Rèn kĩ năng nói cho học sinh Lớp 1 trong môn Tiếng Việt – Nhìn từ chương trình, sách giáo khoa sau 1975
Bạn đang xem tài liệu "Rèn kĩ năng nói cho học sinh Lớp 1 trong môn Tiếng Việt – Nhìn từ chương trình, sách giáo khoa sau 1975", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- ren_ki_nang_noi_cho_hoc_sinh_lop_1_trong_mon_tieng_viet_nhin.pdf
Nội dung text: Rèn kĩ năng nói cho học sinh Lớp 1 trong môn Tiếng Việt – Nhìn từ chương trình, sách giáo khoa sau 1975
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Võ Thị Tuyết Mai ___ RÈN KĨ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH LỚP 1 TRONG MÔN TIẾNG VIỆT – NHÌN TỪ CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA SAU 1975 VÕ THỊ TUYẾT MAI* TÓM TẮT Chọn góc nhìn từ sách giáo khoa (SGK) sau năm 1975, qua nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng: nếu như trước đây, nội dung rèn kĩ năng nói (KNN) trong các bộ SGK Tiếng Việt khá ít, thậm chí là không đề cập, thì bộ SGK Tiếng Việt tiểu học (2000) đã tạo ra nhiều cơ hội cho HS lớp 1 được nói thông qua luyện nói theo chủ đề ở cuối mỗi bài Học vần, các bài Luyện tập tổng hợp và trong các tiết Kể chuyện. Từ khóa: kĩ năng nói, rèn kĩ năng nói, chương trình, sách giáo khoa Tiếng Việt 1. ABSTRACT Training speaking skill for first graders in the subject Vietnamese Language – a look back at the curriculum and textbooks after 1975 Taking a look back at textbooks after 1975, we realize that in the past, the content of training speaking skill in textbooks was rather little or even ignored, but the Vietnamese Language textbook for primary education (2000) has brought about many chances for first graders to speak through talking about specific topics at the end of each Rhyme lesson, General exercises or Story-telling sessions. Keywords: speaking skill, training speaking skill, curriculum, Vietnamese Language textbook grade 1. 1. Đặt vấn đề nghiên cứu tâm sinh lí trẻ em thì từ 7 tuổi Hình thành và phát triển toàn diện trở đi, trẻ trở nên khó học ngôn ngữ hơn” các kĩ năng sử dụng tiếng Việt: nghe - (dẫn theo Trần Thị Hiền Lương, 2008). đọc (tiếp nhận), nói - viết (thực hành) là Chính vì điều đó, rèn KNN cho HS cần một trong những mục tiêu quan trọng được tiến hành ngay từ lớp 1. trong dạy học Tiếng Việt. Cả bốn kĩ năng Có thể nói vấn đề rèn KNN cho HS trên đều có ý nghĩa hết sức quan trọng tiểu học nói chung và HS lớp 1 nói riêng đối với mỗi người. Riêng KNN đang vẫn còn đang là một “khoảng trống khoa ngày càng khẳng định vai trò và vị trí của học”, do đó cần những nghiên cứu sâu nó. “Theo tiến sĩ Pamela Snow (Đại học hơn để có thể luận giải tầm quan trọng Monash), những trẻ không nhận được sự của việc phát triển KNN cũng như đề ra trợ giúp đầy đủ để phát triển các kĩ năng những nội dung và phương pháp thực giao tiếp bằng lời thường gặp khó khăn hiện một cách hợp lí và cụ thể. Do sự chi trong giao tiếp xã hội và phát triển cảm phối của phạm vi và thời gian nghiên xúc khi chúng lớn lên. Còn theo các nhà cứu, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát nội * GV, Trường Tiểu học Thuận Giao, Bình Dương; Email: tuyetmai1203@gmail.com 81
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 ___ dung của một số chương trình, SGK 1) Theo bài này, quê em có những Tiếng Việt lớp 1 mà tác giả sưu tầm cảnh gì tươi đẹp? được. 2) Em tìm những từ cho biết quê 2. Chương trình và sách giáo khoa em rất vui, rất nhộn nhịp? Tiếng Việt sau 1975 với việc rèn kĩ 3) Em đặt câu với từ “rộn ràng”. năng nói cho học sinh Qua 59 bài văn, bài thơ mà HS học Cứ liệu phân tích trong bài viết này trong 7 tuần lễ, có thể thấy nội dung rèn chủ yếu dựa vào một số chương trình, kĩ năng nói cho HS đã được quan tâm. SGK Tiếng Việt 1 trong giai đoạn từ sau Tuy nhiên những câu hỏi tìm hiểu bài chủ 1975 đến nay: 1) Quyển Tập đọc 1 yếu chỉ mang tính tái hiện, đôi lúc còn (1980) do tác giả Trần Thị Ngọc Bảo - lồng ghép thêm một bài tập nhưng vẫn Nguyễn Có biên soạn, Nhà xuất bản Giáo còn đơn điệu, chỉ có kiểu bài chọn từ ngữ dục; 2) Chương trình Tiếng Việt 1 Công điền vào chỗ trống hoặc đặt câu với từ nghệ giáo dục của Hồ Ngọc Đại (1984) ; cho sẵn. 3) Quyển Tiếng Việt 1 - Sách cấp I phổ 2.2. Chương trình Tiếng Việt 1 Công cập (1990) do Trịnh Mạnh – Trần Mạnh nghệ giáo dục (1984) Hưởng biên soạn dưới sự chỉ đạo của Vụ Việc hình thành và phát triển các kĩ Giáo dục Phổ thông và Bộ Giáo dục; 4) năng (KN) sử dụng tiếng Việt luôn được Bộ Tiếng Việt 1 do Phạm Bích Hợp – đặt bên cạnh mục tiêu cung cấp tri thức Nguyễn Ngọc Bảo biên tập lần đầu và tiếng Việt cho HS. Đặc biệt, chương được Trần Mạnh Hưởng chỉnh lí năm trình Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục 1994; 5) Bộ Tiếng Việt 1 theo chương đã xem xét các KN trong mối quan hệ trình Tiếng Việt mới (2000) do Đặng Thị chặt chẽ không thể tách rời. KN nghe nói Lanh chủ biên. là KN cơ bản, tạo tiền đề vững chắc cho 2.1. Tập đọc 1 (1980) KN đọc và viết. Cả bốn KN nghe - nói - Quyển sách này không có mục đọc - viết được tổng hợp và kiểm soát Luyện nói như chương trình SGK hiện trong quy trình hình thành và phát triển hành. Nội dung rèn KNN chỉ được tích KN viết. Chính vì vậy, ngoài việc tự hợp, lồng ghép trong 2-3 câu hỏi tìm hiểu chiếm lĩnh các kiến thức qua hoạt động ở cuối mỗi bài (không có nội dung này tự trải nghiệm, HS còn được hình thành đối với Bài đọc thêm). các KN tương ứng một cách tự nhiên. Tư Ví dụ: Ở tuần lễ thứ năm có bài tưởng đó đã được thể hiện ngay trên tên “Quê em” [1, tr.44] gọi hệ thống việc làm, cụ thể: Quê em đồng lúa, nương dâu Việc 1 - Chiếm lĩnh ngữ âm: giúp Bên dòng sông nhỏ nhịp cầu bắc ngang HS có KN phân tích, KN khái quát hóa. Dừa xanh tỏa mát đường làng Việc 2 - Viết: HS dùng kí tự để mã Ngân nga giọng hát, rộn ràng tiếng thoi. hóa âm thanh dưới dạng chữ viết và củng (Nguyễn Hồ) cố các KN khác. Có 3 câu hỏi tìm hiểu bài, đó là: 82
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Võ Thị Tuyết Mai ___ Việc 3 - Đọc: Dựa trên kết quả đã được thể hiện rõ trong những hướng dẫn được hình thành một cách vững chắc từ chung về dạy học môn Tiếng Việt 1. việc 1 và việc 2, HS đọc và phân biệt Theo đó, SGK chủ yếu yêu cầu HS đọc, chính tả một cách chính xác. viết. Sang phần Tập đọc, SGK mới có Việc 4 - Viết chính tả: Thông qua thêm từ 3 đến 4 câu hỏi tìm hiểu hoặc bài quy trình viết chính tả, HS không chỉ tập. được luyện tập củng cố kiến thức và KN Ví dụ: Trong bài tập đọc “Tay mẹ” đã được học trong quá trình hoạt động [2, tr.104] có 3 câu hỏi tìm hiểu bài: mà GV còn kiểm soát được kết quả cuối 1) Tìm và đọc những tiếng trong bài cùng của HS qua sản phẩm. có âm tr, ch đứng đầu. Tóm lại, chương trình Tiếng Việt 1 2) Tìm những tiếng trong bài có vần Công nghệ Giáo dục không chỉ giúp trẻ anh, ach, ươc, uông. nắm chắc kiến thức ngữ âm, hình thành 3) Vì sao em yêu quý đôi tay mẹ? các KN ngôn ngữ như một công cụ đắc Có thể thấy những câu hỏi tìm hiểu lực trong học tập mà còn giúp HS phát bài cũng đã đòi hỏi thêm yếu tố suy luận, triển khả năng phân tích và tư duy ngôn buộc HS diễn đạt theo cách hiểu của ngữ một cách chắc chắn thông qua hệ mình, tuy nhiên các bài tập đọc khác, một thống việc làm khoa học, tường minh. số câu hỏi tìm hiểu vẫn còn mang tính tái Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ ngôn hiện như trong sách Tập đọc (1980). Xem ngữ trong thực tiễn giao tiếp chưa được ra, việc rèn KNN cho HS vẫn chưa được quan tâm nhiều. chú trọng nhiều. Yêu cầu cần đạt của 2.3. Tiếng Việt 1 - Sách cấp I phổ cập KNN chỉ dừng lại ở khả năng trả lời được (1990) những câu hỏi trong bài tập đọc; biết kể Chương trình phổ cập tiểu học (100 lại một đoạn ngắn trong truyện đã nghe tuần) áp dụng cho hai đối tượng từ 9 - 14 giáo viên (GV) kể. tuổi (chương trình Phổ cập1) và từ 15 - 35 2.5 SGK Tiếng Việt 1 theo chương tuổi (chương trình Bình dân học vụ2). trình Tiếng Việt mới (2000) Quyển Tiếng Việt 1 (theo chương trình Chương trình Tiếng Việt năm 2000 Phổ cập) gồm 3 phần: 1) Phần chữ cái và được biên soạn dựa trên những định âm, 2) Phần vần, 3) Phần Tập đọc (không hướng: dạy Tiếng Việt thông qua hoạt có câu hỏi tìm hiểu ở phía bên dưới, có động giao tiếp; tận dụng những kinh bài chỉ yêu cầu HS tập chép vài câu hoặc nghiệm sử dụng tiếng Việt của HS; vận vài dòng thơ ngắn). Nội dung trong SGK dụng quan điểm tích hợp trong dạy tiếng này chỉ chú trọng rèn kĩ năng đọc - viết, Việt; kết hợp dạy tiếng Việt với dạy văn không hề đề cập đến nội dung rèn KNN hóa và dạy Văn. Đối với HS tiểu học, nói cho HS. là kĩ năng được rèn qua tất cả các giờ học 2.4. Tiếng Việt 1 (chỉnh lí năm 1994) nhưng tập trung nhất là ở các giờ Kể Chương trình này đặc biệt chú chuyện và Tập làm văn. Riêng ở lớp 1, trọng đến kĩ năng đọc, viết. Điều này HS chủ yếu được rèn kĩ năng nói thông 83
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 ___ qua luyện nói theo chủ đề ở cuối mỗi bài một thời gian dài triển khai, ta thấy Học vần, các bài Luyện tập tổng hợp và chương trình tiếng Việt 2000 vẫn còn bộc trong các tiết Kể chuyện. lộ một số vấn đề cần được xem xét, điều 2.5.1. Sách giáo khoa môn Tiếng Việt chỉnh, bổ sung và nghiên cứu lại cho phù đang áp dụng đại trà hiện nay tạo ra hợp với thực tiễn dạy học và đáp ứng tốt nhiều cơ hội cho HS luyện nói. Ngay từ nhất cho mục tiêu chương trình đã đề ra: những bài học đầu tiên của lớp 1, HS đã Thứ nhất, chương trình hiện tại chưa chú được luyện nói theo chủ đề. Những chủ trọng vào phần luyện ngữ âm, đặc biệt là đề này tương đối gần gũi: Bố mẹ ba má; phần luyện KN phát âm phân biệt các âm Nhà trẻ; Bé và bạn bè; Người bạn tốt; - vần khó. Thứ hai, hình thức rèn KNN Điểm 10; Bữa cơm do đó GV có thể còn đơn điệu, chủ yếu thông qua hình cho HS sắm vai nhân vật, thể hiện tình thức quan sát tranh, nói từ, câu chứa âm - cảm của ông bà, ba mẹ đã yêu thương, vần được học. Nội dung rèn KNN thông quan tâm, chăm sóc em, hoặc những tình qua giao tiếp còn hạn chế. Thứ ba, các cảm, việc làm của em thể hiện sự hiếu biện pháp rèn KNN chưa phong phú và thảo của một người cháu, người con đối đa dạng nên chưa thực sự hấp dẫn đối với với ông bà, cha mẹ của mình. Điều này HS lớp 1. phù hợp với tâm lí HS lớp 1 và thuận lợi Những vấn đề đó được thể hiện cụ cho việc dạy học theo nguyên tắc giao thể trong SGK Tiếng Việt 1 (2000) như tiếp. sau: Mức độ yêu cầu và hình thức thể - Việc luyện nói thường được sắp hiện của hệ thống bài tập (HTBT) đi từ xếp ở phần cuối mỗi bài học. Điều đó có đơn giản đến phức tạp. Nếu như trong những thuận lợi nhất định trong việc tận phần luyện âm vần chỉ yêu cầu HS nói dụng những kiến thức đã học của HS. một câu hay nhiều câu gắn với âm vần Tuy nhiên, để rèn KNN có hiệu quả hơn mới học thì trong phần Luyện tập tổng thì không nên tách chúng riêng rẽ mà cần hợp lại yêu cầu HS có KNN ở mức độ luyện tập đồng thời với các KN đọc - cao hơn như nói trong hội thoại, nói độc viết. Việc hình thành và phát triển các thoại, nói các câu liên kết với nhau tạo KN một cách đồng bộ sẽ tận dụng những thành ý. Nội dung các bài tập thể hiện tác động tích cực của nhau đồng thời phù thông qua các hình thức khác nhau: hình hợp với tâm lí nhận thức cũng như quá thức sử dụng nghi thức lời nói, hình thức trình hình thành phát triển tư duy của HS. đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi, hình thức - HTBT chưa phong phú, chủ yếu là thuật việc và kể chuyện, hình thức nhận các bài tập tạo lập ngôn bản nói (nói theo xét, đánh giá. chủ đề), chưa tập trung vào vào loại bài 2.5.2. Dù rằng đã xác định những mục tập rèn KNN theo nghi thức lời nói và tiêu, nội dung dạy học theo định hướng đặc biệt là luyện nghe - nói trong hoạt giao tiếp nhằm nâng cao năng lực và KN động giao tiếp cụ thể. sử dụng ngôn ngữ của HS, nhưng sau 84
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Võ Thị Tuyết Mai ___ Bảng 1. Bài tập rèn KNN trong phần Luyện nói và Kể chuyện Kiểu bài Nhóm bài Số lượng Nói theo chủ đề tranh 6 Phần Nói theo chủ đề liên quan đến âm – vần mới học 80 Học vần Luyện Nói theo nghi thức lời nói 2 nói Phần Nói câu chứa tiếng có vần cho trước 21 Luyện Nói theo đề bài 26 tập tổng hợp Nói theo nghi thức lời nói 2 Quan sát tranh, nghe kể và nói theo tranh 15 Kể chuyện Kể từng đoạn hoặc cả câu truyện theo tranh 11 Phân vai kể toàn bộ câu truyện 1 - Số lượng bài tập nói theo chủ đề hướng dẫn cách thực hiện cụ thể: Bước 1: nhiều, nhưng chủ yếu là bài độc thoại HS đọc tên bài luyện nói; Bước 2: GV (đối với HS lớp 1, dạng bài này khó hơn tùy trình độ lớp để có các câu hỏi gợi ý so với bài hội thoại). theo tranh cho thích hợp, sau đó đưa ra - Một số chủ đề còn khó và xa lạ đối một loạt các câu hỏi gợi ý. (Phần Học với HS (Bài 8 có chủ đề là “le le”; Bài 9 vần từ bài 7 82, Sách giáo viên Tiếng có chủ đề là “vó bè”). Bên cạnh đó, cách Việt 1, tập 1). Chính vì những điều đó đưa ra yêu cầu bài tập còn đơn điệu (đưa GV đã không áp dụng được nhiều và cảm ra từ ngữ nêu chủ đề hoặc tranh minh họa thấy lúng túng khi dạy luyện nói cho HS. cho mỗi chủ đề). Tóm lại, nội dung dạy học của các - Quy trình tổ chức luyện nói cho HS phân môn Tiếng Việt có nhiều thay đổi còn chung chung. Đa số các bài luyện nói nhằm tạo điều kiện cho HS được luyện trong sách giáo viên được thực hiện như nói. Tuy nhiên, cần chú ý hơn trong việc sau: Bài luyện nói trong phần Học vần: lựa chọn chủ đề, cân đối số lượng các bài Một HS (hoặc GV) đọc (hoặc nêu) yêu tập; làm rõ hơn quy trình tổ chức hoạt cầu chủ đề luyện nói GV đưa ra hệ động rèn KNN, cụ thể hóa việc làm thành thống câu hỏi gợi mở, HS trả lời. Bài các hoạt động nhỏ dễ thực hiện; hướng luyện nói trong phần Luyện tổng hợp: HS dẫn cách vận dụng các biện pháp tổ chức (hoặc GV) nêu yêu cầu bài tập HS nội dung luyện KNN sao cho phù hợp với khá, giỏi thực hiện bài tập để làm mẫu tâm lí nhận thức, tạo hứng thú đối với HS cho các bạn HS cả lớp luyện nói về đề lớp 1. tài đó GV (hoặc HS) nhận xét bài nói 2.5.3. Một bước tiến mới trong việc rèn của HS. KNN cho HS lớp 1 được thể hiện cụ thể - Các biện pháp vận dụng rèn KNN trong phân môn Kể chuyện (KC). Trước cho HS chưa tường minh và không có đây, các truyện kể dùng trong giờ KC 85
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 ___ được tập hợp thành một quyển sách riêng yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc có tên là Truyện đọc 1. Văn bản truyện để dạy văn hóa ứng xử trong giao tiếp. Về khá dài, không tương ứng với chủ điểm nội dung, các chương trình Tiếng Việt của từng tuần. Các kiểu bài tập khá ít, trước 2000 coi nhẹ việc rèn KNN tiếng hầu hết chỉ là kể lại từng đoạn và toàn bộ Việt. Quan niệm về các KN sử dụng câu chuyện. Đặc biệt là không có nhiều tiếng Việt chưa toàn diện, bỏ qua một số tranh minh họa để làm điểm tựa giúp HS KN cần thiết như KNN trong hội thoại, nhớ cốt truyện. trong giao tiếp ở gia đình, nhà trường, xã Nội dung phân môn KC trong SGK hội Bên cạnh đó, quan niệm cũ chưa mới gắn bó chặt chẽ với phân môn Tập khai thác vốn tiếng Việt sẵn có của HS đọc và chủ điểm của từng bài học. Ở giai trong quá trình dạy học tiếng Việt. Quan đoạn Học vần, cuối mỗi tiết Ôn tập, HS niệm về các văn bản dùng làm ngữ liệu được nghe kể những câu chuyện đơn giản dạy học chưa toàn diện, thiên về các văn có tên gọi gắn với các vần mới học và tập bản mang tính nghệ thuật, chưa coi trọng kể một vài câu về nội dung câu chuyện các loại văn bản khác cần sử dụng trong dựa theo tranh minh họa. Từ phần Luyện đời sống. Về phương pháp, các phương tập tổng hợp trở đi, KC trở thành một pháp dạy học theo quan điểm giao tiếp phân môn độc lập, các văn bản truyện chưa được sử dụng trong dạy và học không được in trong SGK mà được in Tiếng Việt. Việc luyện tập các KN chưa trong sách giáo viên làm cho giờ KC thực được đảm bảo độ thành thạo, thuần thục sự là giờ học rèn kĩ năng nghe nói cho nên đã hạn chế đến kết quả học tiếng Việt HS. Có thể thấy, theo phương pháp dạy nói chung. KC theo SGK mới thì GV luôn tạo điều Ở Việt Nam những năm gần đây, kiện cho mọi HS ở các trình độ khác SGK dạy học tiếng Việt có nhiều đổi mới nhau ít nhiều đều được thực hành KC, đáng kể. Nội dung dạy học không còn nói về nội dung câu chuyện. Bên cạnh đó, thiên về cung cấp tri thức Việt ngữ học SGK mới cũng có nhiều tranh minh họa nữa mà đã chú ý đến rèn kĩ năng sử dụng sinh động và các câu hỏi gợi ý làm điểm ngôn ngữ. Nhưng nhìn chung, yêu cầu về tựa cho HS thực hành KC. rèn luyện kĩ năng (nhất là kĩ năng nói) 3. Một vài nhận xét thêm vẫn còn thấp hơn so với nội dung trong Những điểm chung sau khi chúng SGK dạy ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ của các tôi rà soát sơ lược chương trình, SGK nước phát triển và số tiết dạy liên quan Tiếng Việt ở tiểu học từ 1975 đến 2000 đến kĩ năng này cũng ít hơn. “SGK Tiếng như sau: Về mục tiêu, quan niệm về dạy Pháp từ lớp 1 đã dành 30 phút/ tuần để tiếng Việt chưa đầy đủ, chưa làm rõ được dạy HS tranh luận về cuộc sống của các việc dạy tiếng Việt nhằm mục đích chính em trong tập thể lớp học hoặc dạy “diễn là dạy cho HS biết sử dụng tiếng Việt kịch”. SGK tiếng Anh cho HS người Anh hiệu quả trong giao tiếp; chương trình từ lớp 1 đã chú trọng dạy HS “diễn kịch, Tiếng Việt chưa quan tâm đúng mức tới thể hiện tình huống kịch và nhân vật bằng 86
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Võ Thị Tuyết Mai ___ ngôn ngữ và hành động, bộc lộ cảm xúc, SGK giáo dục phổ thông do Bộ giáo dục cá tính”; dạy “thảo luận nhóm, nói theo và Đào tạo xây dựng năm 2014. Về lượt lời, có lí lẽ, trình bày quan điểm cá phương pháp, GV cần khai thác tối đa nhân”. Trẻ em Mĩ ở tuổi mới đến trường nội dung trong phân môn Kể chuyện. đã biết diễn kịch, thực hiện nghi thức đặt Thực tế cho thấy không phân môn nào tay lên ngực nói lời tuyên thệ của công chỉ rèn luyện một kĩ năng, tuy nhiên, kể dân” (dẫn theo Nguyễn Minh Thuyết, chuyện giúp rèn luyện kĩ năng nói ở trình 2012). Như vậy, nhìn chung, nội dung độ cao, kĩ năng nói mang tính nghệ thuật SGK Tiếng Việt 1 (2000) đặt yêu cầu rèn (vì kể chuyện là lời độc thoại mang tính luyện KNN thấp hơn so với nội dung nghệ thuật nhằm truyền đến người đọc trong SGK dạy ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ của không phải những thông báo khô khan, các nước phát triển như Pháp, Anh, Mĩ. nhạt nhẽo mà là một văn bản nghệ 4. Thảo luận và đề xuất thuật) Về hình thức, GV cần phối hợp Việc rèn KNN cho HS được xem nhịp nhàng các hoạt động ngoại khóa xét từ các bình diện ngữ âm, từ vựng và khác để phát triển kĩ năng nói cho HS, cú pháp. Nói cách khác, HS được luyện thường xuyên tổ chức cho HS trao đổi, cách phát âm, tăng cường vốn từ, luyện tranh luận ý kiến trong các giờ học chính cách diễn đạt câu và vận dụng năng lực thống và hoạt động ngoài giờ lên lớp ngôn ngữ vào các hoạt động giao tiếp trong khi chờ đợi một bộ SGK mới thật hàng ngày. Việc lệ thuộc vào SGK, sách sự theo hướng tiếp cận năng lực. giáo viên một cách cứng nhắc tạo nên Thứ hai, cần có những hướng dẫn những hệ lụy đáng tiếc. Chúng tôi thật sự cụ thể để GV có thể mạnh dạn, linh hoạt kì vọng chương trình SGK sau 2015 sẽ thay thế nội dung chương trình SGK có những bước tiến mới, thông qua việc (nhất là phần Luyện nói) để các em có rà soát nội dung chương trình SGK hiện thể tiếp thu một cách dễ dàng, hiệu quả tại, bổ sung những nội dung mới phù hợp hơn phù hợp với từng vùng miền, để với tình hình phát triển của đất nước, tránh cách dạy “vừa thừa lại vừa thiếu”. đồng thời cân đối nội dung KNN để Thứ ba, phần lớn GV vẫn chưa mang lại hiệu quả cao nhất. Bên cạnh quen dạy những kĩ năng như thuyết trình những ý kiến về nội dung chương trình – tranh luận, giới thiệu địa phương, đối SGK, chúng tôi xin phép đề xuất thêm thoại phù hợp với mục đích, đối tượng và một số biện pháp cần phải tiến hành đồng hoàn cảnh giao tiếp, kể chuyện đã chứng bộ như sau: kiến và tham gia thậm chí còn khá yếu Thứ nhất, cần đổi mới phương pháp kém về những kĩ năng này. Vì vậy, và hình thức tổ chức dạy học theo hướng thường xuyên tổ chức các lớp chuyên đề phát huy năng lực HS. Điều này phù hợp rèn kĩ năng nói cho GV là điều hết sức với nội dung đề án đổi mới chương trình, cần thiết. 87
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 ___ ___ 1 Dành cho đối tượng chưa được đến trường, có thể học để kịp theo học chương trình trung học. 2 Dành cho những người dân có nhu cầu học tập, có thể linh hoạt thời gian và địa điểm. Do giới hạn thời gian nghiên cứu, tác giả vẫn chưa tìm được quyển này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1991), Tập đọc 1, tái bản lần thứ mười một, Nxb Giáo dục. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1999), Tiếng Việt 1, Tập 1-2, tái bản lần 10, Nxb Giáo dục. 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Tiếng Việt 1, Tập 1-2, tái bản lần năm, Nxb Giáo dục. 4. Hồ Ngọc Đại, Phạm Toàn (1994), Công nghệ giáo dục và công nghệ dạy Tiếng Việt tiểu học, Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy theo phương án công nghệ giáo dục ở tiểu học, Vụ Giáo viên. 5. Nguyễn Thị Ly Kha (2014), “Mô hình sách giáo khoa Việt ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975”, Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM, (56), tr.179-190. 6. Trần Thị Hiền Lương (2008), Một số biện pháp nâng cao hiệu quả rèn kĩ năng nói cho học sinh tiểu học ở môn tiếng Việt, Đề tài nghiên cứu khoa học của Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. 7. Lê Phương Nga, Đỗ Xuân Thảo, Lê Hữu Tỉnh (2001), Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt 1 (dành cho hệ đào tạo cử nhân giáo dục tiểu học tại chức từ xa), tái bản lần thứ nhất, Nxb Giáo dục. 8. Nguyễn Minh Thuyết (2012), Phương pháp dạy học Tiếng Việt nhìn từ tiểu học, Nxb Giáo dục. 9. Nguyễn Trí (2007), Dạy và học môn Tiếng Việt ở Tiểu học theo chương trình mới, Nxb Giáo dục. 10. Ngô Hiền Tuyên (2013), Rèn kĩ năng nghe – nói cho học sinh lớp 1 trong dạy học tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Giáo dục học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. (Ngày Tòa soạn nhận được bài: 10-02-2015; ngày phản biện đánh giá: 15-4-2015; ngày chấp nhận đăng: 05-6-2015) 88