Đồ gốm cổ truyền Việt Nam - Bùi Ngọc Tuấn

pdf 354 trang ngocly 1980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đồ gốm cổ truyền Việt Nam - Bùi Ngọc Tuấn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfdo_gom_co_truyen_viet_nam_bui_ngoc_tuan.pdf

Nội dung text: Đồ gốm cổ truyền Việt Nam - Bùi Ngọc Tuấn

  1. ĐỒ GỐM CỔ TRUYỀN VIỆT NAM Bùi ngọc Tuấn Mục lục: 1. Con Nghê - linh vật thuần Việt . 2. Chu Đậu, tuyệt đỉnh của đồ gốm cổ truyền Việt Nam . 3. Giới thiệu đồ gốm cổ truyền Việt Nam . 4. Men lam Huế, xác Tàu hồn Việt . 5. Bình và ấm Việt Nam . 6. Nét vẽ dân gian trên đồ gốm cổ truyền Việt Nam . 7. Bát Tràng, truyền thống liên tục . 8. Đồ gốm đời Lý-Trần, thời thăng hoa . 9. Một vài thắc mắc khi đọc những bài về đồ gốm cổ Việt Nam của Bùi ngọc Tuấn .
  2. 10. Về đồ gốm Chu Đậu . 11. Bụt chùa nhà . Con Nghê - linh vật thuần Việt Hai linh vật đặc thù của văn hóa Việt Nam là chim Hạc và con Nghê, thế nhưng trong khoảng hai trăm năm gần đây, ta thường thấy rồng và lân được dùng trang trí trong các đền chùa, dinh thự lớn. Như tượng hai con lân trắng ở ngay trước sân chùa Vĩnh Nghiêm, Sài gòn chẳng hạn. Những ngôi nhà lớn của người Việt ở hải ngoại hay ở trong nước cũng trang trí bằng tượng con lân. Chim hạc là linh vật từ thời các vua
  3. Hùng dựng nên nước Văn Lang ta, còn con Nghê xuất hiện từ bao giờ? (Phải chăng từ đời Lý, khi nền văn hóa thuần Việt được phục hồi và phát triển sau một ngàn năm Bắc thuộc?). Dù là biểu tượng thuần túy Việt Nam nhưng con Nghê lại được ít người biết đến. Con Nghê là gì? Trong đời sống của người dân Việt, hai con thú được coi như những người bạn thân thiết, gần gũi và quan trọng nhất là con trâu và con chó. Trâu để cầy ruộng, giúp sản xuất lúa gạo, chó để giữ nhà, phòng kẻ gian, phòng thú dữ. Đời sống thực tế có chó giữ nhà, còn đời sống tinh thần thì sao? Ông cha ta cũng cần một linh vật để chống lại các tà ma ác quỷ nữa chứ.
  4. Chó đá được dựng lên vì thế. Ở làng quê miền Bắc Việt Nam, trước cổng làng bao giờ cũng có một con chó đá để bảo vệ cả làng, trước cổng đình bao giờ cũng có chó đá, và trước cổng nhà hay ở ngoài đầu hồi, ngoài cửa nhà cũng thường có chó đá ngồi trước canh giữ cho gia chủ. Những con chó đá này hình dạng thay đổi, cao khoảng từ nửa thước tới một thước, thường là những tảng đá được khắc đẽo rõ ràng oai vệ, nhưng có khi chỉ là một khối đá đặt nghiêng theo dáng một con chó đang ở thế ngồi canh giữ. (Truyện cổ cũng thường nhắc đến chó đá, như chuyện “Cậu học trò và con chó đá”, chuyện “Hai anh em và con chó đá” – Xin đọc: Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Truyện cổ nước Nam ) Rồi để bầy trước điện thờ, hay bàn thờ của
  5. những nhà giàu có, ở các đình chùa, đền miếu, chó đá hoá linh. Chó đá được khắc đẽo với những chi tiết oai vệ, đầu chó, mặt chó đầy những nét oai nghiêm. Vì linh thiêng như thế, nên được gọi là con Nghê. Con Nghê còn được dùng để trang trí trong các ngôi đình cổ ở Việt Nam. Nghê được chạm trên cốn (xà ngang từ cột ra để đỡ xà dọc ở mái ngoài), hay được đạt trên đầu đao (sống mái chạy từ đỉnh nóc nhà xuống, cong lên như hình cây đại đao (mã tấu) nên gọi là đầu đao), như trên cốn đình làng An Hoà (Hà Nam), Phất Lộc (Thái Bình), cột đình làng Hội Thống (Hà Tĩnh), đầu đao đình làng Phù Lão (Bắc Giang), làng Trung Cần (Nghệ An), làng Tây Đằng (Sơn Tây) chẳng hạn. Thuở nhỏ, vào khoảng đầu thập niên 1950 ở Thái Bình,
  6. còn thấy ở nhà cụ Hà Ngọc Huyền, ông ngoại chúng tôi, có chưng tượng con Nghê cao gần một thước ngay lối vào phòng khách cùng với những bình, những chóe đời Khang Hy nhà Thanh, đời Minh Con Nghê này không biết nay đã lưu lạc về đâu? Vậy con Nghê là một linh vật thuần Việt, được sáng tạo để bảo vệ đời sống tâm linh của người Việt. Con Nghê thường được thấy qua các món đồ gốm, mà có thể được giới thiệu tiêu biểu dưới đây. Vài hình tượng con Nghê tiêu biểu Tượng con Nghê: dựa trên nước men, màu men, chất đất ta có thể định rằng đây là một tác phẩm đời Lý (thế kỷ XI - XII).
  7. Con Nghê này cao độ 36cm, bằng đất nung, phủ men nâu, nét tô đắp cực kỳ tinh xảo, con Nghê trông sống động, oai vệ, tưởng chừng như có thể phóng lên xua đuổi tà ma ngay tức khắc. Mặt Nghê ngắn. Mình Nghê thon dài, rất thanh tú. Cổ Nghê đeo dây lục lạc có tua, cổ ngửng thẳng. Lông trên sống lưng dựng đứng như một hàng kỳ, chạy suốt từ đỉnh đầu xuống đến đuôi. Chân Nghê thanh nhưng thẳng và mạnh, chân sau ở thế ngồi bắp thịt đùi trông rắn chắc mạnh mẽ, hai chân trước chống cao, chỗ đầu gối có lông xoắn cong. Mắt to, miệng lớn, mũi lớn, miệng Nghê hơi hé mở để lộ những răng nanh nhọn hoắt, như sẵn sàng xua đuổi tà ma. Tai Nghê lớn. Lông Nghê mượt sát vào mình với những đường khắc, uốn từ sống lưng xuống phía bụng, trông như vằn chó.
  8. Tượng con Nghê đời Lý (Bộ sưu tập Bùi Ngọc Tuấn) N ậm rượu hình con Nghê: chúng tôi xin đưa ra hình hai nậm rượu hình con Nghê, một mầu nâu, một mầu đen. Nghê với hình dáng và thế ngồi cũng như mô tả ở trên, tuy rằng các chi tiết không sắc sảo bằng. Nghê ngồi trên một bầu rượu có dáng trên tròn
  9. dưới ống. Mình Nghê rỗng, trên lưng Nghê có vòi loe để chuyên rượu vào (nắp đậy chỗ này không còn, nên ta không biết nắp cũng làm bằng đất sét nung hay bằng gỗ hoặc lá cuộn). Rượu được rót ra từ vòi dài đi từ thân nậm, tựa như cọc với dây xích buộc Nghê. Hai nậm rượu hình con Nghê đời Lý (Bộ sưu tập Bùi Ngọc Tuấn)
  10. Bình trầm hương hình Nghê: màu men, nước men, chất đất, độ nung của các bình hương này cho thấy đây là các tác phẩm làm thời Chu Đậu (thế kỷ XVI - XVIII) chứ không phải đồ đời Lý hay đời Trần. Bình hương gồm hai phần, phần dưới là một hộp nhỏ hình chữ nhật, đây là chỗ bỏ trầm vào đốt. Phần trên là nắp. Nắp là con Nghê ngồi trên một mặt phẳng đậy vừa kín phần dưới. Mình Nghê rỗng nên khi đốt trầm khói từ phần hộp phía dưới, luồn trong mình Nghê rồi bay ra từ miệng Nghê đang hơi khẽ mở, trông rất oai nghiêm. Vì trầm được đốt trong hộp kín phía dưới mà chỉ có thể thoát khói ra khỏi miệng Nghê nên cháy rất chậm, vừa toả đủ khói hương để mang đầy vẻ linh thiêng mà vẫn cháy lâu cả buổi.
  11. Bình trầm hương con Nghê (thời Chu Ðậu, thế Kỷ 16 - 17) Hình trích từ Vietnam ceramics, A separate tradition , John Guy và John Stevensen, Avery Press 1997 Cũng có một số bát hương làm vào
  12. khoảng thế kỷ XIII, XIV với hình chó thay vì hình nghê. Đây là các bát hương có dạng nửa tô, nửa đĩa, với tượng chó ngồi ở chính giữa bát hương. Thẻ hương được đặt ngang thành bát, gác lên đầu chó. Bát hương con Nghê Hình trích từ Vietnam ceramics, A separate tradition , John Guy và John Stevensen, Avery Press 1997 Loại khác gồm hai phần, phần dưới chắc
  13. cũng dùng để đốt trầm, khói bay luồn trong tượng chó ngồi ở giữa rồi tuôn ra miệng chó. Khi không đốt trầm, cây hương cũng được đặt gác lên đầu chó. Phân biệt con Nghê và con Lân Con Nghê là linh vật đặc biệt của văn hóa Việt Nam, con Lân thuộc văn hóa Trung Hoa. Về hình dạng, con Lân trông giống sư tử, mà có sừng, chân như chân trâu, thân hình tròn mập, có vẩy như vẩy rồng, miệng ngậm quả cầu, hay ngồi chống chân lên quả cầu. Con Nghê có kỳ mà không có sừng, mình thon nhỏ, chân như chân chó, dáng thanh, trông rõ ràng dáng chó chứ không tròn mập như dáng như sư tử, đuôi Nghê dài, vắt ngược lên lưng, đuôi Lân ngắn,
  14. xòe như cánh chim hay cuộn tròn như đuôi thỏ. Bát hương con Nghê Hình trích từ Vietnam ceramics, A separate tradition , John Guy và John Stevensen, Avery Press 1997 Một số người lại còn tưởng lầm con Nghê là con sư tử. Bởi vì chữ “Nghê” (hay “toan nghê”) trong chữ Hán vốn có nghĩa
  15. là con sư tử. Tuy nhiên phải để ý rằng có nhiều chữ Hán-Việt mà nếu ta tra tự điển Tầu, thì lại có nghĩa khác hẳn, bởi vì ông cha ta rất nhiều khi mượn chữ Hán nhưng lại đổi nghĩa đi mà dùng (người Pháp khi nghiên cứu về Việt Nam thì lại thường học chữ Hán của người Tầu, tra cứu sách Tầu viết về Việt Nam - chứ không tìm hiểu thẳng vào văn hóa Việt - nên nhiều khi sai nghĩa, sai sự việc rất xa. Người Pháp cũng vì học theo Tầu nên đã sai theo, cũng như từng theo sách Tầu mà gọi sai nước ta là An Nam, trong khi các văn thư cổ của triều đình Huế thì chỉ dùng chữ Việt Nam hay Ðại Nam. Trong quyển Chơi chữ, Lãng Nhân đã từng đưa ra vài ví dụ như: “tử tế” có nghĩa là “tinh mật, kỹ lưỡng” ta lại quen dùng theo nghĩa hiền hậu; “lịch sự” có nghĩa là “trải đời” ta dùng là “sang
  16. trọng”, “trân trọng” nghĩa là “quý trọng” lại bị đổi là “nghiêm cung, kính trọng” Trong cách thức đó, ông cha ta đã không cần để ý đến chữ “Nghê” có nghĩa là con gì trong chữ Hán, mà cứ lấy đó để đặt tên cho “chó đá hóa linh”. Nếu ai đã từng nhìn thấy tượng con Nghê thì cũng đều nhận thấy rằng đó là con chó đang ngồi chứ không phải là con lân hay con sư tử. Vài nhà nghiên cứu đã không có cơ hội này nên chỉ biết theo sách của người Pháp, tự điển của người Tầu mà lầm con nghê Việt Nam ra con sư tử hay con lân của Tầu. Chúng tôi chủ trương rằng nghiên cứu đồ cổ thì phải nhìn thấy tận mắt, tốt hơn nữa là được cầm trong tay, và được nghe từ tiếng nói dân gian trong thôn làng xưa rồi suy nghẫm, tra cứu, đối chiếu. Vì thế, ngoài những hình chạm khắc trên cốn, tượng con
  17. nghê trên đầu đao, trên cổng các ngôi đình làng cổ ở miền Bắc, lời chỉ dẫn của các cụ già, chúng tôi còn dựa sự quan sát của mình trên các tượng con nghê, các nậm rượu trong bộ sưu tập đồ cổ của riêng mình. Thời thịnh đạt của con Nghê Trong những thế kỷ Bắc thuộc, khi người Trung Hoa làm đủ mọi cách để hủy diệt văn hoá Việt Nam, như tịch thu, hủy diệt và cấm làm trống đồng, bắt người Việt đổi theo họ Tầu (vì thế những họ cổ Việt Nam như họ Thi (Thi Sách), họ Trưng (Trưng Trắc) không còn nữa .), thì không biết ông cha ta có làm hình tượng chó đá và con Nghê không? Quan sát cách sinh hoạt
  18. của người thượng trên các miền cao nguyên, ta thấy rằng con chó vẫn là con vật rất quan trọng của đời sống thôn dã. Vậy thì ai có thể quả quyết rằng, chó đá, con Nghê không được phát sinh từ thời xa xưa? Tuy nhiên chúng tôi cũng chưa có dịp may mắn được thấy các hình ảnh hay vật tích hình con Nghê của thời đại cổ xưa này. Ước rằng có người với những phương tiện đầy đủ sẽ làm các việc khai quật nghiên cứu và tìm ra di tích con Nghê từ thời xa xưa. Sau khi Ngô Quyền khởi lại thời tự chủ, sau khi Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn tổ chức lại trật tự trên đất nước ta, nhà Lý, nhà Trần, rồi nhà Lê nối ngôi dựng lại nền văn hóa thuần Việt rực rỡ, phong phú. Bắt đầu từ Lý Thái Tổ dời kinh đô từ Hoa Lư về
  19. Thăng Long, người Việt bừng lên khí thế dân tộc. Giống như thời Hùng Vương thuở trước, từ đây cùng văn học, xã hội, chính trị, nghệ thuật tạo hình của người Việt phát triển rực rỡ, phối hợp bản chất dân tộc với ảnh hưởng Trung Hoa và Ấn Độ, tạo nên một nền văn hóa thuần Việt, song song và biệt lập với văn hóa Trung Hoa. Trong bối cảnh văn hoá rực rỡ ấy, với sự nẩy nở của những nghệ phẩm, tác phẩm Việt Nam, sự phát triển của kiến trúc đình chùa, sự phát triển của giới quý tộc, trưởng giả càng đòi hỏi nhiều hơn nữa những phẩm vật tế tự, sinh hoạt và trưng bày. Khung cảnh và nhu cầu này đưa đến biết bao phát triển của nghệ thuật tạo hình. Nhu cầu tinh thần, nhu cầu vật chất được đáp ứng bởi bàn tay, khối óc của các nghệ
  20. nhân Việt lúc nào cũng xông xáo sáng tạo. Biết bao kiến trúc, cung điện, đình chùa mới mái cong thuần túy Việt được dựng lên. Đồ gốm Việt Nam bừng lên tổng hợp kỹ thuật và sắc men Trung Hoa với dạng thức, nét vẽ, và phong cách hoàn toàn Việt Nam. Từ đây những bình, ấm, tô, chén đĩa những món đồ Lý Trắng, Lý Nâu, Lý Lục, Lý Đen, những món đồ men ngọc, chuyển qua những món men trắng hoa chàm của đời Trần, đời Lê tuyệt vời, được sản xuất mạnh mẽ; Rồi tiếp theo đó, sang thế kỷ XIV, XV, XVI là thời của gốm Chu Đậu, thời tuyệt đỉnh của đồ gốm Việt Nam, với biết bao phẩm vật xuất cảng sang vùng Ba Tư, Nam Dương, Phi Luật Tân, Nhật Bản
  21. Bình trầm hương thòi Chu Ðậu, thế kỷ 16, 17 Hình trích từ Vietnam ceramics, A separate tradition , John Guy và John Stevensen, Avery Press 1997 Dựa trên số lượng và phẩm tính của những con Nghê trong các viện bảo tàng và bộ sưu tập của các tư nhân, ta thấy rằng thời thịnh đạt nhất của con Nghê là từ đời Lý cho đến cuối đời Tây Sơn (thế kỷ XI đến thế kỷ XVIII). Suốt từ đời Lý, con Nghê
  22. được trọng dụng ở khắp mọi nơi, từ những ngôi nhà dân dã, từ cung đình, cho đến lâu đài, đình chùa, lăng miếu Đến cuối đời Lê, loạn Trịnh - Nguyễn phân tranh, đất nước đi vào 300 năm khói lửa, nhưng không vì thế mà văn hoá Việt điêu tàn, mà trái lại càng phát triển mạnh thêm về mọi mặt (thơ văn, kiến trúc, khắc gỗ, gốm sứ ). Trong suốt 8 thế kỷ này, các bình hương trầm, các nậm rượu, và các tượng hình con Nghê là những món không thể thiếu ở nơi tế tự, ở các nhà trưởng giả cho đến nhà bình dân.
  23. Con Nghê trên đầu đao đình làng Phù Lão (Bắc Giang, thế kỷ 17) Hình trích từ Đình Việt Nam – Hà Văn Tấn và Nguyễn Văn Kự, 1998
  24. Con Nghê trên đầu đao đình làng Trung Cần (Nghệ An, thế kỷ 18) Hình trích từ Đình Việt Nam – Hà Văn Tấn và Nguyễn Văn Kự, 1998
  25. Con Nghê khắc trên cốn đình làng An Hoà (Hà Nam) Hình trích từ Đình Việt Nam – Hà Văn Tấn và Nguyễn Văn Kự, 1998 Thời suy tàn của con Nghê
  26. Khi Nguyễn Ánh thống nhất sơn hà, triều đình nhà Nguyễn - có lẽ do mặc cảm, do lòng thù ghét các dấu vết văn hóa của đất Bắc, của nhà Trịnh, nhà Tây Sơn - đã quay lưng lại văn hóa Việt nam mà ưa chuộng văn hóa Trung Hoa. Thế cho nên con rồng Việt Nam uyển chuyển của đời Lý Trần Lê, đã bị thay bằng con rồng Tầu thân mập vẩy to, mặt ngắn. Thế nên thành Thăng Long bị phá đi xây lại nhỏ hơn và biết bao cung điện đời trước (còn lại sau những năm dài chinh chiến) đã bị triều đình nhà Nguyễn cho phá đi. Thế nên, dù đang trong tình trạng chật vật cạnh tranh với đồ gốm Tầu trên thị trường quốc tế, cả một kỹ nghệ đồ gốm Việt nam đã không được triều đình nâng đỡ. Thay vào đó các món đồ dùng trong cung đình Huế được đặt làm từ các
  27. lò gốm ở bên Tầu. Thế nên cả làng Chu Đậu (Hải Dương) phải bỏ nghề gốm mà chuyển qua nghề dệt chiếu (một số nhỏ đã dọn đến Bát Tràng tiếp tục nghề cũ, trong phạm vi rất nhỏ hẹp so với Chu Đậu). Trong các cung điện ở Huế, con Nghê không được dùng, vì đã bị con Lân của Tầu thay thế. Các lư trầm bằng đồng với hình tượng con Lân trên nắp trở nên phổ thông. Các nhà trưởng giả đua theo triều đình chuộng các linh tượng Trung Hoa. Kỹ nghệ đồ gốm tàn lụi, con Nghê chỉ còn sót lại trong những bàn thờ cổ ở chốn thôn dã miền Bắc. Đau đớn thay là tinh thần nô lệ Bắc phương! Hãy đi đến các ngôi chùa, các kiến trúc ở Việt Nam làm từ thế kỷ XIX, ta thấy ngay rằng, con rồng Việt đã biến đổi, con Nghê
  28. đã bị thay bằng con Lân, chim Hạc chỉ còn là biểu tượng xưa cũ. (Kiến trúc Việt Nam đăc biệt ở chỗ có mái cong - trong khi kiến trúc Trung Hoa có mái thẳng - thế nhưng cung điện ở Huế và các đình làng làm từ thế kỷ XIX (từ Quảng Trị vào miền Nam) chỉ có mái thẳng, trang trí bằng hình con Lân hay Tứ linh - long, ly, quy, phụng - hay hình con hổ.) Thương thay, các biểu tượng thuần Việt, các nét tạo hình thuần Việt không còn được người Việt biết đến nữa. Rồi người ta rủ nhau về nguồn băng cách quơ quíu những hình ảnh, biểu tượng của văn hóa Trung Hoa hay Nhật Bản, còn bụt chùa nhà thì bỏ lăn lóc. Đến thăm các trung tâm văn hóa Việt Nam
  29. ở Mỹ, đi dự các buổi lễ hội do những cộng đồng người Việt tổ chức, ta thấy họ hãnh diện trưng bày các tranh ảnh, phông cảnh vẽ cảnh sinh hoạt đình chùa ở thôn làng Việt Nam; Nhưng hỡi ơi, mái đình, mái chùa vẫn cứ là mái thẳng, trông như lịch Tầu, vẫn thấy vẽ con Lân Tầu, con Rồng Tầu. Ôi văn hóa ông cha đâu rồi, những người lớn tuổi còn sơ sót như vậy, thì làm sao mà dạy thế hệ trẻ đây? Rồi khi đi qua cửa các nhà giàu có ở Hoa Kỳ, ta vẫn thấy chủ nhà hãnh diện bầy hai con Lân hai bên cửa, cứ như là chùa Tầu. Ở các lò gốm bên Việt Nam, ở Non Nước, Hội An (Đà Nẵng), các nhà khắc chạm cẩm thạch, đâu đâu cũng chỉ sản xuất toàn con Lân mà không có con Nghê. Buồn thay!
  30. Chúng tôi ước ao rằng các họa sĩ Việt hãy vẽ mái đình cong, với hình tượng con Nghê trên đầu đao, các nhà làm đồ gốm Việt Nam sẽ làm lại tượng con Nghê, bình hương trầm con Nghê, để tất cả chúng ta còn hãnh diện nối theo dòng văn hóa Việt Nam của ông cha thuở trước. Chu Ðậu, tuyệt đỉnh của đồ gốm cổ truyền Việt Nam Chúng ta đã biết lịch sử đồ gốm Việt Nam đã bắt đầu từ những món đồ bằng đất sét
  31. trộn bột vỏ sò không tráng men, dùng khuôn bằng giỏ đan, màu nâu đậm hay nâu nhạt từ gần mười hai ngàn năm trước đây (từ khoảng 9390 BC), qua những vật tích tìm được ở Hoà Bình, ở Bắc Sơn, ở Quảng Yên, ở Thanh Hoá. Những vật tích này là dấu vết còn sót lại của nền văn hóa Bắc Sơn đã cho ta thấy, ông cha ta không phải là những người đi từ miền Nam Trung Hoa xuống và cũng không có liên hệ văn hóa hay chủng tộc với người Trung Hoa cả. Vào cùng thời kỳ này, nước Trung Hoa chưa hiện hữu và văn minh cổ đại của Trung Hoa chưa xuất hiện. Ta cũng suy rằng, vào thời kỳ đó, ở lục địa Trung Hoa chắc cũng có rất nhiều sắc dân, nhiều nền văn hóa biệt lập mà sau này đã tàn lụi từ khoảng năm 4500 BC khi Phục Hy, Thần Nông làm vua ở vùng đất Tây Bắc Trung
  32. Hoa. Nhận ra điều này, chúng ta không nên nhắc lại các điều sai lầm rằng dân Việt ta vốn ở vùng Hoa Nam rồi bị người Tàu xua dần về vùng Bắc Việt bây giờ, hay dân Việt ta vốn có liên hệ với nước Việt của Câu Tiễn [1] , hay văn hóa Việt vốn bắt nguồn từ văn hóa Trung Hoa. Ta thấy rõ rằng truyền thuyết nguồn gốc dân tộc ta từ: “ Ðế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Ðế Minh truyền ngôi cho con trưởng là Ðế Nghi làm vua phương Bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ . ” chỉ là câu chuyện tạo nên do thói quen của các nhà Nho thuở trước, cho rằng nếu mình
  33. không có liên hệ với các vua cổ đại Trung Hoa thì không được chính thống. Họ đâu biết rằng ông cha ta đã sinh sống ở vùng miền Bắc Việt Nam trước Thần Nông bốn ngàn năm rồi. 15 bộ của các vua Hùng nằm trong địa hạn Bắc Việt hiện nay (từ Lạng Sơn, Cao Bằng xuống Quảng Bình), hoàn toàn trong phạm vi thung lũng các sông Hồng, sông Mã, sông Ðà, Sông Cả mà không hề có phần đất nào trong vùng Nam Trung Hoa cả. Truyền kỳ “Con Rồng cháu Tiên” là truyền kỳ cao đẹp hun đúc tinh thần Việt Nam suốt mấy ngàn năm nay, và càng nên được duy trì, phổ biến. Tuy nhiên khi nhìn về lịch sử, ta phải nên nhìn xa hơn về thời gian và gần hơn về không gian. Trong suốt thời Xuân Thu, Chiến Quốc,
  34. ông cha ta vẫn sống độc lập, vẫn phát triển nền văn minh Việt Nam hoàn toàn khác văn minh Trung Hoa (tiếng nói, văn phạm ta hoàn toàn khác, ta xâm mình, ăn trầu, đúc trống đồng, trong khi người Tàu không hề có các tục đó). Sau này, từ khi Triệu Ðà (người Tàu) chiếm nước ta để nhập vào vùng Hoa Nam lập ra nước Nam Việt và “đem chính trị, pháp luật nước Tàu sang cai trị” (Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim) qua đến thời Hán thuộc, kẻ cai trị là người Tàu đẩy mạnh việc mang phong tục, văn hoá Trung Hoa sang để đồng hóa ông cha ta, mà cuối cùng cũng vẫn thất bại, vì ông cha ta chỉ học lấy một số điều lợi ích cho đời sống mà vẫn duy trì bản sắc riêng. Phần đất Hoa Nam của Triệu Ðà người Tàu lấy lại. Nước Việt ta vẫn ở vùng Bắc Việt và Bắc Trung Việt bây giờ.
  35. Trong phạm vi đồ gốm – nét văn minh sơ khởi nhất của con người, bởi vì không có đồ gốm để nấu nướng, cất giữ, ăn uống thì nền văn minh không hình thành – ông cha ta tiếp tục phát huy, học hỏi và ứng dụng kinh nghiệm vào việc chế tạo đồ gốm, tạo nên các nền văn hoá Phùng Nguyên (2000 BC), văn hoá Ðông Sơn (500 BC). Dù di tích còn rất ít, nhưng đồ gốm Việt Nam trong thời này đã cho thấy sắc thái của một nền văn hóa cá biệt. Trong những thế kỷ sau đó, đồ gốm Việt Nam đạt được mức phát triển rất cao, đã xuất cảng sang Ả Rập, Phi Luật Tân, Nam Dương Vào thế kỷ thứ 9, khách thương Ả Rập Ibn Khurdadhbih đã từng viết về cuộc du hành của ông ghé qua Long Biên trước khi đến Quảng Châu. Sang thế kỷ thứ 10, dưới thời
  36. Thập Nhị Sứ Quân, đồ gốm với nước men trong, dày, khá đều, với hoa văn chim hạc, cọp, voi, hoa sen, hoa cúc đã xuất hiện nhiều. Người thợ Việt Nam đã biết cách làm các đường rạn thưa hay dày theo ý muốn. Rồi từ đời Lý (đầu thế kỷ 11) đồ gốm Việt Nam phát triển một cách huy hoàng. Nhiều loại men (các loại Lý Nâu, Lý Ðen, Lý Trắng, Lý Lục, men ngọc), nhiều hoa văn, nhiều thể loại tràn lan khắp nơi, từ chốn triều đình, chùa, miếu đến thôn dã trong suốt từ thế kỷ 11 đến hết thế kỷ 16 (đời Hậu Lê). Từ cuối thế kỷ 14, ta thấy phát triển loại men, loại hoa văn vô cùng độc đáo, rất cao cả về kỹ thuật lẫn mỹ thuật. Ðó là thời kỳ tột đỉnh của đồ gốm Việt Nam, loại đồ gốm ngày nay được biết dưới tên “Ðồ gốm
  37. Chu Ðậu”. Tiếc thay, nền kỹ thuật và mỹ thuật này đã tàn lụi vào đầu thế kỷ 17, sau những trận chiến dữ dội thời Lê Mạc. Ðồ gốm Chu Ðậu chìm sâu trong lòng đất, dưới đáy biển suốt mấy trăm năm. Những món còn được lưu giữ ở các viện bảo tàng bên Châu Âu thì đã từng bị xếp lộn vào đồ gốm Trung Hoa. Gốm Chu Ðậu chỉ được biết đến và tìm hiểu từ khi ông Makato Anabuki (thuộc tòa đại sứ Nhật Bản ở Hà Nội) nhìn thấy một bình cao cổ men trắng xanh, hoa văn cánh sen và hoa mẫu đơn, với câu “Thái Hoà bát niên. Nam Sách châu, tượng nhân Bùi thị hý bút” (nghĩa là: ở phủ Nam Sách, năm Thái Hòa thứ tám, bà họa sĩ họ Bùi vẽ chơi), ở viện bảo tàng Topkapi Saray Museum (Istanbul, Turkey). Ðịa danh Nam Sách Châu cho ta
  38. biết nơi chế tạo (phủ Nam Sách tỉnh Hải Dương), và chữ Thái Hòa bát niên cho ta biết năm chế tạo (1450 năm Thái Hòa thứ tám, đời vua Lê Nhân Tông). Từ đây những nhà khảo cổ mới hướng về phủ Nam Sách, rồi năm 1983 ở làng Chu Ðậu, dưới vườn nhà một nông dân là ông Vang, người ta đào được các di tích lò gốm. Việc tìm kiếm, khai quật bắt đầu. Người ta tìm thấy cả một nền đồ gốm rực rỡ, thịnh vượng kéo dài 3, 4 thế kỷ. Những khai quật này đưa đến trung tâm của nền nghệ thuật này: Phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ở đây, ngoài làng Chu Ðậu, còn có các lò gốm khác ở làng Vạn Yên, làng Gốm, làng Ngói, làng Phú Ðiền, làng Phúc Lão, làng Cậy . Ðồ gốm Chu Ðậu được phát hiện nhiều trong các ngôi mộ cổ, đình chùa, từ đường, và nhiều nhất là dưới các tàu buôn
  39. chìm ngoài khơi Hội An, Ðà Nẵng Từ đây người ta ít gọi các món đồ này là đồ men trắng chàm (nền men trắng, hoa văn màu chàm – màu xanh lơ) mà gọi bằng tên đồ gốm Chu Ðậu, bởi đây là nơi di tích các lò gốm cổ sản xuất loại đồ gốm này được khám phá ra trước nhất. Những khai quật trong năm 1986, 1987, 1989, 1991, 1992 và 1993, cho thấy đồ gốm Chu Ðậu được sản xuất ở rất nhiều nơi gần bờ sông trong tỉnh Hải Dương, tập trung nhiều nhất ở phủ Nam Sách. Công lớn về những khám phá này là của ông Tăng Bá Hoành, giám đốc viện bảo tàng Hải Dương, người đã nghiên cứu, gìn giữ và viết rất kỹ lưỡng về đồ gốm Chu Ðậu tìm được trong các cuộc khai quật này. Ðồ gốm Chu Ðậu hình dáng thanh tao, nước men trong mà mỏng, hoa văn đầy hình ảnh đời sống thôn làng Việt
  40. Nam. Ðồ gốm Chu Ðậu bắt đầu được sản xuất từ cuối thế kỷ 14, rực rỡ nhất vào thế kỷ 15, 16 rồi tàn lụi vào đầu thế kỷ 17, trong khi các lò gốm khác ở Hải Dương còn sản xuất những món đồ không men (nồi đất, chum, vại ) cho đến thế kỷ 18, hay cho mãi đến bây giờ như làng Cậy, làng Lâm Xuyên (chuyên làm nồi đất không men). Làng Chu Ðậu từ lâu nổi tiếng về nghề dệt chiếu. Trước đây, ở ngoài Bắc, khi trong nhà có người lấy vợ, người khá tiền thường mua một vài cặp “chiếu Ðậu” để cho cô dâu chú rể dùng. Dân làng bây giờ chỉ còn biết làm ruộng và dệt chiếu, họ không biết làm đồ gốm nữa và cũng không ngờ rằng ông cha họ đã từng làm những món đồ gốm tinh xảo, tuyệt mỹ. Các lò
  41. gốm ngày xưa nay đã nằm sâu dưới ruộng nương, vườn tược. Một địa danh trong làng là “Ðống Lò”, nhưng dân làng không biết là lò gì. Từ đầu thế kỷ 17, nghề làm đồ gốm ở đây tự nhiên mất tích, không còn lò gốm, không còn người làm đồ gốm. Dấu vết chìm sâu dưới lòng đất, biến hẳn trong ký ức dân làng! Bao quanh bởi nhiều con sông lớn, người dân làng Chu Ðậu có những phương tiện giao thông tiện lợi. Họ có thể chuyển đồ lên Thăng Long, ra Phố Hiến, Vân Ðồn để bán trong nước, để xuất cảng ra nước ngoài. Họ có thể chuyên chở đất sét mịn mua từ Hố Lao (Ðông Triều, Quảng Yên) chỉ cách đó 30km một cách nhanh chóng, dễ dàng. Thành công về thương mãi, họ có cơ hội, có phương tiện, có động cơ phát
  42. huy nghệ thuật và kỹ thuật rất cao. Tiếc thay, thời cuộc đã hủy diệt mất một nền kỹ thuật và mỹ thuật giá trị của dân ta. Những dòng họ tài danh nhất về đồ gốm ở làng Chu Ðậu là họ Ðặng, họ Vương. họ Bùi, họ Ðỗ, với những kỳ tài như vợ chồng Ðặng Huyền Thông - Nguyễn Thị Ðỉnh, Ðặng Hữu, Ðặng Tính Không. Ông Tăng Bá Hoành, trong Gốm Chu Ðậu, có trích gia phả nhà Họ Vương câu: “Nam Sách phủ, Thanh Lâm huyện, Ðặng Xá xã, dĩ đào bát vi nghiệp, hậu nhất chi di cư Gia Lâm huyện, Bát Tràng xã. Cụ Vương Quốc Doanh hưng công dĩ đào bát vi nghiệp” (họ Vương ở xã Ðào Xá huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách làm nghề đồ gốm; Sau một chi di cư về xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, và cụ Vương Quốc Doanh làm hưng thịnh
  43. nghề đồ gốm ở đấy). Ðồ gốm Chu Ðậu cũng có nhiều thứ như men ngọc (celadon), men nâu, men trắng, men lục. Tuy nhiên tiêu biểu nhất là men trắng trong với hoa văn màu xanh (men trắng chàm) và men trắng trong với hoa văn ba màu vàng, đỏ nâu và xanh lục (men tam thái). Men ngọc, men trắng, men nâu và men nâu đen thường bị lẫn với đồ gốm đời Lý Trần, tuy nhiên, hoa văn trên men Lý nhiều ảnh hưởng Phật giáo, hoa văn Chu Ðậu phản ảnh đời sống nông thôn Việt Nam, hoa văn trên men Lý thường được vẽ bằng cách khắc chìm hay khắc nổi, hoa văn Chu Ðậu được vẽ bằng men màu. Men ngọc thời Chu Ðậu cầm thấy nặng tay, chất đất
  44. thô hơn và tiếng gõ không thanh như men ngọc của người Tàu. Bình ấm thời Lý thường có vòi hình đầu rồng, hình vòi voi, hình đầu chim, hình makara, gurada (makara: thủy quái của thần thoại Ấn Ðộ, gurada: chim thần của thần Vishnu - Ấn Ðộ giáo) Các bát đĩa đời Lý thường còn dấu con kê rõ ràng; đồ gốm Chu Ðậu khéo hơn, dấu con kê không còn nữa. Ðáy các chén đĩa thời Lý thường để trơ đất mộc, đáy của đồ gốm Chu Ðậu thường được quét một lớp son nâu, màu đậm, thường khi vẫn còn nguyên dấu bút. Lớp son nâu này không phải là men, mà chỉ là một lớp son pha màu nâu rất mỏng để bảo vệ đáy chén đĩa. Ðây cũng là những đặc điểm phân biệt đồ gốm ta và đồ gốm Tàu. Gốm Tàu không bao giờ để trơ đất mộc, hay quét son nâu, cũng không có dấu con kê. Con kê là một
  45. kỹ thuật hoàn toàn Việt Nam. Kỹ thuật này dù làm cho món đồ kém đi chút phẩm chất, nhưng lại là một phát kiến riêng của người thợ Việt Nam, nhằm tránh cho chén đĩa không bị dính vào nhau khi nung mà lại tiết kiệm được diện tích lò. Men trắng Chàm và men tam thái nổi danh và được ưa chuộng hơn cả. Men trắng chàm (nền men trắng, hoa văn màu xanh biếc) chiếm số lượng cao nhất. Các món đồ vớt được ở ngoài khơi Ðà Nẵng - Hội An cũng đều là men trắng chàm. Do đó, khi nói về đồ gốm Chu Ðậu, người ta chỉ thường biết về loại này mà ít để ý đến các loại men khác. Ðồ gốm Chu Ðậu men trắng chàm thường thấy bây giờ là những món chúng tôi coi là thuộc hạng kém hơn về phẩm chất. Những món có phẩm chất cao,
  46. tuyệt đẹp đã nằm trong tay các nhà sưu tập chuyên nghiệp ở Âu Châu, Úc Châu, Singapore, Hong Kong, ở các viện bảo tàng Âu Châu và Ả Rập Từ giữa thập niên 1980 cho đến giữa thập niên 1990, những nhà sưu tập này đã vào Việt Nam vào mua hết tất cả, với những giá rất rẻ. Loại đồ gốm Chu Ðậu hạng nhất này nhiều món đẹp tuyệt vời, bứt xa đồ nhà Minh, và đẹp không kém gì đồ gốm men lam của nhà Thanh bên Tàu. Vì kỹ thuật giản dị nên màu đỏ và màu xanh lục của men tam thái Chu Ðậu không bền. Những món đồ này nằm trong lòng đất hay ngâm dưới đáy biển đã bị lợt đi hết. Phần lớn những món men tam thái ta thấy bây giờ được người ta tô lại bằng màu men tương tự, chứ hiếm khi là nước men
  47. ba màu nguyên thủy. Tuyệt vời nhất là hoa văn trên men trắng chàm và men tam thái. Hình ảnh thuần túy Việt Nam. Họ vẽ tàu lá chuối, nhánh rong, chim sẻ, chim chích chòe, tôm, cá bống, cóc, rùa, cọng rau muống, bông hoa cúc, hoa sen. Cũng như các bình ấm Việt Nam đời trước, thảng hoặc lắm ta mới thấy một vài bình, ấm thời Chu Ðậu có quai cầm, còn ngoài ra, nơi quai cầm chỉ là một vật trang trí như con rùa, con cá, bông sen như đồ gốm Việt Nam các thời trước. (Tất cả các hình trong bài đều chụp từ bộ sưu tập gốm Chu Đậu thế kỉ 14-16 của Bùi Ngọc Tuấn)
  48. Lọ Chu Đậu Lọ Chu Đậu Chén vỏ sò Chu Đậu Hũ Chu Đậu
  49. Lu Chu Đậu Ấm trà Chu Đậu Thứ loại, hình dạng đồ gốm Chu Ðậu thật phong phú: Bát chân cao, bát chân thấp, tô, đĩa, chén, tước, bình, ấm, âu, chậu, lu, hũ, chậu, bát hương, bát trầm, chân đèn, hộp, lọ, bình vôi, nghiên mực, có cả nghiên mực hình con trâu, con cua, rồi lại còn đồ chơi của trẻ em như các hình tượng con gà, con cóc, con lợn, người cưỡi ngựa thôi thì đủ cả, từ các món đồ dùng trong nhà
  50. người dân, trong đình chùa, trong nhà giới trưởng giả, cho đến đồ xuất cảng Nhưng xem đồ gốm Chu Ðậu mà bỏ qua bình tỳ bà thì thật uổng. Ngoài các cuộc khai quật ở các lò gốm cũ ở làng Chu Ðậu, loại bình này thường được tìm thấy từ các tàu buôn đắm ngoài khơi Hội An - Ðà Nẵng. Món này xa lạ với sinh hoạt dân gian Việt Nam. Vậy phải chăng nó chỉ được làm để xuất cảng sang Ả Rập? Người Ả Rập dùng làm gì? Ðây là những câu hỏi thú vị.
  51. Bình tỳ bà Chu Đậu Như tên gọi, bình tỳ bà có hình dáng giống cây đàn tỳ bà để dựng đứng. Mình thuôn tròn, cổ nhỏ, miệng loe, thân tròn phình to, thường có bốn tầng hoa văn, trong lòng miệng bình cũng có hình vẽ hoa lá. Tầng thứ nhất ở chung quanh cổ bình hoặc vẽ những tàu lá chuối hay hình cây lúa; tầng thứ hai khi hình hoa cúc, hoa mẫu đơn, khi thì những chuỗi hình xoắn ốc đứng; tầng thứ ba lớn nhất là hình chim chích choè, chim sẻ hay là những ô vẽ đợt sóng biển, bên cạnh những ô vẽ hình hoa lá; tầng dưới cùng là các ô với những vòng tròn hình bầu dục chồng lên nhau. Bình tỳ bà to nhỏ khác nhau, nhưng đa số thường có đường kính đáy độ 9cm, chỗ to nhất ở thân bình
  52. phình ra vào khoảng 14cm, đường kính ở cổ bình là 4cm, và ở vành miệng loe là 8cm, bình cao khoảng 30, 32cm. Tước (hay bôi), là ly uống rượu chân cao. Ngoài những tước men ngọc, màu xanh trong, còn có những sáng kiến kỳ diệu như tước thần kim quy. Ẩn trong chân tước này là một quả nổi để lộ hình rùa thần kim quy ngồi dưới đáy, khi rượu được rót vào, thì hình thần kim quy từ từ nổi lên theo mực rượu trong lòng tước.
  53. Đĩa Chu Đậu Ðĩa Chu Ðậu rất đẹp, men trắng trong với hoa văn màu chàm. Có những đĩa tam thái rất lớn, đường kính đến khoảng 50cm, nhưng thường thường thì vào khoảng hơn 25cm đường kính. Hoa văn trong lòng đĩa thường gồm hai phần. Vành đĩa rộng 5cm, vẽ cành rau, nhánh lá, tâm đĩa vẽ nhiều hình rất đẹp: Hình con công, con vạc, con nghê, cá chép vượt vũ môn, hươu chạy trên đồng cỏ, bên khóm trúc, bờ lúa, đôi chích chòe, đàn vịt bơi trên hồ sen, trận thủy chiến, cành mai, đóa cúc, đóa mẫu đơn đường kính độ 15cm. Vành ngoài thành đĩa cũng vẽ những hình hoa lá rất chi tiết, hoa văn màu xanh chàm, đĩa lớn thường là men ba màu (Tam Thái). Cùng với bình tỳ bà
  54. và bát Chu Ðậu, đĩa Chu Ðậu là những món đẹp và nổi tiếng, được rất nhiều viện bảo tàng và nhà sưu tập quốc tế ưa chuộng. Tiếc thay, cũng chính vì thế mà không còn bao nhiêu món đẹp trong tay người Việt. Hoa văn chích choè Bát Chu Đậu trong một bát Chu Đậu Bát Chu Ðậu cũng thường là men trắng chàm, đường kính ở miệng bát từ 14 đến
  55. 16cm, cao từ 8 đến 10cm. Nhiều loại hoa văn khác nhau. Khi thì chim sẻ đậu trên cành mai, khi thì đóa cúc, đóa mẫu đơn, khi thì lại là khóm phong lan trong lòng bát. Vành trong của bát cũng vẽ những vòng tròn hoa lá. Hoa văn ở mặt ngoài bát thường gồm hai tầng, phía trên là một vành hoa mai, hoa cúc cao khoảng hơn 3cm, tầng dưới, khoảng 4cm, là những ô có hình các vòng xoắn ốc tiêu biểu của gốm Chu Ðậu. Trên vành ngoài miệng bát cũng có những vòng đồng tâm. Trôn bát không có men đã đành, vành miệng bát cũng thường không có men. Tại sao? Bởi vì nếu hai món đồ tráng men mà để chạm nhau trong lò, khi nung chín, các món này sẽ dính chặt vào nhau, không còn dùng được nữa. Ngoài việc dùng con kê (Vòng tròn bằng đất mộc để giữa các bát đĩa cho khỏi dính
  56. vào nhau, người ta còn chừa vành bát đĩa, trôn bát đĩa trơn, không tráng men. Khi xếp vào lò nung, cứ lần lượt, miệng cái xấp úp vào miệng cái ngửa, trôn cái ngửa đặt lên trôn cái xấp, thế là chồng được vài ba tầng mà không bị hỏng. Ngoài ra, ta còn những bát có vành men cạo ở giữa đáy bát, với đường kính to bằng trôn bát. Ðây cũng là một kỹ thuật tuy kém tinh vi nhưng lại thực dụng vì khi xếp chồng các bát chén này để nung, chúng không bị dính vào nhau. Trong gốm Chu Ðậu, có một món đồ kỳ thú, hình dáng nửa đĩa nửa bát, đường kính miệng độ 11cm, đường kính đáy độ 7cm, cái thấp thì cao gần 4cm, cái cao vào khoảng hơn 6cm. Dùng làm bát thì trẹt quá, dùng làm đĩa thì nhỏ quá mà chân lại cao. Chân chén là hoa văn hình tròn đồng tâm,
  57. hay là những đám mây bay, vành ngoài, vành trong là những vòng hoa lá, tâm chén thường có một chữ Hán (chữ Phúc, chữ Chính, chữ Trung, chữ Ngọc, chữ Kim ). Nhiều chén loại này cũng có vành men cạo. Những món này không thấy có trong đồ gốm đời Lý Trần, mà cũng không thấy trong đời sống người Việt. Tới chừng thấy người Ả Rập bây giờ dùng một thứ tương tự để uống trà, ta mới hay đây là đồ dùng chỉ để xuất cảng.
  58. Hộp Chu Đậu Cũng làm để xuất cảng sang Ả Rập là các hộp phấn và lọ nước hoa. Hộp phấn tròn, đáy hộp cao 4cm, nắp hộp cao gần 2cm, chỗ phình lớn nhất khoảng 6cm, cũng men trắng trong hoa văn màu chàm, thân hộp thường để trắng, nắp hộp vẽ cảnh dòng sông, lâu đài hay đóa sen, bông cúc. Lọ nhỏ cũng cao khoảng 6cm, miệng gần 2cm, chỗ phình lớn nhất khoảng hơn 6cm đường kính. Hoa văn trên lọ bao giờ cũng nhiều hơn hoa văn vẽ trên nắp hộp. Vành miệng thường là hoa sen, thân lọ là cành hoa, nhành lá rất mỹ thuật. Ngoài những loại men trắng chàm này, đôi khi ta cũng thấy những hộp lớn hơn, mà thấp. Ðường kính của các hộp này vào khoảng 10–12cm, cao độ 4cm. Có cái không hoa văn, nắp khắc nổi hình vỏ sò, hay bông sen. Có những
  59. hộp lớn mà cả nắp lẫn thân hộp cũng có những hoa văn như trên các bát đĩa Chu Ðậu khác. Thảng hoặc ta thấy một loại đĩa nhỏ độ 4, 5cm, có chân, trong lòng không tráng men, nhưng lại có hoa văn rất dày chạm bằng mũi nhọn làm cho lòng đĩa nhám. Loại này được coi là một thứ đế kê các chén nhỏ. Nhưng thật ra, đây là đĩa của phụ nữ thời xưa dùng mài phấn bôi mặt. Phấn thời đó được làm thành từng thỏi, khi đánh phấn người ta mài phấn vào trong lòng nhám của đĩa. Ngoài ra còn có rất nhiều hồ rượu hoa văn trắng chàm và hoa văn tam thái. Lại có các hồ rượu hình chim vẹt hình con gà, các chén uống trà có quai cầm là chim vẹt. Lư hương và chân đèn thời Chu Ðậu lớn và đẹp vô cùng. Có những chân đèn cao 70,
  60. 80cm, lư hương cao 35, 40cm. Một số lớn có ký tên người làm và đề rõ năm tháng, như vợ chồng Ðặng Huyền Thông - Nguyễn Thị Ðỉnh, vợ chồng Ðỗ Xuân Vi - Lê Thị Ngọc, vợ chồng Bùi Duệ - Lê Thị Cận, Ðặng Hữu, Ðặng Tính Không, rồi bà họ Ðỗ ở Phủ Quốc Oai, bà họ Bùi ở Phủ Nam Sách Chân đèn gồm hai phần chồng lên nhau, chỗ cắm nến rất lớn, đắp nổi hình rồng bốn móng. chứng tỏ đây là đồ dùng trong chùa. Năm tháng đề trên các món này tỏ rõ một giai đoạn lịch sử. Hải Dương là đất tổ của dòng họ Mạc. Những món đã làm khi nhà Mạc chưa lên (1527) thì đề niên hiệu vua Lê. Khi nước ta chia hai thành Bắc Triều (nhà Mạc) và Nam Triều (nhà Lê) thì các niên hiệu trên những món đồ gốm này là niên hiệu của nhà Mạc chứ không phải là niên hiệu nhà Lê nữa. [2]
  61. Chân đèn cũng vẫn là men trắng hoa văn màu chàm, thường gồm năm tầng, dưới cùng là vành hoa sen, có khi đắp nổi hình những bông cúc, rồi đến thân của chân đèn là hai tầng lớn, tầng dưới là những hoa cúc, tầng trên là hình rồng uốn quanh, đắp nổi bằng đất mộc. Ðây vẫn là con rồng Việt Nam: mình nhỏ dài, uyển chuyển, vẩy láng, râu dài, mặt hiền chứ không phải con rồng Tàu của đời Nguyễn sau này (mà buồn thay ta vẫn thấy người Việt bây giờ vẽ). Lư hương rất đẹp, nhiều cái hình tròn, rồi hình chữ nhật, hoa văn nhiều hình chạm, hình đắp nổi hoa sen, hoa cúc và những biểu tượng Phật giáo. Trở ngược dòng lịch sử, chúng ta cần cải chính một hiểu biết sai lầm rất lớn về văn minh Việt Nam: đó là ảnh hưởng Trung
  62. Hoa. Qua Nho học, qua những năm Bắc Thuộc, tất nhiên ta có tiếp nhận những nét đại cương của văn minh Trung Hoa. Tuy nhiên, phần lớn những ảnh hưởng này chỉ ở trong giới quan lại, trưởng giả mà thôi. Còn quần chúng Việt Nam vẫn giữ nguyên văn minh Việt. Một ngàn năm Bắc thuộc, ông cha ta vẫn còn giữ nguyên được tiếng nói dân tộc. Một điểm rõ ràng là trong khi ở Trung Hoa, cho mãi đến thế kỷ 20, khi Tôn Dật Tiên thành công trong việc tiêu diệt chế độ quân chủ, thì trên pháp luật, quyền của người phụ nữ Trung Hoa mới được công nhận. Trước đó họ không có quyền làm chủ cơ sở thương mại, kỹ nghệ, không được làm chủ đất. Nếu chồng chết đi mà chưa có con trai thì gia tài thuộc về các em trai nhà chồng, chứ họ không được thừa hưởng. Trong khi đó ở nước ta, bộ
  63. luật Hồng Ðức của vua Lê Thánh Tông đã cho người đàn bà được làm chủ ruộng đất, hiệu buôn Rồi ta thấy, Ðặng Huyền Thông và Nguyễn Thị Ðỉnh ký tên chung trên các món đồ họ làm; bà họ Bùi, bà họ Ðỗ cũng tự ký tên mình trên các chân hương, chân đèn; tên các bà sãi Nguyễn Thị Liên, Vũ Thị Dương cũng được viết lên các món họ đặt cho chùa Việc coi trọng phụ nữ ở Việt Nam không phải đến đời Lê mới có. Từ thời thượng cổ, qua thời Hán thuộc, mặc cho người Tàu, mặc Tích Quang, mặc Nhâm Diên, người Việt vẫn cứ coi trọng người đàn bà, người mẹ. Bà Trưng, Bà Triệu dấy binh, cầm quân cầm tướng, có ai bảo là không được đâu? Mấy ông anh hùng bên Tàu bên Nhật tìm đỏ mắt cũng không bao giờ có những trang sử oanh liệt như thế. Rồi hãy đọc vài câu
  64. ca dao như: Mẹ em tham thúng xôi vò – Tham con lợn béo tham vò rượu tăm . Bố đâu rồi, sao mẹ lại quyết định một mình, quyết định tối hậu như thế? Bởi vì người đàn bà Việt mới thực sự là người cầm cân nảy mực cho các sinh hoạt trong gia đình. Vì thế mà những ông Tú Xương tha hồ rong chơi, khi các bà Tú Xương đã lo toan tất cả mọi thứ, từ tiền nuôi con, từ tiền cho chồng uống rượu, cho đến tiền chồng đi hát cô đầu Khởi suốt những ngàn năm lịch sử phát triển dân tộc, đến Chu Ðậu, đồ gốm Việt Nam trở nên những món hàng được ưa chuộng từ trong nước đến ngoài thị trường quốc tế. Nào xuất cảng sang Nhật Bản, Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai, Thái Lan cho đến những nước Ả Rập xa xôi. Lại
  65. cũng được ưa chuộng, lưu giữ trong các nhà quý tộc Âu Châu. Năm 1590, Duke of Florence (tạm dịch: Công tước tỉnh Florence) đã tặng cho Prince-Elector of Saxony (tạm dịch: Hoàng thân vùng Saxony) một bình Chu Ðậu men trắng hoa lam hình tròn, đường kính 25cm, vẽ hoa sen và hoa mẫu đơn. Bình này hiện được chưng trong viện bảo tàng Johannaun ở Thụy Ðiển. Người Nhật rất hãnh diện về Trà đạo của họ, nhưng ít người Việt biết rằng Trà đạo chỉ mới xuất hiện ở Nhật Bản từ thế kỷ 16. [3] Vào thời đó, họ chưa biết làm đồ gốm. Các ấm, bát uống trà của Trà đạo Nhật chính là những món đồ gốm Chu Ðậu nhập cảng từ Việt Nam qua. Những tổ sư của Trà đạo Nhật Bản quý chuộng đồ Chu Ðậu hơn đồ Trung Hoa và Ðại Hàn. Thời đó, chỉ có những gia đình quý tộc,
  66. những tổ sư Trà đạo danh tiếng như Takeno Joo (1502-1555), Sen No Rikyu (1522-1591), Toyotomi Hideyoshi (1537- 1598) Tokugawa Ieyasu (1542-1616) mới sắm nổi đồ Chu Ðậu, mà ngày nay con cháu họ vẫn giữ làm của gia bảo là vài ví dụ điển hình. Vậy thì tại sao làng Chu Ðậu không còn ai biết làm những món đó nữa? Tại sao hai chú cháu họ Vương dời qua Bát Tràng (Hà Nội) cũng không làm được những thứ đồ tuyệt vời này? Người ta cho rằng vào thế kỷ 17, sau khi vua nhà Minh bỏ lệnh cấm người Tàu buôn bán với nước ngoài, các đồ gốm Việt Nam đã không cạnh tranh nổi và tàn lụi. Chúng tôi bác bỏ giả thuyết này. Bởi cứ xem
  67. những món đồ Chu Ðậu trong các viện bảo tàng ở Châu Âu, trong các bộ sưu tập lừng danh, thì đồ gốm ta và đồ gốm Tàu chưa chắc ai đã hơn được ai. Trên trường thương mãi, không ai có thể trong một lúc mà đột ngột mất trọn tất cả thị trường vốn lớn mạnh của mình như thế được. Vả lại, mất thị trường Ả Rập, thị trường Á Châu Thái Bình Dương, thì vẫn còn thị trường nội địa. Ðình chùa vẫn cần lư hương, chân đèn, người dân vẫn cần bát đĩa. Không làm nhiều thì làm ít, lẽ đâu cả làng phải đổi sang nghề dệt chiếu. Lẽ đâu cả phủ Nam Sách chỉ còn người làm nồi đất không men. Lẽ đâu khi chú cháu Vương Quốc Doanh dời về Bát Tràng lại không tiếp tục làm được đồ gốm đẹp như lúc còn ở Chu Ðậu. [4]
  68. Nhìn vào những năm tháng cuối cùng của thế kỷ 16, chúng tôi nghĩ rằng: Ðồ gốm Chu Ðậu bị bức tử. Kẻ bức tử đồ gốm Chu Ðậu là Trịnh Tùng, người thắng cuộc tranh giành quyền lực với nhà Mạc. Khi viết 13 chữ “Thái Hòa bát niên, Nam Sách phủ ” lên cái bình Tokapi Saray, bà nghệ sĩ họ Bùi ấy đã cho ta biết đó là năm 1450, đời vua Lê Nhân Tông. [5] Ðến khi vợ chồng Ðặng Huyền Thông - Lê Thị Ðỉnh làm những bình hương, những chân đèn (và tất nhiên là nhiều bình, ấm, đĩa, bát tuyệt vời khác), ta thấy niên hiệu của nhà Lê (Nam triều) không còn được họ dùng nữa, mà thay vào đó là niên hiệu của nhà Mạc (Bắc triều), như Diên Thành tam niên của Mạc Mậu Hợp [6] , Diên Thành thứ năm [7] , Hưng Trị tam niên [8]
  69. Tỉnh Hải Dương với nhiều sông nước bao quanh như các sông Thái Bình, sông Thương, sông Luộc, sông Kinh Thầy, sông Kẻ Sặt, sông Ðò Ðáy lại cũng không xa sông Hồng; Hải Dương là quê hương của dòng họ Mạc. Hải Dương nằm giữa vùng đồng bằng và vùng cao nguyên, giữa Hà Nội và Hải Phòng, đã từng là nơi có giá trị chiến thuật rất cao. Nào Ðông Triều (nơi nhà Trần dùng làm cứ địa khi chống quân Nguyên), nào Bãi Sậy (căn cứ của Hoàng Hoa Thám chống Pháp), nào Cổ Am (nơi Quốc dân Ðảng của Nguyễn Thái Học từng chống nhau kịch liệt với quân đội Pháp) Từ đây tiến đánh Thăng Long cũng dễ, rút về núi rừng Lạng Sơn, Bắc Giang, Thái Nguyên hay về vùng bờ biển Hải Phòng, Thái Bình lại rất tiện. Thương mãi và nông
  70. nghiệp nơi đây luôn phồn thịnh với sông nước, hàng hóa được chở thẳng lên Thăng Long hay xuôi xuống Phố Hiến (để xuất cảng) vừa tiện, vừa gần. Trong Ðại Việt sử ký toàn thư, từ bản khắc in năm 1697, các sử thần đời trước đã cho ta rất nhiều chi tiết về giai đoạn máu lửa thảm khốc ấy. Từ năm 1504 nhà Lê chỉ còn những ông vua trẻ tuổi, bất tài, hoang dâm, tàn ác, kể từ Lê Uy Mục (vua quỷ) Lê Tương Dực (vua lợn) Xã hội suy đồi, loạn lạc, giặc giã triền miên, dân tình nghèo đói. Mạc Ðăng Dung được coi là kẻ có thể ổn định trật tự xã hội, phát triển đất nước, được phần lớn
  71. triều đình và dân chúng hướng theo. Mạc Ðăng Dung chiếm ngôi của nhà Lê năm 1527. Trong số người không theo họ Mạc có Ðiện tiền Tướng quân Nguyễn Kim. Nguyễn Kim bỏ sang Lào nương náu, tìm cách chống lại họ Mạc. Mãi gần mười năm sau, năm 1533, Nguyễn Kim mới tìm được người con út của Chiêu Tông là Lê Duy Ninh, Kim lập Duy Ninh lên làm vua là Trang Tông, đóng ở Sầm Châu bên Lào, mưu việc khôi phục nhà Lê. Năm 1543, Nguyễn Kim đưa được Lê Trang Tông về Tây Kinh (Thanh Hóa). Ðến năm 1545 Nguyễn Kim bị nhà Mạc cho người đánh thuốc độc chết, binh quyền về tay con rể là
  72. Trịnh Kiểm. Nước ta chia làm hai phần, Nam Triều ở Tây Kinh của nhà Lê-Trịnh, Bắc Triều ở Ðông Kinh của nhà Mạc. Hai bên đánh nhau rất nhiều lần, suốt từ năm 1533 đến hết thế kỷ 16. Mạc Ðăng Dung lên ngôi năm 1527, truyền qua các đời vua Mạc Ðăng Doanh, Mạc Phúc Hải, Mạc Phúc Nguyên; Rồi Mạc Mậu Hợp lên nối ngôi vào năm 1561. Lúc này binh quyền của Nam Triều (nhà Lê) thuôc trọn tay Trịnh Tùng. Từ năm 1533 đến năm 1623, nhà Mạc và nhà Trịnh (dưới chiêu bài phù Lê) đánh nhau không ngừng. Lúc đầu chiến trận xảy ra ở vùng Thanh Hóa, Nghệ An, nơi vua Lê và chúa Trịnh đồn trú, nhưng
  73. kể từ năm 1587, Trịnh Tùng bắt đầu đem quân ra đánh vào sâu hơn trong lãnh thổ nhà Mạc. Trịnh Tùng chiếm được Thăng Long năm 1591, Mạc Mậu Hợp rút về Hải Dương. Vì địa thế chiến lược quan trọng, phủ Nam Sách tỉnh Hải Dương trở nên chiến trường đẫm máu giữa Trịnh Tùng và nhà Mạc suốt từ năm 1533 đến 1623. Chỉ kể riêng từ năm 1592 đến năm 1601, đã có đến 12 trận đánh đẫm máu ở nơi đây. Cứ hễ quân chúa Trịnh đuổi được nhà Mạc, rồi rút đại quân đi thì dân địa phương lại nổi lên theo nhà Mạc để chống lại chúa Trịnh. Mỗi lần quay lại chiếm Hải Dương, quan quân họ Trịnh lại trả thù, tàn sát dân cư không tiếc tay, lần nào cũng giết cả ngàn người. Cùng
  74. với những người theo họ Mạc, các dòng họ chuyên về gốm Chu Ðậu bị quan quân nhà Trịnh thanh toán hết cả. Vì thế chúng tôi cho rằng Trịnh Tùng đã bức tử đồ gốm Chu Ðậu trong những lần ông cho quan binh tàn sát dân vùng Nam Sách để trả thù việc họ đã dám theo vua quan nhà Mạc. Nói như thế có người sẽ vặn lại rằng: Chẳng lẽ suốt từ thế kỷ 17 đến bây giờ chúng ta không làm đồ gốm sao? Thế còn Bát Tràng, Thọ Xương, Thanh Hóa, Biên Hòa, Bình Dương, còn biết bao nơi làm bát đĩa nồi niêu khác? Chẳng lẽ người Việt không còn dùng đồ gốm nữa sao?
  75. Ông cha chúng ta vẫn còn tiếp tục làm đồ gốm để dùng hàng ngày. Tuy nhiên, nền nghệ thuật và kỹ thuật cao của đồ gốm Việt Nam từ các thế kỷ trước, từ đời Lý, đời Trần, đời Lê, và phát triển đến mức tột đỉnh để kết tinh vào đồ gốm Chu Ðậu đã biến mất. Còn lại chỉ là những lò gốm sản xuất các món đồ tầm thường, có hay không có tráng men (đồ sành). Từ thời các chúa Trịnh, từ các đời vua nhà Nguyễn, triều đình, quan lại và cả dân gian đã dùng những món đồ đặt làm đồ hay mua từ các lò gốm Trung Hoa, đã nhập cảng các món đồ sứ từ Anh Quốc [9] , và sau này là từ Nhật Bản. Nền kỹ thuật đồ gốm ở Bình Dương, ở Biên Hòa sản xuất ra những món chúng ta vẫn dùng hàng ngày, nhưng đó là loại đồ gốm mà những người Tàu
  76. dưới sự lãnh đạo của Trần Thắng Tài và Dương Ngạn Ðịch sang nước ta tỵ nạn, khi quê hương của họ bị người Mãn Châu chiếm năm 1644 khai lập, chứ không phải là sự tiếp nối nghệ thuật và kỹ thuật của đồ gốm dân tộc nữa. Dân số của tỉnh Hải Dương, của phủ Nam Sách thời ấy được bao nhiêu? Bao nhiêu người là những tay có học và có tài làm đồ gốm như gia đình họ Ðặng, họ Bùi, họ Ðỗ, họ Vương ? Cuộc chiến đã làm xáo trộn nếp sinh hoạt nghệ thuật, kỹ thuật và thương mãi của họ như thế nào? Tuy nhiên dù loạn lạc, binh đao dài lâu hay đau thương thế nào, sau khi chúa Trịnh đã toàn thắng, những người làm đồ gốm cũng sản xuất trở lại những món đồ theo sự truyền dạy của ông cha chứ? Thế nhưng cả làng
  77. Chu Ðậu quay ra dệt chiếu, cả phủ Nam Sách chỉ còn đôi ba chỗ làm nồi đất niêu đất không men, dân vùng đó không còn gia phả, ký ức gì về thời cha ông họ là những nghệ nhân tuyệt vời của đồ gốm Việt! Ruộng vườn đã vùi lấp dấu tích của các lò gốm xưa. Trong dân cư Nam Sách làm nghề dệt chiếu sau này, có bao nhiêu phần là người các nơi khác đến cư ngụ sau khi quan quân nhà Trịnh đã bách hại dân địa phương, và vì thế không có liên hệ gì đến nghệ thuật gốm Chu Ðậu? Bảo rằng vì vào cuối thế kỷ 16 vua nhà Minh bỏ lệnh cấm người Tàu buôn bán với nước ngoài [10] , cho nên đồ gốm ta bị mất thị trường và tàn lụi, là một lập luận sai và yếu. Bởi vì các món đồ gốm Chu Ðậu lưu giữ ở Âu Châu và ở Ả Rập có phẩm chất
  78. rất cao, men rất trắng, rất mịn, hoa văn rất linh động, sắc sảo,người ta đã từng nhìn lầm ra là đồ Trung Hoa. Ðồ gốm Chu Ðậu vốn rất được ưa chuộng ở thị trường Nhật Bản, thị trường Ðông Nam Á, và thị trường Ả Rập. Không ai có thể mất trọn vẹn tất cả các thị trường một cách đột ngột như thế được. Vả lại chúng ta vẫn còn thị trường quốc nội nữa chứ, tại sao lại hoàn toàn ngưng không làm các món đồ men trắng hoa văn mầu lam vốn rất được ưa chuộng này nữa? Thiên tai, lụt lội chăng? Ðại Việt sử ký toàn thư thường kê rõ những năm tháng có lụt lột, thiên tai, mất mùa, nhưng không hề nói gì để cho ta có thể suy ra rằng dân Hải Dương thời ấy bị thiệt hại nặng vì thiên tai. Hay là đất sét trắng (kaolin) ở nơi đây đã cạn, nên đồ gốm tuyệt chủng? Không thể như thế được,
  79. bởi vì ngoài các mỏ kaolin địa phương như ở bờ sông Kinh Thầy, ở Trúc Thôn, Hoàng Thạch gốm Chu Ðậu còn làm bằng đất mua từ Hố Lao, Ðông Triều (cách đó 30km đường sông), mà những nơi này hiện nay vẫn còn được khai thác. Ðích thực Trịnh Tùng đã bức tử đồ gốm Chu Ðậu trong những lần ông cho quan binh tàn sát dân vùng Nam Sách để trả thù việc họ đã dám theo vua quan nhà Mạc. Chắc rằng khi Trịnh Tùng giết những người dân vùng Hải Dương chống ông, ông đã giết đi hết những người làm đồ gốm men trắng chàm này của văn hóa Việt Nam. Việc người thắng bạo hành, tru diệt tàn dư của kẻ bại vẫn là những chuyện xảy ra thường xuyên trong lịch sử nước nhà. Chắc rằng cuộc tàn sát phải ghê gớm và
  80. toàn vẹn lắm, cho nên chẳng còn ai sống sót mà trốn đi mang nghề nghiệp ông cha đến nơi khác làm ăn, hay dù có người thoát đi được nơi khác (như chú cháu nhà họ Vương đến Bát Tràng) thì họ cũng vì sợ lộ tông tích mà không làm, không truyền nghề cũ nữa. Chúng tôi nghĩ rằng đồ gốm nhà Minh nhà Thanh đã không thắng được đồ gốm Việt Nam trên thị trường mà chỉ là điền khuyết vào phần thị trường mà đồ gốm Chu Ðậu đã bỏ trống thôi. Than ôi! Một nền mỹ thuật và kỹ thuật đặc biệt, tuyệt đẹp của ông cha ta đã không còn được tiếp tục phát triển đến những mức độ cao hơn nữa mà lại biến mất rất ngậm ngùi. Năm 1644 người Mãn Châu vào chiếm Trung Hoa, diệt nhà Minh, lập nên nhà
  81. Thanh. Ðồ gốm Trung Hoa cũng theo thời gian mà phát triển rực rỡ. Cái màu xanh lam đục mờ, đã trở thành màu xanh lam sáng biếc, thành nét vẽ thanh thoát trở nên đặc điểm của đồ gốm Trung Hoa. Nơi quê ta, thay vì ông cha ta phát triển rực rỡ được nghệ thuật đồ gốm tuyệt vời của mình song song với họ, thì đau đớn thay, cả nền nghệ thuật ấy bị bức tử, đến nỗi con cháu sau này không còn biết gì về nền nghệ thuật ấy nữa. Ðể rồi sau đó, chính Trịnh Sâm, và triều đình nhà Nguyễn, rồi giới quyền quý, kẻ có tiền phải đặt phải mua bình ấm bát đĩa từ những lò gốm của nhà Thanh bên Tàu! Nào đồ “Nội Phủ”, nào đồ “Khánh Xuân”, nào đồ “Mai Hạc”, đồ “chữ nhật”, đồ “Ngoạn Ngọc”, đồ “Trân Ngọc”, đồ “Nhã Ngọc” Mà lúc ấy đồ gốm Việt Nam đã chết tức tưởi rồi! Và sau đó, từ
  82. một xã hội không biết làm đồ gốm, Nhật Bản đã học, đã phát triển mạnh và trở nên bá chủ của thị trường đồ sứ trên toàn thế giới. Ôi! Tại sao lịch sử lại khắc nghiệt với người Việt Nam như thế! Tranh bá đồ vương, chiến tranh đã bao năm, đã bao lần làm cho sức sống dân tộc thui chột, làm cho nền văn hóa tuyệt vời của người Việt bị mất đi những cơ hội tiếp tục đơm hoa kết trái, khoe mặt, khoe tài cùng bốn biển năm châu, và có thể trở nên một cường quốc kinh tế, thương mãi, văn hóa, nghệ thuật Ôi! Sự giành giựt triều đình, giành giựt quyền lực của những kẻ tham tàn mù quáng đã làm cho nước ta trở nên một xã hội nhược tiểu chậm tiến về nhiều mặt. Chúng tôi lại nghĩ thêm rằng, ngày nay, nếu
  83. chúng ta không nghiên cứu, không tìm hiểu và không phổ biến văn hóa thuần Việt, nếu chúng ta cứ tiếp tục xưng tụng những sai lầm, thiếu sót về lịch sử, về văn hóa ông cha, chúng ta cũng đã vô tình góp phần hủy diệt di sản văn hóa thuần Việt, như họ Trịnh đã lầm lỗi trước đây vậy. Sách tham khảo 1. Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, Trung tâm Học liệu Bộ Giáo dục, Sài Gòn 1971. 2. Khảo về đồ sứ cổ men lam Huế, Vương Hồng Sển, viết xong 1972, xuất bản năm 1993. 3. Khảo về đồ sứ men lam Huế, Vương
  84. Hồng Sển, viết xong 1975, xuất bản năm 1994. 4. Mỹ thuật cổ truyền Việt Nam, Nguyễn Khắc Ngữ, Tủ sách Nghiên cứu Sử Ðịa, Montreal, Canada 1981. 5. Ðại Việt sử ký toàn thư - nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, dịch theo bản khắc in năm 1697, Hà Nội 1998. 6. Gốm Chu Ðậu, Tăng Bá Hoành. Bảo tàng tỉnh Hải Dương, Kinh Books xuất bản, Việt Nam 1999. 7. Vietnamese Ceramics, A Separate Tradition, John Stevenson & John Guy, nhà xuất bản Art Media Resources và Avery Press, Chicago 1997. 8. Gốm Bát Tràng, Phan Huy Lê, Nguyễn Ðình Chiến, Nguyễn Quang Ngọc, nhà xuất bản Thế Giới, Hà Nội
  85. 1995. 9. Hán Việt tự điển, Thiều Chửu, nhà xuất bản Ðuốc Tuệ, Hà Nội 1942. [1] Trong Mỹ thuật cổ truyền Việt Nam, nhà sử học Nguyễn Khắc Ngữ viết rằng thuyết Bách Việt không chính xác, vì các nước Việt ấy “chỉ có sau khi nước Việt của Câu Tiễn bị nước Sở thôn tính, người Việt chạy xuống phương Nam, lập thành nhiều bộ lạc người Việt, tức là từ thế kỷ VI về sau”. [2] Một chân đèn ghi rõ: Hưng Trị tam niên, nhị nguyệt tạo, Nam Sách phủ, Thanh Lâm huyện, Hùng Thắng xã, Ðặng Huyền Thông thê Nguyễn Thị Ðỉnh - nghĩa là Ðặng Huyền Thông cùng vợ là Nguyễn Thị Ðỉnh quê tại xã Hùng Thắng, huyện Thanh
  86. Lâm, phủ Nam Sách tạo vào tháng 2 năm Hưng Trị thứ ba (1590). [3] Từ thế kỷ 12, người Nhật bắt đầu uống “mạt trà”. Trà tán nhỏ ra như bột, pha vào nước sôi. Mạt trà được nhập cảng từ bên Tàu qua, lúc đầu chỉ được coi là một thứ thuốc (tiên dược) có khả năng giải bệnh hơn là giải khát. Trà được dùng ở triều đình Nhật từ thời nhà Tống bên Tàu, nhưng đến thế kỷ 14, trà mới bắt đầu trở nên phổ thông, nhưng chén bát uống trà còn lộn xộn, hoàn toàn khác nhau, tùy theo ý người uống. Trà xanh (green tea) được dùng khi “Trà đạo” (Chanoyu) được khởi xướng bởi Murata Juko (1452 – 1502). Sau đó Takkeno-Jo O (1502 – 1555) và Thiền sư Sen Rikyo mới dọn xếp tất cả lại thành trà đạo trong phong tục, văn hóa Nhật. [4] Làng Bát Tràng nằm bên bờ sông Hồng,
  87. ngày nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội. Mỹ thuật đồ gốm Bát Tràng phát triển gần như song song với gốm Chu Ðậu. Có những bình hương, chân đèn ghi niên hiệu nhà Mạc (như Diên Thành, Hưng Trị, Ðoan Thái), cũng có những món ghi niên hiệu nhà Hậu Lê, làm vào thế kỷ 17 (sau khi nhà Mạc đã bi diệt) như Vĩnh Tộ thứ 7 (1625), Cảnh Trị, Chính Hòa (1688), Vĩnh Hựu thứ 2 (1736) và nhà Nguyễn (Gia Long 1802-1819). Tuy nhiên trong những món còn sưu tập, lưu giữ ở các viện bảo tàng, ta thường chỉ thấy các loại hồ rượu, lư hương, chân đèn, bình vôi, tượng Phật, đỉnh thờ Không hề có dấu vết của các món đặc biệt Chu Ðậu ở Bát Tràng (như bình Tỳ Bà, hộp phấn, lọ nhỏ, chén vỏ sò ) Nước men, màu men và hoa văn của gốm Bát Tràng cũng khác hẳn gốm Chu
  88. Ðậu, và về mỹ thuật còn kém xa. Bát Tràng nổi tiếng về làm gạch. Gạch Bát Tràng có khổ lớn (30cm) dùng để lót sân, lót hành lang [5] Có người đọc niên hiệu của vua Lê Nhân Tông là Ðại Hòa. Theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, thì chữ này có 2 cách đọc, có thể đọc là Ðại mà cũng có thể đọc là Thái. Chúng tôi đọc là Thái Hòa. [6] Năm 1568, nhằm vào năm Quang Hưng thứ ba đời Lê Thế Tông. [7] Năm 1587, nhằm vào năm Quang Hưng thứ mười đời Lê Thế Tông. [8] Năm 1590, nhằm vào năm Quang Hưng thứ mười ba đời Lê Thế Tông. [9] Ðến cả lăng của Kiền Thái Vương (cha vua Ðồng Khánh) còn trang trí bằng những đĩa men lam làm bởi công ty Copeland
  89. and Garrett, nhập cảng từ Anh Quốc. [10] Nhà Minh cấm dân Tàu buôn bán với nước ngoài từ năm 1371 đến năm 1567, nhà Thanh cấm từ năm 1644 đến năm 1684. Giới thiệu đồ gốm cổ truyền Việt Nam Văn hoá của một dân tộc bao gồm bốn khía cạnh: sinh hoạt xã hội (phong tục, tôn giáo) -văn chương (truyền khẩu và văn viết) - nghệ thuật tạo thanh (âm nhạc, ca vũ) - và nghệ thuật tạo hình (hội họa, điêu
  90. khắc, kiến trúc). Những biến động lịch sử trong vòng trăm năm qua đã ngăn trở việc tìm hiểu sâu rộng nền văn hóa phong phú và thuần nhất Việt Nam. Trong vòng hai mươi năm gần đây, nhiều nhà nghiên cứu ở Úc, Tân Gia ba, Nhật Bản, Hương Cảng (như John Guy, John Stevenson, Mimoto Asako, William Willets, Keith Taylor, Barbara Harrisson, bà Kelly Nguyễn Long , và của một số người Việt trong và ngoài nước (Hà Thúc Cần, Đào Duy Từ, Nguyễn Đình Chiến, Phillip Trương, Tăng Bá Hoành ) đã mạnh mẽ vạch rõ rằng văn hóa Việt dù chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, nhưng thật ra lại là một nền văn hoá riêng biệt với những bản sắc khác hẳn Trung Hoa. Nghệ thuật tạo hình của Việt Nam ít được
  91. nghiên cứu; Sách báo khảo cứu về đồ đồng, đồ đá thì còn khá, nhưng về đồ gốm thì không có mấy. Đồ gốm Việt Nam chỉ mới được tìm hiểu nhiều trong vòng mươi, mười lăm năm gần đây. Vì thế, số người Việt - trong và ngoài nước - biết và hiểu điều này còn rất ít, chỉ giới hạn trong số những nhà nghiên cứu hay sưu tập chuyên môn mà thôi. Bài viết ngắn này nhằm mục đích giới thiệu tổng quát một khía cạnh nhỏ của nghệ thuật tạo hình Việt Nam: Đồ gốm cổ truyền. Dân tộc, văn hóa Việt khởi nguồn độc lập và song song với văn hóa dân tộc Trung Hoa. Nền văn hóa Hòa Bình (8,000BC), Bắc Sơn (6,000BC), Phùng Nguyên (2,000BC) và Đông Sơn (1,000BC) đã phát triển rực rỡ từ trước khi có những
  92. giao tiếp giữa hai dân tộc Việt, Hoa. (Nhiều trống đồng khai quật trong vài năm gần đây chỉ rõ nét đặc biệt, thuần Việt, phác họa lên cả một nền văn minh rực rỡ, với kỹ thuật điêu luyện). Cái nôi của văn hoá, dân tộc Việt quy tụ vào bốn vùng chính: (1) Châu thổ sông Hồng: Hoà Bình - Bắc Sơn - Hải Hưng - Vĩnh Phú - Hà Nội; (2) Duyên hải Bắc Việt: Hạ Long - Vân Đồn - Hải Phòng; (3) Thanh Hoá; và (4) Nghệ An - Hà Tĩnh. Trong bốn môi trường văn hóa ấy, đồ gốm Việt Nam thành hình và phát triển rực rỡ. Mỗi vùng, mỗi thời kỳ có những nét đẹp, tùy theo vật liệu, tùy theo kỹ thuật và nghệ thuật riêng. [1] Chúng tôi giới hạn bài viết ngắn này vào những vật tích hiện có trong bộ sưu tầm riêng, cộng thêm sự tham cứu
  93. các sách báo xuất bản trong những năm gần đây. Chúng tôi tin rằng, trong những năm tới, nhiều cuộc khai quật quan trọng sẽ được thực hiện, nhiều vật tích đặc biệt sẽ được tìm thấy, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nền văn hoá dân tộc Việt và cũng sẽ làm thay đổi quan niệm, ý kiến và sự hiểu biết phổ thông hiện nay. Trong những món đồ chúng tôi sưu tập, chỉ có vài món làm từ thời Bắc Thuộc, còn phần lớn là đồ làm từ đời Lý, đời Trần trở về sau (từ thế kỷ 11, 12 tới thế kỷ 15, 16, 17). Chúng tôi cũng sẽ giới thiệu một loại đồ đặc biệt khác là đồ men trắng xanh (thường được gọi qua tên 'Đồ men lam Huế' - hay phổ thông hơn là đồ 'Bleue de Hue') do vua quan Việt Nam họa kiểu riêng, đặt làm bên những lò gốm nổi danh
  94. bên Tàu. Khi sưu tập, hay tìm hiểu về đồ gốm Việt Nam, người ta vẫn lầm tưởng rằng đáng kể chỉ có đồ men lam Huế, bắt đầu từ đồ 'Nội Phủ' - và 'Khánh Xuân' của chúa Trịnh Sâm đặt, rồi tới tô, đĩa chữ nhật của các vua triều Nguyễn, hay đồ 'Mai Hạc' do Nguyễn Du đặt làm khi đi sứ năm 1813. [2] Đồ gốm Việt Nam đẹp, đa dạng, phong phú và giá trị hơn cả là đồ thời Lý-Trần, phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ 11-12, kéo dài đến cuối thế kỷ 16, với một số lượng lớn xuất cảng sang các nước Nam Thái Bình Dương, Nhật Bản, Đại Hàn, qua tận vùng Ả Rập từ thế kỷ thứ 7, mạnh mẽ vào thế kỷ 14-16. Một số đồ gốm Việt Nam đã rất được quý chuộng trong nghi lễ của Trà Đạo Nhật Bản từ cuối thế kỷ 15. [3]
  95. Với tinh thần dân tộc mạnh mẽ, sau khi chấm dứt được một nghìn năm đô hộ của người Tàu, và tinh thần Phật Giáo ảnh hưởng mạnh mẽ suốt từ triều đình ra đến đại chúng, nhà Lý, với quyết tâm phát huy nền văn hoá thuần Việt (vẫn trường tồn qua nghìn năm lệ thuộc Trung Hoa) đã phát triển lên một nghệ thuật tạo hình riêng biệt Việt Nam rực rỡ, phong phú cũng như nền văn hoá Hòa Bình, Bắc Sơn, Đông Sơn trước đó. Người thợ Việt Nam đã tạo nên những dáng kiểu, sắc men và hoa văn rất Việt Nam, thể hiện một tinh thần sáng tạo rất phóng túng và phong phú. Nhiều thử nghiệm về sắc men, dáng kiểu, nhiều hoa văn đẹp lạ không thể thấy được ở văn hoá Trung Hoa vốn nhiều khuôn khổ gò bó.
  96. Nghệ thuật tạo hình đặc sắc này của văn hoá Việt có thể tóm tắt qua các điểm chính: (1) Dáng kiểu, (2) Nước men, (3) Hoa văn và (4) Chất đất. 1. Dáng kiểu a. Tô, chén, đĩa: Tô chén thường có chân khá cao. Nhiều bát nhỏ và đĩa nhỏ có hình con rùa hay cá nổi giữa lòng, khi đổ nước vào ta có cảm giác như nhìn xuống lòng giếng, lòng ao, thấy cá và rùa bơi ở giữa. Đĩa thời Chu Đậu khá lớn, rộng khoảng từ 25 tới 30cm. Đồ 'men lam Huế' có kích thước khá gần với các món đồ dùng hiện nay (đĩa Khánh Xuân Long Lân của Trịnh Sâm rộng 26cm, đĩa Mai hạc của Nguyễn Du, rộng khoảng 17cm ).
  97. b. Lư hương, bát hương, chân đèn: Lư hương khá to, cao khoảng 25 - 40cm. Nhiều chân đèn hai hay ba tầng cao khoảng 75 - 85cm, dùng để cắm nến. Ngoài ra còn nhiều chân đèn dầu hình chim, hình gà. Nhà Lý vốn sùng đạo Phật. Khi dời kinh đô về Thăng Long, ngoài nhu cầu xây cất cung điện còn tạo dựng lên rất nhiều chùa chiền (Lý Công Uẩn vốn dựng nước từ dưới mái tam quan). Tiếc thay, nhà Minh đã phá hủy gần như hoàn toàn các công trình kiến trúc này; phần còn sót lại bị đốt phá năm 1784, bởi loạn Kiêu Binh dưới đời Trịnh Khải. Kế đó, khi lên ngôi, vua Gia Long không muốn Thăng Long lớn hơn kinh thành Huế, nên đã phá đi để xây lại thành mới, nhỏ hơn. Nguyễn Du, người chứng kiến cuộc đổi thay đã than rằng:
  98. thiên niên cự thất thành quan đạo, nhất phiến tân thành một cố cung (Thăng Long) dịch nghĩa: nhà cổ phá đi làm đường phố, thành mới xây trên nền cung xưa. c. Bình, ấm, âu, hũ, bình vôi: Đủ mọi loại, đủ cỡ lớn nhỏ, sản xuất trong nhiều trăm năm. Có nhiều ấm hình chim, hình thú, hay có nhiều ấm mà vòi, quai là hình đầu thú. Có hũ nâu cao đời Lý khắc hình người, hình hoa, có hũ trắng ngà đời Bắc Thuộc vẽ hình voi và người như trên trống đồng Đông Sơn. Một trong loại bình rất Việt Nam là hình một con tôm càng đứng
  99. trên lưng con cá chép, ấm hình con cóc, bình hình quả dưa, lọ hình quả cà d. Hộp trang sức: Hộp nhỏ, thường là hình tròn, để đựng phấn hay dầu trang sức phụ nữ. Những hộp này có lẽ là để xuất cảng sang vùng Ả Rập nhiều hơn là để bán trong nước. Hộp đời Lý thường có màu trắng, trang trí hình hoa hay hình cánh sen nổi, đường kính độ 5, 6 cm. Hộp Lý nâu nhỏ có những nét trang trí mang ảnh hưởng Chiêm Thành. Hộp làm vào thế kỷ 14, 15, 16 thường màu trắng ngà, trơn, trên nắp vẽ hoa, cành màu chàm, hay vẽ hồi văn Những hộp này nhỏ hơn, đường kính độ 3cm tới 6cm. Một số hộp tìm được trong khi khai quật mộ cổ ở Phi Luật Tân, Nam Dương. Một số lớn tìm được trong vài năm gần đây, khi vớt các xác tàu buôn cổ
  100. chìm ở Hội An, Đà Nẵng. Có những hộp màu xám đậm, có hộp hình bí ngô hay hình tròn, nhưng chung quanh chia làm nhiều phần (6 hay 8) trang trí, tạo nên ấn tượng là hộp thật sự có nhiều cạnh. e. Gạch trang trí, ngói: Men trắng xanh, tìm thấy trên tường nhà thờ Hồi Giáo ở Nam Dương và ở mộ cổ ở Phi Luật Tân (cùng các ấm, bình, tô, đĩa Việt Nam). [4] 2. Nước men: Những điểm khác biệt chính giữa nước men của đồ gốm Tàu và đồ gốm Việt là: Nước men Việt thường rất mỏng, men pha loãng, tráng không đều, trong khi đó, nước men Tàu rất dày, bóng và đều khắp. Lò gốm Việt có độ nung thấp, thường
  101. không ngấm sâu vào chất đất nên nhiều vật tích tìm được có những phần đã tróc mất men. (Lò gốm Tàu có độ nung rất cao, men bền). Chân đế và dưới đáy đồ Việt thường được để mộc. Dưới đáy thường được tô một lớp son nâu đậm (điểm không hề thấy trong đồ gốm Trung Hoa). Tước men ngọc đời Lý (Các hình trong bài chụp từ bộ sưu tập của Bùi Ngọc Tuấn) Nước men Việt rạn tự nhiên, rất đẹp. Màu men thay đổi từ trắng ngà sang vàng hồng,
  102. nâu với rất nhiều sắc từ nhạt đến đậm, nâu đen, nâu đỏ, xanh cánh lục biếc, xanh chàm, xanh lam nhạt, xanh lam đậm. Ngoài ra, đồ gốm Việt Nam còn khác đồ Trung Hoa ở các điểm: (1) trong lòng tô hay đĩa thường sót lại các dấu in của con kê (dùng ngăn đĩa, tô chồng lên nhau khi nung) hay (2) trong lòng đĩa, tô khi men còn ướt, trước khi nung, thường bị cạo đi một vòng hình vành khăn để trơ lại đất mộc, và (3) miệng tô, đĩa cũng thường để mộc, không men. Đây là những cách đơn giản, để tránh cho các món đồ không bị dính chặt vào nhau khi nung. Ngược lại, người thợ Trung Hoa không bao giờ để trơ đất mộc ở chỗ nào, họ rất tỉ mỉ trong việc pha men, tráng men và xếp nung. Họ muốn món đồ được toàn hảo. Người thợ Việt thường chú trọng đến vẻ đẹp giản dị, tự nhiên, không bận
  103. tâm đến những tiểu tiết gò bó. Men lam Huế, Đọi (tô) chữ nhật của vua Tự Đức, có bài thơ ‘Một thức nước in trời’ Một loại đồ gốm Việt Nam cần được nhắc tới là 'men Thanh Hóa'. Đây là một nước men được các nhà nghiên cứu ngoại quốc viết về khá nhiều, vì so với những loại, khác men Thanh Hóa dày, đều và đẹp, nước rạn nhỏ, chứng tỏ rằng người thợ Việt Nam ở Thanh Hóa trong thời kỳ này
  104. đã sử dụng một kỹ thuật rất cao trong việc chọn, pha tráng và nung men. 3. Hoa văn: Hoa văn thường được vẽ bằng sáu kỹ thuật chính: a. Dùng khuôn mẫu in rập lên đồ mới nặn cho hoa văn in lên (nổi hay chìm) trước khi tráng men và nung (gọi là ám họa). b. Dùng bút vẽ lên mặt đồ đã khô, trước khi tráng men và nung. c. Tráng men màu nhạt, dùng dao nhỏ hay mảnh tre cạo bỏ men theo hình định trước, rồi dùng men màu đậm vẽ trong chỗ đã cạo, nhưng lại để chừa nét viền không men.
  105. d. Ngược lại với cách trên. Tráng men màu nâu đậm lên toàn bình hay ấm, rồi dùng mảnh tre cạo theo hình định sẵn, tạo nên hoa văn màu nhạt, không men trên nền men nâu đậm. e. Tráng men màu nhạt rồi nhỏ vài giọt men màu khác lên một hay vài chỗ, để cho giọt men này chảy tự nhiên. f. Tráng men xong rồi nhỏ những giọt nước lên, hay tạt nước vào để nước làm men chảy loang, tạo nên những hình tự nhiên. c, d, e và f là bốn kỹ thuật thuần Việt. Đồ gốm Trung Hoa không bao giờ được trang trí bằng cách này. 4. Chất đất: Đồ gốm Việt Nam dưới thời
  106. Bắc Thuộc (Nhà Hán) thường làm bằng đất sét, pha cát và vỏ sò hến nghiền nát. Sang đời Lý, nhiều món đồ không còn pha cát nữa, chất đất mịn hơn. Đồ Chu Đậu làm bằng kaolin trắng mịn. Đồ men ngọc (Celadon) đời Lý cũng khác đồ men ngọc Tàu ở chỗ chất đất không pha bột đá, đồ dày hơn, men mỏng, gõ vào tiếng kêu không thanh và không ngân lâu bằng. Để phân biệt một cách tổng quát, ta có thể tạm xếp đồ gốm Việt Nam làm các loại đồ chính như sau: 1. Đồ thời Hoà Bình, Bắc Sơn, Đông Sơn Không tráng men, nặn bằng tay với hình trang trí tạo nên do dây thừng và khuôn giỏ
  107. đan ấn lên, hay dùng mũi dao, mũi tre khắc những hình trang trí đặc biệt của văn hoá Việt thời này (hình kỷ hà như thường thấy trên trống đồng gọi là 'hồi văn', nhưng đơn giản hơn), làm bằng đất sét pha cát và vỏ sò hến nghiền nhỏ. Hình dạng thuần Việt hiện rõ ràng. Ðồ gốm Trung Hoa không làm hình voi hay vẽ hình voi. Ngược lại, ấm hình thú, ấm đầu voi, ấm vòi voi rất thường thấy trong đồ gốm Việt. [5] 2. Đồ thời Bắc Thuộc Bàn xoay bắt đầu được dùng nhiều, dáng kiểu, hoa văn và nước men có ảnh hưởng đồ nhà Hán, pha trộn những nét Việt của văn hoá Đông Sơn. Có chum, vại to, vẽ hình voi, hình người đóng khố, tay cầm giáo, cầm cung , làm bằng đất sét pha cát
  108. mịn. Để món đồ này bên cạnh đồ nhà Hán của Trung Hoa, ta nhìn thấy những nét giống và những nét rất khác của hai loại đồ gốm. [6] Loại đồ Việt Nam thường mỏng hơn và thường được nung với độ cao hơn đồ nhà Hán. Đồ nhà Hán thường có men xanh lục, đồ Việt Nam thường màu trắng, trang trí bằng men giọt xanh. 3. Đồ Lý-Trần Những món đồ gốm dưới đời Lý-Trần gồm có các loại chính: a. Đồ men ngọc (Celadon): Thường trang trí hình cánh sen, hoa sen do ảnh hưởng nhà Phật; hoa văn có khi ảnh hưởng nhà Tống (như ám họa hình 2, 3 hay 4 bé trai chơi trong vườn hoa); có khi Việt hóa (như
  109. ám họa hai lực sĩ đô vật đấu võ trong vườn hoa); có khi ảnh hưởng Ấn Độ (như tô trang trí toàn chữ Phạn). Nước men khá dày (nhưng so với đồ men ngọc nhà Tống thì vẫn rất mỏng). [7] Men ngọc thường có màu xanh rêu với rất nhiều sắc, từ màu ngọc xanh nhạt tới màu xanh rất đậm, gần như xanh đen. Nước men nhiều khi che mờ các ám họa ở đáy tô, chén. Đất sét mịn dùng có khi pha cát, có khi không, nhưng không hề pha đá nghiền như đồ men ngọc Trung Hoa [8] , do đó khi búng ngón tay lên tô, ta không nghe tiếng vang cao, trong và ngân lâu như thấy ở đồ men ngọc Tàu. b. Đồ Lý trắng - Lý nâu - Lý lục: Đồ Lý trắng thường có ám họa hoa văn, không vẽ hình màu, men mỏng, khá đều, tiếng gõ thanh. Đồ Lý nâu thường là nâu đậm cả
  110. trong lẫn ngoài, nhưng cũng có nhiều tô, chén trắng trong, nâu ngoài. Hiếm hơn là đồ nâu da báo. (Sau khi tráng men nâu, người thợ nhỏ úp tô xuống, rồi nhỏ vài giọt nước lên chung quanh tô, giọt nước làm men nâu chảy loang xuống thành đốm da báo tự nhiên rất đẹp). Bát Lý nâu Những tô chén thời này, nhiều cái có men dày mỏng không đều, nhiều chỗ để men ướt chảy đóng thành từng giọt, từng vệt dày, đẹp mà phóng túng. Đồ Lý lục có màu
  111. xanh sắc từ nhạt đến đậm. Ám họa hoa sen, hoa cúc, hoặc có dấu con kê, hoặc có vành men cạo trong lòng. [9] Ảnh hưởng Phật giáo rõ rệt. Nhiều món phối hợp hình tượng cả ba nền văn hóa Việt - Hoa và Chiêm Thành. [10] Hũ bình loại này đẹp, gồm nhiều thứ, có hũ men trắng ngà, cao khoảng 35cm, đường kính 25cm, bên ngoài vẽ hình chim, hoa nâu đậm. Có ấm da trắng, da nâu hình tròn thường không vẽ hình mà có ám họa cánh sen hay vòi voi, vòi đầu gà, đầu thú, dạng con cóc, con gà, con chim, con nghê Bình vôi thường có màu xanh nâu đậm. Có nghiên mực hình con cua rất sống động, khi nhấc mai cua lên, thì mình cua trở thành nghiên mực nhỏ. c. Đồ Thanh Hóa: Thanh Hóa là một trung tâm sản xuất đồ gốm rất cổ, với
  112. những lò gốm ở các nơi như Bồ Xuyên, Bạch Bát, Ninh Giang vốn chuyên làm đồ gốm suốt từ thời Bắc Thuộc. Một số người từ Thanh Hoá theo chân Lý Thái Tổ dời đô, dọn về bên bờ sông Hồng, gần Thăng Long, lập ra làng Bát Tràng. Những món thường được gọi là men Thanh Hoá cũng được làm vào khoảng thế kỷ 10 - 14 ở các lò gốm trong vùng. Những ấm, đĩa, tô chén thường có màu xanh nâu đậm, nước men đều, bóng, trong vắt, với nét rạn nhỏ, rất được quý chuộng. Kỹ thuật tráng men cao lộ qua tài tráng men trong như thủy tinh mà không thấy dày, rất thanh nhã, và hơn nữa còn cho thấy người thợ hoàn toàn làm chủ nước men của mình do cách biến đổi chất men pha để làm cho nước rạn to hay nhỏ theo ý muốn. (Những món đồ này có nước rạn thay đổi theo từng
  113. phần, từ trên miệng bình xuống phía dưới chân đế). 4. Đồ Chu Đậu: Trong các thế kỷ 14, 15, 16 xuất hiện một loại đồ (mà có người gọi là 'đồ trắng chàm') có nước men trắng với hoa văn màu xanh blue (màu chàm). Hình dáng và hoa văn đặc biệt Việt Nam, rất đẹp, men mỏng nhưng đều. Loại đồ này thường được xuất cảng sang Phi Luật Tân, Nam Dương, Ả Rập từ thế kỷ 14 đến 16. Chu Đậu là một làng thuộc tỉnh Hải Dương. Vùng này xưa kia chuyên làm đồ gốm, nhưng sau khi kỹ nghệ đồ gốm ở tỉnh Hải Dương bị Trịnh Tùng tiêu diệt, họ chuyển sang dệt chiếu. Tên Chu Đậu được dùng không phải để chỉ những món đồ làm tại làng Chu Đậu, nhưng để chỉ những đồ cùng loại này. Thời Chu Đậu kéo dài mấy
  114. trăm năm, với nhiều lò gốm rải rác khắp nơi, trong vùng phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Bình, đĩa Chu Đậu trang trí hình hoa mẫu đơn (Peonie), chim sẻ, chim chích chòe, hoa cúc, lá tre. Hình vẽ khi thì phóng túng, phác bút, khi thì tỉ mỉ với nhiều chi tiết. Nét vẽ đậm nhạt khi rõ khi mờ, chứng tỏ người nghệ sĩ Việt đã ý thức trong việc sáng tạo một tác phẩm nghệ thuật hơn là sản xuất một món đồ dùng hàng ngày, với những hoa văn hoàn toàn thoát khác hẳn khuôn khổ Trung Hoa. Đây là thời kỳ với những bình, những ấm mà khi vẽ vừa xong, men còn ướt, người thợ tạt nước lên cho hình vẽ nhoè đi, mờ mờ, ảo ảo nhìn rất thích mắt. Họ lựa chọn nhũng hình ảnh mà người nghệ sĩ Trung Hoa không bao giờ nghĩ đến, như tôm, cua, chuồn chuồn, chim sẻ, chim chích chòe, cá
  115. bống, cá chép hóa rồng (Người Trung Hoa khi vẽ rồng, bao giờ cũng chỉ vẽ rồng với mây mà thôi, người Việt Nam thêm hoa sen, hoa cúc vào ). Người nghệ sĩ Việt coi mỗi món đồ là một tác phẩm nghệ thuật nên nhiều khi họ đã ký tên, đề ngày và đôi khi viết cả tên người đặt làm món đồ nữa. Cuối thế kỷ 14, Đặng Huyền Thông ở Nam Sách thường ghi rõ tên mình trên nhiều món đồ rất đẹp do ông làm. Nhóm ông Tăng Bá Hoành, ở Viện Bảo tàng tỉnh Hải Dương, đã viết lên một chân hương câu: 'Hưng Trị tam niên, nhị nguyệt tạo, Nam Sách Phủ, Thanh Liêm huyện, Hùng Thắng xã, Đặng Huyền Thông thê Nguyễn Thị Đỉnh' - nghĩa là: Đặng Huyền Thông cùng vợ là Nguyễn Thị Đỉnh làm vào tháng hai năm Hưng Trị thứ ba (1590) tại xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ
  116. Nam Sách. Trên một chân hương khác, làm năm Diên Thành thứ 3 - 1580, Đặng Huyền Thông ghi tên người đặt làm là sãi vãi Nguyễn Thị Liên, Vũ Thị Dương. [11] Một bình Chu Đậu tuyệt đẹp, mang tên 'Topkapi Saray' [12] , có viết vòng quanh cổ câu: 'Thái Hòa bát niên, Nam Sách châu, tượng nhân Bùi thị hý bút' - nghĩa là: 'nhà nghệ sĩ họ Bùi ở phủ Nam Sách vẽ cho vui năm Thái Hòa thứ tám (1450)'. Bình nổi tiếng khác là một bình tròn, to khoảng 35cm, do Duke of Florence tặng Prince Elector of Saxony năm 1590, hiện được giữ ở viện bảo tàng Johannaun Museum, Dresden, Thụy Điển. [13] Cùng đồ Lý trắng, nâu, đồ Chu Đậu (kéo dài suốt từ đời Lý, Trần qua đến đời hậu Lê) rất phong phú về cả phẩm lẫn lượng.
  117. Đủ mọi thứ dáng hình, đủ mọi thứ hoa văn Việt Nam, thứ thì chỉ để dùng trong nước, thứ thì chỉ để xuất cảng, thứ thì làm theo mẫu đặt của người Nhật Bản, người Nam Dương, người Ả Rập Thế kỷ 12 - 16 là thời kỳ mà sức sáng tạo nghệ thuật, sự phát triển kỹ thuật và sự thành công về thương mãi lên đến cao nhất của đồ gốm Việt nam. Sau khi kỹ nghệ đồ gốm Chu Đậu bị huỷ diệt bởi quân binh của Trịnh Tùng, vì sự bỏ quên của thời nhà Nguyễn, cộng thêm ảnh hưởng của việc cấm buôn bán với nước ngoài của các triều đại này, đồ gốm Việt Nam không duy trì được truyền thống độc lập, được giá trị sáng tạo nghệ thuật trước đây nữa. Tiếc thay, sự thiếu sót trong việc thúc đẩy nghiên cứu, giáo dục của các chính quyền Nam, Bắc trong năm
  118. chục năm vừa qua, càng làm cái gia sản thuần Việt này mai một thêm. 5. Đồ gốm Bát Tràng: Bát Tràng đi vào ca dao với những viên gạch lót sân, nhưng thật ra gạch chỉ là một phó sản. Gạch Bát Tràng (dân địa phương gọi là gạch da sắt, thật ra là bao nung để nung các món khác, sau 3 lần nung, thì trở thành gạch da sắt) được bán để lót sân, lót hè. Bát Tràng sản xuất rất nhiều đồ gốm các loại, dùng trong đời sống hàng ngày, trong việc thờ phụng Phật, Thánh, đình làng như chén đĩa, lu, hũ, bình, ấm, bình vôi, điếu bát, chân đèn, lư hương, hình tượng, mâm, đỉnh Gốm bát tràng cũng gồm nhiều nước men màu, trắng ngà, trắng xám, nâu, xanh rêu Hoa văn phong phú, đủ mọi thể loại, từ hoa lá, muông thú đến các sử tích Trung Hoa (bát
  119. tiên quá hải, Tô Vũ chăn dê ). Ðồ Bát Tràng ghi những niên hiệu nhà Mạc, nhà Lê, nhà Tây Sơn, Nguyễn, niên hiệu cổ nhất ghi năm làm là năm Sùng Khang thứ 7 đời nhà Mạc (1572). [14] Cho đến nay, Bát Tràng vẫn liên tục sản xuất đồ gốm cho thị trường nội địa. So với đồ gốm Chu Đậu thì nước men Bát Tràng không mỏng bằng và nét vẽ lem luốc hơn. Men lam Huế, đĩa Mai Hạc – do Nguyễn Du đặt làm
  120. (Các hình trong bài chụp từ bộ sưu tập của Bùi Ngọc Tuấn) 6 . Đồ ‘Men lam Huế’: Trước hết xin nhắc lại rằng, màu men xanh biếc của đồ sứ đời Minh, đời Thanh chính là của men xanh Persian, chỉ mới được nhập cảng vào Trung Hoa bắt đầu từ đời nhà Nguyên, theo ngót chân quân Mông Cổ (Trung Hoa và Việt Nam không có khoáng chất cobalt tạo nên màu men xanh nước biển đậm đó). Chắc vì giá đắt nên ở Việt Nam, màu men lam này được dùng chung với màu chàm (đồ Chu Đậu) để tạo nên hai sắc lam đậm nhạt trong đồ gốm Việt. Những đồ men lam thường được sưu tập là đồ nhập cảng nguyên chiếc hay đặt làm từ Trung Hoa vào. Vì đồ này được dùng rất nhiều ở cung đình Huế nên thường được
  121. gọi là đồ 'men lam Huế'. Chúng tôi lại chia loại này thành hai: (1) Đồ Nội Phủ và đồ Khánh Xuân, do Trịnh Sâm đặt bên Tàu; (2) Đồ đời Nguyễn do các vua Gia Long, Thiệu Trị, do sứ bộ Nguyễn Du, sứ bộ Phạm Phú Thứ họa kiểu, đặt làm bên Tàu. a. Đồ Nội Phủ và Khánh Xuân:
  122. Men lam Huế, đĩa Nội Phủ - của chúa Trịnh Tùng Trịnh Sâm họa kiểu và cho đặt tại lò Cảnh Đức Trấn bên Tàu. [15] Theo ông Vương Hồng Sển, mới đầu Trịnh Sâm làm đồ 'Nội Phủ', dưới đáy viết mấy chữ: 'nội phủ thị trung', 'nội phủ thị tả', 'nội phủ thị hữu', 'nội phủ thị đoài' (Phủ đây là phủ Chúa, để phân biệt với cung Vua). Vài năm sau, khi sửa soạn chiếm ngôi vua của nhà Hậu Lê, Trịnh Sâm bỏ đồ 'Nội Phủ', mang hết các món này cho vua Lê, rồi đặt làm cho mình một loại đồ đẹp hơn, dưới viết mấy chữ 'Khánh Xuân thị tả'. Tuy làm cùng một lò, nhưng đồ 'Khánh Xuân' đẹp hơn và lộ ý muốn chiếm ngai vàng nhà Lê một cách rõ rệt. Chúng tôi có được vài đĩa Khánh Xuân lớn 26cm, với hình rồng năm móng
  123. (biểu hiệu dành riêng cho vua) và lân (Trịnh Sâm và thế tử Trịnh Cán), và vài đĩa khác chu vi 26cm, cũng với đôi rồng năm móng. [16] Đồ Nội Phủ và Khánh Xuân được người ta xếp vào loại 'Men lam Huế' vì ngoài những nét tương tự, những đồ này cũng lại được tìm thấy ở Huế, khi bà Từ Dụ cho bán đi mấy chục năm trước đây. Học giả Vương Hồng Sển nói rõ rằng: Khi ra chiếm Thăng Long, vua Quang Trung đã mang hết các đồ dùng của chúa Trịnh về Phú Xuân. Khi thống nhất sơn hà, vua Gia Long lại lấy đồ của nhà Tây Sơn mà dùng tiếp, vì thế đồ Nội Phủ và Khánh Xuân mới xuất hiện nhiều ở Huế.
  124. Đĩa Khánh Xuân - của chúa Trịnh Tùng Ngẫm lại thấy nhà Trịnh, nhà Nguyễn, nhà Tây Sơn đánh nhau, rồi lại đều ăn uống trong cùng các tô, đĩa này, bây giờ khi cầm mấy món này trong tay săm soi, ngắm nghía chúng tôi không thể ngưng bàng hoàng xúc động. Rồi lại buồn thêm rằng lịch sử chẳng bao giờ thay đổi; cứ đánh giết nhau thả giàn, rồi kẻ thắng thì hân hoan chiếm đoạt vợ con tài sản của người ta; kẻ thua thì chết trong đau đớn hay chạy
  125. trốn xa khơi, lạc nhà, mất nước, thật là phiền nhiễu. Chi bằng cứ cùng ngồi chén chú chén anh, ăn trong cái tô Lý Lục có ám họa hoa cúc, uống từ cái ấm Lý Nâu vẽ chân chim như đời sống an bình mà người thợ đồ gốm đã làm ra cho mình, chẳng sướng hơn sao? b. Đồ đời Nguyễn: Dưới đời Nguyễn, kỹ nghệ đồ gốm của người Việt suy sụp, thị trường trong nước và quốc tế bị mất vào tay người Tàu, người Nhật. Vua quan nhà Nguyễn mê chuộng văn hóa Trung Hoa, cái gì cũng rập theo nhà Thanh. Triều đình nhà Nguyễn đặt rất nhiều đồ men Lam làm bởi lò Cảnh Đức Trấn bên Tàu. Thời vua Gia Long, đồ lấy được của Tây Sơn - Chúa Trịnh còn
  126. nhiều, khá dư dùng. Thêm vào đó, Gia Long dựng nước trên mình ngựa, ít thì giờ chú trọng đến việc này, nên số đồ đặt bên Tàu còn ít. Nhưng sang các đời sau (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức) thì đồ đặt rất nhiều. Tên húy của các vua nhà Nguyễn (Ánh, Đảm, Thì ) thuộc bộ 'nhật' của chữ Hán, nên các tô đặt làm có ký chữ nhật dưới đáy). Những khi gặp tô chữ nhật, (nếu không phải là đồ giả do Nhật Bản làm bán cho những người mới bắt đầu sưu tập), ta biết ngay đây là đồ dùng trong cung điện nhà Nguyễn. Những tô chữ nhật này khá lớn, trong lòng tráng men trắng, bên ngoài có vẽ cảnh phong thủy Việt Nam, và có thơ chữ nôm. [17] Nổi tiếng nhiều trong loại đồ này là ‘đồ mai hạc’. Những bộ chén, đĩa trà vẽ hình
  127. cây mai và chim hạc, cùng hai câu thơ nôm của Nguyễn Du: 'nghêu ngao vui thú yên hà - mai là bạn cũ, hạc là người quen'. Đồ này được Nguyễn Du đặt làm lần đầu khi đi sứ nhà Thanh năm 1813. Ngoài những đồ đặt làm, đời Nguyễn còn nhập cảng nhiều đồ men lam khác của nhà Thanh. Những món này được giới quan lại và các nhà giàu Việt Nam rất ưa chuộng. Hy vọng rằng những hình ảnh và lời giới thiệu ngắn ngủi trong bài viết này sẽ tạo nên những hiểu biết và ý thích khởi đầu nơi những người trẻ tuổi, để từ đó tìm hiểu, duy trì và phổ biến những giá trị đặc biệt rất đáng được ngợi ca, hãnh diện của văn hóa Việt Nam. Trong suốt lịch sử dân tộc, những chuyển biến chính trị dù xáo động đến thế nào cũng chỉ có giới hạn
  128. ngắn. Những ảnh hưởng, chủ thuyết ngoại lai thảy rồi cũng bị gạn lọc, đào thải, để chỉ có phần hay đẹp mới được hoà nhập vào dòng văn hóa Việt Nam. Chúng tôi tin rằng những thay đổi tốt đẹp trong xã hội, văn hóa, dân tộc Việt sẽ từ từ chuyển biến. Và trong khung cảnh đó, các cuộc khai quật, nghiên cứu, duy trì và phổ biến đồ gốm, đồ đồng dân tộc sẽ phát triển mạnh mẽ. Nhiều nhà nghiên cứu ngoại quốc đã khám phá, nghiên cứu và ca ngợi đồ gốm Việt Nam. [18] Thế giới nhìn ra và đánh giá rất cao khía cạnh này của văn hóa Việt, tại sao chúng ta lại lơ là? Tại sao chúng ta không khuyến khích những lò gốm ở Việt Nam hiện nay trở lại học và làm những món đồ giống như đồ Lý-Trần, đồ Chu Đậu đó để dùng hàng ngày? Những đồ này đẹp ăn đứt chén đĩa làm bằng máy, sản
  129. xuất hàng loạt của Tàu của Nhật, của Âu Mỹ. Xem Bảng tóm lược lịch sử đồ gốm Việt Nam, bản PDF [1] Chúng tôi ghi lại những thời điểm chính của lịch sử và sự phát triển nghệ thuật đồ gốm Việt Nam trong Bảng Tóm lược Lịch sử đồ Gốm Việt Nam. [2] Các nhà sưu tập trong nước thì cũng chỉ chú trọng vào loại đồ hoặc của Trung Hoa hoặc men lam Huế này. Học giả Vương Hồng Sển, với công trình sưu tập, nghiên cứu đồ sộ trong suốt hơn 50 năm, cũng chỉ viết chút ít về vài món Chu Đậu mà ông gọi lầm là đồ gốm Bát Tràng chứ không có
  130. các thứ đồ quý Việt Nam nào khác. [3] Bà Morimoto Asako, khi nghiên cúu các mảnh vỡ khai quật ở Dazaifu và Hakata đã viết rằng, đồ gốm Việt đã đưọc dùng ở Nhật từ giữa thế kỷ 14. Muốn biết thêm về việc xuất cảng này, xin đọc Vietnamese Ceramic - a separate tradition của nhóm ông John Stevenson và John Guy, xuất bản năm 1997 ở Chicago; Vietnamese Ceramics do Southeast Asian Ceramic Society xuất bản năm 1982 ở Singapore; và tạp chí Arts of Asia của bà Tuyết Nguyệt, xuất bản ở Hương Cảng,v.v [4] Điểm tức cười là trong khi người Hồi Giáo Nam Dương mua gạch ngói men lam của Việt Nam để xây giáo đường (như xây Mosque ở Demak, Java), thì nhà Nguyễn lại nhập cảng gạch men lam từ nước Anh
  131. về xây lăng vua Khải Định. [5] Tại Viện Bảo tàng Mỹ thuật ở Hà Nội, có nhiều vật tích như bình cao, trang trí những hình khắc cong và thẳng làm vào khoảng 2000 BC cho tới những ấm, âu làm từ 300 tới 500 BC. Museum of Fine Art ở Boston có trưng bày ấm vòi voi của Việt Nam làm trong khoảng thế kỷ thứ 3 BC tới thế kỷ thứ 1 BC. [6] Trong suốt thời Bắc Thuộc, người Trung Hoa đã thất bại trong việc hủy diệt văn hóa Việt, và đồng hóa người Việt như họ đã thành công với các dân tộc khác. Ngược lại người Việt đã thành công trong việc thu nhập nhọc hỏi, và áp dụng những nét đẹp, kỹ thuật hay của Trung Hoa. [7] Người Tàu còn tiếp tục làm các món men ngọc này cho mãi đến gần đây. Nhưng sau đời nhà Mạc thì các lò gốm Việt Nam
  132. không làm các loại này nữa. [8] Vùng Bắc Việt không có loại đá trắng dùng làm men ngọc như Trung Hoa. [9] Chúng tôi có một tô Lý Trắng với ám họa toàn biểu tượng văn hóa Ả Rập (hình trăng lưỡi liềm và sao, hình hai đoản đao bắt chéo ). [10] Phật giáo truyền vào Việt Nam trước Trung Hoa - do các nhà sư Ấn Độ, đi vòng theo bờ biển Đông Nam Thái Bình Dương tới. Đạt Ma Sư Tổ cũng đi thuyền tới Việt Nam trước, rồi sau đó mới sang Trung Hoa để lập Thiền Tông và Chùa Thiếu Lâm. [11] Xin đọc thêm Gốm Chu Đậu của Tăng Bá Hoành, Đặng Đình Thể, Vũ Danh Thắng, Nguyễn Duy Cương, và Nguyễn Khắc Minh, Bảo Tàng Tỉnh Hải Dương
  133. xuất bản năm 1993. [12] Vì được giữ ở Topkapi Saray Museum, Istanbul, nơi lưu giữ tài sản của hoàng gia Ottoman, Thổ Nhĩ Kỳ. [13] Tưởng cũng nên nhấn mạnh ở đây một điểm đặc biệt khác là sự tôn trọng vai trò của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam. Những món đồ kể trên cho thấy vợ chồng Đặng Huyền Thông và Nguyễn Thị Đỉnh cùng ký tên vào tác phẩm, sãi vãi Nguyễn Thị Liên, Vũ Thị Dương được ghi tên vào món đồ họ đặt làm, đáng kể nữa là người họa sỹ họ Bùi ở Phủ Nam Sách còn ký tên mình vào một món đồ tuyệt đẹp làm để xuất cảng - hãy thử tìm, văn hóa Tàu, Nhật , làm gì có sự tôn trọng người đàn bà như thế. [14] Thật ra, Bát Tràng đã góp phần trong nền đồ gốm Lý Trần rực rỡ bắt đầu từ thế
  134. kỷ 11 trước đó rồi. [15] Ðây là lò gốm dành riêng cho việc chế tạo đồ dùng trong cung điện Trung Hoa, thời này do Đường Anh, một tay kỳ tài của đồ gốm Trung Hoa điều khiển. [16] Muốn biết rõ về loại đồ này xin đọc sách Lược khảo về đồ sứ cổ men Lam Huế cuả Vương Hồng Sển. [17] Người Tàu không đọc được chữ nôm nên đôi khi đã viết sai. Ông Trần Ngọc Sơn, ở Huế có tìm được một tô chữ nhật với bài thơ 'một sắc nước in trời' mà câu thứ hai được lặp lại hai lần, còn câu thứ ba thì lại thiếu trọn. Xin xem Đồ sứ men Lam Huế - Những trao đổi học thuật , nxb Thuận Hóa, 1997. [18] Trong những cuộc bán đấu giá của nhà Christie of London, của nhà Sothebys, có
  135. những món đồ gốm Việt được bán với giá hàng chục nghìn Mỹ Kim. Men lam Huế, xác Tàu hồn Việt Đồ đời Lý nhiều món thường có men trắng, hay trong lòng tô màu trắng, ngoài màu nâu đậm, nhưng không vẽ hình màu. Ðồ Trung Hoa vào thời này lại ít khi dùng men trắng. Sang đến đời Minh, men lam hồi từ Persia được nhập cảng vào Trung Hoa và Việt Nam. Từ đây, đồ Chu Đậu của Việt Nam và đồ men lam Trung Hoa bắt đầu được phát triển, tạo nên hai loại đồ tuyệt đẹp,
  136. nhưng lại khác nhau hoàn toàn, tuy cùng có nhiều hình vẽ màu xanh biếc trên nền men trắng ngần. Đồ Chu Đậu thuần Việt, còn đồ men lam của nhà Minh, nhà Thanh lại hoàn toàn Trung Hoa. Đồ “men lam Huế” như chen vào chính giữa, có những nét Việt nhưng lại là đồ sứ Trung Hoa. Đồ “men lam Huế”, hay phổ thông hơn là đồ “Bleu de Hue” - đôi khi bị hiểu sai là đồ sứ làm ở Huế - là loại đồ men trắng xanh, do vua quan Việt Nam họa kiểu riêng, đặt làm bên những lò gốm nổi danh bên Tàu. Tên gọi “men lam Huế” do ông Vương Hồng Sển dịch theo từ “bleu de Hue”, do người Pháp dùng để chỉ các món đồ “men lam Hồi” (Hồi: Ả Rập) mà họ thấy có nhiều ở Huế. Khi tìm hiểu về văn hóa Việt, ông này thấy ở Huế có nhiều món đồ men lam Hồi đặc biệt nên gọi chung là “bleu de Hue”.
  137. Đáng lẽ khi viết về đồ cổ Việt Nam ta không nên nói về đồ làm ở Trung Hoa. Tuy nhiên đồ “men lam Huế” tuy là xác Tàu nhưng lại mang hồn Việt , vì vậy chúng tôi thấy nên tìm hiểu rõ ràng, nên sưu tập. Nói vắn tắt, đồ men lam Huế gồm những món sau: đồ Nội Phủ và đồ Khánh Xuân: Trịnh Sâm đặt; đồ Mai Hạc: Nguyễn Du đặt; đồ do các vua nhà Nguyễn đặt, đồ chữ nhật; đồ thờ nhà họ Đặng: Đặng Huy Trứ đặt; tô “Mó Rận” và “Nằm ệch” , không
  138. rõ do ai đặt; 1. Đồ Nội Phủ và Khánh Xuân Ðĩa Khánh Xuân Thị Tả của chúa Trịnh Sâm đặt làm (bộ sưu tập của Bùi Ngọc Tuấn) Đồ gốm và đồ sứ Trung Hoa vốn được bán ở Việt Nam từ lâu, nhưng hình như chúa Trịnh Sâm là người đầu tiên đặt cán lò sứ ngự dụng ở Trung Hoa làm những
  139. món theo ý riêng để dùng trong vương phủ của mình. Trịnh Sâm là một con người rất đặc biệt, văn võ kiêm toàn, tham vọng lớn, mà hào hoa cũng nhiều. Nếu ông không chết sớm thì chắc lịch sử ta cũng còn nhiều biến động. Trịnh Sâm đặt làm rất nhiều đồ sứ theo ý mình, dưới đáy có ghi rõ từng kiểu: nội phủ thị trung, nội phủ thị bắc, nội phủ thị tả, nội phủ thị hữu, nội phủ thị đoài Những món đồ này rất đẹp, xứng đáng là đồ ngự dụng. Nước men trắng, dày, sáng, nét vẽ sắc, chi tiết linh động, màu xanh biếc chỗ đậm chỗ nhạt. Khi uy quyền lên tuyệt đỉnh, Trịnh Sâm không hài lòng với ngôi chúa, mà muốn thoán ngôi nhà Lê để làm vua, dù rằng vua Lê lúc bấy giờ chỉ là bù nhìn, còn quyền lực đều ở cả trong tay Trịnh Sâm. Ngoài việc cử sứ bộ Vũ Thần Triệu sang xin nhà Thanh phong
  140. cho mình làm vua khi Lê Hiển Tông băng hà, để chuẩn bị lên ngôi, ông mang hết đồ “Nội Phủ” dâng cho vua Lê (vào thời khác, đây là việc khi quân, có thể bị xử chém, vì không ai có thể mang đồ đã dùng cũ để dâng vua cả. Như thế đủ hiểu Trịnh Sâm coi thường nhà Lê thế nào, đủ hiểu vua quan nhà Lê hèn nhát thế nào). Rồi để thay vào đồ Nội Phủ, Trịnh Sâm lại đặt người Tàu làm một loại đồ khác, dưới đáy ghi kiểu “Khánh Xuân”, Khánh Xuân thị tả, Khánh Xuân thị trung Đồ Khánh Xuân và đồ Nội Phủ đều do lò Cảnh Đức Trấn, điều khiển bởi tay kỳ tài Đường Anh dưới đời Càn Long, làm. Đồ Khánh Xuân khác đồ Nội Phủ ở chỗ rồng vẽ có năm móng, biểu tượng đế vương. Nhưng mưu kế không thành, cầm biểu cầu phong của Trịnh Sâm đi đến Động Đình Hồ, Vũ Thần
  141. Triệu đốt bỏ tờ biểu cầu phong rồi tự tử để khỏi mang tiếng phản vua. Sứ bộ cầu phong đành về nước, mưu thoán ngôi của Trịnh Sâm bị hỏng. Rồi sức khỏe suy xụp, ông đau mà chết trước cả vua Lê Hiển Tông, năm đó Trịnh Sâm mới được 44 tuổi. Ít năm sau, vua Quang Trung ra Bắc hai lần, lần trước diệt Trịnh phù Lê, lần sau phá quân nhà Thanh. Khi trở về Phú Xuân, vua Quang Trung mang theo phần lớn gia sản họ Trịnh, với cả đồ Nội Phủ lẫn đồ Khánh Xuân. Khi Nguyễn Ánh thống nhất sơn hà, gia sản nhà Tây Sơn trở nên đồ dùng trong cung điện họ Nguyễn. Nhà Nguyễn suy, đồ trong cung bị hoạn quan lấy bán ra ngoài, vì thế đồ Nội Phủ và đồ Khánh Xuân chỉ có nhiều ở Huế. Ông Vương Hồng Sển trước sau tìm được bảy món Nội Phủ thị trung, bốn món Nội
  142. Phủ thị hữu, bốn món Nội Phủ thị đông, ba món Nội Phủ thị đoài, ba món Nội Phủ thị bắc, một món Nội Phủ thị nam và sáu món Khánh Xuân thị tả. Chúng tôi không may mắn như vậy, nên chỉ có ba đĩa Khánh Xuân thị tả và vài món Nội Phủ, vậy mà cũng rất vui sướng rồi. 2. Đồ Mai Hạc Nguyễn Du, kẻ tài tử suốt đời gặp chuyện không vừa ý, không muốn làm quan mà phải làm quan, muốn lãng du với núi rừng Hồng Lĩnh mà lại sinh giữa thời cuộc đảo điên, thơ ông lúc nào cũng u uất cái tâm tư quằn quại của kẻ thất tình. Con người lãng đãng đó lại được vua Gia Long trọng cử đi sứ nhà Thanh (đời vua Gia Khánh). Những
  143. bài thơ trong Bắc hành tạp lục là những tiếng thở dài u uẩn, là nỗi đau trầm thống và cũng là niềm mong ước cuộc phiêu lãng triền miên giữa những vùng sương khói của núi rừng, của tâm tưởng. Năm ấy, năm 1813, khi cầm đầu sứ bộ Việt Nam, kẻ nửa quan lại, nửa nghệ sĩ đã ngao du khắp vùng danh thắng ở Trung Hoa, rồi tìm đến lò sứ Ngoạn Ngọc ở Giang Tây, nơi sản xuất những món đồ sứ nhà Thanh tuyệt hảo, để đặt làm bộ chén trà Mai Hạc. Bộ chén trà Mai Hạc là một tác phẩm Việt, được tạo thành bởi bàn tay nghệ sĩ Trung Hoa. Bộ Mai Hạc được sản xuất nhiều lần. Ta có thể quả quyết rằng trước khi Nguyễn Du tới thăm, thì lò Ngoạn Ngọc không hề làm bộ Mai Hạc này. Bởi vì những bộ chén này gồm ba chén quân, một chén tống. Đây là cách uống trà của người Việt, không
  144. phải cách uống của người Tàu. Cái đĩa chỉ to vừa để úp ba chén quân cạnh nhau, còn chén tống thì được úp lên một trong ba chén quân. Chén và đĩa giống nhau, vẽ hình một cội mai già đang trổ bông, thân mai cằn uốn như hình chữ nữ, chim hạc đứng bên phải cội mai, chân co chân duỗi, quay đầu nhìn xa. Phía bên trái có viết hai câu lục bát nôm bất hủ của Nguyễn Du: Nghêu ngao vui thú yên hà Mai là bạn cũ, hạc là người quen
  145. Ðĩa Mai Hạc – do Nguyễn Du đặt làm khi đi sứ Tàu năm 1813 với hai câu thơ Nôm: Nghêu ngao vui thú yên hà/Mai là bạn cũ hạc là người quen (bộ sưu tập của Bùi Ngọc Tuấn) Thơ nôm lục bát của Nguyễn Du, người Tàu không đọc được nên họ tìm cách ngắt câu cho cân đối một cách tức cười. Đồ sứ làm hoàn toàn bằng tay, mỗi món một lần,
  146. hình giống nhau nhưng nét mỗi bản mỗi khác, nên tùy hứng của người họa sĩ Trung Hoa mà hai câu lục bát này được ngắt câu sai vài cách khác nhau. Cách thường thấy nhất là: nghêu ngao vui thú yên hà mai là bạn cũ hạc là người quen Đĩa Mai Hạc còn thấy nhiều ở Huế (cả đồ thật lẫn đồ giả) nhưng chén Mai Hạc thì rất khó tìm. Những tay buôn đồ cổ ở Việt Nam nói rằng trong mấy năm qua, du khách Tàu, Nhật mê lắm, tìm mua hết mang về xứ. Uổng cái là người mình lại thờ ơ với một món đồ rất đẹp, có gốc tích nên thơ như vậy. Những kẻ yêu cái đẹp, cầm chiếc đĩa mai hạc trên tay, đọc câu thơ nôm của Nguyễn Du, khó có thể bỏ xuống ngay
  147. được. Men trắng mịn, nét vẽ màu xanh lam Hồi khi đậm khi nhạt, rất thần tình. Hình chim hạc đứng trên gò đá cạnh cây mai gợi niềm tâm tư lãng đãng những chốn đi về mộng mị. Người nào quen thuộc với Bắc hành tạp lục, với Thanh Hiên thi tập thì còn như thấy ẩn hiện cái quằn quại của Nguyễn Du. Nhà Ngoạn Ngọc làm đĩa Mai Hạc với thơ nôm Nguyễn Du rồi, Nhà Nhã Ngọc lại làm thêm bộ chén y như vậy, nhưng lại viết hai câu ngũ ngôn chữ Hán: hàn mai xuân tín tảo tiên hạc táo chi đầu nghĩa là: hoa mai nở sớm báo xuân sang chim hạc về trưóc đứng đầu cành
  148. 3. Ðồ do vua nhà Nguyễn đặt, đồ chữ nhật Vua Gia Long, kẻ dựng nghiệp trên mình ngựa, từ năm 17 tuổi đã sống cuộc đời binh đao, khi lên ngôi phải lưu tâm đến việc củng cố chế độ, việc ổn định quốc gia, lại thêm đồ chiến lợi lấy được của nhà Tây Sơn còn rất nhiều nên không đặt làm chén đĩa mấy. Qua các đời sau, xã hội ổn định, văn học phát triển, các vua Minh Mạng, Thiệu Trị bắt đầu đặt làm nhiều đồ riêng. Có những món ghi niên hiệu vua nhà Nguyễn, ngoài ra còn rất nhiều món ký hiệu chữ nhật. Vì từ đời Minh Mạng, tên tức vị của các vua nhà Nguyễn đều thuộc bộ nhật. Loại đồ chữ nhật rất nhiều kiểu.
  149. Tuy cùng làm bởi các lò sứ nổi danh của Tàu, nhưng khác với đồ Mai Hạc của Nguyễn Du ở điểm là ngoài thơ nôm, lại còn vẽ những phong cảnh Huế, những chuyện tích của nhà Nguyễn. Ngoài bộ đồ trà, ống giắt bút, đĩa, còn phần lớn là tô lớn, to bằng cỡ cái tô ta dùng ăn bún bây giờ. Chúng tôi có một số tô loại này, và còn thấy một số khác ở Huế. Hình như ông Vương Hồng Sển là người sưu tầm được nhiều món thuộc loại này nhất. Ðời Gia Long có bộ chén trà ký niên hiệu Giáp Tý, Mậu Thìn, tô vẽ mãn họa san thủy niên hiệu Kỷ Tỵ và tô vẽ tứ thời niên hiệu Canh Ngọ. Ðời Minh Mạng thì có tô anh hùng
  150. hội niên hiệu Canh Thìn, ống bút niên hiệu Giáp Thân, đĩa trà sơn thuỷ niên hiệu Bính Tuất, hộp son để dóng ấn niên hiệu Mậu Tý, đĩa vẽ hạc rập, đĩa vẽ Đắng Vương Các niên hiệu Canh Dần, tô uống trà vẽ lưỡng long tranh châu, ký Minh mạng niên chế, chén tống hoa dây ký Minh Mạng niên tạo. Ðời Thiệu Trị có bộ chén trà lộc- trúc, bình hút thuốc lào, tô chữ nhật không hình toàn chữ, tô “ngư gia độ hoàng gia ” hiệu Ngoạn Ngọc, chén “ngư gia độ hoàng gia” hiệu Mỹ Ngọc Ðời Tự Đức có rất nhiều món, đáng kể nhất là: đĩa “đồng-nguyệt-tùng- phong-cầm-vận” (vẽ cây ngô đồng,
  151. vầng trăng bạc, cây thông già, trận gió mát, tiếng cung đàn, một vần thơ) năm Tự Đức ngũ niên, đĩa vẽ ông câu Nhâm Tý mạnh đông 1852, bộ chén trà “ngũ liễu” năm 1857, và những món ký hiệu chữ nhật như tô vẽ Bá Nha Tử Kỳ có câu thơ nôm “hai kẻ bạn tri âm - vui thay một khúc cầm - non cao cùng nước biếc - rằng để ít ai ngâm”, tô “liễu mã ” vẽ bốn con ngựa đứng kề cây liễu (tích “tứ mã công khanh”), đĩa vẽ bốn con vịt “phi minh túc thực” (mỗi con một động tác: bay, kêu, ngủ, ăn) Nói chung đời Tự Đức có nhiều đồ đặt làm nhất và hình vẽ, nội dung dồi dào nhất. Ðồ đời Tự Đức thường ký hiệu chữ nhật.
  152. 4. Ðồ thờ nhà họ Đặng Đặng Huy Trứ đi sứ nhiều lần, rồi lại giữ chức Bình Chuẩn Sứ, trông coi về việc buôn bán ở các cửa biển nên ông đã nhiều lần đặt làm đồ riêng cho mình. Vì cùng thời, cùng loại nên so với đồ Mai Hạc, đồ Chữ Nhật, đồ thờ nhà họ Đặng chỉ khác ở hình vẽ. Loại này rất hiếm, ông Vương Hồng Sển có vài tô dùng đựng nước cúng trên bàn thờ nhà họ Đặng, như tô có bài thơ nôm “một thức nước in trời”. 5. Tô Mó Rận và tô Ngã Lừa Chúng tôi chưa hề thấy tận mắt những món rất đặc biệt mà ông Vương Hồng Sển cho
  153. là đồ do sứ bộ nhà Tây Sơn đặt làm. Ông cũng chỉ có bốn món: đĩa Trân Ngoạn vẽ hình ông già nhiều râu ngồi dựa cây liễu, kế đó có ông tiên cưỡi ngựa với câu thơ nôm nhắc lại tích Trần Đoàn và Triệu Khuông Dẫn: “Mó rận luận chơi thời sự - Ngã lừa mừng thủa thái bình”, đĩa Trân Ngoạn vẽ hình hai cội tùng cổ, có ông già nằm bắt chân chữ ngũ bên gốc, với câu thơ nôm: vắt chân nằm ghệch ngáy o o ngẫm xem chẳng khác Ðường Ngu thói thuần Ðĩa vẽ hình ông quan ngủ ngồi dưới cội cây, thơ chữ Hán: dụng hội tùy nhân hưu trước ý
  154. thanh phong thùng hạ chỉ cao miên Ðĩa Trân Ngoạn vẽ hình sông nước, thơ chữ Hán: phong nguyệt thanh lâu song phú diệm yên ba tịnh phiếm nhất châu khinh Ðĩa Gia Lạc vẽ hình tòa thành cao, dưới đất có con ngựa gặm cỏ, kế bên có ông quan chỉ tay lên thành đứng cạnh một người nhỏ vóc, như kẻ tùy tùng, thơ nôm: Một cụm lâu đài mỉa tốt tiên Khác con mắt tục tức ưa nhìn No nao tay phím dây cầm sắt Kẻo nhọc thung thăng sứ điệp truyền Suy từ khẩu khí của mấy câu thơ này, ông Vương Hồng Sển cho rằng đây là đồ do
  155. nhà Tây Sơn đặt làm. Chúng tôi không đồng ý cũng chính vì lối suy luận riêng về cái khẩu khí của mấy câu thơ ấy. Đời Tây Sơn chuộng kẻ anh hùng, thanh gươm yên ngựa, sao lại làm thơ thoát tục như vậy. Thêm nữa, nước men kém mịn, nét vẽ lại lem luốc, chúng tôi độ rằng đây là đồ đời nhà Nguyễn sau này. Tóm lại, đồ men lam Huế làm bởi các lò sứ Giang Tây nổi tiếng, nhưng do người Việt vẽ kiểu, đề thơ. Tuy rằng chưa cổ gì mấy (từ đời Trịnh Sâm đến nay chỉ mới ngoài hai trăm năm) nhưng vì vừa thể hiện tâm tình Việt, vừa đẹp, lại vừa rất đặc sắc ở chỗ “xác Tàu, hồn Việt ” nên xin kể như một nhánh đặc biệt của văn hóa Việt Nam.
  156. Bình và ấm Việt Nam Hai lầm lẫn ghê gớm nhất về dân tộc Việt Nam chúng ta là, thứ nhất: Người Việt Nam có nguồn gốc từ một giống dân thuộc Nam Trung Hoa. Thứ hai: Văn hóa Việt Nam mang nặng ảnh hưởng Trung Hoa. Hai sai lầm này vẫn còn tiếp tục được truyền bá cả ở trong nước cũng như ở hải ngoại. Càng nhìn vào đồ gốm cổ truyền Việt Nam, ta càng thấy rõ sự độc lập, sự khác biệt giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa. Người Việt có hoàn toàn học kỹ thuật làm đồ gốm từ người Tàu không? Chắc chắn là không, dù rằng sau này ta có
  157. trau dồi thêm các kỹ thuật và nguyên liệu theo cách của người Trung Hoa. Các di tích đồ gốm tìm được ở Hòa Bình cho thấy cách đây mười nghìn năm (vào khoảng 8000BC), người Việt đã làm những món đồ gốm màu nâu đậm hay nâu bạc bằng đất sét pha cát và bột vỏ sò. Vào thời điểm này, ở phía Bắc chúng ta, chắc cũng đã có nhiều nền văn hoá khác nhau, của nhiều sắc người sống rải rác, thưa thớt và hoàn toàn độc lập với nhau, chứ chưa phải là nước Tàu của nhà Thương (1776BC- 1122BC), nhà Chu (1122BC-256BC) sau này. Vậy thì làm gì có chuyện ảnh hưởng Trung Hoa trong khi chính văn hóa Trung Hoa cũng chưa hiện hữu. Nước Tàu chỉ mới trở thành một thứ hợp chủng quốc từ đời Tần Thủy Hoàng (221-206BC), còn trước đó chỉ là một tập hợp của những xã
  158. hội khác nhau, với các nền văn hóa khác nhau. Sự kiện người Tàu có nhiều tiếng nói và phong tục khác nhau ấy, đã khiến cho người nói tiếng Quảng Tây không thể hiểu người nói tiếng Triều Châu (mà dù nay đã có tiếng Quan Thoại, vấn đề tiếng nói vẫn không giải quyết được hẳn). Các vật tích cổ Việt Nam tìm được đã quy vào một nền văn hoá biệt lập ở vùng sông Hồng, sông Ðà, sông Mã. Hãy duyệt lại thời điểm của các vật tích tìm được ở những vùng này và lịch sử Trung Hoa: Văn hóa Hòa Bình – qua các vật tích tìm được – đã hiện hữu ở Việt Nam từ khoảng 8000BC, văn hóa Bắc Sơn từ 6000BC. Trong khi đó, các ông vua huyền thoại của người Tàu - nếu có thực - cũng chỉ mới có