Đánh giá kết quả học tập của học sinh khiếm thính tại một số trường Tiểu học hòa nhập thành phố Hồ Chí Minh

pdf 11 trang ngocly 2260
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá kết quả học tập của học sinh khiếm thính tại một số trường Tiểu học hòa nhập thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfdanh_gia_ket_qua_hoc_tap_cua_hoc_sinh_khiem_thinh_tai_mot_so.pdf

Nội dung text: Đánh giá kết quả học tập của học sinh khiếm thính tại một số trường Tiểu học hòa nhập thành phố Hồ Chí Minh

  1. Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version) Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP.HCM Nguyễn Thị Kim Anh, Võ Thị Mỹ Dung ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH KHIẾM THÍNH TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG TIỂU HỌC HÒA NHẬP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Kim Anh*, Võ Thị Mỹ Dung† TÓM TẮT Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu thực trạng về nhận thức của giáo viên, cán bộ quản lý, phụ huynh về giáo dục hòa nhập, về trẻ khiếm thính và đặc biệt là mục đích đánh giá kết quả học tập hai môn Tiếng Việt và Toán của học sinh khiếm thính tại một số trường tiểu học hòa nhập tại TP. Hồ Chí Minh. Nghiên cứu đã chứng minh giáo dục hòa nhập và việc đánh giá kết quả học tập của trẻ khiếm thính hòa nhập theo hướng tích cực có một ý nghĩa rất lớn trong việc tạo ra môi trường, cơ hội và điều kiện để trẻ khiếm thính phát triển, tự khẳng định mình trong học tập và cuộc sống hàng ngày. Các phương pháp đánh giá phải phù hợp với sự phát triển về thể chất, tâm lý và xã hội của trẻ khiếm thính, đặc biệt là phải chú ý đến đặc điểm cá nhân của trẻ. Không thể áp dụng hoàn toàn cách đánh giá trẻ bình thường đối với trẻ khiếm thính. ABSTRACT Assessment of learning outcomes of students with hearing impairment at some primary schools with integration education in Ho Chi Minh City The article is about the status of awareness of teachers, managers, and parents on integration education, on hearing impaired children; especially, the purpose of assessment of hearing impaired students’ learning outcomes of two subjects Vietnamese and mathematics at some primary schools with integration education in Ho Chi Minh City. The findings show that integration education and positive assessment of the learning outcomes of children with hearing impairment is a great activity to create the learning environment, and opportunities for them to develop, assert themselves in learning and daily life. Assessment methods should be appropriate with hearing impaired children’s physical, psychological, and social development. 1. Đặt vấn đề Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục cho mọi trẻ em, trong đó có trẻ có nhu cầu đặc biệt nói chung, trẻ khiếm thính nói riêng trong lớp học bình thường của trường phổ thông. Giáo dục hòa nhập dựa trên quan điểm tích cực, * TS., Khoa GDĐB – Trường ĐHSP Tp. HCM. † ThS., Khoa GDĐB – Trường ĐHSP Tp. HCM. 65
  2. Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version) Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP.HCM Số 19 năm 2010 đánh giá đúng trẻ có nhu cầu đặc biệt và trẻ được nhìn nhận như mọi trẻ em khác. Việt Nam đã có chính sách phù hợp ở cấp quốc gia về việc phát triển giáo dục hòa nhập để hỗ trợ tất cả trẻ em được tiếp cận với dịch vụ giáo dục. Hàng năm nước ta có khoảng 3.000 trẻ khiếm thính trong độ tuổi đi học và riêng Thành phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM) có khoảng 647 trẻ em khiếm thính chiếm tỷ lệ 12% trẻ khuyết tật (nguồn Sở Giáo dục và Đào tạo Tp. HCM). Việc đánh giá kết quả giáo dục hòa nhập trẻ khiếm thính có một ý nghĩa rất lớn là giúp trẻ phát triển. Đánh giá cho thấy mặt tích cực, mặt mạnh mà trẻ đạt được trong quá trình giáo dục, đồng thời cũng phản ánh những hạn chế còn tồn tại ở trẻ. Từ đó có những biện pháp cụ thể hỗ trợ trẻ phát triển. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn tồn tại một số quan điểm chưa phù hợp: đánh giá theo quan điểm “cào bằng”, nhà trường chỉ chú trọng đến kết quả các môn học chính như Tiếng Việt và Toán. Hoặc quan điểm đánh giá theo sự thương hại, không đòi hỏi cao chất lượng ở trẻ khiếm thính, cuối học kỳ, cuối năm học, nhà trường chỉ cần tạo cho trẻ khiếm thính những điểm thích hợp và cho lên lớp. Hoặc quan điểm không cần đánh giá, để tên trẻ khiếm thính ra ngoài danh sách lớp học, nhà trường xem trẻ khiếm thính như học sinh dự thính. Nhằm khảo sát thực trạng về việc đánh giá kết quả học tập của học sinh khiếm thính tại một số trường tiểu học hòa nhập Tp. HCM, nhóm nghiên cứu đã khảo sát 209 giáo viên (GV), 47 cán bộ quản lý (CBQL), 49 phụ huynh (PH) tại 30 trường tiểu học nội thành và 17 trường tiểu học ngoại thành của Tp. HCM. Bài viết này trình bày các số liệu nghiên cứu về: nhận thức của GV, CBQL, PH về giáo dục hòa nhập, về đặc điểm của trẻ khiếm thính và mục đích đánh giá kết quả học tập của học sinh khiếm thính học tại các trường tiểu học hòa nhập Tp. HCM. 2. Khảo sát nhận thức của giáo viên, cán bộ quản lý và phụ huynh về giáo dục hòa nhập Bảng 1: Nhận thức của GV, CBQL và PH về giáo dục hòa nhập Không đồng ý Lưỡng lự Đồng ý Các quan điểm về giáo dục Mẫu hòa nhập Tần Tỷ lệ Tần Tỷ lệ Tần Tỷ lệ suất % suất % suất % (1) Nhà trường đón nhận tất GV 32 35,6 6 6,7 52 57,8 cả học sinh, bao gồm cả học CBQL 14 29,8 9 19,1 24 51,1 sinh có nhu cầu đặc biệt. PH 11 22,4 5 10,2 33 67,3 (2) Giáo dục hòa nhập không GV 9 10 3 3,3 78 86,7 66
  3. Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version) Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP.HCM Nguyễn Thị Kim Anh, Võ Thị Mỹ Dung phải là dồn học sinh khuyết CBQL 8 17,0 0 0 39 83,0 tật vào học lớp phổ thông mà có những hỗ trợ cần thiết để PH 5 10,4 10 20,8 33 68,8 giúp mọi học sinh phát triển hết khả năng của mình. (3) Giáo dục hòa nhập chỉ để GV 74 80,4 5 5,4 13 14,1 hòa nhập cho học sinh khuyết CBQL 37 78,7 3 6,4 7 14,9 tật mà không quan tâm đến chất lượng hay một nền giáo PH 35 71,4 2 4,1 12 24,5 dục phù hợp. (4) Giáo dục hòa nhập nhằm GV 62 67,4 11 12,0 19 20,7 làm giảm thiểu hoặc xóa bỏ CBQL 24 51,1 5 10,6 18 38,3 những hình thức hỗ trợ đặc PH 20 42,6 10 21,3 17 36,2 biệt. (5) Giáo dục hòa nhập là GV 14 15,4 3 3,3 74 81,3 phương thức giáo dục mọi trẻ CBQL 4 8,5 6 12,8 37 78,7 em, trong đó có trẻ khuyết tật, trong lớp bình thường của PH 5 10,2 2 4,1 42 85,7 trường phổ thông. (6) Giáo dục hòa nhập dựa GV 12 13,3 16 17,8 62 67,4 trên quan đ iểm xã hội trong CBQL 5 10,9 9 19,6 32 69,6 việc nhìn nhận, đánh giá đúng PH 4 8,2 7 14,3 38 77,6 trẻ khuyết tật. (7) Giáo dục hòa nhập là hỗ GV 4 4,5 5 5,6 80 89,9 trợ mọi học sinh, trong đó có CBQL 3 6,4 2 4,3 42 89,4 trẻ khuyết tật, cơ hội bình đẳng tiếp nhận dịch vụ giáo dục với những hỗ trợ cần thiết trong lớp học phù hợp tại PH 2 4,1 9 18,4 38 77,6 trường phổ thông nơi trẻ sinh sống nhằm chuẩn bị trở thành những thành viên đầy đủ của xã hội. (8) Giáo dục hòa nhập là GV 5 5,5 3 3,3 83 91,2 phương thức giáo dục trong CBQL 1 2,1 4 8,5 42 89,4 đó trẻ khuyết tật cùng học với trẻ em bình thường trong PH 2 4,1 2 4,1 45 91,8 trường phổ thông ngay tại nơi trẻ sinh sống. 67
  4. Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version) Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP.HCM Số 19 năm 2010 (9) Giáo dục hòa nhập không GV 7 7,8 2 2,2 81 90,0 có ng hĩa là “xếp chỗ” cho trẻ CBQL 5 10,6 2 4,3 40 85,1 khuyết tật trong trường lớp phổ thông và không phải tất cả mọi trẻ đều đạt trình độ PH 20 40,8 7 14,3 22 44,9 hoàn toàn như nhau trong mục tiêu giáo dục. (10) Giáo dục hòa nhập dựa GV 4 4,4 6 6,6 81 89,0 trên quan điểm tích cực về trẻ CBQL 4 8,5 0 0 43 91,5 khuyết tật. Mọi trẻ khuyết tật đều có những năng lực nhất định, chính từ sự đánh giá đó mà trẻ khuyết tật được coi là PH 13 26,5 4 8,2 32 65,3 chủ thể chứ không phải là đối tượng thụ động trong quá trình tiếp nhận các tác động giáo dục. Nhận thức của GV Nhận thức của CBQL Nhận thức của PH về giáo dục hòa nhập về giáo dục hòa nhập về giáo dục hòa nhập Qua số liệu thống kê ở Bảng 1 có 91,2% giáo viên, 89,4% cán bộ quản lý đã thể hiện nhận thức tích cực về giáo dục hòa nhập, sẵn sàng “hỗ trợ mọi học sinh, trong đó có trẻ khuyết tật, cơ hội bình đẳng tiếp nhận dịch vụ giáo dục với những hỗ trợ cần thiết trong lớp học phù hợp tại trường phổ thông nơi trẻ sinh sống nhằm chuẩn bị trở thành những thành viên đầy đủ của xã hội”. Họ đánh giá trẻ khuyết tật dựa trên quan điểm tích cực về chúng. Họ đồng ý với quan điểm “Mọi trẻ khuyết tật đều có những năng lực nhất định, chính từ sự đánh giá đó mà trẻ khuyết tật được coi 68
  5. Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version) Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP.HCM Nguyễn Thị Kim Anh, Võ Thị Mỹ Dung là chủ thể chứ không phải là đối tượng thụ động trong quá trình tiếp nhận các tác động giáo dục”. Ngoài cán bộ quản lý thì 91,2% giáo viên cũng sẵn sàng chấp nhận học sinh khiếm thính vào lớp của họ với quan điểm rằng “Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục trong đó trẻ khuyết tật cùng học với trẻ em bình thường trong trường phổ thông ngay tại nơi trẻ sinh sống”. Tuy nhiên, cũng có 15,4% giáo viên, 10,9% cán bộ quản lý không đồng ý nhận học sinh khiếm thính học hòa nhập với các học sinh bình thường tại trường tiểu học. Qua nghiên cứu thực tiễn thì nhận thức thiếu tích cực, thái độ không vui vẻ của giáo viên, cán bộ quản lý các trường tiểu học khi phải chấp nhận học sinh khiếm thính xuất phát từ việc thiếu niềm tin, thiếu sự kiên trì, nhẫn nại vì thiếu kiến thức vể trẻ khiếm thính và kỹ năng đặc thù có thể hỗ trợ cho trẻ khiếm thính trong học tập. Về phía phụ huynh thì có 91,8% đồng ý với quan điểm “Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục trong đó trẻ khuyết tật cùng học với trẻ em bình thường trong trường phổ thông ngay tại nơi trẻ sinh sống” và 80,4% không đ ồng ý với quan điểm “Giáo dục hòa nhập chỉ để hòa nhập cho học sinh khuyết tật mà không quan tâm đến chất lượng hay một nền giáo dục phù hợp”. Điều này đã thể hiện được nhận thức tích cực của phụ huynh về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật, đặc biệt là trẻ khiếm thính. Đó cũng là nguyện vọng chính đáng của các bậc cha mẹ và mong muốn con mình được học trong môi trường hoà nhập thân thiện và chất lượng giáo dục tốt. 3. Khảo sát nhận thức của giáo viên, cán bộ quản lý và phụ huynh về trẻ khiếm thính Số liệu của Bảng 2 cho thấy, 86,7% giáo viên, 78,7% cán bộ quản lý, 79,6% phụ huynh cho rằng trẻ khiếm thính có khả năng học hình miệng, trẻ khiếm thính học tốt nhất bằng cách nhìn, nghe và ngôn ngữ ký hiệu không phải là ngôn ngữ giao tiếp độc nhất. Có 84,1% giáo viên, 72,3%, 71,4% phụ huynh không đồng ý với quan điểm là học sinh khiếm thính không thể nói, không thể nghe, thích sống riêng với nhau và không thích học chung với các học sinh bình thường. Qua đó chứng minh giáo viên, cán bộ quản lý và phụ huynh đã có những kiến thức cơ bản về trẻ khiếm thính. 69
  6. Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version) Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP.HCM Số 19 năm 2010 Bảng 2: Nhận thức của GV, CBQL và PH về trẻ khiếm thính Không đồng ý Lưỡng lự Đồng ý Các quan điểm về trẻ Mẫu Tần Tỷ lệ Tần Tỷ Tần Tỷ lệ khiếm thính suất % suất lệ % suất % (1) Học sinh khiếm thính là GV 57 63,3 8 8,9 25 27,8 hoàn toàn không nghe được. CBQL 28 59,6 2 4,3 17 36,2 PH 31 63,3 4 8,2 14 28,6 (2) Học sinh khiếm thính GV 74 84,1 5 5,7 9 10,2 không thể nói. CBQL 34 72,3 3 6,4 10 21,3 PH 35 71,4 3 6,1 11 22,4 (3) Học sinh khiếm thính có GV 10 11,1 2 2,2 78 86,7 khả năng học hình miệng. CBQL 1 2,1 3 6,4 10 21,3 PH 20 40,8 1 2,0 28 57,1 (4) Học sinh khiếm thính GV 80 87,9 5 5,5 6 6,6 không thích giao tiếp với CBQL 37 78,7 2 4,3 8 17,0 bạn bè. PH 38 77,6 1 2,0 10 20,4 (5) Ngôn ngữ ký hiệu là GV 65 72,2 4 4,4 21 23,3 ngôn ngữ độc nhất của trẻ CBQL 23 48,9 8 17,0 16 34,0 khiếm thính, bởi vì không nghe được thì không nói PH 34 69,4 0 0 15 30,6 được. (6) Học sinh khiếm thính GV 30 34,1 11 12,5 47 53,4 học tốt nhất bằng nhìn và CBQL 16 34,0 9 19,1 22 46,8 nghe. PH 4 8,2 6 12,2 39 79,6 (7) Học sinh khiếm thính GV 67 75,3 16 18,0 6 6,7 không thích học nói. CBQL 28 59,6 10 21,3 9 19,1 PH 39 79,6 2 4,1 8 16,3 (8) Học sinh khiếm thính GV 20 22,0 24 26,4 47 51,6 học chậm hơn trẻ bình CBQL 9 20,0 8 17,8 28 62,2 thường 3-5 năm. PH 10 20,8 6 12,5 32 66,7 (9) Học sinh khiếm thính có GV 20 22,0 13 14,3 58 63,7 nhận thức, hiểu biết khác trẻ CBQL 21 44,7 6 12,8 20 42,6 bình thường. PH 11 22,4 5 10,2 33 67,3 (10) Học sinh khiếm thính GV 33 35,9 17 18,5 42 45,7 luôn xem bản thân là người CBQL 16 34,0 5 10,6 26 55,3 khuyết tật nhưng không muốn người khác tỏ ra PH 15 31,9 9 19,1 23 48,9 thương hại. (11) Học sinh khiếm thính GV 72 78,3 4 4,3 16 17,4 chậm lớn hơn trẻ bình CBQL 40 85,1 2 4,3 5 10,6 thường. PH 22 44,9 3 6,1 24 49 (12) Học sinh khiếm thính GV 51 58,0 15 17,0 22 25,0 70
  7. Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version) Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP.HCM Nguyễn Thị Kim Anh, Võ Thị Mỹ Dung thích sống riêng với nhau CBQL 28 59,6 10 21,3 9 19,1 hơn là sống chung với trẻ PH 24 49 4 8,2 21 42,9 bình thường. (13) Học sinh khiếm thính GV 20 22,7 22 25,0 46 52,3 thích học chung với học CBQL 9 20,0 10 22,2 26 57,8 sinh bình thường. PH 9 18,4 4 8,2 36 73,5 Nhận thức của GV Nhận thức của CBQL Nhận thức của PH về trẻ khiếm thính về trẻ khiếm thính về trẻ khiếm thính Từ kết quả nghiên cứu của Bảng 2 có 51,6% giáo viên, 62,2% cán bộ quản lý và 66,7% phụ huynh cho rằng, trẻ khiếm thính học chậm hơn trẻ bình thường 3-5 năm và có nhận thức, hiểu biết khác trẻ bình thường. Nhận thức trên đã phản ánh chưa đúng về sự phát triển của trẻ khiếm thính vốn không kém trẻ bình thường cùng độ tuổi mà phát triển theo cách khác. Ở mỗi giai đoạn phát triển, trẻ khiếm thính có những đặc đ iểm riêng. Tật khiếm thính, được xem là khiếm khuyết của cơ thể, không có ảnh hường lớn đến sự phát triển thể chất của trẻ. Nhưng do hạn chế giao tiếp bằng ngôn ngữ nói nên tật khiếm thính ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình nhận thức ở trẻ. 4. Khảo sát nhận thức của giáo viên, cán bộ quản lý và phụ huynh về mục đích đánh giá kết quả học tập của học sinh tiểu học khiếm thính hòa nhập Bảng 3: Nhận thức của GV, CBQL và PH về mục đích đánh giá kết quả học tập của học sinh tiểu học khiếm thính tại các trường tiểu học hòa nhập Mục đích đánh giá kết Mẫu Không đồng ý Lưỡng lự Đồng ý quả học tập của học sinh Tần Tỷ lệ Tần Tỷ lệ Tần Tỷ lệ khiếm thính suất % suất % suất % (1) Xếp loại: Đạt – Không GV 13 16,5 10 12,7 56 70,9 đạt CBQL 10 17,9 7 12,5 24 42,9 71
  8. Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version) Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP.HCM Số 19 năm 2010 PH 13 26,5 5 10,2 31 63,3 (2) Điều chỉnh chương trình GV 6 7,3 5 6,1 71 86,6 học CBQL 4 7,1 3 5,4 39 69,6 PH 4 8,2 8 16,3 37 75,5 (3) Điều chỉnh phương pháp GV 5 6,0 2 2,4 76 91,6 dạy học CBQL 1 1,8 1 1,8 44 78,6 PH 0 0 10 20,4 39 79,6 (4) Điều chỉnh môi trường GV 8 9,5 8 9,5 68 81,0 dạy học CBQL 2 3,6 2 3,6 42 75,0 PH 0 0 11 22,4 38 77,6 (5) Điều chỉnh kế hoạch GV 0 0 5 6,0 78 94 giáo dục cá nhân CBQL 2 3,6 44 78,6 46 82,1 PH 0 0 6 12,2 43 87,8 (6) Ghi nhận những khó GV 9 11,0 10 12,2 63 76,8 khăn trong học tập Toán và CBQL 0 0 6 10,7 38 67,9 Tiếng Việt của trẻ khiếm thính cần hỗ trợ ở giai đoạn PH 1 2,0 9 18,4 39 79,6 tiếp theo (7) Ghi nhận những khó GV 0 0 0 0 84 100, khăn trong học tập Toán và CBQL 1 1,8 2 3,6 43 76,8 Tiếng Việt của trẻ khiếm thính để quyết định việc trẻ PH 0 0 7 14,3 42 85,7 lên lớp hay ở lại lớp (8) Ghi nhận những khó GV 14 16,7 11 13,1 59 70,2 khăn trong học tập Toán và CBQL 8 14,3 5 8,9 32 57,1 Tiếng Việt của trẻ khiếm thính để quyết định cho trẻ PH 2 4,1 7 14,3 40 81,6 tiếp tục học hòa nhập hay trả về các trường chuyên biệt Nhận thức của GV Nhận thức của CBQL Nhận thức của PH về mục đích đánh giá về mục đích đánh giá về mục đích đánh giá 72
  9. Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version) Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP.HCM Nguyễn Thị Kim Anh, Võ Thị Mỹ Dung Kết quả khảo sát từ Bảng 3 cho thấy có 94% GV, 78,6% CBQL, 85,7% PH cùng chung mục đích sử dụng kết quả đánh giá trong học tập để xếp loại Đạt- Không Đạt; ghi nhận kết quả trẻ khiếm thính làm được gì để điều chỉnh chương trình học, điều chỉnh phương pháp dạy học, điều chỉnh môi trường dạy học, điều chỉnh kế hoạch giáo dục cá nhân. Ngoài ra kết quả đánh giá học tập phản ánh những khó khăn trong học tập đặc biệt ở hai môn Toán và Tiếng Việt để GV, CBQL, PH đưa ra những biện pháp hỗ trợ trẻ ở các giai đoạn tiếp theo và quyết định trẻ lên lớp hay ở lại lớp hoặc quyết định cho trẻ tiếp tục học hòa nhập hay trả về các trường chuyên biệt. Tuy nhiên, cũng có 16,7% GV, 14,3% CBQL, 4,1% PH không đồng ý với mục đích sử dụng kết quả đánh giá học tập của học sinh khiếm thính hoà nhập để quyết định cho trẻ tiếp tục học hòa nhập hay trả về các trường chuyên biệt. Điều cần lưu ý đến kết quả khảo sát từ Bảng 3 là 100% GV, 76,8% CBQL, 85,7% PH cho rằng, kết quả học tập sẽ là cơ sở cho GV quyết định cho trẻ lên lớp hoặc ở lại lớp. Đây là kết quả có thể dự đoán được vì từ trước đến nay trong hệ thống giáo dục nước ta, GV là người có trách nhiệm chính quyết định việc HS được lên lớp, ở lại lớp dựa vào kết quả học tập trung bình cuối năm của HS đó. Tuy nhiên, kết quả khảo sát của Bảng 3 chứng minh có 91,6% GV, nhìn nhận mục đích đánh giá kết quả học tập của HS khiếm thính nhằm điều chỉnh phương pháp dạy học, 94% GV ủng hộ mục đích đánh giá nhằm điều chỉnh kế hoạch giáo dục cá nhân. Đây là quan điểm tích cực và phù hợp với quan điểm Giáo dục hòa nhập mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đề ra. Quan điểm này cũng được sự đồng thuận cao của các cán bộ quản lý trong đợt khảo sát này (76,8% và 82, 1%). Riêng về phía phụ huynh thì đa số (81,6%) còn cho rằng kết quả học tập sẽ là cơ sở cho GV quyết định cho trẻ tiếp tục học hòa nhập hay trả về các trường chuyên biệt. Đây là vấn đề quan trọng mà CBQL và GV các trường hòa nhập cần quan tâm để giải tỏa tâm lý lo lắng và chưa tin tưởng vào khả năng hòa nhập của con em mình. Thực trạng cho thấy đa số giáo viên, cán bộ quản lý và phụ huynh đều có nhận thức đồng nhất về mục đích đánh giá kết quả học tập của học sinh khiếm thính học hòa nhập nhằm xếp loại đạt- không đạt, ghi nhận những tiến bộ của học sinh khiếm thính trong học tập hoặc những khó khăn để điều chỉnh chương trình học, phương pháp dạy học, môi trường dạy học và kế hoạch giáo dục cá nhân. Tuy nhiên, đến 100% GV, 76,8% CBQL và 85,7% PH cho rằng mục đích đánh giá nhằm ghi nhận những khó khăn trong học tập Toán và Tiếng Việt của trẻ khiếm thính để quyết định việc trẻ lên lớp hay ở lại lớp. Hoặc 70,2% GV, 57,1% CBQL và 81,6% PH đồng ý 73
  10. Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version) Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP.HCM Số 19 năm 2010 quan điểm về mục đích đánh giá nhằm ghi nhận những khó khăn trong học tập Toán và Tiếng Việt của trẻ khiếm thính để quyết định cho trẻ tiếp tục học hòa nhập hay trả về các trường chuyên biệt. Điều này càng làm tăng áp lực tâm lý cho cả giáo viên, học sinh và phụ huynh vì không giáo viên nào muốn bị đánh giá thấp trong thi đua và không phụ huynh nào muốn con mình chuyển về các trường chuyên biệt. Vì vậy trong quá trình đánh giá kết quả học tập của học sinh khiếm thính, chúng ta cần phải tìm ra những thành tích, ưu điểm, những điều mà trẻ có thể đạt được và phải vượt qua nhiều khó khăn. Điều này có nghĩa là chúng ta cần đánh giá các em theo hướng tích cực, tức là các em khiếm thính làm được gì, học được gì. GV cần động viên, huy động những khả năng còn lại của trẻ để phát huy mặt tích cực, hạn chế những yếu điểm của trẻ. Ví dụ, học sinh khiếm thính gặp rất nhiều khó khăn trong giao tiếp bằng lời, trong khi nghe và nói, nhưng ngược lại các em có khả năng đặc biệt để giao tiếp là nhìn và sử dụng ngôn ngữ ký hiệu hơn hẳn các em khác. 5. Kết luận v Giáo dục hòa nhập xem trẻ khiếm thính như các trẻ em khác và là chủ thể của quá trình giáo dục hơn là đối tượng giáo dục. Gia đình, nhà trường và xã hội cùng tạo ra sự hợp tác và hòa nhập với trẻ trong tất cả các hoạt động ở mọi môi trường. Vì thế trẻ khiếm thính được gần gũi gia đình trong tình thương yêu của cha mẹ, anh chị, người thân trong gia đình và được nhà trường, cộng động hỗ trợ. v Trẻ khiếm thính có những khó khăn đặc biệt gây ra những hạn chế trong học tập, nên trong đánh giá, giáo viên, nhà trường, phụ huynh cần có những quan điểm đúng đắn và tích cực. Các phương thức đánh giá phải phù hợp với sự phát triển về thể chất, tâm lý và xã hội của trẻ khiếm thính nhưng cũng phải chú ý đến đặc điểm cá nhân của trẻ. Không thể áp dụng hoàn toàn cách đánh giá đối với trẻ bình thường vào đánh giá trẻ khiếm thính. Chỉ có đánh giá đúng kết quả học tập của học sinh khiếm thính theo quan điểm tích cực này thì các em mới có động lực, cơ hội và điều kiện để phát triển, tự khẳng định mình trong học tập và cuộc sống hàng ngày. v Đánh giá kết quả học tập của học sinh khiếm thính tại một số trường tiểu học hòa nhập là khâu cuối cùng trong quy trình dạy học hòa nhập. Có nhiều cách đánh giá khác nhau, song phải đánh giá như thế nào để trẻ khiếm thính biết mình đã làm được những gì, đã tiến bộ đến mức nào và còn những gì tồn tại. Đánh giá là khâu cuối cùng của một giai đoạn, đồng thời lại là khâu khởi đầu của giai đoạn mới. Sau đánh giá, điều quan trọng là thấy được những khả năng mới, nhu cầu mới cao hơn của trẻ khiếm thính. Trên cơ sở đó, điều chỉnh mục tiêu hay đặt những mục tiêu 74
  11. Created by Simpo PDF Creator Pro (unregistered version) Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP.HCM Nguyễn Thị Kim Anh, Võ Thị Mỹ Dung mới, kế hoạch giáo dục mới. Như vậy, học tập là một quá trình biến đổi, phát triển không ngừng. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật bậc tiểu học (Dành cho giáo viên tiểu học), Hà Nội. [2] Giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật Việt Nam từ năm 2003 đến 2010. Nguồn: Giáo dục và Thời đại, 24/7/2003. [3] Nguyễn Thị Hoàng Yến (2005), Đại cương về giáo dục trẻ khiếm thính, NXB Sư phạm. [4] Viện Khoa học giáo dục – Trung tâm tật học (2000), Dạy học hòa nhập cho trẻ khuyết tật,: NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 75