Vấn đề phân loại từ theo cấu tạo ở Tiểu học

pdf 6 trang ngocly 2060
Bạn đang xem tài liệu "Vấn đề phân loại từ theo cấu tạo ở Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvan_de_phan_loai_tu_theo_cau_tao_o_tieu_hoc.pdf

Nội dung text: Vấn đề phân loại từ theo cấu tạo ở Tiểu học

  1. Tư liệu tham khảo Số 6(71) năm 2015 ___ VẤN ĐỀ PHÂN LOẠI TỪ THEO CẤU TẠO Ở TIỂU HỌC LÊ VĂN TRUNG* TÓM TẮT Bài viết đề cập việc dạy phân loại từ vựng ở tiểu học; từ đó đưa ra những nhận xét, phân tích nhằm giúp người học phân loại từ thuận lợi hơn. Từ khóa: phân loại từ, phân loại từ theo cấu tạo, tiểu học. ABSTRACT Classifying vocabulary by structure in primary schools This article discusses the reality of teaching how to classify vocabulary in primary schools. Thence, it presents comments and analyses to help learners classify vocabulary more easily. Keywords: classifying vocabulary, classifying vocabulary by structure, primary education. 1. Đặt vấn đề tiếng Việt Việc dạy học sinh (HS) nhận diện, Như từ vựng của các ngôn ngữ khác, phân loại đơn vị từ vựng ở trường tiểu từ vựng tiếng Việt là một hệ thống lớn, có học còn nhiều bất cập. Vì thế, giáo viên cấu trúc phức tạp và không ngừng vận (GV) tiểu học thường đặt ra các câu hỏi, động. Khác với ngôn ngữ Ấn - Âu, từ tiếng như: Làm thế nào để dạy HS xác định Việt mang đặc điểm của loại hình ngôn đúng về từ đơn, từ láy, từ ghép. Thậm chí ngữ đơn lập, không biến hình. Chính đặc có người còn bức xúc, đặt vấn đề: Tại sao điểm này khiến cho việc phân loại gặp những nhà Việt ngữ học, nhất là sách không ít khó khăn. Tùy từng góc độ tiếp giáo khoa (SGK) không đưa ra một tiêu cận nghiên cứu, chúng ta có những cách chí nhất định và nhất quán để giúp cho phân loại khác nhau. Sau đây là một số GV cũng như HS nhận diện và phân loại cách phân loại từ vựng tiếng Việt: từ? Điều đó có lẽ xuất phát từ tính chất 2.1. Dựa vào phạm vi sử dụng từ, từ phức tạp của vấn đề ranh giới từ trong vựng tiếng Việt được chia thành hai tiểu tiếng Việt. loại: từ toàn dân và từ địa phương Những câu hỏi và những băn khoăn Trong chương trình và SGK hiện trên đây của GV tiểu học không thể hành, nội dung này được phân bố trong không lưu tâm. Bài viết này trình bày về chương trình lớp 3. Do từ vựng là hệ vấn đề phân loại từ vựng trong chương thống mở và vận động không ngừng, có trình tiểu học với mong muốn góp phần những từ địa phương nay đã nhập vào giúp GV dạy HS phân loại từ theo cấu lớp từ toàn dân như sầu riêng, chôm tạo một cách thuận lợi hơn. chôm, măng cụt, nhậu khiến ranh giới 2. Một số tiêu chí phân loại từ vựng giữa chúng không rõ ràng, khó xác định. * ThS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM; Email: levantrung@gmail.com 186
  2. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Văn Trung ___ Dẫn đến việc dạy học nội dung này cũng tiểu học, 100% GV khi được hỏi đều cho gặp khó khăn nhất định. rằng không tự tin để xác định từ Hán 2.2. Dựa vào nguồn gốc của từ, từ vựng Việt, việc xác định dường như chỉ dựa tiếng Việt cũng được chia thành hai tiểu vào cảm tính. Như vậy, việc nhận diện loại: từ thuần Việt và từ vay mượn. lớp từ này đối với GV đã khó thì với HS Nguồn vay mượn chính của tiếng chắc chắn sẽ càng khó. Vì thế, việc dạy Việt là tiếng Hán và ngôn ngữ Ấn - Âu. yếu tố Hán Việt trong nội dung mở rộng Trong tiếng Việt số lượng từ gốc Hán vốn từ cho HS rất cần được quan tâm. chiếm khoảng 70% (trong đó khoảng 2.3. Dựa vào quan hệ ngữ nghĩa giữa 60% là từ Hán Việt), vay mượn tiếng các từ, từ vựng tiếng Việt được chia Pháp khoảng 3000 từ và một số từ vay thành 2 lớp: từ đồng nghĩa và từ trái mượn từ những ngôn ngữ khác như Nhật, nghĩa. Trong đó, từ đồng nghĩa lại được Nga Trong quá trình giao lưu hội nhập, chia thành: từ đồng nghĩa hoàn toàni và tiếng Việt tiếp nhận một số lượng khá lớn từ đồng nghĩa không hoàn toàn. Nội từ tiếng Anh, như email, internet, dung này HS được học ở lớp 5. karaoke, game, facebook Bài viết này không đi sâu tìm hiểu Việc nhận diện từ ngữ vay mượn từ về từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa. Người những ngôn ngữ Ấn - Âu tương đối dễ, viết đề cập vì nó nằm trong hệ thống bởi vì hình thức ngữ âm của từ vẫn còn phân loại các đơn vị từ vựng được đề cập mang âm hưởng ngoại lai, chẳng hạn: ở tiểu học). Với HS, việc xác định từ trái biđông, pin, comlê, compa, vali Ngược nghĩa có nhiều thuận lợi vì các từ trái lại, những từ vay mượn từ tiếng Hán khó nghĩa vốn thường tồn tại thành từng cặp xác định hơn. Nguyên do có thể là tiếng sẵn có. Thông thường HS chỉ gặp khó Việt và tiếng Hán cùng thuộc loại hình khăn khi xác định những từ tham gia vào ngôn ngữ đơn tiết tính, không biến hình, nhiều trường trái nghĩa như thẳng có thể mỗi tiếng được viết bằng một chữ viết trái nghĩa với cong/ xiêu vẹo. Hay những tách rời nhau. Hơn nữa số lượng từ gốc trường hợp trái nghĩa tùy ngữ cảnh như Hán trong tiếng Việt quá lớn, nhiều đen, trắng: đổi trắng thay đen. Còn với trường hợp đã được việt hóa cao về hình từ đồng nghĩa, việc chỉ ra điểm khác biệt thức ngữ âm cũng như khả năng kết hợp, đối với HS không dễ: từ càng giống nhau, như: ông, bà, cô, học nên người sử điểm khác biệt càng khó xác định. dụng dường như không còn biết nguồn 2.4. Dựa vào cấu tạo của từ, từ vựng gốc của từ. Đặc biệt, nhiều yếu tố Hán tiếng Việt chia thành: từ đơn và từ phức. Việt đã trở thành đơn vị cấu tạo từ tiếng Việc phân loại từ theo tiêu chí này Việt, có những từ được cấu tạo bằng cách là dựa vào số lượng hình vị mà từ bao ghép yếu tố Hán Việt với yếu tố thuần gồm và mối quan hệ giữa các hình vị. Việt, như binh lính, cướp đoạt, cảm mến, Với từ đơn, dựa vào số lượng âm tiết mà biến đổi khiến cho việc xác định càng từ đơn lại được chia thành từ đơn tiết trở nên khó khăn. Qua khảo sát 60 GV (như: đi, núi, vui, đã ) và từ đơn đa tiết 187
  3. Tư liệu tham khảo Số 6(71) năm 2015 ___ (gọi tắt là từ đa tiết như: thằn lằn, bồ phân loại từ vựng tiếng Việt trong đào hóng, thốt nốt, đom đóm ). tạo GV tiểu học có trình độ cao đẳng, Với từ phức, dựa vào phương thức đại học. Song để áp dụng vào thực tiễn cấu tạo từ, từ phức lại được chia thành giảng dạy không đơn giản. GV tiểu học hai loại từ láy và từ ghép. thường lúng túng, thiếu tự tin hoặc máy - Dựa vào sự lặp lại hình thức âm móc khi dạy nội dung này. Kết quả thanh của hình vị gốc (tiếng gốc/cơ sở), khảo sát của chúng tôi (Mục 3) cho thấy từ láy được chia thành từ láy toàn bộ điều này. (như xa xa, nho nhỏ, đăng đắng, tưng 3. Khảo sát và phân tích việc dạy tức, nằng nặng ) và từ láy bộ phận (như học phân loại từ theo cấu tạo ở tiểu học lạnh lùng, thập thò, bỡ ngỡ, lon ton ). Để tìm hiểu việc dạy học phân loại Trong chương trình và SGK trước năm từ theo cấu tạo ở tiểu học, chúng tôi làm 2000, những trường hợp sạch sành sanh, một khảo sát nhỏ. khét khèn khẹt, dửng dừng dưng; nhí nha 3.1. Đối tượng và kết quả khảo sát nhí nhảnh, khấp kha khấp khểnh, đì đà đì Đối tượng khảo sát là 60 học viên đùng được xem là từ láy ba, từ láy tư. đang theo học hệ liên thông ngành Giáo SGK hiện hành không đề cập đến những dục Tiểu học của Trường Đại học Sư đơn vị này. Nhưng trong thực tế dạy học phạm Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHSP ở tiểu học, nếu gặp những cứ liệu này có TPHCM). Những học viên này đã qua thể xử lí là từ láy. các bậc học Trung cấp Sư phạm hoặc - Dựa vào quan hệ cú pháp giữa các Cao đẳng Sư phạm. Họ là những người hình vị, từ ghép được phân thành từ ghép đang trực tiếp đứng lớp ở tiểu học. Nội đẳng lập (như hoa quả, ca hát, vui dung câu hỏi như sau: buồn ) và từ ghép chính phụ (như đỏ au, Với những từ sau, anh/ chị dạy HS giáo viên, chạy bàn ). Sách Tiếng Việt tiểu học phân loại như thế nào? tiểu học trước năm 2000 phân loại theo chôm chôm, xoài cát, đưa đón, hướng này. Trong sách Tiếng Việt tiểu khang khác, mơ mộng, đom đóm, xanh học hiện hành, từ ghép được phân loại xao, giáo viên, bơi lội, bươm bướm, tôn dựa vào quan hệ ngữ nghĩa giữa các hình tốt, ấu trĩ, với, điên điển, sông núi, gượng vị. Dựa vào tiêu chí này, từ ghép được gạo, hoa đăng, chung thủy. chia thành từ ghép tổng hợp (như đất Sau đây là kết quả phân loại của các nước, bơi lội, sớm muộn ) và từ ghép giáo viên tham gia khảo sát. phân loại (như máy bay, ăn chay, lạ mắt, xanh rì ). Đó là những kiến thức cơ bản về 188
  4. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Văn Trung ___ Bảng kết quả khảo sát phân loại từ theo cấu tạo Phân loại Stt Từ Từ đơn Từ láy Từ ghép Tổng Phân Đơn tiết Đa tiết Toàn bộ Bộ phận hợp loại chôm 49 1 9 (15%) 2 (3%) chôm (82%) 60 2 xoài cát (100%) 60 3 đưa đón (100%) khang 25 4 35 (58%) khác (42%) 5 mơ mộng 4 (7%) 56 (93%) 47 6 đom đóm 7 (12%) 6 (10%) (78%) 20 7 xanh xao 40 (67%) (33%) 60 8 giáo viên (100%) 9 bơi lội 58 (97%) 2 (3%) bươm 48 10 6 (10%) 2 (3%) 4 (7%) bướm (80%) 24 11 tôn tốt 36 (60%) (40%) 35 12 ấu trĩ 25 (42%) (58%) 13 với 60 (100%) 48 14 điên điển 7 (12%) 3 (5%) 3 (5%) (80%) 60 15 sông núi (100%) gượng 16 60 (100%) gạo 60 17 hoa đăng (100%) chung 40 18 20 (33%) thủy (67%) 189
  5. Tư liệu tham khảo Số 6(71) năm 2015 ___ Từ kết quả trên chúng tôi đưa ra Tiếng Việt 4, tập 1, từ phức được quan những nhận xét ở mục 3.2. niệm như sau: “Có hai cách chính để tạo 3.2. Phân tích kết quả khảo sát từ phức là: 1. Ghép những tiếng có nghĩa Kết quả ở bảng trên cho thấy: tỷ lệ lại với nhau. Đó là các từ ghép. M: tình phân loại sai tương đối cao, nhất là đối thương, thương mến 2. Phối hợp những với những từ chôm chôm, khang khác, tiếng có âm đầu hay vần (hoặc cả âm đầu đom đóm, xanh xao, bươm bướm, tôn tốt, và vần) giống nhau. Đó là từ láy. M: săn điên điển. Vậy điều gì khiến GV lúng sóc, khéo léo, luôn luôn ” túng khi xử lí những trường hợp này? Theo định nghĩa trên, các từ này Thứ nhất, do chịu ảnh hưởng của thuộc về từ láy. Vì vậy, câu “Bươm bướm cách phân loại từ được học trong chương đang bay lượn trong vườn.” vẫn được trình đào tạo GV cao đẳng, đại học nên chấp nhận. các từ chôm chôm, đom đóm, bươm Các từ khang khác, xanh xao, tôn bướm, điên điển được xem là từ đơn đa tốt số GV cho là từ láy toàn bộ cũng tiết. Trong khi quan điểm của các tác giả chiếm tỉ lệ cao. Điều này cũng có thể lí SGK xếp vào từ láy. giải bằng những lí do như trên. Định Thứ hai, khi xử lí trường hợp cụ thể nghĩa của sách Tiếng Việt tiểu học cho không dựa vào hệ thống lí thuyết đã được thấy từ láy còn được phân thành ba tiểu đề cập trong chương trình tiểu học khiến loại: từ láy có hai tiếng giống nhau ở việc nhận diện thường theo cảm tính, âm đầu, từ láy có hai tiếng giống nhau thiếu kĩ năng phân tích logic. Những từ ở vần (từ láy bộ phận), từ láy có hai trên, nghiễm nhiên có thể xếp chúng vào tiếng giống nhau ở cả âm đầu và vần từ láy, cụ thể là từ láy tiếng (láy toàn bộ) (từ láy toàn bộ). Như vậy các từ khang như định nghĩa về từ mà SGK đã đưa ra: khác, xanh xao, tôn tốt chỉ có thể xếp “1. Tiếng cấu tạo nên từ. Từ chỉ vào nhóm từ láy có hai tiếng giống gồm một tiếng gọi là từ đơn. Từ gồm hai nhau ở âm đầu (từ láy bộ phận). hay nhiều tiếng gọi là từ phức. 2. Từ nào Kết quả khảo sát cũng cho thấy cũng có nghĩa và dùng để tạo nên câu.” 100% GV xếp các từ Hán Việt như giáo (Tiếng Việt 4, t.1, tr.28, 2010) viên, hoa đăng vào nhóm từ ghép phân Riêng những từ như bươm bướm, loại. Nhưng điều thú vị là khi hỏi đâu là chôm chôm, đom đóm không được đề hình vị chỉ loại lớn, hay yếu tố nào là cập trong nội dung dạy về cấu tạo từ ở chính thì đa số trả lời là “giáo” thay vì tiểu học. Cho nên thực tế đã xảy ra tình “viên”, “hoa” thay vì “đăng”. Riêng từ huống sau: khi dạy phần từ láy ở lớp chung thủy có tới 67% cho là từ ghép Bốn, GV yêu cầu HS dùng từ láy đặt câu. phân loại. Và khi hỏi nghĩa của từng yếu Có em viết “Bươm bướm đang bay lượn tố “chung” và “thủy” thì không ai giải trong vườn”. Tình huống này đã khiến thích được. Thậm chí nhiều người còn GV lúng túng, khó giải quyết. cho rằng “thủy” có nghĩa là “nước”. Điều Những từ trên được cấu tạo bởi hai đó cho thấy vốn từ Hán Việt cũng như tiếng, suy ra chúng là từ phức. Bởi vì trong những hiểu biết về Hán học của GV tiểu 190
  6. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Văn Trung ___ học còn khá khiêm tốn. Đây chính là một cân nhắc giữa kiến thức khoa học với khả gợi ý cho việc điều chỉnh nội dung dạy năng tư duy, nhận thức của học sinh ở học về lớp từ này cho sinh viên sư phạm từng lứa tuổi. Từ đó có sự chọn lựa nội thuộc ngành Giáo dục Tiểu học ở các dung, cách trình bày cho phù hợp. Chẳng trường cao đẳng và đại học. Bởi vì, lớp từ hạn, những từ chôm chôm, đom đóm, này chiếm một vị trí rất quan trọng trong bươm bướm, điên điển đều là những từ tiếng Việt, nó chiếm số lượng tới 60% đơn đa tiết, nhưng HS tiểu học được dạy trong hệ thống từ vựng tiếng Việt. Khi là từ láy. Điều đó cho thấy sách Tiếng được giải nghĩa những từ chung thủy, Việt tiểu học đã phân định từ vựng tiếng công viên, giáo viên, cận thị, viễn thị, ấu Việt một cách cụ thể, phù hợp với nhận trĩ bằng cách chiết tự thì người học thức của học sinh. cảm thấy rất hứng thú và nhận thấy tầm Tuy những kiến thức cơ bản về từ quan trọng của lớp từ này. Chẳng hạn: vựng nói chung và về cấu tạo từ nói chung có nghĩa là cuối cùng, thủy có riêng, GV tiểu học đã được trang bị trong nghĩa là khởi đầu, suy ra chung thủy là quá trình đào tạo bậc cao đẳng, đại học, “trước sau như một, không thay lòng đổi nhưng khi vận dụng vào thực tế dạy học dạ”. Với quan hệ về nghĩa giữa 2 hình vị còn máy móc và khá lúng túng. Vì thế, như thế, nó là từ ghép tổng hợp; Hay cận khi xử lí các trường hợp cụ thể còn cảm là gần, thị là nhìn, vậy cận thị được hiểu tính, mang “màu sắc” chủ quan. Việc là “chỉ nhìn rõ được những vật ở gần” và nhận diện từ về mặt cấu tạo cũng như về cấu tạo nó là từ ghép phân loại Vấn ngữ nghĩa không đơn giản. Để dạy tốt đề từ Hán Việt có nhiều điều cần bàn, đơn vị ngôn ngữ phức tạp này, người dạy chúng tôi xin được trình bày ở một bài cần nắm vững các kiến thức cơ bản, cần viết khác. vận dụng những kiến thức ấy vào việc 4. Kết luận dạy học một cách linh hoạt và với Khi biên soạn SGK, các tác giả đã phương pháp phù hợp. ___ i Tuy “đồng nghĩa hoàn toàn” chỉ là cách gọi, nhưng cách gọi này chưa ổn. Thực ra, không có từ đồng nghĩa hoàn toàn. Bởi vì về mặt ngữ nghĩa có thể giống nhau, nhưng phong cách sử dụng sẽ khác nhau nên không thể có từ đồng nghĩa thay thế cho nhau trong mọi ngữ cảnh. Chẳng hạn: mẹ = má, nhưng trong văn bản hành chính viết “Họ tên mẹ”, không viết “Họ tên má”; máy bay = phi cơ, nói “Tôi đi máy bay”, không nói “Tôi đi phi cơ”; hoa = bông, nói “nước hoa”, không nói “nước bông” TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Thị Ân, Nguyễn Thị Ly Kha (2009), Tiếng Việt giản yếu, Nxb Giáo dục. 2. Đỗ Hữu Châu (2007), Giáo trình Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Đại học Sư phạm. 3. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 4. Hoàng Phê (chủ biên) (1992), Từ điển tiếng Việt, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội. 5. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên) (2010), Tiếng Việt 3, 4, 5, Nxb Giáo dục Việt Nam. (Ngày Tòa soạn nhận được bài: 15-4-2015; ngày phản biện đánh giá: 18-5-2015; ngày chấp nhận đăng: 05-6-2015) 191