Văn bản giáo khoa (Phần 2)

pdf 65 trang ngocly 2570
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Văn bản giáo khoa (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvan_ban_giao_khoa_phan_2.pdf

Nội dung text: Văn bản giáo khoa (Phần 2)

  1. Bài đọc thêm: NÉT KIẾN TRÚC ĐÌNH Ở BIÊN HÒA Người Việt đã đến vùng đất Biên Hòa từ rất sớm để khai khẩn lập nghiệp. Có thể vào khoảng những năm trong thế kỷ XVI. Trong quá trình khẩn hoang lập nghiệp trên vùng đất mới, họ từng bước khẳng định sự tồn tại của cộng đồng bằng việc ra sức xây dựng một cuộc sống ổn định. Trong đời sống tinh thần, người Việt hình thành những cơ sở tín ngưỡng sinh hoạt cộng đồng để gắn kết cộng đồng, thỏa mãn nhu cầu tâm linh. Từ lúc ban đầu, đình làng được dựng lên với quy mô nhỏ, bằng những vật liệu vốn sẵn có tại chỗ như tre, lá, cây gỗ. Thường thì nhóm cộng cộng đồng dân cư tại một vùng chung sức nhau để dựng lên. Về sau, trong quá trình phát triển, những cơ sở tín ngưỡng được nâng cấp lên cả quy mô lẫn hì nh thức do sự lớn mạnh của chính cộng đồng dân cư cư trú tại chỗ. Có thể nói, đình làng là một dấu ấn xác định sự hình thành của cộng đồng người Việt trên vùng Biên Hòa. Trải qua bao thời kỳ, qua bao thay đổi về đia lý hành chánh hay tác động của xã hội thì ngôi đình vẫn tồn tại và ẩn chứa những giá trị nhiều đa dạng. Thông thường, mỗi làng người Việt đều có một ngôi đình. Người xưa chọn đất dựng đình thờ thần cho nhu cầu tâm linh làng xã nhưng cũng chính là ước vọng sự sung túc, thịnh vượng của cả cộng đồng. Phần lớn những ngôi đình ở Biên Hòa được xây dựng theo kiểu thức kiến trúc nhà tứ trụ. Đây là kiểu thức nhà rường nhưng gian trung tâm gồm 4 cột cái bố trí cách đều; từ bốn cột cái, các kèo đấm, kèo quyết đưa ra bốn hướng nhau tạo không gian vuông vức . Đây chính là không gian thiêng, trung tâm cho việc thờ tự chính trong đình. Ngoài chánh điện, tùy nơi mà ngôi đình có nhà Võ (Vỏ ca), nhà hội, nhà trù (bếp). Theo truyền thống, trên cuộc đất rộng thì ngôi đình bố trí theo thứ tự như: cổng đình, bình phon g, nhà Võ, chánh điện, nhà hội, nhà trù. Nhưng, cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều ngôi đình ở Biên Hòa không theo thứ tự này hoặc không có những nếp nhà ngoài khu chánh điện. Tùy nơi mà quy mô và các nếp nhà, vật liệu xây dựng, tôn tạo khác nhau nhưng cơ bản chánh điện những ngôi đình vẫn giữ được dạng kiến trúc truyền thống này. Hiện nay trên địa bàn Biên Hòa có nhiều ngôi đình được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa. Trong năm, lễcác ngôi đình thường tổ chức lễ Kỳ yên/ Cầu an rất độc đáo. Những ngôi đì nh với những giá trị ẩn chứa trong nó đã làm phong phú thêm những sắc thái văn hóa, đáp ứng được nhu cầu tinh thần của người dân Biên Hòa. Bài đọc thêm : VĂN MIẾU TRẤN BIÊN Văn miếu Trấn Biên hình thành sớm n hất ở Nam Bộ (năm Ất Mùi – 1715). Lý do chúa Nguyễn Phúc Chu sai Trấn thủ dinh Trấn Biên và Ký lục Phạm Khánh Đức lựa thôn Tân Lại, tổng Phước Vĩnh (nay là phường Bửu Long, Biên Hòa) để xây dựng Văn miếu Trấn Biên có thể hiểu là vì khi đó Biên Hòa đã là nơi dân cư ổn định, phát triển nhiều mặt. 70
  2. Việc hình thành Văn miếu Trấn Biên đối với chúa Nguyễn có ý nghĩa như là sự khẳng định những giá trị văn hóa và cả chính trị ở một vùng đất mới. Gắn liền với Văn miếu Trấn Biên là một nền giáo dục phát triển khá sớm ở Biên Hòa - Đồng Nai lúc bấy giờ. Trên nền giáo dục ấy cũng đã sản sinh ra những tên tuổi làm rạng rỡ vùng đất phương Nam, đồng thời tô điểm thêm truyên thống văn hóa ngàn năm của dân tộc ta như: Võ Trường Toản, Trịnh Hòai Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Địn h, Nguyễn Đình Chiểu. Cũng như những Văn miếu khác, Văn miếu Trấn Biên thờ Khổng Tử, vị khai sáng của Nho giáo và Nho học. Vì thế ngay từ buổi đầu, Văn miếu Trấn Biên trước hết là nơi tôn vinh những giá trị của nền giáo dục Nho học. Đầu đời trung hưng (trước năm 1802), đích thân chúa Nguyễn đến Văn miếu Trấn Biên để hành lễ hàng n ăm vào ngày đinh mùa xuân và mùa thu. Từ đó về sau (khi nhà Nguyễn đã được thiết lập), khâm mạng vua, quan Tổng trấn thành Gia Định đến hành lễ cùng với Trấn quan Biên Hòa và quan Đốc học (vị quan xem việc học ở Trấn Biên Hòa ). Lệ đặt mỗi kỳ là 50 lễ lanh và 50 miếu phụ. Bên cạnh là nơi thờ cúng, Văn miếu ở kinh sư (thủ đô) còn có Quốc tử giám để giảng dạy học trò. Ở Biên Hòa, bên cạnh V ăn miếu là Tỉnh học (trường tỉnh Biên Hòa). Trường học lớn của cả tỉnh này, mãi đến đời vua Minh Mạng mới dời về thôn Tân Lại (phường Hòa Bình, Biên Hòa). Cũng vào thời vua Minh Mạng, Tr ường phủ Phước Long đã được thành lập ở thôn Bình Lợi, tổng phước Vĩnh (nay là huyện Vĩnh Cửu). Như vậy, Văn miếu Trấn Biên đã đóng vai trò như một trung tâm văn hóa, giáo dục của tỉnh Biên Hòa xưa. Bởi vậy, khi đáo nhậm (trở lại làm nhiệm vụ cũ), n ăm 1840, quan Bố chánh tỉnh Biên Hòa Ngô Văn Địch đã hết lời ca ngợi Văn miếu Trấn Biên. Do thời gian và những biến cố lịch sử, Văn miếu Trấn Biên bị tàn phá không còn lại dấu vết (theo “Biên Hòa sử lược” của nhà nghiên cứu Lương Văn Lựu, năm 1861 khi tiến chiếm Biên Hòa, quân Pháp đã đốt phá Văn miếu Trấn Biên), người đời nay chỉ hình dung Văn miếu Trấn Biên xưa qua sử sách. Song với những gì được mô tả và người đời lúc bấy giờ xưng tụng, người Biên Hòa -Đồng Nai hôm nay rất đỗi tự hào về ngôi đền Văn miếu của mình. Năm 1998, kỷ niệm “300 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai”, tỉnh Đồng Nai khởi công xây dựng tái tạo công trình Văn miếu Trấn Biên. Côpng trình Văn miếu Trấn Biên đựơc khánh thành vào năm 2002. Việc phỏng dựng lại Văn miếu Trấn Biên không chỉ là việc làm hướng về cội nguồn, truyền thống, đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân mà còn gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa. Công trình Văn miếu Trấn Biên là nơi bảo tồn, gìn giữ và tôn vinh các giá trị văn hóa giáo dục xưa và nay của dân tộc và của địa phương; đồng thời là một thiết chế văn hóa, du lịch gắn với khu danh thắng Bửu Long đã được côn g nhận là di tích quốc gia. Từ khi khánh thành đến nay, Văn miếu Trấn Biên trở thành địa điểm sinh hoạt văn hoá, du lịch thu hút nhiều ng ười. Tại Văn miếu Trấn Biên thường tổ chức tuyên dương cho các cá nhân, tập thể đạt thành tích đặc biệt của Đồng Nai; đặc biệt trên lĩnh vực văn hóa giáo dục. 71
  3. ĐỒNG NAI TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP ( 1861 – 1954) I. Thực dân Pháp tấn công và chiếm đóng Biên Hòa Tháng 8-1858, lấy cớ triều Nguyễn “cấm và sát đạo”, thực dân Pháp với sự hỗ trợ của quân Tây Ban Nha đã ngang nhiên kéo đến xâm lược nước ta, nơi chúng đánh chiếm đầu tiên là cửa biển Đà Nẵng. Âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của Pháp bị thất bại do sự kháng cự mạnh mẽ của quân dân Đà Nẵng. Sau 5 tháng giằng co sa lầy ở mặt trận Đà Nẵng, Pháp quyết định chuyển hướng đánh chiếm Nam Bộ. 1. Quân Pháp đánh chiếm Biên Hòa Tháng 2-1859, sau khi liên quân Pháp – Tây Ban Nha đã chiếm được toàn bộ thành Gia Định. Quân Pháp 2 lần tổ chức càn vào khu vực suối Sâu (nay thuộc tỉnh Bình Dương) đều bị quân dân Biên Hòa đánh lui. Tháng 10-1861, phó đô đốc Bonard đã quyết tâm đánh chiếm Biên Hòa bằng đường thủy và đường bộ.Ngày 13-12-1861, Bonard gửi tối hậu thư cho khâm sai đại thần Nguyễn Bá Nghi đòi quân triều đình triệt thoái các ph áo đài và các vật cản trên sông Đồng Nai. Chưa nhận được trả lời, sáng sớm ngày 14-12-1861 Bonard ra lệnh tiến quân vào Biên Hòa theo bốn ngả. Đến ngày 18-12-1861, chỉ sau 4 ngày, với khoảng 1.000 quân, thực dân Pháp đã dễ dàng chiếm lấy Tỉnh Biên Hòa, tro ng lúc quan quân triều đình nhà Nguyễn ở Biên Hòa có đến 15.000 quân phòng giữ. 2. Các phong trào buổi đầu chống Pháp Ngay từ khi quân Pháp kéo đến Biên Hòa, các tầng lớp nhân dân đã sát cánh bên cạnh triều đình trong cuộc kháng chiến với nhiều hình thức khác nhau. Khi triều đình Huế từng bước nhượng bộ và đầu hàng thực dân Pháp, thì cuộc chiến tranh nhân dân vẫn không vì thế mà suy yếu. Nhân dân anh dũng đánh giặc ở mọi lúc mọi n ơi khiến cho giặc gặp nhiều tổn thất và khó khăn. Tiêu biểu là các phong trào của : - Một số văn thân ở Biên Hòa như Nguyễn Thành Ý, Phan Trung, mỗi người đã mộ được 2.000 quân hợp tác với nghĩa quân Trương Định đã nhiều lần tổ chức tấn công vào các đồn lũy, tàu bè, các toán tuần tra của địch. - Đầu tháng 1 năm 1863, nghĩa quân ở Biên Hòa, gồm cả người Việt và người các dân tộc thiểu số liên tục tấn công các vị trí quân Pháp ở Đông Bắc Biên Hòa, đã gây rất nhiều khó khăn và thiệt hại cho Pháp, làm cho chúng không dám ra khỏi đồn lũy. Quân Pháp phải vất vả bình định lại c ác vùng đã bình định trước đó vì tinh thần bất khuất và ý chí độc lập của nhân dân Biên Hòa, tình đoàn kết giữa đồng bào Kinh, Th ượng trong cuộc kháng chiến đánh đuổi kẻ thù xâm lược. Nhiều đồn lũy của Pháp ở Biên Hòa bị tấn công, nhiều nơi quân Pháp phải bỏ đồn rút về Sài Gòn, Pháp phải tăng thêm viện 72
  4. binh giải vây tình thế cho thành Biên Hòa. Biên Hòa đ ược xem như một trung tâm xuất phát của phong trào dân chúng nổi dậy đánh Pháp xâm l ược và lan tỏa về các tỉnh khác ở Nam Kỳ. II. Cách mạng tháng Tám 1945 ở Biên Hòa Ngày 14 tháng Tám, năm 1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng quân Đồng Minh vô điều kiện. Bọn sĩ quan và binh lính Nhật ở Biên Hòa hoang mang rệu rã, chúng án binh bất động ở các địa điểm đóng quân. Chính quyền bù nhìn của Nhật ở Biên Hòa hoàn toàn tê liệt. Trong khí thế cách mạng sục sôi của cả nước, nhiều địa phương đã khởi nghĩa và giành được chính quyền. Thời cơ cách mạng đã chín muồi, ngày 23 tháng 8 năm 1945, tại căn nhà 62 dãy phố Sáu Sử xã Bình Trước quận Châu Thành, Biên Hòa ( nay thuộc quốc lộ 1 Phường Trung Dũng, TP. Biên Hòa ), đồng chí Hoàng Minh Châu chủ trì cuộc họp, bàn kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền tại Tỉnh lỵ Biên Hòa. Thực hiện sự chỉ đạo của Xứ ủy, Hội nghị đã bàn bạc thống nhất và quyết định một số việc cấp bách chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền. Trong đó có việc thành lập Ủy ban khởi nghĩa do đồng chí Hoàng Minh Châu phụ trách và dự kiến thành phần Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Biên Hòa. Ngay trong đêm 23 và rạng sáng ngày 24 tháng 8 năm 1945, trong nội ô tỉnh lỵ, nhân dân đã treo cờ đỏ sao vàng, cờ đỏ búa liềm, dán khẩu hiệu khắp các phố chợ trụ sở Ủy ban khởi nghĩa đặt gần ga xe lửa Biên Hòa luôn tấp nập các đoàn cán bộ ở các địa phương về nhận các chỉ thị khởi nghĩa. Hầu hết các tầng lớp nhân dân đều sục sôi cách mạng, tinh thần quyết tâm giành độc lập dâng cao. Đêm 24 tháng 8, nội ô Biên Hòa và các xã vùng ven như Tam Hiệp, Tân Mai, Tân Phong, Bửu Long, Hiệp Hòa, Hóa An, Tân Hạnh, lực lượng cách mạng đã hoàn toàn làm chủ. Ngày 25 tháng 8 tin Sài Gòn khởi nghĩa thắng lợi nhanh chóng bay về Biên Hòa, đã làm nức lòng cán bộ và nhân dân trong toàn tỉnh. Sáng sớm ngày 26 tháng 8 năm 1945, lá cờ đỏ sao vàng đã phấp phới tung bay trên dinh tỉnh tr ưởng, cơ quan đầu não của giặc. Đến 11 giờ trưa cùng ngày, tỉnh trưởng Nguyễn Văn Quý cùng những viên chức đứng đầu các công sở trong toàn tỉnh bàn giao chính quyền cho cách mạng. Sáng sớm ngày 27 tháng 8 năm 1945, tại Quảng trường Sông Phố, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức. Gần một vạn người từ khắp các quận về dự lễ, đồng chí Hoàng Minh Châu - trưởng ban khởi nghĩa đã đọc diễn văn tuyên bố chính quyền về tay nhân dân và công bố thành lập Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Biên Hòa, gồm các đồng chí: Hoàng Minh Châu - Chủ tịch; Huỳnh Văn Hớn - Phó chủ tịch kiêm trưởng ban tuyên truyền; Kết thúc cuộc mít tinh là lễ tuyên thệ. H ơn một vạn người thay mặt cho 15 vạn đồng bào trong tỉnh đã tuyên thệ, sẵn sàng hy sinh tính mạng tài sản, kiên quyết bảo vệ nền độc lập tự do cho Tổ quốc. Quần chúng phấn khởi hô vang các khẩu hiệu: “ Việt Nam độc lập muôn năm”; “ Việt minh muôn năm” Khắp các nẻo đường đâu đâu cũng sôi động cả một rừng người và cờ, ai cũng hân hoan và cảm động. Từ thân phận nô lệ lầm than, nhân dân tỉnh Biên Hòa dưới sự lãnh đạo của Đảng đã c ùng cả nước vùng dậy đập 73
  5. tan ách thống trị của đế quốc thực dân giành độc lập tự do cho Tổ quốc. III. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) Đêm 22 rạng sáng ngày 23-9 -1945, được sự giúp đỡ của quân Anh, thực dân Pháp nổ súng tấn công Sài Gòn mở đầu cuộc tấn công xâm lược nước ta lần thứ hai. Tin thực dân Pháp đánh chiếm Sài Gòn làm nhân dân Biên Hòa sục sôi ý chí chiến đấu “thà chết tự do còn hơn sống nô lệ”. Một lần nữa nhân dân Biên Hòa lại bước vào cuộc kháng chiến với một ý chí quyết tâm cao, kiên quyết bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc. 1. Những trận đánh tiêu biểu a. Những trận đánh giao thông Tháng 12 – 1946 cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Trên chiến tr ường miền Đông Nam bộ, do phải mở rộng chiến trường ra miền Bắc, thực dân Pháp phải rút bớt nhiều đồn bốt đóng sâu trong vùng căn cứ của ta để có lực lượng chi viện. Ban Thường vụ Trung ương Đảng chỉ đạo cho Xứ ủy Nam bộ “ không để cho giặc Pháp lấy của cướp được ở Nam bộ ra đánh Trung và Bắc bộ”. Biên Hòa nằm trên các tuyến đường chiến lược quan trọng như quốc lộ 20, quốc lộ 1, đường sắt xuyên Việt, là những đường giao thông vận chuyển quân sự của địch từ Nam ra Bắc. Chi đội 10 (tương đương Trung đoàn) là lực lượng vũ trang của tỉnh Biên Hòa, thành lập vào tháng 6-1946. Ban chỉ huy Chi đội 10 chủ trương mở một loạt trận đánh giao thông để tiêu hao sinh lực địch. Đơn vị có 1.100 quân, với 3 đại đội A,B,C hoạt động ở các huyện Tân Uyên, Châu Thành, Xuân Lộc và Long Thành. Chi đội đề ra cách đánh là kết hợp dùng mìn chế tạo từ đầu đạn pháo 75 l y, với việc tháo ốc vít các thanh tà vẹt, đ ường ray, chờ khi xe lửa địch đến thì nổ mìn đồng thời cột dây kéo mạnh đường ray làm đầu xe lửa trật bánh phải dừng lại để bộ đội xung phong. Tiêu biểu là các trận đánh đường sắt tại Xuân Lộc, Bảo Chánh I, Bảo Chánh II, Bàu Cá ta đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch và thu được nhiều vũ khí đạn dược. Từng trung đội, đại đội, của chi đội 10 tổ chức một số trận đánh giao thông trên các liên tỉnh lộ số 2, liên tỉnh lộ 24, quốc lộ 15, đồng thời tiến công một số đồn bốt lẻ của địch như Cây Gáo, Bình lộc (1 – 1947), bốt cầu La Ngà (6 – 1947). Các trận đánh giao thông đường bộ từ quy mô nhỏ nâng dần lên đánh tập trung lớn. Tiêu biểu là hai trận đánh giao thông ở Phước Cang – Long Thành ( tháng 11-1947) và trận giao thông Đồng Xoài quốc lộ 14 ( ngày 19 – 12 – 1947). b. Trận phục kích La Ngà ( 1 – 3 – 1948) La Ngà là tên một dòng sông, một chi lưu của sông Đồng Nai, cũng là một địa danh đi vào lịch sử dân tộc và lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt từ cầu La Ngà lên Định Quán, ngày 1 – 3 – 1948 , chi đội 10 Biên Hòa đã đánh trận giao thông La Ngà thắng lợi. Đầu tháng 2 – 1948, Ban chỉ huy Chi đội 10 nhận được tin quân báo từ nội thành cho hay cuối tháng 2 hoặc đầu tháng 3, thực dân Pháp sẽ tổ chức hội nghị quân chính ở 74
  6. Đà Lạt, có một đoàn xe đưa cán bộ, sĩ quan cao cấp của thực dân và ngụy quyền tay sai từ Sài Gòn đi dự hội nghị Đà Lạt. Cân nhắc kỹ các điều kiện cần thiết, Ban chỉ huy Chi đội quyết định tổ chức trận phục kích giao thông trên quốc lộ 20 để đánh đoàn xe này. Theo dõi, nắm chắc quy luật tổ chức đội hình của các đoàn xe trong các chuyến công tác của địch đi về Biên Hòa, Đà Lạt, Ban chỉ huy chi đội quyết định tổ chức trận địa dài 9 km trên quốc lộ 20 chia làm 3 trận địa A, B, C, đảm bảo chặn đầu khóa đuôi của đoàn xe. Sáng 1 – 3 – 1948 , trên toàn tuyến trận địa, các chiến sĩ Chi đội 10 Biên Hòa đã sẵn sàng chiến đấu trong trạng thái căng thẳng chờ đợi địch. Sáng đó đoàn xe của địch gồm 70 chiếc, có xe thiết giáp đi đầu khởi hành từ Sài Gòn. Đến 14 giờ 20 phút đoàn xe đến La Ngà, 15 giờ 02 phút, chiếc thiết giáp đi đầu bị trúng mìn ở trận địa A bốc cháy. Đoàn xe địch phía sau vẫn tiếp tục tiến sâu vào trận địa. Đến 15 giờ 17 phút, mìn ở trận địa C lại nổ khóa đuôi đoàn xe của địch. Cả đoàn xe của địch bị cắt làm ba khúc. Chi đội 10 và liên quân 17 từ các điểm cao dọc lộ xung phong mãnh liệt. Địch hoàn toàn bất ngờ , chống trả yếu ớt. Đại liên, trung liên, lựu đạn của bộ đội làm cháy cả chục xe địch ngay từ phút đầu. Một số xe còn lại phía sau hốt hoảng quay đầu rút chạy về phía cầu La Ngà. Đoàn xe quân sự của địch như con rồng uốn khúc trên quốc lộ 20, vật vã, lồng lộn, oằn oại, bốc cháy ngả nghiêng. Xác quân Pháp ngổn ngang trên xe, dưới đường. Trận đánh diễn ra quyết liệt và nhanh chóng trong vòng 55 phút, 150 lính lê dương và 25 sĩ quan Pháp bỏ mạng, trong đó có cả đại tá De Sérigné chỉ huy Lữ đoàn lê dương thứ 13 của Pháp, đại tá Patrius phó Tham mưu trưởng quân Pháp ở Nam Đông Dương Chiến thắng La Ngà là thắng lợi lớn diệt gọn đoàn xe quân sự của địch, bắt sống nhiều tù binh. La Ngà là chiến thắng giao thông lớn nhất ở miền Đông lúc bấy giờ; trận đánh đồng thời thể hiện được sự chính nghĩa và chủ nghĩa nhân đạo của cách mạng Việt Nam, có tiếng vang lớn trong nước và thế giới. 2. Phối hợp chiến trường cả nước giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp Phối hợp với chiến trường chung của cả nước, trong Đông Xuân 1953 – 1954, lực lượng vũ trang toàn tỉnh thực hiện 137 trận đánh lớn nhỏ, đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.148 tên địch, làm bị th ương 194 tên, bắt sống 11 tên , thu 183 súng các loại, phá hủy 19 xe, đánh sập 3 bốt, 5 tháp canh, bức rút 25 tháp canh khác. Các đội vũ trang tuyên truyền tổ chức 147 cuộc đột nhập tuyên truyền, diệt tề trừ gian vùng bị tạm c hiếm. Căn cứ chiến khu Đ hoàn toàn do ta làm chủ, mở ra giáp sông Đồng Nai về phía Nam, phía Bắc vượt qua sông Bé, phía Tây giáp lộ 16. Ngày 7 tháng 5 năm 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, cứ điểm kiên cố của địch bị đập tan, buộc thực dân Pháp phải đàm phán với Chính phủ Việt Nam. Ngày 21 – 7 – 1954 , Hiệp định Giơne vơ được ký kết. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành 75
  7. Hiệp định, Tỉnh ủy chỉ đạo đình chỉ mọi hoạt động vũ trang trên địa bàn tỉnh. Quân dân Biên Hòa – Đồng Nai , qua chín năm kháng chiến với bao gian khổ hy sinh, mất mát đau thương, vượt bao thử thách góp phần vào thắng lợi chung của cả nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, làm rạng danh vùng đất “ Miền Đông gian lao mà anh dũng”của Nam bộ thành đồng Tổ quốc, mà Bác Hồ đã phong tặng từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến. Bài đọc thêm CHIẾN KHU Đ CÒN, SÀI GÒN MẤT Suốt chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, câu “Chiến khu Đ còn – Sài Gòn mất”, là lời thú n hận của kẻ thù với một vùng căn cứ cách mạng ở Biên Hòa , thể hiện rõ vai trò vị trí và sự lợi hại của căn cứ này với toàn bộ cuộc kháng chiến ở miền Đông và Nam bộ. Khởi phát của căn cứ địa cách mạng Chiến khu Đ là các xã Mỹ Lộc, Tân Hòa, Tân Tịch, Thường Lang, Lạc An của huyện Tân Uyên (nay thuộc tỉnh Bình D ương). Nơi đây từ năm 1940, đã hình thành đội du kích Nam Kỳ khởi nghĩa của tỉnh Biên Hòa. Khi cuộc khởi nghĩa thất bại, đội du kích do ông Nguyễn Văn Quỳ chỉ huy rút vào khu vực rừng Tân Uyên, bảo toàn lực lượng cho đến khi cách mạng tháng Tám thành công. Khi thực dân Pháp chiếm tỉnh lỵ Biên Hòa (25 -10-1945), một bộ phận của Ủy ban kháng chiến miền Đông do Huỳnh Văn Nghệ chỉ huy về Tân Tịch, kết hợp cùng đội du kích Nam Kỳ khởi nghĩa và trại du kích V ĩnh Cửu, hình thành Vệ quốc đoàn Biên Hòa. Tháng 12-1945, Chiến khu 7 ra đời do Nguyễn Bình làm Tư lệnh về đóng tại Lạc An. Tháng 2-1946, sau hội nghị quân sự khu Đông, Bộ tư lệnh quyết định xây dựng căn cứ địa và đặt tên là chiến khu Đ (theo thứ tự vùng c ăn cứ A, B, C, Đ) trung tâm là xã Lạc An. Từ tháng 3-1946, Bộ tư lệnh khu 7 dời về Đông Thành, chiến khu Đ trở thành căn cứ địa kháng chiến của tỉnh Biên Hòa. Phạm vi chiến khu Đ gồm 5 xã, nam giáp sông Đồng Nai, bắc giáp Sông Bé, tây giáp tỉnh lộ 16. Chiến khu Đ là nơi đóng cơ quan lãnh đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh Biên Hòa-Thủ Biên; các cơ quan Dân, Chính, Đảng của tỉnh, của huyện Tân Uyên; chi đội 10, trung đoàn 310, liên trung đoàn 301 – 310 cùng các cơ quan binh công xưởng, quân nhu với một hệ thống sản xuất gồm các nông trường ở Lạc An, Giáp Lạc Rừng bao la, dầy đặc nhiều suối với đủ loại cây, trái rừng, củ rừng, xen kẽ những trảng trống và đủ loại thú rừng, các giống chim, thú bò sát đảm bảo đ ược một phần nhu cầu lương thực, thực phẩm cho chiến khu lúc khó khăn. Rừng chiến khu Đ trải dài từ Bắc Biên Hòa nối liền rừng Tây Nguyên, tạo thành một hành lang nối liền miền Đông Nam bộ với Liên khu 5 và ra hậu phương lớn. Chiến khu Đ lại chỉ cách Biên Hòa – trung tâm chỉ huy đầu não của địch ở miền Đông, Sài Gòn thủ phủ ngụy quyền Sài Gòn không xa. Bằng 76
  8. đường giao liên bí mật, công khai, các lực lượng kháng chiến xâm nhập vào các thị xã, thị trấn, vùng tạm chiếm, tiến công các cơ quan đầu não, kho tàng của thực dân. Từ Tân Uyên, đêm mùng 1- 1- 1946, các lực lượng vũ trang Biên Hòa, miền Đông tổ chức cuộc tiến công đầu tiên vào các công sở, nơi đóng quân của thực dân Pháp trong tỉnh lị Biên Hòa. Đòn tiến công bất ngờ này gây tiến vang lớn ở Nam Bộ. Từ căn cứ địa chiến khu Đ, chi đội 10 Biên Hòa đã mở hàng loạt trận đánh giao thông đường bộ, đường sắt, phối hợp nhịp nhàng với chiến trường chung đánh bại cuộc hành quân của thực dân Pháp đó là các trận Gia Huynh, Trảng Táo, Bàu Cá, trận Đồng Xoài , nổi tiếng nhất là trận phục kích La Ngà trên quốc lộ 20. Chiến khu Đ là nơi sản sinh ra cách đánh đặc công, lực lượng đặc công và phổ biến kỹ thuật tác chiến mới ra cả nước, cơ sở để hình thành binh chủng đặc công sau này. Trong kháng chiến 9 năm chống Pháp, Biên Hòa là nơi đóng các cơ quan đầu não của địch ở miền Đông, chiến khu Đ tồn tại là mối đe dọa lớn cho thực dân Pháp ở Biên Hòa và Sài Gòn. Kẻ thù kiếp sợ chiến khu Đ chính là vì thế trận “thiên la địa võng” của căn cứ. Làng kháng chiến đã hình thành khắp n ơi trong căn cứ với hàng trăm loại cạm bẫy : chông tre, chông đinh, lựu đạn gài, mìn gài đã đánh bại bao cuộc hành quân càn quét lớn của địch vào căn cứ. Kẻ thù lấn chiếm, phong tỏa, bao vây, đánh phá chiến khu bằng bom đạn, triệt phá kinh tế, biệt kích gián điệp hòng tiêu diệt cơ quan đầu não, dự trữ kinh tế kháng chiến nhưng đều bị thất bại, lại hao binh tổn tướng. Trận càn tháng 2- 1948 với 2000 quân của Pháp có hải quân, pháo binh, máy bay yểm trợ đã bị thất bại ê chề. Phương tiện, chiến lợi phẩm ta tịch thu được của địch trong trận này góp phần tăng thêm sức mạnh để bộ đội Biên Hòa làm nên chiến thắng La Ngà. Thực dân Pháp trong quá trình xâm lược miền Đông Nam bộ, luôn xem chiến khu Đ là trọng điểm phải tiêu diệt. Chúng dùng đủ mọi thủ đoạn để đánh phá nh ưng đều thất bại. Đặc biệt lợi dụng bão lụt tháng 10 – 1952, thực dân Pháp mở cuộc đánh phá vào chiến khu Đ liên tục trong 52 ngày đêm. Cán bộ, chiến sĩ, đồng bào ở chiến khu Đ bám trụ vừa khắc phục bão lụt vừa chống địch để giữ vững căn cứ. Sau thất bại của cuộc càn lớn này, hầu như quân Pháp không còn mở được một cuộc hành quân lớn nào vào chiến khu. Những thất bại của địch ở chiến khu Đ, bọn thực dân, tay sai đã phải tổng kết và rút ra kết luận “Chiến khu Đ còn, Sài Gòn mất” và: Khu Đ đi dễ khó về. Lính đi mất mạng, quan về mất lon. Chiến khu Đ là hình ảnh một xã hội mới trong kháng chiến 9 năm. Nơi đây dân quân đoàn kết một lòng chống giặc. Các phong trào văn hóa, nh ư xây dựng nếp sống mới xóa mù chữ, bổ túc văn hóa, lao động sản xuất thu hút được nhân dân từ các vùng. Cuộc sống mới ở căn cứ đã biến chiến khu Đ thành biểu t ượng của lòng tin vào cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta. 77
  9. CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN ĐỒNG NAI (1954-1975) Tháng 7- 1954, cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp của nhân dân ta kết thúc thắng lợi, chiến tranh kết thúc, nhưng thắng lợi chưa trọn vẹn. Theo Hiệp định Giơ - ne-vơ (Genève), đất nước ta tạm thời chia làm hai miền: Miền Bắc, từ vĩ tuyến 17 trở ra được hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tạm thời do thực dân Pháp kiểm soát, và sau 2 năm, đến ngày 20 – 7 – 1956 sẽ tổ chức tổng tuyển cử trong toàn quốc để thống nhất đất nước. Trên thực tế, đế quốc Mỹ âm mưu phá hoại Hiệp định, hất chân thực dân Pháp, trực tiếp can thiệp vào miền Nam. Kể từ đó nhân dân miền Nam lại tiếp tục kháng chiến với kẻ thù mới là bọn xâm lược Mỹ, một tên đế quốc đầu sỏ và sen đầm quốc tế ròng rã suốt 21 năm trời. Thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng ở vùng Đông Nam Á, đế quốc Mỹ đã sớm tổ chức xây dựng bộ máy phục vụ chiến tranh khá đồ sộ trên toàn miền Nam. Ngày 7 – 7 – 1954, chúng đưa Ngô Đình Diệm về miền Nam lập Chính phủ bù nhìn. Tiếp đó, tháng 11 – 1954, cử tướng Cô-Lin (Colins) sang miền Nam làm đại sứ và thực hiện kế hoạch 6 điểm của chính quyền Ai-xen-hao về xâm lược miền Nam. Chỉ trong vòng chưa đầy 2 năm 1955 – 1956, Mỹ ngụy đã tổ chức bộ máy kìm kẹp các cấp ở hầu khắp các địa phương. 1. Quá trình xâm lược của Mỹ vào Đồng Nai Đồng Nai, vùng đất của miền Đông Nam bộ chỉ cách sào huyệt của chính quyền Sài Gòn 30 km, một vị trí quan trọng, có 3 vùng chiến lược rừng núi, đồng bằng nông thôn và đô thị; có rừng tự nhiên, hệ thống đường giao thông thuận tiện (đường bộ, đường thủy, đường sắt) nối liền với cực Nam Trung bộ, Tây Nguyên và Sài Gòn, miền Tây Nam bộ Vì vậy, trong kháng chiến chống Mỹ, kẻ thù quyết tâm biến Đồng Nai thành chỗ dựa vững chắc, hậu phương an toàn của chúng. Để bảo vệ sào huyệt của chế độ ngụy quyền Sài Gòn, và ngăn chặn bước tiến của quân giải phóng, đế quốc Mỹ và tay sai trong 21 năm tiến hành chiến tranh xâm lược, đã lấy Biên Hòa - Đồng Nai để xây dựng những cơ quan đầu não chỉ huy của chúng ở miền Đông Nam bộ. Nhiều căn cứ quân sự lớn, hệ thống kho tàng hậu cần phục vụ chiến tranh xâm lược, tổ chức ngụy quân, ngụy quyền với bộ máy kìm kẹp dày đặc, hệ thống căn cứ quân sự kiên cố cùng các đơn vị tinh nhuệ, với sự yểm trợ của nhiều lực lượng và phương tiện, vũ khí hiện đại. Tại đây, quân viễn chinh Mỹ, quân chư hầu, ngụy quân, ngụy quyền đã sử dụng nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm độc và phương tiện chiến tranh đánh phá ác liệt phong trào cách mạng hòng tiêu diệt và đánh bật lực l ượng kháng chiến ra khỏi địa bàn Đồng Nai. Kẻ địch đánh phá cách mạng bằng những âm mưu, thủ đoạn chính trị, kinh tế, văn hóa thâm độc; sử dụng bom, pháo, chất độc hóa học hủy diệt môi trường, tàn phá nông thôn với cường độ rất cao. 78
  10. Về quân sự, những năm đầu sau tháng 7 – 1954 chúng tổ chức các tổng đoàn dân vệ, sau đó chuyển thành dân vệ xã, bảo an thuộc quận, tỉnh. Khi loại đượ c thực dân Pháp và các thế lực thân Pháp ở miền Nam, Mỹ tiến hành củng cố, tổ chức lại ngụy quân, loại bỏ số sĩ quan không ăn cánh, cho nghỉ những tên lớn tuổi thuộc các đơn vị ngụy binh của thực dân Pháp trước đây. Chúng ra sức bắt lính xây dựng đội quân bán nước gồm chủ lực, bảo an, dân vệ do Mỹ huấn luyện và trang bị, hoạt động theo ý đồ xâm lược của chúng. Hệ thống đồn bốt, căn cứ quân sự của địch trên địa bàn Biên Hòa nhanh chóng được xây dựng lại và mở rộng thêm. Về bố trí lực lượng, địch tổ chức xây dựng nhiều căn cứ quân sự mang tính chiến lược, bố trí nhiều đơn vị tinh nhuệ hòng ngăn chặn sự tiến công của bộ đội ta: Mở rộng sân bay Biên Hòa thành sân bay quân sự lớn nhất Đông Dương và nhiều sân bay dã chiến khác, xây dựng Tổng kho quân sự Long Bình thành kho dự trữ chiến lược, nơi tàng trữ, cung cấp các lọai vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại cho các chiến trường, kho đạn Thành Tuy Hạ (Nhơn Trạch). Về lực lượng có Nha cảnh sát miền Đông, quân đoàn 3, sư đoàn 18 ngụy, Bộ tư lệnh dã chiến II Mỹ, Bộ Tư lệnh hậu cần số 1 Mỹ. 2. Phong trào đấu tranh chống Mỹ - ngụy của nhân dân Đồng Nai Về phía cách mạng, Đồng Nai là mảnh đất của “miền Đông gian lao mà anh dũng”, lừng danh trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhiều phen làm kẻ thù phải bạt vía kinh hồn. Đồng Nai có chiến khu Đ, chiến khu Rừng Sác - những căn cứ địa cách mạng quan trọng ở miền Đông. Đây là địa bàn đứng chân của cơ quan Trung ương Cục miền Nam, Xứ ủy, Khu ủy miền Đông; nơi ra đời những đơn vị quân chủ lực, nơi đứng chân tác chiến thuận lợi của các binh đoàn, tấn công các cơ quan đầu não địch trong thành phố. Với chiến khu Đ, còn là nơi tiếp nhận lực lượng, vũ khí từ hậu phương lớn miền Bắc chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đánh giá Biên Hòa có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, chúng khẳng định để mất Biên Hòa là mất Sài Gòn. Về chính trị, Đồng Nai gồm nhiều thành phần dân tộc gắn bó, đoàn kết từ lâu đời, đại bộ phận là nông dân lao động, giai cấp công nhân hình thành sớm, bị bóc lột nặng nề nên có tinh thần giác ngộ dân tộc và giai cấp, lại sớm có Đảng lãnh đạo. Những yếu tố đó tạo nên sức mạnh vững chắc trong cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc. Đồng Nai có tài nguyên phong phú, được thiên nhiên ưu đãi, có nhiều cơ sở kinh tế, do đó có thể xây dựng nền kinh tế tại chỗ đảm bảo một phần quan trọng về hậu cần phục vụ kháng chiến. Với một vị trí chiến lược quan trọng như vậy, nên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đồng Nai nhìn chung là một chiến trường rất ác liệt, nơi đối đầu trực tiếp, quyết liệt giữa bạo lực cách mạng và bạo lực phản cách mạng của Mỹ ngụy và tay sai. Nhận thức và đánh giá đúng tính chất, vị trí chiến lược của chiến trường, Đảng bộ Đồng Nai trên cơ sở quán triệt đường lối cách mạng của Trung ương Đảng, Trung ương Cục miền Nam, đã vận dụng, tổ chức thực hiện thắng lợi cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện phát huy tinh thần tự lực tự cường để giành thắng lợi. Đảng bộ Đồng Nai đã đề ra những chủ trương chỉ đạo phù hợp, phát huy tinh thần tự lực tự cường; kết hợp hai lực lượng bên trong, bên 79
  11. ngoài; kết hợp lực lượng tại chỗ với lực lượng chi viện của cấp trên; kết hợp 3 mũi đấu tranh vũ trang, chính trị, binh vận; tổ chức đặc công, biệt động, đánh địch trên cả 3 vùng chiến lược để giành thắng lợi. Phát huy truyền thống chống giặc ngoại xâm, q uân và dân Đồng Nai trong kháng chiến chống Mĩ tiếp tục viết nên những trang sử vàng chói lọi, góp phần cùng quân dân cả nước đánh bại giặc Mĩ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước. Thời kì đầu của cuộc kháng chiến, nhân dân Đồng Nai tiến hành đấu tranh chính trị chống kẻ thù mới là đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Nhiệm vụ thời kì này đặt ra là đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, đòi kẻ thù thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ. Nhiều cuộc đấu tranh của nông dân, công nhân được tổ chức chống lại bọn cường hào, tư sản và ngụy quyền cướp ruộng đất nổ ra ở hầu hết các huyện trong tỉnh. Nổi bật là cuộc biểu tình ngày 1– 5– 1955 của Nghiệp đoàn lao động nhà máy cưa BIF tổ chức tại Biên Hòa, lôi cuốn được công nhân, thợ thuyền và nhân dân Biên Hòa tham gia. Cuộc biểu tình ngày 7– 7– 1956 của hàng ngàn công nhân cao su ở các đồn điền Cẩm Mỹ, Ông Quế, Hàng Gòn, Bình Lộc, nông dân các xã Bảo Vinh, Gia Ray, Bảo Chánh tuần hành về thị xã Long Khánh biểu tình đòi hiệp thương tổng tuyển cử, thống nhất đ ất nước. Bọn địch ngày càng lộ rõ bản chất dã man, tăng cường khủng bố, giết hại cán bộ, lực lượng cách mạng ngày càng tổn thất nghiêm trọng. Không thể ảo tưởng “đấu tranh chính trị” đơn thuần đối với kẻ thù, mà phải chuyển dần từ đấu tranh chính trị sang kết hợp đấu tranh vũ trang. Cách mạng miền Nam chuyển sang thế trận mới, từ đây nhiều cuộc nổi dậy, tấn công kẻ thù đã diễn ra khắp địa bàn tỉnh. Mở đầu là cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp (nay thuộc phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa) vào ngày 2 -12-1956. Nơi đây địch giam giữ gần 1900 cán bộ, đảng viên và đồng bào yêu nước. Cuộc phá khám đã giải thoát gần 500 cán bộ, đảng viên, thu 41 khẩu súng các loại, là nguồn bổ sung vô giá cho phong trào vũ trang cách mạng của miền Nam và của Đồng Nai. Đây là cuộc phá khám để tự giải phóng có qui mô lớn nhất. Để ngăn chăn hành động tội ác của giặc mà đầu sỏ chỉ huy là bọn cố vấn Mỹ, ban lãnh đạo Liên tỉnh ủy miền Đông quyết định tập kích trụ sở phái đoàn cố vấn quân sự Mỹ (MAAG) có trụ sở tại Nhà Xanh (nay thuộc trường Cao đẳng Nghề Đồng Nai). 19 giờ ngày 7-7-1959, phân đội vũ trang xuất phát từ chiến khu Đ gồm 6 đồng chí đã tổ chức tập kích Nhà Xanh, tiêu diệt Thiếu tá D.Buis và Trung sĩ C.Ovmand quân đội Mỹ. Trận đánh phái đoàn cố vấn quân sự tại Nhà Xanh là trận đánh Mỹ đầu tiên của lực lượng vũ trang miền Đông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.Trên bức tường đá ở thủ đô nước Mỹ, ghi tên quân nhân Mỹ chết trận tại Việt Nam theo thứ tự thời gian thì D.Buis và C.Ovmand là hai lính Mỹ đầu tiên trong danh sách. 3. Những trận đánh lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Đồng Nai: a. Các trận đánh vào sân bay Biên Hòa Sân bay Biên Hòa là căn cứ quân sự quan trọng của địch đối với cả miền Nam, đây 80
  12. là nơi xuất phát các đợt máy bay bắn phá, rải chất độc hóa học xuống các làng mạc trên toàn miền Nam, sau này là đánh phá cả miền Bắc. Trận đánh đầu tiên là đêm 31 – 10 – 1964, đoàn pháo binh U80 miền Đông, tập kích sân bay phá hủy và làm hư hại 59 máy bay các loại, 1 kho đạn pháo, 1 đài quan sát, giết nhiều sĩ quan, binh lính địch. Chiến thắng này có nghĩa quan trọng, góp phần làm phá sản chiến lược chiến tranh đặc biệt của địch. Đêm 3 – 2 – 1967 đặc công U1 đột nhập sân bay Biên Hòa đặt mìn làm nổ tung kho nhiên liệu, đốt cháy 10 triệu lít xăng dầu của địch. Đêm 12 – 5– 1967, các đơn vị trung đoàn pháo 274, trung đoàn 3 bộ binh, tiểu đoàn Phú Lợi đồng lọat nổ súng vào sân bay phá hủy 150 máy bay, nhiều phương tiện chiến tranh và sinh lực Mỹ ngụy. b . Các trận đánh Tổng kho Long Bình Nơi đây còn là bản doanh Bộ Tư lệnh dã chiến II Mỹ, Bộ Tư lệnh Hậu cần số 1 Mỹ, là kho bom đạn lớn nhất của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, được xây dựng từ năm 1965, lực lượng Mỹ ngụy thường xuyên có 2.000 tên. Ngày 23– 6– 1966 bộ đội đặc công đánh vào Tổng kho gây thiệt hại nặng cho địc h, hủy diệt 40.000 quả đạn pháo các loại. Đây là trận đánh đặc công đầu tiên của đặc công Biên Hòa, mở đầu cho hàng loạt trận đánh sau này. Cuối năm 1966 vào các tháng 10, 11, 12 bộ đội đặc công U1 đã 3 lần tấn công Tổng kho Long Bình, phá hủy 353.000 đạn pháo và các loại bom. Đêm 3/2/1967 bộ đội đặc công U1 đột nhập Tổng kho đặt mìn hẹn giờ, làm nổ tung 40 dãy kho, phá hủy 800.000 quả đạn pháo. c. Đánh địch trên sông Lòng Tàu Tháng 7– 1966 bộ đội đặc công rừng Sác tổ chức đánh tàu địch trên sông Lòng Tàu, bắn cháy 1 tàu 10.000 tấn, 4 tàu tuần tiễu, 2 tàu quét mìn, 1 tàu hộ tống. Ngày 28 – 8 – 1966 đoàn 10 đặc công đánh chìm tàu Victory và 7 chiếc khác. Tàu Victory là tàu hậu cần của sư đoàn 4 Mỹ, có 45 thủy thủ, trên tầu chở 100 xe thiết giáp M113, 3 máy b ay phản lực chưa lắp ráp, một số quân dụng, lương thực đủ dùng cho 1 sư đoàn Mỹ trong suốt một mùa khô. d. Cuộc tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 Đây là cuộc Tổng tấn công và nổi dậy khắp các địa phương trong tỉnh, sự phối hợp các lưc lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân, du kích và nhân dân nhịp nhàng gây cho địch nhiều tổn thất, và là lần đầu tiên ta tấn công vào hang ổ kẻ thù. Tuy không giành được thắng lợi quyết định, giành quyền làm chủ hoàn toàn, nhưng đã thể hiện tinh thần quyết tâm, sự hiệp đồng chiến đấu của các lực lượng của quân dân, chuẩn bị cho chiến dịch toàn thắng sau này. e. Chiến dịch Xuân Lộc giải phóng Thị xã Long Khánh Lo sợ trước khí thế tấn công của Quân giải phóng, ngày 28 – 3 – 1975 tướng Uây oen, Tham mưu trưởng lục quân Mỹ ra Xuân Lộc (Long Khánh ngày nay) khảo sát chiến trường, hình thành “Bức tường thép Xuân Lộc”, giao nhiệm vụ cho các tướng ngụy Sài 81
  13. Gòn “tử thủ” Xuân Lộc. Về phía ta, thực hiện chỉ đạo của Trung ương, Bộ Chỉ huy Miền quyết định mở chiến dịch Xuân Lộc, đập tan tuyến phòng thủ của địch phía Đông Sài Gòn. Chiến dịch mở màn từ 5h30 ngày 9 – 4 – 1975 bằng việc pháo tầm xa 130 li từ Túc Trưng, Bảo Vinh dội bão lửa vào Xuân Lộc. Các đơn vị quân giải phóng sư đoàn 341, sư đoàn 7, sư đoàn 6, tiểu đoàn 445 đồng loạt tấn công từ các hướng. Chiến sự xảy ra vô cùng ác liệt nhất là ở trung tâm Thị xã, địch bị thiệt hại năng nề, chúng tăng cường cho máy bay ném bom, bắn phá nhằm chia cắt lực lượng bộ đội ta, đồng thời tổ chức nhiều lực lượng tiếp viện. Một giờ sáng ngày 21– 4– 1975, quân ta mở đợt tấn công cuối cùng, nhưng toàn bộ Sư đoàn 18 ngụy đã rút chạy khỏi Xuân Lộc từ 10 giờ đêm 20 – 4. Trên hướng tỉnh lộ số 2, đại đội 41 quân giải phóng chặn đánh tàn quân địch bắt sống hàng trăm tên, trong đó có Đại tá Phạm Văn Phúc, tỉnh trưởng Long Khánh. Tám giờ sáng ngày 21– 4– 1975, ngụy quân, ngụy quyền Thị xã Long Khánh tháo chạy, tan rã hoàn toàn. Tuyến phòng thủ cuối cùng của địch bị đập tan, cửa ngõ tiến quân vào Sài Gòn của đại quân ta ở hướng Đông được mở, kết thúc chiến dịch lịch sử Xuân Lộc. Sau thất bại ở Xuân Lộc, ngày 23– 4– 1975, Tổng thống Mỹ tuyên bố: “Cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã chấm dứt đối với người Mỹ”. g. Tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng toàn tỉnh Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thực hiện phương châm chỉ đạo “các địa phương nổi dậy, xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện”, các địa ph ương trong tỉnh lần lượt nổi dậy giành chính quyền về tay nhân dân: Ngày 20– 3– 1975, giải phóng huyện Tân Phú, Định Quán. Ngày 21– 4– 1975, giải phóng Long Khánh, Xuân Lộc. Ngày 28– 4– 1975, giải phóng huyện Thống Nhất. Ngày 29– 4– 1975, giải phóng huyện Long Thành, Nhơn Trạch. Ngày 30 – 4 – 1975, giải phóng Biên Hòa, Vĩnh Cửu. Ngày 16– 4– 1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch giải phóng Sài Gòn- Gia Định, mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh. Chiến dịch bắt đầu từ ngày 26 – 4 – 1975. Trên địa bàn Đồng Nai hình thành 2 mũi tiến công của hai quân đoàn chủ lực: Quân đoàn 4 tiến vào Sài Gòn theo hướng Quốc lộ 1 và xa lộ Biên Hòa, quân đoàn 2 theo hướng Quốc lộ 15 và phà Cát Lái. Chiều 29-4-1975, khu Kĩ nghệ Biên Hòa và một số ấp lân cận hoàn toàn giải phóng, toàn bộ địch ở Long Thành - Nhơn Trạch bị quét sạch. 10 giờ 30 phút ngày 30 – 4 – 1975, Ủy ban Quân quản Biên Hòa, trung đoàn 5 vào tiếp quản Tòa Hành chính Biên Hòa. Lịch sử đã lặp lại một cách kì diệu: Ngày 26 – 8 – 1945, nhân dân Biên Hòa chiếm Tòa bố giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám. Ba mươi năm sau, ngày 30 – 4 – 1975 cũng tại nơi đây, quân dân Biên Hòa chiếm Tòa Hành chính, giải phóng hoàn toàn quê hương, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 21 năm, mở ra kỉ nguyên mới cho đất nước: Độc lập, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội. 82
  14. Bài đọc thêm: CHIẾN KHU RỪNG SÁC Rừng Sác là vùng rừng ngập mặn hàng ngàn km vuông nằm ở phía Đông Nam tỉnh Đồng Nai, thuộc địa phận các huyện Nhơn Trạch, Long Thành, nối liền một dải với rừng Sác Cần Giờ của thành phố Hồ Chí Minh. Rừng Sác có thảm thực vật nước mặn rất phong phú với nhiều loại cây đước, da, sú, có, mắm, bần đan níu nhau thành nhiều tầng lớp và rất lắm cá tôm. Đây là vùng địa hình sình lầy, mênh mông sông nước với hằng trăm sông lạch đan nhau chằng chịt. Vùng Rừng Sác trở thành căn cứ địa cách mạng ngay từ những năm đầu tiên kháng Pháp. Nơi đây cũng từng là chứng tích cho các cuộc rải thảm bom B52, chất độc hóa học, các cuộc càn quét qui mô lớn với sự tham gia của nhiều binh chủng, tàu chiến và vũ khí hiện đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nhưng cũng chính nơi đây đã kh ẳng định chân lý, niềm tin và ý chí con người là vượt lên tất cả. Từng dòng sông, con lạch, giồng đất nơi đây đều lấp lánh chiến công: Tàu quân sự của Pháp bị chìm, tàu Victory hàng vạn tấn của Mỹ cùng chung số phận, kho bom thành Tuy Hạ, Kho xăng Nhà bè b ốc cháy . Về phía ta, rừng Sác cũng là một căn cứ nổi tiếng từ thời chống Pháp. Năm 1963, nơi đây đã hình thành một trạm tiếp nhận hàng quân sự từ miền Bắc vào (vòng xuống Bến Tre rồi trở lên) và từ năm 1964 đã có phân đội đánh tàu của Bộ Tham mưu Miền, c ắm chốt ở đây, tiếp đó có đội công binh thủy từ miền bắc vào, hợp nhất lấy danh là đoàn 125, rồi đoàn 5001. Tháng 1 năm 1996, đoàn 125 phát triển lấy mật danh mới là đoàn 43. Ngày 17 tháng 3 năm 1996, bằng súng ĐKZ, đoàn 43 đánh cháy một tàu chở dầu trọng tải 8.000 tấn trên sông Lòng Tàu. Trước năm 1968, Đặc khu Rừng Sác của ta là tổ chức quân sự cấp Trung đoàn trực thuộc Bộ tham mưu Miền: lực lượng bao gồm chủ lực của Đặc khu, các lực lượng chiến tranh nhân dân tại chỗ, hệ thống dân chính đảng 10 xã ở rừng Sác 1. Nhiệm vụ của Đặc khu là: tập trung "chặn cổ" sông Lòng Tàu, đồng thời đánh các quân cảng, kho tàng, góp phần đánh vào "thủ đô" địch, phát triển chiến tranh nhân dân tại chỗ, giữ căn cứ, bàn đạp, đảm ảo hành lang vận chuyển. Chỉ huy trưởng kiêm chín h ủy đầu tiên của Đặc khu là Lương Văn Nho tức Hai Nhã. Sau khi hình thành, Đặc khu Rừng Sác chú trọng ngay việc xây dựng thực lực toàn diện. Chỉ sau một thời gian đã có lực lượng tập trung địa phương, mỗi xã đều có một tiểu đội du kích. Nếu nói địa đạo Củ Chi là "căn cứ chìm" thì Rừng Sác là "căn cứ nổi". Trong điều kiện vô cùng khắc nghiệt của một chiến khu trên mặt nước, lại ở vị trí "sân sau" quân thù, để đảm bảo sự tồn tại và tiến công được, lực lượng Đặc khu Rừng Sác phải xây dựng theo hướng đặc công hóa toàn bộ về tổ chức và hoạt động. Do đó, từ một tổ chức quân sự toàn diện phụ trách cả quân dân chính đảng địa phương, bộ đội đặc công Rừng Sác chuyển dần chuyên môn hóa (đặc công nước, đặc công bộ, pháo đặc công ) và trở thành một Trung đoàn đặc công gọi là "Đoàn 10 Rừng Sác". Sự tồn tại của một lực lượng quân sự "xuất quỷ nhập thần" ở một chiến khu trên mặt nước đã buộc Westmoreland phải thừa nhận: những người lính Mỹ ở đây đã gặp phải "một cuộc chiến đấu kỳ lạ trong một cuộc chiến tranh kỳ lạ" 83
  15. Trong cuộc đọ sức dài ngày với kẻ thù ở một vùng sông nước đặc biệt này, 625 liệt sĩ Đoàn 10 và 1.400 liệt sĩ của 12 xã huyện Nhơn Trạch đã ngã xuống tại chiến trường đặc khu Rừng Sác. Để tưởng nhớ công ơn và chiến tích anh hùng của cha anh, đền thờ Liệt sĩ Nhơn Trạch được xây dựng tại xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch, nơi cửa ngõ bước vào chiến khu Rừng Sác năm xưa. Chiến tranh đã lùi xa hơn 30 năm, Nhơn Trạch đã trở lại thanh bình và đang là vùng đất sôi động của thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhơn Trạch phát triển rất nhanh, đặc biệt là thu hút đầu tư nước ngòai. Tương lai về một thành phố công nghiệp Nhơn Trạch hiện đại đang từng bước đến gần. Về Nhơn Trạch ngày nay không chỉ về với vùng công nghiệp phát triển, mà còn là để những giây phút sâu lắng về những chiến sĩ đặc công quả cảm. Rừng Sác năm xưa, nay đang trở thành khu du lịch sinh thái hấp dẫn, con thuyền nhỏ đưa du khách qua những kênh rạch chằng chịt, mà đâu đó vẫn còn in dấu các anh Bài đọc thêm: BÁC HỒ VỚI ĐỒNG NAI, ĐỒNG NAI VỚI BÁC HỒ Trong những năm dài kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Bác Hồ không phút giây nào không nhớ đến miền Nam. “Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi”, vui buồn của Bác luôn hòa quyện cùng với 14 triệu con tim của đồng bào và chiến sĩ miền Nam yêu quý, chiến công từ tiền tuyến vọng về là một liều thuốc quý làm tăng thêm sức khỏe và năng lực công tác của Người. Đáp lại nghĩa tình sâu nặng đó, đồng bào và chiến sĩ miền Nam đã đạp bằng mọi gian khổ hy sinh, chiến đấu ngoan cường, đánh đuổi quân xâm lược để sớm đón Bác vào thăm quê hương “Thành đồng Tổ Quốc”. Như thường lệ, mọi năm cứ đến dịp sinh nhật Bác Hồ, đồng bào và chiến sĩ miền Nam hăng hái thi đua lập công dâng Bác. Vào mùa sinh nhật mừng Bác Hồ tròn 75 tuổi, quân và dân Biên Hòa, Bà Rịa-Long Khánh sôi nổi với quyết tâm giành thắng lợi lớn. Từ ngày 7-5 đến ngày 14-5-1965 bộ đội chủ lực quân khu miền Đông phối hợp với bộ đội địa phương dân quân du kích tỉnh Bà Rịa-Long Khánh liên tiếp đánh địch giành nhiều thắng lợi ở Tà Lài, Ba Sa, chi khu Định Quán. Ta làm chủ quốc lộ 20, buộc địch phải lập cầu không vận Sài Gòn-Đà Lạt. Hòng giành lại con đường chiến lược quan trọng này, ngày 15-5-1965 địch đã đưa lực lượng từ Long Khánh lên giải tỏa mở đường. Bộ đội ta phục kích diệt địch trên đoạn đường gần cầu La Ngà (từ cây số 109 đến 111), nơi cách đây 17 năm ngày 1-3-1948 chi đội 10 bộ đội Biên Hòa đã lập nên chiến công oanh liệt đánh tan một đoàn xe quân sự và bắt sống hàng trăm tên giặc Pháp xâm lược. Trên tuyến đường dài hơn 2km, toàn bộ quân ứng cứu của địch đã lọt vào trận địa phục kích của bộ đội ta. Tiến không được, lui không kịp, cả tiểu đoàn biệt động quân và một đại đội bảo an bị tiêu diệt, hơn mười xe quân sự bị bắn cháy. Nhân dân và bộ đội miền Đông gọi chiến thắng này là chiến thắng La Ngà 2. Cũng trong ngày này, (15-8-1965) Bác Hồ bắt đầu lên máy bay thực hiện chuyến đi công tác kết hợp dưỡng bệnh ở Trung Quốc. Mặc dầu ở xa Tổ 84
  16. Quốc, bộn bề với trăm công nghìn việc khác, nhưng không lúc nào Người không lo nghĩ về nước nhà, nhất là tình hình chiến sự ở miền Nam. Sáng ngày 19-5-1965, trong một biệt thự thuộc khu quân sự Ngọc Tuyền gần Di Hòa Viên, một thắng cảnh nổi tiếng ở ngay giữa thủ đô Bắc Kinh, từ sáng sớm Bác Hồ đã thức dậy và ngồi vào bàn làm việc. Đồng chí Vũ Kỳ, thư ký riêng của Người, đẩy nhẹ cửa bước vào mang hoa tặng Bác. Bác đưa cả hai tay đón nhận lấy bó hoa, vẻ xúc động hiện lên trên nét mặt. Bác thân mật bảo đồng chí Vũ Kỳ ngồi xuống bên cạnh và báo cáo với Bác những nét chính tình hình ở nhà từ ngày ra đi. Sau khi trình bày những trận không kích của giặc Mỹ ở miền Bắc, đồng chí tiếp tục báo cáo tình hình chiến sự ở miền Nam, trước hết đồng chí báo cáo với Bác về trận phục kích của quân giải phóng miền Đông Nam Bộ trên tuyến đường 20 (La Ngà- Định Quán) Hãng UPI ngày 16-5 đưa tin thêm về trận quân giải phóng tiêu diệt gọn một đoàn xe quân sự 12 chiếc trên đường 20 (Sài Gòn- Đà Lạt). Một phát ngôn quân sự Mỹ nói : “Quân du kích đã chiếm đoàn xe trong một trận phục kích giữa ban ngày. Họ đã đánh nhanh rút nhanh đến các máy bay lên thẳng và máy bay ném bom đến cứu nhưng không tìm thấy bóng dáng nào của du kích nữa”. Bác cười rất vui nói: “Chú thấy không, đôi chân của quân giải phóng còn nhanh hơn cả máy bay địch”. Đồng chí báo cáo thêm với Bác về trận đánh sân bay Biên Hòa. Đêm 16-5 ta phá hủy 42 máy bay, làm chết và bị thương 150 tên Mỹ. Sáng ngày 17-5 một quả bom 250 kg lại nổ trong sân bay làm cho bọn Mỹ rất hốt hoảng. Theo hãng UPI, bọn chóp bu Mỹ đang nơm nớp lo sẽ còn nhiều vụ nổ lớn xảy ra, ở căn cứ không quân Tân Sơn Nhất cũng chịu chung số phận như thế Tên thiếu tướng Mỹ M.Casơ chỉ huy lữ đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ số 9 được giao nhiệm vụ bảo vệ căn cứ Đà Nẵng đã thú nhận rằng quân của hắn sẽ “Không thể ngăn chặn được những cuộc tiến công bằng súng cối của Việt Cộng ” Nghe đến đây Bác nói: “Thượng sách là rủ nhau cuốn khỏi Việt Nam ”. Thấy đồng chí ngừng lại một hồi lâu, Bác tiếp tục hỏi: “Hết rồi hả? Các mặt trận khác ra sao?” Thời gian có hạn, buổi sáng nay còn nhiều công việc khác nên đồng chí chuyển sang phần mừng sinh nhật Bác ở bên nhà Bác im lặng đưa mắt nhìn ra cửa sổ. Rõ ràng Bác thích nghe tin chiến thắng của quân dân hai miền hơn là nghe những thư, điện chúc tụng. Trong những tháng năm này đối với Bác Hồ, có lẽ không có niềm vui nào lớn hơn là niềm vui nhận được tin chiến thắng của hai miền Nam Bắc. Một vinh dự lớn của quân và dân Biên Hòa, Bà Rịa-Long Khánh là những đóa hoa chiến công dâng Bác, chiến thắng La Ngà 2, chiến thắng sân bay Biên Hòa đã đến kịp thời với Bác đúng vào ngày 19-5-1965, mừng Bác Hồ kính yêu tròn 75 tuổi. 85
  17. THÀNH TỰU PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI TỈNH ĐỒNG NAI TỪ 30/4/1975 ĐẾN NAY 1. Giai đoạn từ 1975 đến trước thời kỳ đổi mới năm 1986 Với chiến thắng 30 – 4 – 1975 lịch sử, Đồng Nai bước vào thời kỳ mới: Khắc phục hậu quả chiến tranh, cùng cả nước bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tháng 1 – 1976, Trung ương quyết định thành lập tỉnh Đồng Nai trên cơ sở sáp nhập 3 tỉnh: Biên Hòa, Bà Rịa - Long Khánh, Tân Phú với diện tích 8.360 km2, số dân 1.223.683 người, gồm 10 đơn vị hành chính cấp huyện. Hơn 30 năm qua, Đồng Nai đã vượt qua nhiều khó khăn thử thách, đạt nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt từ năm 1986, thực hiện sự nghiệp đổi mới, Đồng Nai luôn là tỉnh năng động, sáng tạo, một trong những địa phương đi đầu cả nước về phát triển kinh tế. Sau giải phóng chính quyền cách mạng đứng trước khó khăn gay gắt: Cơ sở kinh tế, hạ tầng của chế độ cũ xây dựng chủ yếu để phục vụ cho chiến tranh, đời sống, công ăn việc làm của hơn 1 triệu dân trong tỉnh mà phần lớn là đồng bào vùng tạm chiếm sống dựa vào trợ cấp của chế độ cũ, không quen lao động. Lương thực thiếu nghiêm trọng, bình quân đầu người năm 1975 của tỉnh chỉ đạt 89 kg, các nhu yếu phẩm cho đời sống thường ngày thiếu gay gắt do sản xuất chưa hồi phục. Về nông nghiệp các công trình thủy lợi chưa có gì, năng suất cây trồng, vật nuôi rất thấp. Sản xuất công nghiệp khó khăn do thiếu nguyên liệu, vật tư, phụ tùng thay thế, một số giới chủ và công nhân lành nghề đã bỏ ra nước ngoài. Về văn hóa, một bộ phận nhân dân vùng tạm chiếm, nhất là giới trẻ chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn hóa thực dân mới. Y tế, giáo dục chỉ phát triển ở vùng đô thị, tỷ lệ người mù chữ khá cao, trường học chưa phát triển, không đủ đáp ứng nhu cầu học tập, hệ thống y tế ở cơ sở hầu như chưa có gì, nhân viên y tế thiếu trầm trọng. Bọn phản động trong nước câu kết với các thế lực ở nước ngòai chống phá chính quyền cách mạng quyết liệt. Đất nước hòa bình, nhưng chính quyền cách mạng phải thực hiện 2 nhiệm vụ là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và sau đó là làm nghĩa v ụ quốc tế giúp nước bạn Cămpuchia chống lại bọn diệt chủng Pôn Pốt, trực tiếp giúp tỉnh Kôngpôngthom kết nghĩa. Các thế lực thù địch tiến hành bao vây cấm vận Việt Nam, gây cho ta không ít khó khăn. Phát huy truyền thống cách mạng của chiến khu Đ và miền Đông, đã được thử thách qua 2 cuộc kháng chiến, nhân dân Đồng Nai đã vượt qua mọi thử thách: Nhanh chóng khôi phục sản xuất, đảm bảo đời sống nhân dân, từng bước giải quyết công ăn việc làm, xây dựng nền văn hóa mới. Về nông nghiệp nhiều công trình thủy lợi được xây dựng, đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể bằng nhiều hình thức: tổ vần công, tập đoàn sản xuất, hợp tác xã Năm 1981, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị 100 CT -TW và sau đó là Chỉ thị 10/CT-TW về khoán sản phẩm trong nông nghiệp đến nhóm và người lao động, phong trào sản xuất nông nghiệp có bước phát triển mới. Đến năm 1984 cả tỉnh có 1143 hợp tác xã và tập đoàn sản xuất. Về công nghiệp sau thời gian ngắn, 76/92 nhà máy, 86
  18. xí nghiệp Khu công nghiệp Biên Hòa đã trở lại hoạt động. Tỉnh chủ trương ph át triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nhằm tạo công ăn việc làm cho nhân dân. Cuối năm 1984 toàn tỉnh có 243 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp, thu hút trên 40.000 lao động. Năm 1982 nhà nước đầu tư xây dựng nhà máy thuỷ điện Trị An, nhà máy thủy đ iện lớn nhất ở phía Nam. Giáo dục được đầu tư phát triển, các lớp xoá nạn mù chữ, bổ túc văn hóa được mở khắp các phường, xã, thị trấn đảm bảo nhu cầu học tập của nhân dân. Trạm y tế được xây dựng, công tác chăm sóc sức khỏe được quan tâm. 2. Giai đoạn từ năm 1986 đến nay Từ năm 1986, Đảng ta nhận thức phải đổi mới, đó là con đường duy nhất đưa đất nước đi lên. Đại hội VI của Đảng tháng 12 – 1986 đã vạch ra con đường đổi mới, chủ trương đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, xoá bỏ cơ chế hành chí nh, tập trung quan liêu, chuyển sang hạch toán kinh tế, xây dựng đất nước theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những khó khăn, nền kinh tế của tỉnh bắt đầu xuất hiện nhiều nhân tố tích cực. Một số cơ sở năng động làm ăn có hiệu quả , trong nông nghiệp “khoán 100”, rồi “khoán 10” đã mang lại sức sống mới, có những điển hình mới trong nông nghiệp, đã tạo được khí thế mới trong sản xuất. Đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ, với tinh thần “Việt Nam muốn làm bạn v ới các nước” đã dần dần phá vỡ thế bao vây cấm vận của kẻ thù. Chính nhờ đường lối ngoại giao đúng đắn, mềm dẻo, nhiều nước đã lập lại quan hệ ngoại giao với Việt Nam, năm 1995 Mỹ chính thức bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Năm 1990 tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) tuyên dương Chủ tịch Hồ Chí Minh “Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới”, là sự kiện quan trọng, có ý nghĩa lớn. Năm 1988, Quốc hội ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, Đồng Nai nhanh chóng nắm bắt thời cơ, chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển công nghiệp, tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác phát triển. Cuối năm 1995 Đồng Nai đã thu hút 143 dự án đầu tư nước ngoài, với số vốn đầu tư 2,4 tỷ USD của 17 quốc gia và vùng lãnh thổ, hình thành được 11 khu công nghiệp tập trung. Từ việc chủ động thu hút đầu tư nước ngoài, đã thúc đẩy phát triển công nghiệp địa phương, tiểu thủ công nghiệp, tiến hành công nghiệp hóa nông nghiệp- nông thôn và có điều kiện để phát triển sự nghiệp văn hóa - xã hội Thực hiện sự nghiệp đổi mới từ năm 1986 với những bước đi chập chững ban đầu, quyết tâm vượt qua giai đoạn cực kỳ khó khăn của những năm 90 của thế kỷ XX, Đồng Nai đã tạo được khí thế mới, trở thành tỉnh trọng điểm kinh tế phía Nam, tạo được khởi sắc của quá trình phát triển. Lĩnh vực kinh tế, Đồng Nai đã phát huy tiềm năng, thế mạnh của mình, huy động được các nguồn lực sẵn có. Thực tế đã chứng minh, chọn ưu tiên phát triển công nghiệp của tỉnh là đúng hướng. Từ phát triển công nghiệp đã đưa nền ki nh tế của tỉnh phát triển với nhịp độ cao, có điều kiện để phát triển các lĩnh vực khác, góp phần chuyển dịch cơ 87
  19. cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa. Bước sang thiên niên kỉ mới, nền kinh tế của tỉnh tiếp tục giữ nhịp độ tăng trưởng cao, ổn định và khá bền vững. Năm 2008 tốc độ tăng trưởng GDP đạt 15,4%, hơn hai lần so với mức tăng trưởng của toàn quốc. Nền kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm dần tỉ trọng kinh tế nông lâm thủy sản, tăng tỉ trọng kinh tế dịch vụ: Tỉ trọng kinh tế công nghiệp, xây dựng chiếm 57,9%, kinh tế dịch vụ chiếm 31,5%, nông lâm nghiệp và thủy sản chiếm 10,6%. Thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 21 triệu đồng. Toàn tỉnh đã qui hoạch xây dựng 27 Khu công nghiệp tập trung, thu hút 946 dự án đầu tư nước ngoài, với số vốn đăng ký hơn 14 tỷ đô la Mỹ, Đồng Nai đứng thứ 3 cả nước về thu hút đầu tư nước ngòai. Các thành phấn kinh tế tiếp tục phát triển: Kinh tế nhà nước được củng cố theo hướng tích tụ và tập trung vốn, hình thành các Tổng công ty qui mô lớn, nâng cao được hiệu quả quản lí, sản xuất kinh doanh. Kinh tế tập thể phát triển cả số lượng và chất lượng, đổi mới mô hình và phương thức hoạt động. Kinh tế tư nhân phát triển nhanh về số lượng và cơ cấu ngành nghề, góp phần huy động khá cao về nguồn vốn và nhân lực cho phát triển. Kim ngạch xuất nhập khẩu đạt khá, nhiều mặt hàng xuất khẩu số lượng lớn như cao su, hạt điều, sản phẩm điện, điện tử, hàng may mặc, đồ gỗ Sự nghiệp giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường đạt được nhiều tiến bộ, việc chăm sóc sức khỏe nhân dân, chăm lo đời sống văn hóa, tinh thần, công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm lo đối tượng chính sách, đặc biệt là chương trình xóa đói giảm nghèo đạt kết quả khả quan. Năm 1998 thực hiện xong xoá mù chữ và phổ cập giáo dục Tiểu học, năm 2004 hoàn thành phổ cập Trung học cơ sở, năm 2006 thực hiện phổ cập Tiểu học đúng độ tuổi, đến 2008 có 70% xã phường đạt tỉ lệ tốt nghiệp THPT và tương đương theo chuẩn phổ cập bậc Trung học. 100% số xã có trạm y tế cơ sở. 100% ấp, khu phố có cán bộ y tế, các dịch bệnh được đẩy lùi, hơn 40% số dân tham gia bảo hiểm y tế. Trẻ em dưới 6 tuổi được khám chữa bệnh miễn phí. Số hộ nghèo năm 2008 giảm còn 4,83%, hàng năm có hơn 50.000 lao động được đào tạo nghề, nâng tỉ lệ lao động được đào tạo của tỉnh lên 37,5%. Toàn tỉnh có gần 90% số ấp và số hộ đạt tiêu chuẩn ấp, gia đình văn hóa. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, thế trận an ninh nhân dân được củng cố vững chắc. Nhiều phong trào của quần chúng đã được phát động như xây dựng gia đình v ăn hóa, khu phố văn hóa, toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa thực hiện khá hiệu quả, được mọi người nhiệt tình ủng hộ. Khẩu hiệu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” đã đi vào lòng người. 88
  20. ĐỒNG NAI –VÙNG ĐẤT MỞ TRONG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP Khi nghiên cứu về văn hoá cổ ở Đồng Nai, các nhà khoa học đã phát hiện nhiều dấu tích của những công xưởng chế tạo công cụ lao động cách đây hàng nghìn năm. Bên cạnh những di chỉ cư trú , nhiều địa điểm cho thấy người cổ đã tập trung sản xuất công cụ lao động để trao đổi giữa cư dân của khu vực này với khu vực khác. Trên những tiểu vùng địa lý từ vùng đồi núi cho đến ven sông, ven biển, xã hội ng ười cổ Đồng Nai đã chuyên môn hoá công đoạn sản xuất thể hiện những ý niệm trong phát triển kinh tế trong chuyên môn hoá lao động, thực hiện sự trao đổi giao lưu hàng hoá với nhau dầu rằng mức độ trong một chừng mực của thời điểm cách đây hàng nghìn năm. Nhưng đó là những cơ sở tích cực của cư dân Đồng Nai thời Tiền sơ sử, đã góp phần cho nền văn minh lưu vực sông Đồng Nai phát triển mạnh mẽ. Những phát hiện khảo cổ học cũng cho thấy, trước khi những lớp di dân Việt, Hoa đến khai khẩn, trên vùng đất Biên Hoà – Đồng Nai đã hình thành những địa điểm ven sông Đồng Nai phát triển thương mại. Nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng đưa ra mô hình với hệ thống đền đài, thành quách – thành trì - cảng thị phát triển dọc theo trục lộ sông Đồng Nai của những lớp cư dân xưa. Những dấu tích xưa giờ vẫn còn đó trong chừng mực của cuộc sống hiện tại. Đó là những cơ sở cho thấy vùng đất Đồng Nai là một trong những địa bàn có ưu thế phát triển kinh tế hàng hoá với tính chất giao th ương mạnh mẽ của một thời lịch sử. Hiện nay, Đồng Nai được xem như vùng đất mở, thu hút đầu tư và phát triển công nghiệp, đẩy mạnh giao thương kinh tế với quy mô rộng lớn. Đồng Nai là địa bàn có quá trình hội nhập, phát triển công nghiệp mạnh trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Với vị trí địa lý, tiềm năng và những cơ sở nền từ một quá trình phát triển trước đây, Đồng Nai có những điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập, phát triển. Đặc biệt, từ sau giai đoạn đổi mới đến nay, quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài, sự hìn h thành các khu công nghiệp, việc định hướng quy hoạch phát triển đến năm 2020 phấn đấu cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp phát triển cho thấy một xu thế đẩy mạnh phát triển của Đồng Nai - nhất là quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá. Từ những thập niên đầu thế kỷ XX, sau khi cơ bản hoàn thành các cuộc bình định, chính quyền thuộc địa Pháp đã bắt tay vào đầu tư và khai thác trên vùng Đồng Nai. Từ đây, bắt đầu cho một thời kỳ phát triển trên lãnh vực công nghiệp ở Đồng Nai. Tất nhiên, trong quá trình đầu tư này, chính quyền thuộc địa và tư bản Pháp chú trọng đầu tư và khai thác đối với những ngành nhanh chóng thu lợi nhuận như gỗ, cao su .cùng các nhà máy, xí nghiệp kỹ thuật có liên quan. Đây là một trong những cơ sở tác động cho sự phát triển công nghiệp của Đồng Nai cho những thời kỳ lịch sử tiếp theo mà hiện nay hệ thống các nông trường cao su, các cơ sở lâm nghiệp kế thừa. Từ giữa thập niên 50 của thế kỷ XX, địa bàn Đồng Nai được đầu tư và phát triển công nghiêp khá mạnh mẽ. Chính quyền Sài Gòn được sự viện trợ của Hoa Kỳ đã thực hiện những đợt đầu tư với quy mô lớn trong thời điểm bấy giờ để phát triển công nghiệp, đô thị hóa. Nhiều cơ sở công nghiệp của thời kỳ lịch sử trước được tiếp tục duy trì phát 89
  21. triển, nhiều khu nhà máy, xí nghiệp được hình thành với nhiều ngành nghề. Tại Đồng Nai đã hình thành nên một Khu kỹ nghệ Biên Hòa từ những năm 1959. Sau khi hoàn thành, đi vào hoạt động thì Khu Kỹ nghệ Biên Hòa trở thành một đại bản doanh công nghiệp lớn nhất Việt Nam thời bấy giờ. Khu kỹ nghệ Biên Hòa được hình thành bên cạnh căn cứ quân sự với Tổng kho Long Bình – một tổng kho vũ khí quân nhu, quân dụng lớn nhất Đông Nam Á của Mỹ với một số nhà máy, xí nghiệp có liên quan đến hoạt động của Tổng kho. Bên cạnh mục đích cho việc phục vụ trực tiếp hay gián tiếp cho yêu cầu chiến tranh thì hoạt động của Khu Kỹ nghệ Biên Hòa cũng đa dạng hóa với nhiều ngành nghề kinh tế mà nguồn đầu tư cũng rất đa dạng. Vì vậy, nếu nhìn từ những góc độ khác, sự phát triển của khu Kỹ nghệ Biên Hòa trong chiến lược phát triển kinh tế - có thể nói là phát triển công nghiệp của chính quyền Sài Gòn. Và quan trọng là việc hình thành này Khu kỹ nghệ Biên Hòa đã thể hiện vị trí, vai trò quan trọng của địa phương này trong chiến lược phát triển chung của miền Nam. Đây cũng là một cơ sở nền mang yếu tố tích cực tác động đến quá trình phát triển nói chung của Đồng Nai và trong lãnh vực Công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong những giai đọan về sau. Một “nguồn vốn quý” từ khu Kỹ nghệ Biên Hòa được thể chế chính quyền cách mạng sau này kế thừa không chỉ từ cơ sở vật chất mà còn ở đội ngũ, kinh nghiệm cho hoạt động khi nắm quyền lãnh đạo, thực hiện những chủ trương phát triển kinh tế địa phương. Từ tháng 4 năm 1975, chính quyền cách mạng địa phương bắt tay ngay vào việc tiếp quản và ổn định xã hội, đời sống cho người dân. Trong quản lý và phát triển kinh tế, chính quyền địa phương tiếp quản ngay khu Kỹ nghệ Biên Hòa. Trong tình hình thời gian đầu giải phóng, toàn khu kỹ nghệ Biên Hòa chỉ còn 38/94 nhà máy, xí nghiệp hoạt động. Có nhiều yếu tố tác động đến việc tiếp quản, điều hành và đưa vào hoạt động của khu kỹ nghệ: nguồn nhân lực thiếu, nguồn đầu tư không có, nguyên liệu khan hiếm, hạn chế trong chính sách sử dụng bộ máy quản lý, điều hành Dầu có những khó khăn, song Khu kỹ nghệ Biên Hòa là nguồn vốn “sẵn có” để Đồng Nai từng bước đưa vào hoạt động cho yêu cầu phát triển kinh tế của địa phương. Từ năm 1975 cho đến nay, vấn đề phát triển công nghiệp nói riêng hay quá trình CNH – HĐH được Đồng Nai chú trọng. Điều này thể hiện rõ nét với những xác định có tính chất mục tiêu, phương hướng và các giải pháp thực hiện được nêu lên cụ thể trong các Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh; đặc biệt, trong giai đọan đất nước đổi mới (1986) và thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH bắt đầu từ năm 1995 trở đi. Bước vào giai đoạn thực hiện đường lối đổi mới, với tiềm năng, lợi thế địa phương, Đồng Nai xác định mục tiêu định hướng phát triển kinh tế: Huy động mọi nguồn lực, tập trung đầu tư đẩy mạnh phát triển sản xuất công nghiệp; tạo động lực thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh cơ cấu ngành công nghiệp. Đồng Nai đã triển khai nghiên cứu, quy hoạch xây dựng các khu công nghiệp tập trung, các cụm công nghiệp; đồng thời xác định chủ trương đúng, biện pháp tích cực để thu hút ngày càng nhiều các dự án đầu tư nước ngoài. Việc kế thừa và xác định mục tiêu phát triển, đẩy mạnh phát triển công nghiệp trên cơ sở thực tiễn địa phương, từng bước đúc kết từ kinh nghiệm của quá trình thực hiện là một yếu tố rất quan trọng cho quá trình CNH – HĐH ở Đồng Nai. Quy hoạch tổng thể 90
  22. phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Nai thời kỳ 2006 - 2020 đã được thông qua (tại kỳ họp thứ 9- Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Nai khóa VII). Trong đó, mục tiêu mà Đồng Nai đặt ra là đến năm 2020 sẽ phấn đấu trở thành tỉnh công nghiệp hóa Với chủ trương, mục tiêu và các giải pháp đề ra trong lịch trình này là một thuận lớn cho quá trình CNH – HĐH của Đồng Nai. Trong quá trình đó, tỉnh Đồng Nai cũng được xác định là một địa bàn trọng điểm, động lực của phía Nam với những đặc thù với những yêu tố của lịch sử tác động. Qúa trình CNH – HĐH đã đem lại cho Đồng Nai có những biến chuyển tốt trong phát triển kinh tế, xã hội với những thành quả đã đạt được. Trong điều kiện của thời kỳ hội nhập, phát triển, tiếp tục đẩy mạnh quá trình này, Đồng Nai chắc chắn sẽ có nhiều thuận lợi với nền tảng của một thực tiễn công nghiệp hóa, hiện đại hóa sinh động. Song, bên cạnh đó, chắc chắn quá trình CNH – HĐH cũng đứng trước những nguy cơ, thách thức, ảnh hưởng đến nhiều mặt cần phải có những giải pháp đồng bộ, tích cực và một chiến lược phát triển tòan diện hơn đòi một chiến l ược và những giải pháp cụ thể để bảo đảm tính phát triển bền vững. DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỒNG NAI Di tích là di sản văn hoá vật thể, là tài sản vô giá của thế hệ cha ông để lại cho thế hệ hôm nay. Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, đến năm 2009, có 35 di tích đ ược xếp hạng. Trong số những di tích được xếp hạng có nhiều loại hình khác nhau; trong đó có loại hình di tích lịch sử. Di tích lịch sử trên địa bàn Đồng Nai gắn liền với những sự kiện lịch sử quan trọng của quân và dân Đồng Nai trong quá trình đấu tranh chống ngoại xâm. Những di tích nầy phản ánh những địa điểm, dấu ấn, sự kiện tiêu biểu, quan trọng trong những thời kỳ lịch sử của Đồng Nai. 1.Di tích Quảng trường Sông Phố Quảng trường Sông Phố khu vực giao lộ của hai tuyến đường Cách mạng tháng Tám và đường 30 tháng 4 thuộc địa phận phường Thành Bình, thành phố Biên Hoà. Người dân quen gọi là Quảng trường Sông Phố với tên thân thương Bùng binh Trung tâm vì nó tọa lạc gần các công sở của tỉnh Đồng Nai và từ Sau khi đánh chiếm và bình định Biên Hòa, vào đấu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã tiến hành xây dựng nhiều công sở trên vùng đất nầy để phục vụ cho chính quyền thuộc địa. Quảng trường Sông Phố được xây dựng cùng với kiến trúc của Toà Bố Biên Hòa (kiến trúc này đự ơc thay thế bởi công trình của Trụ sở làm việc của Khối nhà nước), Dinh tỉnhtrưởng (nay là Nhà thiếu nhi tỉnh Đồng Nai ) tạo nên một khung cảnh kiến trúc hài hòa ở một thành phố có qui mô vừa phải bên sông Đồng Nai thơ mộng 91
  23. Quảng trường Sông Phố (ảnh chụp năm 1995) Tại khu vực giao lộ, một hồ nước được xây dựng kiên cố nhưng hài hòa trong cảnh quan chung của các tuyến giao thông. Quảng trường Sông Phố đã đi vào lịch sử xứ Biên Hòa từ những ngày sôi động khi quần chúng nổi dậy cướp chính quyền mùa thu tháng Tám năm 1945. Ngày 27/8/1945, nơi đây đã diễn ra cuộc mít tinh trọng thể chào mừng chính quyền cách mạng lâm thời đầu tiên của tỉnh Biên Hòa. Trong khí thế cách mạng của tháng Tám lịch sử trên cả nước, người dân Biên Hòa hăng hái tham gia vào cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Sau khi nhận được chủ trương của Xứ ủy Nam kỳ, Ủy ban khởi nghĩa của tỉnh Biên Hòa được thành lập và nhanh chóng tập hợp, lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa. Trong những ngày cuối tháng Tám năm 1945, trước làn sóng cách mạng dâng cao, bộ máy chính quyền thuộc địa ở Biên Hòa hầu như bị tê liệt. Các lực lượng cách mạng, yêu nước được tập họp: Thanh niên Tiền Phong, tự vệ chiến đấu, quần chúng yêu nước dưới sự lãnh đạo của Ủy ban khởi nghĩa Biên Hòa nhanh chóng chiếm lấy các cơ sở địch. Ngày 26/8/1945, đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa tập trung hàng trăm quần chúng tiến vào Toà Bố Biên Hòa treo lá cờ đỏ sao vàng. Nhân dân Biên Hòa vui mừng, reo hò vang dậy, ngắm lá cờ Tổ quốc tung bay. Ủy ban khởi nghĩa Biên Hòa buộc chính quyền thuộc địa bàn giao chính quyền cho cách mạng. Buổi sáng ngày 27/8/1945, tại Quảng trường Sông Phố, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức với hơn một vạn người tham dự. Trong không khí trào dâ ng của thắng lợi cách mạng, đồng chí Dương Bạch Mai – cán bộ Xứ ủy Nam kỳ đại diện mặt trận Việt Minh ở Nam Bộ diễn thuyết về đường lối cách mạng, của Đảng được quần chúng hoan nghênh nhiệt liệt. Đồng chí Hoàng Minh Châu, trưởng ban khởi nghĩa, tuyên bố ch ính quyền về tay nhân dân và công bố Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Biên Hòa. Kết thúc cuộc mít tinh, dòng người tham dự chia làm nhiều đoàn diễu hành, biểu dương lực lượng trên các ngả phố Biên Hoà. Đoàn người tuần hành vừa đi vừa hát những 92
  24. bài ca cách mạng, thể hiện lòng yêu nước trong niềm vui tự do, độc lập, thoát khỏi ách xâm lược của ngoại xâm. 2. Di tích Chiến thắng La Ngà Di tích Chiến thắng La Ngà thuộc địa bàn xã La Ngà huyện Định Quán. Hiện nay, tại ngọn đồi cao tả ngạn sông La Ngà (km 107), có công trình tượng đài được xây dựng ghi dấu chiến thắng của trận tấn công oanh liệt vào quân địch. Di tích được Bộ Văn hoá xấp hạng theo quyết định số 235/ VH-QĐ ngày 12 tháng 12 năm 1986. Di tích gắn liền với sự kiện lịch sử thời kỳ kháng chếin chống Pháp. Ngày 1 tháng 3 năm 1948, sau một thời gian dài chuẩn bị, Chi đội 10 và Liên quân 17 (Khu 7) phục kích đoạn đường dài 9 km từ cây số 104 đến 113 trên quốc lộ 20 để tấn công đoàn xe quân sự Pháp di chuyển đến Đà Lạt. Đây là đoạn đường rải nhựa bằng phẳng nhưng uốn lượn quanh co khúc khuỷu, có nhiều đoạn dốc kéo dài thuộc địa bàn Định Quán. Quân ta bố trí thành 3 trận địa theo mật danh A, B, C. Trận địa A có nhiệm vụ chặn đầu, trận địa C khoá đuôi và trận địa B tấn công vào giữa đội hình xe của địch. Các trận địa được cài địa lôi bằng hình thức nguỵ trang dưới những đống phân voi tránh sự phát hiện của địch. Đến 15 giờ 02 phút, đoàn xe của địch lọt vào trận địa phục kích. Chiếc xe dẫn đầu đội hình xe của địch lọt vào trận địa A, ta cho nổ địa lôi tấn công. Chiếc thiết giáp bị đẩy hất lên nằm chắn ngang đường rồi bốc cháy làm tên chỉ huy đoàn xe cùng bộ phận thông tin chết tại chỗ. Quân ta dùng hoả lực mạnh tấn công tiêu diệt quân lính. Số xe địch đi sau lọt hẳn vào trận địa không nhận được tin tức về bộ phận dẫn đầu đoàn xe bị tiêu diệt. Từ trận địa B và C, quân ta tập trung hỏa lực tấn công vào những xe quân sự địch và nhanh chóng làm chủ trận địa. Quân địch bị tấn công bất ngờ. Lúc 16 giờ trận đánh kết thúc, 59 xe địch bị tiêu diệt hoàn toàn, 150 lính lê dương đi hộ tống, 25 sĩ quan Pháp, trong đó có đại tá De Sérigné (Đờ-xê-ri-nhê) - chỉ huy lữ đoàn lê dương thứ 13 và đại tá Patruit (Pa-tơ-rút) - phó tham mưu trưởng thứ nhất quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương bị thiệt mạng, trung úy Joeffrey (Dép-phây) - chỉ huy đội hộ tống bị bắt sống. Cùng với bộ đội Chi đội 10 và liên quân 17, lực lượng vũ trang địa phương tham gia trận đánh rút về căn cứ an toàn. Chiến thắng La Ngà gây một tiếng vang lớn trong cả nước ta, làm chấn động dư luận nước Pháp. Đây l à trận đánh giao thông giành thắng lợi lớn nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp của lực lượng vũ trang Biên Hòa nói riêng, lực lượng vũ trang Miền Đông Nam bộ nói chung. Các đơn vị tham gia trận đánh được vinh dự nhận Huân chương Quân công hạng II do Bác Hồ trao tặng. 3. Di tích Trung ương Cục miền Nam (1961 - 1962) Địa điểm thành lập Trung ương Cục miền Nam (1961 – 1962) thuộc địa phận Phân trường 4, lâm trường Vĩnh An, xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Di tích được Bộ Văn hoá Thông tin ra quyết định công nhận số 02/ 2004/ QĐ.BVHTT ngày 19 tháng 1 năm 2004. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, vào năm 1960, phong trào Đồng Khởi ở miền Nam dâng cao, cách mạng miền Nam chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Trước yêu cầu mới của cuộc cách m ạng, ngày 23 tháng 01 năm 1961, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam. Trung ương Cục miền Nam được giao nhiệm vụ lãnh đạo toàn bộ chiến trường miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào. 93
  25. Ngày 10 tháng 10 năm 1961, Hội nghị Trung ương Cục lần thứ nhất tại Mã Đà được tổ chức. Sự hình thành của Trung ương Cục miền Nam tại chiến khu Đ tạo ra một bước ngoặt mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng bộ và quân dân miền Nam. Di tích Trung ương Cục miền Nam tọa lạc cặp theo sông Mã Đà, Suối Nhung, suối Nứa (suối Mum) trên ngọn đồi đất sỏi bằng phẳng, có độ dốc thoải thoải với diện tích khoảng 20 héc- ta ở độ cao 20m so với mặt sông Mã Đà. Bốn phía đều giáp sông suối tạo nên ưu thế về mặt quân sự cũng như phản ánh được tầm nh ìn chiến lược trong việc chọn địa bàn đứng chân của Trung ương Cục miền Nam giai đoạn 1961 – 1962. Tuy chỉ tồn tại trong hai năm 1961 – 1962, nhưng căn cứ Trung ương Cục miền Nam ở Mã Đà (Chiến khu Đ) là căn cứ chính thức đầu tiên đuợc xây dựng cho cơ qua n lãnh đạo cách mạng ở miền Nam sau phong trào Đồng Khởi (1960). Tại căn cứ này đã hình thành bộ máy tham mưu phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo phong trào chiến tranh nhân dân ở miền Nam; xây dựng và phát triển các lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị trên cơ sở tiếp nhận nguồn chi viện từ hậu phương lớn miền Bắc, làm cơ sở cho việc đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân trong sự nghiệp giải phóng đất nước. Sau khi Trung ương Cục miền Nam di chuyển về Bắc Tây Ninh, căn cứ này tiếp tục tồn tại, là địa bà n đứng chân của nhiều cơ quan quân sự, hậu cần của Khu miền Đông và của Miền. Những dấu vết di tích được lưu lại bởi các bộ phận chính: Hệ thống giao thông hào, Hầm trú ẩn, Nền nhà, hầm Các bộ phận này được phân bố rộng khắp trên thực địa ở bốn khu vực chính do các đơn vị Ban Giao liên, Ban An ninh, Ban chỉ huy (Văn phòng Trung ương Cục), Ban Tổ chức - Tuyên huấn đóng trước đây. Năm 2004, di tích Trung ương Cục miền Nam (1961 – 1962) được tiến hành trùng tu, tôn tạo. Tại khu di tích xây dựng Bia kỷ niệm Căn cứ Trung ương Cục và một số các Ban như trực thuộc: Bộ Chỉ huy Quân Giải phóng, Ban Bảo vệ An ninh, Ban Tuyên huấn, Ban Tổ chức, Ban Thông tin liên lạc, Đài phát thanh Giải phóng và Thông tấn xã, Bộ phận Văn phòng TWC, Ban Giao - bưu - vận, Ban thông tin liên lạc, nhà làm việc, Hội trường, một số giao thông hào, hầm trú ẩn; phục hồi con đường xuyên rừng dẫn vào khu di tích, cải tạo cảnh quan thiên nhiên gắn với việc bảo vệ rừng và môi trường sinh thái Trong phạm vi di tích, xây dựng một Nhà lưu niệm trưng bày những tư liệu hình ảnh về quá trình thành lập, hoạt động của căn cứ cách mạng. DI TÍCH KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT ĐỒNG NAI Đồng Nai là địa bàn có đông dân cư sinh sống. Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, những cộng đồng cư dân đã xây dựng nhà ở, cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo (như đình, chùa, miếu ) đáp ứng được nhu cầu cư trú, sinh hoạt và đời sống tinh thần. Hệ thống nhà ở, cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo ở Đồng Nai khá phong phú với nhiều loại hình, quy mô và kiểu thức có giá trị kiến trúc nghệ thuật đã được nhà nước xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật. 94
  26. 1. Kiến trúc nhà cổ Vùng đất Biên Hoà – Đồng Nai có nhiều kiến trúc nhà cổ. Nhiều ngôi nhà đ ược xây dựng từ thế kỷ 18. Mặc dầu trải qua nhiều giai đoạn, được trùng tu song một số nhà bảo lưu những dạng kiến trúc cổ. Ngoài công năng để làm n ơi cư trú, sinh hoạt, nhiều ngôi nhà cổ ở Biên Hoà là những công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao. Tổng thể của các cấu kết kiến trúc của nhà cổ thường được làm bằng những loại gỗ quý. Đặc biệt, việc sắp đặt không gian, sự bài trí trong nội thất của nhà cổ phản ánh những nếp tập quán xưa. Những bức hoành phi, bao lam, liễn đối, khám thờ hay các khung kiến trúc (kèo, cột, đầu đao ) được chạm khắc tinh tế, sắc sảo và đa dạng về đề tài thể hiện những ước vọng của con người về cuộc sống. + Di tích nhà cổ Trần Ngọc Du Ngôi nhà cổ Trần Ngọc Du thuộc địa phận khóm 1, phường Tân Vạn, thành phố Biên Hoà. Đây là ngôi nhà cổ đầu tiên được xếp hạng di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 3524/QĐ.UBND của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai vào ngày 10 tháng 10 năm 2005. Ngôi nhà được ông Trần Ngọc Du xây dựng năm 1900. Kiến trúc nhà được xây dựng theo kiều thức nhà rọi – một trong những dạng kiến trúc nhà truyền thống của người Việt vùng nông thôn Nam Bộ. Nhà có 3 gian, hai chái, mái lợp ngói âm dương, nền lót gạch tàu. Điều đặc biệt là những thành tố cấu thành kiến trúc cho ngôi nhà chủ yếu bằng gỗ quí, được thợ điểu khắc chạm trỗ tinh xảo. Ngôi nhà có 36 cây cột gỗ căm-xe đen bóng chia làm 6 hàng với gốc được kê trên những tảng đá xanh. Toàn bộ cột, kèo, xuyên, đòn tay, rui được liên kết với nhau tạo nên bộ khung bằng hệ thống mộng chốt liên hoàn. Các cây xuyên được chạy chỉ thẳng, các vì kèo được tạo dáng uyển chuyển, được chạm khắc nổi hai bên và phía dưới. Phần kiến trúc là dung ở mỗi đoạn kèo tạo nét thanh thoát. Hầu hết các phần gỗ với chức năng giữ chắc cho bộ khung kiến trúc đều được chạm khắc nổi những đề tài dân gian một cách tinh tế. Phía trong nội thất, những mảng kiến trúc với đồ án trang trí truyền thống như trúc tước, mai điểu, cúc kê, tùng lộc, dây hoa lá, cúc bướm, phật thủ, hạc mây, cuốn thư, hồi văn được thể hiện trên khuông bông, cánh én, khánh thờ với thủ pháp điêu luyện của người thợ chạm khắc gỗ. Ngoài chức năng của một nơi cư trú, ngôi nhà cổ Trần Ngọc Du còn là một công trình kiến trúc nghệ thuật khá độc đáo. Kiến trúc nhà với những mảng kiến trúc theo mô típ dân gian thể hiện cách nhìn, cảm nghĩ của người xưa với ước vọng tốt đẹp cho con cháu, dòng họ qua ẩ n ngữ của các đề tài thể hiện theo chủ đích định sẵn của chủ nhà. Di tích nhà cổ Trần Ngọc Du là một trong 5 ngôi nhà cổ truyền thống ở Việt Nam được quỹ tài trợ của Chính phủ Nhật Bản đầu tư kinh phí để bảo tồn. Kiến trúc nhà cổ toạ lạc trên một vị thế thiên nhiên hữu tình, phía trước nối ra bờ sông Đồng Nai là một trong những điểm du lịch dọc sông Đồng Nai khá lý thú. 2. Di tích đình làng Đình là cơ sở tín ngưỡng của cộng đồng dân cư. Tên gọi của các ngôi đình gắn liền với tên gọi của làng xã. Người dân quen gọi là đình làng. Đình là nơi thờ Thần hoàng bổn 95
  27. cảnh – tức vị thần đựơc xem là bảo vệ dân làng. Có những vị thần được thờ là những con người có công với làng xã, đất nước. Quy mô kiến trúc những ngôi đình lớn dần theo tỷ lệ thuận với sự mở mang thịnh vượng của cộng đồng. Phần lớn những ngôi đình ở Đồng Nai được xây dựng theo kiểu thức kiến trúc nhà tứ trụ. Đây là kiểu thức có gian trung tâm gồm 4 cột cái bố trí cách đều; từ bốn cột cái, các kèo đấm, kèo quyết đưa ra bốn hướng nhau tạo không gian vuông vức. Đây chính là không gian thiêng, trung tâm cho việc thờ tự chính trong đình. Ngoài chánh điện, tùy nơi mà ngôi đình có nếp nhà hay được gọi là Võ ca, nhà hội, nhà trù (bếp). Mái đình thường được lợp ngói vảy cá trên giàn khung bằng rui gỗ. Trên nóc đình thường được trang trí cặp rồng chầu mặt trời ( lưỡng long triều nhựt) hay tranh quả châu (lưỡng long tranh châu). Một số đường mái được trang trí tượng gốm Cá hóa rồng hay lân chầu. Mặt tiền đình thường hướng ra sông, rạch hay các con đường. Tùy thuộc vào các nếp nhà được dựng trong tổng thể quy mô của đình mà nhận dạng lối kiến trúc. Những dạng kiến trúc của đình thường theo lối chữ nhất, chữ nhị, chữ tam, chữ đinh, chữ công (tiếng Hán/Trung Quốc). Đối tượng thờ trong đình rất phong phú. Đó là tập hợp nhũng thần linh mà dân làng tôn thờ và thể hiện trong việc bài trí trong khuôn viên đình và nội thất của đình, gồm có Thành Hoàng, Phúc Thần, Thần linh và những người có công khai khẩn, xây dựng làng xã đã mất. Phần chánh điện của đình thường có bài trí tượng thờ, liễn đối, những bức hoành phi đại tự , các bàn thờ được chạm khắc công phu trở thành những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Đặc biệt, những ngôi đình còn bảo lưu những kiến trúc xưa, thường có những hàng cột lớn vốn là các loại danh mộc nh ư sao, dầu, gõ. Các mảng trang trí chạm khắc trên các bộ phận kiến trúc thể hiện nhiều đề tài dân gian kháphong phú. Gắn với đình làng là những lễ hội trong năm của cộng đồng dân cư. Hằng năm, ở đình có lễ Cầu an với nhiều nghi thức, mục đích cầu cho mùa màng tươi tốt, quốc thái dân an thu hút nhiều người tham dự. Đây là nét sinh hoạt văn hóa tốt đẹp của nhân dân ta. + Đình An Hoà Đình An Hòa là một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo ở làng Bến Gỗ, xã An Hòa, huyện Long Thành. Bến Gỗ là một làng cổ danh tiếng trong diễn trình phát triển của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai. Chưa có tư liệu khảo chứng minh xác cho niên đại thành lập đình An Hòa, nhưng chắc chắn, với việc lập làng sớm, đình An Hòa là một trong những cơ sở tín ngưỡng lâu đời của người dân thuở đến đây khai khẩn lập làng. Nguyên thủy của đình là miếu thờ thần của làng. Sự phát triển nhiều mặt của cộng đồng cư dân ở đây đã góp phần trong việc tu bổ, xây dựng nhiều cơ sở tín ngưỡng; trong đó, miếu của làng được xây dựng trở thành ngôi đình làng vào năm 1792. Từ khi thành lập cho đến nay, đình An Hòa trải qua niều lần trùng tu, tôn tạo lớn. Đình An Hòa được xây theo hướng đông nam, kiểu chữ nhị (=); gồm chính điện và nhà tiền bái. Từ phần chính của kiến trúc này, về sau, người dân địa phương xây dựng, mở rộng thêm nhà cầu (nơi hành lễ), nhà bái, vỏ ca. Chánh điện được dựng theo kiến nhà vuông ở khu trung tâm thờ Thần trong không gian nhà ba gian hai chái. Những hàng cột gỗ vốn được chọn từ những loại danh mộc, to lớn. Đặc biệt, trong các bộ phận cấu thành nội thất kiến trúc chánh điện, những hương án được chạm khắc tinh vi. Các vì kèo được 96
  28. chặm khắc hình học, liên hoa, hồi văn đối xứng, hình tượng xương cá đao vần trong mây cách điệu, hoa lá. Toàn bộ các đầu dư, trụ đỡ, xà ngang, lá dung củ a đình được tạc hình tượng đầu rồng và lưỡng long chầu nhật, cúc liên chi, mây sóng nước, ngũ phúc lâm môn thể hiện cái nhìn tinh tế, bàn tay tài hoa và nói lên ước vọng tốt đẹp của con người trong quan niệm xưa. Trên những hàng cột của đình có nhiều li ễn đối sơn son thếp vàng, phía các khung nhà có những hoành phi đại tự ca ngợi công đức của linh thần, các bậc tiền hiền, hậu hiền có công lao đối với làng xã, những ước vọng, phong tục tốt đẹp của con người. Đối tượng thờ của đình là Thần thành hoàng bổn cảnh. Một vị thần mà người dân địa phương tôn làm phúc thần để cầu an, bảo vệ cộng đồng người dân – tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt trên vùng đất Nam Bộ. Điện thờ chính là biểu thị là chữ Thần bằng Hán tự. Đình An Hòa có sắc thần được phong vào triều vua Tự Đức với các mỹ tự Bảo An, Chính Trực, Hữu Thiện, Đôn Ngưng (hàm ý giúp nước, giúp dân, giữ gìn sự yên ổn, khuôn phép ngay thẳng, trợ giúp dân làm điều thiện, điều tốt lành ). Trong kiến trúc đình An Hòa, có nhà vỏ ca được được xây riêng biệt ở sân đình, mặt tiền đối diện với chánh điện. Nhà võ ca xây dựng đơn giản không có tường bao quanh, chỉ có một sân khấu để diễn hát bội và nghi lễ cúng thần. Ảnh: Di tích chùa Đại Giác – xã Hiệp Hoà, Biên Hoà Đây là nơi diễn ra những cuộc ca xướng (hát bội) trong các dịp lễ Kỳ yên. Tại Bến Gỗ – An Hòa, người dân thành lập đoàn hát bội để phục vụ cho các dịp lễ hội của đình . Đây là một nét sinh hoạt văn hóa độc đáo mà không phải địa phương nào cũng có được. Hằng năm, đình An Hòa tổ chức lễ Kỳ yên vào tháng tám (âm lịch). Đáo lệ ba nă m, đình An Hòa tổ chức đại lễ Kỳ yên, cuôn hút nhiều người tham dự, trở thành một sinh hoạt văn hóa lành mạnh, đáp ứng nhu tinh thần cho người dân. Đình An Hòa là một trong những di tích kiến trúc nghệ thuật độc đáo ở Đồng Nai, bảo tồn khá nguyên vẹn nhữn g đặc điểm nghệ thuật chạm khắc gỗ. Những giá trị lịch sử, 97
  29. nghệ thuật, văn hóa của đình là cơ sở để cơ sở tín ngưỡng này được liệt hạng di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1989. 3. Di tích chùa Chùa là cơ sở thờ Phật, đồng thời phối tự nhiều thần linh khác. Đồng Nai là một trong những trung tâm truyền bá đạo Phật ở Nam Bộ. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, cùng với sự phát triển kinh tế với nhu cầu của cộng đồng dân cư, chùa được sửa chữa, trùng tu nhiều lần. Kiến trúc chùa được mở rộng hoặc xây dựng th êm. Dạng thức nhà tứ trụ trong chánh điện là kiểu thức kiến trúc truyền thống của chùa xưa ở Đồng Nai. Trên địa bàn Đồng Nai có nhiều chùa; trong số đó, có một số chùa với giá trị lịch sử, văn hoá, nghệ thuật đã được xếp hạng di tích lịch sử. + Chùa Hoa trên đất Biên Hoà Chùa Ông là tên gọi dân gian chỉ Thất phủ cổ miếu ở Cù lao Phố thuộc xã Hiệp Hoà, thành phố Biên Hoà. Đây là cơ sở tín ngưỡng do bảy phủ người Hoa: Phước Châu, Chương Châu, Quảng Châu, Triều Châu, Quỳnh Châu và Ninh Ba đóng góp công của xây dựng vào năm 1684. Tổng thể kiến trúc của di tích có kiểu hình chữ khẩu được bố trí theo “nội công ngoại quốc”. Trong chùa lưu giữ một tập hợp tượng thờ về hệ thống thần linh chính yếu của người Hoa sinh sống trên đất Biên Hòa. Đó là tín ngưỡng thờ Q uan Công/ Quan Thánh đế quân, thờ Bà Thiên Hậu, Mẹ Sanh mẹ Độ, Phúc thần, Tài thần . Nội thất chùa được trang trí với những mảng kiến trúc đa dạng như bao lam, liễn đối, khám thờ được chạm trổ tinh tế, thể hiện những điển tích, hình ảnh của các thần linh, vật linh, cảnh trí, sinh hoạt trong quan niệm của người Hoa. Bên cạnh đó là những mảng văn tự chữ Hán biểu thị với trình độ chạm khắc tinh xảo, thủ pháp nghệ thuật tinh tế. Phía sau chánh điện là lầu thờ Quan Âm, được xây dựng vào năm 1927, sau nầy được tôn tạo mới và phối thờ nhiều tượng thờ có tính dung hợp dân gian Kiến trúc bên ngoài của di tích là một công trình nghệ thuật khá độc đáo và thể hiện nét đặc trưng của cơ sở tín ngưỡng Hoa. Hai tượng ông Nhựt, bà Nguyệt đặt trên bờ nóc tiền điện là một tro ng những đặc trưng cơ bản tạo nên nghi dung của một ngôi chùa Hoa. Bên cạnh đó, trên mái chùa là một quần thể tượng gốm liên hoành, sắc sảo. Những mảng tượng gốm với các đề tài lễ hội tiêu biểu như hát tuồng, múa cung đình, đá cầu, chuyện tích dân gian được thể hiện sinh động. Những mảng chất liệu bằng đá được thiết kế bằng các tượng thú, hoa văn mỹ thuật đa dạng vừa là cấu kiện của kiến trúc vừa là một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc làm cho chùa độc đáo so với các di tích tín ngưỡng trên vùng Cù lao Phố. Kể từ khi xây dựng đến nay, chùa Ông đã trải qua nhiều đợt trùng tu, tôn tạo. Vì vậy, những thành tố cấu kết kiến trúc di tích hiện tồn bao gồm những những thành tố không đồng nhất về niên đại và cũng không thuần nhất về phong cách, kiểu thức nghệ thuật. Là một cơ sở tín ngưỡng có niên đại khá sớm, đồng thời với kiến trúc hiện tồn độc đáo trên vùng đất vốn phát triển sầm uất với tính chất cảng thị lớn của Nam Bộ, chùa Ông 98
  30. là điểm thu hút nhiều du khách đến tham quan, nghiên cứu. Hằng năm, vào các dịp lễ hội, nhiều người đến chiêm bái, cầu lộc dập dìu cả một mạn nam bờ sông Cù lao Phố. DANH NHÂN ĐỒNG NAI Trong quá trình hình thành và phát triển, vùng đất Biên Hoà - Đồng Nai vinh dự gắn liền với những con người tiêu biểu, họ đã có nhiều cống hiến lớn lao trong công cuộc khai phá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần tạo dựng nên những cơ sở vững chắc cho vùng đất này đi lên trong nhiều lĩnh vực: kinh tế, xã hội, văn hóa 1. Nguyễn Hữu Cảnh (1650 - 1700) - người đặt nền móng hành chánh đầu tiên Lịch sử khẩn hoang Đồng Nai nói riêng và Nam Bộ nói chung được nhắc đến với cột mốc thời gian 1698 bằng chuyến kinh lược của Nguyễn Hữu Cảnh. Bằng những việc làm có ý nghĩa thiết thực trong một thời điểm lịch sử quan trọng, ông trở thành con người đặt nền móng hành chánh đầu tiên trên vùng đất mới Đồng Nai. Đầu thế kỉ 16, chế độ phong kiến nước ta bước vào thời kì khủng hoảng. Cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều bùng nổ. Từ thế kỷ 17, xảy ra cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn (kéo dài từ năm 1627 đến 1672). Đất nước bi chia làm hai: Đàng Trong và Đàng Ngoài. Chúa Trịnh thống trị Đàng Ngoài, chúa Nguyễn cai quản Đàng Trong. Chiến tranh giữa tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn khiến đời sống người dân chịu nhiểu khổ cực. Vùng đất Đồng Nai về phía Nam của đất nước bấy giờ còn hoang hóa đã thu hút nhiều người dân từ các nơi đến tìm kế sinh nhai, lập nghiệp. Những lưu dân người Việt, một bộ phận người Hoa đến Đồng Nai rất sớm. Họ kề vai sát cánh cùng các sắc dân bản địa Chơro, Mạ, Xtiêng tiến hành kh ai hoang, lập ấp. Vùng đất Đồng Nai trở thành một nơi phát triển với số dân ngày càng đông ; đặc biệt lớp cư dân người Việt. Nhằm tiến hành quản lý và ổn định cho những lớp cư dân trên vùng đất này, chúa Nguyễn Phúc Chu cử Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược để sắp đặt nền hành chánh. Nguyễn Hữu Cảnh còn có tên là Nguyễn Hữu Thành, húy Cảnh (Kính), sinh năm Canh Dần tại xã Chương Tín, huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình. Ông là con thứ ba của Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật, quê ở Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Là một trong những tướng tài của nhà Nguyễn, Nguyễn Hữu Cảnh được chúa Nguyễn Phúc Chu tin dùng. Đầu năm Nhâm Thân (1692), ông được cử lãnh đạo quân lính bình định biên cương. Sau đó được thăng chức từ Thống binh lên Chưởng cơ, trấn thủ Bình Khương (nay là huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa). Mùa xuân năm Mậu Dần (1698) Nguyễn Hữu Cảnh được chúa Nguyễn Phúc Chu cử vào kinh lược vùng đất Đồng Nai – Nam Bộ. Đây là vùng đất được người Việt vào khai khẩn đầu thế kỷ XVII. Năm 1679, các đoàn người Hoa theo Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch từ Trung Quốc đến thần phục Nam triều, được chúa Nguyễn cho phép định cư ở Đồng Nai. Họ cùng người Việt lập nên thương cảng cù lao Phố sầm uất bấy giờ. Nguyễn Hữu Cảnh dừng chân ở Cù lao Phố (nay thuộc thành phố Biên Hòa) bắt tay và o việc tổ chức hành chính, xác định biên cương, lãnh thổ, lập thành làng xã, thôn xóm, qui 99
  31. định các thứ thuế đinh điền và chỉ đạo phát triển kinh tế ở vùng đất mới. Nguyễn Hữu Cảnh chia xứ Đồng Nai (bao gồm cả Nam Bộ bấy giờ) ra làm hai huyện thuộc phủ Gia Định, bao gồm : huyện Phước Long (Biên Hòa) có dinh Trấn Biên và huyện Tân Bình (Sài Gòn) có dinh Phiên Trấn. Đối với người Hoa, ông cho nhập hộ tịch và chia thành hai nhóm xã Thanh Hà tại Đông Phố thuộc Trấn Biên và xã Minh Hương tại Gia Định thuộc Phiên Trấn. Ông khuyến khích dân chúng khai phá ruộng đất, trồng lúa, lập vườn, chăn nuôi, Chẳng bao lâu, vùng đất hoang sơ này trù phú, người dân có cuộc sống sung túc, nhà cửa mọc lên nhiều, đất đai mở rộng ngàn dặm vuông là nền tảng cho việc phát triển về sau. Cuối năm 1698, ông trở về Bình Khương (Khánh Hòa), công việc kinh lược vùng đất mới phía Nam cơ bản đã hoàn thành, Đồng Nai trở thành một địa phận hành chính và chính thức có tên trên bản đồ quốc gia Đại Việt. Tháng 7 năm Kỷ Mão (1699) Nguyễn Hữu Cảnh lại được cử đi dẹp loạn ở vùng biên cương miền Tây Nam bộ. Sau khi dẹp loạn xong, đoàn quân của ông kéo về đến đồn Cây Sao (cù lao ông Chưởng ở An Giang) thì bị nạn bệnh dịch lớn xảy ra. Nguyễn Hữu Cảnh bị nhiễm bệnh nặng không thể cứu chữa. Đến Rạch Gầm (tức nơi ngã ba sông Tiền) thì ông qua đời vào ngày 16 tháng 5 năm 1700, hưởng dương 50 tuổi. Trên đường đưa thi hài ông về Quảng Bình, quan tài ông đã tạm dừng vài ngày tại Cù lao Phố, nơi ông đặt bản doanh trước đó. Tại nơi này, người dân Biên Hòa đã xâ y ngôi quyền mộ vọng tưởng ông. Chúa Nguyễn đã truy tặng ông là Hiệp tán công thần, đặc tiến chưởng Dinh, Tráng hoàn hầu. Đời vua Minh Mạng, ông được truy tặng “Khai quốc công thần Tráng Võ Tướng Quân Vĩnh An Hầu”. Nguyễn Hữu Cảnh là “vị công thần trên đườ ng gian lao mở nước” và được nhân dân khắp nơi tôn kính lập đền thờ phụng (Đồng Nai, An Giang, Huế, Quảng Bình ). Đối với vùng đất Đồng Nai – Gia Định, Nguyễn Hữu Cảnh là bậc “Khai quốc công thần”. Ở đây, ông đặt tổng hành dinh, cho di dân lập ấp, dựng th ành dinh trấn, mở đường cho việc khuếch trương kinh tế, thương mại. Người dân Đồng Nai trân trọng công lao của ông đã cải đình Bình Hoành thành Bình Kính thờ ông với lòng ngưỡng vọng sâu sắc, ghi nhớ công lao của Nguyễn Hữu Cảnh với sự nghiệp khai sáng đất Đồng Nai. 2. Nguyễn Tri Phương (1800 - 1873) - tấm gương hy sinh quên mình vì nước Nguyễn Tri Phương- người anh hùng dân tộc đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự tồn vong của đất nước trong những thời kì lịch sử đầy biến động, cam go. Sự hy sinh tiết nghĩa của ông trở thành biểu trưng cho tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh chống ngoai xâm, bảo vệ đất nước. Nguyễn Tri Phương là danh tướng nhà Nguyễn thời cận đại, sinh trưởng trong gia đình làm ruộng và thợ mộc, song thân là Nguyễn Văn Đảng và Nguyễn Thị Thể, quê làng Đường Long (Chí Long), tổng Chánh Lộc, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Nguyễn Tri Phương tên thật là Nguyễn Văn Chương. Thuở thiếu thời, ông là người tài trí và thông minh nên được sung vào bộ máy triều đình nhà Nguyễn, Nguyễn Tri Phương đã tỏ rõ là một người tài cao trí lược, xứng đáng là một trong những bậc danh thần của triều đình. Ông được cử đi kinh lược và dẹp loạn khắp trong Nam ra Bắc. Năm 1850, vua Tự Đức cải tên ông là Nguyễn Tri Phương, ý lấy câu “Dõ ng thả tri phương” 100
  32. nghĩa là dũng mãnh và lắm mưu chước, ông được sung chức Khâm sai đại thần Tổng thống quân vụ kiêm Tổng đốc các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên, . Năm 1853, ông được thăng chức Điện hàm Đông các đại học s ĩ và lãnh chức kinh lược xứ Nam kỳ, trong thời gian này, ông có công lập nhiều đồn điền, khai hoang lập ấp ở các tỉnh Nam bộ, làm cho dân cư ở địa phương no ấm, an cư lạc nghiệp. Năm 1858, khi Pháp nổ súng tấn công vào cửa biển Đà Nẵng mở đầu cho mưu đồ xâm lược nước ta, triều đình lâm nguy, tổng quân vụ đại thần Lê Đình Lý tử trận, Nguyễn Tri Phương đã nhận lãnh trách nhiệm chống giặc, ông cho nhân dân địa phương tham gia đẩy lùi bước tiến của quân thù. Tháng 02 năm 1859, thành Gia Định bị Pháp tiến đánh, vua Tự Đức phái Nguyễn Duy cùng với Tôn Thất Cáp và Phan Tịnh vào ứng cứu cho Nguyễn Tri Phương. Ông đã cùng với quân dân tổ chức đắp lũy đóng đồn Chí Hòa (Kỳ Hòa) để phòng thủ thành Gia Định. Ngày 25-02-1861, thế giặc mạnh như vũ bão, chúng tấn công đại đ ồn Chí Hòa, quân triều đình chống trả dũng cảm nhưng không kháng cự nổi với những vũ khí tối tân của Pháp. Quân ta bị tổn thất lớn, đại đồn thất thủ, Nguyễn Tri Phương bị thương nặngvà phải rút về lập đồn cản phá ở sông Đồng Nai-Biên Hòa. Trên sông Đồng Nai, Nguyễn Tri Phương cho đắp “cản” bằng đá ong để ngăn tàu địch. Chỗ đắp cản quan trọng nhất là khúc sông Long Đại, độ phân nửa đường sông Nhà Bè-Biên Hòa. Hễ dưới sông có đá cản thì trên bờ có đồn lũy, đại bác. Hiện nay phía trước đền thờ Nguyên Tri Phương còn một số cản bằng đá dưới sông tương truyền đó là dấu tích của việc lập cản ngăn tàu Pháp của ông trước kia. Năm 1862, sau khi triều đình Huế ký hòa ước Nhâm Tuất, Nguyễn Tri Phương được cử ra Bắc làm Tổng thống Hải An quân vụ và xem xét việc quân sự ở Bắc kỳ. Năm 1873, nhân tên lái sung Jean Depuis hoành hành ở Bắc, Soái phủ Nam kỳ phái Francir Garnier đem quân ra đánh úp thành Hà Nội. Chiến sự xẩy ra quyết liệt, con trai ông là phò mã Nguyễn Lâm tử trận, phần ông lại bị trọng thương và một lần nữa thảm cảnh khốn cùng “nạn nước đã trở thành tang gia tộc Nguyễn”. Vị tướng già trong cơn nước lửa, sức cùng lực kiệt đã từ chối được cứu chữa để khẳng khái tuyệt thực suốt gần một tháng và mất ngày 20-11-1873 (tức ngày 01 tháng 11 âm lịch) thọ 73 tuổi. Cái chết của Nguyễn Tri Phương biểu trưng cho tinh thần bất khuất, nghĩa khí can trường, là gương sáng soi chung. Uy danh cũng như công trạng của ông còn sống mãi với nhân dân Việt Nam. Đất Đồng Nai vinh dự đón Nguyễn Tri Phương vào tháng 2/1861, khi đại đồn C hí Hòa thất thủ, đại bộ phận quân ta rút về lập tuyến phòng thủ tại Biên Hòa, trong khi công việc phòng thủ đang gấp rút tiến hành thì triều đình có lệnh triệu hồi ông. Nhân dân Biên Hoà thương kính, tin yêu đã cản đầu ngựa, khẩn cầu ông ở lại đánh giặc cho đến cùng. Sau này, khi nghe Nguyễn Tri Phương hy sinh tại Hà Nội (1873), để tỏ lòng ngưỡng mộ và thương tiếc vị anh hùng có công với xứ sở, người dân Biên Hoà đã tạc tượng và thờ ông tại đền Mỹ Khánh. Sau đổi tên thành đền thờ Nguyễn Tri Phương. Năm mươi ba năm phụng sự đất nước, trải qua ba triều đại (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức), Nguyễn Tri Phương luôn được tin dùng và liên tục giữ nhiều trọng trách quốc gia. Vì sứ mạng thiêng liêng của tổ quốc, Nguyễn Tri Phương đã đặt chân khắp 101
  33. mọi miền đất nước. Cả dân tộc tự hào về vị anh hùng tài cao, đức rộng với tấm gương trung trinh mãi chói loà, sống mãi trong các thế hệ mai sau. ANH HÙNG ĐẤT ĐỒNG NAI Trong cuộc kháng chiến chống xâm lược, quân và dân Đồng Nai với tinh thần bấ t khuất, ý chí quật cường đã góp phần chung trong thắng lợi của cách mạng cả nước. Nhiều cá nhân ưu tú của Đồng Nai không nề gian khổ, ý chí mãnh liệt vượt gian nan, thử thách, lập nên những chiến công oanh liệt trong chiến đấu. Với những thành tích và cốn g hiến cho quê hương, một số con người Đồng Nai vinh dự đựơc nàh nước phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng Lực l ượng vũ trang. 1. Anh hùng Trần Công An (22/12/1920 -7/9/2008 Anh hùng Trần Công An (tên khai sinh là Trần Văn Kìa/ gọi thân mật là Hai Cà) sinh ra và lớn lên tại xã Thanh Hội, Tân Uy ên, Biên Hòa (nay thuộc tỉnh Bình Dương). Năm 26 tuổi, ông gia nhập lực lượng vũ trang cách mạng, tham gia qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ trên chiến trường miền Đông Nam Bộ. Ông có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng nước nhà. Đặc biệt, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tham gia chỉ huy và chiến đấu nhiều trận đánh địch; trong đó có trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên với phương pháp đánh đặc công. Đây là cách đánh tiếp cận bí mật, là một trong những cơ sở nền tảng hình thành binh c hủng đặc công sau này. Kho tàng nghệ thuật quân sự Việt Nam từ đó được bổ sung một cách đánh mới: cách đánh đặc công. Sau này được Bác Hồ ký sắc lệnh thành lập Binh chủng đặc công ngày 19-3-1967 và lấy ngày 19-3-1948 là ngày truyền thống của Binh chủng đặc công. Năm 1948, trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, thực dân Pháp thực hiện chiến thuật Đờ La-tua, xây dựng hệ thống đồn bót, tháp canh trên các trục lộ giao thông. Chiến thuật của chúng nhằm mục đích: bảo vệ đường giao thông, cắt đứt liên lạc giữa vùng kháng chiến và nhân dân; đồng thời dùng hệ thống tháp canh như một phương tiện lấn chiếm, kiểm soát vùng du kích và căn cứ cách mạng chiến khu Đ. Mỗi tháp canh cạnh từ 4 đến 5 mét xây bằng đá hoặc gạch, tường dày 0,5 đến 0,8 mét, cao từ 8 đến 10 mét, do một bán đội lính chốt đóng. Xung quanh tháp canh chúng bao bằng lũy đất dày có đất ken và lỗ châu mai, bên ngoàicó hào lũy, chông mìn, kẽm gai, thả chó, ngỗng. Mỗi tháp canh cách nhau 1 km có thể báo hiệu chi viện cho nhau. Giữa từ 5 đến 7 tháp canh có một tháp canh mẹ tạo thành một hệ thống có thể chi viện, hỗ trợ lẫn nhau khi bộ đội ta tấn công. Tháp canh mẹ cao từ 10 đến 12 mét do một tiểu đội đóng giữ. Tháp canh nào địch cũng bố trí hỏa lực mạnh, có máy truyền tin và các điều kiện hoạt động cần thiết. Hệ thống tháp canh của địch thật sự gây khó khăn cho ta trong việc vận chuyển lương thực, vũ khí và ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh. Trước tình hình đó, Bộ chỉ huy Khu 7 xác định phá tháp canh, đánh bại chiến thuật Đờ La-tua là nhiệm vụ quan trọng của lực lượng vũ trang miền Đông. Nhiệm vụ này được triển khai trong toàn lực lượng vũ trang các tỉnh thuộc khu 7 trong đó có Tỉnh đội Biên Hoà. Nhiệm vụ khó khăn này được giao cho tổ du kích do Trần Công An làm tổ trưởng. 102
  34. Khó khăn lớn nhất lúc đó là ta chưa có một loại vũ khí nào phá nổi tường tháp canh kiên cố ấy. Muốn thắng được chúng, phải dùng mưu trí và lòng dũng cảm kết hợp với các loại vũ khí cải tiến, ông phải nghiên cứu rất công phu, dựa vào cơ sở mật tìm hiểu cách bố phòng, cấu trúc tháp canh, quy luật hoạt động và những sơ hở của địch. Lúc này, Trần Công An là xã đội trưởng xã Thạnh Hội, được huyện đội trưởng cử làm tổ trưởng tổ tác chiến trong ban tham mưu Huyện đội Tân Uyên và được giao nhiệm vụ đánh tháp canh cầu Bà Kiên. Trần Công An tìm hiểu cách bố phòng, cấu trúc tháp canh, quy luật hoạt động và những sơ hở của địch tại các tháp canh. Đặc biệt, ông đã cho lập tháp canh giả để luyện tập nhuần nhuyễn trước khi đánh chính thức. Đêm 18 rạng sáng 19 tháng 3 năm 1948, Trần Công An đã chỉ huy một tổ gồm hai du kích Trần Văn Nguyên, Hồ Văn Lung tiến đánh tháp canh. Với số vũ khí được trang bị (09 trái lựu đạn dập và 1 trái OF -lựu đạn tấn công), cả ba lấy bùn, tro hoá trang, cầm thang bí mật tiếp cận tháp canh địch. Dùng thang áp vào tường để leo lên, mỗi người phân công leo lên các tầng tháp và ném lựu đạn vào lỗ châu mai. Trận đánh này tiêu diệt được 11 tên lính, thu 8 súng và 20 lựu đạn. Thắng lợi của trận đánh này mở ra một kỹ thuật đánh tháp canh trên toàn Nam Bộ. Thắng lợi với cách đánh tháp canh cầu Bà Kiên sau được phổ biến cho các đơn vị khác ở vùng Đông Nam Bộ và cả nước, trở thành một lối đánh điển hình của lực lượng đặc công Việt Nam. Sau chiến thắng này, Trần Công An được Bộ Tư lệnh Quân khu 7 biểu dương và ông vinh dự được kết nạp vào Đảng 7 tháng 5 năm 1948. Thời gian sau này, Trần Công An tham gia những trận đánh tháp canh khác và đã giành được nhiểu thắng lợi. Đêm 18 tháng 4 năm 1950, đánh sập tường tháp canh mẹ tại cầu Bà Kiên lần thứ hai nằm trên đường 16, ta diệt 16 lính trong tháp canh và thu toàn bộ vũ khí, đạn dược. Ngày 25 tháng 4 năm 1950, đồng chí Trần Công An chỉ huy đơn vị đánh sập tháp canh mẹ Vàm Giá - án ngữ cửa ngõ huyết mạch vào chiế n khu Đ nằm trên lộ 14, diệt gọn một trung đội lê dương, thu một súng cối 8l, một đại liên 12,7 ly và hàng tấn lương thực, thực phẩm. Năm 1954, Trần Công An tập kết ra Bắc, đang là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 - trung đoàn 656 (Sư đoàn 338) có nhiệm vụ xây dựng, huấn luyện quân sự, chính trị bảo đảm đơn vị diễn tập tấn công, phòng ngự. Đến năm 1958, ông lên làm trung đoàn trưởng 656, rồi đưa trung đoàn về huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình tổ chức sản xụất. Đến ngày 17/2/1961, được Bộ Tổng tham mưu quyết định l àm trưởng đoàn l gồm 205 cán bộ đi B. Khi về đến Ban quân sự Trung ương cục 15/7/1961, bàn giao cán bộ đầy đủ cho Ban quân lực miền, Trần Công An được Ban quân lực miền quyết định chuyển sang làm đoàn phó U50 - đơn vị chịu trách nhiệm sản xuất đảm bảo hậu cần, bảo vệ chiến khu A (chiến khu Đ mở rộng)- sau là Đảng ủy viên Cục hậu cần miền. Đến tháng 2-1965, Bộ Tư lệnh miền lại quyết định giao ông giữ nhiệm vụ Thị đội trưởng Biên Hòa, ông chọn 50 chiến sĩ đặc công giỏi về phục vụ chiến đấu ở chiến trường Biên Hòa. Đêm 22-6-1966, Tỉnh đội trưởng Trần Công An đã trực tiếp chỉ huy hai đại đội đặc công, tự cải tiến và sử dụng mìn hẹn giờ đánh vào kho liên hợp Long Bình, phá hủy trên 40.000 tấn bom đạn của Mỹ - ngụy. Từ tháng 10 đến tháng 12-1966, đại đội 2 (đặc công Ul) đã 3 lần đánh tiếp vào khu kho Long Bình, phá hủy hàng trăm ngàn tấn bom đạn. Thời gian về sau, Trần Công An 103