera.com/tieuboingoan Posted - 02/20/2008 : 20:51:29 Chơi ô ăn quan Vẽ trên sân hay nền nhà một ô hình chữ nhật, hai đầu vẽ cong thành hình bán nguyệt làm ô quan, hình chữ nhật chia dọc làm đôi rồi phân làm 5 thành 10 ô dân. Mỗi bên chơi nhận một hàng 5 ô dân và 1 ô quan. Rải 70 hòn cuội nhỏ (hoặc hạt nhãn, hạt na) vào các ô, cứ ô dân 5 hòn, ô quan 10 hòn, gọi là quân. Người chơi thay nhau đi, bốc ở một ô dân rải theo chiều nào cũng được, đến ô dân nào lại được lấy quân rải tiếp mỗi ô một hòn, đến hòn cuối cùng có một ô trống thì được ăn toàn bộ số quân ở ô tiếp theo. Nếu gặp từ 2 ô trống hoặc ô quan gọi là chững thì không được đi nữa, trả phiên cho người kia. Khi nào 5 ô dân đều không còn quân, người chơi được rải mỗi ô một hòn, gọi là rải dân để đi tiếp. Chơi đến khi nào 2 ô quan hết quân, các ô dân lác đác, gọi là: "Hết quan, tàn dân, thu quân, bán ruộng”. Bên nào thiếu 30 quân thì “bán ruộng”, nghĩa là 31
  33. mất một ô dân của mình. Các quân rải đều lúc đi vào ô này (được gạch chéo) gọi là ao cá, người có ao được thu về cả. Người thua lúc nào thu lại thừa 30 quân thì xin chuộc ao. Mỗi lần rải quân đầu tiên là bắt đầu một ván chơi. Người chơi phải nhẩm tính để làm sao đi có lợi nhất cho mình, ăn được “quan” và những ô nhiều quân gọi là nhà giàu. Chồng nụ chồng hoa Bốn người chơi. Hai người ngồi đối mặt nhau duỗi thẳng chân, bàn chân dựng lên, chồng lên nhau cứ một chân người này đến một chân người kia. Hai người phải nhảy qua cái cột cao do 4 bàn chân dựng lên. Nhảy được rồi, mỗi người ngồi chồng thêm một nắm tay tiếp lên, gọi là chồng nụ. Lại nhảy qua được. Người ngồi chồng tiếp lên trên nắm tay, hai bàn tay còn lại dựng đứng, gọi là hoa. Cột nụ hoa lúc này đã cao trên dưới 80cm. Hai người nhảy qua được là thắng. Nếu nhảy bị chạm ở giai đoạn nào cũng bị thua, vào ngồi thay cho người khác ra nhảy. Chơi ô đầm Vẽ trên sân hai hàng dọc liền nhau, mỗi hàng có 5 ô to. ở chỗ tiếp góc 4 ô trên cùng, khoanh một vòng tròn nhỏ làm rốn. Đứng ở vạch cuối hai người chơi tung hòn cái bằng viên cuội bẹt hoặc mảnh sành vào rốn, người nào hòn cái gần rốn nhất đi trước. Mỗi người nhận một hàng. Đặt cái vào ô đầu tiên giáp vạch cuối, người chơi nhảy lò cò vào ô lấy chân đứng hất nhẹ dẫn cái đi theo hàng thẳng lên, rồi rẽ sang hàng bên dẫn cái trở về điểm xuất phát. Nếu cái nằm chạm vạch hoặc mỏi chân quá phải đổi chân thì dừng lại ở ô ấy, đợi lượt sau. Khi đi xong rồi, người thắng đứng quay lưng lại các ô, tung cái qua đầu, cái nằm ở ô nào được đánh dấu làm nhà, ván sau đi đến nhà được nghỉ đổi chân, còn đối phương lò cò nhảy vượt qua nhà của người khác. Nếu ném cái ra ngoài các ô không được gì. Đá cầu Thời Lý - Trần, vua và vương hầu rất thịnh hành đá cầu. Sử còn chép Trần ích Tắc con vua Trần Thái Tông rất giỏi đá cầu. Đinh Lưu đá cầu chúc thọ vua Lê. Quả cầu làm bằng đồng xu kim loại có lỗ ở giữa. Dùng giấy bản tốt, cắt một dải ngang 6cm, dài 15cm. Đặt đồng xu vào giữa, gập hai mép ngang, vê tròn hai đầu giấy, dùi thủng qua lỗ xu cho hai đầu giấy chui qua. Kéo hai đầu giấy ôm chặt lấy đồng xu, rồi tỏa giấy ra, lấy kéo cắt một nửa phía trên thành các tua nhỏ, thế là thành quả cầu đá chân theo kiểu dân gian. Số người chơi không hạn định. Có nhiều cách chơi: - Người chơi nhảy lò cò một chân, một chân vừa đỡ cầu vừa đá hất lên, vừa đá vừa đếm kết quả cho đến khi cầu rơi xuống đất là hết ván. Chân đá có thể duỗi thẳng, gập vòng trước mặt hoặc đá hậu gập chân qua đằng sau. Đá cầu bằng ống chân, bàn chân, đùi, đều được. - Vạch một vạch ngang làm giới hạn, chia hai đội với số người bằng nhau. Một bên gieo cầu đá sang phía bên kia, họ đỡ và đá trả về bên này, có thể đỡ chuyền nhau qua vài người rồi mới đá sang đối phương. Cầu rơi xuống đất bên nào bên ấy thua một bàn. Bịt mắt bắt dê Người chơi đứng nắm tay nhau quây thành vòng tròn rộng. Hai người ở giữa cùng bị bịt chặt mắt bằng miếng vải, một làm dê vừa chạy vừa kêu be be, một người săn, nghe tiếng dê mà định hướng tìm bắt. Người làm vòng rào reo hò mách nước cho người bắt, nhưng là mách sai, để gây cười. Người săn bắt được dê, thì dê được thay chỗ làm người săn và một người khác ở hàng rào vào làm dê, luân phiên nhau, người săn thắng cuộc trở lại làm hàng rào. Có nơi bắt dê thật như ở hội Phù Đổng ngày xưa. 32
  34. www.cafesangtao.vn www.my.opera.com/tieuboingoan Posted - 02/20/2008 : 20:53:14 Nhảy dây Một sợi dây thừng dài 2m cho nhảy cá nhân, hoặc 4 - 5m cho nhảy tập thể. Nhảy cá nhân: Hai tay cầm hai đầu dây dang ra vung lên qua đầu, khi dây chạm đất, chân nhảy lên để dây vượt qua, như vậy là một vòng, vừa nhảy vừa đếm xem đến vòng bao nhiêu thì vướng chân vào dây phải ngừng để người khác nhảy. Ai đạt nhiều vòng là thắng. Chơi giỏi, hai tay cầm dây vắt chéo ngang ngực. Nhảy tập thể: Hai người cầm hai đầu dây bằng một tay, quay nhanh dây chạy vòng tròn cho vài người nhảy. Ai chạm dây phải ra thay làm người cầm dây cho người kia vào nhảy. Đánh khăng Trò chơi của thiếu niên nhanh nhẹn, tinh mắt. Chọn nơi chơi rộng, thoáng, ít người qua lại tránh tai nạn bị khăng văng vào. Chơi hai người hoặc hai tốp thay phiên chơi. Dụng cụ chơi gồm hai chiếc khăng chặt từ cành tre hoặc thanh tre già vót tròn. “Khăng cái” to hơn, dài một gang rưỡi đến hai gang, một đầu vót nhỏ gần nhọn. “Khăng con” nhỏ hơn, ngắn khoảng 15cm. Sân chơi: Một đầu được khoét lỗ bằng đầu nhọn của khăng cái để làm “lồ”. Trên lồ khoảng 4m kẻ một vạch ngang làm “cổng”. Trước khi vào cuộc phải “khảo cái” xem bên nào được đi trước. Tay phải cầm khăng cái, tay trái tung khăng con lên, rồi dùng khăng cái “khấc” vào khăng con lúc rơi xuống để lại bay lên, đếm số lần khấc cho đến khi khăng con bị “khấc” hụt rơi xuống đất là thôi. Ai “khấc” được nhiều lần hơn được đánh trước. Cứ một người đánh một đỡ. Người đánh đứng ở phía “lồ”, không được xa lồ quá một bước, có thể chân trước, chân sau lồ. Người đỡ phải đứng phía trên vạch “cổng”. Nguyên tắc chung là khi khăng con được đánh bay về phía cổng, người đỡ phải tìm cách đón bắt, nếu bắt được rồi, đứng trên vạch cổng ném khăng con về phía lồ, lúc này bên đánh đã phải đặt khăng cái nằm ngang trên miệng lồ. Nếu ném trúng được quyền vào đánh, bên kia ra đỡ. Nếu không bắt được khăng con để rơi xuống đất, cuộc chơi vẫn tiếp tục không thay đổi. Một ván khăng có 10 mục chơi, mỗi mục có một kiểu đánh khác nhau, riêng mục “cầy” và “chầu” là giống nhau thôi. Thứ tự như sau: Cầy (còn gọi là “múc”), Đơ, Cơm, Mắm, Cổng, Gà, Chuông, Khẳng, Chầu, Nài. Tùy cuộc chơi, có thể chỉ chọn dăm ba mục cho chóng hết ván. Nhiều nơi chỉ đánh có Cầy, Mắm và Gà. Trước khi đánh phải xướng tên mục và hỏi “xong chưa?”, khi nào bên đỡ trả lời “xong”, khăng con mới được đánh lên. Các kiểu đánh: - Cầy: là đặt khăng con nằm ngang miệng lồ, thọc đầu nhọn khăng cái xuống lỗ, dùng hai tay hất mạnh cho khăng con bay về phía trên cổng - nếu dưới cổng là mất lượt phải đổi cho bên kia đi. - Đơ: tay trái cầm khăng con, giơ lên ngang tầm vụt, tay phải cầm khăng cái vụt mạnh cho khăng con bay lên trên cổng. - Cơm: tay phải cầm đầu nhọn khăng cái, đặt khăng con lên trên nắm tay ở phía sau khăng cái, 33
  35. hất tay tung khăng con lên rồi dùng khăng cái vụt cho nó bay lên phía trên cổng. - Mắm: Cầm khăng cái như kiểu Cơm, đặt khăng con phía trước khăng cái trên đầu các ngón tay, hất tay tung khăng con lên đánh về phía cổng. - Cổng: Không đứng ở lồ, đi lên giữa cổng tay trái cầm buông thõng, một đầu khăng con, tay phải quật khăng cái đánh khăng con bay về phía trước. - Gà: Quay lại lồ, đặt khăng con một đầu chúc xuống lỗ, thò một đầu lên mặt đất, cầm khăng cái đánh mạnh cho khăng con bật lên cao rồi đón đà rơi xuống quật tiếp cho khăng con bay lên phía trước. - Chuông: Tay phải vừa cầm khăng cái, vừa dùng hai ngón cái và trỏ nhón một đầu khăng con buông thõng xuống, tung khăng con lên cao rồi đánh mạnh vào nó bay lên trước cổng. - Khẳng- Còn gọi là Luồn: Giơ chân trái lên ngang, tay trái cầm khăng con luồn qua đùi tung lên cao cho tay phải cầm khăng cái đánh cho nó bay lên trước. - Chầu: Chơi như đánh Múc. - Nài: Dùng khăng cái khấc vào khăng con như khảo cái, cho đến khi rơi xuống đất, được bao nhiêu lần thì được đánh phạt bấy nhiêu lần. Đánh phạt như đánh Cầy, đặt khăng con ngang miệng lồ, dùng hai tay cầm khăng cái hất khăng con bay lên trên vạch cổng. Đối phương bắt được thì mất phạt, xóa nợ. Không bắt được, phải cõng người thắng cuộc từ chỗ khăng con rơi xuống về đến lồ. Người thắng đặt khăng cái ngang miệng lồ rồi cầm khăng con cưỡi lên lưng người thua, khi họ chạy về phía lồ phải nhanh tay, nhanh mắt nhằm ném khăng con sao cho đúng vào khăng cái. Cứ ném trúng là được thêm một lần cõng. Còn một cách chơi đơn giản hơn là chỉ đánh ba mục Cầy, Mắm và Gà như đã nói ở trên, nếu bên đỡ không bắt được khăng con, thì bên đánh được đo từ lồ cho đến nơi khăng con rơi, đo bằng khăng cái, mỗi đơn vị đo tính một điểm. Sau khi cả hai bên đánh xong, tính tổng số điểm ai hơn là thắng, được bên thua cõng năm vòng từ lồ đến vạch cổng. www.cafesangtao.vn www.my.opera.com/tieuboingoan Posted - 02/20/2008 : 21:29:29 II - Trò diễn dân gian Rước Rước là cầu nối giữa lễ và hội mà trong hầu hết các hội làng ở Hà Nội đều có. Có đám rước của một làng, có đám rước của 8 làng như ở đền Cổ Loa, 10 làng ở chùa Nhót, 5 làng ở Kẻ Mọc Lại có rước “đánh giải” từ làng này sang giao hiếu với làng kia theo nghĩa kết chạ như làng Thúy Lĩnh với hai làng Nam Dư, Bắc Biên với Hội Phụ, Hải Bối với Kim Chung, đình Kim Liên với đền Hàng Than Thông thường Rước kiệu sắp xếp theo trình tự như sau: Ông Địa dẹp đường, cờ, trống, lọng, chiêng, voi hoặc ngựa thờ, tán, đồ chấp kích (đao, kiếm, thương, kích, trùy, côn hoặc bát bảo) phường đồng văn bát âm, múa sênh tiền - mõ lộn, cờ vía hoặc cờ lệnh, long đình có tàn, quạt, lọng, vả che, cuối cùng là kiệu bát cống trên có ngai thờ, tượng hoặc bài vị. Rước nam thần đô tùy là đàn ông, rước nữ thần đô tùy là đàn bà. 34
  36. Trang phục cổ. Hội Yên Phụ rước một kiệu bát cống từ cung An Thọ vào đình. Hội Yên Quang rước kiệu “thần hồ” đi ven bờ Hồ Tây. Hội Nghi Tàm rước 6 kiệu từ đình đến chùa Kim Liên lại quay về. Hội đình Vẽ rước 4 kiệu. Hội Nhật Tân rước 7 kiệu: một kiệu thánh Uy đô Linh Lang và 6 kiệu các tướng, trong đó có 1 tướng mẫu do 8 nữ khiêng. Hội Tứ Liên rước 4 kiệu. Hội Hai Bà Trưng Đồng Nhân rước thánh giá ra sông Hồng làm lễ mộc dục. Hội đình Kim Liên thờ Cao Sơn đại vương có ba làng rước kiệu đến là Quỳnh Lôi, Phương Liệt, Bạch Mai, rồi cùng rước đến đền Hàng Than thờ thánh Linh Lang. Cổ Loa có rước “bát xã”. Tám làng là Cổ Loa, Mạch Tràng, Cầu Cả, Đài Bi, Săn Giã, Thư Cưu, Văn Thượng, Ngoại Sát cùng rước kiệu về đình Ngự Triều di quy, làm lễ tế hội đồng. Đám rước còn vòng qua giếng Ngọc và đi trên những đoạn thành cổ. Rước kiệu ở hội Thủ Lệ đưa bài vị từ đình Vạn Phúc về, phải qua các đồi, gò nhấp nhô, nên đô tùy khiêng kiệu muốn giữ cho kiệu thăng bằng có lúc phải khiêng bò nên dãy đồi gò ấy có tên Núi Bò! Đám rước ở hội Đền Ghềnh thờ mẫu, đô tùy là 24 cô gái đồng trinh khiêng long đình và võng. Các người cầm cờ, biển, tàn, tán, đi dẹp đường cũng đều là nữ. Hội Triều Khúc đám rước rất uy nghi, rước tượng vua Phùng Hưng từ đình Sắc về đình chính. Kiệu 16 người khênh, phải có hai tốp thay nhau, 2 quân ngự lâm che quạt vả lớn. Cứ mỗi tiếng trống cái bước một bước, nên đám rước phải đi trong ba tiếng mới đến nơi. Hội Láng rước kiệu lội qua sông Tô gọi là “độ hà” rất vui nhộn. Làng Giàn (Xuân Đỉnh) rước kiệu Ông, kiệu Bà từ đình Giàn sang chùa Thiên Phúc dâng hương, hôm sau rước tiếp hai kiệu ra miếu thờ Mẫu rồi mới trở lại đình. Đô tùy khiêng kiệu phải chay tịnh một tuần. 16 nam khiêng kiệu Ông, 16 nữ khiêng kiệu Bà. Kiệu Ông đi trước, kiệu Bà đi sau. Đi mở đường có các đội múa sênh tiền - mõ lộn, múa bồng, múa mặt nạ, múa tứ linh. Đám rước đi qua cầu bỗng khựng lại, hai kiệu không đi thẳng mà quay tròn khoảng nửa giờ mới tiếp tục chạy nhanh về đình. Tương truyền trong đám rước, Ông cứ hay nhìn về đám gái làng khiến Bà ghen, xoay kiệu hờn dỗi để Ông phải xoay kiệu theo dỗ dành mãi mới chịu đi tiếp. Hội chùa Đông Phù có rước 10 làng thuộc tổng Nam Phù Liệt xưa là: Đông Phù, Ninh Xá, Đam Uyên, Chanh Khúc, Mỹ ả, Yên Mỹ, Việt Yên, Đông Trạch, Tương Trúc, Tự Khoát. Đông Phù rước nhang án và 1 kiệu bát cống. Ninh Xá hai kiệu bát cống và long đình. Mỗi kiệu do 8 thiếu nữ khiêng, hai lọng che và người cầm kiếm đi dẹp đường. Mỗi kiệu có 8 nữ đô tùy dự phòng để nếu kiệu Bà bay nhiều lần phải thay người. Đám rước hội làng Tứ Liên có bốn kiệu lộng lẫy, đoàn múa sư tử dẫn đầu, rồi đến đoàn múa rồng. Sau kiệu thứ nhất có đoàn tế nam 18 cụ khăn xếp, áo the và đoàn tế nữ 30 lão bà y phục màu sắc lộng lẫy. Sau kiệu nhì có bát bảo và các vãi già mặc áo nâu sồng, cầm phướn hộ tống. Sau kiệu thứ ba có các con nhang, đệ tử khăn chầu áo ngự, đội mâm ngũ quả. Và sau kiệu cuối cùng là các em thiếu niên. Hội rước điện Thái Bình (xã Vân Nội, Đông Anh) lại đưa hương án đặt bài vị đức Hưng Đạo đại vương xuống thuyền ở bến Bỏi (Hải Bối), hành hương về Kiếp Bạc, trong dịp giỗ Cha tháng Tám ta hàng năm. Nhiều hội có tục Rước Nước, khênh kiệu có chiếc chóe sứ ra bờ sông Hồng, rồi xuống thuyền ra giữa dòng, cử một lão ông hoặc lão bà nhè nhẹ, múc từng gáo nước đổ vào chóe. Nước này rước về để bao sái đồ tế tự và làm lễ mộc dục (tắm tượng). Đó là hội các làng Thổ Khối, Đông Dư, Thôn Nha, Bát Tràng, Trung Quan, Chử Xá (huyện Gia Lâm), Chèm, Nhật Tảo, Nhật Tân, Phú Gia (huyện Từ Liêm và quận Tây Hồ), Võng La, Hải Bối, Mạch Lũng (huyện Đông Anh). Làng Thúy Lĩnh (huyện Thanh Trì) rước nước lấy ở giữa sông Hồng sang bờ bắc làm lễ ở đền Mẫu (xã Đông Dư, Gia Lâm) rồi mới quay về. Hội làng Yên Phụ và Quảng Bá lấy nước Hồ Tây. Hội Gióng lấy nước ở giêng đền Mẫu, hội Giàn lấy nước ở giếng cổ có từ thời Mã Viện. Rước cỗ được tổ chức ở một số hội. 35
  37. Hội Chử Xá là rước bánh dày, cỗ thi của 7 giáp. Mỗi giáp một mâm bàn sơn son thếp vàng. Mỗi mâm chia làm 22 ô nhỏ, đặt 22 chiếc bánh dày, hoa quả bày lên trên, do 8 cô gái áo quần trắng, khăn xanh thắt lưng đỏ, khênh đòn. Mâm cỗ rước của hội làng Vĩnh Tuy có hai tầng, bên dưới là thùng để hồng, chuối, cốm, bên trên là 12 phẩm oản to đóng bằng xôi nếp. Làng Kim Liên thi mâm cỗ bảy tầng, tầng dưới cùng là xôi gấc, rồi đến giò, chả, bánh su sê, gà luộc để cả con tạo dáng thành các hình Phật Bà, Thạch Sanh, Lã Vọng và các tầng hoa trái. Làng Đại Lan (xã Duyên Hà) có tục rước cá lăng sống. Cứ ba giáp một con, nặng trên dưới 10kg. Cá đặt trên án thư, buộc dây vải đỏ. Trình thành hoàng xong đem về làm cỗ gồm: gỏi cá lăng; cá lăng cắt miếng ướp nghệ đun chín, bày vào đĩa, rắc giềng giã nhỏ, canh cá lăng băm viên nấu rau cần. Cỗ cá lăng đặt trong mâm sơn son thếp vàng có chân. Mâm thùng do hai trai làng áo the, khăn xếp, thắt lưng đỏ khiêng, có hai lọng che. Rước cỗ từ nhà đăng cai ra đình, ban nhạc bát âm dẫn trước. Cỗ rước làng Cáo Đỉnh có 200 bánh dày to, làm lễ ông bà Vũ Phục xong, phát lộc cho dân. Hội Phủ Tây Hồ và Thôn Nha có tục rước mã đưa về thờ. Vui nhộn là hội rước Thánh Tăng làng Phú Xá. Tượng thánh là một cậu bé áo triều thiên, mũ cánh chuồn, tạc ở tư thế ngồi, đặt trên kiệu, do mười người cả trai, gái túm vào khênh từ dốc đê về ngã ba Nhật Tân. Rước ban đêm dưới ánh trăng, vừa rước vừa hô: Hù hí! Hù hí! Trong hội Gióng (Phù Đổng) có rước “long giá”, tức là con ngựa gỗ rất lớn sơn trắng đặt trên giá có bốn bánh xe, kéo bằng dây chão to. Hội Gióng đền Sóc lại rước voi giấy, đan cốt tre, phất giấy rồi sơn đen, từ đình làng Dược Thượng về đền Sóc. Ngày xưa, kinh thành Thăng Long còn có rước trâu đất và Thần nông, quan Phủ Doãn tiến hành đắp tượng. Đúng ngày lập xuân, dân tổ chức rước tượng đất của trâu “Xuân Ngưu” và Thần nông “Câu Mang” từ đền Bạch Mã ra đàn tế ở cửa Đông Hà. Trâu đất được nhuộm màu ứng với thuyết ngũ hành. Năm nào trâu trắng là mùa màng gặp khó khăn. Lễ tế vào nửa đêm. Một vị trưởng họ đánh roi vào trâu đất rồi rước vào sân điện làm lễ “tiến Xuân Ngưu”. Trong đám rước, mọi người cùng hát: "Bao giờ Mang hiện đến ngày Cày bừa cho kỹ mạ này đem gieo". Rước trong lễ hội có thể coi như một trò diễn với các lớp lang, thể lệ quy định khá chặt chẽ. Người được tham gia rước lấy làm vinh dự, người đi xem rước thì hô hào, cổ vũ, khích lệ các đô tùy và phù giá, gây nên không khí náo nức trên suốt tuyến đường rước. www.cafesangtao.vn www.my.opera.com/tieuboingoan Edited by - tieuboingoan on 02/25/2008 21:29:35 Posted - 02/25/2008 : 21:31:06 Hội trận Thiên diễn xướng anh hùng ca về Thánh Gióng trong lễ hội Phù Đổng (Gia Lâm). Hội trận tổ chức có bài bản, quy mô với nhiều trò diễn đặc sắc đã có ngót ngàn năm nay, do 5 làng gồm 19 giáp lo 36
  38. liệu. Bốn làng là Phù Đổng, Phù Dực, Đổng Xuyên, Đổng Viên (nay đều thuộc xã Phù Đổng) và làng Hội Xá tham gia với phường ải Lao. Chỉ có 10 giáp của hai làng Phù Đổng, Phù Dực được luân phiên nhau đăng cai làm giáp kéo hội. Bộ chỉ huy của Ông Gióng được tượng trưng bằng sáu ông hiệu: Hiệu cờ, Hiệu trống, Hiệu chiêng, Hiệu trung quân và hai Hiệu tiểu cổ. Quân lính có 120 người gồm phù giá nội, phù giá ngoại, xướng suất, quân thám sát, quân lương, đội cờ, biển, đồ thờ, ban nhạc lễ và 28 cô gái đóng vai nữ tướng giặc Ân. Ngoài các đám rước như rước nước, rước miều (cờ trận), rước khám đường các trò múa hát ải Lao, múa bắt hổ, múa bái tướng của các ông Hiệu lúc xuất quân là hai trò diễn trận đánh chính của ông Gióng. Trận thứ nhất ở Đống Đàm: Thám sát báo tin có giặc. Trống chiêng nổi lên. Quân sĩ lên đường kéo theo Long giá, tức con ngựa gỗ sơn trắng đặt trên xe 4 bánh, tới chiến trường là một bãi đất dưới chân đê. ở đấy, trải ba chiếc chiếu, giữa mỗi chiếu có một chiếc bát úp lên tờ giấy trắng. Trống lệnh nổi, tiếng reo hò dậy đất. Các tướng Ân xuống kiệu đứng chịu sự tấn công của quân ta. Hiệu cờ giương cao cờ bung ra hàng trăm bướm giấy trắng và mảnh gỗ trầm, múa cờ ba vòng từ phải sang trái (ba ván cờ thuận) trên từng chiếu, đá tung chiếc bát và tờ giấy. Trống chiêng rộ lên mừng chiến thắng. Các tướng Ân bại trận lên kiệu về Phù Đổng. Quân ta kéo về đền Thượng mừng công. Trận thứ hai ở Soi Bia: Quân ta lại mở đợt tiến công địch, cấp tốc phá tan giặc Ân bằng biểu tượng của ba ván cờ nghịch, Hiệu cờ phất cờ từ trái sang phải. Bắt hai tướng chủ của giặc là tướng Đốc, tướng Ngựa dẫn về đền làm lễ chém. Đêm mở tiệc lớn khao quân. Hội trận là cuộc diễn xướng sử thi hùng tráng nhất trong vùng Hà Nội, với hàng nghìn người tham gia trình diễn và phục vụ, lại có hàng vạn khách thập phương về dự hội, đã trở thành sinh hoạt văn hóa truyền thống của xứ Kinh Bắc xưa, nay thuộc thủ đô. Bởi vậy, trong dân gian còn truyền tụng câu ca "Ai ơi mồng chín tháng Tư Không đi hội Gióng cũng hư mất đời". Lễ chém tướng - chém yêu Lễ chém tướng là miếng trò diễn trong hội Gióng ở Phù Đổng và đền Sóc, nơi ông Dóng sinh ra và nơi ông bay về trời. ở Hội Gióng Phù Đổng, sau khi kết thúc ba ván cờ nghịch, quân ta đại thắng, tướng Đốc và tướng Ngựa cầm đầu giặc Ân do hai cô gái trẻ đóng bị bắt giải về đền Thượng, có các nữ tướng giặc bại trận đi theo. Hai chủ tướng giặc quỳ trước bàn thờ Thánh Gióng lạy bốn lạy hai vái, vị thừa tế dùng thanh kiếm lấy được của giặc hất mũ và phanh cái áo dài khoác ngoài của tướng giặc ngụ ý đã chém đầu, lột da trị tội. Còn ở đền Sóc (xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn) sau lễ dâng “hoa tre” và tung hoa tre cho mọi người tranh lộc, có lễ chém tướng Ân. Ba thiếu nữ đóng giả tướng giặc. Từ trên núi cao - nơi ông Gióng về trời - có người phất cờ lệnh, thì ở phía dưới chân núi quân ta nhanh nhẹn làm động tác chém tượng trưng đầu giặc. Ba tướng giặc ù té chạy lẫn vào chỗ vắng đã có người thân đón sẵn cõng chạy về nhà. Lễ chém yêu trình diễn ở hội làng Nhội, nơi có tục rước vua sống về trừ ma gà để giúp An Dương Vương xây thành ốc. Khi đám rước về đến đền, có mang theo những gộc tre hình đầu gà, lại có người đóng vai thày tu cầm gươm đi bên. Thày tu chém ba nhát gươm vào một hòn đá làm lễ “ướm gươm” rồi đổ tượng trưng bát máu gà lên đá, coi như đã chém yêu xong. 37
  39. Múa hát ải lao Phường ải Lao ở làng Hội Xá (Gia Lâm) chuyên để trình diễn trong hội Gióng Phù Đổng ở bên kia sông Đuống. Điệu múa hát này còn gọi “Tùng choặc” ôn chuyện truyền thuyết về trẻ chăn trâu, chăn bò làng này đã đi theo Thánh Gióng dẹp giặc Ân. Đoàn múa hát gồm 20 người, trong đó có một người đội lốt đầu hổ, quần liền áo màu vàng có vằn đen, 1 trống khẩu, 1 đánh mèn, 1 cầm cung tên, 1 cầm cần câu, 2 cầm cờ lau, còn lại vừa hát, vừa gõ hai thanh tre cật vào nhau, một người cầm chịch tay nâng lên hạ xuống chiếc gậy dài buộc chùm nhạc sóc rung lên giữ nhịp, một người lĩnh xướng cầm trống khẩu điểm vào câu hát. Phường có 2 điệu múa: cúng thần và vây bắt hổ. Đi cùng với phường ải Lao là 12 em mặc áo dài đỏ cầm roi mây đi dẹp đám. Tuy chỉ phục vụ nghi lễ, với 12 bài hát truyền thông kể sự tích và ca ngợi công lao ông Gióng như: Thứ sáu đời vua Hùng Vương Ân sai 28 tướng, tướng cường nữ nhung Xâm thương, cậy thế khoe hùng Quân sang đóng chật một vùng Vũ Ninh Bên cạnh đó còn có những lời ca trữ tình đậm đà chất giao duyên như “bài hát đi đường” có câu: "Ở gần hay là ở xa Cách phủ cách huyện hay là cách sông Xa xôi cách mấy quãng đồng Để anh bỏ việc bỏ công đi tìm " Bởi vậy, múa hát ải Lao tạo thêm nét độc đáo của một trò diễn góp vào thành công của hội Gióng. Múa bơi cạn Trong hội làng Hồ khẩu (nay thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ) có trò múa bơi cạn. Ba mươi sáu chàng trai tân, khỏe mạnh, được làng tuyển chọn, phải ăn chay từ đầu tháng để vào hội, gọi là “quân bơi”. Họ chia làm ba tốp, mỗi tốp có một “cái bơi” đứng đầu, quân xếp hàng đôi tay cầm chèo bằng gỗ, đốc có tay cầm, phần đốc sơn then, phần bản chèo sơn trắng vẽ mây vàng. Cái bơi mặc áo lương dài, khăn đen, quần lửng, thắt lưng xanh ngang hông bỏ múi cạnh sườn, cầm mõ. Quần bơi áo chẽn, nẹp tím, chít khăn đen, quần nâu, quấn chân xà cạp đen. Trống lệnh nổi lên. Từng tốp cầm chèo dựng trước ngực, chạy vào vòng cánh cung, vái ba vái trước kiệu. Theo trống lệnh, quân bơi quỳ một chân cầm chèo trong tư thế chuẩn bị. Cái bơi gõ mõ điều khiển, cứ một tiếng mõ là bơi cạn một lần, miệng đồng thanh hô: "huầy". Sau, cái bơi hò hai tiếng một, cả tốp quân bơi xô theo: - Dô huầy! Hết tốp này đến tốp kia, đủ ba lượt là xong. Múa đèn 38
  40. Múa đèn ở hội Đồng Nhân, thờ Hai Bà Trưng Đội múa khoảng mười thiếu nữ, áo dài đen, khăn vấn, thắt lưng đỏ bỏ múi cạnh sườn ra bên ngoài áo. Người múa hai tay cầm hai cây đèn, đi thành hàng lượn qua, lượn lại trước bàn thờ, theo nhịp vỗ của “con đĩ đánh bồng” dẫn đầu. Đèn trông như những chiếc đài vuông, bọc lụa trắng, cắt dán hình hoa lá trang trí, dưới có tay cầm, ở giữa thắp ngọn nến. Đội múa thay đổi đội hình luôn, lúc nối đuôi nhau, khi tách thành hàng đôi, lại đi chéo, đi thẳng, đi lượn thành vòng tròn, hoặc từng đôi đối mặt nhau. Động tác múa nhịp nhàng, hai tay lên xuống vẫn phải nâng giữ cây đèn không nghiêng ngả, nến không được tắt và không bén sang phía bên cạnh làm cháy hoa giấy dán trên mặt lụa. Dưới ánh nến lung linh, khi tỏ, khi mờ, chập chờn trong âm sắc đục trầm của trống bồng làm tăng không khí huyền ảo, kỳ bí trước ban thờ hai vị nữ anh hùng dân tộc. Múa đèn khá độc đáo, thể hiện sự khéo léo, duyên dáng của phái nữ, tạo nên nét riêng cho lễ hội này. Múa bài bông Điệu múa dân gian trong các lễ hội lớn, mừng được mùa, mừng chiến thắng. Cũng sử dụng trong hát cửa đình vào giai đoạn gần kết thúc. Đội múa nữ trẻ đẹp, 8 hoặc 10 người, trang phục riêng. Đầu đội mũ kim phượng dáng bông sen cách điệu, mình mặc áo mã tiền đỏ, phía gấu đính tua chân chỉ hạt bột, áo mũ đều thêu kim tuyến sặc sỡ, thắt lưng nhiễu khác màu, quần lĩnh đen chít ống, chân đi hài thêu. Họ đặt trên vai những đòn gánh nhỏ sơn son cong hai đầu, treo đèn lồng thắp nến nhiều màu hoặc lẵng hoa lụa rất đẹp. Đội hình lúc múa đan xen lẫn nhau, một cô gánh đèn đến một cô gánh hoa. Có nơi còn kết hợp với đội múa đèn. Họ vừa di chuyển đội hình, uốn lượn rất khéo, vừa hát theo nhịp điệu nhạc tấu nghi lễ, lúc khoan thai dịu dàng, lúc tưng bừng sôi động. Trong hát cửa đình Lỗ Khê và hội các làng Phú Mỹ, Phú Gia, Đông Ngạc, Bát Tràng, Tứ Liên, Phú Diễn, Minh Khai đều có hát ca trù, đôi nơi múa hát Bài bông hoặc Bỏ bộ. Múa bỏ bộ Thường để kết thúc phần hát cửa đình nghi lễ chuyển sang phần liên hoan văn nghệ. Đội múa nữ vừa múa vừa hát diễn tả không khí lao động như hái chè, quay tơ, dệt lụa, hái hoa, bắt bướm hoặc đánh võ, luyện gươm múa hát Bỏ bộ hay đi đôi với múa hát Bài bông. 39