Tìm hiểu Võ thuật thiếu lâm tự

pdf 22 trang ngocly 1950
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tìm hiểu Võ thuật thiếu lâm tự", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftim_hieu_vo_thuat_thieu_lam_tu.pdf

Nội dung text: Tìm hiểu Võ thuật thiếu lâm tự

  1. Võ thuật Thiếu Lâm Tự Võ thuật thiếu lâm tự Bí ẩn tuyệt kỹ Thiếu Lâm Tự Bí quyết luyện công của Thiếu Lâm Binh Khí của Thiếu Lâm Bồ Đề Đạt Ma với Võ Thuật Bồ Đề Lão Tổ Là Ai Chuyện về Hầu Quyền Đạt Ma Dịch Cân Kinh Khảo sát về Ngũ hành quyền của Thiếu Lâm Kình và lực khác nhau ra sao? Nghiệp Lân-Sư-Rồng Những điều chưa biết về Võ Công Thiếu Lâm Thiếu Lâm Tự
  2. Võ thuật thiếu lâm tự NGUỒN GỐC: Theo truyền thuyết, vào thời thượng cổ, tại Ấn Độ, phần đông dân bản xứ và các tu sĩ rất hâm mộ luyện tập môn võ tay, được gọi là "Cửu Long". Mãi đến thời Phật lịch, trên đường du hành truyền bá Phật pháp, các thiền sư Ấn Độ, ngoài đức tin và đạo hạnh, còn cần đến một bản lãnh võ công để tự vệ và vượt qua những chướng ngại nơi núi rừng, sông biển đầy gian hiểm với hút dữ, cường sơn đạo tặc. Từ đó hình ảnh võ thuật được xuất hiện nơi chốn thiền môn. (Theo tài liệu giảng huấn của thiền sư Thiện Tâm, sáng tổ Võ Lâm Đạo Việt Nam 1930). Vào năm 520, Bồ Đề Đạt Ma, tổ sư thứ 28 của Thiền Tông Ấn Độ đến Trung Hoa rồi dừng chân nơi cổ tự Thiếu Lâm, núi Tung Sơn huyện Đặng Phong tỉnh Hồ Nam. Sau chín năm "Diện Bích Tham Thiền" nơi đây, ngài đã khai sáng cho Trung Hoa hai nền quốc kỹ tuyệt học và hình ảnh kỳ tài của ngài được suy tôn bất diệt, như một sáng tổ của Thiền Tông Trung Hoa và võ thuật Thiếu Lâm Tự. Chính nhờ vào phép tham thiền "Diện Bích", một kỹ thuật "Quán Tâm trong tĩnh lặng" hay "mặc chiếu", tổ sư đã giác ngộ, cảm nhận được cái sức mạnh siêu linh của tâm hồn nằm tiềm tàng trong cơ thể con người. Cái sức mạnh siêu linh vĩ đại này, nếu người ta biết cách khổ luyện, để tập trung thức tỉnh nó, sẽ trở thành một lợi khí dũng mạnh, bén nhạy nhất và hữu dụng vô cùng tận trong võ thuật thượng thừa. Do đó Bồ Đề Đạt Ma đã sáng tác ra môn "Tẩy Tủy", một đại pháp môn nội dẫn được áp dụng vào võ học siêu đẳng. Về sau, người ta gọi là "Nội Công Tâm Pháp", một phương pháp tu luyện để phát huy nội lực, qua ba giai đoạn chính yếu: Điều Thân, Điều Tức, và Điều Tâm. Cũng như qua hình ảnh mệt mõi của các môn đồ không đủ sức chịu đựng trong những buổi tập thiền định đầy gió lạnh của mùa Đông băng tuyết, Bồ Đề Đạt Ma sáng chế ra môn "Dịch Cân", một pháp môn ngoại dẫn áp dụng vào võ học nội công trung đẳng, gồm có 12 phép tập luyện thân thể nhằm phát huy sức mạnh gân thịt, và đã thông kinh mạch để đưa khí huyết sung mãn từ ngoài vào bên trong các phủ tạng. Do đó, môn "Dịch Cân" ngoài hiệu quả cường tráng thân thể, nó còn giúp tiêu trừ các chứng bệnh bên trong phủ tạng. Ngoài ra, Bồ Đề Đạt Ma còn truyền dạy cho tất cả môn đồ các cấp về "Thập Bát La Hán Môn", gồm có 18 động tác căn bản về quyền cước để khỏe mạnh tây chân tự vệ. Sau đây, tác giả Quảng Từ Lão Ni đã đề cập đến Đạt Ma trong pho sách "Võ Thuật Tùng Thủ": " Vào một sáng tinh sương mùa đông lạnh lẽo, toàn ngôi chùa Thiếu Lâm chìm đắm trong sương mù âm u của núi rừng Tung Sơn. Từ trong tịnh thất, Đạt Ma Tổ Sư bừng tỉnh cơn thiền trong tiếng động mạnh của cánh cửa sổ bị gió thổi đập mạnh vào tường. Ngài bước nhanh qua thiền viện, thiền đường vắng lạnh trong không khí yên tĩnh siêu nhiên. Gần ba chục môn đồ ngồi bất động như ba chục pho tượng nhập đại định, trong tư thế "Kiết già phụ tọa". Tổ sư quan sát toàn diện khung cảnh. Mỗi người tuy phảng phất vẻ tịnh tu nhưng gương mặt hôm nay sao biểu lộ sự cố gắng cùng cực, không có được sự bất động vô tâm như bao ngày trước. Từng cơn gió lướt qua, nhiều người phải nghiến chặt răng, tay bắt ấn quyết liệt trong cử chỉ kềm chế tối đa. Trời rét lạnh như băng đá, máu dồn lên đầu, gương mặt các môn đồ đều đỏ lên, khắc khổ. Tổ sư chợt hiểu. Vì không đủ nội lực phấn đấu với khí hậu, tiết trời bất thường của mùa đông, đầy sơn lâm chướng khí.nên tất cả đều đang ở torng tình trạng khẩn trương, có thể dẫn đến nội thương, tổn hại nguyên khí, làm cản trở bước đường tu tập. Tổ sư tự nghĩ: Ngài phải có trách nhiệm và hành động. Sau đó, mỗi ngày trong chương trình tu học, đầu có giờ tập luyện "Thập Bát La Hán Môn" và "Dịch Cân" do chính tổ sư giảng huấn." Thời kỳ sơ khởi của võ thuật Thiếu Lâm bắt đầu từ đó. Sau khi Bồ Đề Đạt Ma qua đời, các môn đồ Thiếu Lâm dựa vào 18 động tác căn bản của "Thập Bát La Hán Môn" và 12 phép tập vận động của "Dịch Cân" để khai triển thêm nhiều thế căn bản và đường quyền thế võ tự vệ. Mãi đến triều đại nhà Nguyên (1260 - 1368), Thiền sư Viên Trường Quang, tuổi năm mươi, trước khi gia nhập Thiếu Lâm Tự nguyên là một thanh niên khỏe mạnh, giỏi võ nghệ, thuộc gia đình giàu có. Viên Trường Quang dựa vào 18 thế căn bản "Thập Bát La Hán Môn" của Đạt Ma biến chế ra một hệ thống quyền cước với bảy mươi hai thế căn bản gọi là "Thất Thập Nhị Quyền Công". Sau đó, Viên Trường Quang còn xuống núi hành hiệp vàkết giao vớinhiều danh sư để thử nghiệm ưu khuyết điểm của "Thất THập Nhị Quyền Công". Một hôm, Viên Trường Quang được kết giao với một lão sư, Lý Thanh tuổi ngoài sáu mươi. Trong trận đấu giao hữu, lão sư Lý Thanh vơi thân thủ nhanh nhẹn đã kềm chế được ngọn đá dũng mãnh của đối phương, đồng thời dùng thế song chỉ của hai ngón tay phải điểm huyệt, làm đau tê buốt bàn chân đá của Viên Trường Quang. Sau đó, Lý Thanh giới thiệu Viên Trường Quang với Bát Dự Phong, một người bạn thân của ông tuổi năm mươi, đương kim vô địch võ thuật nổi danh lúc bấy giờ tại các vùng Sơn Tây, Hồ Nam và Hồ Bắc. Ba người bạn gặp gỡ tâm đầu ý hợp. Cùng nhau vào chùa Thiếu Lâm ngày đêm nghiên cứu võ thuật. Với căn bản của "Thập Bát La Hán Môn" và "Thất Thập Nhị Quyền Công" của Thiếu Lâm, ba người cùng hợp tác chế thêm một trăm bảy mươi động tác căn bản quyền cước, được phỏng theo đặc tính và bộ pháp chiến đấu của "Linh Thú Ngũ Hình" như: Long Hổ, Báo, Xà, Hạc. Tất cả đã tạo nên một nền tảng sơ khởi cho võ thuật Thiếu Lâm, được truyền bá rộng rãi từ xưa đến nay. Kỹ thuật huấn luyện: Võ thuật Thiếu Lâm được người Trung Hoa xem là "ngoại gia quyền" vì được du nhập từ nước ngoài (Ấn Độ) vào, do Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma sáng tạo tại chốn thiền môn nhằm để tăng cường sức khỏe thân tâm, và tự vệ. Ngoài việc tập luyện võ thuật, môn sinh còn phải tuân hành mười điều tâm niệm sau đây: 1 - Phải chuyên cần tập luyện võ thuật. 2 - Chỉ được dùng đến võ thuật trong trường hợp phải tự vệ. 3 - Phải giữ phép lịch sự và kính nhường với những bậc thầy và cao niên.
  3. 4 - Phải đối xử tử tế, và có lòng thành tín với các đồng bạn. 5 - không nên tự ý khoe khoang võ thuật trước mặt mọi người và không được nhận lời thách đấu của bất cứ ai. 6 - Không bao giờ gây chiến trước. 7 - Không nên dùng rượu và thịt. 8 - Không làm việc tà dâm. 9 - Không nên có những tánh: công kích, gian tham, và tự phụ. 10 - Chỉ dạy võ thuật cho những người có đức hạnh tốt. Về kỹ thuật huấn luyện, tổng quát gồm có bốn bộ môn căn bản: Quyền cước, Binh khí, Nội ngoại Thần Công và Huyệt Đạo Kinh Mạch. Trước tiên, bô môn quyền cước được xem là nền tảng sơ khởi trong việc huấn luyện võ thuật. Sau đó, môn sinh mới được lần lượt học tập đến các bộ môn Binh khí (như côn, thương, kích, đao, kiếm), môn Nội ngoại thần công (gồm các bí quyết tập kuyện công phu như khí công nội dẫn, ngoại công như ngạnh công và nhuyển công gồm có các phương pháp công phu luyện tập sức mạnh các ngón tay chỉ công: Nhất chỉ thiền, Long Trảo công, ngọa hổ công, luyện lực ở cạnh vàlòng bàn tay; Chưởng Công: Thiết sa Chưởng, Thôi sơn chưởng, Trúc diệp chưởng, luyện về khinh công và phi hành, luyện về Thiết quyền và Thiết tý, luyện về Thiết cước và Thiên cân trụy, luyện về những công phu đặc dị mình đồng da sắt, ), Môn Huyệt Đạo và Kinh Mạch (các phương pháp điểm và giải huyệt bí truyền áp dụng vào chiến đấu đã thương và cứu tử hoàn sanh). Tất cả đều được truyền dạy lần lượt từ dễ đến khó, từ cấp bậc thấp lên dần cấp bậc cao hơn. Về bộ môn quyền cước, khởi đầu từ cách tập đứng các thế tấn căn bản đến di chuyển từ bước một (Bộ tấn pháp), đến các đòn thế căn bản đánh đỡ về tay (thủ pháp), và các thế đá căn bản hướng tới trước, phía sau, một bên phải trái (cước pháp). Dần dần tập luyện các bài quyền mẫu, các thế đánh đỡ tự vệ và giao chiến mẫu, từ các bài đấu luyện với nhau, áp dụng từ đơn luyện đến song luyện. Cầm Nả Thủ Pháp học cận chiến để bắt bẻ, khóa tay chân, và vật ngã đối phương. Càng học lên cấp bậc cao, kỹ thuật huấn luyện càng chứa nhiều thế phức tạp, đòi hỏi người môn sinh phải có lòng kiên nhẫn và khó nhọc. Tóm lại, võ thuật Thiếu Lâm mang những đặc tính căn bản như công, thủ, phản, biến, nhu, cương, khí, lực, Về hình thức, quyền pháp di chuyển thường theo một đường thẳng tới lui, lên xuống, trước sau, trái phải. Di chuyển căn bản theo bốn phương, tám hướng, với thân hình biến chuyển có lúc vững chắc như núi thái sơn, có luc mềm dẻo linh động, nhanh nhẹn dũng mãnh như cuồng phong vũ bão. Tất cả đều được phối hợp trong các tư thế đi, đứng, nằm, ngồi, chạy, nhảy, lăn, nhào, Các đòn thế công hay thủ phải được rõ ràng, dứt khoát, thực dụng, sức mạnh là yếu tố chính yếu, tính uyển chuyển là phụ thuộc. Trong các động tác không được rườm rà, hay khoa trương hoa dạng, để tránh phí sức lực. Các thế tấn công thường nhắm vào các nhược điểm trên cơ thể của đối phương. Về sự huấn luyện "Linh Thú Ngũ Hình" được quan niệm rằng đặc tính và bộ pháp chiến đấu của năm loài thú Long, Hổ, Báo, Xà, và Hạc lần lượt được tượng trưng cho sự huấn luyện về tinh thần, bộ xương, sức mạnh, hơi thở, và gân thịt. Năm yếu tố này cần được phối hợp lại thành một đồng nhất thể. Cũng như sự kết hợp cần phải có giữa cứng và mềm (nhu cương), trong và ngoài (nội ngoại), thể chất và tinh thần (thân tâm). Do đó, việc huấn luyện "Linh Thú Ngũ Hình" đòi hỏi một sự cố gắng và kiên nhẫn cao độ, nhằm đạt đến sự ích lợi tối đa cho cơ thể của người tập luyện có những đức tính chính yếu sau đây: Thân pháp phải được vững chắc và linh động. Tâm pháp phải giữ được bình tĩnh. Khí pháp nên được điều hòa hơi thở. Nhãn pháp phải được trong sáng, để quan sát rõ ràng cuộc chiến. Quyền cước pháp phóng ra khéo léo, dũng mãnh và nhanh nhẹn. Đấu pháp phải biết dùng đến mưu trí trong mỗi tình thế, và nhận định đúng thời điểm để áp dụng phù hợp các đòn thế: công, thủ, phản, biến, nhu, cương, khí, lực, Tất cả là những yếu tố cần thiết trong việc huấn luyện để giúp cho môn sinh Thiếu Lâm giữ thế thượng phong, thủ thắng trước đối thủ.
  4. Bí ẩn tuyệt kỹ Thiếu Lâm Tự Năm 527, một vị cao tăng từ Ấn Độ tìm đến ngôi chùa Thiếu Lâm trên đỉnh Trung Sơn, Trung Quốc. Ở đây ông đã xây dựng lên một „trung tâm" nghiên cứu, giái dục và phát triển võ thuật đầu tiên trên thế giới. Đó là Sư Tổ Đạt Ma (còn gọi là Bồ Đề Đạt Ma) với môn phái Thiếu Lâm Tự. Trải qua gần 1500 năm tạo dựng và phát triển, với bao biến cố của lịch sử, Thiếu Lâm Tự cũng gặp nhiều thăng trầm, chùa bị đốt, bí kíp thất lạc Những tuyệt kỹ võ công tuy đã thất thoát nhiều nhưng những gì còn lại vẫn làm đồng đạo võ lâm phải nể phục, giới khoa học phải lắc đầu bó tay không giải thích nổi. Những tuyệt kỹ ta tưởng như chỉ có trên phim ảnh thì các võ tăng Thiếu Lâm lại biểu diễn cho mọi người xem. Ta có thể thấy một vị đại sư dùng lưỡi liếm lưỡi hái nung đỏ, nhà sư khác biểu diễn công phu Thiết Bộ Sam bằng cách để một đồng môn dùng thanh sắt vụt thẳng vào người mình cho đến khi thanh sắt cứng có hình lưỡi câu. Còn một tiểu hòa thưởng biểu diễn một môn „khí công thôi nạp" với một chiếc bát út trên bụng và ba người đàn ông lực lưỡng cũng không kéo được cái bát đã hút chặt vào bụng của anh ta. Các vĩ võ tăng hay biểu diễn các chiêu võ thuật – hay „đậu" trên ngọn côn. Chắc các bạn không biết rằng đòn này lại xuất phát từ những người dân chài. Chả là Thiếu Lâm Tự nằm trên phần đất miền Nam TQ, nơi đây có nhiều con sông lớn là nơi mà nghề sông nước phát triển và gần TLT là sông Hoàng Hà cũng là một con sông rất lớn. Hình ảnh những người sống trên sông có thể dễ dàng nhảy qua những khoảng cách khá xa từ thuyền nọ sang thuyền kia chỉ bẳng cách bám vào cây sào chống thuyền đã giúp các nhà sư Thiếu Lâm – sáng tạo ra nhiều chiêu thức mới với cây côn của mình (giống cây sào chống thuyền). Chiêu thức này dùng để chánh những cú tấn công dưới thấp và trả đòn từ trên cao xuống hoặc bay vọt qua đầu đối phương ra phía sau. Nói thì đơn giản như vậy nhưng để làm được như thế các võ tăng phải tập luyện rất vất vả, không phải cứ nhảy lên là được. Người sử dụng phải thông thạo khinh công để có thể khống chế được không gian và thời gian „lơ lửng" trên không của mình, để không chỉ đá một cước mà còn đá xoay tròn nhiều cước trên không. „Thiết đầu công" và „Đại lực kim cương chỉ" – nội công và khí công – đại diện cho hai môn công phu Thiếu Lâm nổi tiếng. Triết đầu công – trồng cây chuối bằng đầu, ngoài việc phải có một cái đấu thép, nội công thâm hậu ra người võ tăng phải tinh thông khí công, anh ta phải dùng khí công để cân bằng trọng tâm giữ khí huyết vận động bình thường tránh trường hợp máu dồn quá nhiều về não. Đối với Đại lực kim cương chỉ cũng vậy nhưng không chỉ lấy thăng bằng trọng lượng và trọng tâm mà võ tăng còn phải vận khí về hai ngón tay để nó trở nên cứng rắn có thể đỡ được cả trọng lượng cơ thể ở trên. Theo như các cao thủ Thiếu Lâm cho biết, nếu muốn rèn luyện cơ thể trở nên cứng rắn ngoài việc luyện tập theo những bài tập khắc nghiệt ra họ còn phải hỗ trợ bằng những bài thuốc ngâm và thuốc uống đặc biệt để „tôi" luyện cơ thể, nhờ vậy cái đầu có thể đập vỡ và chồng gạch mà không sao; hai ngón tay có thể cắm ngập vào thân cây gỗ lớn rồi bóc ra từng mảnh gỗ. Tuy nhiên họ vẫn chép miệng tiếc rẻ bời giờ đây không còn ai thể hiện được kim cương chỉ bằng cách „trồng cây chuối" trên duy nhất một ngón trỏ. Trước đây chỉ có Hải Đăng Thiền sư phương trượng của Thiếu Lâm làm được, nhưng từ khi ông mất (khoảng 10 năm) công phu này bị thất truyền. Hy vọng một ngày gần đây kỳ tài Thiếu Lâm sẽ xuất hiện. Giờ đây khi khoa học đã phát triển nhưng các nhà khoa học vẫn phải bó tay trước môn phái Thiếu Lâm Tự đầy bí ẩn. Họ không thể lý giải được những công năng đặc biệt của các võ tăng Thiếu Lâm thậm chí trước những bài tập được coi là bình thường của các võ tăng như đứng tấn nhiều canh giờ (1 canh giờ = 2 tiếng) thậm chí ăn uống trong lúc đứng tấn; dùng dây lụa quàng qua cổ treo toòng teng trên cành cây dưới thời tiết lạnh vv vv
  5. Bí quyết luyện công của Thiếu Lâm Bí quyết của võ phái này nằm trong câu khẩu quyết: "Khí nhiều hơn, tập luyện gian khổ hơn". Các nhà sư Thiếu Lâm đã thực hiện câu này từ nhiều thế kỷ và những nhà vô địch của các võ phái cũng nằm lòng câu này. Trung Hoa còn một câu thành ngữ khác: "Khi bạn đã lên đến đỉnh, chỗ để bắt đầu lại là ở dưới đáy", có ý khuyên chớ nên coi thường và bỏ qua những đòn thế căn bản. Càng tập luyện chúng thuần thục, việc ra đòn càng chính xác, linh hoạt, hữu hiệu. Ngoài ra, còn phát huy tốc độ ra đòn, sức mạnh và sự dẻo dai. Muốn cơ thể dẻo dai, phải tập vươn dãn bằng các động tác làm nóng người. Với Thiếu Lâm, yêu cầu là môn sinh phải cúi gập người tới mức có thể "hôn"các ngón chân ở hai tư thế đứng và ngồi. Thiếu Lâm dạy ba cấp độ về khí: Tui li (chuyển khí): môn sinh phải chuyển được khí lực ra tay chân khi tung đòn; Baofa li (tụ khí): tụ khí vào điểm chạm đòn để gia tăng sức công phá; gun li (nén khí): dù ở cự ly gần vẫn có thể tung đòn. Một bí quyết nữa là tinh thần phải hoàn toàn thư giãn, thanh thản. Lo âu, giận giữ, buồn rầu hay hưng phấn, vui vẻ đều là cảm xúc có hại, vì làm mất sự quân bình của cơ thể. Tinh thần càng thanh thản, thể xác sẽ ở tình trạng hoàn hảo, tốc độ và sức mạnh của đòn tung ra sẽ đạt mức tối đa. Ba phần của cơ thể (đầu, mình, tứ chi) phải phối hợp hoạt động một cách tập trung để phát huy tối đa hiệu năng của đòn đánh. Võ thuật Trung Hoa cũng nhắc đến hai sự hòa hợp ngoại và nội tại. Ngoại tại là sự hòa hợp giữa tay với chân, vai với hông, chỏ với gối. Nội tại là sự hòa hợp giữa tâm với thần, thần với khí và khí với lực. Hai sự phối hợp này phải luôn đi với nhau vì mọi chuyển động của các cơ phận đều do mệnh lệnh từ não (tức là thần). Để đạt được sự phối hợp này, hãy bắt đầu tập các đòn thế thật chậm, từ ý nghĩ đến từng mệnh lệnh cho tay, chân, vai, hông rồi tập nhanh dần lên. Tốc độ ra đòn sẽ tăng tiến dần theo số lần tập luyện. Hãy tập zhi quan (đấm thẳng), bai quan (đấm móc), gou quan (đấm vòng) hàng trăm lần mỗi ngày: cú đấm sẽ trở thành lưỡi gươm nhọn, nhanh, mạnh khủng khiếp. Đấu pháp cá nhân sẽ hình thành sau thời gian dài bền bỉ luyện quyền. Sẽ không còn phân biệt đâu là công hay là thủ nữa mà thủ cũng là công và ngược lại. Thời điểm tung đòn quyết định cũng sẽ được nhận biết tự nhiên, vì các đòn thế đã nhập tâm thì sẽ tuôn ra trôi chảy một cách bản năng.
  6. Binh Khí của Thiếu Lâm Môn Thiếu Lâm được xem là lãnh tụ của võ thuật Trung Quốc. Thực ra, quyền thuật phái Thiếu Lâm chỉ nổi tiếng từ Trung Điệp đời Minh trở về saụ Đầu đời nhà Thanh, quyền thuật Thiếu Lâm phát triển cực thi.nh. Trong niên hiệu Vạn Lịch nhà Minh, các nhà sư Hồng Kỷ, Hồng Chuyển nổi tiếng về côn và tiên. Trình Xung Đẩu theo học với hai nhà sư này, có viết sách "Thiếu Lâm côn pháp xiển tông" và "Thiếu Lâm tiên pháp xiển tông". Trong đời chính Đức nhà Minh, có người ở Từ Khê là Biên Trừng cũng học được tinh nghĩa của võ thuật, bao gồm quyền thuật và thập bát ban võ nghệ của võ phái Thiếu Lâm. Sang niên hiệu Sùng Trinh đời Minh, các nhà sư Thiếu Lâm là Hồng Ký, Hồng Tín theo lời mời của Thẩm Tuy Trinh ở Bình Hồ, đến Thái Thương để dạy quyền thuật và thập bát ban võ nghệ của môn phái Thiếu Lâm cho binh sĩ. Đến khi nhà Minh mất, các bậc cố lão, di dân cùng những người thuộc tông thất nhà Minh trốn vào chùa Thiếu Lâm, gắng sức học tập võ nghệ, để mưu việc khôi phục đất nước. Tất cả các tuyệt kỹ về quyền thuật và binh khí Thiếu Lâm đã được đưa ra truyền dạy, gây cho nhà Thanh phải bao phen kinh hoàng Những binh khí được liệt vào thập bát ban võ nghệ của môn phái Thiếu Lâm, gồm: 1. Đao 2. Thương 3. Kiếm 4. Kích 5. Đảng 6. Côn 7. Xoa 8. Ba 9. Tiên 10. Giản 11. Chùy 12. Phủ 13. Câu 14. Liêm 15. Trảo 16. Quài 17. Cung tiễn 18. Đằng bài Tuy nhiên, trong thực tế, không phải chỉ có mười tám môn binh khí như đã nêu trên, mà có đến gần cả trăm loại binh khí thuộc về mười tám loại cơ bản kể trên: -Trước hết có thể kể trong loại đao gồm có: đơn đao, song đao, đại đao phác đao, trảm mã đaọ Còn thương thì có đại thương (dài từ 1,6m đến 4m) và hoa thương (dài khoảng 2m đến khoảng 2,5m). -Về kiếm có: đơn kiếm song kiếm. Kích gồm đơn kích, song kích. Đảng có nhạn linh đảng, long tu đảng và lựu kim đảng (là những binh khí có đầu như cái móc). Câu có hai loại là: hổ đầu câu và lộc giác câụ -Môn binh khí liêm gồm có đao liêm, thương liêm và hổ trảo liêm (còn gọi là nhật nguyệt song bút). Trảo gồm có Kim long trảọ Quài có: Dương giốc quài, Lý công quài và Tiên lặc quài (còn gọi là câu liêm quài). -Riêng côn cũng có nhiều loại: trường côn, tề mi côn, đoản côn, tam khúc côn, nhị khúc côn, song côn. -Côn tiên gồm có: đơn tiên, song tiên, trung bình tiên, phương tiên, trúc tiết tiên, nhuyễn tiên. Cách vận dụng mười tám môn binh khí, đại để như thương và côn thuộc về một loại, bởi cách dùng côn và thương có nhiều chỗ giống nhau, nhưng về đánh xuống (từ chuyên môn gọi là "đả") thì côn nhiều hơn thương. Côn pháp của phái Thiếu Lâm còn kiêm luôn cả những đặc tính của thương và bổng, gồm 7 phần thương pháp, 3 phần bổng pháp. Trong các loại côn pháp thì côn pháp của Thiếu Lâm là hay nhất. Đến như lối hai tay cầm côn với bộ khẩu hướng vào nhau, gọi là âm thủ côn, chính là một lối côn đặc dị của Thiếu Lâm pháị Theo sách "Kỷ hiệu tân thư" của Thích Kế Quang thì : "Thương có lối Lê hoa thương pháp của họ Dương cùng với lối đánh côn của họ Sa và họ Mã". Theo sách "Thiếu Lâm côn pháp" của Trình Xung Đẩu thì : "Côn có loại Đại tiểu dạ xoa của phái Thiếu Lâm, cùng Âm thủ côn của nhà họ Tôn". Kích có hai loại khác nhau là trường kích và song kích. Trường kích và câu liêm thương thuộc một loạị Kích và câu liêm thương thường nặng ở đầu nên lúc sử dụng không được linh động như thương. Song kích thuộc một loại với song câu, song liêm. Đảng, xoa, ba thuộc về một loại đều là những võ khí ngăn trở địch tấn công mau chóng, nhưng dùng không được tiện lợi, nhanh nhẹn, dễ bị chậm chạp, không phải là người có sức mạnh thì không thể dùng được. Trúc tiết tiên, đơn giản, đơn đao thuộc về một loạị Song tiên, song giản, song đao thuộc về một loạị Lối đánh của tiên và giản là lối chém của đaọ Đại đao, trảm mã đao thuộc về một loại với chùy, phủ (búa), đều là những võ khí nặng nề. Ngày xưa, trong lúc hành quân, nếu trận của quân giặc quá kiên cố, người ta thường chọn những người có sức mạnh cầm chùy dài, búa dài, đại đao hay trảm mã đao hăng hái xông lên mà phá giặc. Nếu cá nhân chống nhau với đối thủ thì những võ khí nặng nề này không thích dụng lắm. Các loại binh khí này chỉ có các phương pháp: ngạnh đả, ngạnh chước, ngạnh thung, chứ không có nhiều xảo pháp. Lối sử dụng quải có lúc dài, lúc ngắn làm cho kẻ địch khó đề phòng. Câu liêm quài còn có phép mộc kéo đối thủ, nhưng rất khó sử du.ng. Kiếm được dùng từ xưạ Phàm các lối sử dụng về khí giới đều thoát thai từ lối đánh kiếm mà rạ Bởi vì ngày xưa, các võ khí như qua, mâu, kích - đều dùng trong chiến trận hơn nữa lại còn dùng lối đánh nhau bằng xe - cho nên đánh, đâm, tiến thoái đều theo sự tiết chế, mệnh lệnh mà động thủ, không thể nhảy nhót mau lẹ, tự do tung hoành, biến hóa như ý. Chỉ có kiếm là vật dụng người xưa hay mang theo, thường rèn tập có thể tự vệ được. Vả lại kiếm thường dùng đánh nhau dưới đất, vì vậy kiếm thuật rất dễ đến chỗ xảo điệu, vì nhiều người học và nghiên cứu, sáng tạọ
  7. Kiếm khác hơn đao ở chỗ đơn đao phía mũi rất nặng còn mũi kiếm thì nhe Vì vậy, dùng kiếm mau hơn là dùng đaọ Các loại binh khí nói trên thường chỉ được truyền dạy trong các chùa Thiếu Lâm - cái nôi của môn võ Thiếu Lâm - hoặc trong các lò võ Thiếu Lâm lớn còn đa số trong các lò võ và đại đa số người luyện tập môn phái Thiếu Lâm chỉ luyện tập các binh khí thuộc bộ Côn và bộ Kiếm và các dạng biến tướng của hai bộ nàỵ
  8. Bồ Đề Đạt Ma với Võ Thuật Ngày nay, các nhà nghiên cứu lịch sử võ học đều thừa nhận, Thiếu Lâm không những là cội nguồn của nhiều môn võ khác, mà còn được tôn xưng là Ngôi Sao Bắc Đẩu trong nền võ học. Võ học Thiếu Lâm vừa gắn liền với ngôi cổ tự lịch sử, vừa là kho võ học vô cùng đồ sộ. Thật vậy, ngoài những đường quyền, ngọn cước và sử dụng đủ loại binh khí (thập bát ban võ nghệ), Thiếu Lâm còn có những phương pháp rèn luyện công phu đặc dị như: luyện nội công, luyện ngoại công, khinh công, ngạch công, nhuyễn công, điểm huyệt và giải huyệt, y dược trị thương và các phương pháp thu nhận, huấn luyện môn đồ cũng như phương pháp xây dựng Thiền Viện, Võ Đường Đồng thời đó cũng là nơi sản sinh ra nhiều đoá hóa kỳ tài "danh trấn giang hồ", xứng đáng bước vào ngôi vị Minh Chủ Võ Lâm, để giữ gìn hòa bình, không để võ lâm nổi sóng gió. Và nhất là, hình ảnh các vị Đại sư, võ công thâm hậu, đạo đức cao siêu, luôn ra tay bảo vệ kẻ cô thế, xua đuổi kẻ hung tàn bạo ác, đem lại yên bình cho quốc gia, cho dân tộc. Vậy Võ học Thiếu Lâm phát xuất từ đâu? Khi nào? Chùa Thiếu Lâm nằm ở hướng Tây bắc huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam, cách Bắc Kinh 600 km về phía Nam và cách Nam Kinh 600 km về phía Tây. Chùa tọa lạc ở sườn Tây núi Tung Sơn, mặt đối với núi Thiếu Thất, lưng dựa Ngũ Nhũ Phong. Vì chùa được xây dựng trong rừng rậm ở sườn âm núi Thiếu Thất nên lấy tên là Thiếu Lâm Tự. Năm Thái Hòa thứ 19, Bắc Ngụy (năm 495), vua Hiếu Văn Đế xây dựng chùa Thiếu Lâm, ban tặng cho vị cao tăng Ấn Độ tên là Bạt Đà, dùng để cư trú mà hành đạo. Võ học Thiếu Lâm có mặt từ đây. Ngài Bồ Đề Đạt Ma, tên thật là Bồ Đề Đa La, con trai thứ ba của vua Nam Thiên Trúc, thuộc dòng Sát Đế Lợi. Về sau Ngài đi tu và gặp Tổ Bát Nhã Đa La, đời thứ 27 của Phật giáo Thiên Trúc. Ngài được truyền Y Bát làm Tổ đời 28. Sau đó vào ngày 21 tháng 7 năm Mậu Tuất (năm 518 sau tây Lịch) Ngài lên thuyền vượt biển sang trung Hoa. Ngài tới Quảng Châu vào ngày 1 tháng 10 năm Đinh Mùi. Vua Lương Võ Đế hay tin liền mời Ngài về Kim Lăng để hội kiến, nhưng vì ý không hợp nhau nên chia tay Đạt ma Tổ Sư bứt một cọng lau ném xuống sông, rồi đứng trên đó mà vượt Trường Giang (cước đạp lô điệp quá giang). Năm 1307, ở Tung Sơn Thiếu Lâm Tự có lập một tượng đá, tạc cảnh Ngài đạp cọng lau qua sông. Năm Hiếu Xương thứ ba, đời Bắc Ngụy (527), Ngài Bồ Đề Đạt Ma đến Tung Sơn Tự. Tại đây, Ngài thấy nhiều nhà sư có thể trạng yếu đuối, thường hay ngủ gật trong lúc Ngài thuyết giảng và không chịu nổi với khí lạnh bên ngoài của núi rừng xâm nhập. Vì thế, Ngài quyết định tham thiền để tìm cách giúp đỡ những nhà sư này. Kết quả sau 9 năm diện bích trong động thiếu Thất, Ngài đã đúc kết hết thảy tinh yếu vào trong hai cuốn Dịch Cân Kinh và Tẩy Thủy Kinh, trở thành tỵ tổ của Thiếu Lâm võ công và cũng là Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa. Theo "Tổ Tổ tương truyền di ngôn khẩu quyết văn" và "Bồ đề hành kinh" thì Bồ Đề Đạt ma nhập diệt vào ngày 9 tháng 10 năm Bính Thìn (năm 536 sau TL), nhằm năm Thiên Giám thứ 2, đời Lương Võ Đế. Sau khi Ngài viên tịch, các Đại sư Thiếu Lâm tiếp tục tập luyện những phương thức do Ngài truyền lại. Với Dịch Cân Kinh thì rèn luyện nội công, còn Tẩy Thủy Kinh thì rèn luyện khí công. Chẳng bao lâu, các Đại sư nhận ra rằng việc luyện tập Dịch Cân Kinh và Tẩy Thủy Kinh, không những làm sức khỏe tăng tiến, cơ thể mạnh mẽ mà tinh thần càng phấn chấn, trầm tĩnh, có thể chống lại khí hậu lạnh của núi rừng, bịnh tật, mệt mỏi sau khi ngồi thiền và có thể dũng cảm vượt qua những khó khăn nguy hiểm trong lúc đi hành đạo. Võ thuật được phát triển mạnh mẽ vào đời Đường (618 - 907), sau khi 13 võ Tăng giúp Vua Đường Thái Tông phá trận Vương Thế Sung (630). Lịch sử võ thuật Trung Quốc còn nhắc nhở nhiều đến ba vị có công lớn nhất từ Thiếu Lâm Tự là Chí Tháo, Huệ Dương và Đàm Tông. Võ Thuật Thiếu Lâm nguyên thuỷ có 18 thế chính yếu. Đến đời Tống, Tống Thái Tổ phát triển thành 32 thế Trường quyền. Một thế kỷ sau, Giác Viễn Thượng Nhân mở rộng thành 72 thế (thất thập nhị huyền công). Từ đó, trải qua các thời đại, các Đại sư không ngừng rèn luyện và sáng tác thêm, khiến cho võ thuật Thiếu Lâm ngày càng phong phú và đồ sộ. Đến đời nhà Minh, tùy theo sở thích, căn cơ và phong thổ mà môn phái Thiếu Lâm chia làm hai hệ phái: Bắc phái (bắc cước) và Nam phái (Nam quyền). Đỉnh cao của võ thuật Thiếu Lâm là vào đời nhà Thanh, thời Ngài Chí Thiện Thiền sư, không những võ học phát triển trong Tăng nhân mà còn truyền ra bên ngoài, đi vào đời sống người dân, tạo nguồn sức sống mạnh mẽ, nâng cao tinh thần thượng võ, cứu nguy giúp nước. Chùa Thiếu Lâm bị hủy hoại một phần vào những năm 556, 962 và 844. Chùa bị cháy ba lần vào những năm 612, 1736 và 1928. Điều may mắn là mỗi lần cháy chùa chỉ bị hủy hoại một phần, ngay cả lần binh lính Mãn Thanh tấn công chùa. Sau thời kỳ cách Mạng Văn Hóa, Trung Quốc coi võ thuật Thiếu Lâm là di sản văn hóa dân tộc cần được bảo tồn. Chùa Thiếu Lâm được trùng tu vào những năm cuối thập kỷ 70. Như trên đã nói, các vị Đại Sư Thiếu Lâm không những võ công tuyệt thế, nội công thâm hậu mà còn có võ đức sáng ngời. Trong môn đồ Thiếu Lâm Tự, còn lưu truyền lời dạy của Đại sư Hạnh Ẩn, và xem đó là tấm gương soi mình, là mục đích luyện võ của mình: "Nếu có một kẻ nào đó, mà kẻ ấy là một người vô đạo đức xin được truyền thụ võ công, Ta sẽ không dạy cho hắn điều gì cả, dù kẻ ấy muốn dâng cho Ta ngàn vàng. Con có thể biến đá thành vàng, một khi con hấp thụ được võ thuật chân truyền từ Thiếu Lâm", và khi mà chúng ta được chân truyền từ võ học Thiếu Lâm thì "con có thể xuyên qua kim cang thạch bích. Vận dụng cơ thể phát sinh kình lực cần có và phải chắc chắn rằng con không sợ hãi để con đủ can đảm. Khi xoay mình phải nhanh và uy lực như một cơn lốc di chuyển khỏi thế bất lợi mà thân người vẫn đúng tư thế, chiếm lĩnh vị trí thuận lợi. Cái duỗi tay của con như mây che lấp ánh trăng và đứng vững trên đôi chân của con tựa như thế núi. Hông của con trầm xuống làm vững chắc bộ tấn, nhờ thế mà con không bị đánh ngã. Rèn luyện và rèn luyện mãi, nếu con là người nghiêm túc thì không để thời gian trôi qua vô ích "[1] Như vậy, chúng ta thấy võ đức chính là linh hồn của võ thuật, việc tôn cao võ đức là truyền thống từ xưa đến nay của giới võ thuật. Một vị võ sư, nội công thâm hậu, võ công trác tuyệt mà không có võ đức, mang đầy tà tâm thì sẽ gây cho giang hồ nhiều sóng gió, chắc chắn bị võ lâm đồng đạo chê trách và bị tiêu diệt. Còn vị được bầu làm Minh Chủ Võ Lâm thì không những võ công cao siêu mà còn có võ đức sáng ngời. Tiên sư nói: "Tập võ giả thượng đức bất thượng lực" nghĩa là, tập võ chuộng đức không chuộng sức. Sức tuy đả thương người nhưng chưa chắc tâm phục, còn có đức tuy lực kém mà mọi người tâm phục khẩu phục. Cho nên Đức là phẩm chất của người luyện võ, là tiêu chuẩn để dự đoán một người mới học võ có thể đạt được chân công hay không.Các đại sư tiền bối Thiếu Lâm rất chú trọng đến việc huấn luyện và bồi dưỡng võ đức, đã chế ra một hệ thống các quy định giới cấm, bắt buột người học Thiếu Lâm phải tuân thủ nghiêm ngặt. Thời nhà Minh, trong Thiếu Lâm thập điều giới ước có ghi: " truyền dạy học trò cần chọn lọc thận trọng, nếu xác nhận là kẻ sĩ thật thà giản dị, hồn hậu, trung nghĩa thì có thể đem kỹ thuật truyền cho "; " người tập luyện ấy khỏe thể xác, tâm hồn làm tôn chỉ trọng yếu, quen luyện tậm sớm tối không được tùy ý ngưng nghỉ "; " lấy lòng từ bi của Phật gia làm gốc, tinh
  9. thông võ nghệ chỉ để tự vệ, không vì huyết khí cương cường mà ham đấu đá "; " bình nhật phải tôn kính Sư trưởng, không được có hành vi chống cự hoặc ngạo mạn "[2]. Như vậy, chúng ta thấy người học võ phải lấy việc rèn luyện thân tâm làm tôn chỉ, lấy tự vệ làm đức tín, phản đối việc cậy khỏe đấu đá, cậy mạnh hiếp yếu mà phải "lấy đức dày chở vật" cứu khốn phù nguy. Võ đức còn thể hiện qua cách ôm quyền bái chào trong lúc luyện tập hay diễn quyền. Khi bước vào buổi tập, hay diễn quyền, chúng ta thường bái để biểu lộ sự tôn kính vị khai sáng võ học, còn chào là biểu lộ sự cung kính người Thầy đang trực tiếp hướng dẫn cho chúng ta. Ôm quyền chào còn gọi là mời quyền, là chiêu thế mang tính lễ nghi trong võ thuật, đồng thời, ôm quyền chào biểu hiện sự khiêm tốn, lễ độ, là bộ phận đạo đức trong quyền, là đầu mối tốt đẹp của bài múa và tiêu chí một môn quyền thuật nào đó, có thể phản ảnh được tôn chỉ và bộ mặt tinh thần của môn phái. Người tập võ không chỉ ôm quyền làm lễ mà ý ở chỗ tránh làm đối phương hoài nghi, cũng đồng thời, tránh đối phương có khả năng che giấu cơ hội sát hại bằng tay. Trong võ thuật có nhiều cách chào khác nhau, tùy theo môn phái, quốc gia; môn phái Phật gia thường chào hợp chưởng[3]. Từ năm 1986, người ta chế định ra quy cách chào ôm quyền thống nhất với hàm nghĩa mới mẻ, tay phải nắm thành quyền với ý "lấy võ kết bạn"; tay trái gập ngón cái không tự cao tự đại, chưởng trái che quyền phải với ý quyền do lý tới; bốn ngón chưởng trái xòe sát nhau, ý nói đồng đạo võ lâm bốn biển đoàn kết, cùng lòng mở mang võ thuật. Luyện tập Thiếu Lâm đòi hỏi chúng ta phải kiên trì, phải lập chí cầu học, phải lập tâm khổ luyện. Tục ngữ có nói : "Ngật đắc khổ trung khổ, phương vi nhân thượng nhân" nghĩa là, nuôi được cái khổ nhất trong cái khổ thì mới có thể làm bậc Thượng Nhân được. Nên người học võ Thiếu Lâm phải bền lòng vững chí "Trời nóng không sợ đổ mồ hôi, trời lạnh không sợ cóng tay chân, bệnh vặt không nghỉ, mang bệnh luyện công, gió mưa không ngại, ngày ngày như một, năm năm như một". Võ học Thiếu Lâm, cũng là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nội công và ngoại công. Nội công là chỉ sự tu luyện về khí huyết, nội khí, kinh mạch, tinh thần. Ngoại công là sự rèn luyện cơ bắp, gân cốt, kình lực như : Thiết Sa Chưởng, Thiết Tý Chuyên Và điểm đặc biệt nữa của võ thuật Thiếu Lâm là "Quyền Thiền Nhất Thể". Quyền Thiền Nhất Thể tức là phương pháp kết hợp giữa Thiền và Quyền, phương pháp cụ thể là lấy "tọa thiền công" làm pháp luyện nội công chủ yếu (dùng các hình thức tọa thiền để luyện Tinh Khí Thần); thông qua tập trung tư tưởng (ý thủ đan điền), bài trừ tạp niệm, tiến hành điều tâm, điều tức, điều thân; thông qua Phật học, thanh quy Phật môn, để bồi dưỡng tiết tháo và võ đức; thông qua tu tâm dưỡng tánh, bồi bổ nguyên khí, tu luyện võ đức, đạt đến cảnh giới "quyền thiền hợp nhất". Như thế quyền và thiền có mặt trong nhau, hỗ tương cùng nhau phát triển. Bây giờ, Võ học phát triển, Thiếu Lâm có mặt khắp nơi, không kể Đông Tây Nam Bắc và tùy theo phong thổ mỗi quốc gia mà có những nét đặc sắc riêng. Theo Lịch sử Võ Học Thế Giới chép rằng, các môn phái Nga My, Không Động, Võ Đang xuất phát từ Thiếu lâm tự; Karatedo, Taekwondo, Judo phát xuất từ cương quyền, nhu quyền, nhu thuật của Thiếu Lâm tự; Kiếm đạo của Nhật Bản, võ đạo trên thế giới đều tôn Ngài Bồ Đề Đạt Ma làm thủy tổ. Như vậy, chúng ta thấy, bao nhiêu hoa trái xum xuê vươn lên từ cây đại thọ thiền học hay võ học ở Trung Hoa và Việt Nam đều vươn lên từ Ngài Bồ Đề Đạt Ma, nên chúng ta có thể nói thiền và võ thuật cùng chung gốc và có mối quan hệ rất mật thiết. Và dĩ nhiên, Võ học Thiếu Lâm truyền vào Việt Nam cũng là do các danh tăng Trung Hoa sang truyền đạo, nên thịnh hành trong chùa trước và từ đó phát triển, cải biến phù hợp với người dân Việt. Đó là Việt Võ Đạo (Vovinam) Qua đây, chúng ta thấy những luồng sức mạnh tiết ra từ võ học, len lõi trong tâm khảm của mỗi con người, làm cho đời sống con người cao quý. Tinh thần thượng võ được đề cao, nhất là đời sống được hiển bày, khiến con người đi đến với nhau trong niềm tin chân thật, trong sáng, chắc chắn quốc gia hưng thịnh, dân tộc vinh quang.
  10. Bồ Đề Lão Tổ Là Ai Tổ sư Bồ đề đạt ma Nhiều sử sách đã ghi chép lại cuộc đời của Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma, với những huyền thoại kỳ bí. Xuyên qua những tài liệu: "Cao Tăng Truyện’ của Nam Sơn Đạo Tuyên, "Truyền Đăng Lục" của Thiền Sư Đạo Nguyên, và "Bích Nham Lục" của Phật Quả Viên Ngộ, những huyền thoại về ngài được ghi nhận như: Đạt Ma vượt sóng biển qua Đông Độ, Đạt Ma cởi bè lau qua sông Dương Tử, Đạt Ma xách dép phi hành trên ngọn núi Thống Lãnh, Đạt Ma ngồi thiền ngủ gục, cắt mí mắt, rơi xuống thành cây trà đầu tiên (từ đó xuất hiện Trà Đạo) Tất cả những huyền thoại kỳ bí này nhằm để thi vị hóa sự tôn kính tối cao của người đời, đối với cuộc đời ngang dọc của Bồ Đề Đạt Ma, một nhân vật siêu phàm, xuất chúng về đường tư tưởng và học thuật, một tâm hồn phóng khoáng, siêu thoát, phá chấp và nghịch đời. Ngài đã hiên ngang chủ trương chống lại các triết thuyết theo danh số, giáo điều lúc bấy giờ. Đó là những nét độc đáo của ngài. Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma đã đi vào lịch sử nhân loại trong suốt 15 thế kỷ qua, bằng nhiều nghi án lịch sử quan trọng, bên cạnh những huyền thoại kỳ bí, đã khiến cho một số học giả Đông Tây đặt thành nghi vấn và phủ nhận về nhân vật, cuộc đời của ngài, như các học giả: Phùng Hữu Lan (Trung Hoa), P. Pelliot, Conze, Trái lại, sự hiện hữu của ngài đã được chấp nhận qua nhiều sử sách, đại diện gồm có các học giả: Hồ Thích (Trung Hoa), Praboth Chandra Bagchi (Ấn Độ), Suziki (Nhật Bản), Watts, Hebert, Sasaki, Watanabe, Dumoulin, và các sách "Lịch sử Phật Giáo Trung Quốc", sách "Võ Thuật Tùng Thủ" do tác giả Quảng Từ Lão Ni, tức là Tường Bình Công Chúa con vua Ung Chính đời nhà Thanh. Bồ Đề Lạt Ma tên thật là Bồ Đề Đa La (Bodhi Tara), con thứ ba của vua Chí Vương, thuộc giòng Sát Đế Ly, nước Quốc Hương, Nam Thiên Trúc (vùng cao nguyên Dekkan), thuộc phía nam Ấn Độ. Bồ Đề Lạt Ma là pháp hiệu, được đặt khi bái sư với ngài Bát Nhã Đa La (Prajanatra), một tổ sư Thiền Tông đời thứ 27 của Ấn Độ. Một hôm, Tổ gọi Bồ Đề Lạt Ma đến truyền pháp và dạy rằng: "Sáu mươi năm sau ngày ta viên tịch, đệ tử nên lưu hành sang Đông Độ Trung Hoa truyền đạo, vì môi trường hướng Đông rất thích hợp với Thiền Tông." Tiếp theo đó, Bồ Đề Lạt Ma được sư phụ truyền thụ y bát, để kế thừa nhiệm vụ Tổ Thiền Tông Ấn Độ đời thứ 28. Tại Ấn Độ, Tổ sư Bồ Đề Lạt Ma nhận thấy niềm tin của Phật tử đã bị xáo trộn, vì sự phân hóa của Phật Giáo, gây nên bởi sáu đại môn đồ của ngài Phật Đà Tiên, trở thành sáu tông phái khác nhau, với tư tưởng xa dần nguyên lý Phật giáo như: Hữu Tướng Tông, Vô Tướng Tông, Định Huệ Tông, Giới Hạnh Tông, Vô Đắc Tông, Tịch Tịch Tông. Do đó, ngài đã ra công thuyết phục được sáu vị lãnh đạo sáu tông phái này trở về nguồn chánh pháp đạo Phật. Cũng như, ngãi đã cảm hóa được vua Dị Kiến tỉnh ngộ, vì vua tin vào các tà thuyết xúi dục, ngăn cấm sự bành trướng của Phật giáo Ấn Độ lúc bấy giờ. Để thực hiện lời di huấn của thầy mình, vào năm 517, Tổ sư Bồ Đề Lạt Ma từ giả Ấn Độ, dùng thuyền vượt biển, trong ba năm, đến Quảng Châu, Trung Hoa vào ngày 21 tháng 9 năm 520 (Canh Tý), triều Lương Võ Đế, niên hiệu Phổ Thông thứ bảy. Đến ngày mồng 1 tháng 10 năm 520 (Canh Tý), ngài được vua Lương Võ Đế triệu vào cung Kim Lăng giảng đạo. Sau mười chín ngày thuyết giảng tại triều đình, ngài thất vọng vì căn cơ của nhà vua và các triều thần không thể lãnh hội được những tư tưởng Thiền của ngài trong đề tài Đạt Ma Huyết Mạch Luận gồm có: Phật Tâm, Phật Tánh, và Pháp Thân, ngài tự thán với bài kệ sau: "Nhất tiển tầm thường, lạc nhất điêu, Cánh gia nhất tiển, dĩ tương thiêu. Trực quy thiếu thất, phong tiền tọa, Lương chúa hưu ngôn, cánh khứ chiêu." Dịch nghĩa tạm như sau: "Mỗi mũi tầm thường, lạc chim điêu, Mũi tiếp dồn thêm, đốt cháy tiêu. Trực chỉ Thiếu Lâm, ngồi vách đá, Vua Lương thôi chớ, thỉnh cùng kêu." Sau đó ngài cô đơn từ giã cung Kim Lăng, vượt sông Dương Tử, qua vùng Bắc Giang, nhập cảnh nước Ngụy, đến Lạc Dương, dừng chân tại chùa Thiếu Lâm Tự, thuộc núi Tung Sơn, vào ngày 23 tháng 11 năm 520 (Canh Tý) đời Hậu Ngụy, vua Hiếu Minh Đế, niên hiệu Chánh Quang Nguyên. Tại Thiếu Lâm Tự, ngài ngồi im lặng, mặt hướng về vách đá để tham thiền nhập định. Người đời lúc bấy giờ gọi ngài là Bích Quán Bà La Môn, nghĩa là thầy Bà La Môn ngồi nhìn vách (theo Cao Tăng Truyện). Trong chín năm (9) "Diện Bích Tham Thiền", ngài đã tiếp độ và truyền y bát cho Nhị Tổ Huệ Khả (tức Thần Quang). Sau đó lần lượt được kề thừa đến vị Lục Tổ thứ sáu (6). Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma viên tịch trong lúc ngồi tham thiền nhập định, vào ngày mồng 05 tháng 10 năm 529. Nhục thân được an táng tại chùa Đinh Lâm, núi Hùng Nhĩ, sau đó bài vị được thờ tại chùa Thiếu Lâm Tự (theo sách Bích Nham Lục). Sau đây là bia văn của Lương Võ Đế tưởng niệm ngài: "-Thấy như chẳng thấy. Gặp như chẳng gặp. Đối mặt như chẳng đối mặt. Xưa đâủ Nay đâủ Oán bấy! Hận bấy!" Và bài tán: " – Tâm có chăng? Sát nàng sớm lên diệu giác." Để nhận được hình tướng của ngài, sử có ghi rằng: " Sau khi vua Hiếu Trang (con vua Hiếu Minh Đế, Hậu Ngụy) nghe Tống Vân thuật lại việc gặp mặt tổ, tại núi Thống Lãnh, vua liền chỉ thị Tống Vân, hợp cùng một số đại sư Thiếu Lâm Tự, để diễn tả lại các chi tiết về hình ảnh diện mạo của tổ, cho mười tám (18) nhà danh họa chân dung vẽ lại.
  11. Theo sự diễn tả này, tổ có một thân hình cao lớn vạm vỡ, tướng đi đứng khoan thai lẹ làng. Lần đầu tiên, xuất hiện ở bờ biển Trung Hoa, tổ mặc y phục màu vàng theo lối Ấn Độ. Về sau, tổ hay dùng áo tràng kiểu Trung Hoa, đặc biệt, đầu thường phủ một chiếc khăn để cho sương gió. Râu, tóc, lông ngực, lông tay của tổ mọc tự do, dầy đặc dị thường. Chân trái có đeo chiếc vòng bạc, được gắn với bốn (4) chiếc chuông vàng nhỏ, tạo nên tiếng ngân vang, trong mỗi bước chân. Hai tay luôn đeo chiếc vòng từ ngọc lớn rộng như miệng chén. Mũi của tổ to lớn như chiếc mũi sư tử, miệng hay mím chặt, tạo thành một đường cong, ẩn sau vùng râu rậm. Tổ bị gãy mất hai chiếc răng cửa. Đặc biệt nhất là đôi mắt, đa số người Ấn Độ đều có đôi mắt với tròng nâu hoặc đen, bên trong có hình xoắn ốc, trái lại, mắt tổ có màu xanh lỏ, to và có vẻ sâu thẳm như hư vô, không đáy. Đôi mắt đó thường nhìn trừng trừng như đứng tròng bất động. Nhìn ai giống như có một mãnh lực vô hình, khiến người ta xao xuyến, khiếp sợ. Sau nửa tháng, mười tám (18) bức chân dung đặc biệt về tổ được hoàn thành rất đẹp, trong nhiều tư thế khác nhau như đi, đứng hoặc ngồi. Mỗi họa sĩ tùy theo sở thích và khám phá của mình mà vẽ nên: Tổ vẫn vác chiếc gậy, có treo một chiếc dép, vai mang túi bụi đời, như lần cuối cùng Tống Vân gặp trên núi Thống Lãnh, nhưng chân không đạp lên cành lau, vượt sông Dương Tử, vào một chiều vắng bóng đò ngang độ khách. Có bức vẽ tổ đứng sừng sững, trên hòn đá bên một gốc lão tùng cằn cỗi. Có bức vẽ tổ ngồi nhìn vách đá Trấn Võ Động, theo tích "Cửu Niên Diện Bích Tham Thiền". Có bức vẽ tổ nhìn thẳng trực diện, đôi mắt trợn trừng trừng, nhìn thẳng vào người đối diện, đứng ở góc cạnh nào xem, đều thấy tổ nhìn theo. Có bức hình thấy tổ chìm trong mưa tuyết, đôi mắt nhìn vào hư vô. Mỗi bức chân dung là một tuyệt tác danh họa nhưng Tống Vân cảm thấy thiếu một cài gì, không bao giò vẽ được. Mười tám (18) bức họa như mười tám xác không hồn, bất động, tuy vẽ Bồ Đề Đạt Ma, nhưng không phải Bồ Đề Đạt Ma. Không ai có thể vẽ tổ trên giấy mực Nếu có chăng? Bóng dáng của tổ chỉ thành hình được theo tâm hồn tưởng tượng của mỗi người. Mười tám (18) bức danh họa này được xếp vào kho tàng quốc gia." Sau khi hưởng thọ được tám mươi chín (89) tuổi, ngài viên tịch vào năm 529, và để lại cho hậu thế hai công trình khai sáng: Thiền Tông và Võ Học, tại chùa Thiếu Lâm Tự. Về sau, nhờ vào các vị sư tổ kế thừa, những thiên tài Trung Hoa, đã gia công phát huy đưa Thiền Tông Đạt Ma lên ngôi vị độc đáo, trong các tông phái Phật Giáo Đại Thừa. Cũng như, môn võ học Thiếu Lâm Tự trở nên một quốc kỹ của Trung Hoa, một đại môn phái danh trấn giang hồ, mọi người kính nể, trong suốt mười lăm (15) thế kỷ qua, trên các nước Châu Á. Hiện nay, thiền tông Đạt Ma và võ học Thiếu Lâm Tự đã được nhiều người nghiên cứu và học tập, tại các quốc gia trên thế giới. Nếu muốn nói: - Thiền tông là tâm hồn, võ học là thể xác của Đạt Ma, do đó, sự xuất hiện của hai nền tư tưởng và học thuật này, chính là hiện tượng siêu hóa nghệ thuật thật sự của những con người Đạt Ma, tại Thiếu Lâm Tự. Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma đã thật sự đi vào huyền sử nhân loại, để sống mãi vời sự tôn kính cao cả, trong tâm tưởng của người đời.
  12. Chuyện về Hầu Quyền Trong thập đại hình tượng của Thiếu Lâm: Long, Xà, Hổ, Báo, Hạc, Sư, Tượng, Mã, Hầu, Biêu thì Hầu (khỉ) được xếp ở hàng thứ 9. Ở một số tài liệu cho rằng trật tự này được sắp xếp theo vấn đề dễ thuộc. Nhưng cũng có một số tài liệu khẳng định sự sắp xếp trên chỉ ra một hệ thống từ thấp đến cao. Nếu sự khẳng định ấy là đúng thì Hầu quyền là loại Hình ý quyền dành cho một trình độ nhất định. Chung quanh Hầu quyền cũng có không ít những giả thiết về sự ra đời của nó. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chính Ngô Thừa Ân đã cảm tác nhân vật Tôn Ngộ Không từ Hầu quyền và người xưa lại dùng tích Tôn Ngộ Không để đặt tên cho một số chiêu thức. Nghĩa là Hầu quyền ra đời trước Ngô Thừa Ân hay cụ thể là Tây Du Ký. Trong khi những ý kiến ngược lại cũng dựa trên một số chiêu thức để lập luận rằng Hầu quyền còn "trẻ hơn" Tôn Hành Giả rất nhiều. Dẫu sao, hiện nay trên thế giới Đại Thánh bát quái môn (xuất phát từ Hầu quyền) cũng đã phát triển thành một đại phái và Hồng Kông là nơi đặt tổng đàn của môn phái này. Hầu quyền là một hệ thống quyền thuật mô phỏng đời sống, động tác và chiến thuật của loài khỉ giữa cộng đồng hoặc với các loài thú khác. Lấy các động tác nhảy, nhào lộn, chụp bắt làm sở trường, Hầu quyền đòi hỏi ở người sử dụng sự phối hợp nhịp nhàng của tay chân và thân pháp phải linh động nhẹ nhàng. Đặc biệt, các động tác của Hầu quyền đều phụ thuộc vào tính linh hoạt, nhạy cảm của đôi mắt. Xuất phát từ việc mô phỏng loài khỉ, người luyện Hầu quyền luôn hút môi lại khi thi triển công phu nên phải thở bằng mũi buộc người tập phải luyện thở. Ngoài ra, để uyển chuyển linh hoạt, bay nhảy, buộc người học Hầu quyền phải học cả khinh công và khí công. Tinh tại nhãn Khí tại khứu Thần tại tâm Không phải ai cũng được học loại Kung Fu quái chiêu này. Các quyền sư ngày xưa luôn chọn các đệ tử có vóc người nhỏ nhắn, mảnh khảnh phù hợp với các động tác nhào lộn, nhảy đá gọi chung là Tụy đường công để truyền thụ Hầu quyền. Hầu quyền triệt để áp dụng phương châm dĩ nhu thắng cương. Một số đích tấn công của Hầu quyền là các yếu huyệt như: Thái Dương, Mày Tâm, Tâm Hoa, Khí Môn, Đơn Điền làm cho Hầu quyền trở thành loại quyền thuật ác hiểm nhất nếu người sử dụng có một số vốn nội, khí công nhất định. Bất kỳ một hảo thủ nào khi trúng phải một chiêu Hầu tử thu đào (khỉ hái đào) vào hạ bộ thì nhẹ nhất là bất tỉnh và khả năng mất mạng là gang tấc. Hoặc cũng tương tự như chiêu này nhưng đích đến là mắt hoặc lộ hầu thì cũng khó lường được hậu quả. Một sát chiêu khác là Đại Thánh đổ đơn lò mô phỏng tích Tôn Ngộ Không bé nhỏ, khi đại náo Thiên Cung đã nhảy lên lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân mà lật cái khối nghìn cân ấy xuống. Để sử dụng chiêu này, các cao thủ nhanh như cắt sử dụng khinh công nhảy lên vai, ôm cổ đối thủ bẻ mạnh rồi lộn ngược ra sau. Hầu quyền chân truyền ngày nay rất ít được biết đến. Ngày xưa tại vùng Chợ Lớn có một cao thủ Hầu quyền và là đệ tử của Đại thánh bát quái môn tên là Trần Lâm. Ông ta đã qua đời và có truyền nhân duy nhất hiện 64 tuổi, quái kiệt: Trần Cẩu đang sống tại Nhơn Nghĩa Đường. Những dịp thưởng ngoạn nghệ thuật Lân, Sư, Rồng của Nhơn Nghĩa Đường, người hâm mộ thường được xem Trần Cẩu múa Hầu Quyền. Tất nhiên, để mua vui nên ông đã pha tạp một số động tác của khỉ để làm trò. Điều này đã gây không ít lời đàm tiếu cho rằng đó chỉ là trò khỉ mà thôi. Nhưng đó là múa Lân, là mua vui. Còn một điều không thể không thừa nhận, người đàn ông câm điếc có tên Trần Cẩu ấy có một sở học khá cao thâm về Hầu quyền.
  13. Đạt Ma Dịch Cân Kinh Năm 917 (sau Tây lịch) Đạt Ma Sư Tổ từ Ấn Độ sang Trung Hoa thuyết pháp và truyền giáo, sau ở lại Trung Sơn, Hà Nam xây dựng chùa Thiếu Lâm, đã có nhiều đệ tử nhập môn học Phật để mai sau đi truyền giáo. Ông nhận thấy nay đem một tín ngưỡng đi truyền tụng có khi trái với tín ngưỡng cũ của dân bản xứ, dễ xảy ra xung đột, do vậy các đệ tử của ông vừa lo học lý thuyết Phật pháp vừa phải luyện võ để tự vệ (môn phái Thiếu Lâm xuất hiện và tồn tại đến ngày nay). Nhiều người xin nhập môn nhưng thể lực kém không thể luyện võ được, Tổ sư bèn truyền đạt một phương pháp luyện tập được gọi là Đạt Ma Dịch Cân Kinh để chuyển biến thể lực yếu kém thành mạnh khỏe. Cách tập đơn giản nhưng hiệu quả lớn vì tiêu trừ được các bệnh tật. Ngày nay người ta nghiên cứu là phương pháp này chữa được rất nhiều bệnh, ngay cả bệnh ung thư cũng khỏi và bây giờ người ta áp dụng lý thuyết KHÍ HUYẾT của Ịông y để chứng minh. Sức khỏe con người liên quan chặt chẽ với khí huyết, về kiểu này thì ta thấy rõ ràng. Trong Đông y, cái gọi là huyết thì không thể hạn chế và tách ra từng mặt như máu loãng hay đặc; hồng cầu nhiều hay ít, sắc tố như thế nào mà nghiên cứu, mà dùng cách nhìn nhận toàn diện của quá trình sinh lý và hóa trình tuần hoàn của huyết mà xem xét. Lý luận của Đông y, triết lý vững vàng, mang tính khái quát rất cao, do vậy vấn đề khí huyết tất nhiên không có sự cô lập như lấy một giọt máu không có sức sống hoặc một bầu máu tách rời khỏi cơ thể mà cần phải phân tích đến trạng thái vận động quá trình sinh lý và các mối liên hệ khác. Về khí cũng vậy, hào khí (là khí người hào hiệp, không hề lay động khi đã quyết định). Người xem tướng giỏi là người rành xem khí sắc Thiên vị khí (Prâna) có trong khí trời nếu không được trải rộng ra khắp cơ thể thì sinh bệnh hoạn. Cho nên cái khí của Ịông y không bác bỏ cái khí trong không khí, vì vậy nó mang nội dung có tính khái quát rộng lớn hơn. Ta hít không khí vào phổi, ăn thực phẩm vào dạ dày, ruột hấp thu chất dinh dưỡng, các chất ấy là không khí được đưa đến tế bào của thân thể để có được oxy hóa và sinh ra nhiệt năng đồng thời cũng đưa ra những khí thải và thức ăn thải từ các tế bào trên cơ thể thu hồi và bài tiết ra ngoài. Tuần hoàn tốt phát huy tác dụng tốt của máu thì quá trình sinh lý của cơ thể con người tự nhiên thịnh vượng ra, sinh hoạt sức khỏe con người đương nhiên được bảo đảm. Cho nên trong lý thuyết khí huyết không thể đơn độc chỉ có huyết mà không có khí và ngược lại, trong Đông y cho rằng mâu thuẫn chủ yếu trong cơ thể con người là ÂM DƯƠNG mà đó cũng là khí huyết (Âm là huyết, Dương là khí). Luyện Dịch Cân Kinh là làm cho khí huyết hoạt động điều hòa nên có tác dụng chữa bệnh tốt. Áp dụng Dịch Cân Kinh để chữa bệnh ung thư, người xưa dùng dưỡng tâm, nay kết hợp với luyện Dịch Cân Kinh đã chữa khỏi hẳn bệnh ung thư. Tác dụng của thuốc là rút ngắn thời gian điều trị chứ không có tác dụng chữa bệnh, nói như người xưa là "mạch máu đưa đi." Trong một đơn vị quân đội chẳng hạn, cùng sinh hoạt như nhau, cùng ăn một bữa ăn lại có người đi kiết, đi tả, nhưng có người chẳng sao. Đấy là nhờ mạch mau thông thương đã giúp cho cơ thể thải độc tốt. Vậy luyện Dịch Cân Kinh là chính. Nay ta thử phân tích bệnh ung thư là gì? Người xưa chia bệnh ung thư làm hai loại là Âm Thư và Dương Thư. Do đó đã có câu: "Dương Thư dễ lành, Âm Thư khó trị." Dương Thư thì ai cũng biết là cái nhọt mọc ở ngoài, chín rồi vỡ, có máu mủ, ngòi mủ xanh dán cao là hết. Âm Thư là cái mụt bên trong cơ thể, có khi rắn như đá. Nguyên nhân đều do sự kết tụ của khí huyết làm trở ngại và tắt kinh lạc, do vậy các phế vật trong cơ thể cần thải mà không thải ra được. Vì máu lưu thông chậm nên các chất keo, dịch, gan, các chất khô không đủ nhiệt năng nên công năng của máu giảm sút không thể thải được những chất không cần thiết trong cơ thể ra ngoài. Luyện Dịch Cân Kinh, tay vẫy đúng phép, miệng, dạ dày mở, máu mới sinh ra nhiệt năng đầy đủ, các vật chèn ép làm mất thăng bằng trong cơ thể bị xóa bỏ thì mới khỏi bệnh. Vậy theo Dịch Cân Kinh, cơ hoành lên xuống dễ dàng, ruột, dạ dày, thận tiếp được khí nên gây được tác dụng hưng phấn. Khi chức năng của máu tăng thì giúp được việc tống cựu nghinh tân tốt, khí huyết thăng bằng là khỏi bệnh. Một số người sau đây đã luyện tập Dịch Cân Kinh có hiệu quả: - Cụ Quách Chu, 78 tuổi, phát hiện u ở não và ở phổi. Luyện tập ngày 3 buổi, mỗi buổi 1,800 lần. Tập đều sau ba tháng thì tan khối u, khỏi bệnh. - Ông Trương Công Phát, 43 tuổi, phát giác ung thư máu, luyện tập Dịch Cân Kinh ngày 3 buổi, mỗi buổi 4,800 lần (có dùng dưỡng tâm can), sau ba tháng khỏi bệnh. Đã ba năm nay vẫn khỏe mạnh. - Cụ Từ Mạc Đính, 60 tuổi, ung thư phổi, và bán thân bất toại. Luyện tập sau ba tháng thì hết bán thân bất toại, kiểm tra khối u cũng tan mất. Nguyên nhân bệnh ung thư trên thế giới đang bàn cãi, ngay thuốc dưỡng tâm can cũng không phải là thuốc đặc hiệu chữa trị mà là giúp tim hoạt động tốt để thải chất độc. Vì quá trình sinh lý cơ thể con nguời là một quá trình phát triển, nó mang một nội dung đấu tranh rất phức tạp qua giữa cái sống và sự chết, giữa lành mạnh và bệnh tật, giữa già háp và trẻ dai. Nhưng kết quả cuộc đấu tranh là các nhân tố nội tại quyết định chứ không phải do hoàn cảnh bên ngoài. Vậy cơ thể con người là một chỉnh thể hoạt động. Trong vận động các lục phủ ngũ tạng đều dựa vào nhau tức là tương sinh, ức chế lẫn nhau tức là tương khắc. Nhưng khí huyết có tác dụng đến khắp các lục phủ ngũ tạng, cho nên việc phát sinh bệnh ung thư cũng do khí huyết lưu thông không chu đáo mà ra. Đông y đã xác định là cuộc đấu tranh của cơ thể với bệnh ung tư là một cuộc đấu tranh nội bộ ở cơ thể con người. Từ đó mà xây dựng quan điểm cho
  14. rằng bệnh ung thư là bệnh chữa được. Đương nhiên bệnh tật do sự trì trệ khí huyết mà có lại làm cho hao tổn thêm khí huyết. Vậy, công việc luyện tập cho khí huyết thay đổi là tự chữa được bệnh. Từ đó mà tạo được lòng tin vững chắc của người bệnh đối với việc tự chữa bệnh ung thư, để tập trung tinh thần và ý chí đầy đủ để luyện tập Dịch Cân Kinh, vì phương pháp này thay đổi và tăng cường khí huyết. Nó cũng chữa được bệnh trĩ nội và trị ngoại. Ông Hà Thúc Nguyên bị trĩ nội và chứng đầy bụng, chỉ tập một tháng là khỏi. Luyện tập Dịch Cân Kinh thấy ăn tốt, ngủ ngon là việc phổ biến tốt, đã làm tăng sức khỏe các bệnh nhân nói chung và chữa được nhiều chứng bệnh như: - Suy nhược thần kinh - Cao huyết áp - Bệnh tim các loại - Bán thân bất toại - Bệnh thận - Hen suyễn, lao phổi - Trúng gió méo mồm, lệch mắt. Đông y cho rằng vấn đề cơ bản của bệnh tật là do khí huyết (Âm, Dương) mất thăng bằng mà sinh ra. Luyện Dịch Cân Kinh là giải quyết vấn đề này, nên đối với đa số các loại bệnh, nhất là bệnh mãn tính, đều có thể chữa được cả.(tn) Phương pháp luyện Dịch Cân Kinh Đầu tiên là nói về tư tưởng: - Phải có hào khí, nghĩa là phải có quyết tâm luyện tập cho đến nơi đến chốn, vững vàng, tin tưởng không vì lời bàn ra tán vào mà chán nản bỏ dở. - Phải lạc quan, không lo sợ đang mang bệnh mà mọi người gọi là hiểm nghèo, phải tin tưởng rằng mình sẽ thắng bệnh do việc luyện tập Dịch Cân Kinh. * Tư thế: 1) Lên không, xuống có: Trên phải không, dưới nên có. Đầu treo lơ lửng, miệng không hoạt động, bụng phải mềm, lưng thẳng, thắt lưng mềm dẻo, hai cánh tay phải vẫy, cùi chỏ thẳng và mềm, cổ tay mềm, hai bàn tay ngửa ra phía sau xòe ra như cái quạt. Trong khi vẫy, hậu môn phải thót, gót chân lỏng, hậu môn phải chắc, bàn chân phải cứng, các ngón chân bám chặt như bám trên đất trơn. Đây là những qui định cụ thể của các yêu cầu cơ bản khi tập luyện Dịch Cân Kinh. Dựa theo yêu cầu này, khi tập vẫy tay thì từ cơ hoành trở lên phải giữ cho được trống không, buông lỏng, thảnh thơi, đầu không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào việc luyện tập, xương cổ buông lỏng để có cảm giác như đầu treo lơ lửng, mồm giữ tự nhiên (không mím môi), ngực trên buông lỏng để phổi tự nhiên. Hai cánh tay để tự nhiên giống như hai mái chèo gắn vào vai. Từ cơ hoành trở xuống phải giữ cho chắc đủ sức căng, bụng dưới thót vào, hậu môn nhích lên, mười ngón chân bám sát mặt đất, gót chân để phẳng lên mặt đất, bắp chân trong trạng thái căng thẳng, xương sống thẳng như cây gỗ. Khi vẫy tay nhớ nhẩm câu: "lên có, xuống không." Nghĩa là lấy sức vẫy tay về phía sau (lên), khi tay trả lại phía trước là do quán tính, không dùng sức đưa tay ra phía trước (xuống). 2) Trên ba dưới bảy: Là phần trên để lỏng độ ba phần khí lực, phần dưới lấy gân sức bảy phần khí lực. Vấn đề này quán triệt đầy đủ thì hiệu quả sẽ tốt. 3) Mắt nhìn thẳng: Không nghĩ ngợi gì cả, miệng nhẩm đếm lần vẫy. * Các bước tập cụ thể như sau: a) Đứng hai bàn chân bằng khoảng cách hai vai. b) Hai cánh tay duỗi thẳng theo vai, các ngón tay xòe thẳng, lòng bàn tay quay ra sau. c) Bụng dưới thót lại, lưng thẳng. Bụng trên co lại, cổ để lỏng, đầu và miệng bình thường. d) Các đầu ngón chân bám trên mặt đất, gót sát đất, bắp chân và đùi chân căng thẳng. e) Hai mắt chọn một điểm đằng xa làm mục tiêu để nhìn, không nghĩ ngợi lung tung, luôn chú ý vào các ngón chân đang bám đất. Đùi vế bắp chân cứng. Thót hậu môn thật chặt và nhẩm đếm. i) Dùng sức vẫy hai tay về phía sau, khi trả hai bàn tay lại phía trước, chú ý để nó buông theo quán tính, tuyệt đối không dùng sức. Tuy nhiên chân vẫn lấy gân cứng lên, hậu môn vẫn thót và co lại không lơi lả. g) Vẫy tay từ 200, 300, 400, 500, 600, 700 lần, dần dần tăng lên tới 1,800 lần vẫy, (1,800 ước chừng 30 phút). h) Phải có quyết tâm đều đặn tập trung vào sự luyện tập, không nôn nóng tập nhanh, tập nhiều vì dục tốc bất đạt. Nhưng cũng không tùy tiện bữa tập nhiều, bữa ít hoặc nghỉ tập, vì như vậy sẽ làm mất lòng tin trong luyện tập, khó có hiệu quả. Bắt đầu tập luyện cũng không nên làm tổn thương các ngón chân (sau buổi tập vuốt ve các ngón chân mỗi ngón 9 lần). Nôn nóng muốn khỏi bệnh này mà dùng nhiều sức sẽ không đem lại kết quả. Có quyết tâm nhưng phải từ từ tiến dần mới đúng cách, mới kết quả tốt. Nếu tinh thần không tập trung, tư tưởng phân tán thì khí huyết loạn xạ, và không chú ý đến "trên nặng, dưới nhẹ" là sai hỏng. Khi đã vẫy tay đến 600 lần trở lên thường có trung tiện (đánh rắm), hắt hơi, và hai chân nhức mỏi, toát mồ hôi, mặt nóng bừng chỉ là hiện tượng bình thường đừng lo ngại. Trung tiện và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn xuống cho hợp với vũ trụ là "thiên khinh địa trọng" (trên nhẹ dưới nặng), đấy là qui luật sinh hợp với vũ trụ: Thiên khinh địa trọng. Sở dĩ bệnh gan là do khí huyết tạng gan không tốt gây nên khí bị tích lũy làm cho gan khó bài tiết, do đó ảnh hưởng đến ống mật và cả tì vị. Luyện Dịch Cân Kinh có thể giải quyết được vấn đề này, nếu sớm có trung tiện là hiệu quả tốt. Về bệnh mắt, luyện Dịch Cân Kinh là có thể khỏi chứng đau mắt đỏ với các chứng đau mắt thông thường, cận thị, thậm chí được cả chứng dục thủy tinh thể. Trong nội kinh có nói mắt nhờ huyết mà nhìn được, khi khí huyết không dẫn đến các bộ phận của mắt, do vậy sinh ra các bệnh tật do mắt. Đôi mắt là bộ phận thị giác cũng là bộ phận quan trọng của cơ thể. Những phản ứng khi luyện tập Dịch Cân Kinh Khi luyện tập, cơ thể sẽ có những phản ứng nhưng tất cả đều là hiện tượng thải bệnh, không nên lo nghĩ. Liệt kê 34 phản ứng thông thường và còn nhiều phản ứng không kể hết được: 1) Đau buốt. 2) Tê dại. 3) Lạnh. 4) Nóng. 5) Đầy hơi. 6) Sưng. 7) Ngứa. 8) Ứa nước giải. 9) Ra mồ hôi. 10) Cảm giác như kiến bò. 11) Giật gân, giật thịt.
  15. 12) Đầu khớp xương có tiếng kêu lục cục. 13) Cảm giác máu chảy dồn dập. 14) Lông tóc dựng đứng. 15) Âm nang to lên. 16) Lưng đau. 17) Máy mắt, mi giật. 18) Đầu nặng. 19) Hơi thở nhiều, thở dốc. 20) Nấc. 21) Trung tiện. 22) Gót chân nhức như mưng mủ. 23) Cầu trắng dưới lưỡi. 24) Đau mỏi toàn thân. 25) Da cứng, da dày rụng đi (chai chân). 26) Sắc mặt biến đi. 27) Huyết áp biến đổi. 28) Đại tiện ra máu. 29) Tiểu tiện nhiều. 30) Nôn, mửa, ho. 31) Bệnh từ trong da thịt bài tiết ra. 32) Trên đỉnh đầu mọc mụt. 33) Ngứa từng chỗ hay toàn thân. 34) Chảy máu cam. Các phản ứng trên đây là do trọc khí bài tiết ra ngoài cơ thể, loại trừ các thứ ứ đọng gọi là bệnh tật. Khi có sự phản ứng là có sự xung đột giữa chánh khí và tà khí, nếu ta vẫn tập luyện sẽ sản sinh các chất bồi bổ có lợi cho chánh khí. Ta tập đúng cách và làm tăng sức đề kháng, nó đẩy cặn bã trong cơ, gan, thần kinh và các tế bào khác mà mạch máu lưu thông bình thường không thải nổi. Nhờ luyện tập Dịch Cân Kinh mà khí huyết lưu thông mới đưa nổi cặn bã ra ngoài nên sinh ra phản ứng. Vậy không nên lo sợ, cứ tiếp tục luyện tập như thường. Có một phản ứng hiển nhiên là khỏi một căn bệnh, cứ tập luyện đều đặn sẽ đạt hiệu quả tốt. Luyện Dịch Cân Kinh đạt được 4 tiêu chuẩn sau: - Nội trung: Tức là nâng cao can khí lên, then chốt là điều chỉnh tạng phủ. Lưu thông khí huyết. Thông khí sẽ thông suốt lên đến đỉnh đầu. - Tứ trưởng tố: Tức là tứ chi phối hợp với các động tác theo đúng nguyên tắc theo luyện tập. Tứ trung tế song song với nội trung sẽ làm cho tà khí bài tiết ra ngoài, trung khí dồn xuống, cơ năng sinh sản ngày càng mạnh. - Ngũ tam phát: Nghĩa là 5 trung tâm của nhiệt dưới đây hoạt động mạnh hơn lúc bình thường. Đó là Bách hội: một huyện trên đỉnh đầu, Gio cung: huyệt ở hai bàn tay, Dũng tuyền: huyệt ở hai gan bàn chân. Khi luyện tập, 5 huyệt này đều có phản ứng và hoàn toàn thông suốt Nhâm dốc và 12 kinh mạch đều đạt tới hiệu quả, nó làm tăng cường thân thể, tiêu trừ các bệnh nan y mà ta không ngờ. - Lục phủ minh: Đó là ruột non, ruột già, mắt, dạ dày, bong bóng, tam tiêu sẽ thông suốt, nghĩa là không trì trệ. Lục phủ có nhiệm vụ thâu nạp thức ăn, tiêu hóa, bài tiết được thuận lợi nếu không bị trì trệ, ứ đọng, cơ năng sinh sản có sức tiếp, giữ vững trạng thái bình thường của cơ thể tức là Âm Dương thăng bằng, cơ thể thịnh vượng. Một số điều cần chú ý khi luyện tập 1) Số lần vẫy tay không dưới 800 lần. Từ 800 lần lên dần 1,800 lần (khoảng 30 phút) mới tới ngưỡng cửa của điều trị. Người bệnh nặng có thể ngồi mà vẫy tay, tuy nhiên phải nhớ thót hậu môn và bấm mười đầu ngón chân. 2) Số buổi tập: - Sáng thành tâm tập mạnh - Trưa trước khi ăn tập vừa - Tối trước khi ngủ tập nhẹ. 3) Có thể tập nhiều tùy theo bệnh trạng. Có bệnh nhân lên số vẫy tay tới 5, 6 ngàn lần trong mỗi buổi tập. Nếu sau khi tập thấy ăn ngon ngủ tốt, tiểu và đại tiện thấy điều hòa, tinh thần tỉnh táo, thì chứng tỏ số lần vẫy tay khi luyện tập là thích hợp. 4) Tốc độ vẫy tay. Theo nguyên tắc thì nên chậm. Bình thường thì vẫy 1,800 lần hết 30 phút. Vẫy lúc sau hơi nhanh hơn lúc đầu một chút, khi đã thuần thì vẫy hẹp vòng. Bệnh nhẹ thì nên vẫy nhanh và dùng sức nhiều hơn. Bệnh nặng thì nên vẫy hẹp vòng và chậm, bớt dùng sức. Vẫy tay nhanh quá làm cho tim đập nhanh mau mệt, mà chậm quá thì không đạt tới mục đích. Vì luyện tập là cần có mạch máu lưu thông. 5) Khi vẫy tay dùng sức nhiều hay ít (nặng hay nhẹ): Vẫy tay là môn thể dục chữa bệnh chứ không phải môn thể thao khích biệt. Đây là môn thể dục mềm dẻo, đặc điểm của nó là dụng ý không dùng sức, nhưng nếu vẫy tay nhẹ quá cũng không tốt, bởi vì bắp vai không lắc mạnh thì lưng và ngực không chuyển động nhiều, tác dụng sẽ giảm đi. Vẫy tay không chỉ có chuyển động cánh tay mà chính yếu là chuyển động hai bắp vai. Bệnh phong thấp thì nên dùng sức ở mức nặng một chút. Bệnh huyết áp thì dùng sức ở mức nhẹ và vẫy tay chậm. Nói tóm lại, phần lớn tự mình nắm vững tình trạng, phân tích các triệu chứng sau khi nghe sự nhận xét của mọi người, tự mình cảm nhận sự biến chuyển trong cơ thể: nhanh nhẹn, hồng hào, tươi tỉnh hay là xấu hơn trước. Tự mình suy nghĩ rồi quyết định cách tập trên nguyên tắc là tập thế nào cho cảm thấy thoải mái, dễ chịu là đúng và tốt nhất. Đông y cho rằng động tác nhẹ là bổ ích (ích lợi cho cơ thể), động tác mạnh là loại bỏ các chất cặn bã có hại cho cơ thể (tức bệnh tật). Lý luận này đang được nghiên cứu. 6) Khi vẫy tay về phía sau dùng sức 7 phần, khi trả tay về phía trước thuộc về quán tính còn chừng 5 phần. 7) Đếm số lần vẫy tay: Đếm không phải để nhớ mà có tác dụng làm cho đầu óc bình tĩnh, có tác dụng tốt cho não được căng thẳng và không nghĩ ngợi lung tung. Chân Âm được bồi dưỡng. 8) Hoàn cảnh khi luyện tập (nơi chốn): Không có khác biệt, ở nơi đâu cũng tập được, dĩ nhiên nơi nào có không khí trong lành và yên tĩnh vẫn tốt hơn. 9) Trước và sau khi tập: Trước khi tập đứng bình tĩnh cho tim được thoải mái, đầu óc được yên tĩnh để chuyển hóa về sinh lý và tâm lý. Ta có thể làm những động tác nhẹ nhàng thoải mái như trong môn khí công. Sau khi tập cũng phải bình tĩnh vê 10 đầu ngón tay và 10 đầu ngón chân đủ 9 lần. Người không đủ bình tĩnh nên cần chú ý đến điểm này. 10) Luyện tập Dịch Cân Kinh đúng phép: Sau khi tập thấy ngứa và bụng nhẹ nhàng, hơi thể điều hòa, mắt sáng, nước giải ứa ra nhiều, đại tiện dễ dàng, ăn ngon ngủ tốt, tinh thần tỉnh táo, bệnh tật bớt dần, thì đó là đã luyện tập Dịch Cân Kinh đúng phép. Sau khi tập đại đa số thấy có phản ứng nhưng về hiệu quả thì rất khác nhau. Nguyên nhân chính là khi tập, tư thế có thích hợp với người tập hay không. 11) Khi tập cần chú ý đến các điểm sau đây: - Nửa thân trên buông lỏng (thượng hư) - Nửa thân dưới giữ chắc, căng mạnh (hạ thực) - Khi tay trả lại phía trước không dùng sức (nhẹ)
  16. - Tay vẫy về phía sau dùng sức (nặng, mạnh) - Mỗi lần tập tăng dần số lần vẫy tay - Tập ngày 3 buổi kiên quyết tự chữa bệnh cho mình 12) Sự liên quan giữa tinh thần và hiệu quả khi tập luyện: Hết lòng tin tưởng, kiên quyết tới cùng. Tập đủ số lần nhất định, tập thường xuyên thì hiệu quả rất tốt. Nếu khi tập khi nghỉ, không đủ số lần tập nhất định, trong lòng còn nghi hoặc, bị động theo dư luận, thấy phản ứng lo sợ vội bỏ tập thì nhất định không hết quả. 13) Vẫy tay có sinh ra bệnh gì không? Có thể sinh bệnh do tư thế không đúng và làm sai nguyên tắc. Nhưng trong trường hợp này cũng hạn hữu không tới 1%. 14) Khi tập phải tránh đứng đầu ngọn gió cả mùa hè lẫn mùa đông. Tóm lại cần lưu tâm vào những điều sau: - Khi tập luôn luôn bám chặt các ngón chân vào mặt đất. - Thót hoặc co hậu môn thật mạnh để giữ thế "thượng thư hạ thực." - Vẫy tay từ ít tới nhiều và phải đạt 1,800 lần mới có hiệu quả. - Khi gặp phản ứng đừng ngại, đó là diễn biến tốt, cứ tập số lần như cũ. Khi hết phản ứng hãy tăng số lần vẫy tay lên. - Giữ vững lòng tin, kiên trì quyết tâm tin tưởng, tập luyện tới cùng, chắc chắn sẽ đẩy lùi các bệnh tật ta đang mắc phải. - Luyện tập Dịch Cân Kinh không chỉ chữa khỏi bệnh mà còn là một phương pháp phòng bệnh rất hữu hiệu.
  17. Khảo sát về Ngũ hành quyền của Thiếu Lâm I-Nguồn gốc, lý thuyết: Đo phát xuất từ Trung Hoa, những phái võ này được xây dựng trên căn bản triết học phương Đông Theo đó, Thái cực là nguồn gốc chính phát sinh ra vạn vật Thái cực sinh lưỡng nghi tức nhị khí âm dương. Lưỡng nghi sinh tứ tượng tức bốn mùa hay bốn phương chính Tứ tượng sinh bát quái tức tám hướng hay tám hiện tượng chính trong thiên nhiên. Đó là nói về vũ trụ, thiên nhiên. Còn vạn vật được cấu tạo bởi năm thành phần chính là : "ngũ hành" kim (kim loại), mộc (gỗ, thảo mộc), thủy (nước), hỏa (lửa), thổ (đất). Mỗi năm được ghép bởi một thiên can (giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quý) và một địa chi (tý, sửu, dần, mẹo, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi) mà ngôn ngữ dân gian thường gọi là mười hai con giáp. Sự kết hợp giữa can, chi ứng vào năm sinh của mỗi người sẽ quyết định người đó thuộc mạng gì: thủy. hoả, kim, mộc hay thổ? Người thầy tùy theo mạng của đệ tử mà quyết định một, hai hay ba lối tập luyện thích hợp. Có năm lối tập luyện theo lý thuyết ngũ hành dựa theo mạng số người theo học là : Kim quyền, Mộc quyền, Thổ quyền, Thủy quyền, và Hỏa quyền. Ngũ hành có sự tương sinh (hợp) và tương khắc (kỵ) như sau : -Thuỷ sinh mộc, khắc, thổ, hỏa. Nước làm cho thảo mộc tươi tốt nhưng làm cho đất bị úng lụt, dập tắt lửa. -Mộc sinh thổ, khắc hỏa, kim. Cây cỏ cho đất đai mầu mỡ nhưng bị thiêu cháy bởi lửa và chặt đứt bởi kim loại. -Thổ sinh hỏa, khắc kim, thủy. Đất sinh lửa (những xác thực, động vật chôn vùi lâu ngày dưới đất biến thành khí cháy) nhưng bị úng lụt bởi nước và cày xới bởi kim loại. Thổ là một hành trung dung giữa bốn hành kia nên phần tương sinh nhiều hơn là tương khắc. -Hỏa sinh kim, khắc mộc, thủy. Lửa trui rèn kim loại. nhưng đốt cháy thảo mộc và bị nước dập tắt. -Kim sinh thủy, khắc thổ, mộc. Kim loại khơi nguồn nước, cắt đứt cây cỏ, cày xới đất Sự tương sanh, tương khắc của Ngũ hành đã được áp dụng vào võ thuật. Một môn sinh được truyền dạy môn hành quyền của mạng và hai hành quyền tương sinh Ví dụ người mạng Hỏa sẽ được dạy Hỏa quyền và hai môn tương sanh với Hỏa là Kim quyền và Thổ quyền. Học như vậy dễ đạt được kết quả mau chóng hơn là tập luyện võ thuật mà không lưu tâm gì đến lý thuyết Ngũ hành. Một người mạng Hỏa mà học Thủy quyền sẽ khó mong thành tựu. Đôi khi do sự tương khắc của mạng và hành của môn võ còn đem đến những hậu quả xấu tai hại cho người học như rối loạn luồng khí, tẩu hỏa nhập ma. II- Những cách tập luyện Ngũ hành quyển có năm cách tập luyện khác nhau. Mỗi cách gồm năm phần: 1 / Tấn pháp 2/ Đòn thế 3/ Nội, ngoại công 4/ Sự tập trung tinh thần hay suy tưởng thiền định 5/ Quyền pháp Việc luyện tập tấn pháp và đòn thế cũng giống như những môn phái khác gồm Thập nhị lập tấn (12) và Thất thập nhị (72) hay Thập linh bát (108) huyền công. Riêng ba phần sau có sự khác biệt rõ rệt trong cách luyện tập của mỗi môn hành quyền: Hỏa Quyền Giờ tập luyện (áp dụng chung cho cả Mộc quyền. Kim quyền.) 3 đến 5 giờ sáng tức giờ Dần, khí vận chuyển ở Kinh Thái âm Phế từ ngực ra hai tay 3 đến 5 giờ chiều tức giờ Thân, khí vận chuyển ở Kinh túc Thái dương bàng quang từ sống lưng ra hai chân. Đây là hai thời khắc khí âm dương vượng nhất trong ngày (Thái âm - Thái dương). Luyện công vào các giờ này sẽ hấp thu được vượng khí âm dương của thiên nhiên, tăng cường sự lưu thông của khí ra tay chân khiến nội lực ngày càng mạnh. Chú ý cần nắm vững qui luật và đường vận hành của khí. Địa điểm ngời trời, khí lạnh môn sinh phải tập luyện làm sao cho thân thể như một lò lửa nóng, đẫm mồ hôi trong khi trời lạnh Các giai đoạn tập luyện : Mở đầu, môn sinh tọa thiền tập trung tư tưởng, lửa có màu đỏ nên người tập có thể dùng một ngọn đèn đỏ đặt trước mắt để tập trung tư tưởng làm sao cho màu đỏ ngập tràn trong đầu óc, sau đó dùng ý tưởng tượng có một đốm lửa nhỏ cháy rực ở đan điển (huyệt dưới rún nơi tập trung Tinh) chuyển lên Đản trung (huyệt ở chấn thủy nơi tụ hội Khí) lên Hà đạo thanh (huyệt giữa hai chân mày nơi tụ Thần). Khi ba nơi này đã nóng lên, môn sinh dùng ý hợp nhất chúng lại (hợp nhất Tinh - Khí - Thần) Kế đó tưởng tượng đốm lửa hợp nhất này cháy thành một dây lửa suốt các đường kinh mạch (vòng Đại chu thiên) và lên xuống hai mạch Nhâm Đốc (vòng Tiểu chu thiên) như có một con rồng lửa bay suốt khắp trong cơ thể. Công phu này là một đặc dị cổ bí truyền có tên Hỏa long công Sau khi khai thông huyệt mạch bằng luồng hỏa khí, môn sinh xả thiển, bắt đầu tập các kỹ thuật đòn thế và các bài quyền của Hỏa quyền. Đặc điểm của các đòn thế và bải quyền này là nhanh, mạnh, dứt khoát hàm chứa một ít nóng nảy. Môn ngoại công nổi tiếng của Hỏa quyền là Thiết hỏa sa chưởng. Môn sinh thọc hai tay xuống một chảo cát đang rang nóng trên lửa, thời gian sau xuống một chảo đá sỏi rồi một chảo vụn sắt, cuối cùng là một một chảo chì nóng chảy. Môn sinh luyện thành công Thiết hỏa sa chưởng có thể "gửi tặng" cho địch thủ những đòn "hỏa công" hay "thiết thủ" có khi làm chín cả một vùng da thịt bị dính đòn! Môn sinh Hỏa quyền thường là những người nhiệt thành, cương quyết có phần hơi nóng nảy. Khi họ đã dự định làm một việc gì, nhiệt tình của họ như lửa một hỏa diệm sơn luôn âm ỉ, ngùn ngụt chỉ chờ cơ hội bốc lên. Trong chiến đấu, môn sinh có gương mặt giận dữ, đôi mắt nảy lửa như muốn thiêu cháy đối phương, đòn tung ra nhanh mạnh nóng nảy muốn nhanh chóng kết thúc giao đấu, mỗi đòn tung ra như lửa của một mũi hàn điện gây ra những vết thương xuyên thấu nóng bỏng đau đớn cho đối thủ. Trước khi kết thúc mỗi cữ tập cũng là một sự tọa thiền, nhưng thay vì tập trung thì là thư giãn, hồi phục. Dùng ý đưa luồng hỏa khí đến những nơi bị dính đòn, bị thương đau để luồng hỏa khí xoa nắn bên trong chỗ bị đau. Sau đó tưởng tượng toàn bộ cơ thể tinh thần minh giãn ra, luồng hoả khí nguôi dần, lịm tắt, chìm dần vào từng thớ thịt để sẵn sàng bùng lên lần nũa khi vận dụng Mộc quyền Địa điểm: trong rừng hay vườn cây hoặc nơi có cây cối cao bao quanh Các giai đoạn: Mở đầu môn sinh cũng tọa thiền tập trung tư tưởng. Màu của mộc là màu lục, môn sinh nhắm mắt tưởng tượng như mình đang hấp thu cái thần của cỏ cây. Khi đã bi xâm chiếm hoàn toàn bởi màu lục của thảo mộc, môn sinh tự nghĩ mình là một cây cổ thụ vô cùng vững chắc, cứng rắn, tập trung ý lực vào ba điểm Đan điền, Đản trung, Hà đạo thanh. Khi ba điểm này đã nóng lên. môn sinh dùng ý hợp nhất Tinh- Khí- Thần đưa vào các đường kinh như có một luồng nhựa cây màu xanh lá (diệp khí) luân lưu khắp hai vòng Đại và Tiểu chu thiên. Sau khi khai thông các huyệt đạo bằng luồng diệp khí môn sinh bắt đầu tập đòn thế bài quyền. Đặc tính của Mộc quyền là chân đứng tấn ngắn, ít di chuyển hầu như đúng yên một chỗ giống như rễ một cái cây đã cắm sâu xuống đất, thân trên và đôi tay xoay trở đủ hướng, vờn lên xuống , chống đỡ và tấn công giống như những cành lá, cánh hoa vờn trước gió. Thầy, các bạn đồng môn dùng cây tròn lăn trên tay, chân môn sinh. Sau đó đập nhẹ và mạnh dần lên tay, chân, lưng, ngực, bụng giúp môn sinh luyện nội, ngoại đả công. Môn sinh cũng tập đấm, đá, chặt, xỉa vào cây cứng để luyện sức công phá của tay chân. Khi đã đạt trình độ cao, môn sinh vừa múa các bài mộc quyền vừa chịu đựng các đòn đấm đá của các bạn đồng môn mà không được né tránh . Luyện thành công mộc quyền sẽ có thân hình cứng rắn như gỗ mộc, một dáng dấp vững chắc trong khi đôi tay vô cùng nhanh nhẹn với những cú xỉa cây, những ngón tay trảo có thể bóc trần cả vỏ cây. Môn sinh
  18. Mộc quyền thường là những người mềm mỏng, khéo léo nhưng có tinh thần rất vững chãi. Họ thường đạt đến thành công bằng sự kiên trì bền bỉ. Trong chiến đấu môn sinh trụ một chỗ vô hiệu hóa những đòn tấn công của đối phương bằng đôi tay vờn linh hoạt làm hoa mắt đối phương để rồi bất thình lình tung một đòn sấm sét có sức mạnh của một cành cây cong mềm dẻo bật ra đập vào đối thủ. Cuối cữ tập cũng là một sự tọa thiền hồi phục thư giãn với sự xoa bóp nội tạng bằng luồng "diệp khí" sau đó thả lỏng toàn thân như một thân cây cổ thụ đang say ngủ trong một đêm trăng lặng gió. Thủy quyền: Địa điểm : nơi có nước như dưới thác, bờ biển, ven sông bờ hồ. Các giai đoạn : Mở đầu, môn sinh ngồi tọa thiền tập trung tư tưởng dưới một cái thác hay ngâm mình dưới biển, sông, hồ (mực nước lên tới ngực). Dụng ý nghĩ rằng đang hấp thu hoàn toàn "cái thần của thủy". Dụng ý tập trung khí lực Đan điền, Đản trung, Hà đạo thanh sau đó hợp nhất Tinh- Khí- Thần. Tưởng tượng khí trong người là một làn sóng nước có màu xanh biển luân lưu khắp hai vòng Đại và Tiểu chu thiên khai thông tất cả các huyệt đạo. Kế đó tập các đòn thế dưới nước để mượn sức ép của nước làm gia tăng nội lực. Cách mượn sức nước để luyện công được gọi là thủy công. Các đòn thế của thủy quyền thường đa dạng, linh hoạt biến hóa lúc thì chậm rãi từ tốn, lúc lại nhanh thần tốc, lúc hung bạo vây lấy đối thủ. Những đòn phóng ra xoay tròn, những đòn quét được dùng sau những đòn nhử giống như là môn sinh đang đùa giỡn. Trong bài quyền sự di chuyển dáng điệu cử chỉ của môn sinh phải làm cho đối thủ chưng hửng, ngạc nhiên. Môn sinh hụp thấp người, xoay đủ hướng, lăn tròn dưới đất nhảy lên không thậm chí chui qua háng đối phương. Trong khi môn sinh múa quyền, một hay nhiều đồng môn quấy nhiễu và cùng lúc tung đòn vào người môn sinh không được né tránh mà phải nhận lấy những đòn này như một giòng nước thu hút lấy khí lực của đòn đánh, người tập phải nghĩ mình là một khối nước cuộn chảy, có thể chia ra ở đây ở kia để rồi hợp tụ trở lại để khi đến kỳ thủy triều dâng sẽ nhận chìm đối phương dưới một loạt đòn. Môn sinh Thủy quyền thường bình tâm, thư thái, khéo xoay sở. Trong chiến đấu, họ linh hoạt tung ra đòn thế liên tục biến hóa vây bọc nhận chìm đối thủ. Sự tọa thiền hồi phục thư giãn được thực hiện với màu xanh. Môn sinh dùng ý dẫn luồng "thủy khí" luân lưu để chà xát khắp bên trong cơ thể và những chỗ bị dính đòn đau. Cuối cùng là sự thư giãn, buông thả hoàn toàn tĩnh lặng như mặt nước hồ thu không gợn sóng. Thổ quyền Địa điểm : nơi cỏ đất nhưng trên một tấm phản hay những cái cọc (mai hoa thung) cách mặt đất một thước rưỡi. Các giai đoạn : môn sinh cũng ngồi tọa thiền tập trung tư tưởng hấp thụ "cái thần của đất". Dùng ý tập trung khí lực ở Đan điền, Đản trung, Hà đạo thanh. Hợp nhất Tinh- Khí- Thần. Dùng ý dẫn khí luân lưu tưởng tượng như có một mạch đất ngầm chảy xuyên suốt hai vòng Đại và Tiểu chu thiên. Kế đó tập luyện những đòn thế, bài quyền của Thổ quyển. Đặc tính của Thổ quyển là chậm nhưng chắc, tư thế oai nghi sừng sững như một trái núi, đòn thế tiếp nối nhau như một dãy đất sụp lò cuốn trôi, chôn vùi đối phương. Môn sinh luyện nội, ngoại đả công bằng cách treo nhiều bao đất chung quanh, múa quyền đấm đá vào các bao cát đất đồng thời chịu những cú đập của các bao đất do lực phản hồi của các dây treo. Môn sinh Thổ quyển là người trầm lặng, kín đáo, trong chiến đấu thường điểm tĩnh, tự tin, chậm chạp nhưng chắc chắn, khéo léo tránh né chống đỡ những đòn tấn công để rồi như đất sụp lở dưới chân chôn vùi đối thủ bằng một chuỗi đòn liên hoàn tới tấp . Sự tọa thiền hồi phục được thực hiện với màu nâu và luồng thổ khí. Kim quyền Đia điểm : Trên đất, đá sỏi Các giai đoạn: Môn sinh ngồi tọa thiền tập trung tư tưởng để thu hút cái thần của kim loại "từ những cái mỏ nằm sâu dưới lòng đất". Dùng ý tập trung khí lực, hợp nhứt Tinh- Khí- Thần. Dùng ý để khí luân lưu tưởng tượng như có một dòng phân tử kim loại chảy suốt hai vòng Đại và Tiểu chu thiên. Kế dó tập những đòn thế và bài quyền. Đặc tính của Kim quyền là nhanh, mạnh, dứt khoát, tàn bạo. Thầy và các bạn đồng môn dùng những thanh sầt tròn lăn trên, chân, sau dó đánh nhẹ và mạnh dần lên tay, chân, lưng, ngực, bụng trong khi môn sinh vận công gồng cứng cơ thể. Môn sinh cũng luyện Thiết hỏa sa chưởng như nói ở phần trên. Luyện thành công Kim quyền sẽ có một thân thể cứng như sắt thép. Những đòn tấn công đánh vào người môn sinh Kim quyền sẽ bị dội ngược về với một sức mạnh khủng khiếp. Nhưng do bản chất của kim loại là lạnh lùng, cứng rắn nên môn sinh cũng có thể bị ảnh hưởng trở nên vô tình, độc ác. Vì vậy, các võ sư rất hạn chế truyền dạy Kim quyền và cũng ít có môn sinh nào muốn trở thành một "kim nhân" thật sự. Môn sinh kim quyền thường cô độc chìm đắm trong những ý nghĩ của chính mình. Trong chiến dấu, môn sinh kim quyển đỡ và đánh không suy nghĩ, không nhìn những đối thủ, tự xem mình là một cỗ máy đánh nhau tiến lên không ngừng và nghiền nát đối phương. Sự tọa thiền thư giãn cuối cữ tập được thực hiện với màu vàng trong tâm tưởng, môn sinh thực hiện sự chà xát bên trong và xoa dịu những chỗ đau bằng luồng "kim khí" sau đó là sự buông thả hoàn toàn, mềm nhũn toàn thân để loại bỏ những tác hại xấu còn sót lại trong thân thể và tâm hồn của lối tập luyện sắt thép vô tri. Môn sinh trở lại là một con người với tất cả tâm hồn, tình cảm yêu, thương, giận, ghét
  19. Kình và lực khác nhau ra sao? Phát kình hoặc phát lực là điều mà người học võ nào cũng thường được nghe. Nhưng phân biệt thế nào là kình, thế nào là lực thì không phải ai cũng làm được dễ dàng , đó là chưa kể nhiều người sẽ không phân biệt nổi. Quan niệm truyền thống Thiếu lâm coi Kình và Lực là 2 dạng sức mạnh khác nhau với các điểm dị biệt như sau: Lực là hữu hình, khởi từ xương, truyền qua sống lưng vào vai mà phát ra. Kình là vô hình, khởi từ gân, truyền qua tứ chi mà phát ra. Lại có một phân biệt khác cho rằng Lực vốn sẵn có và hiển lộ nên mang tính trực và hư , vì vậy mới gọi Chân lực là Trực lực hoặc Hư lực . Riêng Kình là một dạng Lực thông qua rèn luyện mà đạt tới nên ẩn tàng, mang tính Hoành và Thực. ; Vì vậy , Kình còn gọi là Hoành lực hoặc Thực lực. Cần lưu ý về nghĩa các tiếng dùng ở đây. Hư, Thực không thể hiểu theo cách thông thường là Có, Không mà cần hiểu theo đặc tính gồm chứa ở trong. Hư lực là sức mạnh hiển lộ nên có tính Cương, còn Thực lực là sức mạnh ẩn tàng nên có tính Nhu . Vì vậy , mới nói Lực hữu hình , Kình vô hình, Lực tản mạn, Kình hội tụ, Lực trì trệ, Kình thông bén. Những cách diễn tả này chỉ nhằm cho thấy Lực không thể phát hết do bị cản ở lưng và vai cuối cùng ở chính mục tiêu va chạm. ngược lại, Kình dễ dàng thông suốt qua tay chân khi phát qua mục tiêu khi va chạm. Tuy vậy, cần nhớ là Kình cũng phân thành Cương Kình và Nhu Kình. Quan niệm truyền thống Thiếu lâm hình dung Cương kình như một mũi dao nhọn còn Nhu kình như một làn gió thoảng. Mũi dao có thể bị ngăn lại do một lẽ nào đó nhưng ngọn gió sẽ thổi qua tất cả.
  20. Nghiệp Lân-Sư-Rồng Nghề múa Lân - Sư - Rồng (LSR), thường tập luyện cả năm nhưng chỉ biểu diễn vài ba ngày lễ tết, hay những dịp các cơ quan, đơn vị khai trương Khi đã theo nghề này, nhiều người gọi đó là cái nghiệp. Từ niềm đam mê khi nghe tiếng trống rộn rã của những đoàn lân, nhiều người đã dấn thân theo nghề "ghiền không bỏ được". Trước, cả TPHCM chỉ có một vài đoàn LSR hoạt động, mừng lễ tết, khai trương Nhưng vài năm trở lại đây, số lượng các đoàn tăng lên ngày một nhiều hơn và có mặt ở khắp các quận huyện trên địa bàn thành phố với trên dưới 50 đoàn LSR lớn nhỏ. Chẳng hạn như Đoàn Vạn Chài (quận 4), Phù Đổng, Quốc Hào (quận 6), Tinh Võ (quận 8), Đoàn Anh Đường (quận 3), Tâm Hoa 2 (Bình Tân), Phước Hưng Đường (Gò Vấp), Hằng Anh Đường, Toàn Thắng (quận 11) Riêng quận 5 có đến 15 đoàn khác nhau và được xem là trung tâm của lực lượng LSR thành phố. Mỗi đoàn có từ vài chục người đến cả trăm người, già trẻ - bé lớn có đủ. Sức hút của tiếng "tùng thình", "chập chã" Khi đến với nghề múa LSR, điều bắt buộc đầu tiên mỗi người đều phải học, luyện võ thuật để có thể nhảy múa, thực hiện những động tác trèo múa trên cây cao, múa trên mai hoa thung (trên các trụ sắt cao 2, 2 – 3 mét) Lứa tuổi bắt đầu đến với nghề múa LSR thường là 8, 9 tuổi. Và thường các em này rất gan dạ, chịu khó tập luyện, có năng khiếu. Trong quá trình thực hiện, con lân thể hiện khá nhiều động tác hỷ, nộ, ái, ố với những tư thế nhảy, vồ, cắn nuốt, thở, lăn vòng, vặn mình, ngồi, nằm, đứng, tiến, lùi cảnh giác, dò xét ". Cho nên, các đoàn "cạnh tranh" nhau cũng rất khốc liệt, tồn tại hay không tồn tại dựa vào tên tuổi, lịch sử truyền thống của đoàn và đặc biệt là lực lượng diễn viên, càng nhỏ tuổi mà diễn hay thì khán giả càng khoái. Chính vì thế các đoàn luôn tuyển mộ các thành viên nhí để đào tạo, thường là dạy miễn phí. Khi các em diễn được, tham gia các suất diễn sẽ được trả cát sê 20.000 đồng – 30.000 đồng/suất và mấy ngày Tết cát sê được từ 50.000 – 60.000 đồng/suất/người. Ngoài ra còn có tiền thưởng, lì xì của các gia chủ, nơi đoàn đến diễn. Tuy nhiên thành viên của hầu hết những đoàn LSR đến với nghề này không phải bởi cát sê mà chủ yếu ham vui, mê tiếng trống "tùng thình, tùng thình, tùng thình " và tiếng "chập chã". Khi đã vào nghề thì múa LSR gần như đã trở thành cái nghiệp không thể rời xa. Các thành viên đoàn LSR hầu hết đều bận rộn, ngày đi học văn hóa, học nghề, bán vé số thế nhưng tối nào cũng tranh thủ chạy đi tập múa LSR. Có em tuổi đời mới 18, 19 nhưng đã gắn bó 7, 8 năm, 10 năm với nghề. Em Châu Chí Thành, thành viên Đoàn LSR Tâm Hoa Đường thường xuyên tập luyện tại Công viên Văn Lang cho biết: "Nghề này tập luyện bị té sưng đít, ê mông, trặc tay, trầy sước mình mẩy là chuyện thường ngày Mặc dù tập luyện rất vất vả nhưng khi đã vào nghề rồi, không ai muốn nghỉ, thậm chí có lúc diễn không cát sê cũng đi. Chỉ cần nghe tiếng trống, tiếng chập chã đánh liên hồi là tự dưng cảm thấy nao nao trong lòng ". Các thành viên trong những đoàn LSR thường được dạy võ, luyện công từ nhỏ nên khi lớn lên nhiều người có thể biểu diễn những pha đập đá xanh, dùng cổ uốn cong thanh sắt Và có người trở thành vận động viên võ thuật của một số đội tuyển võ thuật. Những kỷ lục của Nhơn Nghĩa Đường Có nhiều thành tích, kỷ lục nhất trong các đoàn LSR hiện nay nước ta chính là đoàn LSR Nhơn Nghĩa Đường. Đây là đoàn của phái võ Thiếu Lâm Châu Gia do võ sư Lưu Hào Lương thành lập năm 1937. Năm 1991, đoàn được mời sang Nhật biểu diễn trong chương trình giới thiệu "Chuyện lạ" của Đài Truyền hình Fuji. Đoạt giải nhất hội thi múa LSR toàn quốc, nhiều giải A, giải xuất sắc tại các Liên hoan LSR của THPCM. Nhiều lần đại diện VN đi tham dự các cuộc thi múa LSR tại Malaysia, Ma Cao, Thái Lan. Từng đoạt giải nhì tại Cúp Thái Hoàng múa LSR quốc tế tại Thái Lan. Nhiều lần được mời đi biểu diễn tại Hong Kong, Trung Quốc, Ma Cao, Singapore Các thành viên của đoàn Nhơn Nghĩa Đường đều là những võ sinh ưu tú của môn phái Thiếu Lâm Châu Gia, có người đã gắn bó cả đời mình nên việc tổ chức, sắp xếp biểu diễn, tập luyện đều đã đi vào qui củ. Chưởng môn hiện thời của môn phái là võ sư – lương y Lưu Kiếm Xương, nên các đệ tử của ông không chỉ được học võ mà còn được dạy những phương pháp sơ cứu, phòng khi biểu diễn, luyện tập có tai nạn xảy ra. Thiếu Lâm Châu Gia mở nhiều lớp võ miễn phí, nên thu hút được rất nhiều môn sinh, đảm bảo lúc nào cũng có đủ 180 thành viên cho đoàn. Chính bề dày lịch sử, chịu tìm tòi, sáng tạo nên những tiết mục lân lên Mai hoa thung, lân leo cột, lân vượt tường hay múa rồng của Đoàn Nhơn Nghĩa Đường luôn được hoan nghênh. Trong số các tiết mục hấp dẫn ấy, võ sư Lưu Kiếm Xương bộc bạch: "Chúng tôi tự hào là Đoàn LSR VN đang giữ kỷ lục Đông Nam Á về tiết mục lân leo cột, với chiếc cột cao chót vót 12m. Đây là một kỷ lục rất khó thực hiện, vì ngay cả ở Trung Quốc người ta cũng chỉ mới leo cột cao 6 - 7m mà thôi". Một kỷ lục khác đang được đoàn LSR này nắm giữ là kỷ lục múa rồng. Tại lễ hội mừng Sài Gòn 300 năm, đoàn Nhơn Nghĩa Đường đã trình diễn con rồng dài 300m, huy động hàng trăm vận động viên tham gia! Các vận động viên phải phối hợp thật nhịp nhàng, ăn khớp với nhau khi thực hiện các động tác uốn lượn của rồng. Nếu các vận động viên phía trước thực hiện không đúng động tác thì những vận động viên phía sau té hàng loạt. Võ sư Lưu Kiếm Xương bật mí: "Tết Ất Dậu này, chúng tôi sẽ biểu diễn tiết mục mới Kim kê hóa phượng hoàng vừa được thiết kế - dàn dựng, tập luyện thành công. Qua tiết mục này, chúng tôi muốn gởi lời chúc xuân, một năm yên vui, thành đạt sẽ đến với mọi người". Võ sư Lưu Kiếm Xương cho biết thêm: "Chúng tôi đang tập luyện tiết mục lân leo cột cao 15m và giới thiệu với công chúng cả nước trong chương trình "Chuyện lạ Việt Nam" do Đài Truyền hình Việt Nam thực hiện thời gian tới".
  21. Những điều chưa biết về Võ Công Thiếu Lâm Đó là một loại võ công Trung Quốc mang tính tôn giáo, đầy màu sắc huyền hoặc. Chính vì huyền hoặc mà nó có những bí mật chưa ai biết, bài viết này sẽ bật mí hộ các bạn. Võ tăng Thiếu Lâm có được phép ăn mặn không? Từ trước đến nay, người ta cứ tưởng rằng mọi Thiếu Lâm tăng nhân đều ăn chay. Thật ra không phải vậy đâu. Thiếu Lâm tăng nhân được chia làm hai loại: văn tăng và võ tăng. Theo cổ lệ, không được phép ăn mặn chỉ có văn tăng, còn võ tăng thì được quyền ăn thịt, bởi vì họ tiêu hao rất nhiều năng lượng trong quá trình tập võ. Nếu chỉ ăn chay sẽ không thể bồi dưỡng sức khỏe, có hại nữa là khác. Song võ tăng phải tuân thủ 3 điều kiện: + Không được tự mình sát sinh + Không được tự mình đề nghị ăn thịt + Không được chứng kiến cảnh sát sinh. Có bao nhiêu bộ pháp Thiếu Lâm? Võ công Thiếu Lâm hiện nay đang lưu truyền rất rộng, không ít môn phái võ thuật Trung Quốc hoặc ít nhiều có liên quan tới võ công Thiếu Lâm. Thế nó có bao nhiêu bộ pháp? Tra lời: khoảng 100 bộ pháp. Sao ít vậy? Do trải qua nhiều biến cố lịch sử, bộ pháp Thiếu Lâm bị mất rất nhiều. Hội nghiên cứu quyền pháp Thiếu Lâm đã thu thập, hệ thống, chỉnh lý và công nhận chính thức khoảng 100 bộ pháp. Trong đó, có một số bộ "tuyệt nghệ" bí truyền, người ngoài chẳng thể biết mà học Cửa ải "Mộc nhân hạng" là gì? Xem phim, chúng ta thấy các võ sĩ Thiếu Lâm trước khi "xuống núi" phải qua cửa ải "Mộc nhân hạng". Đánh nhau với người gỗ, nếu thắng thì mới được thừa nhận là đủ trình độ võ thuật. Thế có "Mộc nhân hạng" không? Dĩ nhiên là có, nhưng hiện chẳng một người nào biết rõ hình dáng các người gỗ này ra sao. (Trên phim chỉ là sự tưởng tượng của đạo diễn). Theo lão tăng Thích Diên Vũ, "Mộc nhân hạng" là một đường hầm nhỏcó đặt 18 tượng gỗ ở những tư thế khác nhau, được điều khiển thực hiện những động tác đơn giản khi có người đi qua. Tăng nhân Thiếu Lâm có cần phải "Lục thân khả đoản"? Người ta trở thành tăng nhân Thiếu Lâm vì nhiều lý do. Cho dù vì lý do nào đi nửa thì họ vẫn không phải "lục thân khả đoản", có nghĩa là không cần phải cắt đứt mọi quan hệ với người thân. Các tăng nhân Thiếu Lâm vẫn thường xuyên "lấy phép" về thăm bà con họ hàng. Cá biệt, có một số tăng nhân xuất gia từ năm 10 tuổi, đến tuổi 30 vẫn có thể hoàn tục lấy vợ
  22. Thiếu Lâm Tự Ở Tung Sơn trong số các "phạn sát" (chùa cổ gốc ấn Độ) nổi tiếng nhất là chùa Thiếu Lâm, đất thánh của dòng thiền đạo Phật, từ xưa đến nay đã được vinh dự gọi là "chùa cổ Trung Châu nhất Thiếu Lâm " (Trung Châu là chỉ từ chỉ lưu vực đồng bằng sông Hoàng Hà là cái nôi của văn hóa Trung Quốc xưa). Chùa Thiếu Lâm nằm ở phía Tây Bắc huyện thành Đăng Phong tỉnh Hà Nam, cách thị xã huyện Đăng Phong 13km. Chùa tọa lạc ở sườn Tây núi Tung sơn, mặt đối với núi Thiếu thất, lưng dựa Ngũ Nhũ Phong. Vì chùa được xây dựng trong rừng rậm ở sườn âm núi Thiếu Thất nên lấy tên là "Thiếu Lâm Tự" (chùa trong rừng núi Thiếu Thất). Chùa Thiếu Lâm được xây dựng năm Thái Hòa 20 (năm 496) đời Hiếu Văn Đế nhà Bắc Ngụy (Hiếu Văn Đế Nguyên Hùng làm vua từ 471 – 500; nhà Bắc Ngụy từ năm 386 534). Vị cao tăng ấn Độ là Phật Đà (tức Bạt Đà) đến Đại Đồng kinh đô nhà Bắc Ngụy truyền giáo, nhờ tinh thông kinh sách nên Phật Đà được vua Hiếu Văn Đế rất kính trọng. Nam Thái Hòa thứ 20. Bắc Ngụy dời đô về Lạc Dương, Phật Đà đi theo về phía Nam. Vua Hiếu Văn đế định xây dựng vườn Thiền ở Lạc Dương cho Phật Đà truyền đạo Phật nhưng tính Phật Đà thích ở nơi rừng núi thung lũng, quay trở lại Tung Nhạc. Cao Tăng Phật Đà từ trần, Ngụy Hiếu Văn Đế ra lệnh xây dựng chùa ở núi Thiếu Thất cho Phật Đà đồng thời lấy tên chùa Thiếu Lâm. Theo lời di truyền lại thì sư Đạt Ma từ năm 527(tức năm Hiếu Xương thứ 3 đời Hiếu Văn Đế) suốt ba năm liền đi qua Quảng Châu, Nam kinh vượt sông lên tới Thiếu Lâm tự. Trên cơ sở khai sáng của Phật Đà, triệu tập rộng rãi môn đồ, truyền dạy dòng Thiền, chùa chiền ngày một mở rộng, sư sãi ngày một thêm đông. Từ đó chùa Thiếu Lâm nổi danh một thời trở thành tổ đình của dòng Thiền (Thiền tông). Từ Đạt ma truyền đến tổ thứ năm là Hoằng Nhẫn, vì vấn đề quyền kế thừa dòng Thiền nên đã phân chia thành Bắc Phái và Nam phái. Nam phái do Huệ Năng đứng đầu được đời sau của dòng Thiền công nhận là tổ thứ sáu. Bắc phái do Thần Tú đứng đầu. Đạt Ma dạy người ngồi yêu lặng mà ngẫm nghĩ (tĩnh tọa tịch tư) luyện tâm như bức tường không thiên không dựa, an tâm vô vi gọi là "lý nhập". Phép tu luyện này truyền đến dòng bắc của Thần Tú thì quy nạp thành "ngưng thần nhập định, chú tâm khán tịnh, khởi tâm ngoại chiếu, nhiếp tâm nội trừng" gồm 16 chữ (tạm dịch: "Ngưng đọng tâm để nhập định, chú trọng tâm để nhìn cho trong sạch, nổi lòng lên để chiếu dọi ra ngoài và đè nén tâm để lắng đọng vào trong"). Dòng Nam tông của Huệ Năng đối với Thiền Pháp của Đạt Ma có biến đổi tương đối lớn. Huệ năng cho rằng Phật là ở trong lòng, người người đều có thể thông qua tu thiền để giải thoát thành "người tự do" tức là "Phật" đó. Phương pháp tu luyện này không hạn chế ở chỗ "tĩnh tọa tịch tư". Ông cho rằng mỗi một cử động của con người đều là biểu hiện của tính Phật, đi, ở, nằm, ngồi phép đạo chảy trôi ("hành trú tọa ngọa, đạo pháp lưu thông"), chỉ cầm đem cái ý vị của Thiền dung nhập vào trong cuộc sống ngày thường, tùy duyên mà làm theo, tâm chú vào một cảnh giới chỉ cần là có thể tu tâm dưỡng tính, giác ngộ thành Phật. Học ngồi tu luyện gọi là "nông thiền". Đời sau lấy chuyện luyện quyền, tập võ gọi là "quyền thiền". Có thể bảo khi Thiền học dòng Nam tông truyền vào chùa Thiếu Lâm xong, quyền và thiền ngấm vào nhau một cách có ý thức, sự kết hợp lẫn nhau đã bắt đầu. Sở dĩ chùa Thiếu Lâm được vang danh trừ địa vị đặc thù trong lịch sử phát triển đạo Phật ra, còn một nguyên nhân trọng yếu khác đó là võ thuật Thiếu Lâm lừng tiếng ở đời. Đầu thế kỷ thứ 7 trong cuộc Đường Thái Tôn Lý Thế Dân đi đánh Vương Thế Sung, sư sãi chùa Thiếu Lâm trợ chiến lập công, được Lý Thế Dân khen ngợi và giúp đỡ, đồng thời cho lập bia để ở chùa Thiếu Lâm. Cho phép chùa Thiếu Lâm tự lập doanh trại, xây dựng tăng binh, phong trào bàn việc binh giảng võ nghệ do đó mà lớn mạnh. Trong tình hình đó, muốn nâng cao năng lực chiến đấu thực sự, sư sãi trong chùa không chỉ luyện quyền thuật, khí giới mà còn luyện đánh bộ, đánh ngựa, luyện kinh công, khí công v.V Sư sãi còn thường xuyên mời các nhà võ thuật nổi tiếng chỉ bảo. Các nhà võ thuật nổi tiếng cũng một tiếng chùa Thiếu Lâm mà tới, xin kính biếu của quý. Cứ thế chùa Thiếu Lâm đã trở thành đất hội võ của cải nước, khiến chùa có cơ hội biết được chỗ mạnh của mọi nhà, tập hợp được tinh hoa võ thuật. Từ đời Tống trở đi Thiếu Lâm thu nhập được môn trường quyền của Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn, Thông bối quyền của Hàn Thông, chỗ mạnh của quyền pháp 18 nhà như đánh giáp lá cà của Mã tịch, v.V viết thành quyền phổ để ở chùa và lưu truyền cho đời sau. Theo truyền thuyết thì vào thời Kim, nguyên có hòa thượng Giác Viễn đi sang phía Tây tìm thầy học, có Lý Tẩu và Bạch Ngọc Phong vào chùa dạy nghệ. Lý truyền lại Đại, tiểu Hồng quyền, côn thuật và cầm nã. Bạch thì truyền lại ngũ quyền (long, xà, hổ, báo, hạc ) và khí công. Đến đời Minh danh tướng đánh Nhật là Du Đại Hiến cũng từng đến thăm chùa Thiếu Lâm truyền thuật côn thuật thực dụng. Như thế chùa Thiếu Lâm đã cùng các nhà các phái lấy sở trường bù sở đoản, cùng thúc đẩy lẫn nhau. Trải qua lịch sử nghiên cứu luyện tập và tổng kết dần dà phát triển thành một môn phái võ thuật có quyền pháp, khí giới v.V đủ các loại nội dung, thể hệ hoàn chỉnh, bài bản tinh luyện. Đặc điểm kỹ thuật của quyền Thiếu Lâm là: kết cấu tư thế nghiêm ngặt, động tác thiết thực chất phác, phát lực cứng mạnh, tiết tấu rõ ràng mau lẹ, tay dùng tiếng phát, tiếng theo tay xuống, đi thẳng về thẳng, yêu cầu giấu chứ không lộ liễu, trong tính ngoài mạnh; phải "nhẹ như mèo, vọt như hổ, đi như rồng, động như chớp, tiếng như sấm". Các bài quyền chủ yếu có Hồng quyền, Trường quyền, Pháo quyền, Triêu dương quyền, Thất tinh quyền, La hán quyền, Thông bối quyền, Mai hoa quyền, Quan đông quyền, Trường hộ tâm ý môn quyền, Hộ thân lưu tinh quyền, Thanh long xuất hải quyền, Liên hoàn quyền, Tâm ý quyền, Nhu quyền, Thiếu Lâm 28 (32) thức, cho đến ngũ hình quyền và Thập nhị hình quyền tức Thử(chuột), Ngưu, Thỏ, Khuyển(chó), áp(vịt), Mã, Dương, Hầu, Trư, Hà (tôm), Ngư.