Giáo trình Cơ sở di truyền chọn giống thủy sản (Phần 1)

pdf 152 trang ngocly 1220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Cơ sở di truyền chọn giống thủy sản (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_co_so_di_truyen_chon_giong_thuy_san_phan_1.pdf

Nội dung text: Giáo trình Cơ sở di truyền chọn giống thủy sản (Phần 1)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH PGS. TS. NGUYỄN KIM ĐƯỜNG CƠ SỞ DI TRUYỀN CHỌN GIỐNG THỦY SẢN VINH, 2007
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TAO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH PGS. TS. NGUYỄN KIM ĐƯỜNG CƠ SỞ DI TRUYỀN CHỌN GIỐNG THỦY SẢN (Tài liệu dùng cho cán bộ giảng dạy và sinh viên các ngành thủy sản, chăn nuôi, chăn nuôi-thú y) VINH, 2007 1
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Mối quan hệ giữa di truyền học và các ngành khoa học khác 4 Các giai đoạn phát triển của di truyền học 5 Ý nghĩa của di truyền học đối với vật nuôi 9 Chương 1. CƠ SỞ VẬT CHẤT CỦA SỰ DI TRUYỀN 12 CƠ SỞ VẬT CHẤT DI TRUYỀN Ở MỨC ĐỘ TẾ BÀO 12 Cấu tạo và chức năng di truyền của tế bào 12 Nhân của tế bào và vai trò của nhân trong di truyền 14 Nhiễm săc thể và vai trò của nhiễm sắc thể trong di truyền 15 Chu kỳ tế bào và phân bào nguyên nhiễm 20 Phân bào giảm nhiễm 26 Quá trình sinh sản hữu tính 31 Vòng đời của cơ thể sống, ý nghĩa của pha đơn bộ và pha lưỡng bội 34 CƠ SỞ PHÂN TỬ CỦA DI TRUYỀN 35 ADN – vật chất di truyền 35 Cấu trúc của ADN 38 Sinh tổng hợp ARN 47 Sinh tổng hợp ADN nhờ phiên mã ngược 48 Mật mã di truyền 48 Một số đặc điểm của quá trình sinh tổng hợp protein 58 Điều hòa sinh tổng hợp protein 58 Chương 2. CẤU TẠO VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA GEN 63 Cấu tạo của gen 63 Tổ chức các gen ở genom 70 Hoạt động của gen 76 Cơ sở di truyền của quá trình phát triển cá thể 81 Mối quan hệ giữa kiểu hình, kiểu gen và ngoại cảnh 82 Chương 3. CÁC QUY LUẬT DI TRUYỀN CỦA CÁC TÍNH TRẠNG 85 Các quy luật di truyền Mendel 86 Quy luật di truyền của các tính trạng cùng locus 97 Quy luật di truyền của gen đa alen 104 Quy luật di truyền của các tính trạng số lượng 108 Chương 4. DI TRUYỀN VÀ XÁC ĐỊNH GIỚI TÍNH Ở ĐỘNG VẬT 120 Lưỡng hình sinh dục 120 Sự phân ly giới tính ở động vật 121 Thuyết gen quy định giới tính và sự cân bằng gen 124 Hiện tượng lưỡng tính và trung gian 126 Khả năng làm thay đổi tỷ lệ phân ly 126 Một số phương pháp làm thay đổi tỷ lệ đực cái 128 2
  4. Chương 5. LIÊN KẾT, TRAO ĐỔI CHÉO VÀ BẢN ĐỒ NHIỄM SẮC THỂ 136 Liên kết hoàn toàn 137 Liên kết không hoàn toàn 137 Sự di truyền của các tính trạng liên kết giới tính 144 Chương 6. DI TRUYỀN QUA TẾ BÀO CHẤT VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA DÒNG MẸ 148 Những đặc điểm cơ bản của di truyền qua tế bào chất 148 Sự di truyền của lạp thể 149 Sự di truyền của ty thể 151 Sự di truyền qua tế bào chất của do tác nhân kiểu virus 154 Hiện tượng tiền định tế bào chất 155 Ảnh hưởng của dòng mẹ 155 Chương 7. BIẾN DỊ VÀ ĐỘT BIẾN 157 Khái niệm và phân loại của biến dị 158 Thường biến và mức phản ứng 158 Đột biến 160 Đột biến gen 161 Đột biến nhiễm sắc thể 171 Tạo đa bội thể ở cá 183 Định luật về dãy biến dị đồng nguồn của Vavilop 189 Đột biến tự nhiên và đột biến nhân tạo 191 Chương 8. DI TRUYỀN HỌC QUẦN THỂ 190 Khái niệm về quần thể và quần thể Mendel 190 Một số đặc trưng của quần thể sinh sản tự do 195 Tính tần số gen và kiểu gen trong quần thể 202 Các yếu tố làm thay đổi tần số gen của quần thể 205 Ứng dụng định luật Hardy-Weinberg 214 Chọn lọc trong quần thể và dòng thuần 215 Quần thể dưới tác động tổng hợp của các tác nhân làm biến đổi tần số gen 216 Chương 9. GIAO PHỐI CẬN THÂN VÀ ƯU THẾ LAI 218 Giao phối cận thân 218 Ưu thế lai 224 Chương 10. THUẦN HÓA - DI GIỐNG, BẢO TỒN NGUỒN GEN CỦA CÁ 235 KHÁI NIỆM VỀ GIỐNG 235 Giống vật nuôi, cây trồng và thủy sản nuôi 235 3
  5. CHỌN GIỐNG THỦY SẢN NUÔI 237 Khái niệm về chọn giống 237 NHÂN GIỐNG VẬT NUÔI 249 Khái niệm về nhân giống 249 Khái niệm về nhân giống thuần chủng 249 Các hình thức nhân giống thuần chủng 249 THUẦN HÓA - DI GIỐNG CÁ 251 Khái niệm về thuần hóa - di giống cá 251 Các yếu tố cơ bản hạn chế sức sống, sức tái sinh của các đối tượng 255 Các biện pháp thuần hóa cá 260 Bảo tồn nguồn gen cá Việt Nam 262 Chương 11. KỸ THUẬT DI TRUYỀN ỨNG DỤNG TRONG CHỌN GIỐNG CÁ 267 Các enzym giới hạn và các đoạn cắt ADN 267 Phương pháp RFLP 268 Phản ứng chuỗi trùng hợp 270 Thu nhận các gen 273 Các hướng tạo cá chuyển gen 283 TÀI LIỆU THAM KHẢO 287 4
  6. MỞ ĐẦU Trong thiên nhiên, các đặc điểm của các loài sinh vật được giữ gìn từ đời này qua đời khác. Do nhiều nguyên nhân mà có nhiều loài sinh vật đã biến mất khỏi hành tinh của chúng ta và cũng đã có nhiều loài mới xuất hiện. Ở nhiều loài sinh vật, các thế hệ sau ngoài việc giữ được hình ảnh đặc trưng của loài, chúng cũng đã xuất hiện nhiều đặc trưng mới. Điều gì, yếu tố nào, quá trình nào đã làm nên những hiện tượng kỳ diệu đó ở sinh vật? Qua quá trình nghiên cứu công phu và tỷ mỷ nhiều nhà sinh học đã phát hiện ra hiện tượng đó của sinh vật và được gọi là hiện tượng di truyền, đời trước truyền đạt lại cho đời sau các đặc điểm của chúng. Trong suốt quá trình hình thành, hành tinh của chúng ta đã trải qua rất nhiều những biến đổi về vật chất, về khí hậu, . . ., để thích ứng được với những biến đổi của ngoại cảnh sống và để tồn tại - phát triển các loài sinh vật cũng đã phải biến đổi, nếu không chúng sẽ bị diệt vong. Theo Boston (1906), di truyền học là khoa học nghiên cứu về tính di truyền và tính biến dị của sinh vật, tìm hiểu quy luật về sự tương đồng và sự khác nhau giữa các cá thể có quan hệ thân thuộc. Danh từ "di truyền học" đã được ông đặt cho bộ môn khoa học này, có thể nói đó là ngành khoa học non trẻ nhất trong các ngành khoa học nghiên cứu về sinh vật ở thời kỳ đó. Như vậy, đến nay di truyền học là bộ môn khoa học đã trải qua hơn một thế kỷ hình thành và phát triển, nó đã đạt được nhiều thành tựu và nhiều tiến bộ vượt bậc. Từ chỗ các nhà nghiên cứu chỉ mới mường tượng rằng, hiện tượng di truyền phải do một yếu tố nào đó trong cơ thể điều khiển, tới lúc đã có khái niệm nó là do yếu tố "gen" - song chưa biết được gen nằm ở đâu và có cấu tạo như thế nào (chỉ mới cho rằng nó là đơn vị di truyền bé nhất), thì ngày nay chúng ta không những đã xác định được cấu tạo phân tư chính xác của gen mà còn biết từng gen nằm ở vị trí nào. VD. như phát hiện về bản đồ của bộ gen người trong năm 1999-2001. Chúng ta có thể thấy những hiện tượng di truyền của sinh vật ngay trên các sinh vật sống quanh ta hay qua các thước phim ảnh mà các nhà khoa học - các nhà thám hiểm đã chụp hoặc quay được để chứng minh những sự giống nhau, khác nhau giữa các cá thể, giữa các thế hệ với nhau. Những thay đổi như vậy của các loài sinh vật nói chung và của các loài thực vật nói riêng là do đâu? Đó là những thay đổi về bản chất của mỗi loài, mỗi giống, song cũng có thể chỉ là những thay đổi tạm thời trong một thời gian nhất định của mỗi cá thể hay của một loài, một giống, các nhà khoa học gọi hiện tượng này là "tính biến dị" của sinh vật. Nghiên cứu về tính di truyền là tìm hiểu quy luật truyền đạt các đặc điểm, các tính trạng từ thế hệ trước cho thế hệ sau. Xác định được quy luật di truyền của các tính trạng chúng ta có thể tạo điều kiện để cho thế hệ sau thừa hưởng được những tính trạng tốt của các thế hệ trước. Khi ngành di truyền học đã phát triển ở trình độ cao thì các nghiên cứu về di truyền càng đi sâu hơn vào bản chất của sự di truyền, đó là việc đi sâu vào nghiên cứu về các vật liệu chứa đựng các vật chất tạo ra sự truyền đạt các đặc điểm của thế hệ trước cho thế hệ sau. Đó là những nghiên cứu về nhiễm sắc thể, về gen hay ở cấp độ tinh vi hơn là nghiên cứu về ADN, ARN, protein trong các tế bào của cơ thể sinh vật. Nghiên cứu về những biến đổi - biến dị của các tính trạng ở sinh vật các nhà khoa học đã nhận thấy có 2 nhóm hiện tượng: Nhóm thứ nhất bao gồm những thay đổi mà những đặc điểm bị thay đổi này tiếp tục được xuất hiện hay di truyền cho thế hệ sau. VD. cá, tôm, cua, . . Những thay đổi như 5
  7. vậy người ta gọi là biến dị di truyền, chúng có được là do những sự thay đổi xảy ra bên trong vật chất của sự di truyền (nhiễm sắc thể, ADN) tạo nên. Nhóm thứ hai, gồm những thay đổi chỉ xuất hiện và tồn tại trong một thế hệ, thậm chí chỉ trong một thời kỳ, trong một giai đoạn của cuộc đời một cá thể. VD, năng suất của một loài nuôi trong một vụ; những thay đổi này không di truyền cho thế hệ sau, các nhà khoa học gọi chúng là các biến dị không di truyền hay thường biến. Ngày nay, các nhà nghiên cứu đã nhận ra rằng: Xen giữa hiện tượng di truyền và biến dị của các tính trạng là tác động của các yếu tố - được gọi là ngoại cảnh. Các yếu tố ngoại cảnh có thể là: Các yếu tố vật lý, hoá học, các yếu tố phân bón, nước, chăm sóc, khí hậu - thời tiết, . . Các mối quan hệ đó đã được tổng hợp và biểu thị trong công thức sau: P = G + E Trong đó: - P là các đặc điểm, các tính trạng của cá thể, còn gọi là kiểu hình (Phenotype) - G là các yếu tố di truyền của cá thể, còn gọi là kiểu di truyền hay kiểu gen (Genotype) - E là các tác động của các yếu tố ngoại cảnh, còn gọi là yếu tố ngoại cảnh (Environment). Những quan sát thông thường cũng cho phép ta nhận ra các đặc điểm đặc trưng cho nòi, loài, giống, . . ., được di truyền từ đời này qua đời khác, song chúng ta cũng có thể nhận ra những sự sai khác giữa các cá thể ở các thế hệ khác nhau. Điều này cho thấy tính di truyền cũng không hoàn toàn nghiêm ngặt, vì vậy con cái (thế hệ sau) không phải là một bản sao (copy) của cha mẹ (thế hệ trước), mà các đặc điểm của thế hệ trước được phân bố ở thế hệ sau theo một cách thức thay đổi. Tất cả các đặc điểm của thế hệ trước thường có thể được tái xuất hiện ở thế hệ sau nhờ các quá trình sinh sản, tùy thuộc vào mức độ tiến hoá của các loài mà hình thức sinh sản của chúng cũng khác nhau. Vì vậy mà mức độ giống nhau hay khác nhau giữa các thế hệ cũng rất khác nhau. Một số đặc điểm có thể xuất hiện ở phần đông các cá thể, một số khác chỉ thấy ở một số cá thể, một số đặc điểm có thể xuất hiện ở thế hệ này hoặc thế hệ khác, nhưng cũng có những đặc điểm không bao giờ thấy xuất hiện ở các thế hệ kế tiếp, đấy là các đặc điểm đã được hình thành do tác động của các yếu tố môi trường. Một số đặc điểm chỉ có ở một hoặc một vài cá thể, thế hệ trước của chúng không có, nhưng các đặc điểm này lại thường được di truyền lại cho đời sau - những đặc điểm này thường là các trường hợp bệnh lý. Với những đặc điểm như trên, di truyền học có nhiệm vụ nghiên cứu: - Bản chất của thông tin di truyền. - Sự biểu hiện của thông tin di truyền. - Sự truyền đạt các thông tin di truyền. - Những thay đổi của thông tin di truyền. Do vậy di truyền học cần phải được triển khai nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau: - Mức độ phân tử: ADN, ARN, Protein. - Mức độ tế bào: Cấu trúc tế bào, nhiễm sắc thể, các quá trình sinh sản của tế bào (phân bào nguyên nhiễm, giảm nhiễm, thụ tinh) - Mức độ cá thể, - Mức độ quần thể. 6
  8. Các nghiên cứu về di truyền cũng có thế có tính chất lý thuyết cơ bản (theory), và ứng dụng (application) cho từng đối tượng sinh vật hay cây, con mà người ta có thể gọi là chọn giống và nhân giống cây trồng, vật nuôi hay chọn giống cá, . . Do việc nghiên cứu di truyền diễn ra ở nhiều góc độ hay cấp độ khác nhau mà các nhà khoa học đã đề ra các phương pháp nghiên cứu khác nhau: 1. Phương pháp hoá sinh: Phương pháp này đi sâu vào nghiên cứu các mặt sinh học, hoá học của cơ sở vật chất di truyền ở mức độ phân tử: ADN (Axit Dezoxyribonucleic), ARN (Axit Ribonucleic), và các protein. Nghiên cứu mối liên hệ hay các quá trình hoá sinh xảy ra giữa chúng: ADN ↔ ARN ↔ Protit. Các nghiên cứu ở góc độ này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ cấu trúc hoá học, bản chất sinh học của ADN, ARN và protein. 2. Phương pháp tế bào học: Đây là phương pháp đi sâu vào nghiên cứu cấu trúc của tế bào, thành phần của tế bào và các quá trình xảy ra bên trong các thành phần ấy, nhất là các nghiên cứu về cấu trúc, chức năng hoạt động của nhiễm sắc thể, quá trình phân chia tế bào, thụ tinh, sinh tổng hợp các protein. 3. Phương pháp nghiên cứu cá thể: Đây là phương pháp nghiên cứu nhằm xem xét các biểu hiện của các đặc điểm, tính trạng trong quá trình phát triển của cá thể, từ đó phát hiện ra quy luật di truyền của các tính trạng và sự biến đổi của các tính trạng. Qua đây chúng ta cũng biết được quy luật đóng mở của các gen trong các giai đoạn sinh trưởng - phát triển khác nhau của cá thể dưới ảnh hưởng của các điều kiện môi trường, nắm được các quy luật này ta có thể chủ động làm cho cá thể có sự phát triển theo ý muốn phục vụ tốt hơn cho lợi ích của con người. 4. Phương pháp phân tích di truyền: Đây là phương pháp nghiên cứu với việc tổ chức cho các cá thể kết hợp (giao phối) với nhau và theo dõi sự biểu hiện của các tính trạng, ghi chép lại, xử lý thống kê phân tích các số liệu và kết quả thu được để rút ra các quy luật. Đây là phương pháp cơ bản để nghiên cứu các quy luật di truyền của các tính trạng. Chỉ có thể dựa vào phương pháp này mới biết được mức độ trội, lặn hay trung gian cũng như các hoạt động khác của các gen điều khiển sự hình thành và phát triển của các tính trạng. Phương pháp nghiên cứu này đó làm nảy sinh một bộ môn mới, đó là thống kê sinh vật học. 5. Phương pháp di truyền quần thể: Các cá thể sinh vật thường tồn tại trong những đám đông, có thể là nội bộ của một dòng, một giống, một loài, nhưng cũng có thể là một nhóm với số lượng cá thể rất khác nhau. Các quần thể có thể có những quy luật riêng của chúng, những quy luật này mới đặc trưng cho loài, nòi, giống, dòng, . . ., mà nếu chỉ nghiên cứu ở cấp độ cá thể thì không có được. Hơn nữa, các quy luật, tính chất của sinh vật không thể chỉ dựa vào nghiên cứu trên số ít, mà muốn rút ra bất kỳ quy luật nào cũng phải dựa vào đám đông hay còn gọi là quy luật số lượng (số lớn). Về phương diện ứng dụng, di truyền học tập trung vào các vấn đề sau đây: 1. Ứng dụng những cơ sở lý luận của di truyền để chọn lựa những phương pháp lai tối ưu, phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Vấn đề này thể hiện ở các góc độ như để tạo ra sự đa dạng di truyền của quần thể chọn lọc, tạo ra giống lai có ưu thế lai cao - sử dụng một đời lai F1. 2. Chọn những phương pháp chọn lọc hiệu quả nhất để thu sản phẩm: Tế bào, dòng, quần thể, . . ., theo kế hoạch đã vạch ra. 3. Điều khiển sự phát triển của tính trạng để thu hiệu quả tối đa hay tối thiểu của tính trạng. Điều này cần thực hiện trong những điều kiện môi trường sinh thái cụ thể. 4. Gây ra các đột biến thực nghiệm, chuyển nạp gen tạo các đột biến có định hướng trong bộ máy di truyền theo kế hoạch và để bảo vệ hoặc sửa chữa các hỏng hóc trong bộ máy di truyền. 7
  9. Mối quan hệ giữa di truyền học và các ngành khoa học khác Sinh vật học, di truyền học là các bộ môn khoa học nghiên cứu về sự sống của sinh vật. Sự sống của các sinh vật đã được hình thành từ bao giờ, được hình thành trên cơ sở nào, đều đã được các bộ môn khảo cổ học, hoá học dựa vào các phương pháp phân tích lý, hoá, . . . để tìm hiểu về cấu trúc vi mô của các tế bào. Chúng ta đã nhờ vào các dụng cụ tinh vi như: Kính hiển vi quang học, kính hiển vi điện tử, các thiết bị phân tích điện di, sắc ký để tìm hiểu cấu tạo của tế bào, nhiễm sắc thể, ADN, ARN và protein, . . . và để phát hiện các quy luật di truyền của các tính trạng. Mendel đã là người đầu tiên nhờ sử dụng toán học để xử lý thống kê các kết quả các thí nghiệm của mình, nhờ đó đã phát hiện ra 3 quy luật cơ bản của sự di truyền của các tính trạng ở sinh vật và do đó đã trở thành người đặt nền móng cho bộ môn toán ứng dụng trong nghiên cứu sinh học: Toán thống kê sinh vật học (Biometry). Nhiều nhà nghiên cứu của các lĩnh vực khác như vật lý, hoá học, toán học, . . . cũng đã đạt những giải thưởng về những phát minh hay phát hiện về sinh học, như giải thưởng Nobel về mô hình cấu trúc không gian của ADN trong tế bào của Watson và Cric (1962). Những dẫn chứng trên đã cho ta thấy mối quan hệ giữa các bộ môn khoa học khác đối với sự phát triển của bộ môn di truyền học. Vì vậy có thể nói rằng, các nghiên cứu về di truyền không thể gặt hái được những thành công trọn vẹn nếu không có sự tham gia của các bộ môn khoa học khác như: Toán học, vật lý học, hoá sinh học, tế bào học, mô phôi học, . . Các giai đoạn phát triển của di truyền học Quan niệm về tính di truyền và biến dị ở sinh vật đã rất gần gũi với con người thời xa xưa. Hơn nữa, việc lai giống ở động vật và thực vật cũng đã được con người thực hiện từ nhiều thế kỷ qua. Thế nhưng sự hiểu biết của con người về di truyền học như một bộ môn khoa học thực thụ thì lại rất muộn so với những bộ môn sinh học khác. Mặc dù năm 1900 mới được xem là năm ra đời của Di truyền học, song nó đã có những bước phát triển vượt bậc và đã thu được nhiều thành tựu to lớn. Phải nói rằng, không phải bộ môn khoa học nào cũng có thể có được những thành công như vậy. Giai đoạn trước Mendel Ngay từ thế kỷ thứ V trước công nguyên, hai luận thuyết hoàn toàn mang tính chất suy luận đã được nêu ra, đó là sự di truyền trực tiếp và gián tiếp của các tính trạng. Hippocrate theo luận thuyết di truyền trực tiếp cho rằng, vật liệu di truyền được thu nhận từ các phần của cơ thể, theo cách đó tất cả các cơ quan đều trực tiếp ảnh hưởng đến các tính trạng của thế hệ sau. Về sau, Aristote (thế kỷ thứ IV trước công nguyên) theo thuyết di truyền gián tiếp đã bác bỏ quan điểm của Hippocrate. Aristote cho rằng, vật liệu sinh sản không được thu nhận từ các bộ phận của cơ thể, mà được tạo ra từ chất dinh dưỡng, về bản chất chúng ấn định cho sự cấu tạo nên các phần khác nhau của cơ thể. Thuyết di truyền trực tiếp đã tồn tại được qua 23 thế kỷ. Darwin (1809-1882) chịu ảnh hưởng của quan điểm này, ông đã xây dựng thuyết Pangen (pangenesis) trong tác phẩm "sự biến đổi của động vật, thực vật trong nuôi trồng" (1868). Theo thuyết này, mọi tế bào trong cơ thể đều tạo ra những phần tử hết sức nhỏ bé, tức là những chồi mầm (gemmule) từ các bộ phận trong cơ thể chúng được chuyển theo dòng máu đi tập trung vào cơ quan sinh dục, rồi được sử dụng để tạo nên các tế bào sinh dục và từ đó các tính trạng được di truyền cho đời sau. Mỗi cá thể được tạo ra do sự hoà hợp đặc tính di truyền của cả bố và mẹ. Bản thân Darwin cũng cho rằng thuyết này hoàn toàn giống với quan điểm của Hippocrate. Thực ra, thuyết pangen không được xác nhận với bất kỳ một thực tế nào cả. 8
  10. Song quan điểm của Darwin lại rất phù hợp với quan điểm đang thống trị suốt thời kỳ ấy về sự di truyền của các tính trạng tạp nhiễm. Nếu như dưới tác động của các yếu tố môi trường cơ thể bị biến dị thì các chồi mầm được hình thành do các biến dị ấy có thể cũng biến đổi theo và có thể di truyền lại những biến dị ấy cho đời sau. Tuy nhiên, tới cuối thế kỷ XIX giới khoa học vẫn chưa có quan niệm đúng đắn về tính di truyền. Không hài lòng với thuyết pangen, Darwin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng: "về quy luật di truyền và biến dị chúng ta hãy còn biết quá ít". Tiếc rằng, trước khi công bố thuyết pangen, công trình "các thí nghiệm lai ở thực vật" của Mendel đã ra đời vào năm 1865 mà Darwin không biết. Những thí nghiệm về lai ở thực vật không chỉ có riêng Mendel tiến hành mà còn cú nhiều nhà khoa học khác cũng đã tiến hành. Ví dụ, Koelreiter đã thu được cây lai xa giữa hai loài thuốc lá vào năm 1761, và ông đã là người đầu tiên phát hiện ra ưu thế lai. Vào năm 1822 ở đậu Hà Lan, Goss đã phát hiện rằng khi cho tự thụ phấn, thế hệ lai thứ hai bị phân ra các cá thể phân ly và không phân ly. Tuy nhiên, sự phát hiện ra các quy luật cơ bản của di truyền qua các thí nghiệm lai chỉ thấy trong công trình của Mendel (1822-1884). Các kết quả nghiên cứu của Mendel được trình bày trước "Hội các nhà tự nhiên học của thành phố Bronơ" trong hai buổi họp ngày 8/2 và 8/3 năm 1865. Cả hai báo cáo được công bố trong một bài dài 44 trang với tiêu đề "Các thí nghiệm lai ở thực vật" trong kỷ yếu của Hội vào năm 1866. Mendel đã chứng minh sự di truyền có tính chất gián đoạn, được kiểm tra bởi các nhân tố di truyền mà sau này được gọi là gen. Phát minh vĩ đại này đã đặt nền móng cho sự phát triển của di truyền học sau này. Trong thời kỳ này, di truyền học phát triển nhanh đến mức làm cho người ta nghi ngờ về sự phát triển chậm chạp của kiến thức xung quang vấn đề sinh sản và tính di truyền của sinh vật của những năm trước của thế kỷ XX. Chỉ khi mà De Graff (1672) phát hiện thấy buồng trứng của động vật có vú đã tạo ra tế bào trứng tương tự như những trứng chim, thì người ta mới thừa nhận ảnh hưởng hay vai trò của dòng mẹ đã được thực hiện thông qua tế bào trứng. Năm năm sau đó, Levenhuc và học trò của ông cũng đã phát hiện ra trong tinh dịch có vô số các tinh trùng. Khoảng 100 năm sau những phát hiện này đã nổi lên cuộc tranh luận gay gắt giữa những người theo học thuyết cho rằng cuộc sống của sinh vật chỉ sinh ra từ tế bào trứng của con mẹ, còn chất dịch trong tinh dịch của con đực chỉ là một chất kích thích. Ngược lại, những người theo thuyết tiểu động vật lại cho rằng sinh vật chỉ phát triển từ tinh trùng mà thôi. Một trong những người theo thuyết tiểu động vật là Hartsoeker đã quan sát tinh trùng qua kính hiển vi, ông tin rằng đã trông thấy đầu của tinh trùng một chất bé nhỏ, bề ngoài có hình thù giống người, có khả năng phát triển thành người nếu có đủ điều kiện. Cần nhớ rằng tuy cũng là kính hiển vi, song kính hiển vi thời ấy còn rất thô sơ chứ không được hiện đại như ngày nay. Tuy vậy, tên tuổi của Hartsoeker cũng đã được ghi vào trong danh sách những người đã sử dụng kính hiển vi để nghiên cứu như hàng ngàn, hàng vạn các nhà nghiên cứu sau này. Ngày nay, kính hiển vi, đặc biệt là kính hiển vi điện tử đã giúp chúng ta nhìn thấy những vật nhỏ mà trong thực tế bằng mắt thường chúng ta không thể nhìn thấy được và không thể tưởng tượng được. Điểm chung của hai trường phái này là ở chỗ họ đều là những người đấu tranh với thuyết tiên thành luận, thuyết này cho rằng: Một cá thể muốn phát triển được thì chỉ cần một yếu tố kích thích nào đó. Ngay cả khi Spallanzani (1729-1799), nhà sinh học đầu tiên đã chứng minh về khả năng thụ tinh nhân tạo, cũng vẫn chưa hiểu được rằng để phát triển thành cơ thể mới thì cần có sự tham gia của cả tế bào trứng và tinh trùng, mặc dù ông đã biết sự phát triển của tế bào trứng chỉ có thể bắt đầu khi có sự tác động của một yếu tố nào đó trong tinh dịch. Chỉ đến nửa đầu của thế kỷ XIX, trong sinh học mới thừa nhận thời điểm quan trọng của sự thụ tinh là 9
  11. lúc xảy ra sự kết hợp tế bào trứng và tinh trùng. Tất cả các quan điểm của các nhà sinh học về tính di truyền cho đến cuối thế kỷ XIX (chỉ trừ công trình độc nhất của G. Mendel) đều vấp phải những sai lầm đáng buồn. Trong phần lớn thời kỳ này nổi lên học thuyết của nhà sinh vật học người Pháp - Lamark (1744-1829) về sự di truyền của các tính trạng tạp nhiễm. Ngay cả Darwin, người đầu tiên đã làm sáng tỏ quá trình tiến hoá của sinh vật cũng đã đưa ra giả thiết tác động của môi trường cũng có thể được tích lũy và truyền lại cho thế hệ sau, do đó cũng tham gia vào sự tiến hoá của loài. Các nhà sinh học cũng đã tranh luận về khả năng tích lũy các tính trạng trong tế bào sinh dục của các cá thể và truyền đạt lại cho các thế hệ sau. Đến thế kỷ XX thì trọng tâm nghiên cứu của sinh học được chuyển sang một vấn đề hoàn toàn trái ngược, đó là bằng cách nào các thông tin di truyền chứa đựng trong các tế bào trứng đã thụ tinh tác động lên sự phát triển của cơ thể. Đáng tiếc là những quan điểm trên lại đối lập với học thuyết của Weisman (1834 - 1914) phủ nhận khả năng di truyền lại cho thế hệ sau các thường biến soma và do đó phủ nhận vai trò của cơ thể hay soma trong các hiện tượng di truyền. Đặc biệt quan trọng đối với tính di truyền và biến dị của các tế bào phôi, các tế bào này cùng toàn bộ phức hợp của chúng được tạo thành cái gọi là chất phôi. Ông cho rằng cơ thể được tạo thành từ chất phôi trong các thế hệ sau, thực chất đây chỉ là cơ chế bảo đảm cho tính liên tục của cơ thể. Giai đoạn của G. J. Mendel Gregor Johan Mendel (1822-1884) được sinh ra trong một gia đình nông dân thuộc dòng họ Đức - Slavơ. Lúc 11 tuổi ông đã theo học trường Lipnek, năm 1834 ông học thể dục thể thao ở Opava, năm 1838 ông đã chuyển sang nghề dạy học, sau đó đã trở thành một thầy tu ở một tu viện địa phương, đồng thời ông cũng là một giáo viên về vật lý và khoa học tự nhiên ở tu viện Bruno (Tiệp Khắc cũ). Trong thời gian này ông đã tiến hành các thí nghiệm trong vườn của tu viện. Ông đã trồng các loại cây khác nhau, đặc biệt là các cây hoa, sau 8 năm liên tục (1856-1864) nghiên cứu cho tạp giao các loại thực vật khác nhau và hoàn thành một loạt thí nghiệm trên 34 thứ đậu Hà Lan với 7 cặp tính trạng tương phản, sau đó Mendel đã được bổ nhiệm một chức quyền hành chính, trở thành người có quyền hành ở tu viện, vì vậy ông đã không còn nhiều thời gian dành cho nghiên cứu, đây là một thiệt thòi cho khoa học sau này. Người ta dự đoán rằng phát minh của ông sẽ còn to lớn hơn nếu được toàn tâm toàn ý phục vụ cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học. Công trình nghiên cứu của Mendel đã thu được nhiều kết quả hơn mọi công trình trước đó về mặt đi sâu hiện tượng di truyền. Khi cho lai các thứ đậu Hà Lan khác nhau, đối với mỗi cặp tính trạng, ông đã theo dõi các dạng tương phản. Ví dụ, hạt trơn với hạt nhăn, lá mầm vàng - lá mầm xanh, cây đậu cao - cây đậu thấp, . . . để làm rõ tính di truyền đã ảnh hưởng như thế nào. Mendel đã chọn và tạo ra các dòng thuần của các loại đậu nghiên cứu ban đầu (bố, mẹ) khác nhau về 7 cặp tính trạng, rất may mắn cho ông là các cặp tính trạng của ông đã chọn đều tương phản rõ rệt, trong đó có một dạng của trạng thái trội và một dạng ở trạng thái lặn. Yếu tố thứ hai đảm bảo cho sự thành công của Mendel là ông đã sử dụng toán học để tính toán cẩn thận số lượng các cặp đậu có các đặc điểm tương phản nhau ở các thế hệ lai thứ nhất, thứ hai, các thế hệ lai tiếp theo và đã thu được các kết quả hết sức rõ ràng. Cũng trong thời gian này, tác phẩm "nguồn gốc các loài" của Darwin cũng ra đời đã thu hút sự chú ý của nhà khoa học đương thời, vì thế công trình khoa học của Mendel đã bị lãng quên. Mãi 35 năm sau (1900) khi 3 nhà khoa học khác nhau là De Vries ở Hà Lan, Tschermark ở Áo và Correns ở Đức, không có liên hệ nào với nhau, cùng đồng thời triển khai nghiên cứu tương tự như Mendel, đã phát hiện ra các quy luật giống nhau về sự di truyền của các tính trạng và giống với những gì mà Mendel đã phát hiện và công bố trước 10
  12. đó. Từ năm 1865 đến năm 1900 công trình của Mendel đã được trích dẫn nhiều lần (6 lần). Từ đó các kết quả nghiên cứu của Mendel mới được công nhận và trở thành thành tựu lớn lao của xã hội khoa học. Cũng từ đó các phát hiện của Mendel được coi là quy luật cơ bản về sự di truyền của các tính trạng ở sinh vật và mở đường cho một thời kỳ phát triển như vũ bão của khoa học di truyền. Giai đoạn phát triển của di truyền kinh điển Vào nửa cuối thế XIX nhiều phát minh về tế bào học đã góp phần làm tăng sự hiểu biết và sáng tỏ các quy luật di truyền (bảng 0.1). Bảng 0.1. Những phát minh cơ bản về tế bào học ở nửa cuối thế kỳ XIX Các năm Sự kiện Tác giả 1838 - 1839 Học thuyết tế bào T. Schwann, M. Schleiden 1865 Các thí nghiệm lai ở thực vật G. Mendel 1870 Mô tả nguyên nhân ở thực vật E. Strasburger 1879 - 1882 Mô tả nguyên nhân ở động vật V. Flemming 1875 Mô tả sự hợp nhân trong thụ tinh ở động vật, E. Van Beneden thực vật N. Gorojankin 1883 Ra đời thuật ngữ nhiễm sắc thể V. Valdeier 1883 - 1884 Xuất hiện thuyết di truyền nhân tế bào B. Roox & E. Strasburger 1884 - 1887 Phát hiện sự phân ly của nhiễm sắc thể L. Geizen, L. Giniar 1885 Xác định sự ổn định của bộ nhiễm sắc thể E. Van Beneden 1887 Mô tả giảm phân K. Rable, V. Flamming E. Van Beneden 1900 Phát minh lại các quy luật Mendel H. de Vries, E.K. Correns, E. Tschermark Sau khi ba nhà khoa học Hà Lan, Áo, Đức (1900) đã tái phát hiện ra các quy luật di truyền của các tính trạng ở sinh vật như Mendel đã phát hiện, rất nhiều thí nghiệm nghiên cứu đã chứng minh rằng, các quy luật di truyền mà Mendel đã phát hiện trên đậu Hà Lan đồng thời cũng đúng với các loài động vật, thực vật khác như: Ruồi dấm, cá, ngô, người và ngay cả trên vi khuẩn. Năm 1990 được coi là năm khai sinh của di truyền học. Những dẫn chứng đầu tiên về mặt này là công trình của W. Bateson (1901) thông báo cho Hội đồng Hoàng gia Luân Đôn các kết quả lai gà khác nhau về hình dạng mào. Thông báo này đến năm 1902 mới được công bố nhưng thực chất Bateson đã tiến hành thí nghiệm từ năm 1898, hai năm trước khi các quy luật di truyền Mendel được phát hiện lại và năm 1909 W. Bateson cho xuất bản tổng luận, trong đó đã dẫn ra 100 tính trạng ở thực vật và động vật di truyền theo các quy luật Mendel. Rõ ràng Bateson cũng như Mendel đã đi rất đúng hướng. Trong thời gian này hiện tượng tương tác gen cũng đã phát hiện. Một công trình sau đó nữa cũng đã xác nhận tính đúng đắn của các quy luật di truyền mà Mendel đã phát hiện, đó là thông báo của Geno (1902), một nhà động vật học người Pháp. Geno đã cho lai chuột xám với chuột bạch, thế hệ thứ nhất đẻ ra hoàn toàn chuột xám và đến thế hệ thứ hai ông đã thu được 198 chuột xám và 72 chuột bạch. Năm 1901 Hugo de Vries đã đưa ra thuyết đột biến. Ngay những năm đầu của thế kỷ XX đã hình thành các quan điểm đầu tiên về vai trò của nhiễm sắc thể đối với sự di truyền. Năm 1903, W. Salton công tác trong phòng thí nghiệm của giáo sư Wilson (Trường Đại học Tổng hợp Columbia) đã có nhận định về sự tương ứng của các nhiễm sắc thể. T. Boveri đã chứng minh vai trò của nhiễm sắc thể đối 11
  13. với sự suy đoán A. Weismann - nhà sinh vật học Đức đã nêu thuyết di truyền nhiễm sắc thể, chính ông đã khẳng định các tính trạng tạp nhiễm không di truyền (trái với quan điểm của Larmak). Từ năm 1911, T.H. Morgan cùng các cộng sự là A. Sturtevant, C. Bridge và H. J. Muller, trên đối tượng mô hình ruồi dấm (Drosophila melanogaster) đó chính thống xây dựng nên thuyết di truyền nhiễm sắc thể. Qua đây những đặc điểm cơ bản đầu tiên của gen - đơn vị vật chất cơ bản mang thông tin di truyền đó được nêu ra. Thuyết di truyền nhiễm sắc thể đó đưa di truyền kinh điển lên một bước phát triển mới. Trong thời gian 20 năm sau, các nhà sinh vật học đã chứng minh: Sự di truyền của các tính trạng theo kiểu Mendel cũng được phát hiện trên nhiều loại sinh vật khác. Nhưng sau đó người ta cũng đã phát hiện ra các trường hợp ngoại lệ, không đúng với tỷ lệ đơn giản 3:1. Để giải thích những ngoại lệ này người ta đó sử dụng đến các nghiên cứu chuyên sâu để tìm hiểu hiện tượng di truyền. Năm 1920, nhà khoa học Nga nổi tiếng N. I. Vavilov đó thiết lập quy luật "dãy biến dị tương đồng", đã có đóng góp to lớn trong việc phát triển thuyết biến dị di truyền. Ông cũng là người xây dựng về các trung tâm khởi nguyên các giống cây trồng trên thế giới. Những đóng góp này có vai trò quan trọng trong sự phỏt triển của mối liên kết giữa di truyền, học thuyết tiến hoá và chọn giống. Việc phỏt hiện ra vấn đề gây đột biến nhân tạo góp phần đó đẩy mạnh các nghiên cứu di truyền. G. A. Nadsson và G. S. Philipov (1925) đã phát hiện ảnh hưởng của phóng xạ gây đột biến ở nấm bậc thấp, G. Muller (1927) đó chứng minh hiệu quả gây đột biến của tia Rơnghen ở ruồi dấm, . . T. Painter (1933) đó phỏt hiện nhiễm sắc thể khổng lồ ở tế bào tuyến nước bọt của côn trùng cánh mềm. Phát hiện này đó đặt cơ sở cho các nghiên cứu đột biến cấu trúc của nhiễm sắc thể và lập bản đồ tế bào học của nhiễm sắc thể. Sự kết hợp giữa phõn tích di truyền và phân tích hoá sinh đã tạo điều kiện cho việc tìm hiểu con đường từ gen tới sự biểu hiện của tính trạng. Năm 1941, G. Beadle và E. Tatum nghiên cứu trên đối tượng nấm men bánh mỳ (Neurosporra crassa) đó đưa ra thuyết 1 gen - 1 enzym - 1 tính trạng chứng minh các gen kiểm tra những phản ứng hoá sinh khác nhau. Trong quá trình phát triển, di truyền học được gọi là kinh điển vì những nguyên lý cơ bản của di truyền đó được phát hiện. Ở đây, phương pháp luận của di truyền được hình thành, về cơ bản dựa trên cơ sở ba tiếp cận như: Phân tích di truyền, phân tích tế bào, nghiên cứu quá trình đột biến. Trong suốt quá trình phát triển cho tới ngày nay, những phương pháp tiếp cận trên ngày càng được bổ sung thêm các phương pháp mới, từ đó càng làm giàu thêm tri thức của di truyền và phát triển những vấn đề ứng dụng. Giờ đây chúng ta không còn chỉ giới hạn ở mức độ các nhà di truyền học, đều biết được tính di truyền là do một đơn vị gọi là gen nằm trên các nhiễm sắc thể, được phân bố trên chiều dài của nhiễm sắc thể và có khả năng tự tái sinh. Nhiều nhà di truyền thừa nhận rằng: Gen bao gồm nhiều đơn vị di truyền dưới gen và được xem như chúng là những đoạn có khả năng đột biến. Cuối cùng như chúng ta đều biết: Gen là một đoạn của phân tử ADN (Axit Dezoxyribonucleic). Đấy là cả một chặng đường dài mà các nhà sinh học và các nhà di truyền học đã bỏ qua thời kỳ Gartxioker. Sự phát triển của di truyền học phân tử và kỹ thuật di truyền Lịch sử phát triển của di truyền học luôn gắn liền với những tiến bộ của sự hiểu biết về bản chất cấu trúc của các gen, cũng như sự hiểu biết của chúng. 12
  14. Năm 1944, O. Avery; Mc Leod và Mc Carty thông qua các thực nghiệm chuyển nạp vi khuẩn đã trực tiếp chứng minh ADN là vật chất di truyền. Sự kiện này đã mở ra bước phát triển mới trong di truyền học, đó là sự ra đời của di truyền phân tử. Năm 1953, D. Watson và F. Cric đã phát minh ra mô hình không gian cấu trúc của phân tử ADN. Đây là một trong những phát minh lớn nhất của thế kỷ XX, nó đã tạo ra bước ngoặt mới cho sự phát triển của di truyền học và sinh học nói chung. Từ đây những nghiên cứu về di truyền học phân tử được phát triển mạnh, tạo nên những hiểu biết mới về cơ chế hoạt động của vật chất di truyền như sự tái bản, biểu hiện chức năng của gen, đột biến và tái tổ hợp ở mức độ phân tử, . . Từ việc xác định bộ mã đầu tiên (M. Nirenberrg, J. Matthei, 1961), trong những năm 60 các nhà khoa học, về cơ bản đã xác định được toàn bộ 64 bộ ba mã hoá (codon). Năm 1961, F. Jacob, J. Monob lần đầu tiên đưa ra mô hình Operon giải thích cơ chế điều hoà sinh tổng hợp protein ở vi khuẩn (điều hoà sao mã). Từ đó, đó có nhiều nghiờn cứu đó giúp phần phát triển tri thức về cơ chế điều hoà hoạt động của gen. Những nghiên cứu về di truyền phân tử không chỉ hạn chế ở vi khuẩn và một số vi sinh vật khác, mà còn đi sâu tìm hiểu những bí ẩn trong bộ máy di truyền của sinh vật bậc cao. Vấn đề này được khả thi nhờ có cuộc cách mạng về phương pháp nghiên cứu (trong di truyền phân tử) ở những năm của thập niên 70. Bên cạnh đó, sự phát hiện ra các plasmid, các enzym cắt hạn chế, enzym sao chép ngược, . . . đặc biệt là sự phát hiện ra phản ứng chuỗi trùng hợp (K. Mullis, 1985) đã đẩy mạnh các nghiên cứu về di truyền phân tử ở sinh vật bậc cao và các ứng dụng của nó. Từ những năm 1970 nhiều tri thức mới trong lĩnh vực di truyền ra đời, VD. thiết lập cấu trúc phân tử của sợi nhiễm sắc thể, cấu trúc exon - intron của gen và biểu hiện của nó, xác định cấu trúc hoạt động của các yếu tố di truyền di động, xác định trình tự của các nucleotit, một số vấn đề về tổ chức gen trong genom, điều hoà hoạt động của gen, . . Cũng từ những năm 1970, những can thiệp vào bộ máy di truyền của sinh vật thực sự đã hình thành nên một lĩnh vực mới gọi là kỹ thuật di truyền. Nó đã giúp phần làm sáng tỏ cơ chế hoạt động của gen, đặc biệt là giải quyết những vấn đề ứng dụng như chọn lọc theo chỉ thị (indicator, marker) phân tử, tạo ra các biến đổi định hướng vật chất di truyền, chuyển nạp gen, . . Kỹ thuật di truyền đã kéo theo sự phát triển mạnh của công nghệ sinh học, chúng đã đem lại nhiều ứng dụng có lợi cho sản xuất và xã hội. Tuy nhiên, bài toán ứng dụng của kỹ thuật di truyền vẫn còn nhiều vấn đề cần được xem xét kỹ lưỡng hơn. Ý nghĩa của di truyền học đối với vật nuôi Di truyền học đề cập tới những đơn vị riêng biệt của thông tin di truyền, đó là các gen. Vì thế, điểm trọng yếu trong phương pháp luận của nó là tính cơ bản và tính tổng hợp, tính chính xác và cụ thể, đồng thời cũng trừu tượng và phức tạp. Di truyền học có ý nghĩa rất lớn với thực tiễn và đối với các bộ môn khoa học khác như y học, sinh học, sinh thái và bảo vệ tài nguyên môi trường. Di truyền học là phương pháp luận cơ bản của tiến hoá, đặc biệt nó là cơ sở của chọn giống vật nuôi, cây trồng, . . Các thành tựu của di truyền học được ứng dụng nhanh và nhiều hơn cả là trong lĩnh vực chọn và tạo giống. Dựa trên những lý luận di truyền cơ bản và di truyền chuyên khoa của từng đối tượng sinh vật, các nhà khoa học đó thiết kế - xây dựng các chương trình chọn tạo giống bao gồm các vấn đề: Tìm kiếm, tạo vật liệu khởi đầu, quá trình lai (trong loài, khác loài) và chọn lọc, . . . nhằm cho ra các giống cây trồng, vật nuôi, vi sinh vật, . . . cải tiến để phục vụ cho mục tiêu đặt ra của con người. 13
  15. Xét về cơ bản, phát triển một nền sản xuất nông nghiệp hiện đại, bền vững chính là phát triển một nền nông nghiệp phù hợp với điều kiện sinh thái, trình độ sản xuất, khả năng đầu tư, . . Vấn đề trọng yếu ở đây là tiến hành sinh học hoá các quá trình sản xuất thâm canh bằng con đường tạo ra các giống và giống lai có tiềm năng năng suất cao, chất lượng tốt. Đặc biệt, trong điều kiện các giống vật nuôi ngày càng cho năng suất cao, song lại rất mẫn cảm với tác động của môi trường, sức chống chịu nói chung (nóng, lạnh, mặn, . . .) và chống chịu với bệnh tật nói riêng đang có xu hướng giảm sút thì vấn đề chọn tạo cho được các giống, dòng vật nuôi có khả năng chống chịu cao, có sức chống bệnh, khả năng miễn dịch cao đang là mối quan tâm của các nhà di truyền - giống. Thiết kế các hệ thống canh tác- hệ thống nuôi trồng hiệu quả nhất nằm trong cấu phần chung của hệ sinh thái. Chỉ có ứng dụng các thành tựu thuộc các lĩnh vực khoa học như di truyền học, học thuyết tiến hoá tổng hợp, tiến hoá thực vật, sinh thái, sinh lý, vi sinh vật, thổ nhưỡng, khí tượng, hệ thực vật thủy sinh và một số khoa học cơ sở khác mới có thể hiểu biết về những khả năng thích ứng của vật nuôi và những phương thức điều khiển chúng, trên cơ sở bảo vệ và sử dụng một cách kinh tế nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhằm thu được một sự tăng trưởng ổn định về năng suất và bền vững. Trong những năm gần đây, tổng sản lượng của nuôi trồng thủy sản của nước ta đã đạt được những con số đáng khích lệ. Lượng hàng hóa thủy sản xuất khẩu ngày càng tăng, thu ngoại tệ năm sau cao hơn năm trước. Riêng năm 2006 thu ngoại tệ từ xuất khẩu thủy sản ức đạt 3,6 tỷ USD. Ngoài những nhân tố về quản lý Nhà nước, chế độ chính sách, các biện pháp kỹ thuật và đầu tư, yếu tố đất, nước, khí hậu thời tiết, thì giống có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao năng suất và sản lượng nuôi trồng. Các giống mới là kết quả của việc áp dụng các nguyên lý di truyền vào công tác chọn lọc và lai tạo giữa các giống. Đã từ lâu, việc áp dụng các nguyên lý của di truyền học vẫn được coi là vấn đề then chốt trong việc gây tạo và cải tiến các giống. Những đóng góp của di truyền học vào việc nâng cao năng suất và sản lượng vật nuôi được xếp vào hàng thứ hai, sau những tiến bộ đạt được trong lĩnh vực thức ăn, quản lý và chăm sóc, phòng trừ dịch bệnh. Mặt khác, trong khoảng hai thập kỷ cuối của thế kỷ XX, các kiến thức và kỹ thuật cũng như công nghệ sinh học hiện đại, đặc biệt là trong lĩnh vực nuôi cấy mô - tế bào, sinh học phân tử đã phát triển rất nhanh chúng. Các kỹ thuật hiện đại này phát triển nhanh đến mức khiến cho các nhà chọn giống cảm thấy khó khăn trong việc lựa chọn chúng để áp dụng. Sự trợ giúp của một số biện pháp như vậy đối với các phương pháp chọn giống thông thường đã thúc đẩy quá trình chọn tạo ra các giống mới có nhiều đặc tính nông - sinh học quý. Tìm hiểu các quy luật của cuộc đời của các cây trồng, giúp cho con người hiểu biết về các cây trồng để khai thác có hiệu quả các khả năng cung cấp các sản phẩm động vật, thủy sản, . . . phục vụ cho cuộc sống của con người. Năng suất và chất lượng của các sản phẩm là mục tiêu khai thác vật nuôi của con người, hiểu được bản chất di truyền của các đặc điểm, tính trạng năng suất sẽ góp phần rất quan trọng vào việc làm tăng năng suất và chất lượng của các sản phẩm từ vật nuôi. Hiểu được bản chất di truyền của các tính trạng chúng ta mới làm cho động vật nuôi phát huy hết tiềm năng di truyền, khai thác đúng thời điểm và mới đem lại hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất. Chúng ta cũng cần hiểu rõ tác động của các yếu tố ngoại cảnh, vì yếu tố di truyền luôn luôn chịu tác động của các yếu tố ngoại cảnh, nói cách khác là hai yếu tố này luôn có một sự tương tác với nhau, hiểu được mối quan hệ này thì ta có thể vận dụng để thu được 14
  16. lợi ích, ngược lại sẽ gặp phải những rủi ro như: Hạn chế tốc độ sinh trưởng và phát triển, gây ra các đột biến, tạo điều kiện cho các dịch bệnh phát sinh, phát triển, . . Hiểu được các quy luật di truyền chúng ta có thể vận dụng chúng để quản lý vật nuôi, bảo tồn các vốn gen quý, tổ chức lai tạo để cho ra các giống lai, tạo ra các giống mới có năng suất cao, hạn chế các tác hại của chúng như: Gây ra đồng huyết, suy hoá cận huyết, dẫn tới các hiện tượng gây thoái hoá, chết, bán gây chết ở cây trồng. Như vậy, khoa học công nghệ được xem xét như sự tổng hợp của nhiều tri thức khoa học, trong đó di truyền học và học thuyết tiến hoá giữ vai trò trọng tâm và chỉ đạo, nhờ đó ta có thể: Thứ nhất, định hướng đúng đắn những chiến lược tạo giống ngắn hạn cũng như dài hạn cho địa bàn sử dụng cụ thể, giúp cho việc tìm ra những giải pháp thực hiện hiệu quả nhất, ít tốn kém nhất để đạt được mục tiêu đề ra. Thứ hai, điều khiển sự phát triển của vật liệu sinh học ở hệ thống canh tác cụ thể, nằm trong cấu phần có điều hoà chung của hệ sinh thái, nhằm đem lại việc khai thác và sử dụng hiệu quả nhất (bền vững) nguồn năng lượng, tài nguyên, môi trường và bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ sự tiến hoá sinh học. TÓM TẮT CHƯƠNG Bài mở đầu nhằm giới thiệu với người học các đối tượng hay nhiệm vụ nghiên cứu, nội dung nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu, sự phát triển của di truyền học, mối liên hệ của di truyền học với các ngành khoa học khác và vai trò của di truyền học đối với ngành nông nghiệp nói chung và ngành nuôi trồng thủy sản nói riêng. CÂU HỎI 1. Hãy trình bày các đối tượng nghiên cứu của di truyền học. 2. Hãy trình bày các nội dung nghiên cứu của di truyền học. 3. Hãy trình bày các phương pháp nghiên cứu của di truyền học. 4. Phương pháp nào là phương pháp có tính chất phổ biến hay được ứng dụng nhiều nhất trong nghiên cứu di truyền học? 5. Di truyền học có vai trò như thế nào trong sự phát triển của ngành nông nghiệp nói chung, ngành nuôi trồng thủy sản nói riêng? 15
  17. Chương 1 CƠ SỞ VẬT CHẤT CỦA DI TRUYỀN Tế bào là đơn vị cơ sở của sự sống ở mọi loài sinh vật. Nhờ cuộc cách mạng về phương pháp nghiên cứu ở thập niên 60-70 (thế kỷ XX) mà từ sự mô tả về hình thái nhiễm sắc thể, con người đó khám phá ra bản chất cấu trúc tiền phân tử của sợi nhiễm sắc thể. Nó có ý nghĩa to lớn trong sự hoạt hoá và vận động của thông tin di truyền. Các cơ chế phân bào là cơ sở của quá trình di truyền. Các phương thức sinh sản khác nhau của sinh vật thể hiện tính đa dạng trong sự kế thừa vật chất di truyền giữa các thế hệ. Người ta đã phát hiện ra trong tế bào có một loại axit, mà chủ yếu nó được nằm trong nhân tế bào nên được gọi là axit nhân (axit nucleic). Axit nucleic gồm hai loại, đó là axit Deoxyribonucleic (ADN) và axit Ribonucleic (ARN). Hai loại axit này giữ vai trò vô cùng quan trọng đối với giới sinh vật. ADN chứa hầu hết các thông tin di truyền của tế bào và cơ thể. ADN cùng với các ARN điều khiển sự hình thành và phát triển của các tính trạng ở mọi cơ thể sinh vật. CƠ SỞ VẬT CHẤT DI TRUYỀN Ở MỨC ĐỘ TẾ BÀO Tế bào là cơ sở hạ tầng của mọi cơ thể sinh vật. Ở sinh vật bậc thấp mỗi cơ thể chỉ có một hoặc một số ít tế bào, ở sinh vật bậc cao cơ thể bao gồm hàng triệu triệu tế bào. Tuy vậy, về cơ bản các tế bào có sự giống nhau nhất định và chúng giữ các chức năng cơ bản giống nhau trong hoạt động sống của các cơ thể sinh vật. Cấu tạo và chức năng di truyền của tế bào Virus và thể thực khuẩn là những thể vô bào, chúng cấu tạo từ sợi axit nucleic (ADN hoặc ARN) cuộn lại nằm trong vỏ protein, không xảy ra trao đổi chất khí ở trạng thái tự do. Virus và thể thực khuẩn có khả năng phát triển và di truyền như một cơ thể sống chỉ khi chúng xâm nhập được vào tế bào ký chủ. Thể thực khuẩn ký sinh ở tế bào vi khuẩn. Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc của tế bào ở sinh vật, người ta chia chúng thành hai nhóm: Tế bào nhân sơ (Procariota) và tế bào nhân chuẩn (Eucariota). Tế bào nhân sơ (Procariota) Tế bào nhân sơ là các tế bào không có nhân hay tế bào tiền nhân. Tế bào Procriot ngoài việc không có nhân ra thì cũng không có nhiễm sắc thể, không có protein histon và chưa có các tế bào quan như ty thể, lạp thể và thể golgi. Sinh vật nhân sơ bao gồm vi khuẩn và tảo lam. Chúng là những sinh vật đơn bào, đó là các tế bào sơ khai, trong tế bào nhân chưa được hình thành hoàn chỉnh và chưa có màng tế bao bọc. Cấu trúc tế bào của vi khuẩn điển hình bao gồm một khối nguyên sinh trong đó có thể nhân phân tử ADN cụm lại được bao bọc xung quanh bởi chất nhân (nucleoplasme), thể nhân không có màng riêng. Phân tử ADN có cấu trúc dạng vòng. Trong khối tế bào chất của vi khuẩn có chứa các riboxom, các ty thể ở dạng sơ khai gọi là mezoxom (đây là cơ quan năng lượng của tế bào). Trong tế bào tảo lam, tế bào chất phân hoá ra thành 2 vùng: Vùng phía trong có thể nhân, trong thể nhân là sợi ADN được bao quanh bởi các chất nhân. Vùng phía ngoài chứa thể sắc lạp, nó thực hiện chức năng quang hợp, cấu trúc của thể này giống như lục lạp. Tế bào chất của tảo lam cũng chứa các riboxom, các ty thể dạng sơ khai thực hiện chức năng năng lượng. 16
  18. Trong các loại vi khuẩn, cấu trúc thể nhân của trực trùng đường ruột (Escherichia coli) được nghiên cứu kỹ hơn cả. Bộ máy di truyền của nó là một sợi ADN dạng vòng, có độ dài tới 1mm bao gồm 4 x 106 đôi bazơ, chứa khoảng 1500 gen. Trong thể nhân, sợi ADN được tổ chức dưới dạng các cấp co xoắn, xếp cuộn lại tạo nên vài chục dải bện gọi là các tiểu phần (các domen), chúng được kết giữ xung quanh khối protein và ARN (hình 1.1). Sự kiến trúc theo kiểu tiểu phần xoắn của nhiễm sắc thể E. coli đảm bảo cho sự duỗi xoắn có thể xảy ra theo từng tiểu phần. Bên cạnh thể thực khuẩn và virus, vi khuẩn là đối tượng rất thuận lợi cho việc nghiên cứu di truyền phân tử. Hình 1.1. Sơ đồ cấu trúc sợi nhiễm sắc thể của E.coli. Bên cạnh siêu xoắn, sự cuốn xoắn lớn hình thành dưới dạng các tiểu phần (trong hình vẽ chỉ trình bày 15 tiểu phần). Sự mở xoắn do tạo khía đứt có thể xảy ra ở từng tiểu phần. Tế bào nhân chuẩn (Eucariota) Tế bào nhân chuẩn là các tế bào ở động vật, thực vật bậc cao, chúng có đầy đủ các bộ phận của một tế bào bình thường như màng, nhân, tế bào chất và các nội bào quan (hình 1.2). Hình 1.2. Cấu trúc và các thành phần của tế bào nhân chuẩn Cấu tạo của tế bào ở động vật, thực vật bậc cao về cơ bản là giống nhau, chỉ có một sự khác nhau đó là tế bào thực vật có thành cứng bằng cellulose. Tế bào chất chứa nhiều riboxom nằm trong mạng lưới nội chất phức tạp. Trong tế bào chất có chứa nhiều bào quan khác như: Ty thể và lạp thể, chúng là những bào quan có chứa ADN cấu trúc dạng vòng (giống như ở vi khuẩn) - có khả năng tự tái bản. Ty thể là cơ quan cung cấp năng lượng của tế bào. Lạp thể chỉ có ở tế bào thực vật, trong đó lục lạp là cơ quan quang hợp của tế bào. Nhóm bào quan thứ hai không có khả năng tự tái bản, bao gồm lyzoxom, thể golgi, không bào, . . 17
  19. Nhân tế bào và vai trò của nhân tế bào trong di truyền Nhân tế bào thường nằm ở khu vực trung tâm của tế bào, nó giữ vai trò quan trọng là điều hoà mọi hoạt động sống của tế bào như cảm ứng, trao đổi chất, sinh trưởng, phát triển và sinh sản. Trong giai đoạn gian kỳ, nhân của tế bào có dạng tròn hay elip, chiếm khoảng 10- 20% thể tích của tế bào. Nhân có 3 thành phần chính: - Màng nhân thuộc dạng màng sinh học kép, có cac lỗ thông với tế bào chất, có tính chất bán thấm. Tiền màng nhân thường tích nhiều điện tích dương (trái với điện tích âm có nhiều ở màng tế bào). - Dịch nhân là một chất dịch dạng keo, có độ nhớt thấp hơn so với độ nhớt của bào chất. Dịch nhân là nơi diễn ra nhiều hoạt động chức năng của axit nucleic. Trong dịch nhân có nhiều axit amin, protein enzym, muối khoáng, . . Dịch nhân là nơi chứa nhiễm sắc thể, tiểu hạch. Chất nhiễm sắc (chromatin) là thành phần chủ yếu của nhân, đây là vật chất di truyền của tế bào. Chất nhiễm sắc bắt màu mạnh khi nhuộm màu bằng các thuốc nhuộm kiềm tính. Dưới kính hiển vi ở giai đoạn gian kỳ thường quan sát thấy khối cấu trúc chung (dạng hình hạt hay hình sợi) của chất nhiễm sắc. Đó là các sợi nhiễm sắc thể ở trạng thái duỗi xoắn. • Tiểu hạch: Trong giai đoạn gian kỳ, tiểu hạch là thành phần bắt màu, hiện rõ hơn các thành phần khác. Bình thường trong nhân có một tiểu hạch, hiếm khi có nhiều hơn. Khi tế bào phân chia thì tiểu hạch biến mất vào cuối tiền kỳ và được khôi phục trở lại ở mạt kỳ. Ở tiểu hạch có đoạn nhiễm sắc thể đi qua, đoạn ấy gọi là vùng tổ chức tiểu hạch. Đoạn này hầu như luôn ở trạng thái chức năng, ở đây chứa nhiều bản gen ARN riboxom. Tiểu hạch là trung tâm quan trọng sản xuất ra các ARN riboxom cho tế bào. Những phân tích về hiển vi và hoá tế bào cho thấy, tiểu hạch được cấu tạo từ các thành phần sau: Các phức hợp ribonucleoprotein dạng hạt, ribonucleoprotein dạng sợi, các protein không định hình có cấu trúc bậc bốn, sợi chromatin (đoạn nhiễm sắc thể đi qua tiểu hạch). Cấu trúc này thể hiện chức năng của tiểu hạch - là nơi tạo nhiều ARN cho tế bào. Để chứng minh cho vai trò của nhân đối với tế bào sống, năm 1948 Tener đó tiến hành thí nghiệm trên Amip, ông đã dùng chỉ thắt Amip làm hai phần, một phần có chứa nhân và một phần không chứa nhân. Kết quả là phần có nhân tiếp tục sống, phát triển và sinh sản ra Amip mới, phần không có nhân chỉ tồn tại được một thời gian rồi chết. Điều này chứng tỏ rằng nhân cần thiết cho sự sống, trao đổi chất, sinh trưởng, phát triển và sinh sản của Amip. Hemeling đã làm thí nghiệm trên hai loài tảo biển là Axetabularia mediteranea, chúng là loài tảo có chiều cao khoảng 5cm, có rễ, thân, lá giả và có tán hình đĩa. Đây là loại thực vật mà toàn bộ cơ thể là một tế bào duy nhất (đơn bào). Ông đã cắt ngang thân tảo làm hai phần, phần gốc có chứa nhân và phần ngọn không chứa nhân, sau đó đưa cả hai phần ngâm vào nước biển. Kết quả là phần gốc của tảo tiếp tục sinh trưởng, phát triển và tái tạo lá mới và sinh sản; phần ngọn không có nhân chỉ sống được một thời gian, không có khả năng tái tạo gốc rễ mới và chết đi. Nếu cắt thân tảo bằng 2 lát cắt - chia tảo làm ba phần, thì phần thân ở giữa có khả năng tái tạo lá hình đĩa chỉ một lần và sau đó cũng bị chết. Ở một loài tảo khác (Acetabularia grenulata) có tán xẻ thùy, người ta đã làm thí nghiệm lấy một đoạn thân của loài tảo này ghép lên thân của một loài tảo khác (A. mediteranea) thì tảo ghép sẽ hình thành tán mới hình đĩa mặc dù có chứa đoạn thân ghép của tảo A. gremulata và ngược lại nếu đem đoạn thân của tảo A. mediteranea ghép lên gốc của A. grenulata thì tán của cây tảo ghép sẽ có hình xẻ thùy. 18
  20. Trên cơ sở các thí nghiệm này tác giả đó giải thích rằng, nhân ở gốc của tảo đó sinh ra một chất nào đó cần thiết cho việc hình thành tán hình đĩa hay xẻ thùy. Chất này phân tán theo thân về phía trên và kích thích sự sinh trưởng của lá. Như vậy trong nhân chứa thông tin đặc biệt xác định hình dạng của tán hình đĩa hay xẻ thùy tương ứng và ảnh hưởng mạnh lên đoạn thân ghép. Hình 1.3. Thí nghiệm chứng minh tương quan giữa nhân và tế bào chất, tán lá của Acetabularia ghép được phục hồi do ảnh hưởng của nhân. Nhiễm sắc thể và vai trò của nhiễm sắc thể trong di truyền Nhiễm sắc thể là thành phần rất quan trọng nằm trong nhân tế bào. Ở các loài động thực vật khác nhau thì số lượng nhiễm sắc thể trong nhân tế bào có khác nhau (bảng 1.1). Bảng 1.1. Số lượng nhiễm sắc thể trong tế bào của một số loài sinh vật Loài 2n Loài 2n Cá chép (Ciprinus carpio) 104 Ngô (Zea mays) 20 Đậu Hà Lan (Pisum sativum) 14 Lợn (Sus crofa) 38 Ngựa (Equinus caballus) 24 Lừa (Equs asinus) 62 Bò (Bos indicus) 60 Vịt nhà (Anas platyryncha) 80 Ruồi dấm (Drosophila melanogaster) 8 Người (Homo spien) 46 Số lượng nhiễm sắc thể trong tế bào của mỗi giống, loài là tương đối ổn định trong quá trình sinh trưởng và phát triển, ổn định và đặc trưng cho giống, loài từ thế hệ này qua thế hệ khác. Vì vậy mỗi khi có sự thay đổi về số lượng nhiễm sắc thể trong nhân tế bào là đó có một biến dị xuất hiện và do đó dẫn đến những thay đổi về đặc tính sinh lý, sinh hoá, hình thái của cơ thể và có thể làm xuất hiện những dị tật. VD. ở người bị bệnh Down cặp nhiễm sắc thể thứ 21 thay vì có 2 chiếc đó có 3 chiếc. Trong nhân tế bào các nhiễm sắc thể thường được sắp xếp ở những vị trí nhất định và sự sắp xếp này cũng đặc trưng cho giống, loài. Người ta có thể làm tiêu bản tế bào và dùng máy chụp ảnh trên kính hiển vi để chụp lại hình ảnh về sự phân bố của các nhiễm sắc thể trong nhân tế bào ta sẽ được một bức ảnh về bộ nhiễm sắc thể trong nhân tế bào của một loài được gọi là kiểu nhân (Kariotype, hình 1.4., 1.5. và 1.6.). 19
  21. Hình 1.4. Kiểu nhân của đậu ngựa (Visia faba), 2n = 12. Người ta cũng có thể vẽ lại các cặp nhiễm sắc thể với sự sắp xếp theo trật tự của chiều dài từ cao đến thấp và đánh số các cặp thứ tự theo trật tự này. Bức tranh như vậy được ta gọi là nhân đồ (Kariogram, hình 1.5 và 1.6.). Hình 1.5. Ảnh chụp bộ nhiễm sắc thể ở người. Hình 1.5. Trái - kiểu nhân (Kariotyp), phải-nhân đồ (Kariogram) ở người Hình 1.6. Ảnh chụp bộ nhiễm sắc thể ruồi dấm Hình 1.6. Bộ nhiễm sắc thể và kiểu nhân (Kariotyp) ở ruồi Dấm Số lượng nhiễm sắc thể trong nhân tế bào không có ý nghĩa trong việc giải thích các nấc thang tiến hóa của các loài, mà phải dựa vào bản chất cấu tạo của nhiễm sắc thể hay nói cách khác là dựa vào cấu tạo - thành phần của các gen trên nhiễm sắc thể. Tất cả các nhiễm sắc thể trong nhân tế bào của một loài lập thành một bộ nhiễm sắc thể của loài đó. Bộ nhiễm sắc thể trong tế bào thường (soma) được gọi là lưỡng bội và ký hiệu là 2n. Trong tế bào sinh dục chín (giao tử đực và giao tử cái) số lượng nhiễm sắc thể chỉ còn lại bằng 1/2 so với tế bào soma và vì vậy được gọi là đơn bội (n). Trong bộ nhiễm sắc thể của động vật gồm có 2 loại: Các nhiễm sắc thể thường và các nhiễm sắc thể giới tính hay cũng gọi là nhiễm sắc thể sinh dục. Các nhiễm sắc thể thường 20
  22. (autosome) được ký hiệu là A và trong các tế bào bình thường chúng thường có số lượng là 2n - 2 chiếc. Các nhiễm sắc thể giới tính trong các tế bào soma thường có 2 chiếc và thường được ký hiệu là X, Y và vì vậy bộ nhiễm sắc thể sinh dục trong tế bào thường có thể là XX hoặc XY. Trong các tế bào sinh dục chín số lượng nhiễm sắc thể giới tính cũng chỉ còn lại 1/2 so với tế bào soma, có nghĩa là chỉ còn lại một chiếc hoặc là X hoặc là Y. Cơ thể có cặp nhiễm sắc thể giới tính là XX thì được gọi là cơ thể đồng giao tử và cơ thể có cặp nhiễm sắc thể giới tính là XY thì gọi là cơ thể dị giao tử. Hình thái và cấu tạo của nhiễm sắc thể Ở trung kỳ của quá trình phân bào nguyên nhiễm do các nhiễm sắc thể có mức co xoắn lớn nhất nên có thể quan sát được rõ nhất về cấu trúc và hình dạng. Các hình ảnh sau đây sẽ cho thấy hai đặc điểm này của nhiễm sắc thể (hình 1.7). Hình 1.7. Cấu trúc và hình dạng của nhiễm sắc thể a) Sơ đồ chung, b) Các dạng hình của NST: 1,7 - dạng cân; 2 - dạng lệch; 3, 4, 5 - tâm động rất lệch; 6 - dạng gậy; 8 - NST có eo thứ cấp; 9 - NST có thể kèm Trên chiều dài của nhiễm sắc thể có một eo gọi là eo sơ cấp, chia nhiễm sắc thể thành 2 vai khác nhau. Eo sơ cấp có chứa tâm động của nhiễm sắc thể. Tùy thuộc vào vị trí của tâm động mà nhiễm sắc thể có hỡnh dạng khác nhau, nhiễm sắc thể có tâm ở giữa gọi là nhiễm sắc thể cân tâm (V cân), tâm lệch (V lệch), tâm ở cận mút (phụ trợ), tâm ở mút (hình gậy). Một số nhiễm sắc thể có eo thứ cấp chứa tổ chức hạch nhân và phần cuối gọi là thể kèm. Trong nhân tế bào của một loài các cặp nhiễm sắc thể khác nhau thì có hình thái và kích thước khác nhau. Ví dụ, các nhiễm sắc thể ở người thì cặp nhiễm sắc thể số 1 có độ dài 10 μm và cặp số 22 chỉ dài 2,6 μm. Trong nhiễm sắc thể thì tâm động là một vùng quan trọng, nó có ý nghĩa lớn trong phân bào, là nơi đính vào các sợi tơ vô sắc để nhiễm sắc thể tách ra và chạy về hai cực của tế bào. Tâm động có kiến trúc độc đáo, là một khối ADN - protein bền vững. ADN ở tâm động của nhiễm sắc thể nấm men có độ dài khoảng 220-250 đôi bazơ. Nhiều nghiên cứu cho thấy, ở sinh vật nhân chuẩn bậc cao, vùng tâm động có nhiều ADN thuộc dạng kiến trúc trùng lặp bội số cao. 21
  23. Trong mỗi nhiễm sắc thể có 2 sợi bắt màu và được gọi là sợi nhiễm sắc (cromatid). Trên các sợi nhiễm sắc có các hạt bắt màu và được gọi là hạt nhiễm sắc (cromomer). Thành phần chủ yếu của nhiễm sắc thể là ADN và protein histon, ngoài ra trong nhiễm sắc thể còn có một ít ARN và các protein khác. Trong nhiễm sắc thể có nhiều loại protein không Histon. Chúng bám vào phân tử ADN và có nhiều chức năng khác nhau như: Các protein cấu trúc để tổ chức ADN trong nhân, các protein enym để xúc tác cho các phản ứng như tổng hợp ADN, các protein điều chỉnh hoạt động của ADN và các loại ARN, như: - Polymeraza 1: Liên kết với hạt nhân, có trọng lượng phân tử từ 500.000- 700.000, đòi hỏi sự có mặt của ion Mg++ hoặc Mn++ để hoạt động và làm nhiệm vụ xúc tác cho quá trình tổng hợp mARN. - Polymeraza ARN II: Có ở trong chất nhân, có trọng lượng phân tử 700.000, đòi hỏi sự có mặt của ion Mn++ để hoạt động và làm nhiệm vụ xúc tác cho quỏ trỡnh tổng hợp mARN. - Polymeraza ARN III: Có ở trong chất nhân, làm nhiệm vụ xúc tác cho quá trình tổng hợp tARN và rARN 5S. Trong nhiễm sắc thể cũng tìm thấy một số thành phần khác như các ion Ca++, Mg++, photphat và lipit. Hình 1.8. Nhiễm sắc thể khổng lồ trong tuyến nước bọt ruồi dấm cái và so sánh nhiễm sắc thể khổng lồ với nhiễm sắc thể thường Sự khác nhau của các thành phần nói trên trong các nhiễm sắc thể đó cấu tạo nên hai vùng nhiễm sắc thể: Nhiễm sắc thể hoạt động (nhiễm sắc thể thực) và nhiễm sắc thể không hoạt động (dị nhiễm sắc thể). Ngày nay người ta chú ý nhiều đến sự sắp đặt của phân tử Histon theo chiều dài của ADN và vai trò của chúng trong cấu trúc của nhiễm sắc thể. ADN và các protein liên kết chặt chẽ với nhau tạo nên sợi cromatin có tổ chức cao với các đơn vị tổ chức là nucleosom. Khi nhuộm màu ta sẽ thấy nhiễm sắc thể có những vùng bắt màu đậm và có những vùng bắt màu nhạt. Vùng bắt màu đậm gọi là dị nhiễm sắc (heterocromatin) và vùng bắt màu nhạt gọi là nhiễm sắc thực (eucromatin). Người ta cho rằng, vùng nhiễm sắc thực là do nhiễm sắc thể duỗi xoắn và có chứa các gen đang hoạt động, còn vùng dị nhiễm sắc là do nhiễm sắc thể ở trạng thái xoắn mạnh, có độ lặp lại của các nucleotid cao và chứa ít gen hoạt động. Nucleosom là đơn vị của sợi cromatin. Hạt nucleosom là một phức hợp của ADN với Histon, có dạng hình đĩa, có đường kính khoảng 1100A. Mỗi nucleosom chứa 8 phân tử bao gồm 4 loại: H2A, H2B, H3 và H4. Mỗi loại gồm 2 phân tử xếp thành 2 lớp. Các phân tử Histon tạo thành lõi của nucleosom. Mỗi phân tử Histon chứa khoảng 102-135 axit amin. Trong tế bào của một số tổ chức và cơ quan, nhiễm sắc thể có kích thước tăng vọt và hình dạng biến đổi. VD. nhiễm sắc thể trong noãn bào sơ cấp của động vật có xương sống có kích thước đến 800 μm và tạo thành dạng bàn chải đèn. Người ta cho rằng, các tế bào có cường độ trao đổi chất cao, nhiễm sắc thể duỗi xoắn cực đại và tổng hợp nhiều ARN. Một dạng nhiễm sắc thể khổng lồ khác có trong tuyến nước bọt của ấu trùng ruồi dấm (hình 22
  24. 1.8) ở giai đoạn muộn do ADN đó được tổng hợp nhưng lại không phân ly đã tạo nên nhiễm sắc thể khổng lồ 1.000-2.000 sợi nhiễm sắc thể. Nhiễm sắc thể khổng lồ bao gồm cặp nhiễm sắc thể tương đồng tiếp hợp với nhau, vì thế rất thuận lợi cho việc phát hiện các đột biến về cấu trúc nhiễm sắc thể. Ở noãn bào của nhiều loài động vật (VD lưỡng thê, cá, bò sát, chim), người ta đã quan sỏ thấy một dạng nhiễm sắc thể có cấu trúc đặc biệt - dạng chổi đèn (hình 1.9). Tại các vùng xác định, các sợi nhiễm sắc thể duỗi xoắn mạnh, vươn thành các vùng lớn xung quanh trục của nhiễm sắc thể. Hiện tượng này liên quan đến hoạt tính trao đổi chất ở một giai đoạn phát triển cá thể, như liên quan đến sự tăng cường tổng hợp một lượng rất lớn các ARN riboxom cung cấp cho nhu cầu của tế bào. Hình 1.9. a- Hình ảnh nhiễm sắc thể bàn chải đèn trong noãn bào sơ cấp của cóc, thấy rõ trục chính từ đó toả ra các nút. b- sơ đồ chi tiết ảnh a, trong đó thấy rõ các nốt chính là các hạt nhiễm sắc. Phân tử ADN nằm trên nhiễm sắc thể. Các vùng đen cho thấy sự phân bố quá trình sinh tổng hợp ARN trên các nút của nhiễm sắc thể kiểu bàn chải đèn (theo J. Gal). Nhiễm sắc thể là một cấu trúc có sự biến đổi về hình dạng trong chu kỳ tế bào, kiến tạo từ sợi ADN và các phân tử protein, . . Như vậy, nó là một cấu trúc phức tạp ở góc độ hoá học cũng như vật lý. Việc nghiên cứu cấu trúc tinh vi của nó đã gặp không ít khó khăn. Rất nhiều nhà khoa học cũng chỉ dừng lại ở sự mô tả cấu trúc hình thái của nhiễm sắc thể, còn cấu trúc tinh vi của nó mới ở mức độ giả thiết. Nhờ có cuộc cách mạng về phương pháp nghiên cứu di truyền phân tử mà vấn đề cấu trúc trên phân tử của sợi nhiễm sắc đã được làm sáng tỏ. Ở tế bào của các sinh vật nhân chuẩn, một sợi nhiễm sắc thể chứa một sợi ADN rất dài, VD. một sợi nhiễm sắc thể lớn ở ruồi dấm chứa phân tử ADN dài tới 6,5 x 107 cặp bazơ, có chiều dài tương đương khoảng 18mm. Bộ nhiễm sắc thể đơn bội (n = 23) của người chứa khoảng 3 x 109 đôi bazơ, có độ dài tổng cộng khoảng 1m. Mỗi nhiễm sắc thể bình quân dài khoảng 4cm. Ở trung kỳ nhiễm sắc thể dài khoảng 4μm, như vậy phân tử ADN cuộn gấp ngắn lại khoảng 104 lần. Phân tử ADN kiến trúc với các thành phần khác tạo nên sợi nhiễm sắc. Các phân tích cho thấy, ngoài ADN sợi nhiễm sắc còn chứa các protein, chủ yếu là các protein histon, các ARN (gọi là các ARN nhân). Phân tích thành phần sợi nhiễm sắc của tế bào chóp rễ đậu đã thu được kết quả về tương quan của các nhóm chất như sau: ADN - 36%, ARN - 12% và các protein là 46-48%. 23
  25. Cấu trúc cơ bản của sợi nhiễm sắc Thành phần cơ bản của sợi nhiễm sắc là: Phân tử ADN kiến trúc với các protein histon. Các phân tích cho thấy, sau khi tách lọc, sợi nhiễm sắc thể có cấu trúc như chuỗi hạt đều đặn (hình 1.10). Các hạt này chính xác là các phân tử histon cụm lại, ADN cuốn vào các hạt. Các hạt này có tên là nucleosome, cấu tạo từ 8 phân tử histon: Ở tâm gồm 2 phân tử H3 và 2 phân tử H4 tạo thành một tứ thể, ở bên gồm 2 phân tử H2A và 2 phân tử H2B cả tập hợp hình thành là một thể tâm, có đường kính khoảng 10mm. Hình 1.10. Sơ đồ cấu tạo bộ tám của hạt nucleosome. Phân tử ADN cuốn 1,75 vùng xung quanh hạt. Histon H1 nằm ở đoạn ADN nổi ổn định giữa các hạt. Các hạt nucleosome tạo nên các khuôn để phân tử ADN cuộn vào theo 1,75 vòng ở mỗi hạt, ứng với độ dài khoảng 145 cặp bazơ. Đoạn ADN nối giữa 2 hạt có độ dài rất biến động, khoảng 20-100 cặp bazơ (cũng có khi dài hơn). Giữa 2 hạt được ổn định bởi một phân tử H1. Các phân tử Histon H1 giữ vai trò đặc biệt trong việc giữ ổn định cấu trúc của chuỗi hạt. Khi có tác động của các yếu tố vật lý, hoá học, sự đứt sợi ADN thường xảy ra ở khoảng cách giữa 2 hạt. Kích thước của hạt nucleosome (có cuốn sợi ADN) có thể biến động ở các loài khác nhau và ở các mô khác nhau của cơ thể đa bào. Như vậy, chuỗi hạt được hình thành do sự cuộn của sợi ADN vào các hạt nucleosome gọi là cấu trúc cơ bản của nhiễm sắc thể (hay cấu trúc bậc I của sợi nhiễm sắc thể). Kết quả của cấu trúc này đó làm cho sợi ADN ngắn đi 7 lần. Nhiễm sắc thể chứa một sợi ADN rất dài. Câu hỏi đặt ra là: Theo suốt chiều dài của sợi ADN, kết cấu theo kiểu chuỗi hạt là mang tính sắp xếp đều đặn của nucleosome hay mang tính chất ngẫu nhiên? Vấn đề này cần có các thực nghiệm để làm sáng tỏ thêm. Ở đây ta có thể đưa ra nhận xét rằng: Tổ chức về sắp xếp các hoạt động không kép đều suốt, mà thường có sự giãn cách các hạt (ngắt các đoạn ngắn) ở những vùng nào đó của sợi. Tính chất này không có ý nghĩa về chức năng hoạt động di truyền (tức là nó không nói lên rằng ở đoạn ADN không có hạt nucleosome là có các gen hoạt động mạnh). Nhìn chung, những đoạn nhiễm sắc thể không chứa các hạt nucleosome không phải là trường hợp quá hiếm và chúng khác nhau ở các đối tượng khác nhau. Chu kỳ tế bào và phân bào nguyên nhiễm Chu kỳ tế bào là một vòng khép kín của tế bào từ một lần phân chia nguyên nhiễm này đến một lần phân chia nguyên nhiễm liền kề sau đó. 24
  26. Chu kỳ tế bào gồm hai khoảng thời gian chính, đó là một kỳ phân bào nguyên nhiễm (M - Mitose) và một kỳ nghỉ (gian kỳ - Interphase). Gian kỳ là một kỳ nghỉ của tế bào sau quá trình phân chia nguyên nhiễm. Gian kỳ là giai đoạn dài nhất - chiếm tới 90% thời gian của một chu kỳ tế bào. Nhân hoạt động tích cực lớn nhất, diễn ra các quá trình sinh tổng hợp ADN, protein - histon, ARN và mọi cơ sở vật chất để tế bào chuẩn bị bước vào phân bào nguyên nhiễm. Trong nhân tế bào nhiễm sắc thể duỗi xoắn và ở trạng thỏi mảnh nhất, nhân có hình mạng lưới gồm các sợi mảnh bắt màu nhạt. Tế bào có thể có một hoặc vài hạch nhân. Nói là kỳ nghỉ nhưng thực chất trong giai đoạn này tế bào lại hoạt động rất mạnh, vì tế bào vừa phải hoàn thiện lại mình sau khi trải qua một quá trình chia đôi và lại còn phải chuẩn bị cơ sở vật chất cho đợt phân chia mới. Trong gian kỳ người ta thường xem như chúng có 3 giai đoạn nhỏ (hình 1.11). Trong chu kỳ tế bào có hai ngưỡng mà tế bào mẫn cảm với nhiều tác động khác nhau: (1) Ngưỡng chuyển từ G1 - S. Nhiều tác động kích thích ngưỡng này như tác động của các hormon sinh trưởng, điều kiện dinh dưỡng, . . Ngưỡng này có thể bị ức chế bằng tác động của nhiệt độ thấp (2-60C), các chất ức chế tổng hợp ADN, . 2) Ngưỡng chuyển từ G2 - Hình 1.11. Chu kỳ tế bào M, (ngưỡng này khá mẫn cảm với tác động kích thích của dạng phytohormon như xitokinin. Nó có thể bị ức chế ở nhiệt độ thấp (6-100C). Đối với một số loại cây trồng, nhiệt độ ức chế của ngưỡng này cao hơn một chút so với nhiệt độ ức chế ở ngưỡng 1. Thời gian để thực hiện các giai đoạn của một chu kỳ tế bào và các thời kỳ của quá trình phân chia ở các loài động thực vật là rất khác nhau, trong đó giai đoạn phân chia chỉ chiếm 1/7-1/10 tổng thời gian của một chu kỳ tế bào. Chúng ta hãy xem số liệu trên bảng sau: Đối tượng Thời gian (giờ) Ngô (Zea mays) 12 - 29 Đậu Hà Lan (Pisum sativum) 13 - 20 Lúa mạch đen (Secale cercale) 10 - 20 Phân bào nguyên nhiễm (gián phân - Mitose) Phân bào nguyên nhiễm là quá trình phân chia của tế bào để tăng số lượng các tế bào soma và tế bào sinh dục (chưa trưởng thành) của cơ thể trong quá trình sinh trưởng và phát triển. Trong chu kỳ tế bào, giai đoạn phân bào diễn ra khá nhanh, vì vậy nó chỉ chiếm khoảng 10% thời gian của toàn bộ chu kỳ tế bào. Một quá trình phân bào nguyên nhiễm có thể được chia làm 4 giai đoạn: Kỳ đầu (tiền kỳ), kỳ giữa (trung kỳ), kỳ sau (hậu kỳ) và kỳ cuối (mạt kỳ). - Kỳ đầu: Thường được chia làm 3 thời kỳ là đầu tiền kỳ, giữa tiền kỳ và cuối tiền kỳ. + Đầu tiền kỳ: Nhân có cấu trúc mạng lưới và bắt màu nhạt - tương tự như ở cuối giai đoạn gian kỳ. + Giữa tiền kỳ: Các nhiễm sắc thể bắt đầu xoắn lại và tạo thành cấu trúc hình sợi ngày càng rõ hơn. + Cuối tiền kỳ: Nhiễm sắc thể xoắn lại mạnh hơn - chặt hơn và co ngắn lại nên nhìn rõ hơn. Màng nhân và hạch nhân biến mất. Trung thể chia đôi và đi về hai cực của tế bào. - Kỳ giữa: Thoi vô sắc hình thành, nhiễm sắc thể ở dạng kép (do đã được nhân đôi ở gian kỳ) co ngắn lại tối đa, tập trung 2 bên mặt phẳng xích đạo của tế bào và đính tâm điểm 25
  27. vào thoi vô sắc. Đây là thời điểm thuận lợi nhất cho các nghiên cứu về hình thái, số lượng nhiễm sắc thể và kiểu nhân của tế bào. Hình 1.12. Sơ đồ phân chia nguyên nhiễm tế bào 1-2 tiền kỳ, 3- trước trung kỳ, 4-trung kỳ, 5,6,7- hậu kỳ, 8- mạt kỳ, 9-hai tế bào con. - Kỳ sau: Hai nhiễm sắc tử của mỗi nhiễm sắc thể rời nhau ra, do phần tâm của nhiễm sắc thể tách ra làm đôi và di chuyển về 2 cực đối lập. Hiện tượng tách đôi phần tâm được thực hiện là nhờ đoạn ADN của phần tâm nhân đôi và rời nhau ra. Đây là đoạn ADN nhân đôi sau cùng của nhiễm sắc thể trong chu kỳ tế bào. Ở kỳ này sự kéo dài và trượt lên nhau của các sợi vi thể của 2 nửa thoi vô sắc đẩy 2 cực tế bào tách nhau xa dần ra. Đồng thời các sợi vi thể của tâm động kéo dài các cromatid (lúc này trở thành các nhiễm sắc thể) về các cực của tế bào. Cuối kỳ này các nhiễm sắc thể đó tiến về 2 cực của tế bào, nhưng khoảng giữa 2 nhóm nhiễm sắc thể vẫn còn các sợi thoi vô sắc. - Kỳ cuối: Các nhiễm sắc thể đó được phân bố về 2 cực của tế bào, lúc đầu chúng tập hợp thành hình quạt, bắt màu đậm, trở thành khối cầu để tái lập nhân tế bào. Tế bào hình thành 2 nhân con và kết thúc việc phân chia nhân, các nhiễm sắc thể lại bắt đầu duỗi ra, vỏ nhân bắt đầu tái lập nhờ các mảnh bám theo các nhiễm sắc thể và nhờ lưới nội sinh chất lắp ghép lại. Về cơ bản tế bào chất phân chia thành 2 phần bằng nhau. Ở tế bào động vật có sự hình thành eo thắt ở giữa khi phân đôi tế bào. Ở tế bào thực vật vách ngăn hình thành từ phía trong ra phân tách thành 2 tế bào con. Kết quả 2 tế bào con có số lượng nhiễm sắc thể 2n như tế bào mẹ ban đầu được hình thành, kết thúc một lần phân chia của tế bào và chuyển sang giai đoạn gian kỳ của một chu kỳ tế bào mới. Khoảng thời gian cần thiết để thực hiện quá trình phân bào nguyên nhiễm không giống nhau ở các loại tế bào, giao động từ 30' đến 5 giờ. Trong một đợt phân chia thì giai đoạn tiền kỳ chiếm khoảng thời gian lâu nhất, sau đó là mạt kỳ, ngắn nhất là hậu kỳ rồi đến trung kỳ. Nhiệt độ thích hợp cho quá trình phân bào nguyên nhiễm là 20-300C. Nhiệt độ quá thấp hoặc quá cao đều ảnh hưởng đến quá trình phân bào nguyên nhiễm. 26
  28. Như vậy, trong quá trình phân bào nguyên nhiễm các nhiễm sắc thể thay đổi cấu trúc, hình thái theo chu kỳ co xoắn - duỗi xoắn. Sự tách đôi nhiễm sắc thể kép ở tâm động đảm bảo cho sự phân chia chính xác vật liệu di truyền về 2 tế bào con, số lượng nhiễm sắc thể không đổi ở các thế hệ tế bào. Ý nghĩa của phân bào nguyên nhiễm thể hiện ở những điểm sau: - Mọi tế bào của cơ thể đa bào được hình thành do phân chia nguyên nhiễm đều giống nhau về lượng vật chất di truyền trong nhân tế bào. - Quá trình tái bản ADN cũng như quá trình tái cấu trúc trên phân tử của sợi nhiễm sắc thể diễn ra trong chu kỳ tế bào là cơ hội cho việc thực hiện của các cơ chế điều hoà, qua đó các gen, nhóm gen mới được hoạt hoá - hình thành nên các nhóm tế bào phân hoá theo chức năng ở cơ thể đa bào (sự phân dị tế bào trong quá trình phát triển cá thể). Như vậy, trong quá trình phát triển của cơ thể đa bào, phân chia nguyên nhiễm vừa bảo đảm cho sự tăng về lượng tế bào, đồng thời tạo ra hiệu quả biến đổi về chất theo cơ chế hoạt hoá nhóm gen mới. Cơ chế hoạt động của bộ máy phân bào Cơ chế của những sợi thoi vô sắc trong việc làm di chuyển các nhiễm sắc thể trong hậu kỳ hãy còn nhiều tranh luận. Hiện nay có một số giả thuyết được nêu ra: - Giả thuyết có tính chất cơ học hoàn toàn, trong đó tế bào chất là động lực chủ yếu. Chúng chui vào giữa các nhiễm sắc thể, hút nước làm trương phồng và do đó làm cho nhiễm sắc thể kép tách ra, đẩy các nhiễm sắc thể về 2 cực. Lúc này các sợi thoi vô sắc chỉ đóng vai trò như những đường ray định hướng cho nhiễm sắc thể trượt trên chúng để đi về 2 cực. - Giả thuyết hoá học của sự co rút: Người ta thấy trong sợi thoi vô sắc có thành phần protein giống myozin của cơ, sự co rút và ngắn lại của các sợi thoi vô sắc với sự tham gia của phân tử ATP, . . . chính là động lực tách và di chuyển các nhiễm sắc thể về 2 cực. - Giả thuyết cân bằng động: Theo giả thuyết này thì có một sự cân bằng động giữa một lượng lớn các chất đơn phân và các chất trùng phân định hướng, mà các chất trùng phân này hình thành nên các thoi hay các ống nhỏ. Trong khi trùng hợp, một vài phân tử nước tham gia cấu trúc để làm tách, cho nên có hiện tượng với sự có mặt của 45% nước nặng (D2O) gây ra sự tăng thể tích của thoi lên 10 lần trong vòng 1-2 phút và tăng tới 2 lần. Sự cân bằng động này cũng rất nhạy cảm với những thay đổi của nhiệt độ - khi làm lạnh xuống 20C trong 5' thì sẽ gây ra gãy các sợi thoi trong phân bào amip, nhưng khi nhiệt độ tăng lên thì chúng lại được hình thành trở lại, tất nhiên là không được nguyên vẹn. Các dung môi không tan trong nước cũng gây ảnh hưởng, chứng tỏ tầm quan trọng của tác dụng tương hỗ kỵ nước của các nhóm không cực trong các protein đơn. - Cũng có quan điểm cho rằng: Do tích điện cùng dấu của 2 nhiễm sắc thể nên tự chúng đẩy nhau và đi về 2 cực của tế bào. Cơ chế phân chia tế bào chất Phân chia tế bào chất là một quá trình riêng rẽ xảy ra sau hay đồng thời với phân chia nhân. Có sự khác nhau giữa tế bào động vật và các tế bào thực vật trong cơ chế phân chia tế bào chất. Các tế bào thực vật trong khi phân chia vùng bào tương không hình thành nếp nhăn như ở tế bào động vật. Sau đây là một số giả thuyết về cơ chế của sự phân chia tế bào chất: - Người ta cho rằng: Trong sự phân chia tế bào chất có sự tham gia của bộ máy phân bào (sao và thoi), vì thấy có sự phối hợp hoàn hảo của sự di chuyển của các nhiễm sắc thể 27
  29. và vị trí của nếp lõm. Đặc biệt khi nghiên cứu sự phân chia của tế bào đa cực thì thấy trong đó nếp lõm được hình thành trong mỗi đôi của tâm tế bào. - Người ta còn cho rằng: Có tác dụng tương hỗ giữa thoi tơ, thể sao và màng tế bào. Song khi tách bộ máy hay ức chế nó bằng cosixin, sự phân chia tế bào vẫn diễn ra, do đó những giả thiết khác được hình thành. - Giả thiết co vỏ tế bào, trong đó có sự tham gia của thành phần protein co (có bản chất như actomyozin ở cơ) với ATP và ATPaza. Người ta đã chứng minh được rằng những sợi nhân tạo được kết cấu bởi protein co của vỏ này có thể co rút ngắn lại hoặc kéo dài ra trong phản ứng chuyển dịch điện tử bao gồm cả nhóm - SH. - Giả thuyết khuyếch đại hoặc lớn lên của màng tế bào tương kéo théo tế bào chất cũng là một khả năng có thể làm tế bào chất phân chia. Nhưng người ta vẫn không thể loại trừ cơ chế chuyển động điện tích theo kiểu amip. Trên đây là những giả thiết về sự phân chia tế bào chất ở tế bào động vật, còn ở tế bào thực vật: Sự di chuyển của màng lưới nội nguyên sinh, sự hợp nhất các túi nang ở xích đạo là yếu tố chủ yếu của sự phân chia tế bào chất. Cơ chế điều hoà sinh sản Hiện nay cơ chế điều hoà sinh sản của tế bào (đặc biệt là phân bào nguyên nhiễm) còn đang được tiếp tục nghiên cứu, song cũng đó có một số giả thuyết về các yếu tố ảnh hưởng - tham gia vào quá trình này: Tỷ lệ nhân và tế bào chất: Quá trình trao đổi chất nhân và tế bào chất là quá trình cần thiết cho sự phát triển bình thường của tế bào. Do đó mà có một lúc nào đó thể tích nhân tăng nhanh (bậc 3) hơn diện tích màng tế bào (bậc 2) điều này kích thích sự phân chia tế bào xảy ra để bề mặt của nó được tăng lên mà thể tích không tăng. Sự tham gia của Hormon: Có thể có sự tham gia của một số hormon nào đó vào quá trình phân chia tế bào, đặc biệt tế bào trứng đang phân chia cũng như một số mô của cơ thể đó trưởng thành. Cần chú ý một số hiện tượng, các hormon gây ra sự phân bào không phải ở mọi tế bào của cơ thể mà chỉ đối với một số tế bào ở các mô liên quan và mô sản sinh ra nó. VD. hormon buồng trứng kích thích sinh sản tế bào trứng, tuyến sữa và màng nhầy tử cung. Hormon hạ khâu não tăng cường sự phân chia của các tế bào tuyến giáp. Các cation hoá trị 2 như: Mg++, Zn++ tham gia trong điều hoà sinh sản của tế bào. Có thể chúng tham gia trong quá trình tổng hợp ADN. Nồng độ của chúng được kiểm tra qua màng tế bào. Vai trò của enzym thủy phân protein làm tách rời một số thành phần màng tế bào và kích thích phân bào. Các yếu tố của huyết thanh, mà thành phần cơ bản là protein từ tripeptit đều kích thích sự phân bào. Các yếu tố khi tế bào chết hay bị tổn thương tiết ra để kích thích sự phân bào - người ta gọi là hormon bị thương. Theo thuyết sinh học hiện đại của Saint Georgi thì hormon bị thương là enzym glycoxaza, enzym này bình thường chứa trong prolyzosom không khuyếch tán. Khi tế bào bị hủy hoại thì enzym này được giải phóng sẽ thủy phân các dicarbonyl - một chất trung gian trong quá trình vận chuyển điện tử từ protein đến oxy và đẩy tế bào trở lại trạng thái tăng sinh sản. Yếu tố ức chế sinh sản của tế bào chalon (do các quần thể tế bào sinh ra) có thể tham gia vào quá trình phân chia tế bào. Khi số lượng tế bào trong quần thể bị giảm thì việc sản xuất ra chất ức chế nói trên cũng bị giảm theo và như vậy theo cơ chế ức chế ngược cho phép các tế bào còn lại trong quần thể hoạt động phân chia. Tuy nhiên, đến một lúc nào đó 28
  30. số tế bào trong quần thể đạt mức ban đầu và việc sản xuất ra chất ức chế bắt đầu tăng lên thì lại kìm hãm sự phân bào. Ngoài ra người ta còn nói đến các yếu tố khác như pH, protein lạ, thần kinh ức chế tiếp xúc, điều kiện dinh dưỡng, đặc biệt là phitohemaglutinin. Kiểm tra di truyền của chu kỳ phân bào Sự kiểm tra của chu kỳ phân bào là vấn đề liên quan đến sự hoạt động của các gen kiểm soát sự diễn ra của các giai đoạn kế tiếp nhau như: Tái bản ADN, quá trình co xoắn, duỗi xoắn và vận động của nhiễm sắc thể, sự phân tách tế bào (cytokinese), . . Đột biến ở những gen này có thể làm cho tế bào dừng lại ở một giai đoạn nào đó, tức là chu kỳ phân bào bị gián đoạn. Xung quanh vấn đề tế bào sinh trưởng và phân chia có khá nhiều câu hỏi đặt ra như: Khi nào tế bào bắt đầu tái bản ADN để nhiễm sắc thể có thể nhân đôi? Khi nào bắt đầu quá trình co xoắn của nhiễm sắc thể để tiến hành sự phân chia? Rõ ràng tế bào cần có cơ chế điều khiển trình tự xẩy ra của các quá trình trong chu kỳ của mình. Những nghiên cứu ở các thể đột biến theo các gen kiểm tra chu kỳ phân bào trên nấm mem Saccharomyces cerevisiea, Schizossac charomyces pombe, trên phôi non của cóc Xenopus laevis, đã cho thấy có 2 vị trí mà ở đó tế bào bắt đầu một pha tiếp theo trong chu kỳ của mình. Vị trí thứ nhất gọi là start - ở cuối pha G1, ở đây tế bào chuẩn bị bước vào tổng hợp ADN (bắt đầu pha S). Vị trí thứ 2 là bắt đầu sự co xoắn nhiễm sắc thể (khởi đầu pha M). Yếu tố khởi động nguyên phân (MPF - Mitosis Promoting Factor) lần đầu tiên được phát hiện ở cóc Xenopus, khi MPF được tiêm vào noãn bào, nó sẽ kích thích noãn bào bước vào pha M. Các nghiên cứu đã cho thấy, hiệu quả khởi động vị trí 1 và vị trí 2 là do tương tác của 2 dạng protein gây nên: 1. Dạng protein kinase đặc trưng ký hiệu là pp-34 (pp - photoprotein, 34 - phân tử lượng của nó là 34.000). Ở nấm men đã xác định được gen kiểm tra protein này: Ở s. pombe là ede-cyclin, ở D.cerevisae là gen ede-28. pp-34 có hiệu quả tác động ở cả 2 vị trí 1 và 2. 2. Protein thứ 2 có tên là cyclin. Protein này có 2 loại, khi nó được tạo ra ở pha G1 thì gọi là G-cyclin, khi được tạo ra ở G2 thì gọi là M-cyclin. Quá trình điều khiển chu kỳ tế bào diễn ra như sau: Khi pp-34 tương tác với G1 - cyclin tạo phức hợp có khả năng khởi động vị trí 1, ADN được hoạt hoá để tái bản và tế bào hướng tới pha M. Sau khi khởi động vị trí này, G1-cyclin tách khỏi phức hợp và phân giải ở pha S. Tiếp theo, pp-34 tương tác với M- cyclin tạo phức hợp có khả năng khởi động vị trí 2, sợi nhiễm sắc bắt đầu được co xoắn (tế bào bước vào pha M). Sau khi khởi động vị trí 2, M-cyclin tách khỏi phức hợp và phân giải ở pha M. Chu kỳ phân bào tiếp tục diễn ra. Các protein cyclin và protein kinase pp-34 là những thành phần chỉ đạo điều khiển chu kỳ tế bào. Những protein tương tự cũng được phát hiện ở nhiều đối tượng sinh vật bậc cao khác như người, ếch, nhím biển, sao biển. Ngoài hai bước khởi động nêu trên, trong chu kỳ tế bào còn diễn ra nhiều quá trình chi tiết khác, chúng cũng được kiểm tra bởi nhiều ede. Ở nấm men đã xác định tới khoảng 50 gen ede, đột biến ở những gen này gây ra biểu hiện đặc trưng trong chu kỳ tế bào. Các nhân tố chống phân bào Các nhân tố chống phân bào có thể là các chất hoá học, các chất phóng xạ, chúng sẽ làm ức chế hoặc làm thay đổi quá trình phân chia tế bào. 29
  31. Có nhiều chất cản trở quá trình tổng hợp ADN hoặc tác động lên thoi phân bào, hoặc tác động lên nhiễm sắc thể hoặc ức chế phân chia bào tương. Các chất tác động lên ADN: Một số chất cản trở quá trình tổng hợp ADN ở gian kỳ làm cho tế bào ngừng lại không tiến sang phân chia được. Các chất kháng sinh: Actinomycin D, daunomycin, nogalomycin gắn lên ADN và ức chế tổng hợp nucleotit. Các kháng sinh chiết xuất từ streptomycin đều kìm hãm pha G2. Các chất chống chuyển hoá: Các chất chống chuyển hoá có cấu trúc không gian rất giống các chất chuyển hoá trong các quá trình sinh tổng hợp của các tế bào. Các chất chống chuyển hoá cạnh tranh chiếm lấy những vị trí của các chất chuyển hoá và do đó tế bào tổng hợp nên các phần tử không hoạt động hoặc không hoàn chỉnh. Các chất tương tự base purin hoặc pyrimidin như các chất 6-mercaptopurin, 5- bromodexyuridin, fluoro-deoxyuridin, . . . có tác dụng ức chế sự tổng hợp ADN. Các chất alkyl: Các hoá chất này có một hoặc nhiều chuỗi alkyl có thể kết hợp với các nucleoprotein và làm biến tính chúng. Các chất alkyl hoá gồm các chất mù tạt có nitơ (leukeran, clorambucol, cyclophosphorit, các chất etylenamin, các este của axit sulfonic, các epoxit, . . .). Các chất này rất độc đối với tế bào, thường kìm hãm tế bào ở pha G2 và đôi khi tạo ra đa bội thể. Các phẩm nhuộm: Các phẩm nhuộm có thể gắn vào ADN, xen kẽ vào base, VD. các bromua etidium, profavin ức chế sự nhân đôi của ADN. Các tác nhân gây tác hại lên thoi: Các chất như colcemit, podophycin, vincrestin, sulfat vinblastin, ức chế sự hình thành thoi vô sắc. Các tế bào đang phân chia bị kìm hãm ở kỳ giữa dẫn đến sự hình thành các nhân tứ bội (4n), bào tương không phân chia và tế bào thoái hoá. Các tác nhân làm tổn thương nhiễm sắc thể: Trypaforin làm cho các nhiễm sắc thể không phân ly và khó di chuyển về các cực của tế bào, một số nhiễm sắc thể di chuyển chậm bị rớt lại trong bào tương. Yperit, các phóng xạ ion hoá làm đứt gãy nhiễm sắc thể, các mảnh gãy không mang phần tâm được phân phối ngẫu nhiên vào các tế bào con. Một số mảnh có thể gắn vào các nhiễm sắc thể khác hoặc không nằm trong nhân của tế bào con và tạo thành nhân nhỏ. Các chất ức chế sự phân chia của bào tương: Các chất lithium, cystesmin ức chế sự phân cắt bào tương và gây ra sự hình thành các tế bào nhiều nhân. Một số yếu tố ảnh hưởng đến phân bào nguyên nhiễm - Tuổi tác: Cơ thể non thì tần số phân bào sẽ cao hơn cơ thể già. - Các cơ quan khác nhau thì có tần số phân bào khác nhau. VD. tế bào gan và tủy xương có tần số phân bào cao hơn tế bào ở các cơ quan khác. Tế bào ở đỉnh sinh trưởng của thực vật có tần số phân bào cao hơn. - Các yếu tố vật lý: Tia phóng xạ, nhiệt độ, ánh sáng có ảnh hưởng đến tần số phân bào. - Các chất hoá học có thể gây đột biến đều ảnh hưởng đến tốc độ phân bào. Phân bào giảm nhiễm (Meiose) Phân chia giảm nhiễm chỉ xảy ra ở cơ quan sinh sản của sinh vật có quá trình sinh sản hữu tính. Nó là cách phân chia của các tế bào sinh dục để tạo thành các loại giao tử có số lượng nhiễm sắc thể chỉ còn bằng một nửa so với tế bào mẹ ban đầu và tế bào trường (soma) của cơ thể. Dựa vào giai đoạn của vòng đời cá thể mà ở đó diễn ra giảm nhiễm, thế giới sinh vật đã phân chia ra 3 dạng giảm nhiễm sau: 30
  32. 1. Giảm nhiễm hợp tử: Đây là dạng đặc trưng cho sinh vật nhân chuẩn bậc thấp như tảo, nấm, nguyên sinh động vật. Những sinh vật này cơ thể sống thuộc trạng thái đơn bội, sinh sản vô tính xen kẽ với chu kỳ hữu tính. Khi 2 tế bào đơn bội phối hợp với nhau tạo thành tế bào hợp tử (2n), hợp tử này tiến hành phân chia giảm nhiễm tạo sản phẩm đơn bội gọi là bào tử, chúng có thể được nhân lên (VD. ở nấm tạo nang gồm 8 bào tử), các bào tử phát triển thành cơ thể đơn bội. 2. Giảm nhiễm bào tử (hay giảm nhiễm trung gian): Dạng giảm nhiễm này diễn ra trong quá trình hình thành bào tử ở đa số các loài thực vật. Giảm nhiễm là một phần của quá trình hình thành bào tử. Sản phẩm của giảm nhiễm là các bào tử, chúng phải trải qua một giai đoạn phát triển nữa mới hình thành các giao tử có khả năng thụ tinh để hình thành thế hệ lưỡng bội mới. Trong vòng đời của cơ thể thực vật, sự phát triển các bào tử để hình thành giao tử gọi là giai đoạn giao tử thể. 3. Giảm nhiễm giao tử (hay giảm nhiễm giới hạn): Dạng giảm nhiễm này đặc trưng cho giới động vật, một số nguyên sinh động vật và tảo nâu (Fucus). Ở đây giảm nhiễm xẩy ra trong quá trình hình thành giao tử. Kết quả của giảm nhiễm là hình thành các giao tử đực, cái có khả năng thụ tinh để tái tạo thế hệ lưỡng bội mới. Diễn biến của quá trình phân chia giảm nhiễm Trước khi tế bào bước vào phân chia giảm nhiễm, các nhiễm sắc thể tiến hành nhân đôi ở pha S. Tuy nhiên, sự tái bản ADN ở giảm nhiễm thường bị đình trệ (kéo dài), nhiều đoạn hoàn toàn tái bản ở đầu tiền kỳ I. Quá trình giảm nhiễm bao gồm hai lần phân chia liên tiếp, các thời kỳ của lần phân chia thứ nhất gọi là giảm nhiễm I, kết thúc lần phân chia này đã hình thành 2 tế bào con có số lượng nhiễm sắc thể giảm đi một nửa và các thời kỳ của lần phân chia thứ 2 gọi là giảm nhiễm II, lần phân chia này giống như phân bào nguyên nhiễm. Kết quả từ một tế bào mẹ (2n) cho ra 4 tế bào con (n nhiễm sắc thể). Tương tự như ở quá trình phân bào nguyên nhiễm, trong phân bào giảm nhiễm tế bào cũng có một thời kỳ gọi là kỳ xen kẽ giữa 2 lần phân chia để tế bào chuẩn bị bước lần phân chia thứ 2. Tuy nhiên, giữa 2 lần phân chia không xảy ra tái bản ADN. Mỗi lần phân chia đều trải qua 4 thời kỳ là tiền kỳ, trung kỳ, hậu kỳ và mạt kỳ. Sự phức tạp của quá trình phân bào giảm nhiễm diễn ra ở tiền kỳ I. Quá trình phân bào giảm nhiễm được trình bày trên hình 1.13. Lần phân chia thứ nhất - Giảm nhiễm I Lần phân chia thứ nhất này có 4 kỳ: Kỳ đầu, kỳ giữa, kỳ sau và kỳ cuối. Kỳ đầu I: Kỳ đầu của lần phân chia thứ nhất này được chia làm 5 thời kỳ nhỏ: Leptoten (giai đoạn sợi mảnh): Các nhiễm sắc thể trong nhân tế bào vẫn còn ở dạng sợi mảnh và dài, nhưng cũng đó có thể quan sát được dưới kính hiển vi quang học, nhân có dạng lưới. Dưới kính hiển vi điện tử có thể thấy nhiễm sắc thể ở dạng sợi kép do chúng đã được nhân đôi (2n kép) ở gian kỳ. Zygoten (giai đoạn tiếp hợp): Từng cặp nhiễm sắc thể tương đồng bắt đầu ghép lại với nhau. Trong mỗi cặp một nhiễm sắc thể có nguồn gốc từ cha, một chiếc có nguồn gốc từ mẹ. Mỗi cặp nhiễm sắc thể tương đồng ghép lại với nhau theo chiều dọc. Trong các cơ thể dị giao tử, cặp nhiễm sắc thể giới tính XY chỉ tiếp hợp với nhau ở đầu mút. Pachyten (giai đoạn co ngắn): Các nhiễm sắc thể đã ghép đôi co ngắn và dày hơn. Cặp nhiễm sắc thể tương đồng đang ghép đôi được gọi là lưỡng trị, mỗi nhiễm sắc thể gồm 2 cromatid. Các cromatid có nguồn gốc từ cha bắt chéo (crossingover) với cromatid có nguồn gốc từ mẹ để trao đổi các đoạn của cromatid cho nhau. 31
  33. Diploten (giai đoạn tách đôi): Hai nhiễm sắc thể tương đồng tách nhau dần trên phần lớn chiều dài, trừ những điểm đang xảy ra vắt chéo. Các cromatid có thể trao đổi với nhau từng đoạn một. Diakinesis: Các nhiễm sắc thể dày lên, hai nhiễm sắc thể tương đồng tách nhau ra nhưng các đầu vẫn còn dính với nhau. Màng nhân và hạch nhân lúc này biến mất. Hình 1.13. Các giai đoạn và thời kỳ của phân bào giảm nhiễm Kỳ giữa I: Các nhiễm sắc thể kép tập trung ở mặt phẳng xích đạo, mỗi nhiễm sắc thể kép gồm 2 cromatid vẫn dính với nhau. Hai nhiễm sắc thể tương đồng nằm 2 bên mặt phẳng xích đạo tạo nên hình ảnh đặc biệt. Kỳ sau I: Tâm động chia đôi, từng cặp nhiễm sắc thể tương đồng tách nhau rời nhau và đi về 2 cực của tế bào. Kỳ cuối I: Các nhiễm sắc thể kép đã đi về các cực của tế bào, do đó tại mỗi cực có n nhiễm sắc thể kép, màng nhân tái lập, sau đó bào tương phân chia. 32
  34. Kỳ xen kẽ: Thời kỳ này không gọi là gian kỳ vì không có sự nhân đôi của ADN và các nhiễm sắc thể vẫn giữ hình dạng y nguyên như ở kỳ cuối I. Quá trình phân bào giảm nhiễm lần thứ nhất là quá trình đã làm cho các tế bào từ số lượng lưỡng bội (2n) nhiễm sắc thể cho ra các tế bào con chỉ còn là đơn bội (n) nhiễm sắc thể, vì vậy người ta cho rằng đây mới thực chất là giai đoạn phân bào giảm nhiễm. Lần phân chia thứ II - Giảm nhiễm II Kỳ đầu II: Như kỳ đầu của giản phân, màng nhân và hạch nhân biến mất, nhiễm sắc thể tản mát vào trong tế bào chất. Đôi khi không có kỳ cuối I, tế bào bước ngay sang giai đoạn này. Kỳ giữa II: Các nhiễm sắc thể kép tập trung ở mặt phẳng xích đạo. Thoi vô sắc mới hình thành có trục vuông góc với trục của thoi vô sắc trong lần giảm nhiễm I, các nhiễm sắc thể đính tâm vào thoi vô sắc. Các cromatit của từng cặp nhiễm sắc thể tách nhau ra nhưng phần tâm chưa tách. Khi phần tâm tách ra làm đôi thì kết thúc kỳ giữa II. Kỳ sau II: Các cromatit lúc này đó tách hẳn nhau, trở thành một nhiễm sắc thể đơn và di chuyển về cực của tế bào. Kỳ cuối II: Các nhiễm sắc thể đơn đã đi hẳn về các cực của tế bào, màng nhân tái lập, bào tương phân chia, các tế bào con hình thành. Những tế bào này được gọi là tinh tử hay tế bào trứng, chúng chỉ còn nhiễm sắc thể đơn. Phân bào giảm nhiễm lần thứ 2 giống với phân chia nguyên nhiễm, vì trước lúc phân chia tế bào có đơn bội (n) nhiễm sắc thể và kết thúc phân chia tế bào cũng có đơn bội (n) nhiễm sắc thể, vì vậy phân bào giảm nhiễm II được gọi là phân chia đều. Như vậy, sau 2 lần phân chia từ một tế bào nguyên thủy 2n nhiễm sắc thể đó tạo ra 4 tế bào, mỗi tế bào chỉ còn n nhiễm sắc thể. Bộ tiếp xúc (Synaptinemal complex-sx) Sự tiếp xúc của đôi nhiễm sắc thể tương đồng là quá trình bắt buộc và quan trọng nhất của giảm phân. Cho tới nay cơ chế của sự tiếp hợp (cũng như trao đổi chéo) vẫn chưa hoàn toàn được làm sáng tỏ. Ở nhiều sinh vật, việc nghiên cứu bộ tiếp hợp đôi nhiễm sắc thể tương đồng đã phát hiện thấy các thành phần cấu trúc tham gia vào quá trình này, gọi là bộ tiếp hợp (synaptinemal complex-sc). Ở cuối giai đoạn leptoten (sợi mảnh), trên mỗi nhiễm sắc thể tương đồng quan sát thấy các thành phần cấu trúc vươn ra từ vùng giữa 2 sợi sắc ty gọi là thành phần bên. Khi nhiễm sắc thể tương đồng tiếp sát nhau, các thành phần bên dồn về một phía. Tại vùng tiếp hợp, các thành phần bên tổ hợp thành phần ở giữa (trung tâm) tạo thành một khối cấu trúc của bộ tiếp xúc. Cấu trúc này gồm 3 thành phần: (1) phần trung tâm có kích thước khoảng 1200 A0, (2) phần bên, mỗi phần bên liên kết với một nhiễm sắc thể trong đôi tương đồng, có đường kính khoảng 600 A0, (3) các sợi vươn ra từ phần bên, đó là cặp sợi có đường kính khoảng 100 A0, vươn dài khoảng 5000 A0. Các phân tích cho thấy, các thành phần bên dạng sợi vươn ra cấu tạo từ sợi ARNm (sợi này được tạo ra trên khuôn mẫu của ADN) và phân tử protein (hình thành dưới sự kiểm tra của chính ARNm này). Các sợi ARNm và protein vươn dài ra cả hai phía. Khi 33
  35. nhiễm sắc thể tương đồng gặp các sợi này, nó sẽ nhận biết đoạn tương ứng và quá trình tiếp hợp xảy ra rất chính xác giữa đôi nhiễm sắc thể tương đồng ở giai đoạn zygoten và pachiten. Khi chuyển từ pachiten sang diploten, phần lớn các thành phần của bộ tiếp xúc biến mất, chỉ còn đoạn ngắn của thành phần bên rớt lại ở vị trí hình chéo (chiasma) và hoàn toàn mất hẳn ở giai đoạn diakines. Sự hình thành bộ tiếp xúc và hoạt hoá sự ghép đôi nhiễm sắc thể có liên quan đến một số biến đổi bổ sung trong tế bào như: (1) xuất hiện dạng lypoprotein mới; (2) xuất hiện protein xúc tác việc tháo xoắn chuỗi ADN kép để tạo mạch đơn ADN; (3) liên quan tới sự tổng hợp bổ sung đoạn ADN thuộc dạng Z ở pha zygoten (Z-ADN, xem chương 2). Như vậy, bộ tiếp xúc chỉ quan sát ở quá trình tiếp hợp của đôi nhiễm sắc thể tương đồng (cuối giai đoạn leptoten, zygoten và pachiten). Vị trí của hình chéo có liên quan tới bộ tiếp xúc. Ở dòng đột biến không có bộ tiếp xúc sự tiếp hợp của đôi nhiễm sắc thể tương đồng diễn ra không bình thường và không quan sát được sự hình thành các hình chéo. Rõ ràng, ở những loài sinh vật có bộ tiếp xúc thì nó có vai trò trong sự liên kết, quyết định sự tiếp hợp của đôi nhiễm sắc thể tương đồng và liên quan đến sự trao đổi chéo. Cần lưu ý rằng, ở nhiều loài sinh vật nhân chuẩn không quan sát thấy bộ tiếp hợp, nhưng sự tiếp hợp của đôi nhiễm sắc thể tương đồng vẫn diễn ra, khi chúng tách nhau ở nhiễm sắc thể xoma (tế bào nhân) của sinh vật nhân chuẩn. Ý nghĩa của sự tiếp hợp của cặp nhiễm sắc thể đồng nguồn Tiếp hợp là một hoạt động quan trọng nhất và có tính chất bắt buộc của giảm phân, thiếu nó thì có nghĩa là giảm phân đó xảy ra không bình thường. Sự tiếp hợp hình thành nên các cặp lưỡng trị đảm bảo cho sự phân chia đồng đều vật chất di truyền về 2 cực của tế bào. Những rối loạn ở quá trình này gây ra sự phân chia bất bình thường của các nhiễm sắc thể về các tế bào con, dẫn tới các nhiễm sắc thể bị bất dục. Sự tiếp hợp liên quan tới sự trao đổi chéo giữa các gen tương ứng trên đôi nhiễm sắc thể tương đồng, tạo nên những kiểu tổ hợp gen mới. Ở con lai xa, tế bào chứa 2 bộ nhiễm sắc thể của 2 loài khác nhau, các nhiễm sắc thể không có đôi tương đồng nên quá trình tiếp hợp nói chung không xẩy ra, sự phân chia các nhiễm sắc thể bị rối loạn, các giao tử bất dục. Như vậy tiếp hợp là ngưỡng ngăn cản tạp giao khác loài, duy trì sự ổn định của loài. Các gen hay đoạn nhiễm sắc thể ngoại lai nạp vào nhiễm sắc thể, thông qua giảm phân chúng có thể bị loại bỏ, không truyền lại cho thế hệ sau. Sự kiểm soát của ngưỡng giảm phân đã quyết định số phận của cấu trúc di truyền nạp vào genom loài nhận, khi không có sự đồng thích ứng chúng sẽ bị loại. Sự phân tách ngẫu nhiên của các cặp nhiễm sắc thể lưỡng trị về 2 cực của tế bào tạo nên những kiểu tổ hợp khác nhau về các nhiễm sắc thể có nguồn gốc từ bố, mẹ (số lượng tổ hợp là 2n, n là số nhiễm sắc thể đơn bội). Từ đó tạo nên đa dạng về các kiểu giao tử và đa dạng về các kiểu gen ở đời phân ly. Đây là cơ sở tế bào của sự phân ly tính trạng. Ý nghĩa của phân bào giảm nhiễm Phân bào giảm nhiễm có ý nghĩa rất lớn đối với sinh vật, không những ở sự kế thừa vật chất di truyền cho thế hệ sau, mà còn ở sự điều khiển quá trình tái tổ hợp di truyền (đa dạng ở quần thể phân ly). • Các giai đoạn giảm phân, trật tự của chúng cũng như hoạt động của đôi nhiễm sắc thể tương đồng đều có sự kiểm soát di truyền. Ở ruồi dấm quá trình giảm phân diễn ra khác nhau ở giới đực và giới cái. Ruồi đực sự tiếp hợp của đôi nhiễm sắc thể tương đồng kém 34
  36. chặt chẽ, không quan sát thấy sự hình thành bộ tiếp xúc và các hình chéo, sự trao đổi chéo bị hạn chế. Trong khi đó quá trình này diễn ra bình thường ở ruồi cái. • Ở nhiều loài thực vật như ngô, lúa mỳ, cà chua, đậu Hà Lan, . . . đã phát hiện thấy nhiều đột biến liên quan tới quá trình giảm phân. VD. ở ngô đã tìm thấy dạng đột biến ngăn cản các tế bào mẹ hạt phấn bước vào phân bào giảm nhiễm, nhiều loại đột biến gây rối loạn sự tiếp hợp của các cặp nhiễm sắc thể tương đồng ở tiền kỳ I, các đột biến phá hủy sự phân ly bình thường của một số nhiễm sắc thể ở hậu kỳ II, . .v.v. Kết quả của phân bào giảm nhiễm là tạo thành 4 tế bào, mỗi tế bào đều khác nhau và mỗi nhiễm sắc thể của bố hoặc mẹ chỉ được về một tế bào. Do có sự bắt cặp và trao đổi chéo giữa các cromatit của các nhiễm sắc thể mà các nhiễm sắc thể mới hình thành không bao gồm hoàn toàn nguyên vẹn vật liệu di truyền của bố hoặc mẹ mà có những đoạn đã thay đổi. Như vậy phân bào giảm nhiễm là cơ chế phân phối lại những đơn vị di truyền (gen), cho phép tái tổ hợp không phụ thuộc vào tình trạng ngẫu nhiên của chúng. Sự trao đổi chéo gây ra bởi những gen của các nhiễm sắc thể khác nhau có thể được mang tới đồng thời và có thể được tái tổ hợp. Nếu quá trình này không xảy ra, sự tiến hoá của các loài sẽ bị đình chỉ, bởi các nhiễm sắc thể không thay đổi, các cơ thể không có các hình ảnh đặc trưng của chúng. Việc nghiên cứu phân bào giảm nhiễm là điều kiện trước tiên để hiểu cơ chế nhiễm sắc thể đối với sự di truyền. Quá trình sinh sản hữu tính Sự hình thành giao tử đực và giao tử cái ở động vật Quá trình phân bào giảm nhiễm ở động vật là quá trình hình thành giao tử đực và giao tử cái, nói chính xác hơn đó là quá trình sinh trứng ở con cái và quá trình phát sinh tinh trùng ở con đực. (giảm nhiễm bào tử). Về cơ bản hai quá trình này là giống nhau, tuy nhiên chúng vẫn có những sự khác nhau đặc trưng cho sự tham gia vào quá trình sinh sản hữu tính của mỗi giống. 1. Sự hình thành giao tử đực-sinh tinh Sau khi có sự phân hóa gới tính, cơ quan sinh dục đực được hình thành và phát triển, các tế bào sinh dục nguyên thủy (tinh nguyên bào) xuất hiện và được nhân lên theo kiểu phân bào nguyên nhiễm để tăng về số lượng. Tùy thuộc vào các loài động vật khác nhau mà tuổi thành thục về sinh dục của các con đực cũng khác nhau. Kể từ khi có sự thành thục về tính, các cá thể đực bắt đầu các quá trình sinh tinh để cho ra giao tử đực-tinh trùng. Quá trình phát sinh tinh trùng xẩy ra như sau: Trong ống sinh tinh của con đực, một tinh nguyên bào ngừng phân chia nguyên nhiễm, tích lũy về vật chất để chuẩn bị cho quá trình sinh tinh. Sau khi có sự chuẩn bị về vật chất, tinh nguyên bào lớn lên về kích thước, giàu lên về vật chất và trở thành tinh bào cấp I với số lượng nhiễm sắc thể là 2n (lưỡng bội). Tinh bào cấp I bước vào phân chia giảm nhiễm lần I, kết quả cho ra 2 tinh bào cấp II. Tinh bào cấp II chỉ còn số lượng nhiễm săc thể là n (đơn bội), tuy nhiên như chúng ta đã biết trong phân bào giảm nhiễm - các nhiễm sắc thể ở đây đang ở dạng sợi kép. Các tinh bào cấp II tiếp tục quá trình phân bào giảm nhiễm II để cho ra mỗi tinh bào cấp II là 2 tinh tử. Như vậy 2 tinh bào cấp II cho ra 4 tinh tử (tế bào hình cầu). Các tinh tử đều chứa bộ đơn bội nhiễm sắc thể (n) và ở dạng sợi đơn. Các tinh tử trải qua quá trình biến đổi để trở thành các tinh trùng (giao tử đực chín) với các phần: đầu, cổ, thân và đuôi. Bộ nhiễm sắc thể (n) được chứa trong đầu tinh trùng, ngoài ra đỉnh đầu của tinh trùng có chứa một cấu trúc gọi là acroxom – giống như một mũi 35
  37. khoan để giúp tinh trùng cắm được đầu của nó vào vỏ của tế bào trứng, đồng thời ở chóp đầu của tinh trùng còn chứa một chất men gọi là hyalurinidaza – được tiết ra khi tinh trùng bám được vào màng của tế bào trứng, có tác dụng làm mềm và hòa tan màng tế bào trứng để giúp cho tinh trùng xâm nhập được vào bên trong của tế bào trứng. Các thành phần khác của tế bào chất biến thành các bộ phận khác của tinh trùng để giúp cho tinh trùng vận động trong tinh dịch, trong môi trường và trong đường sinh dục cái. Hình 1.14. Sơ đồ về quá trình sinh trứng và sinh tinh ở động vật Như vậy từ một tinh nguyên bào qua hai lần phân bào giảm nhiễm và một quá trình biến đổi đã cho ra 4 tinh trùng-giao tử đực. Nếu cả 4 tinh trùng đều bình thường thì chúng sẽ có khả năng hữu thụ như nhau. Các tinh trùng sau khi đã được hoàn thiện thì được tập trung về chứa vào bể tinh, chỉ khi con đực thực hiện quá trình phối giống thì chúng được xuất (phóng) vào đường sinh dục cái hoặc ra môi trường. Qua trình sinh tinh, đặc biệt là trong quá trình hoàn thiện, chúng chịu tác động của nhiều yếu tố di truyền và không di truyền, vì vậy mà một tỷ lệ khá lớn các tình trùng bị dị hình-di tật như: Đứt đuôi, chẻ đuôi, vẹo đầu, . . . nhưng tinh trùng như vậy sẽ không tến thẳng được trong “môi trường” nên không có khả năng thụ tinh. Ngoài ra thì khi ra khỏi cơ thể tinh trùng cũng chịu nhiều tác động của các yếu tố ngoại cảnh nên một tỷ lệ khá lớn chúng bị chết. 36
  38. Theo một số kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu thuộc Trường ĐH Helsinki (Phần Lan) (1981-1991) thì ở đàn ông có quá trình sinh học bình thường sau 10 năm quá trình sinh tinh giảm từ 56,4% xuống còn 26,9%. Họ còn cho biết, đã gia tăngđáng kể các trường hợp ngưng sản xuất tinh trùng (spermatogeneic arrest), những người như vậy trong tinh hoàn không có tinh trùng chín. Trong 10 năm tỷ lệ trường hợp ngưng sản xuất tinh trùng đã tăng từ 8% lên 20% và tỷ lệ ngưng một phần cũng đã tăng từ 31,4% lên 48,5%. Nghiên cứu còn cho thấy, lương tinh trùng trong một ml tinh dịch đã giảm đi 50% (trong 50 năm), năm 1940 là 113 triệu, năm 1990 chỉ còn 60 triệu. Khối lượng trung bình của dịch hoàn cũng giảm từ 18,9 g (1981) xuống còn 17,8 g (1991). Theo họ, nguyên nhân gây nên tình trạng này là do nạn ô nhiễm môi trường, các hóa chất tương tự như oestrogen, thậm chí cả cách sinh hoạt và cách ăn mặc (GD & TĐ, số 6-1433, theo AFP và Thayraf). 2. Sự hình thành giao tử cái-sinh trứng Sau khi có sự phân hóa gới tính, cơ quan sinh dục cái được hình thành và phát triển, các tế bào sinh dục nguyên thủy (tinh nguyên bào) xuất hiện và được nhân lên theo kiểu phân bào nguyên nhiễm để tăng về số lượng. Tùy thuộc vào các loài động vật khác nhau mà tuổi thành thục về sinh dục của các con cái cũng khác nhau. Kể từ khi có sự thành thục về tính, các cá thể cái bắt đầu các quá trình sinh tinh để cho ra giao tử cái-tế bào trứng. Quá trình phát sinh trứng xẩy ra như sau: Trong buồng trứng của con cái, một noãn nguyên bào ngừng phân chia nguyên nhiễm, tích lũy về vật chất để chuẩn bị cho quá trình sinh trứng. Sau khi có sự chuẩn bị về vật chất, noãn nguyên bào lớn lên về kích thước, giàu lên về vật chất và trở thành noãn bào cấp I với số lượng nhiễm sắc thể là 2n (lưỡng bội) . Noãn bào cấp I bước vào phân chia giảm nhiễm lần I, kết quả cho ra 1 noãn bào cấp II và 1 thể cực thứ nhất. Noãn bào cấp II có đơn bội nhiễm sắc thể (n) và toàn bộ vật chất trong tế bào chất của noãn bào cấp II, còn thể cực thứ nhất chỉ chứa bộ đợn bộ nhiễm sắc thể (n). Tuy nhiên như chúng ta đã biết trong phân bào giảm nhiễm - các nhiễm sắc thể ở đây đang ở dạng sợi kép. Noãn bào cấp II tiếp tục quá trình phân bào giảm nhiễm II để cho ra một tế bào trứng và 1 thể cực thứ II. Thể cực thứ nhất cũng phân chia giảm nhiễm II để cho ra 2 thể cực thứ 2.Tế bào trứng có đơn bội nhiễm sắc thể (n) và toàn bộ vật chất trong tế bào chất của noãn bào cấp II, còn các thể cực thứ 2 chỉ chứa bộ đợn bộ nhiễm sắc thể (n). Như vậy từ một noãn nguyên bào biến thành một noãn bào cấp I và từ một noãn bào cấp I sau 2 lần phân chia nguyên nhiễm chỉ cho ra 1 tế bào trứng và 3 thể cực. Các thể cực và tế bào trứng đều chứa bộ đơn bội nhiễm sắc thể (n) và ở dạng sợi đơn. Không giống như quá trình phát tinh trùng và tinh trùng, quá trình phát sinh trứng chỉ có tế bào trứng sau khi được sinh ra và chín mới hữu thụ, còn các thể cực thì không có khả năng sinh sản và sẽ bị tiêu biến. Đối với nhiều loài động vật sinh sản theo chu kỳ (thường là hàng tháng nếu không mang thai) thì mội chu kỳ sẽ có một đợt sinh trứng và mỗi đợt có thể chỉ sinh một trứng (động vật đơn thai) hoặc nhiều trứng (động vật đa thai). Đối với phần lớn động vật thủy sản mỗi năm chỉ sinh sản một hoặc hai đợt và mỗi đợt hàng trăm, hàng ngàn, thậm chí là hàng trăm ngàn trứng. Vì vậy, quá trình sinh trứng của động vật đa thai cũng như động vật thủy sản là mỗi đợt sinh trứng thì có rất nhiều các noãn nguyên bào bước vào phân bào giảm nhiễm để sinh trứng. 37