Xây dựng xã hội học tập ở nước ta

doc 37 trang ngocly 3940
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Xây dựng xã hội học tập ở nước ta", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxay_dung_xa_hoi_hoc_tap_o_nuoc_ta.doc

Nội dung text: Xây dựng xã hội học tập ở nước ta

  1. Xây dựng xã hội học tập ở nước ta
  2. Xay dung xa hoi hoc tap o nuoc ta Xây dựng xã hội học tập ở nước ta ND - Xây dựng xã hội học tập (XHHT) vừa là một nhiệm vụ cấp bách, vừa là một yêu cầu chiến lược, nhiệm vụ cơ bản, lâu dài của nền giáo dục nước nhà, quyết định thành công của sự nghiệp CNH, HÐH ở nước ta, của quá trình đưa nền kinh tế Việt Nam thành một nền kinh tế tri thức, đưa dân tộc Việt Nam trở thành một dân tộc thông thái như Bác Hồ hằng mong muốn, đưa xã hội Việt Nam thành một xã hội trí tuệ, hiện đại, hội nhập kinh tế thế giới. Nhiệm vụ trung tâm của xây dựng XHHT ở nước ta Nhiệm vụ trọng tâm của XHHT là làm cho mọi người từ trẻ đến già đều thấy cần phải học, và học suốt đời, xem học tập là một nhu cầu của cuộc sống, như cơm ăn, áo mặc, tạo môi trường học tập đáp ứng cao nhất nhu cầu học tập ban đầu và học suốt đời của mọi tầng lớp nhân dân, mọi lứa tuổi và cả người cao tuổi, mọi ngành nghề, mọi trình độ, trong đó đặc biệt chú ý nhu cầu học tập của người cao tuổi, người bị khuyết tật, người bị thiệt thòi về giáo dục và có thể học ở mọi nơi (tại trường, tại nơi làm việc, tại nhà ), mọi lúc, học bằng nhiều cách: trên lớp, học từ xa qua phát thanh, truyền hình, học trên máy tính, trên mạng in-tơ-nét, hội nghị, hội thảo, trò chơi theo nguyên tắc tự học là chính. Bản chất XHHT là một môi trường giáo dục, trong đó mọi người đều được cung cấp cơ hội học tập, với thiết chế giáo dục mở, mềm dẻo, linh hoạt, thích ứng điều kiện học của từng người, từng cơ quan, đơn vị một môi trường trong đó mọi lực lượng xã hội, mọi tầng lớp xã hội đều tự giác học hành và tích cực tạo ra các cơ hội, điều kiện học hành cho xã hội sao cho cả xã hội trở thành một trường học lớn, mỗi người dân là một học trò, nhu cầu học luôn được đáp ứng và là nơi đào tạo nguồn nhân lực dồi dào, đa dạng với nhiều trình độ, nhiều năng lực khác nhau đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế trong một thị trường lao động luôn biến động dưới sự tác động tiến bộ của khoa học và công nghệ. Trong XHHT, quan niệm về học được mở rộng. Học không chỉ là học văn hóa mà còn phải học các kiến thức khác để làm việc, để sáng tạo, để làm người, để sống tốt hơn, thích ứng sự thay đổi của xã hội. Và, học không chỉ học trong nhà trường, học tập trung theo niên chế mà còn học trong cuộc sống xã hội, tập thể, gia đình, bạn bè, Học được ý thức là con đường làm
  3. tăng trưởng trí tuệ, giá trị đạo đức, tinh thần, thể chất, thẩm mỹ, cho con người. XHHT là một xã hội cung cấp cho con người đầy đủ các điều kiện, các cơ hội để học tập, phát triển, bảo đảm cho con người luôn có được các phẩm chất: trí tuệ, kỹ năng, thái độ thích ứng đòi hỏi của một xã hội luôn biến đổi. Học là quá trình thu thập và xử lý thông tin để tự biến đổi mình, "phù sa" tri thức, làm phong phú cho bản thân. Trong điều kiện ngày nay, thông tin là tài nguyên của sự học; con người trong XHHT là con người có kỹ năng thu thập, xử lý sử dụng thông tin bằng các phương tiện truyền thông hiện đại. Giáo dục và việc học hành của con người trong xã hội hiện đại không thể chỉ dựa vào nguồn tri thức của người thầy ở trường như trước đây, mà phải mở ra toàn không gian sống của con người trong xã hội thông tin. Do vậy, XHHT chỉ hình thành và phát triển được dựa trên nền công nghệ thông tin phát triển, trong đó, truyền thông đa phương tiện phục vụ người học rộng rãi trong cả nước là quan trọng hàng đầu. XHHT ở Việt Nam được xây dựng trên quan điểm nào? XHHT phải là một thiết chế giáo dục mở, một môi trường giáo dục thỏa mãn nhu cầu học tập của mọi người trong xã hội, ở mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề, mọi trình độ với các hình thức học tập đa dạng, mềm dẻo, linh hoạt: học ở nhà trường tập trung theo niên chế, tự học, học có hướng dẫn, bổ túc văn hóa (BTVH), tại chức, học từ xa theo triết lý tự học và học suốt đời. Theo quan niệm trên, mô hình hệ thống giáo dục quốc dân trong XHHT phải cơ cấu lại căn bản. XHHT yêu cầu một cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân được tổ chức một cách khoa học, bảo đảm việc học tập của con người được diễn ra liên tục, dễ dàng, tiện lợi suốt đời người từ bé đến lúc chết. Bên cạnh hay song song với giáo dục trong nhà trường truyền thống, hay giáo dục ban đầu (GDBÐ) cho lứa tuổi thanh niên, thiếu niên, được tổ chức học tập trung theo niên chế, chủ yếu cung cấp các kiến thức văn hóa phổ thông, tạo nguồn cho hoạt động đào tạo nghề và cán bộ khoa học chuyên môn ở giai đoạn tiếp theo, ắt phải có hệ thống giáo dục tiếp tục (GDTT) dành cho những người đã nhận được chương trình GDBÐ ở phổ thông hoặc đại học, đang làm việc trong lĩnh vực kinh tế - xã hội khác nhau và những người không có điều kiện nhận được chương trình giáo dục ban đầu (do bỏ học, nghèo túng, xa cách địa lý, tâm lý xã hội ) có nhu cầu học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ, năng lực làm việc, tìm kiếm việc làm hoặc thay đổi công việc, nâng cao chất lượng cuộc sống mà không cần hoặc không có điều kiện đi học tập trung, theo niên chế. Hệ thống giáo dục tiếp tục phải là một thiết chế độc lập (tương đối) mở, có mục tiêu đào tạo, cách tổ chức dạy - học, tài liệu dạy - học riêng, khác với hệ thống giáo dục ban đầu như: không học tập trung, không theo niên chế, không học "giáp mặt", học từ xa bằng các dạng học liệu riêng được cung cấp qua hệ thống truyền thông đa phương tiện với hình thức học tập chủ đạo là tự học. Hệ thống giáo dục ban đầu và hệ thống giáo dục tiếp tục là hai hợp phần của một chính thể là hệ thống giáo dục quốc dân, có mối liên hệ qua lại rất mật thiết, bổ trợ cho nhau, mang tính liên thông đan xen dọc - ngang nhịp nhàng và làm tiền đề cho nhau tồn tại, phát triển, thay đổi. Luật Giáo dục sửa đổi bổ sung ban hành năm 2005 đã ghi: "Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Giáo dục thường xuyên giúp mọi người vừa học vừa làm, học liên tục, học suốt đời ". Hệ thống giáo dục ban đầu có chức năng tổ chức dạy - học cho thế hệ trẻ (khoảng 22 - 23 triệu). Hệ thống giáo dục tiếp tục có chức năng tổ chức dạy - học chủ yếu cho người lớn và cao tuổi (khoảng 60 triệu). Nếu hệ thống giáo dục chính quy (giáo dục trong nhà trường) có cả một hệ thống cơ sở vật chất hoàn chỉnh, một bộ máy tổ chức điều hành, quản lý chặt chẽ từ trung ương đến địa phương, có đội ngũ hơn một triệu giáo viên được đào tạo qua trường lớp chính quy và với chương trình sách giáo khoa được biên soạn và quản lý ở cấp quốc gia và được Nhà nước cấp ngân sách thì hệ thống giáo dục không chính quy (giáo dục tiếp tục) với nhiệm vụ tổ chức giáo dục cho gần 60 triệu người lớn trong cả nước nhất thiết cũng phải có các điều kiện cần và đủ mới vận hành có hiệu quả. Và, việc xây dựng XHHT, môi trường học tập thuận lợi cho mọi người mới thành công.
  4. Hệ thống giáo dục ban đầu và hệ thống giáo dục tiếp tục có đối tượng, mục tiêu, phương pháp dạy - học, tài liệu dạy - học, hình thức dạy - học riêng và cung cấp cho xã hội các sản phẩm giáo dục hướng theo các yêu cầu khác nhau. Vì vậy, cần tiến hành nghiên cứu các cơ sở lý luận, nhất là lý luận về giáo dục học người lớn, tâm lý học lứa tuổi, cũng như những kinh nghiệm làm chương trình, tài liệu học tập, cách thức đánh giá chất lượng học tập, v.v ở trong và ngoài nước để làm căn cứ khoa học cho việc tổ chức và triển khai các mảng công việc trong quá trình xây dựng XHHT. Phác thảo cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân trong XHHT Hệ thống giáo dục quốc dân trong xã hội học tập gồm hai tiểu hệ thống: Hệ thống giáo dục ban đầu được tổ chức theo các cấp học, bậc học, từ thấp lên cao: Nhà trẻ - mẫu giáo, mầm non, tiểu học, THCS, THPT, ÐH-CÐ, sau ÐH và học tập trung, "mặt giáp mặt", học theo niên chế. Hệ thống này đã có từ lâu, đã vận hành hơn một thế kỷ nay mang tính khép kín, khoa cử, cứng nhắc, thiếu tính liên thông, ít gắn với nhu cầu xã hội, cần phải thay đổi nhiều về tổ chức, quản lý nội dung, chương trình, tài liệu học tập, đặc biệt là phương pháp dạy và học để thích ứng hệ thống giáo dục trong XHHT, bên cạnh hệ thống giáo dục tiếp tục. Hệ thống giáo dục tiếp tục có mô hình tổ chức linh hoạt, mềm dẻo; chương trình, nội dung dạy - học theo nhu cầu của người học, lấy tự học, học từ xa làm hình thức học tập chủ đạo; việc dạy - học được tiến hành trong các cơ sở giáo dục tổ chức theo các mục đích, yêu cầu của người học gồm các lớp xóa mù chữ, trường hay lớp bổ túc văn hóa, khoa hay lớp tại chức, trung tâm giáo dục thường xuyên trường hay TT dạy nghề, trung tâm học tập cộng đồng, lớp học gia đình, lớp học dòng họ Trên đây là một vài suy nghĩ bước đầu về vấn đề xây dựng XHHT, một vấn đề quá mới và quá khó. Chúng tôi mong bạn đọc tham gia trao đổi ý kiến về vấn đề này để dần đi đến một quan niệm chung, cùng góp sức xây dựng mô hình XHHT ở nước ta. (Có thể hình dung mô hình hệ thống giáo dục quốc dân trong XHHT theo sơ đồ dưới đây). NGUYỄN MẠNH CẦM Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam Xay dung xa hoi hoc tap la tam nguyen cua vbac Xây dựng xã hội học tập chính là thực hiện ý nguyện của Bác
  5. (Dân trí) - Có rất nhiều bài học về tấm gương đạo đức Bác Hồ mà chúng ta cần phải học tập, trong đó có tấm gương về học tập suốt đời đã hình thành "Tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập suốt đời". Học mọi lúc, mọi nơi Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo có truyền thống hiếu học, Bác Hồ đã được học hành từ thuở niên thiếu ở quê hương và sau đó là những năm tháng theo gia đình vào kinh đô Huế. Năm 1911, Bác trở thành thầy giáo Nguyễn Tất Thành daỵ học ở trường Dục Thanh, Phan Thiết, lúc hai mươi mốt tuổi. Trong những năm tháng ra đi tìm đường cứu nước, Bác Hồ đã học ở nhiều trường đại học cuộc đời. Bác đã học ở nhiều nơi trên thế giới từ châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, châu Á, học ở nhiều lĩnh vực, đặc biệt là học nghiên cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, học ngoại ngữ, học cách viết báo, làm báo. Bác đã học ở mọi nơi, mọi lúc. Học trong hầm tàu thuỷ viễn dương, học khi làm phụ bếp, học trong nhà tù của đế quốc, học ở thư viện, học ở giảng đường trong suốt ba mươi năm xa Tổ quốc. Trong điều kiện không có sự đùm bọc chăm sóc của gia đình, không có học bổng, không có cơ quan, tổ chức tài trợ, luôn bị đế quốc săn lùng, ám hại, song Bác vẫn học được và tìm ra được con đường cứu nước, con đường làm cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai sắc lệnh về sự học được ký cùng ngày Bác Hồ đã học tập suốt đời nên càng thấm thía cảnh lầm than, thất học của nhân dân các dân tộc thuộc địa. Khi còn hoạt động ở hải ngoại, năm 1919 Bác đã gửi đến Hội nghị Versailles bản yêu sách gồm tám điểm, trong đó điểm thứ sáu là: "Tự học tập và mở các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp cho người bản xứ ở khắp các tỉnh". Khi trở thành vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, Bác chỉ có ham muốn và ham muốn tột bậc là nước nhà được hoàn toàn độc lập, nhân dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Điều mong muốn của Bác đã được thể hiện ở những chủ trương, quyết sách của Đảng và Nhà nước ta, trong các lời dạy của Người. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Bác đã coi việc diệt giặc dốt quan trọng và cấp bách như diệt giặc đói, giặc ngoại xâm. Bác đã nhận ra trên 90% số dân ta mù chữ, thất học, đó là một quốc nạn. Bác còn cảnh báo: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Bác động viên khích lệ đồng bào: "Đi học là yêu nước". Ngày 8/9/1945 Hồ Chủ tịch đã ký hai sắc lệnh về thanh toán nạn mù chữ và thành lập Nha Bình dân học vụ. Đây là sắc lệnh đầu tiên về giáo dục của Nhà nước non trẻ vừa giành được độc lập. Mối quan hệ kinh tế - giáo dục Tiếp đó ngày 15/11/1945, Hội đồng Chính phủ đã quyết định mở lại Trường Đại học Đông Dương và đổi tên thành Trường Đại học Quốc gia Việt Nam, giảng dạy hoàn toàn
  6. bằng tiếng Việt. Bác Hồ đã đến dự lễ khai giảng đại học đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1945 của Bác có đoạn viết: "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em". Và sau này Bác lại nêu lên một triết lý sâu sắc thông qua một sự việc cụ thể, đơn giản, dễ nhớ là: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người". Bác nêu ra nguyên lý giáo dục "Học đi đôi với hành"; Bác coi việc phát triển kinh tế và phát triển giáo dục có quan hệ chặt chẽ với nhau: Không có kinh tế thì không có giáo dục, nhưng không có giáo dục thì cũng không có kinh tế. Học tập suốt đời là làm theo tấm gương của Bác Tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập suốt đời đã bắt gặp xu thế của thời đại khi trên thế giới giáo dục và đào tạo đã trở thành yếu tốt quyết định tương lai của mỗi dân tộc, của mỗi quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá. Trong thời đại ngày nay Đảng ta cũng đã khẳng định: "Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu". Đại hội Đảng lần thứ IX, X đã khẳng định mục tiêu: "Xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập" nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế của đất nước. Xuất phát từ các nghị quyết của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập suốt đười, Bộ Chính trị đã có chỉ thị số 50 - CT/TW ngày 24/8/1999 và chỉ thị số 11- CT/TW ngày 13/4/2007 về công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập và các chỉ thị, nghị quyết về công tác giáo dục, để thực hiện việc xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam. Chúng ta đã và đang phấn đấu để đưa nghị quyết của Đảng và Tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập suốt đời vào cuộc sống, nhằm xây dựng thành công xã hội học tập. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ, mỗi người dù ở cương vị nào, ngành nghề gì cũng cần phải học thường xuyên, học suốt đời, học để biết, để làm việc, để làm người, để chung sống và phát triển ở cộng đồng, góp phần xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập. Đặng Văn Cao (Hội Khuyến học tỉnh Thái Bình) Xay dung xa hoi hoc tap den nam 2010 Xây dựng xã hội học tập từ nay đến năm 2010 (HCM CityWeb) - Xây dựng xã hội học tập nhằm tạo cơ hội và điều kiện cho mọi người được học tập thường xuyên, liên tục và huy động mọi nguồn lực xã hội để phát triển giáo dục. Phó Chủ tịch Thường trực UBND.TPHCM Nguyễn Thành Tài đã chỉ đạo như trên tại cuộc họp Ban chỉ đạo xây dựng xã hội học tập TP. UBND.TP chủ trương thành lập các Trung tâm học tập ở các xã huyện ngoại thành, phường ở vùng ven; các phường trong nội thành cần tham khảo mô hình tổ chức Trung tâm học tập cộng đồng ở quận Tân Bình và 12 để xây dựng mô hình phù hợp.
  7. Việc thành lập Trung tâm học tập cộng đồng phải có kế hoạch, nội dung, chương trình hoạt động cụ thể; phường cần phối hợp tổ chức và tạo mọi điều kiện cho mọi người, mọi giới tham gia tích cực việc học; phổ biến kịp thời các thông tin liên quan đến phát triển nghề nghiệp và kinh nghiệm sản xuất. Trung tâm giáo dục cộng đồng phường - xã không nhất thiết phải có trụ sở riêng, nên sử dụng có hiệu quả các cơ sở giáo dục, văn hóa, thể dục thể thao tại địa phương cho hoạt động của Trung tâm. Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2006 - 2010 của TP cần đánh giá thực trạng học tập của người dân TP; so sánh kết quả thực hiện với các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đề án xây dựng xã hội học tập của Chính phủ để xây dựng các chỉ tiêu phù hợp. Đề án cần xác định rõ lộ trình thực hiện trong giai đoạn 2007 - 2010; trong đó chú trọng xây dựng giải pháp về tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành, nội dung hoạt động và nhân rộng các mô hình thích hợp đã triển khai. Giám đốc các sở - ngành, Thủ trưởng các cơ quan đơn vị, Chủ tịch UBND quận - huyện, phường - xã, thị trấn phải đề ra kế hoạch học tập nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ công chức, có kế hoạch triển khai chương trình xây dựng xã hội học tập tại địa phương từ nay đến cuối năm 2010 De xay dung mot xa hoi hoc tap Để xây dựng một xã hội học tập 03:51' PM - Thứ ba, 18/11/2003 Mới đây, Hội Khuyến học Việt Nam cùng với Bộ Giáo dục – Đào tạo và một số ngành liên quan đã có đề nghị lên Chính phủ về việc triển khai cuộc vận động "Toàn dân xây dựng cả nước trở thành một XHHT". Sau khi đã xem xét, ngày 27/10/2003, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã có ý kiến chỉ đạo về đề án "Xây dựng XHHT ở Việt Nam". Theo đó Thủ tướng nhấn mạnh: Việc xây dựng XHHT là hết sức cần thiết. Bộ GD-ĐT chủ trì cùng Hội Khuyến học và các bộ, ngành có liên quan xây dựng đề án về xây dựng XHHT trình Chính phủ trước ngày 30/12/2003. Để rộng đường dư luận, góp phần vào sự nghiệp lớn lao và cao quí này, Diễn đàn Hànội mới Điện tử mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của bạn đọc gần xa, các nhà nghiên cứu, các thầy cô giáo và tất cả những ai quan tâm đến cuộc vận động “Toàn dân xây dựng cả nước trở thành một XHHT”. Mở đầu, chúng tôi xin giới thiệu ý kiến của Giáo sư, Viện sĩ Phạm Tất Dong, Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam, nguyên Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương. Để mỗi người là một chủ thể sáng tạo trong một xã hội văn hóa và văn minh. GS. TS Phạm Tất Dong. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã làm thay đổi căn bản kỹ thuật và công nghệ sản xuất, giúp cho loài người tạo ra một lượng của cải vật chất công nghiệp từ năm 1970 trở lại đây bằng lượng của cải công nghiệp đạt được trong suốt 270 năm trước đó. Chính cuộc cách mạng khoa học và công
  8. nghệ này đã tạo ra những điều kiện thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, đồng thời nó buộc chúng ta phải đổi mới tư duy kinh tế và tư duy kỹ thuật của thời đại. Để sống với thế giới hiện đại, sánh vai với các nước phát triển, các quốc gia đều phải xây dựng cho mình một kho tàng trí tuệ đồ sộ và phong phú, phải có được nguồn nhân lưc chất lượng cao, có đủ năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, phải có đội ngũ lao động tri thức thích ứng cao độ với thế giới công nghệ hiện đại. Muốn vậy, mỗi con người trong xã hội phải lấy sự học hỏi làm lẽ sống của mình. XHHT hình thành từ những lý do đó. Trong XHHT, mỗi con người đều phải được giáo dục thường xuyên, đào tạo liên tục, học tập suốt đời. Khẩu hiệu “Đào tạo một lần cho một đời người” được thay đổi bằng khẩu hiệu “Đào tạo liên tục trong suốt đời người”. Trong XHHT, mỗi người đều có nhiều cơ hội học tập: Học tập ở nhà trường, học tập trong đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa. Do đó, hệ thống giáo dục không chỉ bó hẹp trong các loại hình nhà trường, mà còn trong các hình thức học ngoài nhà trường. Đó là hệ thống giáo dục mềm dẻo, tạo ra sự đa dạng của các ngành học, hình thức học, về những kênh liên thông giữa các loại hình khác nhau. Có thể nói, XHHT là một hiện tượng có tính qui luật của sự phát triển, là vấn đề chung của thời đại. Song mỗi nước lại có chiến lược xây dựng XHHT của riêng mình. Ở nước ta, theo quan điểm của tôi, khi xây dựng XHHT phải chú ý đến mấy điểm sau: Giai đoạn phát triển đầu tiên của XHHT phải gắn liền với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, xóa đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội. Phát triển học tập là để tạo ra sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Để làm được điều đó thì phải dựa vào khoa học và công nghệ, dựa vào một nền sản xuất bền vững. Bảo đảm sự tăng trưởng nhất thời đã là một việc khó, còn phải đảm bảo tăng trưởng bền vững lại càng khó hơn. Đối với bài toán tăng trưởng, dữ kiện quan trọng nhất là trí tuệ của dân tọc. Không ít quốc gia chủ trương khai thác triệt để môi sinh tăng trưởng. Tất nhiên tăng trưởng kinh tế chưa hẳn đã mang lại sự phát triển xã hội, bởi thu nhập tăng nhưng xã hội thiếu công bằng, thiếu dân chủ, văn minh thì chỉ là xã hội lạc hậu. Mà xã hội phát triển phải là xã hội có nhiều khả năng lựa chọn đối đối với người dân trong đời sống hàng ngày của họ. Chúng ta cũng cần phải hiểu cho đúng khái niệm giảm nghèo, trên cả 3 phương diện: giảm nghèo về tri thức, giảm nghèo về sức khỏe và giảm nghèo về cơ sở vật chất. Giai đoạn thứ hai của việc xây dựng XHHT là phát triển kinh tế tri thức dựa trên trên nguồn nhân lực chất lượng cao, trên cơ sở đầu tư vào một số vấn đề: Nhanh chóng phát triển hệ thống giáo dục sau trung học trong cộng đồng để
  9. trí thức hóa công, nông, tạo đội ngũ lao động tri thức. Đại chúng hóa giáo dục sau trung học phải được coi là một hướng phát triển giáo dục quan trọng; tăng đầu tư cho giáo dục để tăng tư bản con người (vốn con người). Muốn làm được điều này thì ngay từ bây giờ phải đổi mới tư duy giáo dục, xóa quan niệm chi phí cho giáo dục là chi phí tiêu dùng, thay vào đó là quan niệm về chi phí cho giáo dục mang tính sản xuất. Tư bản con người là tổng hợp các khả năng của người lao động và đồng thời là các khoản chí phí của Nhà nước, của doanh nghiệp và của mỗi người cho việc hình thành và thường xuyên hoàn thiện những khả năng đó; phải có đội ngũ nhân tài đông đảo về các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, khoa học, công nghệ, quân sự, quản lý kinh tế và quản lý xã hội, có đủ năng lực sáng tạo ra những công nghệ mới, làm chủ những công nghệ cao, bình đẳng với các quốc gia trong vấn đề trao đổi, chuyển giao công nghệ, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm động lực cho sự phát triển xã hội học tập, xây dựng con người Việt Nam hiện đại; thực hiện nền giáo dục 100% dân cư với yêu cầu phát triển hết mọi năng lực sẵn có trong mỗi con người như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn. Đó là nền giáo dục phát triển mạnh mẽ các tính con người, phát huy năng lực con người, làm cho mỗi người là một chủ thể sáng tạo trong một xã hội văn hóa và văn minh. Tóm lại, để xây dựng và hình thành được một XHHT, phải tập trung thực hiện 4 thay đổi lớn: Thứ nhất: Phải chuyển từ nhà trường dạy kiến thức sang dạy tri thức. Tạo điều kiện để học sinh chuyển từ học để hiểu được sang học để làm được, biến kiến thức thành tri thức của mình. Thay đổi tình trạng học sinh, sinh viên nước ta hiện nay vẫn thiên về lý thuyết mà kém khả năng thực hành. Thứ hai: Chuyển từ nền giáo dục chính quy, chỉ chú ý đến việc học của trẻ em mà coi nhẹ việc học tập của người lớn sang nền giáo dục chăm lo việc học tập cho mọi người thuộc mọi lứa tuổi. Nền giáo dục đó bao gồm: hệ thống giáo dục chính quy, không chính quy và phi chính quy. Nhà nước phải tạo điều kiện cho người dân được đăng ký học phi chính quy, học tập ngoài nhà trường, học bất cứ cái gì mà người dân cần. Thứ ba: Chuyển từ nền giáo dục thuần túy chạy theo văn bằng như hiện nay sang nền giáo dục coi trọng việc hình thành và phát triển nhân cách, không chạy theo bằng cấp. Nếu không người học chỉ cần đạt đến mục tiêu có bằng cấp là thôi, không còn động lực học tập để có tri thức, để làm việc. Thứ tư: Chuyển từ khẩu hiệu "Giáo dục cho mọi người" sang khẩu hiệu "Cả nước là một xã hội học tập". Nghĩa là chuyển từ cơ chế chỉ có nhà nước phải có trách nhiệm tạo điều kiện học tập cho người dân sang cơ chế mọi người dân đều phải có trách nhiệm học tập, học tập để khỏi bị thất nghiệp, bị xã hội đào thải, để không bị lạc hậu và theo kịp các bước tiến của khoa học và công
  10. nghệ Kiến tạo một xã hội học tập ở Việt Nam - những hạn chế từ lịch sử 07:02' PM - Trần Ngọc Vương Chủ nhật, Tạp chí Tia Sáng 20/08/2006 Nền kinh tế tri thức ở quy mô toàn xã hội tự nhiên đòi hỏi mọi thành viên của xã hội ấy đồng thời là những người năng sản bằng trí tuệ. Kiến tạo một xã hội học tập, không nghi ngờ gì nữa, là một con đường tất yếu mà Việt Nam phải khẩn trương hướng tới. Bài viết này xuất phát từ một góc nhìn cụ thể, là góc nhìn về logic - lịch sử sự vận động của đối tượng, lại chỉ muốn đề cập chủ yếu tới những hạn chế, những khía cạnh không thuận, nói khác, những khó khăn trong việc xây dựng một xã hội như thế, ở ta. 1. Giới tri thức tinh hoa trong lịch sử Việt Nam – những đặc điểm có thể thành chướng ngại cho việc xây dựng một xã hội học tập. Những người được coi là thuộc giới tri thức sớm nhất ở Việt Nam mà tên tuổi còn lưu lại, còn có thể khảo chứng được đa số lại là người Hán hoặc gốc Hán. Lý do thật đơn giản: cho đến nay một khi chưa có bằng chứng đầy đủ để khẳng định một thứ văn tự trước Hán và khác Hán từng tồn tại trong quá khứ ở Việt Nam thì đội ngũ những người dùng chữ viết sớm nhất là những người dùng chữ Hán (sử dụng "công cụ lao động" là chữ viết tuy không phải là tiêu chí duy nhất, nhưng chắc chắn là tiêu chí quan trọng nhất để xác định thành phần cho người tri thức. Có thể có những trường hợp đặc thù, ít hay thậm chí không dùng đến chữ viết để "hành” vẫn có thể là tri thức, nhưng đó chỉ là cái cá biệt làm sáng tỏ hơn quy luật). Nếu bắt đầu sự khảo sát của chúng ta về lịch sử tầng lớp trí thức Việt Nam từ sau khi Ngô Quyền giành lại độc lập, thì giới trí thức đầu tiên góp mặt đông đảo nhất đến từ đội ngũ các võ tướng và các nhà sư, rồi dàn nhà nho có số lượng áp đảo. (Tuy đã thuộc về một thời đại lịch sử xa xôi, giai đoạn Lý - Trần rất đáng được nghiền ngẫm trở lại bởi theo cảm nhận của tôi, đó là một giai đoạn còn tiềm tàng nhiều bài học cho cả thời nay). Như đã rõ, trong lịch sử Việt Nam cho đến tận đầu thế kỷ XX, mẫu hình tri thức tồn tại lâu dài nhất, có tác động lớn nhất đến đời sống tinh thần xã hội là nhà nho. Tinh thần văn hóa Nho giáo thấm sâu vào thành truyền thống, thậm chí thành bản sắc của nền văn hóa dân tộc. Về mặt tổng thể, nền văn hóa Việt Nam từ thế kỷ XIV đến hết thế kỷ XIX là nền văn hóa Nho giáo. Nếu lưu ý đến "đặc điểm lớn nhất của xã hội Việt Nam thời đại ngày nay" là sự phát triển bỏ qua (hay ít nhất cho đến nay cũng chưa thành một phương thức sản xuất một hình thái kinh tế - xã hội hoàn chỉnh) đối với hình thái kinh tế xã hội TBCN, thì phải đồng ý với nhiều nhà khoa học rằng Vệt Nam đi từ Nho giáo lên chủ nghĩa cộng sản. Trước khi có nền học vấn Âu hoá của thời hiện đại và cả khi nền học vấn đó đã, đang trở thành xu thế chủ đạo thì quán tính
  11. của nền học vấn truyền thống vẫn chi phối từng bước của lịch sử một cách mạnh mẽ, khá vô hình nhưng vẫn khá quyết liệt. Cái chết đang túm lấy cái sống. Sự "túm lấy" này, tuy không hoàn toàn chỉ mang nghĩa tiêu cực, nhưng nhũng tác động tiêu cực của nó là điều không thể xem thường. Trong vòng bảy, tám thế kỷ, đội ngũ ttrí thức nhà nho ở Việt Nam đã dần dần thay thế và cuối cùng là thay thế hẳn đội ngũ trí thức Phật giáo, tạo ra một nền học vấn kiểu nhà nho, và vì thế, ngả theo mô hình của nền học vấn Trung Hoa. Nhưng khác với giới trí thức Trung Hoa nói chung, tầng lớp nhà nho Trung Hoa nói riêng, chưa bao giờ tầng lớp nhà nho Việt Nam thực sự có thực sự độc lập tương đối về chính trị, nhất là trong quan hệ với chế độ chuyên chế, để có thể có được những thành tựu độc lập trong sáng tạo tri thức và những giá tinh thần đủ để vinh danh chỉ riêng tầng lớp của mình. Lý luận Nho giáo không được khái quát lên từ thực tế Việt Nam mà lý luận đó chỉ phù hợp nên có thể vận dụng được trên thực tế Việt Nam ở những thời gian lịch sử nhất định, do quãng thời gian lịch sử ấy có thể và trên thực tế đã kéo dài, thậm chí quá dài. Theo cách nhìn nhận cá nhân, tôi cho rằng phật giáo ở Việt Nam thật thịnh trong một khoảng thời gian không dài, nhưng lại có những thành tựu về sáng tạo tinh thần đột xuất và có những gương mặt trí tuệ đỉnh cao, khả dĩ vinh danh và đại diện cho trí tuệ Việt hơn cả những đóng góp mà nhà Nho tạo nên trong một thời kỳ lịch sử dài hơn nhiều. Nhìn vào nhũng sản phẩm đỉnh cao cuối cùng theo cách nhìn cầu trúc đồng đại hóa, sẽ thấy trong đội ngũ tri thức nhà nho Việt Nam thiếu một cách nghiêm trọng những trí tuệ lý thuyết, những xung năng sáng tạo lớn. Các tác giả Trần Văn Giàu, Trần Định Hươu, Hà Văn Tấn đã nhiều lần lưu ý đến sự thiếu hụt áy. Nói thiếu vắng hoàn toàn thì không phải, nhưng chắc chắn đội ngũ những người như vậy trong lịch sử Việt Nam khá thưa thớt, có nhũng thế kỷ hầu như không thể tìm thấy được. Điều đáng cảm thán không chỉ là "ôi thương sao những thế kỷ vắng anh hùng" như Chế Lan Viên từng thốt lên, mà cũng cả “ôi thương sao những thế kỷ vắng thiên tài"! Nhận xét tương đối tỉ mỉ hơn cả về điều này là ý kiến của cố học giả Trần Đình Hượu. a) Không có ai có hứng thú đi vào những tư tưởng triết học. Chưa có tác phẩm, tác giả chuyên về tư tưởng triết học. Nhũng người mà ta phải tính là các nhà tư tưởng như Nguyên Trãi, Nguyên Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Ngô Thời Nhậm, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đều là như vậy. Loại hình chính là những nhà hoạt động Nhà nước, những người làm văn học, học thuật (chủ yếu là sử học) và thông qua hoạt động chính trị, học thuật hay nghệ thuật của mình mà đề cập những vấn đề tư tưởng. Những ông thầy khi giảng kinh, sử cũng bàn những vần đề tư tưởng, mà nhiều khi chính những ông thầy đó lại nói tư tưởng nhiều hơn, nói nhiều nhưng là nói lại, có hay không sửa chữa chút ít. b) Ở đây chưa hình thành mối quan hệ tác động tương hỗ giữa khoa học kỹ
  12. thuật và triết học, tức là triết học làm cơ sở lý luận cho khoa học và phát triển theo sự phát triển của khoa học Có thay đổi thì cũng chỉ là lấy, bỏ, thêm, bớt từ những cái có sẵn trong và ngoài từng hệ thống Nhìn chung, tư duy lý luận không phát triển. Nhũng vấn đề nhận thức, logic, phương pháp không được bàn bạc. Ở đây phát triển một cách tư duy thực tiễn nhằm không phải vào sự chính xác mà sự hợp lý (phải khoảng). Cái ngự trị ở trong nhiều phạm vi là một cái lý - lẽ phải thông thường. Triết học không tách khỏi tôn giáo, học thuật. Về căn bản, trong lịch sử chưa xảy ra một sự thay đổi đến nền móng sản xuất, tổ chức xã hội, văn hóa, học thuật. Tôi nói cả văn hóa, học thuật vì khi còn học theo, bắt chước, nói lại thì chưa chưa gây ra tác động sâu từ khoa học sang triết học, không tạo ra cách mạng trong tư tưởng. Nền học vấn truyền thống theo Nho giáo ấy rút cuộc ở lớp trên cùng chỉ để ra được nhà nho - ông quan (đường quan hay học quan, vũ quan có học hay văn quan, kể cả loại "văn võ kiêm bị" đi nữa thì nói gọn lại, cũng chỉ là quan). Các loại hình trí thức then chốt của một xã hội trí thức, một kết cấu của tầng lớp trí thức thực thụ như nhà kỹ thuật, nhà khoa học ( hay tác giả) , nhà nghệ sĩ, tiếp đến là nhà tư tưởng - nhà triết học loại thì xuất hiện thưa thớt, mờ nhạt, loại thì hoàn toàn vắng bóng học giả lừng danh nhất trong lịch sử việt Nam trước thế kỷ XX là Lê Quý Đôn, người mà với tất cả sự ngưỡng mộ và lòng kính trọng cũng không thể gắn cho là tác giả của bất cứ định lý, định luật hay nguyên lý, quy tắc nào, ý tưởng nào thực thụ mang tính đột phá tri thức, có lẽ danh xưng xứng đáng nhất trong việc phân loại chuyên gia khoa học thời hiện đại là nhà sưu tầm, nhà biên khảo hay nhà thư tịch học. Thật đau lòng khi phải nói lên điều này. Bộ phận hiền nho - các nhà nho hữu danh và thành đạt cũng hầu như không có ai đủ can đảm để chỉ "đi đến cùng một con đường đã chọn”, có lẽ trừ Hải Thượng Lãn ông. Ngay Hải Thượng Lãn ông cũng chọn con đường trở thành một danh y vào lúc tuổi đời không còn trẻ và tình huống cơ hồ không thể khác. Nói tổng quát, màu tri thức nhà nho ở ta chuyên môn hóa khá muộn màng và không trở nên đội ngũ chuyên gia thực thụ, hầu như bất cứ bình diện nào của lao động sáng tạo tinh thần. Trong các hoạt động nghệ thuật, chỉ thơ là có thành tựu nổi bạt, nhưng không có ai, kể cả nhà thơ vĩ đại nhất trong lịch sử văn học dân tộc là Nguyễn Du cũng không trở thành nhà thơ "chuyên nghiệp". Một khi hoạt động sáng tạo tinh thần, lao động trí óc chưa được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, thì mọi hoạt động lao động khác gắn liền với các hệ thống tri thức chuyên nghiệp sẽ chỉ trở thành các loại lao động thủ công, nghiệp dư. Tình trạng đó là phổ biến từ các loại làng nghề gắn bó xa gần với hoạt động nghệ thuật cho chí các loại làng nghề sản xuất ra các sản phẩm thuần túy mang tính thương mại. "Công tượng", gọi nôm na là thợ, xếp loại
  13. ba, sau nông dân, còn được an ủi là xếp trên loại người tiêu thụ sản phẩm cho họ, tức thương nhân, tầng lớp dưới đáy, bị gọi là miệt thị là loại “con buôn”, ý coi ngang ngang như các loại người bị coi là con gì gì khác. Việc cất giữ các bí mật nghề nghiệp thành tâm lý phổ biến không đơn thuần chỉ để giữ gìn phương tiện mưu sinh: theo ý tôi trong cách hành xử ấy còn tiềm ẩn cả tâm trạng ẩn ức, cả sự chống đối theo tiêu cực, cả niềm kiêu hãnh về hững phẩm tính và kỹ năng ưu việt không được thừa nhận. Gia nhập xã hội hiện đại theo con đường bị cưỡng bức, không hề được chuẩn bi đầy đủ về mọi phương diện để thích nghi, thiếu nghiêm trọng những kinh nghiệm và thực tế tương ứng được với xã hội hiện đại từ truyền thống, tóm lại, với tính nhược tiểu thể hiện khá "hoàn hào", giới trí thức Việt Nam khi trở thành "tầng lớp trí thức bản xứ” thêm một lần nữa bị chủ nghĩa thực dân vầy vò, ép ướp, hoàn toàn có chủ đích chỉ nhằm biến đổi họ thành đám vong quốc nô có chủ nghĩa. Lịch sử còn lưu lại vố số bằng chứng cả trực tiếp, cả gián tiếp chứng minh cho đường lối chính trị, chính sách tri thức thuộc địa này của thực dân Pháp. Từ sau cách mạng tháng tám, thân phận con người, thân phận công dân của người tri thức được đổi thay về chất. Đại đa số những tri thức trong xã hội cũ vì thế hăng hái tham gai bằng sở học của mình vào các công việc của xã hội mới. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, tuy có quá nhiều khó khăn khách quan, một thế hệ tri thức mới đã xã hội, trưởng thành trong thời chống Pháp. Đội ngũ này, tuy về số lượng không thật đông đảo, nhưng đặc biệt có chất lượng. Đa số những tên tuổi lớn trong các lĩnh vực khoa học - kỹ thuật và nghệ thuật thời gian qua của ta là thuộc về hoặc cơ bản là thuộc về thế hệ này. Phần lớn họ là những người ra đời trong khoảng từ 1920 - 1932. Không phải ngẫu nhiên tôi chọn những mốc này, cho đến khi cách mạng tháng Tám nổ ra, hầu hết họ đều đã có một thời kỳ học phổ thông và có được một "lưng vốn" tri thức nói chung, tiếng Pháp hay một ngoại ngữ nói riêng đủ để tự đọc sách và tự học tiếp tục. Những người sinh trước năm 1920 nếu thành danh thì đã thành danh trước cách mạng, mà những người sinh sau 1932 thì “không kịp” có điều kiện như vừ tính tới. Nhưng cũng từ sau cách mạng tháng Tám xã hội Việt Nam trải qua hơn 30 năm là xã hội thời chiến hoặc bị chi phối mạnh mẽ bởi những hoàn cảnh thời chiến. Trừ một hai lĩnh vực đặc biệt, chiến tranh không phải là điều kiện dương tính cho sự phát triển của lĩnh vực lao động tri thức. Không quá khó khăn để chỉ ra các lĩnh vực đặc biệt ấy. Dù muốn dù không, tính phục vụ trực tiếp tính ứng dụng là những yêu cầu được đặt lên hàng đầu đối với lao động của người trí thức trong hoàn cảnh ấy. Cũng khó mà tạo ra những diện mạo tri thức, những tên tuổi lớn theo líii hàng loạt trong điều kiện như vậy. Mặt khác, kề từ sau cách mạng tháng Tám, nền khoa học non trẻ của Việt Nam nhận được sự bổ sung về nguồn tri thức từ các nước XHCN có nền khoa học tiên tiến, chủ yếu là từ Liên Xô và mức độ khác, từ Trung Quốc. Nhưng
  14. rồi giữa Liên Xô và Trung Quốc đã nổ ra những bất đồng. Tiếp theo đó là đại cách mạng văn hóa vô sản, tuy diễn ra và tác động tai hại trước hết và chủ yếu là ở Trung Quốc, nhưng không thể nói Việt Nam nằm ngoài vòng ảnh hưởng của biến cố này. Trong giới khoa học Việt Nam những năm 1967 - 1970 nhiều nạn nhân bị quy kết là chuyên môn thuần túy, thiên tài chủ nghĩa, mặc dù thế một số khá đông trong họ vẫn còn kịp có những cống hiến khoa học xuất sắc, kịp được nhận những giải thưởng khoa học cao quý như giải thưởng Hồ Chí Minh hay giải thưởng Nhà nước. Có thể nói cho đến nay, ở ta mới có những người trí thức lớn - không đông lắm mà nói thực thì cũng chưa được "lớn" lắm - nhưng chưa thể nói rằng đã có giới trí thức tinh hoa. Mà chừng nào tri thức tinh hoa chưa thành một giới, nôm na là núi không có đỉnh, thì khó lòng bàn đến "tầm" trí tuệ Việt Nam, tuy đó là điều kiện không hiếm người thành tâm khao khát khẳng định. 2. Từ chuyện người có học đến chuyện kiến tạo một xã hội học tập Việc kiến tạo một xã hội học tập trong đó mọi thành viên đều được học tập lại là điệu tuyệt đối không dễ dàng. Bên cạnh đòi hỏi về một nguồn ngân sách Nhà nước khổng lồ, một nguồn tài chính từ trong nhân dân hừng hậu, còn cần tạo ra được một cương lĩnh, một chương trình giáo dục vừa phải ưu việt vừa phải mang tính khả thi. Một xã hội học tập lại cũng là một xã hội đòi hỏi một đội ngũ cực đông đảo những người giáo dục và quản lý giáo dục có chất lượng, dù yêu cầu tự học có tăng lên đến mức tối đa chăng nữa. Một hệ vấn đề tưởng như đã cũ nhưng do việc tìm lời giải đáp cho đến nay còn mơ hồ nên hóa ra lại thành hệ vấn đề thời sự đó là đáp án đúng cho những câu hỏi nền tảng: ai là người cần học, học cái gì, học ở đâu, học đến đâu, học để làm gì? Điều lạ lùng là, theo tôi, đối với tất cả các câu hỏi này, tìm từ trong lịch sử, đều chỉ thu về được những lời đáp đáng thất vọng trên thực tế. Trong những phẩm chất mà nhiều người muốn đề lên thành phẩm chất dân tộc, liên quan đến chuyện học hành, có đức tính hiếu học, và vì thế, truyền thống tôn sư trọng đạo. Thật đáng ngạc nhiên, người ta có thể gán một phẩm chất cho một chủ thể không có khả năng thực tế để thực hiện phẩm chất đó. Ít nhất, từ cách mạng tháng 8 trở về trước, căn cứ vào các con số điều tra và thống kê, tuy có sai khác, nhưng dao động trong khoảng từ 95% - 99% người Việt Nam mù chữ. Một cộng đồng với tuyệt đại đa số người không được học, không đi học, không biết chữ, làm sao xác định rằng cộng đồng đó hiếu học hay không? Tôi nêu lại vấn đề này không phải vì hiểu sự hay thích gây sự, mà nhằm tìm kiếm câu trả lời đúng cho câu hỏi đầu tiên đã nêu ở trên: ai cần học? Nhu cầu học tập là một loại nhu cầu thứ sinh, không phải là nhu cầu mang tính tự nhiên như những nhu cầu mà Marx đã đề cập ở con người trước khi
  15. nó xây dựng nên những cộng đồng xã hội như ăn, mặc, ở, đi lại, sinh con đẻ cái Loại nhu cầu có tính tự giác, duy lý mang tính định hướng mục tiêu này chỉ được thỏa mãn thật sự khi mục tiêu thật sự rõ ràng. Như đã rõ, tuy nói rằng nhà nho từng tự đòi hỏi phải tinh thông "lục nghệ" (lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số), và với những người được ca ngợi là thông minh cái thế, thì "trên thông thiên văn, dưới tường địa lý" nhưng nền giáo dục Nho giáo, căn cứ vào việc khảo sát các loại đề thi ở cấp cao nhất là Đình thí hay Điện thí, yêu cầu chủ yếu đối với người đỗ Tiến sĩ (kể cả đệ nhất giáp, tức đỗ đến Trạng nguyên, Bảng nhãn hay Thám hoa), cũng chỉ tập trung vào 2 nội dung chủ yếu: văn chương và đạo lý. Nho giáo khởi đầu là một học thuyết đạo đức và cốt lõi của nó cho đến cùng vẫn là những nội dung đạo đức, nên giáo dục mà nó triển khai trong hàng vài nghìn năm bi trói buộc chặt chẽ vào những yêu cầu hiểu và thực hành trước hết là những nội dung đạo đức. Quanh quẩn với những "tu, tề trị, bình", với những "hành, tàng, xuất, xử", cả hai nội dung lớn mà một nền giáo dục lành mạnh bất kỳ nào cũng phải hướng tới là tri thức và kỹ năng lại đã chỉ được nền giáo dục Nho giáo đáp ứng một cách cực tiểu, tối thiểu. Đói diện với chủ nghĩa thực dân, dù vững tin vào đạo lý, vào chính nghĩa của mình, nhà Nho đã phải nhanh chóng cay đắng thừa nhận “gươm nhân giáo nghĩa” không trụ nổi với “giáp bền gươm sắc", càng không thể đương đầu có hiệu quả với "tàu thiếc tàu đồng, ngư lôi đại bác". Sự tỉnh thức của chính các nhà nho Duy tân đầu thế kỷ XX là một tình huống thời sự kéo dài, cho đến nay lại càng thêm cấp bách. Những tri thức, kỹ năng toàn diện và ở trình độ cao, có được là nhờ nhũng nỗ lực cá nhân to lớn và những chi phí còn to lớn hơn, lại là điều quá xa xỉ trong một xa hội nông nghiệp sản xuất nhỏ. Không hình thành nổi nhu cầu học tập mạnh mẽ và đích thực một khi không/ hay chưa có chỗ ứng dụng những tri thức và kỹ năng học tập được ấy. Chưa bao giờ giáo dục ở ta được hạch toán như là đầu vào (imput) của một chu trình liên tục trong nền kinh tế quốc dân, như là một tham số hữu cơ của nền kinh tế mà chỉ mới được quan niệm như là một vấn đề thuộc phúc lợi xã hội. Những năm gần đây, khi vỡ lẽ ra (chẳng lẽ mãi mà không vỡ lẽ ra cái điều tối thiểu ấy?) rằng giáo dục là động lực để cải tạo nền kinh tế, các quyết sách về giáo dục văn chỉ mới chuyển động ở cầp vi mô: không ai giải thích với chúng ta, từ ông Bộ truởng Bộ Giáo dục, cho đến câc ông Hiệu trưởng các trường chuyên nghiệp, các Bộ chuyên ngành rằng tại sao năm nay, thời gian này, từng trường một lại cần và có thể tuyển số lượng sinh viên là như thế, mà không phải là những con số khác. Các giám đốc Sở giáo dục không thuyết trình rõtại sao tỉnh này cần đến ngần này loại trường, ngầnnày loại lớp Cho đến nay, kể cả ở các truờng Đại học lớn, vốn được tiếng, hay nói theo ngôn ngữ hành chính là đảm nhiệm chức năng "máy cái", vẫn có lượng sinh viên tại chức đông hon chính quy, trong khi tỷ lệ mà báo chí nêu, có đến 70 - 80% sinh viên chính quy tốt nghiệp không có việc hay làm việc không đúng chuyên môn được đào tạo. Vì vậy cùng với việc nâng cao chất lượng cãc trường Đại học, cần hình thành
  16. cho được hệ thống các trường dạy nghề đa dạng, phong phú, số lượng lớn, vừa kế thừa và phát huy được những thứ nghề truyền thống, vừa đón bắt nhu cầu của các loại ngành nghề mới của công nghiệp, dịch vụ hiện đại, khiến cho tuyệt đại đa số người lao động còn có khả năng lao động hay lớp trẻ khi nhìn vào tương lai có được sự bình thản khi nghĩ tới chỗ làm, nghĩ tới "đầu ra", phải chăng một sự tiên lượng về những việc phải làm trong quỹ đạo này, từ trưóc tới nay, vốn là bất khả và từ giờ trở đi, vẫn cứ là "chưa phải lúc"? Theo ý tôi, cái xã hội học tập mà ta mong muốn kiến tạo, cần trước hết tập trung vào đối tượng này. Nguồn: Tạp chí Tia Ðể xã hội học tập thành hiện thực sinh động và hiệu quả. Khái niệm xã hội học tập (XHHT) đang ngày càng trở nên quen thuộc với những ai vốn quan tâm đến sự học. Nhưng XHHT trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế muốn phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả văn hóa - kinh tế, đang rất cần sự đầu tư thỏa đáng trên cơ sở sự nhận thức sâu sắc và thấu hiểu của các cấp ủy, chính quyền. Ðó là xây dựng XHHT trước hết là làm lợi ích cho địa phương mình. Ham học, hiếu học là một khí chất đẹp mang tính truyền thống của dân tộc ta. Tựa vào nền tảng và bản sắc ấy, nắm bắt bản chất và đặc điểm thời đại của CNH, HÐH đất nước (chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, vừa phải đưa một số lĩnh vực sản xuất đi vào kinh tế tri thức - công nghệ cao), ở góc độ dân trí và tạo nguồn nhân lực, Hội Khuyến học Việt Nam tâm đắc và kiên trì chủ trương xây dựng một XHHT. Cả nước hiện có 8.150 trung tâm học tập cộng đồng, 100% số tỉnh, thành hội (khuyến học) tổ chức TTHTCÐ, 50% số tỉnh, thành hội đã xây dựng được gần 100% số xã, phường có TTHTCÐ, trong đó gần 50% trung tâm hoạt động khá và tốt, 25% trung tâm hoạt động trung bình Ðáng chú ý, hầu
  17. hết các địa phương có TTHTCÐ đang hoạt động Mới đây, chủ trương đã trở thành một đề tài còn nghèo. Ðầu tư ban đầu rất hạn chế. Cơ sở vật nghiên cứu cấp nhà nước. Khái niệm XHHT chất cho hoạt động các TTHTCÐ còn thiếu thốn, ra đời, hấp dẫn các tầng lớp nhân dân lao thiếu phương tiện quản lý, đồ dùng học tập và tài động bởi bản chất sinh động và mới mẻ của liệu học tập. nó: một xã hội mà nền giáo dục trong đó Nguồn: Hội Khuyến học Việt Nam luôn tạo ra mọi cơ hội, mọi điều kiện để bất cứ người nào, không phân biệt tuổi tác, vị trí, nghề nghiệp đều có thể học tập trong những thời gian khác nhau, không gian khác nhau, học liên tục, học suốt đời. Vậy, cấu trúc của XHHT là như thế nào? Theo các chuyên gia giáo dục, XHHT bao gồm những thiết chế giáo dục khác nhau, nhưng có thể thấy cơ bản có hai hệ thống. 1) Hệ thống giáo dục ban đầu (trong nhà trường): bao gồm các loại hình trường học, cấp học, từ mầm non đến đại học, sau đại học (đào tạo tiến sĩ). Một đời người nếu học hết hệ thống này ước tính chừng mất 25 năm. 2) Hệ thống giáo dục thường xuyên (ngoài nhà trường), là hệ thống giáo dục kéo dài liên tục suốt đời, chủ yếu dành cho người lao động lớn tuổi hoặc tuổi trẻ có nhu cầu. Hạt nhân của hệ thống giáo dục thường xuyên là các trung tâm giáo dục cộng đồng (TTGDCÐ). Nếu như hệ thống giáo dục ban đầu, với đối tượng thanh niên, thiếu niên là chủ yếu, mới chỉ giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ tích lũy kiến thức, thì hệ thống giáo dục thường xuyên, với đối tượng người đang tuổi lao động là chủ yếu, lại cực kỳ quan trọng vì đây là lứa tuổi trực tiếp tạo ra sản phẩm, năng suất lao động cho xã hội. Nhưng sự bất cập trong chính sách đầu tư giáo dục hiện nay là chỉ có gần 25 triệu học sinh, sinh viên theo học hệ thống giáo dục trong nhà trường (chính quy) được đầu tư, còn hệ thống giáo dục ngoài nhà trường (giáo dục thường xuyên) không có bất cứ một chế độ, chính sách nào. Mặt khác, cũng phải sòng phẳng mà nói rằng, mặc dù phát triển với số lượng lớn nhưng các TTGDCÐ hiện còn rất nhiều điều phải bàn. Thứ nhất, đa phần các TTGDCÐ mới chỉ nảy nở và "khôn lớn" ở vùng nông thôn các xã
  18. gắn với ruộng đồng, người lao động chủ yếu là nông dân được thụ hưởng. Còn ở vùng đô thị, thành phố, các TTGDCÐ rất khó sinh sôi, định hình bởi nhu cầu học tập của người lao động ở đô thị, thành phố, dường như mang tính đặc thù mà các TTGDCÐ chưa tìm ra lối đi. Thứ hai, phổ biến các TTGDCÐ tồn tại và phát triển được là nhờ vào cơ chế xin - cho, thậm chí có nhiều nơi gọi đùa là nhờ vào lòng "từ thiện" của các cấp ủy, chính quyền, trong khi có nhiều TTGDCÐ hoạt động khá tốt, nội dung giáo dục của các trung tâm gắn chặt chẽ với việc tăng năng suất lao động, đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi Ðể giáo dục có thể cống hiến cho sự phát triển kinh Thứ ba, cơ chế quản lý của TTGDCÐ hiện tế - xã hội khi tri thức đã trở thành yếu tố quyết không rõ ràng, chương trình học của các định hàng đầu trong cạnh tranh, các quốc gia đều TTGDCÐ không thống nhất. Có trung tâm cần đến một hệ thống giáo dục mềm dẻo, đáp ứng học về vật nuôi, cây trồng, nhưng có trung được mọi yêu cầu học tập của từng con người, của tâm lại chỉ học tập, sinh hoạt chính trị, tìm từng cộng đồng, tạo ra được ngày càng nhiều cơ hội học tập cho con người trong mọi thời gian và hiểu các chủ trương, đường lối, chính sách. không gian khác nhau. Người ta đã mở rộng nhiều khái niệm trên cơ sở đó, định ra những chiến lược Thứ tư, đội ngũ giảng viên các TTGDCÐ giáo dục và đào tạo. không ổn định, các TTGDCÐ lại không thể GS TS PHẠM TẤT DONG (Hội Khuyến học Việt Nam) khai thác hoặc tận dụng chất xám của đội ngũ này (kỹ sư, cán bộ khuyến nông, khuyến ngư ) vì không có bất cứ chế độ kinh phí, tài chính nào thù lao cho họ. Thứ năm, sự phát triển của các doanh nghiệp, các khu chế xuất nhập công nghệ mới đòi hỏi đội ngũ công nhân ở đây phải được đào tạo lại, hoặc bồi dưỡng nâng cao trình độ, tay nghề. Vậy vấn đề học tập của đội ngũ này được đặt ra như thế nào?. Thứ sáu, xã hội ta có đội ngũ cán bộ về hưu, người già, người cao tuổi ngày càng đông, việc tổ chức và tập hợp khuyến học của họ gắn với đặc điểm lứa tuổi, môi trường sinh hoạt của họ làm sao để họ thấy mình vẫn hữu ích, không trở thành gánh nặng cho xã hội, gia đình, con cháu?
  19. Cũng theo các chuyên gia giáo dục, XHHT không chỉ là xã hội học chữ, mà sâu xa hơn, XHHT làm tăng ba loại vốn. Ðó là vốn con người (Nghĩa hẹp: mỗi con người nhờ có giáo dục mà có kiến thức kỹ năng nghề nghiệp, có thu nhập tiền lương và địa vị xã hội. Nghĩa rộng: nền kinh tế mỗi nước tồn tại và phát triển nhờ vốn vật chất như tài nguyên, đất đai, song chủ yếu nhờ vốn con người, kết quả tổng hợp của giáo dục tạo ra trình độ lành nghề của đội ngũ lao động). Ðó là vốn xã hội (mức độ đoàn kết xã hội, tinh thần sẵn sàng hành động vì những điều tốt đẹp, phản ánh niềm tin xã hội, các quy tắc hợp tác và quan hệ giữa các cá nhân. Vốn xã hội tạo ra sức mạnh tổng hợp trong quan hệ giữa Nhà nước và xã hội dân sự). Ðó là vốn tổ chức (mọi người trong tổ chức làm việc theo luật và quy chế, đối xử nhân ái, gắn bó với nhau theo tinh thần đồng đội). Ðất nước ta đang là đất nước phát triển, tổng thu nhập kinh tế quốc dân và mức sống bình quân chưa cao, nền tảng dân trí còn thấp. Giáo dục phi chính quy - học tập suốt đời là phương thức chủ yếu mang tính then chốt của chiến lược phát triển giáo dục ở nước ta trong thế kỷ 21. Xây dựng và phát triển hệ thống này không cần phải có một mô hình riêng biệt, vì nó vô cùng linh hoạt và mềm dẻo, nó không cần trường lớp chính quy theo nghĩa truyền thống. Nó là một hệ thống mang tính tổng hợp bao gồm tất cả các phương thức để học tập suốt đời kể cả chính quy và không chính quy. Với đặc thù như vậy, nền giáo dục phi chính quy - học tập suốt đời được coi là một nhu cầu có tính cấp thiết trong một thị trường lao động đầy biến động trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới chuyển từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó phù hợp sự phát triển và tiến bộ nhanh chóng của khoa học,
  20. công nghệ, của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HÐH và Ðể XHHT thật sự từ lượng biến thành chất, của cả truyền thống văn hóa lâu dài, lòng hiếu học từ phong trào mang tính bề nổi trở thành của dân tộc ta. thiết chế giáo dục có chiều sâu, thành hiện GS, TSKH VŨ NGỌC HẢI thực sinh động và có hiệu quả, đem lại lợi (Viện Nghiên cứu phát triển Giáo dục) ích văn hóa - kinh tế cho đất nước, nhưng trước hết cho mỗi cá nhân, gia đình, dòng họ, thì mô hình này bên cạnh sức sống nội tại, tự thân của nó còn rất trẻ trung, non nớt, rất cần sự trợ lực. Trước hết là sự trợ lực của hệ thống giáo dục chính quy, ban đầu (trong nhà trường). Công cuộc đổi mới giáo dục phổ thông, giáo dục đại học cần được đẩy mạnh, đổi mới triệt để, tạo ra sự chuyển biến về chất lượng giáo dục và đào tạo, có thế mới không làm nảy sinh những hệ lụy khiến hệ thống giáo dục thường xuyên (ngoài nhà trường) vốn đang còn yếu ớt phải gánh đỡ. Quan trọng nữa, Nhà nước có chính sách đầu tư thống nhất, nhất quán tạo điều kiện các TTGDCÐ hoạt động, bởi cách đầu tư cho các TTGDCÐ hiện ở trạng thái "trăm hoa đua nở". Có tỉnh đầu tư một triệu đồng/trung tâm. Có tỉnh không đầu tư một đồng nào (!). Các TTGDCÐ phải tự xoay sở, tùy tâm huyết, nhiệt tình mà tồn tại và phát triển. Sự đầu tư còn thể hiện có chính sách, chế độ cụ thể cho giảng viên, cán bộ điều hành các TTGDCÐ. Các TTGDCÐ cần được trang bị những thiết bị tối thiểu, hoặc cơ bản để người học được cập nhật thông tin gắn với xóa đói, giảm nghèo, với chuyển dịch cơ cấu cây trồng, với sinh nở có kế hoạch, xây dựng gia đình văn hóa, làng xóm và xã hội văn minh Ðặc biệt, cấp ủy đảng, chính quyền các địa phương phải có sự nhận thức đúng và thấu hiểu về bản chất XHHT đem lại lợi ích trước hết cho địa phương mình, thông qua các hình thức dạy nghề, các TTGDCÐ mà phát triển ba loại vốn nói trên: vốn con người, vốn xã hội, vốn tổ chức. Ðó cũng là thấu hiểu sự đòi hỏi của thời đại về XHHT với khái niệm hiện đại "xóa nghèo trước hết là xóa nghèo tri thức", góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội - văn hóa của địa
  21. phương mình và cả đất nước đi nhanh hơn trong thời hội nhập. KIM DUNG Theo Nhân dân - TTTT&CTGGD Theo www.hcm.edu.vn Người gửi : NTH 20/04/2007 10:21:16 Xây dựng xã hội học tập và phát triển trung tâm học tập cộng đồng (VOV) - Hiện cả nước có hơn 9.000 trung tâm giáo dục cộng đồng; phong trào khuyến học, khuyến tài phát triển rộng khắp tới tất cả các tỉnh, thành, thôn, bản. Sáng 27/10 tại Hà Nội, Bộ Giáo dục-Đào tạo phối hợp với Hội Khuyến học Việt Nam tổ chức hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện đề án “Xây dựng xã hội học tập và phát triển trung tâm học tập cộng đồng”. Đến dự hội nghị có Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Giáo dục-Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân và gần 200 đại biểu là cán bộ ngành Giáo dục. Sau 3 năm thực hiện đề án, phong trào Khuyến học, khuyến tài của Hội Khuyến học Việt Nam đã phát triển nhanh chóng với tốc độ kỷ lục: 100% các tỉnh, thành đều có Hội Khuyến học, Quỹ Khuyến học; hơn 9.000 trung tâm giáo dục cộng đồng với trên 6 triệu hội viên sinh hoạt trong hơn 250.000 chi hội. Cả nước có hơn 3 triệu gia đình được công nhận là “Gia đình hiếu học” và đã có hơn 50.000 dòng họ được công nhận là “Dòng họ khuyến học”. Hàng năm, Quỹ Khuyến học ở các cấp và địa phương dành từ 250-300 tỷ đồng vào các hoạt động hỗ trợ học sinh, sinh viên giỏi vượt khó, trợ giúp nhiều thầy, cô giáo gặp hoàn cảnh khó khăn Từ năm 2005- 2008, cả nước đã huy động được trên 163.000 người ra lớp học xoá mù chữ và trên 123.000 người tiếp tục theo học các lớp giáo dục sau khi biết chữ. Phát biểu tại hội nghị, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân biểu dương những kết quả đạt được của ngành Giáo dục-Đào tạo nói chung và Hội Khuyến học các địa phương khi triển khai đề án. Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh: Đề án “Xây dựng xã hội học tập và phát triển trung tâm học tập cộng đồng” đã góp phần kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân tham gia học tập, khắc phục tình trạng học sinh bỏ học, nâng cao dân trí của người dân.
  22. Theo Phó Thủ tướng, để đề án có hiệu quả, Bộ Giáo dục-Đào tạo và Hội Khuyến học Việt Nam cần tăng cường phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các địa phương phát triển phong trào Khuyến học khuyến tài; Gia đình hiếu học, dòng họ khuyến học. Đặc biệt, ưu tiên chú trọng tới phát triển giáo dục ở vùng sâu, vùng xa khó khăn, biên giới hải đảo để tất cả người dân đều có quyền được đi học. Tại hội nghị, bà Vibeke Jesen, Trưởng đại diện Văn phòng UNESCO Hà Nội đánh giá cao những kết quả đạt được của ngành Giáo dục Việt Nam khi thực hiện đề án “Xây dựng xã hội học tập và phát triển trung tâm học tập cộng đồng”. Bà Vibeke Jesen cho rằng, trên cơ sở những thành quả đạt được, Việt Nam cần tiếp tục phát triển mạng lưới trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm giáo dục cộng đồng và các cơ sở học tập, bồi dưỡng thường xuyên cho người dân và trẻ em bị khuyết tật, tàn tật và những người có hoàn cảnh khó khăn. Có như vậy, việc xây dựng phong trào “Cả nước trở thành một xã hội học tập” của Việt Nam mới thực sự thiết thực và có hiệu quả. Ông Trần Xuân Nhĩ, Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam cho biết: Từ nay đến năm 2010, Bộ Giáo dục-Đào tạo và Hội Khuyến học sẽ cùng với các địa phương tiếp tục triển khai đề án với các hoạt động: Đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý giáo dục; Ưu tiên dành ngân sách cho việc xây dựng trường lớp, cơ sở vật chất tại những vùng khó khăn, vùng có đông dân tộc thiểu số; Mở rộng các hình thức học tập tới người dân không có điều kiện trực tiếp đến trường học /. Chu Miên Động lực xây dựng xã hội học tập 1 2 3 4 5 (4 phiếu) 12/01/2008 (HNM) - Để triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 11 -CT/TƯ ngày 13-4-2007 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập”, Thành ủy Hà Nội đã xây dựng Chương trình hành động số 26- CTr/TU ngày 20-12-2007 và Ban Tuyên giáo Thành ủy đã tổ chức hội nghị triển khai tới lãnh đạo các ban đảng, các sở, ngành, đoàn thể, các quận, huyện và cán bộ làm công tác khuyến học vào ngày 28-12.
  23. Kế hoạch hoạt động của Hội khuyến học Hà Nội nhằm triển khai Chỉ thị và Chương trình này cũng đã xác định mục tiêu: phát huy mọi nguồn lực, từng bước chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở, nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Theo đánh giá của đồng chí Phan Đăng Long- Phó Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy, công tác khuyến học, khuyến tài luôn được các cấp ủy đảng, chính quyền đặc biệt quan tâm, đặc biệt từ sau khi có Chỉ thị 50-CT/TƯ (năm 1999) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với Con cháu họ Hoàng ở xã Cổ công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học Nhuế (huyện Từ Liêm) tìm tập. Sau 8 năm, công tác khuyến học cả nước nói chung, hiểu truyền thống hiếu học của Thủ đô nói riêng đã đạt được nhiều kết quả, góp phần dòng họ. Ảnh: Bích Ngọc vào những thành tựu lớn của sự nghiệp GD-ĐT. Mặc dù vậy, hoạt động này vẫn cần được phát triển rộng, sâu, thiết thực hơn nữa, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Trong điều kiện hiện nay, công tác khuyến học sẽ phải gắn liền với việc xây dựng một môi trường giáo dục lành mạnh, tạo cơ hội cho mọi người dân được học tập thường xuyên, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Chính vì vậy, Bộ chính trị đã ban hành Chỉ thị 11-CT/TƯ yêu cầu các cấp ủy đảng tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, với 4 nội dung cơ bản. Đây là một cơ sở quan trọng để các địa phương đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài nhằm huy động nguồn lực, sự quan tâm, sự đầu tư cũng như trách nhiệm của toàn xã hội đối với sự nghiệp giáo dục. Để triển khai có hiệu quả Chỉ thị của Bộ Chính trị, biến đường lối, chủ trương của Đảng thành những mục tiêu, giải pháp cụ thể, Thành ủy đã ban hành Chương trình hành động. Mục tiêu chung được đặt ra là làm cho các cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên, công chức và nhân dân Thủ đô nâng cao nhận thức và trách nhiệm thực hiện Chỉ thị 11. Từ đó, các cấp ủy đảng chỉ đạo xây dựng kế hoạch thực hiện nhằm phát huy nguồn lực xã hội để phát triển sự nghiệp giáo dục, từng bước chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở-mô hình xã hội học tập theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng; nâng cao vị thế của ngành GD-ĐT Thủ đô, đi đầu cả nước trong thực hiện 3 nhiệm vụ chiến lược: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài; phấn đấu xây dựng Hà Nội thực sự là trung tâm giáo dục, đào tạo có uy tín và chất lượng tiêu biểu của cả nước. 5 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm cũng đã được Chương trình vạch ra đồng thời phân công trách nhiệm rất cụ thể để thực hiện cho được những mục tiêu đã đề ra. Hội Khuyến học Hà Nội - đơn vị được giao nhiệm vụ trực tiếp triển khai công tác này đã xây dựng kế hoạch, xác định 3 nhiệm vụ chủ yếu: tuyên truyền, mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào phù hợp tình hình mới, đáp ứng yêu cầu làm nòng cốt cho việc liên kết các lực lượng xã hội. Theo ông Vũ Mạnh Kha - Chủ tịch Hội Khuyến học Hà Nội, sự quan tâm thiết thực của các cấp đã một lần nữa được thể hiện cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi về chế độ, chính sách, tổ chức bộ máy, kinh phí hoạt động cho hội khuyến học các cấp. Cùng với những mục tiêu, nhiệm vụ đã được vạch rõ, đây sẽ là động lực để những người làm công tác khuyến học nỗ lực hơn nữa, góp phần phấn đấu xây dựng Thủ đô thực sự trở thành trung tâm giáo dục, đào tạo có uy tín và chất lượng tiêu biểu của cả nước.
  24. Minh Đức Một số chỉ tiêu chủ yếu trong Chương trình hành động - Duy trì, giữ vững kết quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục. - Trên 90% cán bộ xã, phường, thị trấn có trình độ văn hóa bậc THPT hoặc tương đương. - 100% cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước được tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị phù hợp với yêu cầu công tác. - Trên 95% người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, xây dựng, dịch vụ được tiếp cận và thụ hưởng các chương trình bồi dưỡng, nâng cao hiểu biết, khả năng lao động sản xuất và nâng cao chất lượng cuộc sống. - Chỉ đạo để các trung tâm học tập cộng đồng hoạt động đều, có chất lượng. Nâng cấp từ 2 đến 4 trung tâm giáo dục thường xuyên cấp quận, huyện lên thành phố. - Bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác khuyến học cho 100% cán bộ hội từ thành phố tới phường, xã, thị trấn. Nguồn: hanoimoi.com.vn 3 năm xây dựng xã hội học tập: Bộ GD-ĐT “đơn thương độc mã” 29/10/2008 07:13 (HNM) - Đề án “Xây dựng xã hội học tập” (XHHT) được ban hành theo Quyết định số 112/2005/QĐ-TTg giai đoạn 2005-2010 đã đi được hơn nửa chặng đường, đã góp phần nâng cao dân trí, phát triển đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Tuy nhiên, theo phản ánh từ các địa phương tại hội nghị sơ kết về vấn đề này do Bộ GD-ĐT vừa tổ chức ở Hà Nội, thì sau 3 năm triển khai việc xây dựng XHHT dường như vẫn chỉ là Giờ học của học sinh tại Trung tâm Giáo dục thường phong trào xuyên quận Ba Đình. Ảnh: Dương Ngọc 3 năm mới xây dựng được một quy chế Về việc chỉ đạo thực hiện Đề án xây dựng XHHT, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thiện Nhân khẳng định: Các văn bản, Chỉ thị về xây dựng XHHT của các bộ, ngành Trung ương rất cặn kẽ, vấn đề còn lại là việc triển khai thực hiện ra sao. Báo cáo của Bộ GD-ĐT cũng thẳng thắn chỉ rõ, xây dựng XHHT là nhiệm vụ rất cấp thiết, song nhận thức của các cấp ủy Đảng, cán bộ, đảng viên còn hạn chế, ảnh hưởng lớn tới việc tổ chức thực hiện. Thực tế cho thấy, điều khiến cho việc triển khai xây dựng XHHT chưa thực sự đi vào cuộc sống, chưa nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của cơ sở là do cấp bộ, ngành coi đây là việc của riêng ngành Giáo dục.
  25. Một minh chứng cụ thể, dù đã qua 3 năm triển khai, song đến nay chưa có chương trình mục tiêu nào hỗ trợ phát triển hệ thống trung tâm giáo dục thường xuyên (TTGDTX) - nơi gánh vác các nhiệm vụ xây dựng XHHT như Quyết định số 112/2005/QĐ-TTg đã đề ra. Vì thế, Nhà nước chưa tập trung ưu tiên kinh phí xây dựng các TTGDTX ở vùng khó khăn, vùng dân tộc ít người; chưa có hỗ trợ kinh phí cho việc biên soạn chương trình, tài liệu cho các TTGDTX, trung tâm học tập cộng đồng (TTHTCĐ), dẫn đến tình trạng hầu hết TTGDTX, TTHTCĐ còn phải thuê mượn địa điểm, dạy chay, học chay, không có kinh phí duy trì hoạt động thường xuyên Theo PGS.TS Trần Xuân Nhĩ, Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam, thì trước hết cần thành lập ban chỉ đạo của Chính phủ để chỉ đạo thực hiện cuộc vận động “Toàn dân tham gia xây dựng XHHT” như đã làm với các cuộc vận động về thi đua làm kinh tế, thi đua xây dựng đời sống văn hóa theo tinh thần Hội nghị BCH TƯ Đảng lần thứ VII khóa IX, làm tiền đề triển khai tới năm 2020. 3 năm đã trôi qua, Bộ GD-ĐT gần như đơn thương độc mã trong việc triển khai xây dựng XHHT. Từ năm 2005, Bộ đã có văn bản gửi các đơn vị liên quan về việc thực hiện Đề án, song đến nay chưa có bộ, ngành nào có kế hoạch triển khai cụ thể, chưa có cơ chế phối hợp, phân công rõ trách nhiệm của các cấp, ngành và tổ chức xã hội trong việc phát triển hệ thống GDTX, xây dựng TTHTCĐ - nền tảng của phong trào xây dựng XHHT. Sau hơn 2 năm từ khi có Quyết định 112/2005/QĐ-TTg, Đề án mới ban hành được Quy chế tổ chức và hoạt động của TTHTCĐ; chưa có hướng dẫn về chế độ phụ cấp trách nhiệm các chức vụ lãnh đạo của TTHTCĐ; chế độ chính sách cho giáo viên, học viên học xóa mù chữ (XMC) không khích lệ được người dạy, người học Giải tỏa nỗi băn khoăn này, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thiện Nhân cho biết, sắp tới, Bộ Tài chính sẽ hỗ trợ ban đầu cho mỗi TTHTCĐ 30 triệu đồng/năm, những nơi khó khăn hơn có thể được hỗ trợ thêm từ 20 đến 25 triệu đồng/TTHTCĐ, ngoài ra còn có chế độ phụ cấp kiêm nhiệm cho cán bộ tham gia Một nhiệm vụ cũng không xong Khó khăn là vậy, nhưng các địa phương vẫn xác định, để xây dựng XHHT phải xây dựng và phát triển hệ thống TTHTCĐ, coi đây là công cụ thiết yếu để xây dựng XHHT từ cơ sở. Đến nay, cả nước đã có 9.010 TTHTCĐ, chiếm 81,93% số xã, phường, thị trấn có TTHTCĐ (vượt chỉ tiêu Đề án đã đề ra) trong đó 24 tỉnh, thành phố đã đạt tỷ lệ 100% số xã, phường, thị trấn có TTHTCĐ. Cùng với sự hỗ trợ của hệ thống trung tâm giáo dục thường xuyên (TTGDTX), các TTHTCĐ đã thực hiện tốt nhiệm vụ XMC, tổ chức chuyên đề nhằm xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, thực sự trở thành “trường học của nhân dân”. Tuy nhiên, do thiếu cơ chế, thiếu sự quan tâm đầu tư, hoạt động của TTHTCĐ nhiều nơi vẫn chỉ mang tính phong trào, chỉ có khoảng 30% số TTHTCĐ hoạt động có hiệu quả; chất lượng dạy học bổ túc văn hóa rất thấp – chỉ có 6,5% học viên xếp loại khá, giỏi, đa phần đều xếp loại trung bình, thậm chí có tới 28% xếp loại yếu, kém. Thực tế ấy ảnh hưởng không nhỏ tới việc triển khai công tác XMC- một nhiệm vụ đến thời điểm này vẫn là cấp bách và nặng nề. Nếu như năm học 2005-2006, cả nước vận động được 86.125 người đến lớp học XMC, năm học sau giảm còn 75.896 người, tới năm học 2007-2008 chỉ còn 34.494 người mà không phải do số người mù chữ ít, trái lại vẫn
  26. cao hơn nhiều so với số người đến lớp. Các địa phương đều phản ánh việc vận động người mù chữ ra lớp ngày càng khó khăn do không có sự phối hợp chặt chẽ của các lực lượng xã hội trong khi nhiệt huyết của những người thực thi nhiệm vụ có hạn Rõ ràng, nếu không có sự chuyển biến về ý thức, trách nhiệm của các bộ, ngành và sự vào cuộc của các lực lượng ngoài ngành GD để vạch ra những cơ chế phối hợp cụ thể, đồng bộ thì nhiệm vụ XMC cũng không thể hoàn thành chứ chưa thể nói đến việc đạt được mục tiêu của Đề án xây dựng XHHT: đáp ứng yêu cầu học tập thường xuyên, suốt đời của mọi tầng lớp nhân dân. Hồng Hạnh Xã hội học tập và nguồn nhân lực ở Việt Nam 10/1/2008 7:42:07 AM Học để biết , học để làm, học để chung sống và học để tồn tại . Nền giáo dục trong xã hội học tập hướng vào việc xây dựng cho con người năng lực đón nhận, xử lý, sản xuất, truyền bá, sử dụng những thông tin để xã hội có những tri thức mới. Do vậy, nền giáo dục phải tập trung vào sự phát triển và sự tự chủ của mỗi con người, làm cho con người phát huy cao độ năng lực sáng tạo, năng động về các phương diện chính trị, kinh tế và xã hội. Việc đề cao phương thức học tập suốt đời phải đồng thời đề cao năng lực tự học mà chủ yếu học cách học (Learning how to learn). Chủ đề cơ bản của “xã hội học tập” là phải đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao Vào thập kỷ 90 của thể kỷ XX, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước được xác định là nhiệm vụ cơ bản của Việt Nam hướng vào mục tiêu hoàn thành về cơ bản một nước công nghiệp mới vào năm 2020. Chiến lược ở giai đoạn này là thực hiện một nền kinh tế có những bước phát triển tuần tự, đồng thời lại kết hợp với những bước nhảy vọt. Nói cách khác, phảitiến hành công nghiệp hoá rút ngắn để tránh tình trạng tụt hậu ngày càng xa với những nước trên thế giới, trước hết là những nước trong khu vực. Sau một thời gian tìm kiếm cơ hội để mục tiêu phát triển nói trên thành hiện thực, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định phải đi vào kinh tế tri thức (Knowledge Economy) ngay trong quá trình chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Văn kiện Đại hội IX của Đảng có đoạn ghi rõ, phải phát huy lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Từ sự khẳng định trên, những quan điểm về kinh tế tri thức được xác định như sau:
  27. - Trong kinh tế tri thức, cơ cấu sản xuất và nền tảng của sự tăng trưởng kinh tế ngày càng dựa vào việc ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ, nhất là những công nghệ cao. - Tỷ trọng GDP hoặc tỷ trọng ngành nghề đều có sự dịch chuyển dần từ sản xuất vật chất sang hoạt động xử lý thông tin là chủ đạo. - Sản xuất ra công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiêu biểu nhất. - Từ tổ chức sản xuất theo quy mô lớn, nhất thể hoá chuyển dần sang tổ chức sản xuất phân tán theo cấu trúc mạng và linh hoạt theo yêu cầu của khách hàng. - Xu thế toàn cầu hoá, nhất thể hoá các nền kinh tế quốc gia và khu vực tăng nhanh kèm theo hai mặt: cạnh tranh khốc liệt và hợp tác hiệu quả. - Quá trình tin học các khâu sản xuất, dịch vụ và quản lý là cốt lõi của quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức. - Tri thức là vốn quý nhất; quyền sở hữu trí tuệ trở thành quan trọng nhất; sáng tạo là động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển. - Giáo dục thường xuyên (Continuing Education), học tập suốt đời (lifelong Learning) là đặc điểm nổi bật của xã hội và nền kinh tế tri thức. Học tập suốt đời là nội dung cốt lõi của khái niệm xã hội học tập (Learning Society). Khái niệm này được bàn đến từ rất lâu, ít ra cũng phải đến 50 năm nay, khi Đô-na, A-lan Xcôn (Donal Alan Schon) bàn đến giáo dục công lập và tư thục trong một xã hội với những thay đổi lớn lao và nhanh chóng. Nói đến xã hội học tập, nhiều nhà khoa học cho rằng, giáo dục cho người trưởng thành (Adult Education) là công việc rất “hiệu nghiệm” để đẩy nhanh quá trình phát triển xã hội, từ đó, họ đi vào việc nghiên cứu tổ chức học cho người lớn. Trong số những người này phải kể đến Rô-bớt M.Hút-chin (Robert M.Hutchins) và Tu-ten Hu-xen (Turten Husen). Để thực hiện phương thức “học tập suốt đời” cho mỗi người, xã hội học tập phải tạo ra nhiều cơ hội khác nhau để ai cũng có thể tìm được một hình thức học trong những thời gian và không gian khác nhau. Mô hình tổng quát của xã hội học tập bao gồm, hệ thống giáo dục trong nhà trường (School Education), với những trường lớp dưới hình thức giáo dục chính quy (Formal Education) và những cơ sở giáo dục ngoài nhà trường (Out of School Education); dưới những hình thức không chính quy (Non-formal Education), trong đó, có giáo dục cận chính quy (Quasiformal Education), giáo dục bán chính quy (Paraformal Education) và giáo dục phi chính quy (Informal Education). Nền giáo dục trong xã hội học tập hướng vào việc xây dựng cho con người năng lực đón nhận, xử lý, sản xuất, truyền bá, sử dụng những thông tin để xã hội có những tri thức mới. Do vậy, nền giáo dục phải tập trung vào sự phát triển và sự tự chủ của mỗi con người, làm cho con người phát huy cao độ năng lực sáng tạo, năng động về các phương
  28. diện chính trị, kinh tế và xã hội. Việc đề cao phương thức học tập suốt đời phải đồng thời đề cao năng lực tự học mà chủ yếu học cách học (Learning how to learn). Trong cuốn sách “Learning to be” (Học để tồn tại - cũng có người dịch là Học để làm người), Ét-ga Phau-ơ (Edgar Faure) cho rằng, trong điều kiện phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, không ai có thể coi kiến thức của giáo dục ban đầu (Initial Education) - tức là giáo dục từ nhà trẻ đến đại học - lại có thể đủ cho hết đời. Vì vậy, phải học tập không bao giờ ngừng. Trong khi đó, Phơ-đi-ri-cô Ma-gô (Federico Magor), nguyên Tổng Giám đốc UNESCO cũng cho rằng, phải thay đổi tư duy giáo dục, coi giáo dục như một nhân tố then chốt để phát triển, và mặt khác, giáo dục phải thích ứng với những xu thế mới, chuẩn bị cho con người luôn sẵn sàng trước những thay đổi. Về xã hội học tập, chúng ta cần lưu ý đến bản báo cáo có tiêu đề “Học tập: một kho báu tiềm ẩn” (Learning: The Treasure Within) của Uỷ ban quốc tế về phát triển giáo dục thế kỷ XXI do Giắc-quyn Đơ-lớt (Jacques Delors) thực hiện. Trong báo cáo này, Giắc-quyn Đơ-lớt nêu lên 4 trụ cột của giáo dục: Học để biết (Learning to know); Học để làm (Learning to do); học để chung sống (Learning to live together) và học để tồn tại (Learning to be). Cùng báo cáo này còn có một văn kiện quan trọng khác dùng trong hội nghị quốc tế “Giáo dục đại học trong thế kỷ XXI: tầm nhìn và hành động”. Việc đào tạo trong thế kỷ mới này được Hội nghị lưu ý đến những xu thế lớn của thời đại: Toàn cầu hoá (Globalization); Quốc tế hoá (Internalization); Khu vực hoá (Arealization); Sự dịch chuyển về mặt địa lý (Delocalization); Sự đẩy ra ngoài lề (Marginalization); Sự phân mang hoá (Flagmentation); Sự công nghệ hoá (Technologization). Với những vấn đề đặt ra trước xã hội học tập, có thể kết luận rằng, chủ đề cơ bản ở đây là phải đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Hướng đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay Ở Việt Nam, vấn đề xây dựng xã hội học tập đã được trong văn kiện Đại hội X của Đảng ghi: “Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống giáo dục suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên, tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho mọi người học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục”. Với đường lối trên, việc đào tạo nhân lực ở Việt Nam phải bám sát phương thức giáo dục thường xuyên (Continuing Education), đào tạo liên tục (Permanent Formation) và học tập suốt đời (Lifelong Learning). Mục tiêu cần đạt được đối với sự hình thành nguồn nhân lực (Human Resource) là: Xây dựng năng lực thích ứng (adaptableness) với những thay đổi nhanh chóng của sản xuất, của công nghệ, của đời sống xã hội để đáp ứng (Responsiveness) với những yêu cầu xã hội của phát triển trong tương lai. Xây dựng năng lực tự học sáng tạo trong quá trình học tập suốt đời và biết tự đánh giá nhằm đào tạo những nhân lực biết tư duy (thingking Manpower). Xây dựng năng lực chung (Competences generales) để vượt qua sự đào tạo chuyên môn hoá hẹp.
  29. Để có được nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và từng bước phát triển kinh tế tri thức thì việc đầu tiên là phải chuẩn bị điều kiện cơ sở đáp ứng con người cho công việc này. Theo nhiều chuyên gia, phải thực hiện nhanh chóng và vững chắc việc phổ cập một trình độ giáo dục như: Phổ cập giáo dục trung học vào năm 2015 hoặc sau đó một thời gian, chuẩn bị để đào tạo đại trà sau trung học dưới nhiều hình thức và phát triển mạnh hệ thống đại học. Phổ cập công nghệ thông tin, trước hết là trong nhà trường, bắt đầu từ tiểu học. Phổ cập ngoại ngữ (nhất là tiếng Anh), dạy ngoại ngữ ngay từ tiểu học. Phổ cập nghề với ý nghĩa tất cả lao động đều phải qua đào tạo nghề ngắn hạn hoặc dài hạn. Ngoài ra cần phải tính đến một vấn đề lớn đó là, trong quá trình phát triển hệ thống giáo dục cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì hội nhập quốc tế lại là một yêu cầu không thể xem nhẹ. Do vậy, thái độ đối với phát triển cần được xác định: Thứ nhất, chuyển mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình xã hội học tập thực chất là một cuộc cải cách triệt để, thay thế hệ thống giáo dục mà hiện nay đã trở nên lạc hậu bằng một hệ thống giáo dục mới hướng vào mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực có năng lực sáng tạo và khả năng học hỏi không ngừng trong suốt cuộc đời. Thứ hai, hiện đại hoá hệ thống giáo trình và trang thiết bị dạy học để người học có được năng lực tư duy sáng tạo để thích ứng (adaptation) với yêu cầu của những công việc luôn luôn thay đổi và những kỹ năng cơ bản (nhất là kỹ năng sử dụng máy tính và internet). Thứ ba, mở rộng và nâng cấp chất lượng mạng lưới dạy và học ngoại ngữ, coi đây là công cụ cần cho mỗi người trong điều kiện hội nhập quốc tế. Thứ tư, bảo đảm sự công bằng cho mọi người trong việc tiếp cận và hưởng thụ nền giáo dục cơ sở, mở rộng giáo dục cộng đồng, tạo nhiều cơ hội tiếp cận với giáo dục đại học. Từ những vấn đề trên đây, việc xây dựng một nguồn nhân lực ở Việt Nam cần có một quy hoạch theo hướng: Tăng quy mô đào tạo đại học, song phải thật sự coi trọng chất lượng đào tạo để có những chuyên gia có trình độ tay nghề cao trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, văn học và nghệ thuật, an ninh và quốc phòng, sản xuất và kinh doanh. Nhanh chóng đào tạo những công nhân có trình độ học vấn và tay nghề cao - những lao động tri thức (Knowledge Worker) mà người ta gọi là công nhân cổ áo trắng (White collar) cho khu vực sản xuất ứng dụng công nghệ cao (Hi – tech). Mở rộng đào tạo nghề ngắn hạn để tận dụng nguồn lao động trong nước. Mở ra thật nhiều cơ hội học tập để nông dân nhanh chóng nâng cao học vấn, làm cơ sở cho việc tiếp cận với những kỹ thuật mới, những công nghệ mới. Sau đây là những số liệu nói lên thực trạng việc đào tạo nguồn nhân lực sau khi có Quyết định số 112/2005/QĐ-TTg của Chính phủ về xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam (Số liệu năm học 2007 – 2008). Các trường lớp chính quy (chủ yếu)
  30. - Trường mầm non (gồm nhà trẻ và trường mẫu giáo) : 11.629 - Trường phổ thông (từ tiểu học đến trung học) : 27.900 - Trường trung cấp nghề : 204 - Trường cao đẳng nghề : 80 - Trung tâm dạy nghề : 961 - Trường trung cấp chuyên nghiệp : 276 - Trường cao đẳng và đại học : 369 Các trường lớp không chính quy (chủ yếu) - Trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh : 66 - Trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện : 583 - Trung tâm học tập cộng đồng cấp xã : 9030 - Trung tâm ngoại ngữ, tin học : 700 - Trung tâm học tập từ xa (trong trường đại học) : 12 - Trường bổ túc văn hóa : 29 Ngoài ra còn có hàng vạn cơ sở dạy nghề tư nhân, hàng ngàn câu lạc bộ, văn hoá, hàng ngàn bưu điện văn hóa xã, hàng ngàn lớp dạy nghề trong các làng nghề truyền thống và làng nghề mới v.v Một số số liệu về người học a. Đào tạo chính quy - Học trẻ em trường lớp mầm non : 3.057.718 - Học sinh tiểu học : 6.850.567 - Học sinh trung học cơ sở : 5.859.526 - Học sinh trung học phổ thông : 3.070.023 - Học sinh học nghề ngắn hạn : 1.268.150
  31. - Học sinh học nghề dài hạn : 1.400.000 - Học sinh cao đẳng nghề : 39.4350 - Học sinh trung cấp chuyên nghiệp chính quy : 614.516 - Sinh viên cao đẳng chính quy : 400.000 - Sinh viên đại học chính quy : 1.200.000 b. Đào tạo không chính quy - Học viên các lớp chống mù chữ : 34.494 - Học viên bổ túc tiểu học : 40.130 - Học viên bổ túc trung học cơ sở : 119.981 - Học viên bổ túc trung học phổ thông : 346.717 - Học viên các lớp tin học : 207.240 - Học viên các lớp ngoại ngữ : 268.812 - Học viên theo học từ xa : 127.758 - Học viên các lớp chuyên đề : 9.215.116 - Học viên các lớp dạy nghề ngắn hạn tư nhân : 173.720 - Học viên trung cấp chuyên nghiệp tại chức : 207.240 - Học viên học cao đẳng tại chức : 65.988 - Học viên học đại học tại chức : 410.753 c. Giáo dục dành cho trẻ có hoàn cảnh đặc biệt - Trẻ khuyết tật học các trường chuyên biệt cấp tỉnh và huyện : 6.000 - Học sinh khuyết tật học trong các lớp tại cơ sở sản xuất : 13.000 - Học sinh mồ côi cha mẹ trong các làng SOS : 1.200 - Học sinh khuyết tật tại các trung tâm bảo trợ xã hội : 11.000
  32. - Học sinh được nuôi tại các cơ sở từ thiện : 5.000 Với học sinh nghèo, để bảo đảm phần nào công bằng xã hội về giáo dục, Nhà nước đã có chế độ trợ cấp thường xuyên cho 10.281 trẻ, giảm miễn học phí cho 10.315.177 em, cấp thẻ khám bệnh miễn phí hoặc bảo hiểm y tế cho hơn 10.000.000 em. Những con số thống kê trên đây là chưa đầy đủ do chưa có một tài liệu nghiên cứu nào có được những số liệu thật chính xác. Hơn nữa cũng chưa tính được số sinh viên và nghiên cứu sinh đang ở nước ngoài (hiện chỉ biết có khoảng 5.000 người). Số học viên cao học hiện vào khoảng trên 33.000/năm và số nghiên cứu sinh khoảng trên 4.500/năm. Theo kế hoạch thì đến năm 2010, quy mô đào tạo thạc sỹ là 38.000 người/năm và đào tạo tiến sỹ sẽ đạt 8.000 người/năm và mỗi năm sẽ tuyển từ 800 đến 1.000 người đi đào tạo tiến sỹ ở nước ngoài. Nhìn chung, trong điều kiện còn rất khó khăn về kinh tế, việc đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam là rất tích cực. Tuy nhiên, vấn đề chất lượng đào tạo vẫn là vấn đề phải tính đến trong chiến lược đào tạo./. Phạm Tất Dong GS.TS, Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam (Theo Tạp chí CSĐT Xây dựng một xã hội học tập Thứ năm, 02.10.2008, 08:01am (GMT+7) - Thủ tướng Chính phủ vừa ra Quyết định số 1271/QĐ- TTg lấy ngày 2/10 hàng năm là “Ngày Khuyến học Việt Nam”. Nhân sự kiện này, phóng viên đã phỏng vấn Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm. PV: Thưa Chủ tịch, việc Chính phủ ra Quyết định lấy ngày 2/10 hàng năm là Ngày Khuyến học Việt Nam có ý nghĩa như thế nào đối với phong trào Khuyến học, khuyến tài? Chủ tịch Nguyễn Mạnh Cầm: Việc Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định lấy ngày 2/10 là Ngày Khuyến học Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng nhằm động viên các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội tham gia đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; tôn vinh những gương sáng hiếu học, tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác Khuyến học, khuyến tài. Quyết định này cũng là sự ghi nhận của Đảng và Nhà nước đối với những kết quả mà Hội Khuyến học Việt Nam đạt được trong suốt 12 năm qua, đưa hoạt động Khuyến học, khuyến tài phát triển nhanh chóng, trở thành một phong trào quần chúng sâu rộng với những mô hình độc đáo nổi bật như: “Gia đình hiếu học”, “dòng họ khuyến học”, “cụm dân cư khuyến học”. Hiện nay, trong cả nước đã có hơn 5 triệu gia đình đăng ký phấn đấu trở thành “Gia đình hiếu học”, trong đó hơn 3 triệu gia đình đã được công nhận và gần 30.000 dòng học đã được công nhận là “dòng họ khuyến học”. Mô hình này vừa động viên mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt đời, vừa hỗ trợ hệ thống giáo dục chính quy trong nhà trường bằng cách xây dựng môi
  33. trường giáo dục lành mạnh, dạy tốt, học tốt; khắc phục tình trạng học sinh lưu ban bỏ học; ngăn chặn tiêu cực xã hội xâm nhập vào nhà trường. Quyết định lấy ngày 2/10 là ngày Khuyến học Việt Nam chắc chắn sẽ thúc đẩy quá trình xây dựng xã hội học tập triển khai nhanh chóng và rộng khắp hơn nhằm thực hiện tốt 3 mục tiêu: Nâng cao dân trí, Đào tạo nhân lực, Bồi dưỡng nhân tài. Đây là 3 yếu tố cần thiết cho sự phát triển của một quốc gia, sự đi lên của một dân tộc, nhất là trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, cách mạng thông tin bùng bổ như hiện nay. PV: Trong 12 năm hình thành và phát triển, Hội Khuyến học Việt Nam đã có nhiều hoạt động thiết thực hỗ trợ cho giáo dục trong nhà trường của hệ thống giáo dục chính quy. Theo Chủ tịch, phong trào nào là nổi bật nhất và cần được nhân rộng? Chủ tịch Nguyễn Mạnh Cầm: Xã hội học tập mà chúng ta chủ trương xây dựng sẽ là sự liên kết chặt chẽ giữa hệ thống giáo dục chính quy trong nhà trường (hệ thống giáo dục ban đầu) và hệ thống giáo dục ngoài nhà trường (hệ thống giáo dục tiếp tục). Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, Hội Khuyến học Việt Nam luôn phối hợp chặt chẽ với ngành Giáo dục-Đào tạo như “hai anh em sinh đôi”, tích cực hỗ trợ lẫn nhau. Cho đến nay, Hội Khuyến học Việt Nam phối hợp với ngành Giáo dục - Đào tạo xây dựng được hơn 9.000 trung tâm học tập cộng đồng ở xã, phường trên tổng số hơn 10.600 xã, phường trong cả nước. Các trung tâm này ra đời với mục đích tạo điều kiện cho những người nông dân ở nông thôn và những người lao động ở thành thị được học tập, nâng cao kiến thức, nâng cao tay nghề, tiếp thu tiến bộ khoa học công nghệ để ứng dụng vào sản xuất. Bằng cách đó và bằng việc liên kết với các trường học trong công tác đào tạo, Hội Khuyến học đã góp phần cùng với ngành Giáo dục đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Để từng bước tạo điều kiện cho mọi người được đi học, thực hiện công bằng trong giáo dục, Hội đã thành lập Quỹ Khuyến học từ Trung ương đến cơ sở. Các Quỹ Khuyến học này hoạt động với sự tài trợ của các doanh nhân thành đạt, các nhà hảo tâm cấp học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo được đến trường, cấp học bổng cho học sinh, sinh viên học giỏi vượt khó đi lên; đồng thời hỗ trợ những thầy, cô giáo dạy tốt nhưng có hoàn cảnh khó khăn. Hàng năm, Quỹ Khuyến học Trung ương bao gồm cả Quỹ Vòng tay đồng đội (dành cho con em liệt sĩ, thương binh, bộ đội có hoàn cảnh khó khăn), Quỹ Khuyến học các địa phương (kể cả Quỹ của “dòng họ khuyến học”) đã chi khoảng 250-300 tỷ đồng cho các mục đích trên. Đây là một số hoạt động nổi bật và thiết thực cần tiếp tục thực hiện và nhân rộng trong thời gian tới vì lợi ích của việc xây dựng xã hội học tập. PV: Năm nay là năm đầu tiên nước ta có ngày Khuyến học Việt Nam. Theo Chủ tịch, các tổ chức, đoàn thể và từng người dân phải làm gì để xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập? Chủ tịch Nguyễn Mạnh Cầm: Xã hội học tập là một xu thế mới trong quá trình phát triển của nhân loại ở thời kỳ hậu công nghiệp, trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ và cách mạng thông tin. Đó cũng là đòi hỏi của yêu cầu phát triển đất nước, của tiến bộ khoa học công nghệ và cũng là đòi hỏi của sự phát triển con người ở thời đại mới. Như vậy, xã hội học tập là rất quan trọng và cần thiết đối với sự phát triển của đất nước, sự đi lên của dân tộc ta. Tuy nhiên, nhận thức của nhiều người về vấn đề này còn chưa đầu đủ. Vì thế, việc công bố “Ngày Khuyến học Việt Nam” đặt mọi người trước yêu cầu nhận thức rõ hơn, sâu sắc hơn tính chất quan trọng và sự cần thiết của xã hội học tập. Trên cơ sở đó tham gia tích cực hơn vào phong trào khuyến học, khuyến tài theo đúng tinh thần Chỉ thị 11CT/TW của Bộ Chính trị xem “Khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân”. Mỗi người, mỗi tổ chức, mỗi lực lượng xã hội cần nâng cao nhận thức, tích cực tham gia vào các
  34. phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập sẽ góp phần thực hiện mong muốn của Bác Hồ: “Dân tộc ta phải là một dân tộc thông thái”. (NGuồn VOV)-TT Xây dựng một xã hội học tập Thứ năm, 02.10.2008, 08:01am (GMT+7) - Thủ tướng Chính phủ vừa ra Quyết định số 1271/QĐ- TTg lấy ngày 2/10 hàng năm là “Ngày Khuyến học Việt Nam”. Nhân sự kiện này, phóng viên đã phỏng vấn Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm. PV: Thưa Chủ tịch, việc Chính phủ ra Quyết định lấy ngày 2/10 hàng năm là Ngày Khuyến học Việt Nam có ý nghĩa như thế nào đối với phong trào Khuyến học, khuyến tài? Chủ tịch Nguyễn Mạnh Cầm: Việc Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định lấy ngày 2/10 là Ngày Khuyến học Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng nhằm động viên các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội tham gia đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; tôn vinh những gương sáng hiếu học, tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác Khuyến học, khuyến tài. Quyết định này cũng là sự ghi nhận của Đảng và Nhà nước đối với những kết quả mà Hội Khuyến học Việt Nam đạt được trong suốt 12 năm qua, đưa hoạt động Khuyến học, khuyến tài phát triển nhanh chóng, trở thành một phong trào quần chúng sâu rộng với những mô hình độc đáo nổi bật như: “Gia đình hiếu học”, “dòng họ khuyến học”, “cụm dân cư khuyến học”. Hiện nay, trong cả nước đã có hơn 5 triệu gia đình đăng ký phấn đấu trở thành “Gia đình hiếu học”, trong đó hơn 3 triệu gia đình đã được công nhận và gần 30.000 dòng học đã được công nhận là “dòng họ khuyến học”. Mô hình này vừa động viên mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt đời, vừa hỗ trợ hệ thống giáo dục chính quy trong nhà trường bằng cách xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, dạy tốt, học tốt; khắc phục tình trạng học sinh lưu ban bỏ học; ngăn chặn tiêu cực xã hội xâm nhập vào nhà trường. Quyết định lấy ngày 2/10 là ngày Khuyến học Việt Nam chắc chắn sẽ thúc đẩy quá trình xây dựng xã hội học tập triển khai nhanh chóng và rộng khắp hơn nhằm thực hiện tốt 3 mục tiêu: Nâng cao dân trí, Đào tạo nhân lực, Bồi dưỡng nhân tài. Đây là 3 yếu tố cần thiết cho sự phát triển của một quốc gia, sự đi lên của một dân tộc, nhất là trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, cách mạng thông tin bùng bổ như hiện nay. PV: Trong 12 năm hình thành và phát triển, Hội Khuyến học Việt Nam đã có nhiều hoạt động thiết thực hỗ trợ cho giáo dục trong nhà trường của hệ thống giáo dục chính quy. Theo Chủ tịch, phong trào nào là nổi bật nhất và cần được nhân rộng? Chủ tịch Nguyễn Mạnh Cầm: Xã hội học tập mà chúng ta chủ trương xây dựng sẽ là sự liên kết chặt chẽ giữa hệ thống giáo dục chính quy trong nhà trường (hệ thống giáo dục ban đầu) và hệ thống giáo dục ngoài nhà trường (hệ thống giáo dục tiếp tục). Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, Hội Khuyến học Việt Nam luôn phối hợp chặt chẽ với ngành Giáo dục-Đào tạo như “hai anh em sinh đôi”, tích cực hỗ trợ lẫn nhau. Cho đến nay, Hội Khuyến học Việt Nam phối hợp với ngành Giáo dục - Đào tạo xây dựng được hơn 9.000 trung tâm học tập cộng đồng ở xã, phường trên tổng số hơn 10.600 xã, phường trong cả nước. Các trung tâm này ra đời với mục đích tạo điều kiện cho những người nông dân ở nông thôn và những người lao động ở thành thị được học tập, nâng cao kiến thức, nâng cao tay nghề, tiếp thu tiến bộ khoa học công nghệ để ứng dụng vào sản xuất. Bằng cách đó và bằng việc liên kết với
  35. các trường học trong công tác đào tạo, Hội Khuyến học đã góp phần cùng với ngành Giáo dục đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Để từng bước tạo điều kiện cho mọi người được đi học, thực hiện công bằng trong giáo dục, Hội đã thành lập Quỹ Khuyến học từ Trung ương đến cơ sở. Các Quỹ Khuyến học này hoạt động với sự tài trợ của các doanh nhân thành đạt, các nhà hảo tâm cấp học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo được đến trường, cấp học bổng cho học sinh, sinh viên học giỏi vượt khó đi lên; đồng thời hỗ trợ những thầy, cô giáo dạy tốt nhưng có hoàn cảnh khó khăn. Hàng năm, Quỹ Khuyến học Trung ương bao gồm cả Quỹ Vòng tay đồng đội (dành cho con em liệt sĩ, thương binh, bộ đội có hoàn cảnh khó khăn), Quỹ Khuyến học các địa phương (kể cả Quỹ của “dòng họ khuyến học”) đã chi khoảng 250-300 tỷ đồng cho các mục đích trên. Đây là một số hoạt động nổi bật và thiết thực cần tiếp tục thực hiện và nhân rộng trong thời gian tới vì lợi ích của việc xây dựng xã hội học tập. PV: Năm nay là năm đầu tiên nước ta có ngày Khuyến học Việt Nam. Theo Chủ tịch, các tổ chức, đoàn thể và từng người dân phải làm gì để xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập? Chủ tịch Nguyễn Mạnh Cầm: Xã hội học tập là một xu thế mới trong quá trình phát triển của nhân loại ở thời kỳ hậu công nghiệp, trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ và cách mạng thông tin. Đó cũng là đòi hỏi của yêu cầu phát triển đất nước, của tiến bộ khoa học công nghệ và cũng là đòi hỏi của sự phát triển con người ở thời đại mới. Như vậy, xã hội học tập là rất quan trọng và cần thiết đối với sự phát triển của đất nước, sự đi lên của dân tộc ta. Tuy nhiên, nhận thức của nhiều người về vấn đề này còn chưa đầu đủ. Vì thế, việc công bố “Ngày Khuyến học Việt Nam” đặt mọi người trước yêu cầu nhận thức rõ hơn, sâu sắc hơn tính chất quan trọng và sự cần thiết của xã hội học tập. Trên cơ sở đó tham gia tích cực hơn vào phong trào khuyến học, khuyến tài theo đúng tinh thần Chỉ thị 11CT/TW của Bộ Chính trị xem “Khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân”. Mỗi người, mỗi tổ chức, mỗi lực lượng xã hội cần nâng cao nhận thức, tích cực tham gia vào các phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập sẽ góp phần thực hiện mong muốn của Bác Hồ: “Dân tộc ta phải là một dân tộc thông thái”. (NGuồn VOV)-TT Làm rõ thêm về khái niệm Xã hội học tập 03:51' PM - Thứ năm, 20/11/2003 Có thể khẳng định đối với ta đây là một việc mới, khi bắt tay vào cuộc cần có sự thống nhất về quan niệm thế nào là mô hình chung của GDXHHT thích hợp của nước ta? Để xây dựng XHHT phải dựa trên những tư tưởng chỉ đạo nào? Ta có thuận lợi gì và đang đứng trước những thách thức thế nào ? Từ đó mà xác định phương châm, mục tiêu cụ thể và lộ trình. Về khái niệm: XHHT là một khái niệm mới gắn với khái niệm “học suốt đời” (HSĐ). Căn cứ vào quan niệm được trình bày trong các tài liệu của UNESCO và OECD vận dụng vào hoàn cảnh nước ta, theo chúng tôi có thể nêu nội dung của khái niệm này như sau: “XHHT" là mô hình hiện đại của nền GD trong đó GD và XH có sự thống nhất , thực hiện chế độ GD cho
  36. mọi người và HSĐ- chìa khóa mở cửa vào thế kỷ XXI; bao gồm sự học tập liên tục mà sự phân biệt chỉ có tính tương đối của hai loại đối tượng tức thế hệ đang lớn lên (GD thế hệ trẻ) thực hiện “đào tạo ban đầu” theo hình thức học “chính quy” trong nhà trường truyền thống và giáo dục người lớn (GDNL) thực hiện “học tập thường xuyên” hay “GDNL” theo hình thức “không chính quy” và “phi chính quy” tiến hành ngoài nhà trường truyền thống; theo bốn trụ cột của GD thế kỷ XXI “học để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để làm người”; nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của cá nhân và XH với các mục tiêu nâng cao dân trí, tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, để mỗi người tự khẳng định mình tham gia thị trường lao động và có cơ hội việc làm nâng cao chất lượng cuộc sống đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) đất nước và tham gia đời sống XH trong nước và hội nhập quốc tế. Quan niệm về phạm vi và nhiệm vụ xây dựng XHHT ở nước ta: Xuất phát từ khái niệm trên thì phạm vi XHHT gồm ba thành khâu như sau, khâu I: GD trong nhà trường chính quy truyền thống cung cấp trình độ học vấn và tiền nghề nghiệp ban đầu chủ yếu cho thế hệ trẻ theo hình thức học tập chính quy (đổi mới theo tiếp cận HSĐ) và cho một bộ phận người lớn đang tham gia sản xuất, công tác (học không tập trung, tại chức, từ xa, tự học) theo kiểu bán chính quy; khâu II: GD thường xuyên, học tập không chính quy (học “mặt giáp mặt”, GD mở, GD từ xa, tự học) để nâng cao và bổ túc một cách liên tục trình độ học vấn và nghề nghiệp tiếp nhận được từ nhà trường cho thanh niên không có điều kiện học tiếp con đường chính quy mà chưa có việc làm và chủ yếu cho bộ phận người lớn đang lao động nghề nghiệp; và khâu III: sự học tập thiết dụng và học tập tùy hoàn cảnh (Learning environments) theo phương thức GD không chính quy và chủ yếu GD phi chính quy rất đa dạng của nguời lớn đang tham gia thế giới việc làm và đời sống xã hội (và người cao tuổi) cũng như những đối tượng dân cư khác có nhu cầu học tập cá nhân hoặc theo yêu cầu xã hội (học tập cộng đồng, gia đình, cá nhân). Đối với nước ta hai khâu I và II về cơ bản đã được quy định trong Luật GD (1998) nhưng nay vận dụng tiếp cận XHHT-HSĐ thì phải có nhiều đổi mới mạnh mẽ, còn khâu III là mới mẻ. Bởi vậy công việc xây dựng XHHT phạm vi toàn quốc phải nhằm mục tiêu chung là tạo điều kiện thuận lợi nhất (có thể được phù hợp khả năng KT-XH) đáp ứng quyền được học tập cho mọi người có nhu cầu học. Xây dựng XHHT là cơ hội thực hiện hoài bão của Hồ Chủ tịch và cũng là khao khát ngàn đời của dân tộc Việt Nam “học để nên người” “ai cũng được học hành”, bởi vậy chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa lịch sử và triết lý GD của những tư tưởng và những lời huấn thị của Hồ Chủ tịch trong việc Người đã đề ra các đường lối,chủ trương,chính sách cũng như chỉ đạo thực tiễn sự nghiệp xây dựng “nền GD hoàn toàn Việt Nam” nói chung và phong trào bình dân học vụ“diệt giặc dốt” nói riêng để quán triệt vào hoạt động xây
  37. dựng XHHT hôm nay. Đó là các tư tưởng độc lập dân tộc, về chủ nghĩa nhân đạo và nhân văn của sự nghiệp GD Việt Nam độc lập, vai trò của GD trong công cuộc xây dựng lại đất nước được Người phát biểu trong nhiều trường hợp khác nhau như sau ngày độc lập Người nêu rõ 4 mục tiêu của “kế hoạch kiến quốc”: Làm cho dân có ăn, Làm cho dân có mặc,Làm cho dân có chỗ ở, Làm cho dân có học hành và “Một dân tộc dốt là một dân tôc yếu”. Người bày tỏ về lòng ham muốn tột bậc của mình: “làm cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Còn về ý nghĩa thiêng liêng của sự học cho thanh niên (cũng là cho nhân dân) lời Bác dạy vốn đã trở thành bất hủ nay đặc biệt càng có ý nghĩa thời sự trong bối cảnh hòa nhập và cạnh tranh quốc tế. Nguyễn Như Ất, Hà Nội Mới