Văn bản giáo khoa (Phần 1)

pdf 69 trang ngocly 2100
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Văn bản giáo khoa (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvan_ban_giao_khoa_phan_1.pdf

Nội dung text: Văn bản giáo khoa (Phần 1)

  1. MỤC LỤC Trang Mục lục 2 Phần thứ nhất: Văn học địa phương tỉnh Đồng Nai 4 Văn học dân gian 4 Sự tích thác Trị An 4 Chàng út Nàng Sen 7 Trận Mãng xà 9 Tổng quan về tục ngữ, ca dao Đồng Nai 12 Tục ngữ về đời sống sản xuất và sinh hoạt xã hội ở Đồng Nai 12 Ca dao về thiên nhiên xứ sở ở Đồng Nai 17 Ca dao về sinh hoạt xã hội ở Đồng Nai 18 Bài ca dao “Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai” 19 Văn học dân gian các dân tộc thiểu số ở Đồng Nai 19 Văn học viết 23 Một cuộc đua thuyền trên sông Đồng Nai 23 Chu Thổ Sừ vân 26 Tân Triều đãi độ 28 Văn tế vợ 29 Bà bán cau 31 Nhớ Bắc 32 Kòn Trô 32 Mưa thu nhớ tằm 41 Giữ lấy màu xanh 44 Văn bia Biên Hòa Đồng Nai 300 năm 46 Văn bia đền thờ liệt sĩ huyện Nhơn Trạch 48 Văn bia Văn Miếu Trấn Biên 49 Phần thứ hai: Lịch sử địa phương tỉnh Đồng Nai 51 Giới thiệu vài nét về Đồng Nai 51 Cư dân cổ Đồng Nai 52 Làng đá Bửu Long 53 Nghề gốm ở Đồng Nai 54 Vùng đất Đồng Nai 55 Cuộc khẩn hoang của người Việt 57
  2. Đồng Nai qua ca dao 59 Sự ra đời của thương cảng Cù lao Phố 60 Thương cảng Cù lao Phố 62 Đời sống văn hóa nghệ thuật 63 Nét kiến trúc đình chùa 65 Văn miếu Trấn Biên 66 Đồng Nai trong kháng chiến chống Pháp 67 Chiến khu D còn, Sài Gòn mất 71 Cuộc kháng chiến chống Mỹ 73 Chiến khu rừng Sác 78 Bác Hồ với Đồng Nai, Đồng Nai với Bác Hồ 79 Thành tựu phát triển KTXH từ 30/4/1975 đến 2005 80 Đồng Nai vùng đất mở trong phát triển công nghiệp 63 Di tích lịch sử Đồng Nai 85 Di tích kiến trúc nghệ thuật 88 Danh nhân Đồng Nai 92 Anh hùng đất Đồng Nai 95 Chiến thắng Xuân Lộc 98 Đồng Nai trước công nguyên 103 Đồng Nai thiên niên kỷ đầu công nguyên 108 Thành tựu phát triển kinh tế xã hội tỉnh Đồng Nai từ 30/4/1975 đến nay 108 Phần thứ ba: Địa lý địa phương tỉnh Đồng Nai 111 Địa lý tự nhiên Đồng Nai 111 Địa lý dân cư Đồng Nai 115 Địa lý kinh tế Đồng Nai 118 2
  3. Phần 1: VĂN HỌC ĐỊA PHƯƠNG TỈNH ĐỒNG NAI I. VĂN HỌC DÂN GIAN 1. CHUYỆN KỂ SỰ TÍCH THÁC TRỊ AN Ngày xưa, ở vùng Đồng Nai, có một bộ tộc (1) du mục(2) thuộc dân tộc Châu Mạ(3) chuyên sống bằng nghề nương rẫy (4) và săn bắt thú rừng. Đứng đầu bộ tộc này là tù trưởng(5) Sora Đin, tuy râu tóc đã bạc phơ nhưng trong ông còn rất khỏe mạnh. Sora Đina là con trai lớn của tù trưởng Sora Đin, được cha truyền nghề cung ná từ nhỏ nên sớm trở thành tay thiện xạ (6). Trong một ngày, Sora Đina có thể dễ dàng hạ hai con hổ. Chàng còn có thể hạ được cả loài cá sấu hung dữ đã một thời gây khủng khiếp ở vùng giáp Sông Bé và sông Đồng Nai. Lúc bấy giờ ở thượng nguồn sông Đồng Nai c ó nàng Điểu Du là trưởng nữ của tù trưởng Điểu Lôi, người Châu Ro (7). Điểu Du say mê tập tành với chí hướng (8) nối nghiệp(9) cha. Chính cô đã trừ được con voi một ngà hung dữ ở vùng Đạt Bo. Tiếng thơm bay xa. Tài thiện xạ của Sora Đina gây được sự cảm mến trong lòng Điểu Du. Và Sora Đina cũng muốn được gặp mặt người con gái nổi tiếng về tài phóng lao (10) ở miền thượng lưu con sông(11). Năm nọ, trời hạn hán. Các con suối lớn nhỏ đều khô cạn. Cả người lẫn thú đổ xô ra sông tìm nước uống. Một hôm trời chuyển động, mây đen chao đảo trên vòm trời. Một chiếc xuồng độc mộc(12) chở một thiếu nữ tất tả xuôi mau vào bờ. Bỗng một con cá sấu từ dưới nước nổi lên và đuổi theo chiếc xuồng. Lập tức hai mũi lao từ tay Điểu Du phóng nhanh về phía con cá sấu. Nó bị thương nên càng vẫy vùng lồng lộn, há miệng định nuốt chửng cả chiếc xuồng và người con gái .Trong cơn nguy hiểm, may sao thuyền của Sora Đina vừa kịp xuất hiện. Nhanh như chớp, chàng bắn liền hai phát tên. Cá sấu trúng tên chạy được một đoạn thì chìm nghỉm. Sora và Điểu Du quen nhau từ đó. Họ trở thành đôi bạn xuôi ngược dòng sông. Dần dần họ yêu nhau. Mối tình của hai người được Sora Đin và Điểu Lôi chấp thuận. Theo phong tục hồi đó, trước ngày cưới, Sora Đina phải về ở rể bên đàng gái. Sora Đin cho con trai mình chiếc tù và (13) và căn dặn: - Gặp trắc trở thì thổi tù và, sẽ có người đến giúp. Sora Đina lên con ngựa trắng tiến về miền thượng lưu. Đi một đoạn đường, gặp con suối cạn, Sora Đina phải dìu ngựa qua các gộp đá lởm chởm. Đột nhiên từ trên cây cổ thụ có một con cọp xám phóng xuống ôm choàng lấy Sora Đina. Đó là một gã đàn ông đội lốt hổ. Nó vừa đánh nhau với Sora Đina vừa hăm dọa: 3
  4. - Thần hổ đây, tao sẽ giết mày vì mày có tội . Sora Đina nào phải tay vừa. “Thần hổ” bị đánh ngã, bèn xông tới toan cướp ngựa. Con ngựa trắng hí lanh lảnh chồm lên dữ dội, “thần hổ”bị ngựa đá, phóng nhanh vào rừng. Đi thêm một đỗi ngắn, Sora Đina đã thấy Điểu Du ra đón chàng ở bìa rừng. Đàng xa, Điểu Lôi cũng vừa tới. Nhân lúc ngồi nghỉ, Sora Đina hỏi Điểu Du: - Vùng này có hổ không em? Điểu du cười đáp: - Thằng thầy mo(14) Sang Mô đó. Nó bày trò hù dọa dân làng. Nó oán em lắm vì em không ưng nó. Thấy bóng Sang Mô loáng thoáng gần đây. Sora Đina lên tiếng: - Mời anh Sang Mô đến uống rượu với chúng tôi. Sang Mô đến, hắn trừng mắt nói với Sora Đina: - Anh là kẻ xa lạ, đến đây để làm gì? Một lát, hắn nhìn Sora Đina cười nham hiểm: - Nghe nói anh nổi tiếng về tài thiện xạ.Vậy ta thách anh: nếu anh bắn trúng cái lá chót trên cành cây ta đang cầm trên tay thì ta sẽ nhường Điểu Du cho a nh. Hắn bẻ một nhánh quýt rừng và giơ lên. Hắn vừa thách vừa lắc lắc bàn tay khiến nhánh quýt run rẩy như gặp gió. - Nào bắn đi! Dừng một phút, Sora Đina quát lớn: - Thần hổ coi đây! Sang Mô giật mình, ngừng tay. Sora Đina bắn mũi tên xuyên qua chiếc lá c hót. Mọi người reo hò hoan hỉ. Lễ cưới diễn ra trọng thể. Đâm trâu, mời rượu, múa hát Dân làng ca ngợi đôi trai gái bằng tiếng hát và tiếng cồng chiêng(15) vang dậy. Riêng Sang Mô tức tối, kiếm cách trả thù. Năm sau, Điểu Du sinh được một con trai. Ngày đứ a bé ra đời, mưa tầm tã, Sang Mô nhân đó tung tin : “Điểu Du sanh ra ma quỉ, rồi sẽ có nạn mất mùa đói kém!”. Do đồn nhảm, Sang Mô bị Điểu Lôi gọi đến quở phạt. Hắn càng óan giận. Năm sau nữa, trong một chuyến đi săn chung với Điểu Lôi, Sang Mô đã sát hại (16) viên tù trưởng bằng một mũi tên bắn lén sau lưng. Rồi hắn cùng với mười tên phản loạn(17) khác kéo về suối Đạt Bo để giết luôn vợ chồng Sora Đina. Canh hai đêm đó, ngôi nhà của vợ chồng Sora Đina bỗng dưng bốc cháy. Sora Đina chỉ kịp hét lớn: “Có kẻ đốt nhà!”. Rồi ẵm con cùng Điểu Du thóat ra khỏi vùng lửa. Cuộc xô xát diễn ra ác liệt. Mải lo che chở cho con, Sora Đina bị thất thế(18). Còn Điểu Du sau một lúc chống cự cũng bị Sang Mô bắt. Sora Đina xông tới cứu vợ. Đứa con tuột khỏi tay chàng văng xuống đất. Bỗng một cái bóng mảnh mai lao nhanh đến và ôm lấy thằng bé chạy thóat vào rừng. Người đó chính là Sang My, em gái Sang Mô. Sang Mô gào lên: 4
  5. - Đuổi theo, trừ cho tiệt nòi! Nhưng bóng con ngựa trắng của Sora Đina chở Sang My trên lưng đã biến mất vào rừng. - Cho dù là em gái ta, cũng cứ bắn ! Tên bay vun vút. Sang Mô còn đốt cháy rừng hòng ngăn cản em gái mình chạy thóat. Tức giận, Sang Mô nghiến răng trói chặt vợ chồng Sora Đina quăng xuống một chiếc xuồng có chất sẵn một thứ nhựa cây dễ cháy, rồi thả xuồng trôi theo dòng nước chảy xiết. Sang Mô cho xuồng chèo rượt theo và cứ nhắm vào xuồng của Sora Đina buông những phát tên lửa. Đến một bậc đá, xuồng bị cản lại. Sora Đina đã kịp tháo dây trói và rút tù và ra thổi một hồi dài. Hàng trăm người ở miền hạ lưu (19) nghe tiếng tù và liền đổ xô ra bờ sông, nhảy qua những gộp đá, tiến tới chiếc xuồng đang bốc cháy ngùn ngụt. Mọi người ngậm ngùi trước cái chết đau đớn của Sora Đina và Điểu Du. Vừa lúc ấy, con ngựa trắng chở Sang My và đứa bé cũng chạy tới. Trên lưng Sang My có hai mũi tên cắm sâu. Nàng chỉ kịp trao đứa bé cho ông già Sora Đin rồi ngã gục xuống ngựa. Sora Đin vuốt mắt Sang My. - Ngàn đời tri ân(20) nàng đã cứu cháu ta. Còn con ngựa trắng thì ngóc đầu nhìn ra phía ngọn lửa đang b ốc cháy. Không thấy chủ, nó hí lên một tiếng dài buồn thảm rồi phóng mình xuống dòng thác xóay. Trong khi đó bà con đã bắt trói Sang Mô và mười tên phản lọan đem nộp cho Sora Đin. Những tên nghe lời dụ dỗ mua chuộc của Sang Mô được Sora Đin xóa tội. Còn Sang Mô thì bị trói chặt vào chỗ nó gây ra tội ác. Tù trưởng Sora Đin giương ná và lắp một mũi tên ngắm vào Sang Mô. Mọi người hồi hộp chờ đợi. Chợt Sora Đin hạ ná và hô to một tiếng “Pap”, rồi quẳng cái ná xuống dòng thác. Ông nói: - Hận thù không nên nối tiếp bằng máu ! Vì lòng tri ân đối với Sang My, ta tha chết cho Sang Mô ! Sang Mô dập đầu lạy tạ Sora Đin rồi ôm xác Sang My bước xuống xuồng, nước mắt rơi lã chã. Từ đó, người trong vùng gọi thác này là thác Tri Ân, sau đọc trại thành Trị An. (Trích Truyện dân gian Đồng Nai, Huỳnh Tới biên soạn, NXB Đồng Nai, 1994) Chú thích * Truyện cổ tích thế sự : (còn gọi là truyện cổ tích sinh hoạt hay truyện cổ tích hiện thực) có đặc điểm tiêu biểu là: - Nội dung : phản ánh những xung đột trong quan hệ gia đình và xã hội thời kỳ xã hội có giai cấp. - Nhân vật : diễn biến số phận của nhân vật về cơ bản tương ứng với diễn biến của cuộc sống hiện thực; kết thúc số phận của nhân vật bất hạnh trong truyện cổ tích thế sự thường không đẹp đẽ, có hậu như trong truyện cổ tích thần kỳ. - Yếu tố thần kỳ : truyện cổ tích thế sự có rất ít hoặc thường là không có yếu tố 5
  6. thần kỳ; và yếu tố thần kỳ chỉ có tác dụng nhấn mạnh ý nghĩa của một sự kiện hiện thực. (1) Bộ tộc : tổ chức xã hội nguyên thủy ở trình độ cao hơn bộ lạc. (2) Du mục : chăn nuôi súc vật, nơi này hết cỏ thì dời sang nơi khác; súc vật được nuôi ở đâu thì người ta theo sống ở đó chứ không ở một nơi cố định, không định cư (3) Châu Mạ : tên một dân tộc thiểu số sinh sống lâu đời ở vùng rừng núi các tỉnh Nam Tây Nguyên (trong đó có Đồng Nai). (4) Nghề nương rẫy : làm việc trên đất trồng trọt ở miền rừng núi. (5) Tù trưởng : người đứng đầu một bộ lạc. (6) Thiện xạ : bắn giỏi. (7) Châu Ro : tên một dân tộc thiểu số sinh sống lâu đời ở vùng rừng núi các tỉnh Nam Tây Nguyên (trong đó có Đồng Nai). (8) Chí hướng : ý muốn bền bỉ, quyết đạt tới một mục tiêu cao đẹp trong cuộc sống. (9) Nối nghiệp : tiếp tục sự nghiệp người trước để lại. (10) Phóng lao : lao là cây tre, gỗ vót nhọn, dùng làm vũ khí, phóng vào người quân địch để đâm thủng. (11) Thượng lưu : đoạn sông ở gần nguồn sông, thường kể cả vùng phụ cận. (12) Xuồng độc mộc : xuồng làm bằng một thân cây đục rỗng. (13) Tù và : dụng cụ để báo hiệu, thường dùng ở vùng rừng núi, làm bằng sừng trâu, bò hoặc vỏ ốc, dùng hơi để thổi, tiếng vang xa. (14) Thầy mo : từ gọi thầy cúng trong một số dân tộc thiểu số vùng núi. (15) Cồng chiêng : các loại nhạc khí gõ làm bằng đồng, dùng để phát hiệu lệnh hoặc biểu diễn trong các lễ nghi của một số dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. (16) Sát hại : giết hại. (17) Phản loạn : làm phản, gây rối loạn. (18) Thất thế : không có được hoặc bị mất đi vị trí, chỗ tực thuận lợi, làm cho không có sức chống đỡ. (19) Hạ lưu: đoạn sông ở gẩn cửa sông, thường kể cả vùng phụ cận. (20) Tri ân : biết ơn, ghi ơn. CHÀNG ÚT NÀNG SEN (Truyện cổ tích thế sự) Chàng tên là Út, ở làng trên, đựơc cha truyền nghề thợ xoay(1). Nàng tên là Sen, ở làng dưới, kế nghiệp mẹ làm thợ chấm men (2). Cả hai đều hiền lành, chăm chỉ làm ăn, hoa tay(3) khéo léo. Cả hai được xem là nghệ nhân (4) nổi tiếng trong vùng gốm ven sông Đồng Nai(5). 6
  7. Chàng Út có thói quen in dấu ngón tay út vào sản phẩm của mình. Hàng gốm do chàng Út xoay được ưa chuộng, người ta đặt hàng đưa về làng dưới chấm men rồi vào lò(6). Nàng Sen vì tên là Sen nên thích tạo họa tiết(7) chấm men thành búp sen xanh. Thấy có dấu ngón tay út in vào mặt hàng được xoay, tạo dáng xinh xắn, Sen cũng tinh nghịch in dấu ngón tay út mình vào bên cạnh. Lâu dần, dấu hai ngón tay út và búp sen xanh trở thành dấu hiệu của những hàng gốm được yêu thích, có giá, người ta tìm mua và bán đi khắp nơi. Một lần tình cờ gặp nhau, nhận ra sự gắn bó cần thiết cho nhau trong nghề nghiệp, chàng Út và nàng Sen kết duyên chồng vợ. Họ chung sức làm cho hàng gốm của mình ngày càng thêm đẹp, thêm độc đáo(8). Cuộc sống của họ cũng mỗi ngày mỗi khấm khá và hạnh phúc. Bỗng dưng binh đao(9) nổi lên. Giặc dữ kéo đến tàn phá làng gốm. Đương lúc chàng Út đi chọn đất(10) ở nơi xa, giặc kéo vào làng cướp bóc, bắt phụ nữ đưa về dinh trại(11) bên kia sông, giở trò dụ dỗ, cưỡng hiếp. Nàng Sen cũng bị bắt. Nàng kháng cự(12) nên bị giết, bị ném xác xuống sông. Được tin vợ bị bắt, chàng Út quyết vượt sông, tìm cách giải cứu (13). Giặc phát hiện(14), bắn tên giết chàng giữa dòng. Dòng sông quê hương thương đôi vợ chồng tài ba(15), chung thủy(16), dìu hai cái xác lại gần nhau, cùng trôi bên nhau. Lạ là máu họ tuôn ra không ngớt, hòa với ánh chiều rực rỡ, nhuộm đỏ cả dòng sông hàng mấy dặm(17). Sóng nước lại đưa máu thấm sâu vào đất hai ven bờ. Đất hóa đỏ thẫm, mịn và dẻo như quánh vào nhau không rời. Từ đó, thứ đất nhuyễn máu hai nghệ nhân tài ba và chung thủy trở thành đất làm gốm nổi tiếng cho đến bây (Trích Truyện dân gian Đồng Nai, Huỳnh Tới biên soạn, chỉnh lý, NXB Đồng Nai, 1994) Chú thích (1) Thợ xoay : thợ tạo dáng hình đồ gốm; người thợ đặt mớ đất trên cái bàn xoay, chân đạp cho bàn chạy quanh, và tay từ từ nặn hình các sản phẩm. (2) Thợ chấm men : người thợ vẽ họa tiết lên các sản phẩm trước khi đưa vào lò nung. (3) Hoa tay : ở đầu ngón tay có những đường chỉ li ti kết thành hình xinh đẹp, hình đó gọi là hoa tay; ai có bàn tay khéo léo được cho là người có hoa tay; do đó, nói hoa tay tức là nói bàn tay khéo léo, tài hoa. (4) Nghệ nhân : những người thợ có tài, có tâm hồn nghệ sĩ. (5) Vùng gốm ở ven sông Đồng Nai : gồm các xã Hóa An, Tân Vạn, Bửu Hòa. (6) Vào lò: sau khi làm xong sản phẩm, người thợ cho vào lò, nung chín lên. (7) Họa tiết: nét, hình vẽ, chạm trên đồ vật để trang trí; đây là hình vẽ trên đồ gốm. (8) Độc đáo : lối riêng; vẻ riêng; khác lạ. (9) Binh đao : chiến tranh. 7
  8. (10) Chọn đất : tìm đất, đây là tìm thứ đất có thể làm đồ gốm được. (11) Dinh trại : (doanh trại) nơi đóng quân. (12) Kháng cự : chống lại, không chịu tuân lệnh. (13) Giải cứu : gỡ khỏi sự nguy hiểm để cứu người. (14) Phát hiện : tìm ra, tìm thấy. (15) Tài ba : tài giỏi. (16) Chung thủy : giữ lòng trung thành, trước sau như một. (17) Dặm : đơn vị chiều dài dùng chỉ quãng cách ngày xưa; một dặm bằng khoảng nửa cây số. TRẬN MÃNG XÀ (Truyện cổ tích của Huỳnh Văn Nghệ) Ngày xưa, ở Đồng Nai có một loại trăn to và rất dữ mà trong vùng thường được gọi là rắn mãng - xà - vương(1). Người ta bảo có những con mãng xà to bằng cái cối xay lúa(2) và dài đến hai, ba chục thước, có thể nuốt sống được tất cả các loại thú rừng, kể cả voi nữa. Mãng xà bắt các loài thú khác bằng cách dùng thân quấn chặt đối phương rồi xiết cho đến chết. Đối với những con thú nhỏ không quấn được thì nó chỉ táp rồi nuốt sống, đối phương có thể vùng vẫy kêu la trong bụng nó một hồi lâu rồi mới chết ngợp. Mỗi khi no say, mãng xà nằm ngủ luôn tại chỗ hàng tháng trời. Nó nằm im lìm như một thân gỗ mục, mặc trời mưa, trời nắng, cứ ngủ. Lá rụng đầy trên lưng nó, rêu mọc lên thân, lên đầu nó. Nếu có con thú nào vô ý dằn mạnh lên thân, lên đầu nó thì nó giật mình vùng dậy bắt ăn luôn rồi ngủ nữa. Đồng bào Đồng Nai sợ mãng xà hơn sợ ma quỷ. Nó đến đâu thì thú rừng bị ăn hoặc trốn đi nơi khác hết. Thợ săn(3), thợ rừng(4) phải chịu nghèo đói. Nó bò đến đâu thì nương rẫy ngã rạp đến đó như bị bão lụt vậy. Có một con mãng xà đã nuố t chửng cả một bầy chó và anh thợ săn một lượt. Có nhiều làng ở ven rừng phải lập miếu thờ (5) thần mãng xà như thờ thần hổ vậy. Nhiều người tinh thông võ nghệ (6) đã từng đánh được hổ, nhưng khi nói đến mãng xà thì cũng đành thu mình lại, dấu roi mà chạy. Thuở ấy có hai cha con ông Bảy Túc ở làng Mỹ Lộc cũng rất giỏi võ và đều làm nghề thợ rừng. Rừng là nguồn sống duy nhất của gia đình này. Ngoài việc đốn tre, thả gỗ, cắt tranh, thả bè, cha con ông Bảy Túc không còn biết làm nghề nào khác. Vì vậy có những lúc nghe nói có thú dữ về rừng, không ai dám đi rừng đi nữa, ông Bảy Túc cũng phải mạo hiểm(7) đi tìm bát cơm, manh áo cho gia đình trong chốn rừng thiêng ấy. Người ta bảo “sanh nghề thì tử nghiệp” (8), sống nhờ rừng thì thế nào cũng chết vì rừng, nhưng ông Bảy vẫn không muốn bỏ cái nghề làm ăn quen thuộc của mình và càng yêu nghề, yêu 8
  9. rừng tha thiết. Người con trai của ông tên là anh Mạnh, một thanh niên hai mươi tuổi, to khoẻ và nhanh nhẹn. Anh đã hỏi vợ đôi ba nơi rồi mà không được, chỉ vì cái nghề làm ăn rất nguy hiểm của anh. Cha mẹ cô Thoan, người yêu của Mạnh không ngần ngại gì mà nói với con gái của mình rằng: “Mày muốn lấy thằng Mạnh làm chồng thì nên để tang nó trước vì nó là miếng mồi ngon của mãng xà đó”. Thoan khuyên Mạnh đi làm nghề khác để được cưới nhau, nhưng Mạnh không nỡ bỏ cha đi rừng một mình, rốt cuộc hai người vẫn không thành vợ chồng được. Một hôm hai cha con Bảy Túc vào rừng bỗng gặp một con voi bị mãng xà quấn. Đầu con mãng xà bám chặt trên một cây cổ thụ (9) rất cao. Nó chỉ dùng khúc đuôi quấn hai vòng quanh thân con voi to tướng. Sức voi có thể bứt đứt mãng xà ra làm đôi và giày xác nó. Nhưng không hiểu tại sao voi lai nhắm nghiền mắt lại mà đứng yên như chết. Nhìn kỹ ông Bảy Túc mới thấy rằng chót đuôi của mãng xà đang ngoáy vào rốn voi làm cho voi nhột quá chịu không nổi, đành chết đứng như vậy. Ông Bảy nghĩ thầm: “to, béo không phải là mạnh, một chỗ yếu bị chọc có thể làm cho toàn sức lực to mấy cũng trở thành vô dụng”. Nghĩ vậy ông nói với con rằng: “Chúng mình phải cứu “ngài” (tức voi con), nếu không “ngài” sẽ bị mãng xà nuốt mất”. Anh Mạnh lo sợ khuyên cha: “Nhưng nếu mãng xà trả thù thì cha con ta cự đương (10) sao nổi? Chi bằng ” - Không được, làm người không thể sợ chết mà làm ngơ trước sự bất công. Voi chỉ ăn cỏ, không làm hại ai, ta cứu voi, giết mãng xà là phải. Con cứ đứng đây, thủ thế sẵn sàng. Cha vào đánh trước, chừng nào cha mệt thì con vào thay. Anh Mạnh chưa kịp nói gì thì Bảy Túc đã xông đến gần con voi rồi. Ông dùng lưỡi rựa(11) bén chém một phát thật mạnh lên lưng mã ng xà. Con mãng xà bị đứt đuôi ngay, đầu nó buông ngọn cây, cả thân nó rơi xuống đất như một cây to vừa bị đốn. Thấy Bảy Túc múa rựa xông đến, nó hốt hoảng chạy trốn. Con voi cũng giật mình bỏ chạy để lại một khúc đuôi mãng xà dài đến ba bốn sải tay. Cha con ông Bảy ra sức kéo đuôi mãng xà về làng. Đồng bào rủ nhau đến xem. Ai cũng sợ và lo ngại cho gia đình ông. Người ta bảo: “Đập rắn thì phải đập nát đầu, nếu không rắn sẽ trả thù nay mai”. Thấy mình đánh được mãng xà một trận, ông Bảy Túc cũng bớt sợ mãng xà rồi. Hôm sau hai cha con lại vào rừng kéo gỗ, kéo tre như thường ngày. Không ngờ vừa đến nơi thì thấy gỗ, tre của ông đã được voi kéo giùm ra bờ sông hết. Ngoài ra, có một số gỗ, tre tốt khác cũng đã được voi nhổ cả gốc kéo ra tận bờ sông chất đống cho ông. Thực ra, lúc đánh mãng xà để cứu voi, cha con ông Bảy không nghĩ đến việc sẽ được voi đền ơn đáp nghĩa như vậy. Voi biết trả ơn thì mãng xà cũng biết trả thù, ông Bảy và anh Mạnh đều liên tưởng như vậy, nên mỗi khi vào rừng lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng để đối phó. Ngoài những dụng cụ thợ rừng như búa, rìu, cưa, rựa hai người con luôn mang theo những vũ khí để đánh mãng xà như roi cau rừng, độc ngạnh (12) có hai đầu, đầu nào cũng có lưỡi ba chia, cán độc dài đến ba thước. Anh đề phòng trường hợp bị mãng xà quấn thì dùng cây độc ấy mà chống hai đầu để thoát. Quả nhiên, một hôm hai cha con ông Bảy Túc vừa vào đến bìa rừng thì gặp mãng xà đón đường. Hai người nhận ra ngay con mãng xà bị đánh trước đây, vì nó cụt đuôi và cũng to bằng chiếc cối xay vậy. Vừa thấy hai người thì nó há mồm nom như một cái miếu 9
  10. mở và uốn mình, cất cao đầu lên gầm thét, định phóng tới vồ mồi. Ông Bảy vội bảo con núp sau một cây to thủ thế(13) chờ, còn ông xách rựa bén xông tới giao chiến (14) trước. Đánh chưa được một hiệp thì bỗ ng nhiên ông Bảy bị mãng xà táp nuốt sống luôn cả cái rựa vào bụng nó. Nuốt người cha xong, con mãng xà hung hãn tiến về phía gốc cây định nuốt quách người con. Nó vẫn há mồm to bằng cái cửa miếu và cặp mắt đỏ như hai ngọn đèn. Anh Mạnh sợ quá toan vứt cả độc hai đầu mà chạy. Bỗng anh nghe như có tiếng của lương tâm anh thét lớn: “Đồ hèn nhát, con thú còn biết trả thù. Mi không dám liều chết trả thù cho cha mi sao?”. Lòng thương cha và căm thù mãng xà bỗng bừng bừng nổi dậy, anh liền bước ra trước gốc cây, cầm độc ngạnh sẵn sàng nghênh chiến (15). Con mãng xà mừng rỡ, uốn mình phóng tới như trời sập bên cạnh anh, anh liền múa độc đánh, đầu mãng xà cứng như đá, lưỡi độc của anh chỉ chạm vào chớp lửa rồi dội trở ra chứ không ăn thua gì. Rút được bài học kinh nghiệm đau đớn của cha, anh đã tránh được mấy cái táp rất nguy hiểm của con mãng xà. Nhưng sức mãng xà to lắm, anh chỉ vì căm thù nó mà phải đánh, chớ hy vọng thắng được nó cũng rất mong manh. Không ngờ cuộc chiến đấu thực tế ấy đã giúp anh một sáng kiến rất quyết định: Anh liền thay đổi cách đánh. Thừa lúc mãng xà há mồm định táp anh một lần nữa anh bèn nhanh chân nhảy phóc trong mồm nó. Mãng xà tưởng ngon ăn vừa khép mồm lại để nuốt thì cây độc ngạnh hai đầu của anh đã khoá chặt hai hàm của nó, nó không thể nào ngậm lại được. Bị thương giữa họng, mãng xà đau đớn vùng vẫy như điên làm nát hàng chục mẫu (16) rừng. Anh mạnh chạy thẳng vào bụng nó để tìm cha. Ông Bảy được anh cứu tỉnh lại ngay, rồi hai cha con cùng nhau dùng rựa, dao găm tha hồ đánh phá ngay trong lòng mãng xà. Tim, gan, phổi của nó đều bị bầm nát mà mãng xà vẫn còn vùng vẫy được. Nó cố bò ra sông để trầm mình xuống nước. Nhờ có đồng bào cả làng Mỹ Lộc xúm nhau đón đánh tiếp, mãng xà chịu chết ở bờ sông. Hai cha con ông Bảy Túc từ trong bụng mãng xà bước ra, được đồng bào hoan nghênh nhiệt liệt. Sau trận ấy, các con mãng xà khác đều phải bỏ vùng này mà đi mất hết, đồng bào ra rừng làm ăn thong thả như đi dạo vườn hoa. Lần đầu tiên đồng bào Đồng Nai được ăn thịt mãng xà trong tiệc cưới của Thoan và Mạnh. Ai cũng khen gan mãng xà rất ngon và không còn sợ mãng xà nữa. (Trích Huỳnh Văn Nghệ - Tác giả và tác phẩm, tập 2, Bùi Quang Huy tuyển chọn và giới thiệu, NXB Đồng Nai, 2008) Chú thích * Tác giả Huỳnh Văn Nghệ: sinh ngày 02/02/1914 tại làng Tân T ịch (xã Tân Uyên, tỉnh Biên Hoà; nay thuộc xã Thường Tân, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương ). Ông xuất thân trong làng quê “nghèo sản vật mà giàu truyền thống cách mạng”. Được “gieo trồng” trong một nền giáo dục gia đình nền nếp, nhân nghĩa, Huỳnh Văn Nghệ là hình ảnh kết tinh truyền thống của quê hương, nghĩa khí của cha, đức bao dung của mẹ, bản lĩnh của các anh chị em, sự hồn nhiên của bạn bè và thiên tư của chính mình. Ông theo học sơ học ở trường quận, học tiếp trường nội trú ở trường Petrus Ký Sài Gòn, ra làm công chức hoả xa. Ông tham gia cách mạng rất sớm, có nhiều đóng góp trong binh nghiệp và văn nghiệp của Đồng Nai. Ông mất năm 1977 tại thành phố Hồ Chí Minh, an táng tại quê nhà. Ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 20 07, truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 2009. 10
  11. * Văn bản Trận mãng xà trên đây in theo Bản chép tay của tác giả. Ở ngoài bìa của Bản chép tay này có ghi: “Chuyện đời xưa/Ngọc Ngộ kể/Huỳnh Văn Nghệ ghi”. (1) Mãng xà vương : vua của loài rắn. (2) Cối xay lúa : cối dùng để xay, gồm hai thớt tròn, thớt dưới cố định, thớt trên quay được chung quanh một trục. (3) Thợ săn : người làm nghề săn bắt thú rừng và chim. (4) Thợ rừng : người làm nghề khai thác tài nguyên, sản vật của rừn g. (5) Miếu thờ : nơi thờ thần thánh (hoặc những nhân vật được nhân dân tôn thờ). (6) Tinh thông võ nghệ : hiểu biết tường tận, thấu đáo và sử dụng thành thạo các môn võ để chiến đấu. (7) Mạo hiểm : liều lĩnh làm một việc biết là có thể mang lại hậu qu ả rất tai hại. (8) Sanh nghề thì tử nghiệp: Ý nói sống nhờ nghề nào thì chết vì nghề ấy. (9) Cổ thụ : cây to sống đã lâu đời. (10) Cự đương : chống lại bằng sức lực. (11) Rựa: một loại dao to, sống dày, mũi bằng hoặc cong , dùng để chặt, chẻ. (12) Độc ngạnh : một loại vũ khí cổ, hai đầu có chĩa ba nhọn. (13) Thủ thế : Giữ mình ở thế thủ khi đánh võ. (14) Giao chiến : đánh nhau giữa các lực lượng vũ trang hoặc các nước đối địch. (15) Nghênh chiến : đón đánh mặt đối mặt. (16) Mẫu : đơn vị cũ đo diện tích đất. Một mẫu bằng 3600 mét vuông (mẫu Bắc Bộ) hay 4970 mét vuông (mẫu Trung Bộ) 2. TỔNG QUAN VỀ TỤC NGỮ, CA DAO Ở ĐỒNG NAI Kho tàng tục ngữ, ca dao Đồng Nai khá phong phú. Nó đúc kết kinh nghiệm về đời sống sản xuất, sinh hoạt xã hội của người Đồng Nai. Đó còn là lời ca đọng lại từ những khúc hát trữ tình của người Đồng Nai. 1. Tục ngữ Người Việt ở Biên Hoà - Đồng Nai kế tục vốn tri thức và tiếng nói của cha ông từ các vùng miền khác nhau trên đất nước cho nên trong kho tàng tục ngữ phương ngôn về kinh nghiệm sản suất, qui tắc ứng xử cơ bản là ít có điều khác lạ so với đàng ngoài. Tuy vậy, cũng có những câu tục ngữ ghi lại kinh nghiệm sống được hình thành từ cuộc sống sản xuất, ứng xử của người Việt ở vùng đất Đồng Nai. Đó là kinh nghiệm dự báo thời tiết mang nét riêng của địa hình Đồng Nai: - Tháng giêng nắng dai, tháng hai giông tố Tháng ba nồm (1) sợ, tháng tư nồm non. - Đười ươi cười thì nắng, cỏ gà trắng thì mưa. 11
  12. Tục ngữ của người Việt ở Đồng Nai đúc kết những kinh nghiệm trong việc chọn giống nuôi trồng phù hợp với thổ nhưỡng Đồng Nai: - Được mùa xoài, toi (2) mùa lúa. - Được mùa cau đau mùa lúa, được mùa lúa úa mùa cau. Hoặc quảng bá kinh nghiệm thưởng thức sản vật địa phương: - Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai. - Trầu bai Bến Cá, thuốc lá Tân Huê (3). - Ăn chuối đàng sau, ăn cau đàng trước - Dưa đàng đít, mít đàng đầu. Ghi nhận kinh nghiệm ứng xử xã hội hình thành trong tập quán cộng đồng : - Họ hàng thì xa, sui gia (4) thì gần. - Đất mình thì đội dù (5) qua, Sang đất người ta thì hạ dù xuống TỤC NGỮ VỀ ĐỜI SỐNG SẢN XUẤT, SINH HOẠT XÃ HỘI 1/ “Tháng giêng nắng dai (1), tháng hai giông tố Tháng ba nồm (2) sợ, tháng tư nồm non”. 2/ “Được mùa xoài, toi (3) mùa lúa”. 3/ “Cơm Nai Rịa, cá Rí Rang (4)”. 4/ “Dưa đàng đít, mít đàng đầu”. 5/ “Ăn chuối đàng sau, ăn cau đàng trước”. 6/ “Họ hàng thì xa, sui gia (5) thì gần”. 7/ “Đất mình thì đội dù qua Sang đất người ta thì hạ dù xuống”. Chú thích: (1) Nắng dai: tháng giêng ở Nam bộ là tháng nắng, nắng từ ban mai cho đến chiều tối. (2) Nồm: gió nồm mang đặc tính gió mát và ẩm ướt thổi từ Đông - Nam tới Viêt Nam từ tháng 4 đến tháng 10. (3) Toi: chết; ở đây hiểu là thất bại, năng suất lúa thấp. (4) Nai, Rịa: tỉnh lược Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu. Rí, Rang: tỉnh lược Phan Rí, Phan Rang. (5) Sui gia: chỉ quan hệ của bố mẹ 02 bên giữa nhà trai (phía chú rễ) và nhà gái (phía cô dâu). Có nơi hiểu rộng hơn là quan hệ của 02 gia đình. 12
  13. Hình thức của tục ngữ: Tục ngữ ban đầu chỉ là những câu nói xuôi tai, hợp lý, sau dần mới trở thành những câu đối có vần vè, gọn gàng hơn. Tục ngữ Đồng Nai phần lớn đều có vần vè, hay có đối. - Họ hàng thì xa, sui gia thì gần. - Ăn chuối đàng sau, ăn cau đàng trước Vần gieo phong phú, có khi vần liền, có khi vần cách (cách hai chữ, ba chữ) thậm chí vần gieo theo thể lục bát. “ Đất mình thì đội dù qua, Sang đất người ta thì hạ dù xuống” Tục ngữ Biên Hoà - Đồng Nai hiện chưa được ghi chép đầy đủ, nhưng có bao nhiêu mặt sinh hoạt của con người là có bấy nhiêu lĩnh vực đời sống đã đi vào phương ngôn, tục ngữ, góp phần làm giàu thêm vốn sống, vốn tiếng Việt ở địa phương. + Tục ngữ về đời sống sản xuất và sinh hoạt 1/ “Tháng giêng nắng dai (1), tháng hai giông tố Tháng ba nồm (2) sợ, tháng tư nồm non”. 2/ “Được mùa xoài, toi (3) mùa lúa”. 3/ “Cơm Nai Rịa, cá Rí Rang (4)”. 4/ “Dưa đàng đít, mít đàng đầu”. 5/ “Ăn chuối đàng sau, ăn cau đàng trước”. 6/ “Họ hàng thì xa, sui gia (5) thì gần”. 7/ “Đất mình thì đội dù qua Sang đất người ta thì hạ dù xuống”. Chú thích: (1) Nắng dai: tháng giêng ở Nam bộ là tháng nắng, nắng từ ba n mai cho đến chiều tối. (2) Nồm: gió nồm mang đặc tính gió mát và ẩm ướt thổi từ Đông - Nam tới Viêt Nam từ tháng 4 đến tháng 10. (3) Toi: chết; ở đây hiểu là thất bại, năng suất lúa thấp. (4) Nai, Rịa: tỉnh lược Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu. Rí, Rang: tỉnh lược Phan Rí, Phan Rang. (5) Sui gia: chỉ quan hệ của bố mẹ 02 bên giữa nhà trai (phía chú rễ) và nhà gái (phía cô dâu). Có nơi hiểu rộng hơn là quan hệ của 02 gia đình. 2. CA DAO Ca dao dân ca Đồng Nai khá phong phú, nó phản ánh đời sống sinh hoạt xã hội, tâm tư tình cảm con người Đồng Nai trong quá trình mở đất lập nghiệp và đấu tranh bảo vệ quê hương xứ sở. 13
  14. Phong phú nhất là mảng ca dao trữ tình mang theo trong hành trang người Việt đến xứ Biên Hoà - Đồng Nai. Nhiều câu hát gốc Bắc bộ, Trung bộ được biến thể đôi chút trở thành tài sản gắn với địa phương. Cách diễn đạt “chiều chiều quạ nói với diều ” đến với Đồng Nai: “ Bao phen quạ nói với diều Ngã ba rạch cát (6) có nhiều cá tôm” + Ca dao và lời mời gọi, quảng bá hướng về Đồng Nai. Nói đến ca dao Đồng Nai thì phổ biến nhất là mảng ca dao mời gọi, quảng bá. Đây là những bài có sức sống bền bỉ và được lưu truyền ở nhiều vùng miền khác nhau. Có thể ban đầu là “tiếng lành đồn xa” về vùng “đất lành”, màu mở, trù phú với nhiều gạo trắng, nước trong hấp dẫn người khai hoang, nhưng sau này là lời mời gọi hướng vào nội dung quảng bá thiên nhiên sản vật địa phương. - “Nhà Bè nước chảy chia hai Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về”. - “Làm trai cho đáng nên trai Phú Xuân cũng trãi Đồng Nai cũng từng”. - “Đồng Nai gạo trắng nước trong Ai đi đến đó thời không muốn về”. - “Ăn bưởi thì hãy đến đây Đến mùa bưởi chín vàng cây trĩu cành”. - “Hết gạo thì có Đồng Nai Hết củi thì có Tân Sài chở vô” - “ Đồng Nai gạo trắng như cò Trốn cha, trốn mẹ xuống đò theo anh” + Ca dao và đời sống tư tưởng, tình cảm của người Đồng Nai - Phản ánh đời sống, sinh hoạt xã hội của người Đồng Nai . Trong những ngày đầu đặt chân đến Đồng Nai khai khẩn, người Việt đã ghi lại những cảm xúc bỡ ngỡ lạ lùng trước cảnh vật hoang sơ của vùng đất mới - “Đến đây xứ sở lạ lùng Con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh”. - “Đi ra sợ đỉa cắn chưn(7) Xuống sông sấu ních (8) lên rừng cọp tha ”. Qua lao động người Đồng Nai chinh phục thiên nhiên làm chủ vùng đất mới, họ tự hào về thành quả lao động, tự hào về quê hương. Mảng ca dao ca ngợi sản vật đia phương Đồng Nai xuất hiện nhiều nhất, nó không chỉ thể hiện niềm vui trong lao động mà còn quảng bá sản vật địa phương. Đó là những sản vật gắn liền với thương hiệu địa phương : - “Trà Phú Hội, nước Mạch Bà Sầu riêng An Lợi, chuối già Long Tân Cá buôi, sò huyết Phước An 14
  15. Gạo thơm Phước Khánh, tôm càng Tam An”(9) - “Biên Hoà có bưởi Thanh Trà Thủ Đức: nem nướng, Điện Bà: Tây Ninh”. Họ quảng bá cho chất lượng sản phẩm “Biên Hoà bưởi chẳng đắng the ” Ngay cả trong những bài ca dao có nội dung thể hiện tâm tư tình cảm, người bình dân cũng gắn liền với cây trái Đồng Nai: - “Thân em như bưởi trắng ròng Mùi thơm nực mũi mà lòng sạch trong” - “Con khôn cha mẹ nào ngăn Tỉ như trái bưởi ai lăn nó tròn”. - “Có anh thi rớt trở về Bà con đón hỏi nhiều bề khó khăn Bưởi kia anh chẳng buồn ăn Sầu riêng, Tố nữ anh quăng đầy đường”. Công việc sản xuất, bán buôn ở Đồng Nai cũng được phản ánh trong ca dao với cảnh chợ Trấn Biên buôn bán tấp nập: - “Đố ai con rết mấy chân Cầu ô mấy nhịp, chơ Dinh mấy người Mấy người bán áo con trai Chơ trong bán chỉ, chợ ngoài bán kim”. Cảnh buôn bán nhỏ, lẽ xuất hiện với hình ảnh cô bán thuốc, cô bán bưởi trong lời trêu ghẹo: ‘Trời mưa xăn ống cao quần, Hỡi cô bán thuốc nhà gần hay xa”. Hay là cảnh tập sự đi buôn qua lời ru em: - “Đi buôn biết lỗ biết lời Đi ra cho thấy mặt trời, mặt trăng”. Và đây là hình ảnh cô gái đan đệm: - “Ngó lên trên xóm đầu cầu Có cô đươn đệm trên đầu dắt ghim”. + Ca dao ghi lại tâm tư tình cảm con người Đồng Nai Ca dao Đồng Nai ít xuất hiện những bài than thân về tình duyên trắc trở so với ca dao vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung bộ; nhưng trong mảng ca dao than thân ta lại thấy xuất hiện những lời than thân của người “xa xứ lạc loài tới đây”, của người thợ nghèo, phu đồn điền, người lính, những người buôn thúng bán bưng Qua câu hát, lối ứng xử trong cuộc sống, tính cách của người Đồng Nai bộc lộ rõ nét; đó là sự nóng nảy, bộc trực, cũng có khi là những nét cởi mở, bạo dạn, mở lòng của 15
  16. người phụ nữ hoặc những lời vui vẽ, tinh nghịch mang phong cách Nam bộ cũng được thể hiện rất rõ: “Câu hò tôi đựng một lu Lum khum nó rớt chổng khu mò hoài” - Ca dao Đồng Nai phản ánh quá trình đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ quê hương xứ sở: Khu Đ đi dễ khó về Lính đi bỏ mạng, quan về mất lon” Ca dao Đồng Nai phản ánh đời sống tâm hồn, tính cách của người Biên Hoà, Đồng Nai, từ lâu nó trở thành đời sống tinh thần của người Biên Hoà - Đồng Nai. + Về nghệ thuật: Điểm phổ biến thường xuất hiện trong các bài ca dao Đồng Nai, đó là mô tip chung về mời gọi, quảng bá về vùng đất Đồng Nai. Lời mời gọi trãi dài ở nhiều giai đoạn khác nhau, với nhiều mục đích khác nhau: như mời gọi, rủ rê, thông tin, quảng bá sản vật, quảng bá công trình văn hoá. - “Đến đây xứ sở lạ lùng Con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh”. - “Đồng Nai gạo trắng nước trong Ai đi đến đó thì không muốn về”. - “Ai ơi về Đại phố Châu Thăm núi Châu Thới, qua cầu Đồng Nai”. Trong cách nói, cách so sánh thường dùng các sản vật địa phương để liên hệ: “Thiếp như cam, quít, bưởi, bòng Đắng the ngoài vỏ mà lòng ngọt thanh. Sầu riêng, măng cụt, bưởi thanh Xoài ngon, mít ngọt, cam chanh đầy vườn.” Hoặc mượn các sản vật địa phương để ngụ ý bằng phương thức ẩn dụ: “Bông lài, bông lý, bông ngâu Không bằng bông bưởi thơm lâu dịu dàng”. Có khi than thân trách phận cũng mượn hình ảnh các sản vật địa phương: “Xay lúa giã gạo Đồng Nai Gạo trắng về ngài, tấm cám về tôi”. Phong cách ngôn ngữ Đồng Nai nói riêng, nam bộ nói chung mạnh mẽ, xông xáo, bộc trực, đầy sức sống: - “Anh về sao đặng mà về Miếu kia chưa dựng, lời thề còn đây” 16
  17. Chú thích: (1) Nồm: chỉ gió nồm mang đặc tính gió mát và ẩm ướt thổi từ Đông - Nam tới Viêt Nam từ tháng 4 đến tháng 10. (2) Toi: chết; ở đây hiểu là thất bại, năng suất lúa thấp. (3) Cần Đước thuộc tỉnh Long An ngà y nay - Bến Cá, Tân Huê thuộc Đồng Nai xưa. (4) Sui gia (thông gia): Hai nhà có con kết hôn với nhau. (5) Dù: Đồ dùng cầm tay để che mưa nắng, giống như cái ô nhưng có màu sắc và nông lòng hơn. (6) Ngã ba rạch cát: đoạn sông Đồng Nai nơi tiếp giáp giữa trung tâm Biên Hoà với Cù lao phố. (7) Chưn : chân (8) Ních : 1.Nhét cho đầy, cho chặt. 2. ăn cho thật nhiều : Ních cơm đầy dạ dày. Ních ở đây gần nghĩa với ăn, nuốt. (9) Phú Hội, Mạch Bà, An Lợi, Long Tân, Phước An, Phước Khánh, Tam An : những địa danh của huyện Long Thành - Đồng Nai xưa. CA DAO VẾ THIÊN NHIÊN, XỨ SỞ ĐỒNG NAI 1. Bao phen quạ nói với diều Ngã ba Rạch Cát (1) có nhiều cá tôm. 2. Đồng Nai gạo trắng nước trong Ai đi đến đó thì không muốn về. 3. Đồng Nai xứ sở lạ lùng Dưới sông sấu lội, trên giồng cọp um (2). 4. Ăn bưởi thì hãy đến đây Đến mùa bưởi chín vàng cây trĩu cành Ngon thơm mít mật, cam sành Biên Hoà có bưởi trứ danh tiếng đồn. 5. Trà Phú Hội, nước Mạch Bà Sầu riêng An Lợi, chuối già Long Tân. Cá bui, sò huyết Phước An Gạo thơm Phước Khánh, tôm càng Rạch Nhum (3). 6. Ai ơi về Đại phố Châu (4) Thăm núi Châu Thới (5), qua cầu Đồng Nai. 17
  18. Chú thích: (1) Ngã ba Rạch Cát: địa danh trên Sông Đồng Nai, phía bắc Cù lao Phố (Hiệp Hoà). (2) Giồng: mô đất cao; um: kêu, la nhiều, inh ỏi. (3) Các địa danh Phú Hội, Mạch Bà, An Lợi, Long Tân, Phước An, Phước Khánh, Rạch Nhum thuộc huyện Long Thành xưa (nay là Nhơn Trạch) (4) Đại phố Châu: nay là xã Hiệp Hoà, thành phố Biên Hoà. (5) Núi Châu Thới: nay thuộc địa phận tỉnh Bình Dương (nằm ở cửa ngõ phía Nam của thành phố Biên Hoà). CA DAO VỀ SINH HOẠT XÃ HỘI Ở ĐỒNG NAI 1. “Xay lúa giã gạo Đồng Nai Gạo trắng về ngài tấm cám về tôi”. 2. “Cao su khổ lắm ai ơi Dân phu (1) thí xác cả ngày ngoài lô Còng lưng cạo mũ cơ hồ Tấm thân trâu ngựa, tội tù khổ sai (2)”. 3. “Bán buôn thúng lủng, tràng hư Mãn mùa tính lại chẳng dư đồng nào”. 4. “Đố ai con rết mấy chân Cầu ô mấy nhịp, chơ Dinh mấy người (3) Mấy người bán áo con trai Chợ trong bán chỉ, chợ ngoài bán kim”. 5. “Chiều chiều vịt lội cò bay Ông voi bẻ mía chạy ngay vô rừng Vô rừng bứt một sợi mây, Đem về thắt gióng cho mày đi buôn Đi buôn đi bán không lỗ thì lời Đi ra cho thấy mặt trời, mặt trăng” (4). Chú thích: (1) Phu: chỉ người lao động nặng, vất vả trong các c ông trường, đồn điền, hầm mỏ dưới thời thuộc Pháp. (2) Khổ sai: Công việc cực nhọc quá sức mà các phạm nhân trong chế độ thuộc địa phải làm. (3) Chợ Dinh: Chợ đặt nơi trung tâm tỉnh, dinh trấn. Theo Lương Văn Lựu (Biên Hùng sử lược toàn biên, quyển 2, trang 92) thì “câu hát trên là do danh từ Trấn Biên - xưa gọi là chợ Bàng Lân hay chợ Lộc Dã”. Ở đây hiểu là Chợ Dinh Trấn Biên). 18
  19. (4) Có dị bản: “Chiều chiều vịt lội cò bay Ông voi bẻ mía chạy ngay vô rừng Vô rừng bứt một sợi mây Đem về thắt gióng cho nàng đi buôn Đi buôn biết lỗ biết lời Đi ra cho thấy mặt trời mặt trăng” Đọc thêm: “ Thế gian còn dại chưa khôn Sống mặc áo rách, chết chôn áo lành”. “Con khôn cha mẹ nào ngăn Tỉ như trái bưởi ai lăn nó tròn” Dang tay đánh thiếp sao đành Tấm rách ai vá, tấm lành ai may? Ví dầu cầu ván đóng đinh Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi Khó đi mẹ dắt con đi Con đi trường học, mẹ thi trường đời. Đường về Đất Đỏ miền Đông, Cao su bao lá hận lòng bấy nhiêu. Kiếp phu đổ lắm máu đào, Máu loang mặt đất, máu trào mủ cây Trần Gian địa ngục là đây, Đồn điền Đất Đỏ nơi tây giết người. + Bài ca dao: RỒNG CHẦU NGOÀI HUẾ, NGỰA TẾ ĐỒNG NAI Rồng chầu ngoài Huế, Ngựa tế(1) Đồng Nai. Nước sông trong đổ lộn sông ngoài, Thương người xa xứ(2) lạc loài tới đây. Tới đây thì ở lại đây, Bao giờ bén rễ xanh cây mới về. 19
  20. Chú thích (1) Ngựa tế : ngựa chạy mau (theo dân gian ngựa chạy có ba tốc độ: nước kiệu, nước tế, nước phi) nhưng chưa thật nhanh như phi. (2) Người xa xứ : người ở xa đến nên gọi là xa xứ, rời xứ mà đến đây. 3. VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ. Giới thiệu chung : Là một trong các tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số (1) khác nhau cùng chung sống từ lâu, do nhiều biến thiên (2) của lịch sử, hiện nay Đồng Nai có 34 dân tộc thiểu số. Trong đó, có các dân tộc bản địa(3) là Châu Mạ(4), Châu Ro(5), Stiêng(6). Kho tàng văn học dân gian các dân tộc thiểu số Đồng Nai khá phong phú, bao gồm truyện kể, ca dao, dân ca, tục ngữ. Nó lưu giữ ký ức lịch sử, giãi bày tình cảm, đúc kết kinh nghiệm về đời sống sản xuất, sinh hoạt xã hội của các dân tộc thiểu số Đồng Nai. Một số thể loại : Truyện kể dân gian: Ở đồng bào các dân tộc thiểu số, truyện kể là tài sản tinh thần quan trọng; đó là "lịch sử", là luật tục (7), là hình mẫu nếp sống cổ truyền của cha ông, đồng thời cũng là cách để thư giãn tinh thần. Truyện kể của người Châu Mạ, Châu Ro, Stiêng thường tự sự dưới hình thức văn vần; già làng(8) thường kể truyện trong không khí sinh hoạt cộng đồng ở nhà dài (9), ở các lễ hội gia đình hoặc cộng đồng; giọng kể có vần có điệu, cách gieo vần tự do, vần lưng, vần liền, vần cuối nối các câu ngắn dài tạo thành chuỗi âm thanh giàu tính nhạc, nghe như hát. Các hình tượng trong truyện cụ thể, sinh động, thể hiện lối suy nghĩ trực quan, tự nhiên của đồng bào các dân tộc thiểu số. - Thần thoại, truyền thuyết : Người Châu Mạ, Châu Ro, Stiêng sùng bái nhiều thần linh, trình độ sản xuất thấp nên còn lưu truyền mảng thần thoại, truyền thuyết giải thích các hiện tượng tự nhiên và sự hình thành cộng đồng dân tộc với cách hiểu hồn nhiên của con người ở buổi sơ khai. Người Mạ còn thần thoại giải thích về nguồn gốc các thần linh và truyền thuyết về gia hệ(10) của tổ tiên. Ví dụ, một cách giải thích nguồn gốc của người Châu Mạ ở vùng thượng nguồn sông Đồng Nai: Khổng lồ Iut phân cách trời và đất Khổng lồ Put chống trời bằng một thân cây. Khổng lồ Trôô ngăn nước bằng tảng đá lớn. K'Daa, Blac và Bliơr rèn mặt trời. Với nước cá sinh sôi nảy nở, Thác và sông, anh trai và em gái ăn ở với nhau. 20
  21. Ở đó, tổ Paang Tiing ở với em gái Nhaam Từ bắp thịt hông của họ sinh ra Biêt và Riing. Từ sự giao hợp giữa Biêt và Riing sinh ra Biêng và GLong Từ Biêng và Glong sinh ra Cong và Kraang. Kiểu hình tượng ông khổng lồ sáng tạo trời, đất và người bàng bạc ở nhiều truyện cổ tích giải thích hiện tượng tự nhiên. Như truyện Bàn tay ông khổng lồ chẳng hạn, ông khổng lồ đang chia thịt, trời đất bỗng tối tăm để lại tảng thịt biến thành đá có in rõ dấu năm ngón tay khổng lồ (tảng đá hiện còn ở khu rừng thuộc ấp Thanh Tùng, thị trấn Định Quán). Theo truyện kể, thần linh của người Châu Mạ, Châu Ro, Stiêng không có hình thể rõ nét, ít được mô tả diện mạo, thường được nhắc đến như biểu trưng của quyền lực tự nhiên. Mỗi vị thần có chức năng riêng. Ở người Châu Mạ, Yang Nđu là thần của tất cả các thần, Yang Bri coi sóc rừng, Yang Đak lo việc sông nước, ao hồ, Yang Kôi bảo trợ mùa màng, Yang Hiu lo việc trong nhà. Thần linh của người Châu Ro tương tự như người Châu Mạ, thần rừng (Yang Bri) bảo trợ việc hái lượm, săn bắn trong rừng, Yang Pa coi sóc mùa màng, Yang Va lo việc nhà Người Stiêng chị u sự chi phối của các Arăk, Arăk Xre là thần lúa, Arăk Prek là thần sông, Arăk Ta Phnom là thần núi ngoài ra, còn có Neak Ta là vị thần đất cai quản đất đai sinh hoạt của cộng đồng. Tuy nhiên, thần thoại, truyền thuyết của người Châu Mạ, Châu Ro, Stiêng còn lại không nhiều, không thành hệ thống, đa phần là những "mảnh vụn" tản mạn trong câu chuyện thường ngày. - Truyện cổ tích : Sinh động và phong phú hơn cả là truyện cổ tích với số lượng khá nhiều, tập trung ở đề tài giải thích nguồn gốc địa danh (Sự tích thác Trị An, Sự tích Đồng Tường, Sự tích Miễu Ông Chồn ), giải thích các đặc điểm loài vật (Con gà trắng, Con sóc Bông, Vì sao chim cút ở bờ bụi, Heo anh heo em, Nàng tiên Mèo ), phản ánh quan hệ chung sống hồn nhiên đồng đẳng giữa người và vật ( Sự tích Miễu Ông Chồn, Người hóa Voi, Heo anh heo em, Cọp cướp vợ người, Những người con của chó ) Mẫu truyện kể mang tính ngụ ngôn về những con vật tinh khôn, nhỏ bé chiến thắng kẻ mạnh bằng trí thông minh, tài lanh lẹ như rùa thắng khỉ, thỏ thắng cọp, ch èo bẻo chiến thắng muông thú cũng khá nhiều, phản ánh trong đó nét đẹp và phẩm chất ưu thế của bộ tộc nhỏ bé đã chiến thắng các thế lực mạnh hơn để sinh tồn. Đặc điểm dễ thấy ở truyện cổ tích của người Châu Ro, Châu Mạ, Stiêng là cốt truyện đơn giản, lối suy nghĩ hồn nhiên, chân chất; con người, loài vật, núi rừng có quan hệ chung sống tự nhiên; trong đó kẻ yếu, cái thiện, lòng thành dù có gặp nạn cuối cùng đều chiến thắng. Điều đáng lưu ý, truyện kể Châu Ro, Châu Mạ, Stiêng được kể không giống nhau ở tiếng của mỗi dân tộc nhưng quan niệm, cốt truyện, tình tiết ở truyện kể ít khác nhau, nhiều mẩu truyện phổ biến ở cả ba dân tộc (Truyện Ó Ma Lai, Con sóc bông, Con gà trắng, Heo anh heo em ). Có truyện khác nhau đôi chỗ tiểu tiết nhưng cùng dựa trên cốt lõi chung, ví dụ: Nhóm truyện kể của người Châu Mạ, Châu Ro kể về cuộc thi tài của các chàng rể, tác phẩm chiến thắng của chàng rể út là tòa nhà bằng gạch ( Sự tích Miễu Ông Chồn). Nếu tìm hiểu đầy đủ hơn, có thể tìm thấy ở truyện kể nguồn gốc và quan hệ của các tộc người bản địa, nếp sống cổ truyền, luật tục và đời sống tinh thần của 21
  22. họ, trong đó còn nguyên vẹn vẻ đẹp nguyên sơ của đồng bào dân tộc ít người ở buổi đầu lịch sử. - Ca dao Cảm hứng thơ ca của đồng bào dân tộc thiểu số dồi dào, phong phú. Tiếng Châu Mạ, Stiêng, Châu Ro giàu chất thơ, có khả năng biểu cảm tốt, những lời hát đối đáp giao duyên trong lao động và những bài ca nghi lễ thường đọng lại thành ca dao trữ tình. Tiếc là đến nay, chưa có công trình sưu tập đầy đủ. Ở đây, chỉ xin nhắc đến Tampơk (bài ca trữ tình) của người Châu Mạ. Qua câu chuyện tình yêu của Kôông và K'Yai, có thể thấy luật tục, nếp sống, quan niệm về tình yêu, hôn nhân của người Châu Mạ xưa. Theo đó cũng có thể thấy đặc điểm hình thức thơ ca của người Châu Mạ. Ví dụ, lời củ a chàng K'Yai bày tỏ nỗi khao khát nhớ nhung: 105. Rnom any yô, jơh bou chrka; 106. Đak til hơ, jơh bou mbring, 107. Ching any tur bou, kông tapxai; 108. Kwaiơm ai ma any tam krơm; 109. Rơm chong toh bo bai; 110. Mpao krơm ai bi ntrony ta but; 111. Krơm bi kut char xo; 112. Bi rbo che klêng. Tạm dịch: 105. Rượu cần (Rnom) không uống vị men sẽ chua, 106. Nước suối không múc bình sẽ lên meo, 107. Chiêng lâu không đánh sẽ đóng ten đồng. 108. Chúng mình cùng sống, mong ghì lấy nhau 109. Cặp vú rắn chắc đóng vào ngực anh, 110. Như cái khố lành quấn vào eo lưng, 111. Như lược nhiều chân cài vào búi tóc, 112. Như diều xoắn vặn cùng sợi dây lèo. Chỉ một đoạn thơ ngắn với vần điệu tự do, liền mạch như trên, nỗi khao khát của K'Yai đã cho thấy quan niệm về tình yêu hồn nhiên của trai gái Châu Mạ, cũng cho thấy tập tục uống rượu cần(15), múc nước suối, đánh chiêng đồng bằng tay của người Châu Mạ xưa. 207 câu hát Tampớk "Kôông và K'Yai" đều chứa đựng những yếu tố trữ tình có ý nghĩa hiện thực như thế. Ca dao dân ca của các dân tộc thiểu số ở Đồng Nai là tấm gương phản ánh tâm hồn của đồng bào các dân tộc thiểu số gắn với sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. 22
  23. - Tục ngữ Hiện chưa có đầy đủ tài liệu để có thể nói về tục ngữ, phương ngôn của đồng bào các dân tộc Châu Mạ, Châu Ro, Stiêng ở địa bàn Đồng Nai. Nhóm dân tộc này chưa có chữ viết, cho nên kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm sống và tập quán xã hội ắt được truyền đời chủ yếu qua lời nói ngắn gọn, có vần điệu dễ nhớ, hình thành tục ngữ, phương ngôn trong kho tàng văn hóa dân gian địa phương. Như người Châu Ro chẳng hạn, họ truyền nhau kinh nghiệm quan sát tự nhiên để đoán định thời tiết: thấy ếch kêu, ve kêu, đuôi kỳ đà đen đều, đầu tắc kè chuyển màu xanh, xương ếch chuyển màu đen thì tiết trời sắp có mưa. Trong ứng xử xã hội, người Châu Ro khuyên nhau giữ nếp sống "làm em chịu lành làm anh chịu cả" , và ứng xử chừng mực: "vui cười quá đáng thì sống trước mắt, chết sau lưng" Luật tục kinh nghiệm của người Châu Mạ chủ yếu cũng truyền khẩu qua lời nói. Kinh nghiệm sống cho thấy: Rnom any yô, jơh bou chrka; Đak til hơ, jơh bou mbring, Ching any tur bou, kông tap xai (Rượu cần không uống thì chua men, Bình không múc nước thì lên meo, Chiêng lâu không đánh thì đóng ten đồng.) Bởi vậy, đồ vật phải dùng, yêu phải cưới, con người phải làm việc. Luật tục truyền đời phải nhớ: Lưỡi mác phải có cán Muốn ngủ phải có mền Muốn cưới xin phải có lễ vật và trao vòng tay. Luật tục cũng nghiêm cấm không được ngoại tình: Ăn ớt rát họng Ăn sả rát yết hầu Ngủ với vợ người khác có chuyện! Như vậy, bước đầu, có thể thấy tục ngữ của đồng bào dân tộc thiểu số ở Đồng Nai có vai trò quan trọng, như là bộ bách khoa thư không bằng văn tự trong đời sống tinh thần của đồng bào. Chú thích (1) Dân tộc thiểu số : dân tộc chiếm số ít, so với dân tộc chiếm số đông nhất trong một nước có nhiều dân tộc. (2) Biến thiên : sự biến đổi lớn. (3) Dân tộc bản địa : dân tộc đã sinh sống lâu đời ở vùng đất nào đó. (4) Châu Mạ, (5) Châu Ro, (6) S’tiêng: tên các dân tộc thiểu số sinh sống lâu đời ở vùng rừng núi các tỉnh Nam Tây Nguyên (trong đó có Đồng Nai). 23
  24. (7) Luật tục : bộ luật truyền khẩu quy định các phong tục của dân tộc Châu Mạ. (8) Già làng : người cao tuổi được dân làng cử ra để điều khiển công việc chung ở vùng các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. (9) Nhà dài : một kiểu nhà có sàn để ở, làm ở lưng chừng cột, cách mặt đất một khoảng, thường dùng làm nơi tiếp khách và hội họp, vui chơi chung của dân tộc Châu Ro, Châu Mạ. (10) Gia hệ : các thế hệ trong một dòng họ. II. VĂN HỌC VIẾT ĐỒNG NAI MỘT CUỘC ĐUA THUYỀN TRÊN SÔNG ĐỒNG NAI Huỳnh Văn Nghệ Giờ đua thuyền đã đến. Dân trong thị xã Biên hòa như dồn hết ra hai bên bờ sông Đồng Nai. Các cuộc chơi khác như liếm chảo, nhảy cao, leo cột chỉ còn lơ thơ một ít người xem. Sông ở đây rộng và đẹp hơn khúc sông ngang qua nhà tôi nhiều. Bề ngang mặt sông rộng gần năm trăm thước. Đầu trên và đầu dưới có hai chiếc cù lao như hai chiếc tàu khổng lồ đậu giữa sông. Đó là Cồ n Gáo (1) và cù lao Hiệp Hòa. Sông rộng, cầu to, nhà cao, phố lớn, thuyền bè xe cộ dập dìu, người đông như kiến cỏ. Biên Hòa là thị xã của tỉnh tôi đó,cách làng tôi có chừng hai mươi cây số, mà hơn mười tuổi tôi mới được đến lần đầu. Nhưng mọi điều mới lạ không hấp dẫn tôi bằng cuộc đua thuyền sắp tới. Dân thì ngồi dưới thuyền bè, hay đứng hai bên bờ sông mà xem. Trẻ em đứa nào trèo được như tôi thì leo lên cây ngồi hay đeo trên cột đèn. Có mấy đứa nhỏ còn được cha mẹ, anh chị cõng trên vai. Những người đư ợc mời thì được vào trong khu Tòa Bố (2) có lính gác cửa và có hàng rào sắt chung quanh. Trong khu này cũng đông lắm, đại diện hương chức, hội tề các làng các tổng, công chức, nhà binh Các quan chức chỉnh tề đi xem hội nhưng cũng chỉ đứng xúm xít trên cỏ gần bờ sông mà xem. Chắc là lão hương cả và hương quản xã tôi cũng ở trong đám đó. Kia rồi, tôi đã nhìn ra chúng đang đứng gần cái đầu cầu gỗ bắc từ bờ ra cái nhà sàn trên sông. Đó là cái nhà mát (3) của thằng tây chủ tỉnh, nhằm ngày lễ được dùng làm khán đài chính để xem đua thuyền, chừng vài chục “ông tây”, “bà đầm” (4) và cả “tây con” nữa có lẽ là khách mời từ Sài Gòn qua đang ngồi quanh mấy bàn tiệc đầy rượu thịt và trái cây. Nhìn đám tây mắt xanh mũi lõ này no nê, phè phỡn mới thấy đám hương chức hội t ề đang khúm núm trên bờ giống như bầy chó chực xương. Có hai mươi chiếc thuyền đại diện cho các tổng các xã ven sông tham dự cuộc đua. Mỗi chiếc thuyền đua được sơn một màu khác nhau rất đẹp. Chiếc sơn màu xanh là của xã Tân trạch ở Cù Lao (5), có tiếng bơ i giỏi từ trước tới nay. Thuyền trắng hình con phượng là của cù lao Hiệp Hòa. Thuyền vàng hình con lân là của xã Tân Ba. Thuyền trắng hình con cá là của xã Long Điền chuyên nghề chài lưới. Thuyền sơn màu tam sắc là của thị xã Biên Hòa. Đội thuyền này cũng mặc ba màu áo: ở trước mũi mặc màu xanh, ở 24
  25. giữa màu trắng và phía sau lái các tay bơi mặc màu đỏ; trông xa như một lá cờ Pháp đang nổi trên sông. Thuyền này đáng sợ nhất vì tập hợp toàn lính làm các tay bơi. Chúng được nghỉ một tháng để tập bơi, nếu về nhấ t còn được nghỉ một tuần xả hơi nữa. Những kỳ đua trước, mấy thuyền muốn qua mặt chúng đều bị chúng đánh bằng dầm (6) đến chảy máu đầu, máu mũi. Có thuyền còn bị chúng nhận chìm giữa sông để chúng qua mặt. Mấy con thuyền khác thì ít được để ý hơn. Con rồng đỏ cánh trắng của xã tôi nằm giữa có vẻ hiên ngang nhất. Hàng ngàn người hồi hộp chờ xem mà các “ông tây bà đầm” còn đang nói chuyện đùa dỡn, chưa cho lệnh bắt đầu. Tôi bị lính đuổi phải tuột khỏi cây này leo lên cây khác ba lần mà thuyền đua vẫn chưa đượ c bơi. Cuối cùng mới thấy một tên đội mã - tà hai tay bưng một cái hộp như cái khay đựng trầu đến dâng trước thằng tây chủ tỉnh. Thằng tây đứng dậy mở hộp, lấy ra một khẩu súng nhỏ như súng lục và bước lên một bước ra ngoài. Nó giơ súng lên trời và đếm: - Un, deux trios!(một, hai ba!) Tiếng súng lệnh vừa nổ “đoàng” thì đoàn thuyền tranh nhau phóng tới như tên bắn. Chỉ còn một chiếc đứng yên tại chỗ như không nghe tiếng súng lệnh. Trời đất, đó lại là đúng con rồng đỏ cánh trắng của xã tôi. Dân hai bên bờ la ó : - Làng nào đó? Bỏ cuộc rồi! Chịu thua rồi! Bọn tây cũng la: - Forfait! Forfait! (Bỏ cuộc! Bỏ cuộc!) Tôi thất vọng đến đổ mồ hôi trán. Nhìn thấy tụi Cả Hột, Quản Chinh cúi đầu xuống, chắc chúng muốn chui xuống đất mà trốn. Bỗng tiếng của cha tôi dõng dạc thét lên vang dội khắp hai bờ sông: - Anh em! - Dạ! - Phen này “quyết chiến” đem lại danh dự về cho làng mình nghe hông! - Dạ! Tiếp liền theo là tiếng phèng -la (7) của anh Hai Tán. Con rồng đỏ uốn mình. Hai cánh trắng của nó như hai con dao khổng lồ chém xuống nước rồi khoát nước tung bay đuổi theo đoàn thuyền trước mặt. Tiếng hoan hô như sấm dậy hai bên bờ sông. Hàng ngàn cặp mắt chăm chú theo dõi chiếc thuyền đỏ lạ lùng ấy. Nó đã đuổi kịp rồi vượt qua một, hai rồi ba chiếc thuyền của đoàn đua. Bị Cồn Gáo che khuất, nên tôi không thấy được nữa, chỉ phập phồng chờ đợi. Qua khỏi Cồn Gáo, chiếc thuyền đỏ chỉ còn thua năm chiếc lợi hại nhất là Tân Trạch xanh, Hiệp Hòa trắng, Tân Ba vàng, thuyền tam sắc của thị xã và một chiếc nào đó nữa. Nhưng con rồng đỏ mỗi lúc một bay nhanh trông thấy, Cả Hột và Quản Chinh mừng rỡ ra mặt. Người xem bắt đầu xôn xao đoán coi thuyền nào về trước và đánh cá. - Ghe đỏ sẽ về nhứt. - Làm gì nhứt nổi. Ghe xanh lẹ như gió kìa. - Nước bơi của ghe vàng bền hơn. - Nhưng không ghe nào dám qua mặt ghe tam sắc đâu, cả mười ăn một tôi cũng dám cá nè Một thằng lính mã-tà (8) đứng dưới gốc cây tôi ngồi nói một cách quả quyết như vậy. Trong lúc đó con rồng đỏ đã vượt lên đứng thứ ba rồi. Đến chân cầu Gành (9) nhờ 25
  26. quanh gấp một cái, nó đã bỏ một chiếc nữa ra sau và đang đuổi theo chiếc thuyền tam sắc để về đích của cụôc bơi ở trước khán đài chính. Nhìn thấy chiếc thuyền tam sắc đang dẫn đầu cuộc đua, bọn lính mã-tà nhảy nhót tưng bừng. Dân thị xã cũng mừng lắm phất khăn, phất mũ hò reo. Bọn tây trong nhà mát cũng reo lên: - Vive la France! (Nước Pháp muôn năm!) Nhưng người ta thất vọng dần dần. Con rồng đỏ cánh trắng vẫn đuổi gấp theo như bay trên mặt nước. Chỉ còn năm chục rồi hai chục thước nữa là bắt kịp thuyền trước. Anh Tám Phát, đúng là anh Tám Phát rồi ,đứng hẳn lên mũi thuyền dung cây dầm để múa đao. Cây dầm trắng trong tay anh quay thành những vòng loang loáng trước mũi thuyền càng làm cho con thuyền của làng tôi thêm vẻ linh thiêng, thần thánh. Chỉ còn mười chín tay bơi mà con thuyền đỏ cũng bắt kịp thuyền trước. Người ta hồi hộp chờ một cuộc xô xát xẩy ra giữa hai con thuyền. Nhưng không, con rồng đỏ vẫn lướt qua khỏi thuyền tam sắc một cách bình yên và về tới đích trước nhất trước sự kinh ngạc và tiếng hoan hô vang dậy của dân chúng hai bên bờ sông. Trong lúc Cả Hột và Quản Chinh được thằng Tây chủ tỉnh đến bắt tay khen ngợi và thưởng cho hai cốc rượu thì dưới thuyền đỏ anh em trong đội thuyền bụm từng bụm nước sông Đồng Nai giải khát. Cha tôi cho tôi theo thuyền trở về xã. Ngồi trên thuyền tôi nghe anh Hai Tán nói: - Nhờ vong hồn nghĩa quân phù hộ, mình không thèm theo súng lệnh của thằng Tây mà vẫn về nhất như thường. Con thuyền chiến thắng bơi ngược con sông dài trở về làng tôi nơi rừng thẳm. (Trích thơ văn Huỳnh Văn Nghệ - Nhà xuất bản Đồng Nai 1998) Chú thích: Văn bản Cuộc đua thuyền trên sông Đồng Nai trích chương II “Quê hương rừng thẳm sông dài”. Tác phẩm gồm 04 chương mang tính tự truyện kể về tuổi thơ của nhà văn gắn liền với truyền thống đấu tranh của quê hương Mỹ Lộc và những ngày đầu tiên ông đến với cách mạng. Đoạn trích tả cảnh đua thuyền trên sông Đồng Nai trong thời thuộc Pháp, qua đó ca ngợi tinh thần bất khuất, thể hiện hào khí của người Đồng Nai. (1) Cồn Gáo: Phần đất nổi lên nằm gần chân cầu Đồng Nai, trước 1975, Cồn Gáo có khoảng vài hộ gia đình sinh sống, sau này do đất lở nên Cồn Gáo không còn nữa. (2) Toà bố: Cơ quan cai trị của viên chức Pháp đứng đầu một tỉnh Nam bộ, thời Pháp thuộc. Ở đây chỉ dinh (trụ sở) của thị xã Biên Hoà lúc bấy giờ (3) Nhà mát: nhà nghỉ mát được dựng gần bờ nhô hẳn ra ngoài sông. Mùa hè nóng nực ra ngồi trong nhà mát dễ chịu hơn. (4) Bà đầm: chỉ người phụ nữ Pháp. (5) Tân Trạch, Tân Ba: thuộc địa phận Tân Uyên (nay thuộc tỉnh Bình Dương). (6) Dầm ( mái chèo): Đồ bằng gỗ, một đầu giẹp dùng để bơi cho thuyền đi: (7) Phèng-la: Nhạc khí gõ, phát ra tiếng vang và chói làm bằng đồng thau, hình đĩa tròn. 26
  27. (8) Mã-tà: chỉ lính đánh thuê có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Mã-tà lấy từ âm Mã -lai (Malaysia) (9) Cầu Gành: chiếc cầu bắc ngang cù lao phố Hiệp Hoà và phường Bửu Hoà. Đứng ở bờ sông trước Uỷ ban nhân dân tỉnh ngày nay nhìn xuống thấy cầu Gành. CHU THỔ SỪ VÂN Trịnh Hoài Đứx Trấn Biên chu thổ hải chi tưu, Phá hiểu sừ vân mục tử trù. Xích huyện hôm mai lê đãi tận, Hắc lô vu uế tịch tương chu. Vũ nhiêu sơn giản thần khai yển, Thảo dụ xuân đê vãn phóng ngưu. Vạn khoảnh yên hà thu thập túc, Qui lai sơ nguyệt hạ kiên đầu. Dịch xuôi: ĐẤT ĐỎ BỪA MÂY Trấn Biên có bãi đất son liền kề ven bể, Trong đám mây mù mịt, mới tảng sáng đã có hàng lũ người bừa. Gần đô thị, những đám um tùm cuốc cày hầu hết, Đất đen xấu biết bao rậm rạp, khai phá gần xong. Mưa nhiều, khe núi nước đầy, sáng đi tháo đập, Xuân tới bờ đê cỏ tốt, chiều đến chăn trâu. Sương khói một màu muôn mảnh ruộng, san sửa vừa xong, Bừa vác trên vai, đi về nhà dưới bóng trăng mới mọc. Dịch thơ: 1. Ven biển Trấn Biên vùng Đất Đỏ, Tinh sương đã lắm kẻ bừa mây. Đất cằn rậm rạp hầu quang cỏ, Ruộng tốt um tùm sắp sạch cây. Đắp đập che mai mưa núi lớn, Chăn trâu đê tối cỏ xuân dày. Khói sương muôn khoảnh xem đà sẵn, Trăng mọc ra về bừa vác vai. 27
  28. (Nguyên Nguyên dịch) 2. Nơi Trấn Biên có miền đất đỏ, Liền biển xanh một dải mênh mông. Trời hôm vừa lóe rạng đông, Từng đàn lũ lượt ra công dựng làng. Gần đô thị cây hoang phá rạp, Đất đen sì vỡ nát dưới tay. Nhờ mưa khe núi nước đầy, Sáng đi tháo đập nuôi cây tốt vườn. Mùa xuân tới, bờ đê cỏ mượt, Chiều trẻ con mặc sức chăn trâu. Muôn vườn sương khói một màu, Người người ra sức cùng nhau cấy cày. Trăng non vừa gác mái tây, Nông phu vác cuốc khoan thai ra về. (Nguyễn Văn Sâm dịch) 3. Đất đỏ Trấn Biên góc biển Đông, Người bừa tảng sáng kéo ra đồng Um tùm bao đám cày vừa hết, Rập rạp đất đen vỡ sắp xong. Khe núi nước đầy đi tháo đập, Đê xuân cỏ tốt thả trâu rong. Khói sương muôn khoảnh tay san sửa, Bừa vác vai về trăng sáng chong. HOÀI ANH (dịch) (Theo Gia Định tam gia, NXB Đồng Nai, 2003) Chú thích: - Đất Đỏ: Vùng đất nay thuộc huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. - Bừa mây: Bừa trong sương mù như đang bừa mây. - Trấn Biên: Một tên gọi cũ của vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai vào thời chúa Nguyễn. - Quang cỏ: Hết sạch cỏ. - Đê: bờ cao và dày, vững để ngăn nước sông, nướ c biển tràn vào ruộng. 28
  29. TÂN TRIỀU ĐÃI ĐỘ Trịnh Hoài Đức Tân Triều đãi độ cô chu thành Nhật lạc vi mang hà thuỷ bình Mã túc mạn yêm thiên lí tráng Khách tâm lao chú nhất giang thanh Hàm hoa mĩ lí trường lưu khứ Bô quả từ ô thâm thụ minh Thôn điếm quy lai môn thập khấu Trúc liêm văn quyển nhật song minh Dịch nghĩa: ĐỢI ĐÒ BẾN TÂN TRIỀU Bến quê Tân Triều thuyền lẻ nằm ngang, Mặt trời lặn mờ mờ nước sông êm lặng. Chân ngựa dầm xuống còn mang tráng khí đi ngàn dặm, Lòng khách tha thiết gửi vào n ước sông trong. Ngậm hoa cá chép đẹp bơi theo dòng nước chảy, Mớm quả cho con quạ hiền kêu trong lùm cây sâu. Quán trong thôn trở về gõ cửa mười tiếng, Rèm trúc mây cuốn trăng cửa sổ sáng. Dịch thơ: Nằm ngang thuyền lẻ bến Tân Triều, Vừa lặn mặt trời sông phẳng phiu. Chân ngựa dầm mang luồng tráng khí, Lòng người gửi với nước trong veo. Ngậm hoa cá chép xuôi dòng lướt, Mớm quả quạ hiền nép bụi kêu . Tới quán trong thôn vừa gõ cửa, Rèm tre mây cuốn, nguyệt vào theo. (Bản dịch của HOÀI ANH, theo Gia Định tam gia, NXB Đồng Nai, 2003) Chú thích: Tân Triều: làng cổ ở tỉnh Biên Hoà (nay thuộc xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai). Theo thư tịch xưa, cù lao Tân Triều thuộc Ngô Châu, quận Châu Thành (cũ). Có rạch Tân Vinh, Bình Lục, rạch Bình Thới, rạch N gư Tân (Bến Cá). Sẵn đậu, bưởi, ổi, bắp (ngô), trầu, hến Ngày nay nổi danh là “Làng bưởi Tân Triều” 29
  30. VĂN TẾ VỢ Bùi Hữu Nghĩa Hỡi ơi ! Xưa nay đặng mấy người trọn vẹn, phận sắc tài hằng phải lụy cái thân; Vợ chồng mà ghe nội mặn nồng, cơn sanh tử ỷ khôn ngăn giọt lệ. Từ thuở bậu vầy duyên can hệ, may mắn nhờ đủ mẹ đủ cha; Thời em nâng niu dâng quì xẻ táo, thảo mẹ cha không nửa khắc lãng xoa; Từ ngày anh mắc chốn gian truân, tơi bời có một vợ một chồng, thời em đặng độ buôn tảo bán tần, niềm chồng vợ ấy cũng đã là phu phỉ. Rất họ hàng còn cũng biết thương; Huống trời đất có đâu chẳng nghĩ. Ơn vũ lộ lộng khơi mà bủa xuống, tay chống đổi làm đồng vác, khi ấy hãy mang con trong dạ, bận bụi xin theo chốn sa trường; Cuộc phong lôi tin tức hãy chưa thông, q uế phi dung luống chịu nắng mưa, cơn trừ đành bồng trẻ xuống thuyền, lặn mọc quyết tầm nơi chiến địa.] Hiệp tan khi ấy rất gay go; Ân ái đoạn này thêm thấm thía. Hay đâu nỗi dây oán thù lại kết, anh vớ thử tay con tạo hóa, dầu những cánh trùng gan chuột, một chút nào nghĩ dạ Trang sanh; Bỗng phút chốc buồm tình ái kịp buông, anh lo vì gánh nặng cang thường, chí sờn vuốt biển nanh trời, chín tầng quyết trắng mình trương thị ! Nơi kinh quốc ba hồi trống gióng, biện bạch này oan nọ ức, đấng hiền lương mắt thấy thảy đau lòng; Giữa tỉnh đường một tiếng hét vang, hẳn hòi lẽ chánh lời nghiêm, đứa bạn lảng tai nghe đều hết vía. Líu lo tuy cuộc thế chưa xong; Trọn vẹn ỷ vì chồng khôn ví. Lúc anh vụt về thăm cha mẹ, để lời dặn em đừng rủn chí, việc ở ăn lo đà sẵn cả, mới trở lưng xuống bến sụt sùi; Nay sao đành bỏ cả chồng con, nghe đặng tin anh xiết kinh hoàng, nỗi tới lui không biết đường bao, luồng ngửa mặt lên trời van vỉ. Cây dương liễu là tên ly biệt, trời dành cho em những điều tài sắc, mà mong sửa cuộc đoàn viên; Huê phù dung là giống đoạn tràng, trời sắm cho em những miếng thanh danh, mà mở bao nền phước lí. Anh để nàng chẳng bằng tiền bằng của, mà bằng cái tư lương; Anh giết nàng chẳng bằng gươm bằng đao, mà bằng cái khổ luỵ. Ôi! 30
  31. Gươm ân ái không mài mà lẻm lẻm, người ta mặn nồng chồng vợ, bao đành dứt mối tình duyên; Ngựa quan âm không giận bỗng đùng đùng, người ta mắc cuộc tai nàn, bao nỡ dứt đường sinh tử. Phụng lìa đôi chếch mác, đừng nói sửa sang giềng mối, khi túng thiếu manh quần tấm áo, biết lấy ai mà cậy nhờ; Gà mất mẹ chít chiu, đừng nói nhắc biểu học hành, khi lạt thèm miếng bánh đồng hàng, biết theo ai mà thỏ thẻ. May nhờ có ngoại gia nương cậy, sống đặng nhờ thác cũng đặng nhờ; Luống trông cho cuộc thế xong xuôi, sớm chẳng thấy mai đều chẳng thấy. Phải chi em chưa thoát nơi trần tục, nỗi oán thù sớm đặng sạch chùi; Phải chi em chưa lên chốn non tiên, đứa bạn đảng dám đâu lừng lẫy Phước nhà đặng rảnh mình cao sĩ, vượt mấy sông em dắt chút mẹ già; Màn loan sao vắng dạng tiên nga, vầy một ngõ anh khóc cùng ba trẻ. Thơ tử biệt anh ngâm vài chập, đặng tỏ qua tấm dạ bi thương; Rượu chung thuỷ tình anh rót vài ly, ngỏ cùng tấc lòng chung thuỷ (Hợp tuyển thơ văn Việt Nam 1858 -1930, Nxb Văn học, Hà Nội 1984) Chú thích: - Biện bạch: Trình bày lí lẽ, bác lí lẽ của người buộc tội, nêu nỗi oan của mình. - Đấng hiền lương: Người có đạo đức tốt. - Tỉnh đường: Nơi cửa quan ở tỉnh. - Lẽ chánh, lời nghiêm: Lẽ chính đáng, ngay thẳng, lời nghiêm minh. - Đứa bạn đảng: Kẻ làm việc trái, việc gian. - Líu lo: Còn rắc rối (cần phân biệt với tiếng chim hót). - Ỷ: Khẩu ngữ, có nghĩa: ấy là, đúng như thế. - Khôn ví: Không thể so sánh. - Rủn chí: Nản chí. - Cây dương liễu là tên ly biệt: Người xưa khi tiễn nhau đi xa thường bẻ một cành liễu đưa nhau, thơ xưa dùng hình ảnh ấy để chỉ sự ly biệt. - Hoa phù dung: Hoa có màu hồng rất đẹp, thường được ví với má hồng phụ nữ. Thế nhưng hoa chóng tàn như những phụ nữ tài sắc thường có phận số không tốt (Hồng nhan bạc phận). Vì thế hoa phù dung thường gợi chuyện thương đau. - Thanh danh: Tiếng thơm và tên được ca ngợi. - Phước lí: Chốn nhiều phước đức. - Để: Để lại cho vợ. - Cái tư lương: Lo liệu mọi việc, xem xét lại mọi việc mình làm tốt hay xấu. - Khổ lụy: Khổ sở khó nhọc rất nhiều. 31
  32. - Lẻm lẻm: Rất bén, rất sắc. - Ngựa quang âm: Quang âm là sáng tối, chỉ thời gian; ngựa quang âm: thời gian qua nhanh như ngựa qua cửa sổ. - Phụng lìa đôi: Chim phụng hay còn gọi là phượng thường trống mái đi với nhau, nói ý vợ chồng sum họp, hạnh phúc. - Chếch mác: Lệch, mất cân bằng. - Giềng mối: ý nói kỉ cương, nền nếp trong gia đình. - Cao sĩ: Người có học và có đạo đức, tư cách cao. - Màn loan: Màn có thêu hình chim loan, nói nơi phụ nữ ở. - Tiên nga: Người phụ nữ nhan sắc, đẹp như tiên trên trời. - Vài chập: Vài lần. BÀ BÁN CAU Huỳnh Văn Nghệ Nắng hạn, đường xa nối chân mây Còn đi đâu, đi mãi hỡi ai? Mặc gánh nặng oằn hai vai chịu, Dưới trời mưa lửa chỉ châu mày. Người ơi! Cảnh ấy dẫu trăm năm, Ngàn năm hay muôn vạn ngàn năm. Một phút sau nầy con còn sống Cảnh kia còn đốt mãi lòng con. Con đường xe cong uốn trên đồng khô, Xóm làng xa, nắng chang, lim dim ngủ, Trời cao, cao vút điểm mây khô, Từ giữa trời xanh: nguồn lửa đổ. Trên đường cát xa thăm thẳm ấy, Bà bán cau, gánh nặng trên vai oằn, Lẹ làng đi, dưới chân cát cháy, Đầu không ô, nắng đốt chiếc khăn rằn. Gió bốc khói tung lên cuồn bụi trắng, Xóm mờ xa khuất dạng sau rừng tre. 32
  33. Mồ hôi chảy vòng quanh đôi má nám, Bá bán cau, bước mãi dưới trưa hè. Đã bao lần bóng cây thầm van vỉ: “Bà già ơi ghé gánh nghỉ chân già!” Nhưng không nghe, bà cứ đi, đi mãi, Nhớ chiều nay, trước ngõ, đám con chờ. 1935 (Trích Huỳnh Văn Nghệ - Tác giả và Tác phẩm, tập 2, NXB Đồng Nai, 2008) NHỚ BẮC Huỳnh văn Nghệ Ai đi về Bắc ta đi với, Thăm lại non sông giống Lạc Hồng, Từ độ mang gươm đi mở cõi, Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long. Ai nhớ người chăng ? Ôi Nguyễn Hoàng Mà ta con cháu mấy đời hoang. Vẫn nghe trong máu sầu xa xứ Non nước Rồng Tiên nặng nhớ thương. Cổ Loa thành cũ ai thăm viếng ? Hoàn Kiếm Linh Quy có trở về ? Bạch Đằng máu giặc chưa phai hận ? Ai hát giùm tôi giọng gái quê ! Sứ mạng ngàn thu dễ dám quên Chinh Nam say bước, quá xa miền Kinh đô nhớ lại, sầu muôn dặm Ai trả dùm tôi đôi cánh tiên ! 1948 (Trích Huỳnh Văn Nghệ - Tác giả và Tác phẩm, tập 2, NXB Đồng Nai, 2008) 33
  34. KÒN TRÔ Lý Văn Sâm Phụng dừng ngựa lại dưới chân một trái đồi nhỏ để tìm phương hướng. Nàng nhìn quanh mình, chỉ thấy rừng cây trùng điệp chìm trong bóng tối mênh mang và ngửa mặt lên cao cũng vẫn một vòm trời chót vót tối om như địa ngục. Phụng bắt đầu thấy bối rối mặc dù xưa nay nàng vẫn có tiếng là gan góc. Nàng bắt loa tay hú dài một tiếng: rừng sâu đem tiếng vang trả lại cho nàng. Thất vọng, Phụng thở dài lẩm bẩm một mình: - Bây giờ biết Lành và Đại ở đâu mà tìm? Hai anh ấy cũng đến lạc lối như ta thôi. Khổ quá! Đi săn mà gặp bước này thà ở nhà còn hơn! Xa tít trong cái huyền bí của đêm rừng, mơ hồ có tiếng thác đổ. Phụng lắng tai nghe. Nàng nói một mình: - Phải rồi. Thác Mu Mi cách đây không xa, mình cứ nghe ngóng và nhắm hướng thác đổ mà về thì đúng. Nàng thúc ngựa đi mau qua đám đế(1) khô. Nhiều lần nàng bị những cành cây như những cánh tay lực lưỡng chìa ra, gạt nàng suýt té xuống ngựa. Mãi đến khi gà rừng cất tiếng gáy đầu tiên, Phụng thấy mình vẫn còn lạc lõng giữa thâm khuya. Nàng mân mê đốc dao găm giắt bên sườn, tự nhủ: - Một liều, ba bảy cũng liều! Súng, thì Lành và Đại mỗi người mang một cây. Số mạng ta đành gởi vào ngọn khí giới cỏn con này vậy! Phụng cúi ôm cổ ngựa, nằm dài trên mình nó, mặc cho nó muốn đưa đi đâu thì đưa. Tiếng thác đã tắt từ lâu không còn nghe rõ nữa Phụng tỉnh lại, thấy mình đang nằm trên một chiếc giường tre lót nệm cỏ. Một người đàn ông khoanh tay im lặng bên giường nhìn nàng. Phụng nghe nơi trán mình ê ê liền đưa tay lên định xem xét. Người đàn ông, nãy giờ vẫn ngồi bên, ngăn tay nàng, lễ phép nói: - Thưa bà, bà đừng cử động mạnh, máu ra nhiều Bà để yên độ nửa giờ, ngải sẽ hàn bớt vết thương và ngăn không cho máu chảy ra nữa. Giờ, bà cứ nằm tĩnh dưỡng, đừng lo ngại gì hết! - Nhưng, thưa ngài, Phụng hỏi, tôi muốn biết hiện giờ tôi đang ở đâu? Nàng vừa hỏi vừa đưa mắt nhìn người đàn ông từ đầu đến chân. Gã còn trẻ lắm. Mặt tròn, mắt sáng, đôi môi lúc nào cũng dành sẵn một nụ cười. Màu da ngâm ngâm đen, láng như đồng, tỏ rằng gã có rất nhiều sức mạnh. Gã mặc theo kiểu người đi săn: đầu đội nón vành lớn, chân đi ủng da đen. Trông gã oai nghi, hùng dũng lắm. Gã biết Phụng đang tò mò nhìn, liền ngồi thẳng lên nhìn lại Phụng. Bốn luồng nhỡn tuyến vừa gặp nhau đã vội tránh nhau. Nghe Phụng hỏi, gã mỉm cười, hỏi lại Phụng: - Bà có nghe người ta nói đến tên Kòn Trô lần nào không? (1) Loài sậy mọc ở các ruộng bưng. 34
  35. Phụng ngạc nhiên, trả lời: - Có! Tôi vừa tới đây đã nghe người ta nói ở vùng này có một tướng cướp lợi hại tên là Kòn Trô thường hay đón ô tô du khách để đoạt tiền, hoặc bắt cóc người ta. Nhưng thưa ngài, tại sao ngài hỏi tôi câu ấy? - Vậy thì bà hiện đang nằm trong đại trại của Kòn Trô. Phụng đứng phắt lên, trợn mắt: - Ngài là Kòn Trô? Người đàn ông cũng đứng lên theo, gật đầu: - Vâng! Phụng hãi hùng liếc nhìn quanh để tìm sự cầu cứu. Trước mắt nàng, Kòn Trô đứng chắn ngang như một pho tượng đá. Không kịp nghĩ ngợi, nàng nhảy tới một bước, rút dao găm đâm vào ngực Kòn Trô một nhát. Kòn Trô né mình sang một bên, đưa hai tay ra đỡ. Phụng đang lỡ đà gần ngã sấp. Chàng nói với Phụng, giọng trách móc: - Sao bà lại định giết tôi? Cái tiếng nói nhẹ nhàng ấy làm dịu cơn hăng tiết của Phụng. Nàng nói: - Tôi không định hại ngài, nhưng mà tôi cần phải nghĩ đến sự giải thoát, thưa ngài! - À, ra chỉ có thế mà bà định đổi ơn làm oán. Tôi đem bà từ hố sâu lên, tìm ngải đắp vết thương cho bà tỉnh lại là sẽ đưa bà ra khỏi rừng này. Tôi có cầm bà ở đây đâu? Phụng xem Kòn Trô không dữ tợn như người ta tưởng, nên lòng cũng bớt lo. Lại nghe chàng nói năng lịch thiệp, nàng không tin rằng con người ấy lại là một kẻ đã từng cướp của giết người. Thấy Phụng ra chiều tư lự, Kòn Trô nói với nàng: - Bà hãy yên lòng đừng nghĩ xa xôi gì hết. Tùy bà muốn đi lúc nào cũng được, hay bà ở đây, tôi cũng sẵn sàng tiếp đãi bà như một quý khách. Bây giờ xin mời bà ra trại ngoài dùng bữa sáng rồi tôi sẽ đưa bà đi viếng những vùng quanh đây. Trong trại tôi, có rất nhiều ngựa tốt. Phụng nghe ruột đói như cào, liền mạnh bạo bước theo Kòn Trô ra trại ngoài. Ánh nắng một buổi hè, vàng tươi như một màu sơn mới, chan hòa khắp cảnh lâm tuyền. * * * Hai con ngựa song song đi bước một trên triền đồi. Phụng hỏi Kòn Trô: - Núi này là núi gì? - Núi Klìu-bo (cọp trắng) hay Bạch Hổ Sơn cũng thế. Bà trông nó có giống hình một con cọp ngồi rình mồi không? 35
  36. Phụng gật đầu, nói với Kòn Trô: - Ta lên đồi chơi. Hai người xuống ngựa, trèo lên đồi. Lên tới đỉnh, Phụng mệt ngất, tựa vào một thân cây. Kòn Trô lấy nón quạt mát cho Phụng. Ve sầu kêu ra rả trên các ngọn cây cao. Tiếng chim vui ca trong nắng hạ. Phụng chóa mắt nhìn khắp bốn phía. Hơn sáu chục cái nhà sàn giống nhau vây tròn lấy trái núi. Kòn Trô nói với Phụng: - Bọn thủ hạ của tôi hơn một trăm người đều sống chung với nhau trong những căn trại ấy. Họ toàn là người Châu Mạ (Tcau-ma) gan dạ và đanh thép. Tôi dùng họ rất được việc mà họ rất trung thành với tôi. Tôi bảo chết, họ chết. Tôi bảo sống, họ sống. Họ thương tôi và kính trọng như cha. Bà nghĩ còn lòng thương nào khăng khít hơn lòng thương của những kẻ vô gia cư, không cha, không mẹ, thân thế và cuộc đời gần giống in nhau, không cần phải cắt máu ăn thề mà họ cũng ăn ở với nh au một niềm chung thủy. Ấy cũng bởi sự chung đụng lâu năm nó gây cho họ tình đoàn kết bền bỉ, không ai có thể cắt đứt được. Ở đây, không có sự phản bội, không có sự man trá, không có sự ghen tị, nó làm cho người ta phải cực lòng lo nghĩ vì nhau. Tâm hồn họ đã hòa chung cùng cỏ cây hoang dại. Phụng ngắt lời: - Nhưng sao tên ngài lại là Kòn Trô? Kòn Trô cười: - À! Cái đó lại khác. Nguyên bản dân Tcau-ma thấy tôi khỏe và gan lì, nên gọi tôi là Kòn Trô. Kòn là con, Trô là ông trời, nghĩa là con của trời sinh ra không sợ gì hết. Phụng mỉm cười, nhìn Kòn Trô: - Còn tên thật của ngài? Kòn Trô nhíu mày, thở ra: - Bà hỏi đến tên tôi tức là bà muốn tôi nhắc lại cái quá khứ đẫm máu mà vì nó ngày nay tôi phải chịu sống lẩn lút cùng cỏ cây hoang vu, xa lánh hẳn loài ngườ i. Bao nhiêu lạc thú êm đềm của tuổi trẻ, bao nhiêu hoài bão của một trái tim thiếu tráng (2) đành chôn trong góc núi, xó rừng này. Phụng thương hại, hỏi: - Ngài có thể nào cho tôi nghe cái dĩ vãng kia, không? Kòn Trô xua tay: - Thưa bà, tôi xin bà điều ấy. Cái dĩ vãng của một tên cướp có gì là đẹp đẽ? Hai người im lặng, nhìn xuống ruộng ngô rải rác quanh đồi. Kòn Trô chỉ một nhóm người dân tộc đang lúi húi dưới những nương khoai xanh và nói với Phụng: (2) Sic. Cách dùng từ cổ, có nghĩa là "tráng sĩ thiếu niên". Bản của sách Ngàn sau, sông Dịch (Nxb.Trẻ, 1988), người tuyển chọn đã sửa thành thanh xuân. Trong nhiều tác phẩm Lý Văn Sâm trước năm 1950, từ thiếu niên thường được dùng thay cho từ thanh niên. Phải chăng là cách dùng từ của thời bấy giờ? 36
  37. - Bà coi! Bọn chúng tôi trồng khoai, cấy lúa, gieo bắp, gây riêng một thế giới phóng khoáng, xa hẳn gió bụi chốn thị thành. Chỉ vì một năm gạo thua, lúa kém, chúng tôi mới phải ép lòng đón người giật của và cướp kho lương của ông đồn, tại đây. Từ đó, tiếng tăm Kòn Trô nổi dậy một vùng. Nhưng chúng tôi chỉ bạo đ ộng trong một năm ấy thôi, rồi thì cải ác, tùng thiện, trở về chốn cũ, cầm lại cái cày, quơ lại cái cuốc, sống một cuộc đời lương thiện như những kẻ nông dân. Thỉnh thoảng, chúng tôi lại bị bao vây nhưng vì không thuộc đường lối nên trăm người vào đây, khó mà trở về cho đủ. Cuộc đời tôi, từ đó càng ngày càng nặng tội, càng ngày càng lem luốc, càng ngày càng xa nhân loại. Người đời cho bọn tôi là một lũ quỷ sống, uống máu người không tanh Có tiếng mõ tre nổi dậy từ trại này qua trại khác. Phụng hỏi Kòn Tr ô: - Họ làm gì vậy? Kòn Trô giảng: - Bọn Mọi(3) đánh mõ gọi nhau về cho đủ mặt để ăn cơm trưa. Phụng lại hỏi: - Bao giờ thì Kòn Trô đưa tôi về? - Lát nữa tôi sẽ đưa bà ra khỏi nơi này. Hiện tôi đã cho người sửa soạn thắng yên cương hai con tuấn mã sung sức nhất và đem theo đồ ăn đường. Sáng ngày mai chúng ta sẽ tới thác Mu Mi. Có tiếng gà gáy trưa nghe buồn rời rợi (4). Hai người lặng lẽ xuống đồi. Kòn Trô nói với Phụng: - Bà có thể cho biết quý danh không? Phụng vui vẻ: - Thể Phụng là tên tôi! Kòn Trô lẩm bẩm: - Thể Phụng! Thể Phụng, cái tên đẹp quá Rồi gã hỏi luôn Phụng: - Chắc có lẽ ông nhà đang trông bà lắm! Phụng cải chính: - Tôi chưa có chồng. Tôi có hai người bạn trai đi theo tôi, nhưng hồi hôm này, chúng tôi đã lạc nhau. Bây giờ, có lẽ họ đang nóng ruột chờ tôi lắm. Kòn Trô khen: - Thảo nào trông bà còn trẻ quá. - Kòn Trô, anh nên gọi tôi bằng cô hay bằng em là hơn. Chúng ta còn trẻ, không nên xưng hô khách sáo như vậy. Kòn Trô thấy lòng mình nhẹ nhàng như mọc cánh. Đã năm năm nay mới có cơn (3) Sic. Cách gọi đồng bào các dân tộc ít người trước đây. Bản 1988 đã sửa là: Người dân tộc. Chúng tôi giữ lại cách viết ban đầu của tác giả. (4) Biến âm của rười rượi. 37
  38. gió mát thổi qua vườn lòng cằn cỗi của chàng. * * * Nắng đã tắt từ lâu mà trời vẫn còn oi bức. Mặt trời khuất lần sau ngọn Klìu -bo. Bóng tối bắt đầu bao trùm sự vật; đứng gần nhau không trông rõ mặt người. Kòn Trô nắm tay Thể Phụng dẫn ra sân. Có tiếng ngựa hí lẫn trong tiếng người líu lo trò chuyện. Có tiếng sắt và thép va chạm vào nhau. Người ta đang sửa soạn cho một cuộc viễn trình (5). Kòn Trô quát to: - Sụt tròi! (thắp đuốc chai lên ). Tức thì tám ngọn đuốc lóe ánh sáng đỏ rực, phả khói mù nghi ngút. Kòn Trô rót một cốc rượu, mời Phụng: - Cô uống một chén rượu rừng cho ấm bụng. Phụng âu yếm nhìn gã mỉm cười: - Anh làm như thể đưa tôi ra ngoài quan ải! Kòn Trô buồn rầu nói với Phụng: - Có cuộc tống biệt nào mà không làm bằng nước mắt mà có cảnh rẽ chia nào mà không có ly bôi? Cô uống chén rượu này gọi là chén rượu kỉ niệm buổi chia tay này vậy! Phụng đỡ cốc rượu, uống một hơi cạn. Mặt nàng hồng hồng, đẹp như tranh vẽ. Kòn Trô hỏi một tên Mọi đứng gần đó: - Dòn ạ zầ? (Mấy giờ? ). - Prao zà! (Sáu giờ! ). Kòn Trô quay qua, bảo Phụng: - Ta lên đường! Hai người lên ngựa. Hai tên Mọi cầm đuốc đưa đường. Ra khỏi trại, bốn người cho ngựa phi nước lớn. Nửa giờ sau, họ đã tới trảng tranh. Kòn Trô nói với Phụng: - Truông này nhiều hổ lắm. Cô đi lên trước, để tôi giữ hậu cho. Phụng nhìn Kòn Trô, mỉm cười tỏ vẻ cảm ơn. Dưới ánh đuốc, chàng đẹp như những tay kỵ mã thời xưa. Hết cây đuốc này, thay cây đuốc khác, đi quá nửa đêm thì tiếng thác Mu Mi đã nghe rõ. Phụng nói: - Tối hôm qua tôi cũng nghe tiếng thác đổ như đêm nay mà đi hoài không tới. - Là vì cô không thuộc lối! Nhờ vậy mới có cuộc gặp gỡ hiếm có này; một cuộc kì (5) Viễn trình: chuyến đi xa. 38
  39. ngộ đã đem lại cho lòng tôi biết bao cảm giác êm đềm Phụng thấy ngượng liền buông một câu hỏi bâng quơ: - Kòn Trô ơi! Anh không nghĩ đến ngày quay về với cuộ c đời lương thiện hay sao? Kòn Trô buồn rầu không nói. Vẻ cảm động hiện rõ lên mặt. Lời nói của ai kia như thúc giục tấm lòng ham muốn trở lại với người đời. Phụng lại hỏi: - Anh định sống suốt đời ở đây, sao? Kòn Trô thấp giọng: - Loài người họ có tha tôi đâu mà mong trở về với họ. Vả, đối với pháp luật, tôi là một tên tử tù; con đường về, không bao giờ còn mở cửa nữa rồi! Trời sắp sáng. Chim ngàn rộn rã lên đường. Kòn Trô cho hai người Mọi trở về, còn mình thì theo Phụng tới thác Mu Mi. Kòn Trô chỉ một ngọn suối chảy ngang trước mặt, nói với Phụng: - Chúng ta cho ngựa xuống lội một quãng dài rồi lên đất. Làm thế cho lạc mất dấu ngựa của chúng ta. Lỡ có ai theo dấu cũng không đáng ngại. Phụng khen: - Anh cẩn thận và mưu lược lắm! Hai con ngựa lội bì bõm dài theo dòng suối nhỏ. Gặp chỗ có nhiều đá, Phụng giật mình, mấy lần sắp ngã. Kòn Trô đưa tay đỡ nàng. Hai ngựa giao kề. Phụng nằm gọn trong cánh tay Kòn Trô. Nàng bẽn lẽn nói: - Không có anh, em té xuống ngựa rồi còn gì! Kòn Trô mạnh bạo: - Anh cũng ao ước sao em ngã nhiều lần như thế để anh được nâng đỡ tấm thân ngà ngọc của em. Những ngày sống của anh chỉ có nghĩa trên đoạn đường này thôi. Phụng làm thinh. Lòng nàng hiu hiu một cảm hoài nhè nhẹ. Nàng thấy mình chỉ thương hại Kòn Trô thôi. Tuy nhiên, nàng cũng an ủi chàng: - Mùa hè năm sau, em sẽ tìm về đây thăm anh. Một năm có là bao! Kòn Trô nhếch một nụ cười đau đớn: - Chừng ấy, biết anh còn sống để chờ em không? Em nên nhớ rằng lúc nào anh cũng sống trong sự nguy hiểm. Người ta đã đánh giá mạng sống của anh rồi! Hai người im lặng. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Tiếng thác đổ rầm rộ tưởng chừng như chuyển động cả trời đất. Trời sáng dần. Gà rừng gáy khắp nơi, báo hết đêm dài. Hai người giật cương ngựa leo lên bờ suối. Kòn Trô cảm giác như mình ngồi trên ngựa không vững nữa. Trời sáng mau quá. Kòn Trô không giữ được cảm động, ngùi ngùi ngâm lên như một người say rượu: Mais je demande en vain quelques momments encore, Je temps m'échappe et me fuit. 39
  40. Je dis à cette nuit: "Sois plus lente" et l'aurore Va dissiper la nuit " Rồi chàng ngửa mặt lên trời, cười sằng sặc. Phụng cảm động khuyên chàng: - Anh nên can đảm lên! Người anh hùng không nên để lòng mình dễ rung động như vậy. Kòn Trô vẫn cười sằng sặc. Ra khỏi cửa rừng, Phụng mừng rỡ: - Thác Mu Mi kia rồi! Dưới ánh bình mình lộng lẫy, hàng ngàn tấn nước từ ngọn sông cao đổ xuống vực sâu làm thành những tiếng động kinh hồn. Phụng ghìm cương ngựa lại bên bờ thác. Nàng nhẹ nhàng nói với người bạn chung đường: - Đã tới lúc chúng ta phải xa nhau, hẳn rồi! Giọng nàng thấp mãi xuống vì cảm động. Kòn Trô mỉm cười, từ giã: - Thôi cô về! Đã đến lúc tôi không còn theo cô được nữa. Giờ thì cô em lên đường bình an. Phụng cúi đầu, không nói. Kòn Trô ngậm ngùi rằng: - Rồi đây năm, tháng sẽ đi qua. Núi sẽ mòn. Sông sẽ cạn. Không có gì tồn tại dưới sức tàn phá âm thầm nhưng mãnh liệt của thời gian. Huống chi là một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi của hai người tuổi trẻ. Người ta rất dễ quên nhau Phụng vẫn cúi mặt, im lời. Những loạt lá trổ đổ xuống ào ào phá tan sự im lặng giữa hai người. Bỗng Phụng ngẩng mặt lên chăm chú nhìn Kòn Trô. Thiếu niên cảm giác như trái tim mình ngừng đập. Rút một chiếc khăn tay ở túi ra, rồi hái một đóa trang rừng gói vào trong, Phụng mỉm cười nhét vào tay Kòn Trô: - Đây! Em chỉ có cái này làm kỉ niệm. Anh hãy giữ lấy nó, đừng làm mất, em bắt thường đó! Kòn Trô đưa hoa lên mũi. Chiếc khăn tay thoảng một mùi hương nhè nhẹ, thơm như mái tóc của giai nhân. Lúc ấy đúng vào mùa hoa chai nở. Những cánh hoa li ti điểm trắng rừng xanh, lờ lờ như có một lớp tuyết phủ. Mặt trời đỏ chói, chồi lên sau ngọn Bạch Hổ Sơn; rực rỡ như một vùng hào quang tỏa quanh đầu đức Phật Phụng ngước mắt nhìn trái núi. Ngọn Bạch Hổ Sơn hình như cũng đang nhìn nàng. Phụng nói: - Suốt đường về, mắt em sẽ không rời ngọn núi tri kỉ này! Rồi nàng nắm tay Kòn Trô, nói nhỏ: - Thôi, em đi! Kòn Trô giữ bàn tay Phụng trong tay mình một lúc lâu. Sau cùng chàng nói: 40
  41. - Em đi, kẻo muộn! Phụng giục ngựa quay đi để giấu sự cảm động. Bỗng Kòn Trô, gọi với theo: - Thể Phụng! Phụng dừng cương. Kòn Trô gượng cười, hỏi: - Độ mấy giờ thì Phụng lên đường, về tỉnh? - Xế chiều nay! Kòn Trô đưa roi ngựa lên cao khỏi đầu, vẫy vẫy giọng luyến tiếc: - Chúng ta sẽ gặp nhau một lần chót tại cây số 90, ở đầu dốc lớn. Anh sẽ đón em ở đó, ba giờ chiều nay! Phụng gật đầu. Con ngựa trắng chồm cổ lên cao hí dài một hồi, rồi lao mình xuống triền hố * * * Bốn năm sau Có một cặp vợ chồng trẻ tuổi đến viếng thác Mu Mi đúng vào mùa trang nở. Bông trang rực rỡ nhuộm đỏ loáng rừng chạy dài theo hai bên bờ thác. Cành chai điểm trắng những bông hoa non nhỏ li ti, trông xa như tuyết phủ. Người vợ nắm tay chồng kéo ra bờ thác. Hai người đứng trên bờ đá cao nhìn xuống vực. Những gộp đá khổng lồ, nằm gối lên nhau, bắt ngang con sông như một dãy trường kiều(6). Từng khối nước nặng nề trôi băng băng từ bực cao xuống bực thấp, tung khói sóng mịt mù. Thiếu phụ nói nhỏ vào tai chồng: - Ghê quá, mình ơi! Chồng chỉ rừng trang đỏ ối, âu yếm hỏi vợ: - Em có thích những đóa hoa kia không? Trông chúng nó rực rỡ như màu áo của em! - Hoa gì vậy, mình? - Trang rừng. Thiếu phụ chau mày, lẩm nhẩm, lập lại: - Trang rừng! Trang rừng, những đóa hoa có sắc nhưng không hương Rồi như chợt nhớ ra điều gì, nàng giật mình chớp nhanh đôi mắt ướt. Lờ mờ trong dĩ vãng xa xăm, nàng mang máng sống lại cảnh "một đêm sương" của mùa hạ cũ. Hình ảnh người trẻ tuổi đã đưa nàng qua những tấm rừng dày về thác Mu Mi, bỗng hiện về trong trí nhớ. Niềm cảm xúc reo động trong quả tim non, sâu xa và thấm thía vô cùng. Có ai ngược về lối cũ của thời gian mà không thấy lòng mình bồi hồi rung động, khi dòng tư (6) Trường kiều: (từ cũ) cầu dài. 41
  42. tưởng ngừng lại ở một quá khứ đầy kỉ niệm? Thiếu phụ thì thầm: - Kòn Trô! Người chồng vội hỏi: - Gì? Em mới nhắc tới hai tiếng Kòn Trô? Làm gì có Kòn Trô nữa mà sợ! Tên cướp rừng khét tiếng ấy đã bị người t a giết mất cách đây bốn năm, vào một buổi chiều mùa hạ Thiếu phụ nắm lấy vai chồng, thất sắc: - Ai giết? Vì sao Kòn Trô lại bị giết? Chồng trách vợ: - Mình lạ quá! Cái chết của một kẻ cướp đã khiến mình quan tâm đến thế kia, à? Người vợ cười ngất: - Ồ, lạ quá Nàng lau mấy giọt mồ hôi đọng trên trán: nơi ấy lờ mờ một vết thẹo nhỏ. Nàng quay mặt, giấu một tiếng thở dài nhè nhẹ Nàng tươi cười dịu giọng với chồng: - Em muốn biết người ta làm cách nào giết được Kòn Trô? Em nghe người ta nói nó giỏi võ v à khỏe mạnh lắm kia, mà? Chồng tát yêu vợ: - Có vậy mà cũng nóng nảy! Thủng thỉnh anh kể chuyện cho mà nghe. Theo lời người ta thuật lại thì Kòn Trô chết vì một người con gái đến nghỉ hè tại đây. Thiếu phụ biến sắc, cúi đầu. Người chồng tiếp: - Trong một cuộc đi săn lạc mất lối về, người nữ sinh ấy tình cờ lọt vào nội địa của Kòn Trô. Nó tiếp đãi nàng rất mực tử tế và sau cùng lại đưa nàng về thác Mu Mi. Vì quá nặng lòng trìu mến nàng, nó còn hẹn với nàng rằng nó sẽ theo và tiễn nàng một lần chót trên một đoạn đường về. Cũng bởi mạng nó đã cùn (7) nên mới khiến cô nữ sinh kia đem khoe chuyện ấy với hai người bạn học cùng lớp. Hai người kia lẻn đi báo tin cho ông đồn Châu Mạ hay Thiếu phụ rên lên một tiếng não nùng: - Bây giờ mình mới rõ. - Mình nóng quá! Yên! Tôi nói cho mà nghe. Thế rồi, một nhân viên quản đồn và hai mươi người lính võ trang đầy đủ, ra mai phục ở ven rừng. Đúng mười lăm giờ, kém một khắc, Kòn Trô lững thững cỡi ngựa, ung dung đi vào giữa hai hàng súng. Một tiếng hô to. Hai mươi khẩu súng cùng nhả đạn, một lượt. Kòn Trô bị đạn khắp mình, máu me tuôn ướt áo. Thiếu phụ rên rỉ: - Trời ơi! Thế thì chết mất còn gì? (7) Cùn: mòn đi, hư hao dần . 42
  43. Người chồng lấy làm lạ, đăm đăm nhìn vợ. Thiếu phụ gượng giữ vẻ bình tĩnh vừa cười vừa hỏi chồng: - Nó chết chưa, mình? Chồng tiếp: - Kòn Trô quả thật không thẹn với tên. Thật là một người anh hùng dũng mãnh. Tuy khắp người bị thương, nó cũng còn sức ngồi trở mặt ra phía đuôi ngựa, thốc chân một cái, con tuấn mã nhảy khỏi vòng vây. Con ngựa phi nước lớn. Nó ngồi trên mình con thú tinh khôn nhắm bắn ngã luôn năm người lính đồn rồi mới kiệt sức, rơi nhào xuống ngựa. Người ta xúm lại quanh nó. Nó nằm ngửa trên mặt lá ủ, mắt mở trừng trừng. Lúc người ta sắp khiêng nó đi thì nó xin nằm nán lại vài phút. Đến khi nghe tiếng kèn xe hơi của ai vọng lên ở xa xa, nó mỉm cười mấp máy đôi môi. Nó đưa chiếc khăn tay đàn bà cho ông đồn và ra hiệu biểu đắp dùm mặt nó. Đem Kòn Trô về đến đồn thì nó chết. Thiếu phụ nghe xong, hỏi chồng: - Ai kể cho mình nghe rành mạch như vậy? - Anh đọc báo. Độ ấy mình không đọc thấy cái tin ấy, sao? - Không ! Lâu quá, em quên mất. Vả, em sơ ý không hay đọc những tin tức đổ máu. Em sợ lắm. Em buồn lắm. Người ta cứ tìm cách giết hại nhau mãi Thiếu phụ ngước mặt lên. Núi Bạch Hổ đứng sững trong cõi mịt mù của khói ngàn xanh xám. Một miếng mây trắng quấn qua đầu đỉnh non xa như một bức khăn tang. Hình ảnh trái núi kia trải bao nhiêu năm cách biệt, vẫn còn nguyên vẹn như tấm lòng không thay đổi của một người tri kỉ. Thiếu phụ chùi mắt, nói với chồng: - Nắng hạ gay gắt quá làm em chói mắt, khó chịu. Mình coi đây! Nước mắt em cứ ràn rụa ra mãi thế này! Chúng ta vào nhà "thủy tạ" nghỉ một lát, đi mình! Hai người quay đi. Sau lưng họ, tiếng thác vẫn rền rĩ mãi không thôi như lời than khóc một nỗi hận dài Sông Bé, mùa nắng, năm 1941 (Theo Lý Văn Sâm toàn tập, tập 1, NXB Đồng Nai, 2002) MƯA THU NHỚ TẰM Bình Nguyên Lộc Lời tác giả: Bài văn nầy nằm trong tập hồi kí nhan đề là “Nếu tôi nhớ kỹ”, tác giả trích ra đăng ở đây để ghi nhớ rằng tất cả các truyện trong tập “Mưa thu nhớ tằm”, trừ hai truyện “Kẻ đào ngũ” và “Xác không chôn” đều viết cùng một mùa với hồi kí “Mưa thu nhớ tằm”, tức vào mùa thu 1956. 43
  44. “Thương tằm cổi áo bọc dâu, Ngỡ tằm có nghĩa hay đâu bạc tình ”. (Ca dao địa phương Nam Ngãi) Những năm tôi đi tìm “tài liệu sống” để viết tiểu thuyết Phù Sa, tôi được dịp tiếp xúc với nhiều người khác thường họ đã mở cửa sổ lòng cho tôi nhìn những chơn trời kì lạ hết sức. Dưới đây xin kể một mẩu truyện nhỏ để minh họa nhận xét trên. Đi đường Trương Minh Giảng để ra ngoài đô thành, khi qua khỏi Cầu Mới, bên tay mặt khách, đâm ra một con đường phố mới, chưa có tên, tạm gọi là Lộ 18 (8). Bên phía tay mặt phố là một xóm nhà lá khá sầm uất, có cả một cái chợ chồm hổm nơi đó, tục gọi là chợ Bà Y. Đó là xóm nhà của đồng bào Quảng Nam - Quảng Ngãi tới đây lập nghiệp từ lâu, kẻ trước người sau, từ hơn hai mươi năm nay. Người ta giới thiệu tôi với gia đình ông Y, mà tên của người vợ được lấy đặt tên chợ. Ông Y, là một bác thợ dệt, gốc ở phủ Điện Bàn (9), tỉnh Quảng Nam, vào đây sanh sống từ những năm đói kém tiền chiến. Bác ta làm công cho một xưởng dệt Khách (10) ở Chợ Lớn. Hôm tôi vào xóm Quảng Nam năm ấy, trời giữa thu như độ nầy. Mưa dầm không nặng hột cứ rơi mãi không thôi. Thế mà khi tôi bước vào nhà với một người bạn thì chúng tôi bắt chợt bác Y đang làm công việc gì đó ngoài sân. Chúng tôi phản đối lấy lệ khi bác bỏ làm để tiếp khách. Nhưng quả thật chúng tôi không buồn xem cho biết công việc của bác thuộc vào loại gì. Cũng như ở các ngoại ô xa khác, xóm nhà lá nầy khá nên thơ: Sân cát, quanh nhà trồng tre sống mà những mụt măng gợi nhớ nhà quê. Tôi hỏi thăm bác Y về đời sống hằng ngày ở Quảng Nam, hỏi tên những cây mọc dựa đường, tên địa phương của dụng cụ nông nghiệp v v và xin bác đọc cho chép một mớ ca dao địa phương mà bác nhớ. Bác Y, lơ đãng trả lời, tỏ ra, không phải không trọng khách, nhưng bực bội về những đề tài bác không thích. Được dịp tiếp xúc với thợ kỹ nghệ, tôi khá sành tâm lí họ. Phần đông thích nói chuyện nghiệp đoàn, chuyện giải trí ở châu thành, hoặc khoe nhà máy. Nếu lúc đó tôi hỏi bác ta xưởng bác sản xuất mấy vạn khăn lông mỗi tháng chắc bác ta nồng nhiệt trả lời, kể ra hằng tá chi tiết rất khô khan. Nên chi tôi không ngạc nhiên và thất vọng lắm về vẻ lạnh lạt của bác. Cuộc “phỏng vấn” đã chấm dứt, nhưng trời cứ mưa hoài, nên chúng tôi ngại ra về. 8 Lộ 18, sau đó được đặt là Trương -Tấn Bửu rồi bây giờ là Trần -Quang-Diệu (Chú thích của tác giả). 9 Địa danh trong truyện ngắn được tác giả viết có gạch nối ( -) như: Điện-Bàn, Chúng tôi chuyển lại theo cách viết thông dụng hiện nay. 10 Hoa kiều. 44
  45. Ngồi nhìn giọt tranh mãi cũng chán, nên tôi lén quan sát người chủ nhà hà ti ện lời kia. Bỗng tôi sực nhớ một cử chỉ của bác ta mà tôi bỏ qua từ lúc khởi đầu nói chuyện với bác: là mắt ông Y luôn luôn nhìn ra góc trái sân nhà và không bao giờ rời chỗ đó cả. Chà, bậy quá, tôi nghĩ thầm. Té ra bác ta có một công việc quan trọng nơi đó mà phải bỏ dở vì mình. Tôi nhìn theo chỗ ngó của ông Y. Qua những làn mưa tro trắng đục, tôi thấy lơ thơ vài bụi sả đang ngã nghiêng trước gió. Phía sau mấy bụi sả là một cây dâu già, to bằng cây ổi bốn năm tuổi. Nước mưa thoát ra đường mòn trước nhà d o góc rào đó và mài khuyết đất quanh gốc dâu. Một cái mương nhỏ đang đào dở chừng để xuyên tạc đường nước, bấy giờ đã bể bờ và nước lại trở về đường cũ. Thì ra hồi nãy bác Y đang bận cứu cây dâu, chừng như quí lắm nên bác ta mới dầm mưa mà làm việc và hiện đang sốt ruột trông thấy. - Cây dâu nầy bác trồng à ? - Dạ, trên mười năm rồi ! - Để làm gì, rơ miệng cho các cháu ? Ta có tục tẩy lưỡi trẻ con bằng lá dâu vì thứ lá nầy nhám. - Dạ không, tôi không có con. - Vậy để đuổi tà ma? Bác Y mỉm cười: - Tôi không sợ ma quỉ cho lắm. Mặt bác Y giãn ra, bớt vẻ băn hăn bó hó (11). - Chớ bác trồng dâu làm gì ? - Để cho nó giống làng tôi. Trong Nam nầy, ít khi tôi được thấy cây dâu lắm, nhứt là ở Sài Gòn. - Ngoài bác, người ta trồng dâu nuôi tằm hả ? Nghe nói tiếng “tằm”, mắt bác Y bỗng sáng lên rồi ươn ướt. Tôi chợt hiểu bác ta, kéo ghế ngồi xít lại gần bác rồi hỏi thêm, giọng cố thân mật: - Cây dâu khiến tôi nhớ tằm. Có phải để Bác Y bẽn lẽn như con gái bị người ta đoán trúng tim đen, nhưng lại sung sướng đến mọc óc(12) trên da mặt. Bác quên tôi là người lạ, nắm lấy tay tôi, nói một thôi không ngớt: - Những ngày trời ủ dột như vầy, tôi nhớ nhà thì ít mà nhớ tằm sao mà như nhớ người tình nhơn đầu. Tôi nhớ “hén” (13) lạnh, tôi nhớ “hén” đói vì dâu ướt át suốt ngày, khó tìm ra dâu ráo cho “hén ăn”. Bác Y nói đến con tằm mà y như người ta nói đến một người bạn, dùng tiếng “hắn” để kêu nó, và cái giọng Quảng Nam biến hắn ra hén, nó bùi ngùi làm sao buổi trưa hôm đó. 11 Băn hăn bó hó (Phương ngữ): bực dọc, cau có, hay nhăn nhó, khó tính. 12 Mọc óc (Phương ngữ): nổi da gà, trạng thái biểu hiện cảm xúc mạnh. 13 Hén: hắn (phát âm theo lối địa phương của người xứ Quảng). 45
  46. - Nên tôi trồng cây dâu nầy, bác Y tiếp, để sáng sáng, chiều chiều ra nhìn lá mà nhớ hén. Nhiều đêm, nằm vừa thiu thiu ngủ là tôi nghe văng vẳng tiếng rào rào, ngỡ hén đang ăn lên, tôi vụt ngồi dậy rờ quanh thì không có gì hết. Buồn quá tôi thắp cây đèn dầu, chạy ra sân soi vào lá với hy vọng hão huyền tìm gặp một con tằm hoang. Lạ thật! Ngày xưa, cách đây mấy ngàn năm, tằm vẫn ở hoang chớ phải không thầy? Nhưng sao bây giờ không có tằm hoang nữa. Tôi trồng cây dâu nầy mười năm, mỗi đêm mỗi trông đợi mà không bao giờ gặp tằm hoang cả. Lúc ấy từ nhà ai ngoài sau, vọng đưa ra tiếng hát ru con. Tiếng ấy hát rằng: Ù Ơ Em tôi buồn ngủ buồn nghê, Con tằm đỏ chín, con đê đỏ mùi. Nghe hát, bác Y chụp nói: - Thầy có thấy tằm “hén” chín đỏ bao giờ chưa? Trời, nó khéo(14) và nó dễ thương làm sao! Hén ngủ “thức lớn” rồi hén thức chơi với mình suốt bảy ngày, rồi hén “ chộ”. Xong là hén chín. Ban đầu một vài con, rồi cả nong đều chín đỏ như người bạn trung thành đang đau khổ dồn hết bao nhiêu máu huyết lại để chuẩn bị nhả tơ cho ta dùng. Thương biết bao nhiêu! À, thầy nên chép câu ca dao nầy mà hồi nãy tôi quên: Thương tằm cổi áo bọc dâu, Ngỡ tằm có nghĩa, hay đâu bạc tình. Con tằm hén giống như đứa con èo uột. Hén hay đau ốm lắm. Mình cực khổ với hén hết sức mà lắm khi hén bạc tình, hén lăn ra chết ráo nạ o từ nong nầy qua nong khác. Mà có lẽ cũng vì hén như hũ mắm treo đầu giàn như vậy nên mình thương hén càng nhiều chăng? Mà thầy ôi, bạc tình chính là tôi, chớ không phải tằm đâu. Tôi đã bỏ tằm, vô trong nầy người bạn tôi có lỗi gì đâu. Bấy giờ tôi mới hiểu thấu đáo con người đó. Đây là một anh thợ tiểu công nghệ miễn cưỡng trở thành một anh thợ kỹ nghệ nên cứ bùi ngùi nhớ xưa. Và quả anh ta lòng không khô héo như tôi đã ngỡ. Người thợ tiểu công nghệ rất thương nghề vì chính hắn làm lấy mọi công việc. Bác Y đã khó nhọc để tằm, bền chí ươm tơ nên bác thương nhớ tằm là phải lắm. Bác Y lại tiếp: - Tơ mà nó vô tới Sài Gòn thì mùi tằm không còn được bao nhiêu. Tôi ưa hít tơ lắm, như là hít áo của một người yêu để nhớ hơi, mà tơ ở đây, hít đến mệt phổi cũn g không nghe hơi hám gi. Mưa đã dứt. Người bạn tôi đã nhiều lần ngáp dài giữa câu chuyện “ con tằm đỏ chín” nầy nên đứng dậy kiếu về. Tôi siết chặt tay bác Y nhưng chắc lòng tôi thương bác không bằng bác nhớ tằm. Ra đến ngoài, bác còn hỏi tôi: 14 Đẹp, nói theo miền Trung (Chú thích của tác giả). 46
  47. - Chắc thầy cũng thương tằm lắm phải không? Tôi nhìn mặt thầy thì đoán biết. - Phải, tôi nói láo bừa, tôi thương tằm lắm. Bà nội tôi ngày xưa có để tằm mà ! Thu 1956 (Theo Mưa thu nhớ tằm, NXB Phù Sa, Sài Gòn, 1965) GIỮ LẤY MÀU XANH Giang Nam Năm xưa qua miền Đông Ghé lại quê em ăn sầu riêng, măng cụt Chiếc xe hàng màu lá cây vun vút Chở anh đi giữa xứ sở màu xanh Ôi quê em xưa sỏi đá khô cằn Giờ mát cao su, lừng hương bưởi nở Đây Phước Tân rập rờn sóng lúa Đây Long Thành: đường khuất giữa rừng thơm Cam, quýt, lêkima vườn nối tiếp vườn Nhắm mắt còn nghe ngọt từng khúc ruột Và bóng em trên cành cao chót vót Hái ném cho anh những qủa chín đầu mùa Dưới nếp khăn rằn đôi mắt ngây thơ Tinh nghịch tìm anh, cười trong bóng lá Những buổi hoàng hôn về vội vã Say mê chiết cành, vun gốc, bắt sâu Anh ngắm nhìn em sung sướng tự hào Yêu em và cây cùng lớn lên xanh tốt Năm nay lại về miền Đông Giữa mùa lá hoa đâm chồi nảy lộc Đường đất đỏ vẫn chạy dài hun hút Nhưng mắt thoáng nhìn, mắt bỗng mở to Ai đốt quê hương, thiêu cháy bụi bờ Những vườn sầu riêng khô cành trụi lá Anh bắt gặp em, mắt bừng tia lửa Cúi xuống bên cây như bên xác người thân Chúng nó giết người, giết cả màu xanh Từng búp măng non, từng mầm sống nhỏ! Lúa Phước Tân gục đầu không dậy nữa 47
  48. Cao su Long Thành run rẩy cánh tay xương Nắng lửa chói chang đổ khắp ruộng vườn Một mảnh thân ta đã thành đất chết Có gì chạy trong lồng xương, ống mạch Ngột ngạt, tê người như thuốc độc em ơi! Ngồi xuống bên em đau xót, bồi hồi Cuộc sống ngày mai lấy gì bù đắp? Đánh chết chúng đi những thằng mang thuốc độc! Sợ con người và sợ cả cỏ cây! Đang cướp của ta từng giọt máu luống cày Những kỉ niệm yêu thương, những mối tình đẹp nhất! Giặc pháp năm nào đốt làng, phá đập Người có già hơn nhưng lúa vẫn trổ đòng Hỏa tiễn, napan, thuốc độc, vi trùng Không xóa nổi màu xanh và tiếng hát! Cây chết rồi, ta sẽ trồng cây khác. Đất chết rồi ta lại bón lại vun Anh sẽ giữ trời xanh cho em cấy em trồng Trái sẽ chín ngọt ngào như sữa mẹ. Ta sẽ giữ màu xanh bao thế hệ Trên dải đất này, như máu đỏ quê ta. (Tiếng hát miền Nam) Chú thích: - Hỏa tiễn: Là một loại vũ khí tối tân (còn gọi là tên lửa), có thể bắn đi xa và có tầm sát thương lớn. - Napan: Tên một loại vũ khí Mĩ đã sử dụng ở chiến trường Việt Nam, còn gọi là bom xăng, có chức năng đốt cháy nhiều vật thể để làm lộ mục tiêu cho máy bay đánh phá. - Lêkima: Tên một loại trái cây rất phổ biến ở vùng Đất Đỏ, quê hương chị Võ Thị Sáu. Quả khi chín có màu vàng, vị ngọt. 48
  49. VĂN BIA “BIÊN HÒA – ĐỒNG NAI 300 NĂM” Huỳnh Ngọc Trảng ” Sách sử chép rằng: 300 năm trước, từ cửa sông Soài Rạp đến thượng nguồn Đồng nguyên, núi sông một dải mịt mờ chư a phân định Rừng hoang chờ đợi mỏi mòn một áng khói lam chiều từ bếp ấm, sông xanh khao khát một tiếng chèo khua. Cọp, sấu thét gầm: muông thú chưa người cai quản; Mặt đất âm u: không kẻ vạch lá bẻ gai. Nhà Bè nước chảy chia hai, một hôm ngã ba sông vang tiếng hát; bìa rừng lặng gió, đêm nọ, ngân một khúc ầu ơ Rựa chặt rừng hoang, đánh lửa đốt cây, gieo hạt: một hộc thóc gặt hơn trăm hộc. Nhất thóc nhì cau; cơm Nai – Rịa, cá Rí – Rang tiếng đồn tứ xứ. Cù lao Phố bôn phương tụ hội; chẻ đá lát đường, dựng lầu xây phố; tàu hải dương mua bán chật sông – xứ đô hội rằng Nam Trung không đâu sánh kịp. Ngày lại tháng qua, năm Mậu Dần, tiết xuân còn ấm, tiếng trống chiêng quan quân vào đến: Lễ Thành hầu cắm gươm xuống đất, định danh phủ Gia Định tù đây; vạch dọc xẻ ngang lập thôn, lân, xóm, ấp; xem địa cuộc phân thnàh hai huyện: lấy Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Biên Trấn – án ngữ địa đầu vùng đất mới! Đất đã có tên, làng thôn có đình, chùa, miếu võ: hát xướng âu ca câu quốc thái dân an; Văn thánh miếu rỡ ràng, chốn lều tranh vách lá: ê a chữ nghĩa thánh hiền. Đặng Đại Độ bêu lũ hại dân tanh hôi giữa chợ; Nguyễn Thị Tồn gióng trống kêu oan, ba hồi sấm động trước cổng đế đô. Trịnh Hòai Đức, Bùi Hữu Nghĩa đèn sách dùi mài, đưa xứ sở bước lên hàng văn vật; Thủ Huồng, Thị Vải kẻ tâm thành, người trinh liệt ghi sự tích cho núi, cho sông. Những tưởng: trăm năm vỡ ruộng: đất điền mặc sức chim bay; hằng tin: núi rộng sông dài, trên bến dưới thuyền, phố chợ thênh thang, sung mậu. Nào ngờ đâu: Bến Nghé của tiền tan bọt nước; tàu sắt, súng đồng giặc đến: Đồng Nia tranh ngói nhiốm màu mây. Muôn người như một, chẳng đợi quan đòi, trống giục, liều mình xông tới, một lưỡi dao phay cũng quyết ra tay dốc sức đoạn kình. Hỡi ôi! Đại đồn Chí Hòa thất thủ, Tán lý sa cơ, máu đỏ binh nhung; Biên Hòa nước mắt ròng ròng, thắp nén hương thơm, lập đền thiêng thờ hồn tử sĩ. Giặc cậy súng to, tàu lớn lấn vô: giăng dâu thép, vẽ hoạ đồ muốn biến dân ta thành trâu thành ngựa; nào hay đâu Lục tỉnh Nam Kỳ, cờ Bình Tây lẫy lừng khắp chốn: dưới Long Thành, Nguyễn Lãnh binh dấy quân ứng nghĩa; trên Bưng Kiệu, Đàon Văn Cự mưu đại sự phục thù. Trại Lâm trung son đỏ tấm lòng: sinh vi tướng, tử vi thần – sống chết anh hùng nào nại. 49
  50. Trời Đông Phố, sáng chiều phủ kín mây đen, bọn Lang – sa xi xô qua lại; rừng cao su, bao kẻ kiếp mọi người, đám thầy chú vẩy roi da, inh ỏi thét. Máu lệ chan Hòa, hạt giống đỏ Phú Riềng nẩy mầm từ ấy; cờ búa liềm phấp phới nơi hãng xưỡng, làng thôn:”Hỡi những người nô lệ ở thế gian, vùng đứng dậy, trận này là trận cuối”. Tháng Tám cách mạng thành công: Độc lập – Tự do – tiếng hò reo vỡ ngực. Mùa Thu năm ấy, sao vàng xao xuyến: Chiến khu Đ vang dội “ Tiến quân ca” Rừng núi giang tay, đón người yêu nước. Kẻ tập bắn, người làm thơ, rèn gươm thiêng thề sống chết với quân thù. Tập kích Biên Hòa: Đất ta đâu để giặc thù chiếm đóng; chặn đánh La Ngà: cắt lộ giao thông không cho chúng lại qua. Trận Đồng Xoài vừa dứt, trận Trảng Bom,, Tràng Táo bùng lên; tháp canh, lô cốt chắc bền:đêm hăm hai – một phát tan thành bình địa ( ) Thực dân Pháp hết hồn ôm đầu bỏ chạy;đế quốc Mỹ hung hăng ồ ạt kéo vào. Trận Nhà Xanh báo cho giặc biết: đất này không chỗ dung thân; khám Tân Hiệp tan tành, nói cho nguỵ rõ: rằng dây kẽm gai, tường đá không giam được những người yêu nước. Năm sáu bốn: Sân bay Biên Hòa nằm trong họng cối; năm sáu sáu: Tổng kho Long Bình vật mọn trong túi đặc công. Rừng Sác, Lòng Tàu sông rạch ấy, tàu binh, tàu chiến đâu dễ vào ra; Thành Tuy Hạ mấy lần kho đạn nổ tung như trời long đất lở. Mậu Thân, thị thành lửa dậy: chiến thắn g ắt về ta. Bảy lăm, Xuân Lộc – cửa thép giặc vỡ toang: đón đại quân Giải phóng. Ba mươi năm sạch bóng quân thù. Độc lập, Tự do: có Bác Hồ trong ngỳa vui đại thắng. Ba mươi năm, mồ hôi xương máu chép lại một trang; nghìn năm, sông núi thái bình, những muốn đời sau nhớ lại. VĂN BIA ĐỀN THỜ LIỆT SĨ HUYỆN NHƠN TRẠCH Huỳnh Ngọc Trảng Núi sông là báu vật của trời, Ruộng rẫy, làng thôn là do bởi mồ hôi mà có. Xứ Nhơn Trạch xưa, vốnrừng giồng, nối liền rừng Sác. Vũng Gấm ráng chiều pha sắc thắm như dệt như thêu, thế nhưng lời tục kể rằng: Rạch, tắc, lạch, luồng có sấu “ông Kèo” bắt người ăn thịt đã thành tinh; ngã ba nọ, hạm gầm – con chim kêu phải sợ. “Hà chính mãnh ư hổ” – lời thánh dân dạy thật không ngoa. Bởi lẽ thói thường d6ẽ gì bỏ nơi chôn nhau cắt rún mà đi, nhưng sưu sai, tạp dịch: sáng bắt phu, chiều đòi thuế, bữa đói chưa biết bữa no nên vượt biển bằng đèo tìm phương sanh kế. Cũng có kẻ dao tu nón gõ phiêu linh nơi nam ải, hải đồ; lại có người nagng ngạnh phải t ội lưu đày nơi biên 50
  51. tái người xa xứ gác mái chèo, lập vạn nơi sông Bà Ký – theo nghề Hạ Bạc; kẻ lạc loài dọn rẫy làm nương ở xứ Đồng Môn; cặm cụi nôg tang, canh cửi. “Đâm hà bá phá sơn lâm” gầy dựng cơ đồ; ngâm câu hát “cây cứng lá dai, gió lay mặc gió” là m khuôn nhân nghĩa. Lợi đất thênh thênh, vời vợi núi Mô Xoài – Bà Rịa: Mậu Tuất một chữ “Phước” trời ban; sông rạch dọc ngang, triều lên sóng dợn Ngã Bảy, Đồng Tranh, Lòng Tàu, Rạch Lá chúa đặt chử “An” cho dân lạc nghiệp. Trên cau, thóc dưới cá tôm: nhà đủ người no; nước Mạch Bà, trà Phú Hội: quán chợ đông vui, bến cầu người qua kẻ lại. Ngược Nhà Bè lên Biên Hòa về Bến Nghé thiết tha tiếng hát con đò; xuôi Đồng Tranh qua Ba Doi, Tắc Rỗi inh ỏi hò khoan bạn chài, bạn lưới. Hỡi ôi! Cuộc thế xoay vần, con tạo treo ngươi đầu gió; cây đước đứng giữa trời nơi ngọn sóng nào dễ lung lay. Súng đại bác giặc đà hạ pháo đaiPhước Thắng: ta đắp hàn ngăn chặn đường sông. Giặc lòn qua Xoài Rạp đánh vô: vận bỉ nước nhà đau lòng con đỏ. Nhật tảo hỏa hồng, Trương Công ban hịc h: Gò Công, Hiệp Phước, Lý Nhơn, Long Thành, Bến Bạ, Phước An cơ binh đội ngũ rập ràng, quyết công đồn giết giặc. Cơ trời chẳng thuận, giặc cỏ bò lan Tướng quân mắc hại: Trên trại đồn điền hoa khóc chủ, dưới vàm Bạo Ngược sóng kêu oan; nghe chốn Lý Nhơn người sửng sốt, lời nguyền trung nghĩa há làm thinh! Chẳng qua vận trời đến buổi gian nan, cho nên nỗi việc nướ c nhiều nơi hoạn nạn. Bọn đốn mạt mới thấy đồn Gò Công thất thủ đà sấp mặt hàng Tây, mới nghe thành Biên Hòa bị chiếm đã đành lòng theo giặc. Ở đ âu mà chẳng thấy: đào mồ mả, phá miễu chùa, làm những việc bất nhân; ở đâu mà không hay: đốt nhà cửa, hăm vợ con làm nhiều điều vô đạo. Hoa chùm gởi mua ngày: Phủ Hựu Tây đoan, Tây sở, cường hào lộng lạc mấy năm – rày thì đầu xa cổ. Chí dõng dược liều thân vì nghĩa có đôi vầng nhật nguyệt chứng tri; tiếng hào hùng đồn mãi gương trừ bạo loạn Long Thàn ai cũng để trên đầu trên cổ. Dẫu chịu cảnh đá ngàn cân đè trứng, nhân nghĩa tính trời đã sẵn nào dễ đổi thay; hằng ủ trấu giữ bếp lòng chờ ngày gió dậy, bập b ùng nổi ngọn. đêm tối mịt mù rồi mai lại rạng, ánh dương quang đỏ rực sao vàng: lũ bảy, đoàn ba quyết đi theo Đảng làm cách mạng. Lửa thử vàng, gian nan htử sức: chốn bưng biền mài mác, rèn dao mưu đại sự; sông rạch, rừng sâu nay thành căn cứ: Rừng Sác, Phước An chiến khu án ngữ, không cho giặc ra vào tự tung tự tác. “Rừng Sác, Lòng Tàu sông rạch ấy: tàu binh, tàu chiến đâu dễ vào ra Thành Tuy Hạ mấy lần: Kho đạn nổ tung như trờ long đất lở” Chiến công ấy rỡ ràng, trên Biên Hòa bia đá đà ghi; trận đánh hủy kho Nhà Bè, Cát Lái, phá tàu Tây, tàu Mỹ tan tành, giặc thù đến nay còn nhớ. Pháo đặc công tự tạo cũng làm chiến hạm giặc chạy re, nã đạn vỡ nóc “dinh Độc Lập”, sập lễ đài: Mỹ - ngụy chui xuống gầm, mặt cắt không còn hột máu; lấy bom lép, gắn ngòi phèn chua: nhận chìm tàu vạn tấn. Đánh dưới nước, đánh trên giồng: đào địa 51