Mở rộng vốn từ và dạy học nghĩa từ cho học sinh Tiểu học

pdf 5 trang ngocly 1970
Bạn đang xem tài liệu "Mở rộng vốn từ và dạy học nghĩa từ cho học sinh Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfmo_rong_von_tu_va_day_hoc_nghia_tu_cho_hoc_sinh_tieu_hoc.pdf

Nội dung text: Mở rộng vốn từ và dạy học nghĩa từ cho học sinh Tiểu học

  1. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 ___ MỞ RỘNG VỐN TỪ VÀ DẠY HỌC NGHĨA TỪ CHO HỌC SINH TIỂU HỌC VŨ THỊ ÂN* TÓM TẮT Sự lĩnh hội từ ngữ của học sinh tiểu học là một quá trình từ đơn giản đến phức tạp, từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng Bài viết này bàn về việc mở rộng vốn từ trong sự tích hợp với dạy học nghĩa từ cho học sinh tiểu học. Việc vận dụng linh hoạt các cách thức cụ thể với những thao tác đơn giản trong mở rộng vốn từ và dạy nghĩa của từ là những vấn đề mà giáo viên cần quan tâm một cách thường xuyên, liên tục và tích hợp trong dạy học các phân môn Tiếng Việt nói riêng và dạy học các môn học khác nói chung. Từ khóa: nghĩa từ, trường nghĩa, dạy học nghĩa từ, học sinh tiểu học. ABSTRACT Enriching vocabulary and teaching the meanings of new words to primary school students The process of building up vocabulary of primary school children moves from simple to more complicated aspects, and from small to larger scales. This paper discusses the process of enriching vocabulary integrated with teaching the meanings of new words to primary school students. Flexible application of specific ways combined with simple strategies in building up vocabulary and teaching meanings of new words is what teachers should focus on frequently and continuously in their teaching of subjects related to Vietnamese language in particular and other science subjects in general. Keywords: meanings of new words, semantic field, teaching the meanings of new words, primary school students. 1. Vấn đề lĩnh hội từ ngữ của học nhà hàng, chạy nhảy, chạy chọt, vui chơi, sinh tiểu học vui miệng, vui vẻ, xanh đỏ, xanh xao, Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em xanh rờn Vốn từ của các em được mở nói chung và học sinh tiểu học nói riêng rộng dần cùng quá trình tiếp nhận các nội là một quá trình liên tục. Quá trình đó đi dung học tập ở từng khối lớp, quá trình từ đơn giản đến phức tạp tùy thuộc vào giao tiếp ở những phạm vi rộng hơn. Bắt nhận thức, vào hoàn cảnh sống, vào đầu là những từ ngữ biểu thị các sự vật nhiệm vụ học tập của các em ở từng giai hiện tượng, các hoạt động, trạng thái, tính đoạn. Sự lĩnh hội về từ vựng – một đơn chất mang nghĩa cụ thể như: hoa, đi, vị ngôn ngữ nằm trong quy luật ấy. vàng, đẹp, lom khom, tí tách, v.v Sau là Ban đầu là việc nhận biết những từ những từ ngữ biểu thị các khái niệm trừu có cấu tạo đơn giản (từ đơn đơn âm) như tượng như: tình cảm, phát triển, tự hào, nhà, bàn, chạy, chơi, đỏ, vui; sau là nhận can đảm, lầm lì, cần cù, kiên trì Từ biết và sử dụng các từ có cấu tạo phức chỗ nhận biết nghĩa gốc – cái nghĩa tạp hơn (từ láy, từ ghép) như nhà cửa, không giải thích được lí do của tên gọi – * TS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM; Email: anvuthi_dhsp@yahoo.com 64
  2. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Vũ Thị Ân ___ của từ như: mắt (đôi mắt); mọc (cây có thể thực hiện trong giờ Tập đọc, Chính mọc); đẹp (áo đẹp, tranh đẹp ), nhạt tả, Tập làm văn (các phân môn thuộc (canh nhạt, xanh nhạt ), dâng (nước môn Tiếng Việt); hay trong giờ dạy học dâng đầy) các em biết xác định nghĩa các môn Tự nhiên-Xã hội, Khoa học, Địa chuyển như: mắt (mắt xích, mắt lưới), lí, Lịch sử, Đạo đức, (các môn học mọc (trăng mọc, mọc răng), đẹp (cử chỉ khác) ; hoặc qua các hoạt động ngoại đẹp, đẹp nết), tươi (nụ cười tươi), nhạt khóa. (cười nhạt), dâng (dâng hương; dâng một Chủ đề liên quan đến việc phát triển quả xôi đầy – TV5) vốn từ ngày càng mở rộng: từ các chủ đề Từ việc phân biệt nghĩa của các từ, về cuộc sống hàng ngày: gia đình, trường phân biệt sự khác nhau tinh tế về sắc thái học, bạn bè đến các chủ đề: hòa bình, nghĩa của một từ, các em biết chọn từ tổ quốc, công dân, bình đẳng giới (nam phù hợp với mỗi ngữ cảnh. Với trái cam và nữ), v.v khi cần chia ra thành các phần nhỏ bằng Quá trình phát triển ngôn ngữ của dao thì phải chọn từ cắt (cắt cam) chứ học sinh tiểu học ở phương diện từ ngữ không phải từ thái; tay khi cần làm sạch như đã nói trên đây đi từ đơn giản đến thì lúc nào nói lau, khi nào nói rửa (lau phúc tạp, từ dễ đến khó bằng việc tự học tay khác rửa tay); lá ở trạng thái nào thì và sự hướng dẫn của giáo viên. Song sự gọi là khô, là héo/úa v.v lĩnh hội và học ngôn ngữ của mỗi học Các em cũng cần được hướng dẫn sinh có thể không đồng đều nhau, nhất là để biết nhận diện các từ đồng nghĩa, từ ở lớp một. Vào lớp một, có em đã biết trái nghĩa, từ đồng âm khác nghĩa qua các đọc, có em chưa, có em thậm chí đã biết kiểu bài tập như tìm từ đồng nghĩa/trái viết, có em còn chưa biết cách cầm bút. nghĩa với từ cho trước; chọn từ đúng nhất Lượng từ của mỗi học sinh cũng nhiều ít trong dãy đồng nghĩa để điền vào chỗ khác nhau do khả năng của từng em, do trống trong câu; nhận diện từ A trong kết sự hướng dẫn của người lớn, do môi hợp A+X và A trong kết hợp A+Y là 2 từ trường tiếp xúc, Do đó, GV cần chú đồng âm (như từ đàn trong kết hợp cái trọng việc dạy học theo cá thể. Không đàn với đàn trong đàn gà là hai từ đọc những khác nhau về lượng từ mà danh như nhau, chữ viết giống nhau nhưng mục từ cũng khác. Học sinh ở miền quê nghĩa hoàn toàn khác nhau) quen thuộc hơn với mảng từ ngữ biểu thị Giáo viên cũng cần hướng dẫn các gọi tên những sự vật hiện tượng của miền em biết giải nghĩa từ theo nhiều cách, quê, những hoạt động của người dân như giải nghĩa từ bằng trực quan (hành quê (như tre, dừa, bưởi, chanh, lúa, động, động tác, tranh ảnh, vật thật), bằng mạ, ao, kênh, rạch, ruộng, vườn, cày, các từ đồng nghĩa/trái nghĩa (như dũng cuốc, gieo, cấy, sàng sảy ); học sinh ở cảm là không nhút nhát, lộn xộn là không thành phố biết nhiều hơn các từ ngữ biểu ngăn nắp, lười biếng là không chăm chỉ, thị cảnh sắc, hoạt động của nơi phồn hoa hư là không ngoan ; mắc cỡ là xấu hổ, đô hội (như: công viên, nhà hàng, tàu biếu là cho, siêng năng là chăm chỉ, cần hỏa, đu quay, đạp vịt ). Thực tế này yêu cù), v.v Những nội dung giải nghĩa này cầu giáo viên phải linh hoạt sử dụng các 65
  3. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 ___ nguồn ngữ liệu khi dạy học các nội dung nhiều hiện thực mà giữa các hiện thực đã được đóng khung trong sách giáo này có mối quan hệ (hoặc là quan hệ khoa. tương đồng, hoặc là quan hệ tương cận). 2. Mở rộng vốn từ tích hợp với dạy Với từ nhiều nghĩa, ngoài việc chỉ ra cho nghĩa của từ học sinh sự giống nhau về nghĩa của từ Để giúp học sinh nhận diện nghĩa trong các kết hợp, còn rèn cho các em của từ, từ đó phải được đặt trong mối thói quen xác lập sợi dây liên tưởng và quan hệ với các từ khác bởi lẽ trong mối phát huy trí tưởng tượng khi tiếp xúc với quan hệ ấy nghĩa của từ mới được xác hiện thực khách quan. Dạy từ theo hướng định rõ ràng. Chẳng hạn, nghĩa của từ cắt này một mặt cung cấp vốn từ vựng cho sẽ được hiểu một cách cụ thể cặn kẽ khi người học, mặt khác giúp các em nhận đặt nó trong mối quan hệ với các từ thái, biết được nghĩa này nghĩa kia của một từ bổ, chặt (những từ giống nó). Qua đó, và biết xác định mối liên quan giữa các các em vừa nhận ra sự giống nhau về sự vật hiện tượng trong thực tế. Chẳng nghĩa giữa các từ; vừa chỉ ra được điểm hạn, nhìn trăng rằm liên tưởng đến cái đĩa khác biệt giữa chúng. Sự khác biệt này bạc ai đó quăng lên trời, hay viên ngọc quyết định việc lựa chọn từ cho từng khổng lồ được treo lơ lửng giữa không hoàn cảnh (cắt tóc/giấy, cam ; thái thịt/ trung, nhìn trăng đầu tháng lại thấy cong rau ; chặt cây/ xương, đá; bổ củi/cau). như lưỡi liềm hay như con thuyền; đứng Một từ, trong mỗi kết hợp nghĩa bộc lộ dưới tán cây bàng, cây phượng liên tưởng khác nhau, ví dụ: từ cắt trong kết hợp cắt giống cái nón che nắng; nhìn những cây cam, cắt tóc khác với cắt quan hệ, cắt nấm lớn nhỏ, cao thấp mọc san sát bên cơn đau; từ rửa trong rửa mặt, rửa rau nhau tưởng tượng là một thành phố nấm khác rửa nhục, rửa hận; từ nóng trong lúp xúp nóng lòng là “có tâm trạng mong muốn Sự hiểu biết về từ đa nghĩa, mối cao độ làm việc gì”, nóng mắt là “nổi quan hệ giữa các nghĩa, cơ chế biến đổi nóng vì thấy việc bất bình”, còn nóng nghĩa là những chỉ dẫn thiết thực cho mặt lại là “nổi nóng vì bị chạm đến danh giáo viên khi dạy học nghĩa từ. Việc xác dự cá nhân”; từ sáng trong sáng dạ có lập sợi dây liên hệ giữa các nghĩa nhờ nghĩa “mau hiểu, mau nhớ, thông minh”, những liên tưởng sẽ giúp học sinh nhận còn trong sáng mắt có nghĩa “thấy ra, ra được nghĩa của từ trong mỗi kết hợp nhận ra điều đúng điều phải mà trước đó cụ thể, giải thích được vì sao X dùng chỉ không thấy”; từ cười trong cười ruồi là A lại còn chỉ B. Như thế, việc xác định “cười hơi chúm môi”, cười tủm là “cười nghĩa từ mới có cơ sở, việc hiểu nghĩa từ mỉm tỏ ý vui thích một cách kín đáo”, mới thấu đáo, chắc chắn và bền vững là cười trừ lại có nghĩa “để tránh điều gì đó tiền đề cho việc dùng từ đúng, hay. Cách không phải của mình không muốn nhắc thức giúp học sinh nhận biết và phân biệt đến” các nghĩa của từ nhiều nghĩa (như trên đã Một từ không phải chỉ chứa một nói) là đặt từ đang xét trong các kết hợp nghĩa mà có thể chứa nhiều nghĩa. Tức là cụ thể. Ví dụ: Từ quả trong quả cam chỉ một hình thức ngữ âm có thể biểu thị cho bộ phận của cây; trong quả cân là khối 66
  4. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Vũ Thị Ân ___ sắt có hình thù giống quả cam/táo dùng của lửa với lòng người bà luôn nhóm yêu để xác định trọng lượng của vật; trong thương; hay giúp giải mã nghĩa hình quả đất gọi tên hành tinh con người đang tượng ẩn chứa trong những câu thơ sau: sống cũng có hình khối tròn giống Chị tre chải tóc bên ao. cam/táo. Hay từ xanh trong kết hợp áo Nàng mây áo trắng ghé vào soi xanh chỉ màu sắc, còn chuối xanh chỉ gương trạng thái của trái cây mà trạng thái này (Trần Đăng Khoa) thường được biểu hiện bằng màu xanh Những chị lúa phất phơ bím tóc của phần vỏ. Hay từ nhạt được hiểu với Những cậu tre bá vai nhau thầm thì nghĩa chỉ độ đậm thấp so với khẩu vị đứng học bình thường trong các cấu tạo cá kho Đàn cò áo trắng nhạt, chè nấu nhạt ; còn tím nhạt, nắng Khiêng nắng qua sông nhạt lại chỉ về màu sắc không đậm như Cô gió chăn mây trên đồng bình thường. Các trường hợp chén trong Bác mặt trời đạp xe qua đỉnh núi. xới đầy hai chén, tàn nhang trong mặt (Trần Đăng Khoa) tàn nhang, ruồi trong nốt ruồi, mặt nạ Cùng với việc nhận biết nghĩa hình khi chỉ cái bề ngoài giả dối (nó bị lột mặt tượng của từ là việc xác định biện pháp nạ) là các nghĩa chuyển của một từ đa nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ (các phương nghĩa. Ở các lớp cuối của bậc tiểu học, thức chuyển nghĩa từ). học sinh còn được biết về nghĩa hình Làm giàu vốn từ là một trong tượng của từ (nghĩa tu từ) như từ bầu bí những nội dung quan trọng của việc dạy trong ngữ cảnh Bầu ơi thương lấy bí cùng từ ngữ cho học sinh ở mọi lứa tuổi đặc chỉ người, mối quan hệ gắn bó, đoàn kết biệt là tiểu học. Nhiệm vụ học tập, nhu giữa người với người; Từ gào chỉ hoạt cầu hiểu biết khám phá thế giới, nhu cầu động của người phát ra âm thanh với âm giao tiếp buộc học sinh phải tăng cường lượng lớn có khi lại được dùng để chỉ âm vốn từ. Một đứa trẻ có vốn từ phong phú thanh dữ tợn của sóng biển (sóng gào); sẽ dễ dàng hơn, tự tin hơn trong giao giống từ gào, xé vốn chỉ hoạt động của tiếp và tiếp thu bài giảng, tiếp nhận nội người, trong câu Tia chớp xé rách cả bầu dung của sách đọc. Với vốn từ phong trời đen kịt lại chỉ hoạt động của tự phú, trẻ chủ động trong việc lựa chọn và nhiên; từ vàng trong tấm lòng vàng hay sử dụng từ. Ngược lại, nếu vốn từ nghèo hạt vàng làng ta biểu thị về sự quý giá nàn, các em sẽ gặp khó khăn trong giao đáng trân trọng của tấm lòng, hạt gạo. tiếp, lâu dần sinh ra mặc cảm, ngại nói Việc nhận biết và giải thích nghĩa chuyện thiếu cởi mở ảnh hưởng đến việc hình tượng đòi hỏi người dạy và người học tập. học phải có những liên tưởng tinh tế. Với Các văn bản trong sách Tiếng Việt câu thơ Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn. tiểu học hiện hành được phân bố theo Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng từng chủ đề rất thuận lợi cho việc làm (Bếp lửa – Bằng Việt), những liên tưởng giàu vốn từ theo quan điểm trường nghĩa. tinh tế sẽ giúp học sinh nhận biết được Việc tiếp nhận các từ theo mỗi chủ đề, điểm tương đồng giữa thuộc tính ấm áp từng hệ thống dễ theo dõi, dễ nhận biết 67
  5. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 ___ và nhớ một cách bền vững. Khi vận mới mẻ, những biểu hiện về sự phức tạp dụng, trẻ huy động nhanh hơn, dễ dàng của đời sống xã hội cũng khác. Các hơn vốn từ ngữ đã được sắp xếp thành trường từ vựng sẽ khác. Các từ ngữ hiệu từng lớp trong bộ nhớ của mình. Chẳng ứng nhà kính, El Nino, thủy quyển, thạch hạn, khi tả cái cây, các em huy động lớp quyển, mưa axit, sa mạc hóa, thế giới từ ngữ thuộc về cây đã có sẵn trong một phẳng, email, file, phần mềm, ngôn ngữ ô của bộ nhớ: các từ chỉ bộ phận cây (rễ, lập trình, hội nhập, ngáo đá, phê thuốc, gốc, thân, cành, nhánh, lá, hoa, quả), các kĩ năng sống, chung cư, tham nhũng từ chỉ về đặc trưng thuộc tính của cây khi đó chưa được dùng phổ biến giờ đây (cao, thấp, to, nhỏ, cổ thụ, tươi tốt, khô lại vô cùng quen thuộc. Điều đó chứng tỏ héo ), các từ chỉ về tác động của con để làm tròn chức năng biểu thị hiện thực người đến cây (trồng, ươm, chăm bón, khách quan, hệ thống từ vựng luôn luôn tưới, tỉa, chặt, đốn, phá ); Hay khi cần vận động. huy động các từ biểu thị thái độ và hành Nhu cầu cập nhật các trường từ động tích cực của con người với môi vựng mới của con người là tất yếu. Học trường tự nhiên, học sinh nhanh chóng sinh nói chung học sinh tiểu học nói tập hợp được các từ ngữ vốn đã được sắp riêng cũng vậy, các em cần được tiếp xếp trong một ngăn của bộ nhớ như: trân nhận các từ ngữ biểu thị hiện thực khách trọng, bảo vệ, giữ gìn, phát triển, trồng, quan mới mẻ: hiện tượng tự nhiên, tình nuôi, thuần dưỡng, chăm sóc trạng biến đổi cả theo chiều hướng tích Những chủ đề mà sách tiếng Việt cực lẫn tiêu cực của tự nhiên - xã hội, sự tiểu học đề cập đã tập hợp một lượng lớn, phát triển của khoa học kĩ thuật, kĩ năng một danh sách khá phong phú các từ ngữ sống Để đáp ứng yêu cầu đó, nguồn biểu thị về thế giới xung quanh như gia ngữ liệu cho dạy học tiếng Việt phải đình, trường lớp, quê hương, đất nước; về luôn là nguồn ngữ liệu mở. Các văn bản tình cảm gia đình, tình thầy trò, tình bè tuyển chọn đưa vào dạy học tiếng Việt ở bạn, tình yêu quê hương đất nước; về tiểu học cũng phải vận động phù hợp công việc của HS ở nhà, ở trường và nơi với quá trình vận động của hiện thực sinh sống. Song hiện thực vận động khách quan. Mặt khác, việc làm giàu không ngừng. Chẳng hạn, trước đây, sự vốn từ và tích cực hóa vốn từ cho HS biến đổi khí hậu, môi trường chưa gắt cần được tích hợp trong các môn học gao như bây giờ, công nghệ thông tin còn khác ngoài môn Tiếng Việt. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 2. Nguyễn Thị Ly Kha (chủ biên), Vũ Thị Ân (2008), Ngữ nghĩa học, Nxb Giáo dục. 3. Hoàng Phê (chủ biên) (1992), Từ điển tiếng Việt, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội. 4. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên) (2003, 2004, 2005, 2006), Tiếng Việt 2, 3, 4, 5, Nxb Giáo dục Việt Nam. (Ngày Tòa soạn nhận được bài: 10-4-2015; ngày phản biện đánh giá: 05-5-2015; ngày chấp nhận đăng: 05-6-2015) 68