Quan hệ mẹ con: Bài học đầu tiên của cuộc sống

pdf 345 trang ngocly 2540
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Quan hệ mẹ con: Bài học đầu tiên của cuộc sống", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfquan_he_me_con_bai_hoc_dau_tien_cua_cuoc_song.pdf

Nội dung text: Quan hệ mẹ con: Bài học đầu tiên của cuộc sống

  1. Quan hệ mẹ con : Bài học đầu tiên của cuộc sống Tủ Sách Tình Người Lausanne – Thụy Sĩ Xuân 2000 © NGUYỄN VĂN THÀNH ISBN 2-9700137-8-9 Nội dung Lời mở đường
  2. Phần 1 : Vai trò chủ động của trẻ em trong tiến trình phát triển 1.1. Những khả năng của trẻ em sơ sinh trong địa hạt giác quan Khả năng hiện hành và khả năng tiềm tàng Ba vùng học tập theo Vygotsky Thị giác : khả năng nhìn, Thính giác : khả năng nghe, Khứu, vị và xúc giác 1.2. Sáu tình trạng ý thức của trẻ em Ngưỡng sơ khởi và khổ đau Phản ứng quen nhàm và rút lui Kích thích bất cập và thái quá Tình trạng 1 : giấc ngủ thâm sâu Tình trạng 2 : giấc ngủ nghịch lý Tình trạng 3 : Chuyển tiếp Tình trạng 4 : Tỉnh thức hoạt bát Tình trạng 5 : Tỉnh thức náo động
  3. Tình trạng 6 : Khóc la inh ỏi 1.3. Trẻ em từ 6 tháng đến 1 năm 1.4. Trẻ em từ 12 đến 18 tháng 1.5. Trẻ em từ 2 đến 3 tuổi 1.6. Trẻ em từ 3 đến 6 tuổi Phần 2 : Thể thức phát hiện những trẻ em có nguy cơ Can thiệp, đề phòng Hướng dẫn, giúp đỡ 2.1. Phương pháp Apgar 2.2. Phương pháp Brazelton Khả năng rút lui và quen nhàm Khả năng chú ý và tiếp xúc Khả năng tổ chức các tình trạng ý thức
  4. Khả năng vận động : Trương lực cơ và phản xạ Thể thức thích nghi 2.3. Trắc nghiệm Brunet – Lézine Khả năng vận động và tư thế Khả năng phối hợp các giác quan Ngôn ngữ Tiếp xúc xã hội 2.4. Phát hiện là gì ? Phần 3 : Can thiệp và đề phòng 3.1. Thí nghiệm “nét mặt vô hồn” 3.2. Khả năng tiếp xúc và trao đổi của người mẹ 3.3. Nhu cầu tiếp xúc nơi trẻ sơ sinh 3.3.1 Học tập điều chế và điều hợp Ba chức năng của người mẹ Kích thích đúng tiêu chuẩn Kích thích thái quá
  5. Kích thích bất cập 3.3.2. Kéo dài khả năng chú ý Phương pháp trở lui về trước 3.3.3. Nhận biết những giới hạn Phương pháp hoà ứng 3.3.4. Cuộc sống tự lập Những khả năng cần thiết Cơ cấu chuyển tiếp : Phương pháp bắc cầu 3.4. Sáu thành tố cơ bản của công việc tiếp xúc mẹ con 3.4.1. Hoà ứng 3.4.2. Tương đồng 3.4.3. Tiếp cận 3.4.4. Điều
  6. hướng 3.4.5. Vui thú và hứng khởi 3.4.6. Linh động Phần 4 : Những khó khăn tiếp xúc nơi bà mẹ Sơ đồ giải thích tâm lý Những cá tính của đứa con Thể thức khám phá và sáng tạo ý nghĩa Tiếp thu và biến chế Sản xuất những triệu chứng Năm công tác can thiệp và đề phòng Vai trò của người cha và gia đình
  7. Phần 5 : Kết luận : Bốn kỷ năng của bà mẹ để nuôi dạy đứa con chậm phát triển Sách tham khảo LỜI MỞ ĐƯỜNG Chủ đề được khảo sát và nghiên cứu ở đây là “Quan hệ mẹ con : những bài học đầu tiên của cuộc sống”. Công việc này bắt đầu cách đây 20 năm. Ngày ngày tiếp xúc với những trẻ em chậm phát triển, thuộc mọi thể loại, tự nhiên tôi phải đối diện nhiều câu hỏi trong vai trò làm người giáo viên đặc biệt: Câu hỏi thứ 1 : Tôi phải làm gì cụ thể ngày hôm nay để tạo điều kiện thuận lợi
  8. cho công việc học tập của trẻ em ? Câu hỏi thứ 2 : Chậm phát triển có nghĩa là gì ? Sau nhiều năm tìm tòi, tiếp xúc, nghiên cứu, học hỏi, tôi chỉ giữ lại một định nghĩa cụ thể duy nhất : Bất kỳ nguồn gốc thuộc thể loại nào, tất cả những trẻ em chậm phát triển đều nhất loạt có những vấn đề trong lãnh vực học tập: tốc độ học tập chậm chạp, số lượng học tập có giới hạn, chất lượng học tập rất là mong manh dễ bị tổn hại, mất mát, thoái hoá. Câu hỏi thứ 3 : Mặc dù những nổ lực lớn lao của bao nhiêu thầy, cô nhiều trẻ em cho tôi một cảm tưởng là các em dẫm chân tại chỗ. Công khó của thầy cô chỉ là “nước rơi đầu vịt”. Hay là “Tiếc công đan giỏ bỏ cà, giỏ thưa cà lọt, công đà uổng công”.
  9. Cho nên giả thuyết của tôi : là thể thức dạydỗ của chúng ta trong các lớp đặc biệt không thích ứng với mức độ và điều kiện học tập của trẻ em chậm phát triển. Cho nên trong công việc hằng ngày, tôi đã phải xét lại điều dạy, cách dạy, thời lượng dạy Câu hỏi thứ 4 : Sau khi xét lại và thay đổi thể thức dạy dỗ, tôi nhận thấy và đánh giá một cách khách quan và khoa học nhiều thay đổi và tiến bộ nơi trẻ em. Đồng thời, trong chính bản thân tôi, sau một ngày làm việc, tôi cảm thấy an toàn nội tâm, vì tôi cảm thấy rõ rệt tôi đã đi một chặng đường nho nhỏ với các em học sinh. Chặng đường còn rất ngắn ngủi. Còn lầy lội bùn nhơ. Tuy nhiên thầy và trò chúng tôi đã hái được một vài bông hoa nhỏ mọn. Tuy nhiên, mỗi năm khi tiếp đón một trẻ
  10. em mới vào lớp học, tôi càng ngày càng xác tín : Công việc dạy dỗ phải bắt đầu sớm hơn. Có một cái gì đã đổ vỡ, trước khi chúng ta bắt đầu xây dựng. Nhiều trẻ em “phải quên” một số tác phong đã tạo trở ngại, trước khi “học tập” một tác phong mới. Tuy nhiên kinh nghiệm dạy dỗ cho tôi thấy : Nhổ cỏ dại đòi hỏi nhiều lao lực hơn là trồng cây ăn trái. Và cứ như vậy, từ câu hỏi này đến câu hỏi khác, tôi lần mò mù loà tìm đến với những quan hệ tiếp xúc mẹ con. Trong vòng 20 năm qua, nhiều tác giả đã đề cập đến vấn đề này dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Nhưng chúng ta có thể xếp loại thành hai khuynh hướng : Khuynh hướng 1 nêu lên những trọng trách của bà mẹ trong vấn đề dạy con. Vô tình hay hữu ý, khi quá đề cao vai trò và
  11. ảnh hưởng lớn lao của người mẹ, những tác giả thuộc khuynh hướng này đã gây nên cho các bà mẹ nhiều mặc cảm tội lỗi . Mặc cảm là một tình cảm tiêu cực, một ý thức mù mờ. Bà mẹ cảm thấy mình có lỗi, nhưng lỗi đó là gì, không ai xác định rõ rệt. Cho nên, vì vô hình, vô tượng mặc cảm tội lỗi ấy trở thành một ám ảnh có mặt khắp mọi nơi. Ai muốn thấy đâu thì thấy, muốn có nội dung gì thì nội dung ấy xuất hiện. Trong vấn đề chậm phát triển, vì những mặc cảm tối tăm ấy, nhiều bà mẹ tự tố cáo mình là nguyên nhân làm cho đứa con chậm phát triển . Khuynh hướng 2 đồng hoá vấn đề chậm phát triển với một số mệnh, định mệnh. Hệ quả của lòng tin không căn cứ ấy là thái độ hoàn toàn bị động của con người trước một định mệnh từ trời rơi xuống : Nhắm
  12. mắt đưa chân , chấp nhận số kiếp rủi ro của mình, của con cái mình. Cách đây chừng 50 năm về trước, nhưng trẻ em chậm phát triển được cư xử như những bệnh nhân thường trú trong các bệnh viện tâm thần. Từ 20 năm trở lại đây, những lớp học đặc biệt đã thay thế những bệnh viện. Trẻ em chậm phát triển, giống như bao nhiêu trẻ em khác có quyền lợi và nhiệm vụ đến trường học, trước tuổi thành nhân. Cơ cấu tổ chức đã thay đổi. Nhưng não trạng hoặc lối nhìn về trẻ em chậm phát triển chưa theo kịp đà tiến bộ mong muốn. Đề nghị của tôi là tức khắc can thiệp, khi có một vài dấu hiệu cho thấy trẻ em đang lớn lên với những nguy cơ trở thành chậm phát triển. Tức khắc can thiệp, để người mẹ có một cái nhìn đứng đắn về đứa con của
  13. mình. Tức khắc can thiệp, để đứa con có những điều kiện lớn lên và học tập thích ứng với tình trạng hiện tại và mức độ nhu cầu của em. Để quảng diễn dự án can thiệp ấy, tôi sử dụng một dàn bài bao gồm bốn phần chủ yếu sau đây: Trong phần I : - Tôi đề nghị một lối nhìn năng động, tích cực về trẻ em sơ sinh, dựa vào những khám phá mới nhất của ngành tâm lý phát triển. Trong phần II : - Tôi trình bày một số trắc nghiệm tâm lý nhằm quan sát trẻ em một cách khách quan và khoa học, đồng thời phát hiện một vài nguy cơ chậm phát triển. Cha mẹ và độc giả không chuyên môn có thể nhảy qua phần này. Trong phần III : - Khi khảo sát thể thức giao tiếp giữa bà mẹ và con cái, tôi nhấn
  14. mạnh khía cạnh thực tiễn : những điều phải làm, phải tránh để nâng cao chất lượng tiếp xúc của đứa con trong những ngày tháng đầu tiên của cuộc sống. Trong phần IV, tôi lưu tâm đến cách thức nhìn con của bà mẹ. Tôi có khuynh hướng và tập quán gọi đó là bản đồ tâm linh của bà mẹ về đứa con sơ sinh của mình. Bản đồ ấy phải cập nhật hoá, khách thể hoá, để người mẹ có một cái nhìn toàn diện và tích cực về đứa con. Làm như vậy bà mẹ có khả năng khắc phục bao nhiêu tình cảm đau buồn khả dĩ cản trở và làm bà tê liệt trong công việc nuôi dạy con mỗi ngày. Để xây dựng ngôi nhà tư tưởng và những đường hướng hành động cụ thể, thực tiễn này, thức ăn tinh thần của tôi là những
  15. tác phẩm của các tác giả sau đây: T. Berry Brazelton, bác sĩ chuyên về nhi đồng, Boston Mỹ. Bertrand Cramer, bác sĩ tâm thần Genève, Thụy Sĩ. Daniel N. Stern, bác sĩ và giáo sư tâm lý, Genève, Thụy Sĩ. Serge Lebovici, bác sĩ tâm thần và phân tâm, giáo sư Đại học Paris, Pháp. Lẽ đương nhiên, không có những kinh nghiệm cụ thể và thực tiễn, với tư cách là một giáo viên trong một lớp học đặc biệt, trong vòng hai mươi năm liên tục, từ năm 1972, tôi không thể nào có khả năng tiêu hoá, chọn lọc, xếp đặt theo thứ tự ưu tiên để làm công việc “ăn tằm nhả tơ”. Cũng với tư cách là một giáo viên, ngày ngày va chạm với thực tế học tập của trẻ em chậm phát triển, tôi cố gắng kết hợp
  16. một cách hài hòa hai bình diện : Tìm hiểu ý nghĩa và thể thức hành động cụ thể, thực tiễn. Hành động một cách bốc đồng, máy móc, tự động, trước khi tìm hiểu ý nghĩa và lý do, có thể dẫn đưa chúng ta vào con đường sai lạc. Trẻ em chậm phát triển có quyền được chúng ta đối xử như một chủ thể, một con người, giống như bao nhiêu trẻ em khác. Suy nghĩ chín mùi trước khi hành động là một hình thức tôn trọng những trẻ em ấy. Tuy nhiên, việc đố kị số một đối với tôi là trở thành con nộm đa ngôn, thao thao bất tuyệt, ba hoa, nói láo ăn tiền. Cái hiểu phải biến thành cái làm và cái làm phải xuất phát từ cái hiểu. Cho nên, sau khi giải bày ý nghĩa và lý do, tôi luôn luôn cố gắng đề nghị :
  17. - Những điều cần làm. - Thứ tự cần tôn trọng trong khi làm. - Làm xong, đánh giá kết quả. - Điều chỉnh, kiện toàn khi kết quả không đạt tiêu chuẩn, hoặc chỉ tiêu. Hy vọng những ý kiến và lời đề nghị của tôi trở thành những viên sỏi trắng có khả năng hướng dẫn một phần nào những bước chân tìm đường trong đêm tối của một số giáo viên đặc biệt và một số cán bộ đang hoạt động trong ngành tâm lý, xã hội PHẦN 1 VAI TRÒ CHỦ ĐỘNG CỦA TRẺ EM TRONG TIẾN
  18. TRÌNH PHÁT TRIỂN. Ngành tâm lý tăng trưởng nhằm nghiên cứu những tiến trình và điều kiện phát triển của trẻ em, từ ngày được cưu mang trong lòng mẹ, và nhất là từ ngày sinh ra. Ngành tâm lý ấy đã thực hiện những bước tiến bộ rõ rệt từ hơn 10 - 15 năm gần đây. Trước đây, từ thời gian sinh ra đến lúc trẻ em có ngôn ngữ độ 3 - 4 tuổi, những kiến thức về tâm lý trẻ sơ sinh rất thô thiển, nghèo nàn và đại loại. Ngày nay, những khám phá mới nhất cho chúng ta thấy rằng : Trẻ sơ sinh, từ ngày sinh ra, đã là một chủ thể : - Có những khả năng rõ rệt về giác quan.
  19. - Chủ động trong tiến trình phát triển cũng như trong những quan hệ tiếp xúc trao đổi có tính cách xã hội giữa mẹ và con. - Có những khả năng để khắc phục những hoàn cảnh khó khăn và thích nghi với môi trường chung quanh, sau khi vượt ra khỏi lòng mẹ. Biết rõ những khả năng và giai đoạn phát triển, người mẹ sẽ tạo mọi điều kiện dễ dàng, để trẻ em đóng góp tích cực phần của mình trong tiến trình xây dựng bản thân. Những hiểu biết tâm lý như vậy có hiệu năng giải thoát người mẹ khỏi những lo âu, khắc khoải, và tạo điều kiện thuận lợi để người mẹ trao đổi và tiếp xúc với đứa con. Chính những quan hệ trao đổi tiếp xúc này sẽ dần dần gia tăng chất lượng, nhằm đáp ứng mọi nhu cầu tăng trưởng của đứa
  20. con. Trường hợp những đứa con đã gặp một vài khó khăn trắc trở, trong tiến trình phát triển của mình, những kiến thức tâm lý sẽ giúp người mẹ sáng tạo những giải pháp thích ứng; hay là tức khắc bắt tay vào công việc, để giúp trẻ em khắc phục những khó khăn và vượt thắng một số chướng ngại. * * * CHƯƠNG 1.1 NHỮNG KHẢ NĂNG CỦA TRẺ EM TRONG ĐỊA HẠ T GIÁC QUAN
  21. Nói đến khả năng, chúng ta cần phân biệt rõ ràng hai loại khả năng : Khả năng hiện hành : là khả năng đã có mặt nơi trẻ em. Trẻ em hoàn toàn chủ động, không cần chúng ta kích thích hoặc tạo điều kiện thuận lợi. Khả năng tiềm tàng : là khả năng đã có mặt ở một mức độ nào đó nơi trẻ em. Trẻ em chưa hoàn toàn chủ động. Các em cần sự kích thích của người lớn để thể hiện khả năng ấy. Sau một thời gian được kích thích và thực tập, khả năng tiềm tàng sẽ trở nên hiện hành, hiện thực. Nói cách khác, khả năng tiềm tàng chưa phải là cây, nhưng còn là hạt giống, cần được tưới tẩm để mọc lên. L.S Vygotsky dựa vào sự khác biệt giữa hai loại khả năng ấy để phân biệt ba vùng
  22. học tập hay là ba vùng hoạt động : Thứ nhất là vùng tự lập hoàn toàn : Vùng này bao gồm tất cả những khả năng hiện hành của trẻ em. Ở đây trẻ em có khả năng làm một mình; chủ động và tự lập hoàn toàn, không cần sự giúp đỡ của kẻ khác. Về mặt sư phạm, chúng ta cần thêm một đặc điểm khác là lý thú hay là ý thích. Không cần một yếu tố ở ngoài thúc đẩy, trẻ em tự mình thường xuyên trở lại vùng tự lập này, để củng cố và bồi dưỡng ý thức về khả năng của mình hay là lòng tự tin vào mình. Thứ hai là vùng học tập, thực tập : Vygotsky gọi vùng này là vùng tiếp giáp, tiếp cận, vì nó phải nằm sát ngay vùng tự lập. Trẻ em làm được một số công việc với
  23. điều kiện là người khác tạo ra cho các em những điều kiện thuận lợi hay là làm công việc bắc cầu, tạo trung gian. Sau này chúng ta sẽ trở lại với kỹ thuật bắc cầu, trong lãnh vực giáo dục và sư phạm. Cơ bản của vùng tiếp cận phải dung nạp hai điều kiện : Điều kiện 1 : Tỉ lệ hoạt động bao gồm : 3/4 khả năng hiện hành. 1/4 khả năng tiềm tàng. Điều kiện 2 : Có liên hệ tiếp xúc giữa hai thành viên; trong đó vui thích chiếm một vị trí thượng thắng. Thiếu vui thích, chất lượng của tiếp xúc sẽ suy giảm và bị khước từ. Vùng 3 : là vùng xa lạ, chưa thể đề cập
  24. đến. Tất cả những hoạt động đều vượt ra ngoài tầm hiểu biết và khả năng của trẻ em. Nếu chúng ta khư khư cố chấp, áp đặt cho trẻ em những điều phải làm thuộc vùng này, chúng ta sẽ dần dần tạo nên những trẻ em chống đối, khước từ, bị động, dị ứng đối với vấn đề học tập. Đó là nguyên nhân cơ bản tạo nên tình trạng chậm phát triển hay là rối loạn về tác phong. Cách thức dạy dỗ, giáo dục bằng cách áp đặt từ ngoài những điều vượt quá khả năng và tầm hiểu biết hiện tại của trẻ em được mang tên là Kích thích quá đáng, còn được gọi là "vượt ngưỡng“. Một loại kích thích khác cũng tạo nên tình trạng chậm phát triển là Kích thích bất cập , nghèo nàn, thiếu thốn, "ở dưới
  25. ngưỡng". Ở đây khả năng học tập của trẻ em không được phát huy một cách đầy đủ và thích ứng. Trong tinh thần và quan điểm ấy, chúng ta cần mật thiết liên hệ hai vấn đề chậm phát triển và phát huy khả năng học tập. Đây là một khả năng bẩm sinh có mặt nơi mọi trẻ em. 1.1.1. Thị giác : Khả năng nhìn, thấy. Từ những ngày mới sinh ra, trẻ em đã biết nhìn: Quay đầu theo dõi một đồ vật có màu sắc rực rở, không quá sáng chói. Lựa chọn, yêu chuộng một số cơ cấu riêng biệt, giống khuôn mặt của con người : hình thuẫn có đôi mắt Tập trung chú ý vào những đường ranh giữa hai diện tích có hai màu sắc phản nghịch nhau, hay là vào địa điểm của các
  26. góc của một hình tam giác. Nói cách chung, trẻ sơ sinh chú ý đặc biệt vào những vị trí tập trung nhiều tin tức và tín hiệu phản nghịch nhau. Sau ba tuần, trẻ sơ sinh đã có khả năng nhận biết và phân biệt khuôn mặt của mẹ mình. Khoảng cách giữa mắt và đối tượng lúc ban đầu: 25-30cm, khoảng cách lúc 3 tháng: 2-3m, khoảng cách lúc 6 tháng: giống người lớn. Khi một đồ vật gây chú ý và thích thú từ từ di dộng, trẻ em có thể quay đầu qua trái và phải, với góc chừng 12 độ; hay là lên phía trên, xuống phía dưới. Chừng ấy dữ liệu cho ta thấy : a/. Từ những ngày đầu tiên của cuộc sống, trong cái nhìn và cách nhìn của trẻ em, các em đã bộc lộ rõ rệt nhiều khả năng
  27. đặc biệt như tổ chức các dữ kiện, kết hợp với khả năng vận động của đầu, đình chỉ những phản xạ vận động của tứ chi làm cản trở tập trung chú ý vào đối tượng, lựa chọn một số kích thích đặc thù và thích hợp. b/. Khả năng nhìn và thấy như vậy đòi hỏi phải có một hệ thần kinh trung ương não bộ lành mạnh, toàn vẹn không bị chấn thương hoặc thất tổn. c/. Khả năng nhìn và thấy như vậy là cơ bản của trí thông minh. Thiếu khả năng này, trẻ em sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề khám phá và học hỏi. d/. Để có thể vận dụng được khả năng này để học tập và tạo nên những quan hệ trao đổi, tiếp xúc với bà mẹ, đứa trẻ phải có một khả năng khác là biết duy trì và dần dần kéo dài tình trạng thức tỉnh hoạt bát.
  28. Nhiều bà mẹ quá nghiện ngập rượu mạnh, ma tuý, lạm dụng thuốc men, thiếu dinh dưỡng suốt thời kỳ mang thai, có thể cho ra đời những đứa con thiếu khả năng thức tỉnh trong những ngày tháng đầu tiên. Và một số khó khăn sau này đã bắt nguồn từ những yếu tố ấy. Cho nên đây là một tiêu cứ để chúng ta sớm phát hiện những trẻ em có nguy cơ, hầu can thiệp tức khắc và đề phòng những gì trầm trọng có thể xảy đến sau này. e/.Trong thực tế, chúng ta cần phân biệt nơi trẻ sơ sinh hai cách nhìn khác nhau : Nhìn bất động; nhìn chòng chọc, cố định. Trẻ em hình như bị đối tượng thôi miên. Mắt cac em gắn chặt vào vật được nhìn. Dấu hiệu này cho ta biết : trẻ em không có khả năng tự động rút lui, để hạ giảm cường độ kích thích.
  29. Liếc nhìn hoạt bát : liếc nhìn này bao gồm bốn giai đoạn : 1. Chú ý nẩy sinh, hoặc phản ứng giật mình tỉnh táo. 2. Chú ý tăng cường. 3. Ý thích giảm sút từ từ. 4. Trẻ em lơ là và khước từ, vì nhàm chán quen thuộc. Quen nhàm là một phản ứng có khả năng bảo vệ hệ thần kinh trước những kích thích dồn dập đổ tới, bằng cách loại thải những đột nhập không thích ứng. Khả năng “khép kín cửa” giác quan này thiếu hiệu năng nơi những trẻ em “thiếu tháng” hoặc thiểu năng. Những loại thuốc an thần hoặc thuốc mê được người mẹ sử dụng lúc sinh nở, cũng giảm suy khả năng này, nơi đứa trẻ sơ sinh, bao lâu ảnh hưởng của các loại dược phẩm ấy còn có
  30. tác dụng trên hệ thần kinh của em. f/. Sau hết, liếc nhìn là phương tiện và điều kiện để mẹ và con tiếp xúc trao đổi, thiết lập những quan hệ gắn bó vào nhau. Biết nhìn con và tạo điều kiện để đứa con học tập nhìn mình; trong lúc em ở vào tình trạng tỉnh thức hoạt bát : đây là một khả năng tự nhiên, bẩm sinh, có mặt nơi người mẹ. Tuy nhiên, khi có những khó khăn xảy đến từ phía đứa con, vì lý do sinh thiếu tháng hay thiểu năng khả năng nhìn của người mẹ có thể bị tê liệt vì lý do suy nhược khổ đau, thất vọng Lúc bấy giờ, vì thiếu những kích thích cần thiết từ phía của người mẹ, những khó khăn ban đầu của đứa con càng ngày càng trở nên trầm trọng hơn ! Trong tinh thần ấy, người mẹ cần được nâng đỡ tức khắc và kịp thời, để nhận
  31. chân giátrị những yếu tố sau đây : Đứa con chưa nhìn mình, chưa hẳn vì thiếu khả năng, nhưng vì thiếu điều kiện thuận lợi, do chính người mẹ sáng tạo cho đứa con. Đứa con ngoảnh mặt không nhìn mình, không phải vì nó ghét mình, không thích mình nhưng đó là một khả năng biết rút lui, để tự bảo vệ mình. Chấp nhận con là tôn trọng khả năng và quyền lợi ấy. Cần lợi dụng tối đa giai đoạn tỉnh thức hoạt bát của đứa con để tiếp xúc và thiết lập quan hệ gắn bó mẹ con. 1.1.2. Thính giác : khả năng nghe. Nghe là một khả năng thứ hai của đứa bé sơ sinh. Tuy dù khả năng này cần được phát huy song song và phối hợp với khả năng thấy, cho đến khi mọi đường dây của tế bào thần kinh được lớp my-ê-lin bao
  32. bọc Ở một cấp độ nào đó, khả năng này đã bắt đầu hoạt động ngay sau khi đứa con sinh ra : a/ Trong tuần lễ đầu tiên, đứa bé đã bộc lộ ý thích của mình đối với tiếng nói phụ nữ, đặc biệt là tiếng nói của người mẹ, bằng các phản ứng như sau : trở nên hoạt bát thức tỉnh và quay đầu về phía tiếng nói. b/ Để trắc nghiệm và phát hiện khả năng này, chúng ta có thể dùng một kích thích âm thanh như giọng nói dịu dàng hay là tiếng lúc lắc phản ứng của đứa bé sơ sinh sẽ diễn biến như sau; trong những điều kiện bình thường lành mạnh : Trẻ em thức tỉnh và dần dần trở nên hoạt bát. Hơi thở không đều (hồi hộp). Hai mắt bừng sáng, tò mò, mở rộng.
  33. Khi trẻ em đã thức tỉnh và hoạt bát tối đa, cac em sẽ quay mắt và đầu về phía tiếng động, để tìm kiếm nguồn gốc phát sinh. c/ Để có một cái nhìn toàn diện về phản ứng của trẻ em trước những âm thanh, chúng ta cần phân biệt ba loại kích thích khác nhau: Loại 1. Những âm thanh có tần số từ 500 đến 900 chu kỳ/1 giây. Đây là vùng tần số của giọng nói loài người.Trước những kích thích thuộc loại này, phản ứng thông thường của trẻ em được ghi nhận như sau : Trẻ em đình chỉ hoạt động thuộc địa hạt vận động cơ thể bên ngoài. Nhịp tim trở nên chậm chạp. Loại 2. Những âm thanh có tần số cao trên 1000 chu kỳ.
  34. Trẻ em giật mình. Quay đầu tránh né. Nhịp tim đập mạnh và hơi thở tăng cường. Màu da trở nên hồng đỏ Nếu âm thanh vẫn kéo dài với tần số cao như vậy, hoặc là trẻ em trở nên nhàm quen, không còn phản ứng. Một số trẻ em sẽ khóc la inh ỏi để khắc phục hoàn cảnh gây rối loạn như vậy. Loại 3: Những âm thanh êm đềm, dịu dàng chung quanh tần số 500 c/s. Những vận động cơ thể giảm suy. Hơi thở và nhịp tim hạ giảm. Đầu và mắt quay về phía nguồn gốc phát âm. d/ J. Lacey còn đưa ra một nhận xét chính xác và cụ thể hơn. Theo tác giả này, phản ứng gia tăng hay là suy giảm của trẻ
  35. em tuỳ thuộc tình trạng và điều kiện hiện tại của trẻ em chính lúc trẻ em được kích thích. Ví dụ nhịp tim của trẻ em đang đập mạnh, kích thích âm thanh sẽ hạ giảm nhịp tim. Trái lại, nhịp tim ở mức độ yếu, kích thích âm thanh sẽ làm gia tăng nhịp tim. Trong địa hạt tác phong và vận động, cũng có những hiện tượng “trở về mức độ trung bình” như thế : Nếu trẻ em đang ở tình trạng hoạt náo, khóc la inh ỏi, tay chân múa động vùng vẫy; một âm thanh dịu dàng vui thú sẽ làm cho trẻ em thư giản. Trái lại, khi trẻ em còn mê man bình lặng, âm thanh và giọng nói hoặc tiếng động lúc đầu có thể làm trẻ em giật mình tỉnh thức, trở nên tỉnh táo hoạt bát và quay về phía phát âm thanh.
  36. Cả trong hai trường hợp, kích thích âm thanh có khả năng tạo cho trẻ em một tình trạng thức tỉnh hoạt bát, thuận lợi cho mọi công việc học tập hay là tiếp xúc, trao đổi. Tiếng hát của bà mẹ bên cạnh chiếc nôi của đứa con có thể ru con ngủ và cũng có thể đánh thức con dậy để bồi dưỡng, vui đùa, dạo chơi. e/ Chừng ấy nhận xét và tin tức về khả năng nghe của đứa bé đã chứng minh cho chúng ta thấy rõ một điều rất cơ bản trong quan hệ mẹ con : Tiếng nói và giọng nói của bà mẹ có một tầm quan trọng, trên vấn đề tăng trưởng và phát triển của đứa con. Đứa con cần mẹ nhìn mình cũng như cần mẹ nói chuyện với mình, mặc dù em chưa có khả năng nói và hiểu tiếng nói loài người. Những âm thanh và cung điệu trầm
  37. bổng đã có khả năng tổ chức, điều hướng tác phong và tâm tình của đứa con. Qua giọng nói của bà mẹ, đứa con sẽ dần dần ý thức một cách thấm đậm : . “Tôi là một người quan trọng có giá trị, . “Tôi đang sống và được yêu thương, cuộc đời thật đáng sống. Trong câu ca dao : “Mẹ già như chuối ba hương, ”Như xôi nếp một “Như đường mía lau ” Người bình dân Việt Nam đã ý thức tất cả ý nghĩa và giá trị trong giọng nói của bà mẹ : đó là một của ăn tình cảm làm cho đứa con lớn lên về mặt tâm thần và trí tuệ. f/ Nhận xét sau cùng là qua giọng nói, người mẹ sẽ tỏ ra có khả năng hiểu biết nhu cầu của đứa con và đáp ứng một cách
  38. thoả đáng; hay là giữa mẹ và con, những khoảng cách càng ngày càng gia tăng. Một số trẻ em từ giây phút đầu tiên đã tỏ ra quá nhạy cảm, dễ bị kích động và căng thẳng. Ngưỡng độ kích thích sơ khởi là mức độ tối thiểu, để trẻ em có thể đưa ra những phản ứng. Ngưỡng độ này có thể rất thấp nơi trẻ em nhạy cảm. Vùng tần số thuộc giọng nói loài người là 500 900 chu kỳ mỗi giây. Đối với một số trẻ em, những tần số ấy đã quá lớn, có thể tạo ra những đau đớn nhức nhối. Cho nên các em có thái độ và phản ứng quay mặt nơi khác hay là bịt tai, để tự bảo vệ mình. Phản ứng rút lui, làm ngơ, đóng kín cửa giác quan, nói cách chung là phản ứng tự vệ không có mặtnơi một số trẻ em: vì nhiều lý do, trong đó có lý do “hệ thần
  39. kinh bị chấn thương hay là chưa được phát triển đầy đủ”. Trong những trường hợp như thế, người mẹ cần được nâng đỡ, để ý thức đến những khó khăn của đứa con và tìm phương cách kích thích thích ứng với điều kiện của đứa con, trong địa hạt âm thanh và giọng nói. g/ Một số tác giả đang nghiên cứu vấn đề liên hệ nhân quả giữa hội chứng Tự Kỷ (Autism) và ngưỡng độ kích thích trong địa hạt thị và thính giác. Trên bình diện giáo dục và sư phạm, chúng ta cần lưu tâm đến vấn đề NGƯỠNG kích thích một cách đặc biệt. Nói đến NGƯỠNG là nói đến khả năng phản ứng và sức chịu đựng của trẻ em trong vấn đề học tập. Trong những điều kiện gây nên khổ đau nhức nhối, trẻ em không thể tiếp thu và chủ động. Học tập lúc bấy giờ có thể trở nên một cực hình.
  40. 1.1.3. Khướu giác, vị giác và xúc giác Những khả năng của trẻ em sơ sinh cũng có mặt trong những địa hạt thuộc các giác quan khác. 1.1.3.1. Về mặt khứu giác Một trẻ sơ sinh sau một tuần lễ đã có khả năng phân biệt 2 miếng bông: miếng bông thứ 1 có tẩm mùi sữa của chính mẹ mình, miếng bông thứ 2 tẩm mùi sữa của một người mẹ khác; 80% trẻ sơ sinh quay đầu về phía miếng bông có mùi sữa của mẹ mình. Sau ba tuần lễ, được mẹ bồng trên tay, đứa bé đói bụng có hành động “tìm kiếm” vú mẹ. Ngược lại, được người cha bồng bế, đứa bé không có hành vi này. 1.1.3.2. Về mặt vị giác Ngay từ những ngày đầu tiên, qua nhịp điệu và tốc độ bú của đứa bé, chúng ta có
  41. thể khám phá và nhận biết : đứa bé có khả năng phân biệt nước muối, sữa bò và sữa của mẹ mình. Sau một vài ngày cho con bú, một bà mẹ sẽ khám phá những nhu cầu và ý thích của đứa con qua cách bú của nó. 1.1.3.3. Về mặt xúc giác Xúc giác là phương tiện tiếp xúc, trao đổi giữa mẹ và con. Xúc giác được sử dụng để dỗ dành và làm cho trẻ em lắng dịu, trở lại tình trạng quân bình. Xúc giác là phương tiện để đánh thức. Xúc giác được dùng để tăng cường hoặc hạ giảm mức độ hoạt động. Cũng giống như những âm thanh, giọng nói, kích thích thuộc xúc giác có những giá trị và tác dụng khác nhau, tùy tình trạng và điều kiện hiện tại của đứa bé :
  42. Một trẻ em đang bực bội tức giận, sẽ lắng dịu, trở nên bình tĩnh, khi có một bàn tay vuốt ve nhẹ nhàng, chậm rãi. Một trẻ em nửa tỉnh nửa mê, sẽ trở nên tỉnh táo nếu có người lại gần, từ từ thoa bóp chân tay hoặc bồng bế đưa qua đưa lại. Một trẻ em tỉnh táo bình lặng sẽ trở nên thức tỉnh hoạt bát, nếu chúng ta dùng chiếc võng, để đu đưa càng lúc càng nhanh. Trong lãnh vực xúc giác, ảnh hưởng còn tùy thuộc vào những vùng được kích thích. Có em thích thoa đầu, em khác thích trò chơi va chạm mạnh, có em thích được thoa lưng. Em khác trở nên hoạt bát, nếu chúng ta thoa bóp hai bàn chân. Ngày nay trong lĩnh vực trị liệu và khoa sư phạm đặc biệt dành cho trẻ em thiểu năng loại nặng và trầm trọng, nhiều
  43. phương pháp đã đặt trọng tâm vào lãnh vực xúc giác, để phát huy khả năng trao đổi và tạo ra một nếp sống thoải mái cho những trẻ em này. Phương pháp “những kích thích cơ bản”, khoa “thoa bóp trị liệu”, đang được sử dụng trong các lớp đặc biệt, cũng nhằm những mục tiêu tương tự. Để kết luận, chúng ta cần ghi nhận một vài yếu tố cơ bản sau đây : 1/. Năm giác quan là vốn liếng rất quan trọng của trẻ em. Cho dù nghèo nàn, khuyết tật đến độ nào, vốn liếng ấy vẫn có mặt nơi một trẻ em. Biết khai thác vốn liếng ấy, để tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ em phát huy khả năng học tập là công việc và nhiệm vụ của chúng ta. 2/. Năm giác quan là 5 cánh cửa để trẻ em tiếp xúc và trao đổi với thế giới bên
  44. ngoài, với môi trường chung quanh. Bà mẹ là nhịp cầu cơ bản, thiết yếu, nối kết thế giới bên ngoài với nội tâm của trẻ em. Công việc trung gian này trở nên khó khăn, phiền toái, khi trẻ em sinh ra với những giới hạn hoặc thương tổn. Bà mẹ cần được nâng đỡ tối đa trong lúc này, để tiếp tục can trường đảm nhiệm công việc “làm mẹ” của mình. * * * CHƯƠNG 1.2 SÁU TÌNH TRẠ NG Ý THỨC CỦA TRẺ SƠ SI NH Thông thường chúng ta không hiểu rõ về
  45. khả năng hiện hành và thật sự của một em bé sơ sinh. Ngoài ba công việc : ngủ, bú và khóc, hình như các em không làm gì. Và chúng ta không biết phải làm gì với các em. Chính vì vậy, nhiều người đã tỏ ra nghi kỵ về những chương trình hoặc dự án hoạt động và can thiệp liên hệ đến lứa tuổi này. Theo ca dao và tục ngữ Việt Nam, “dạy con dạy thuở nên ba”. Ngày nay, tâm lý bảo chúng ta phải bắt đầu tiếp xúc và trao đổi, xây dựng và phát huy những quan hệ gắn bó mẹ con, từ những giây phút đầu tiên của cuộc sống. Kỳ thực, trẻ sơ sinh đã có những khả năng trong nhiều địa hạt khác nhau. * Quan sát, theo dõi và chú ý. * Đình chỉ những phản xạ vận động tự nhiên, để tạo điều kiện thuận lợi cho công việc chú ý và tiếp thu.
  46. * Tiếp xúc và trao đổi với môi trường chung quanh, trung gian năm cánh cửa giác quan: thị, thính, khướu, vị và xúc giác. Tuy nhiên, để trẻ em có thể có điều kiện thức tỉnh và tiếp xúc như vậy, người lớn và nhất là bà mẹ phải có hai kỹ năng và kiến thức cơ bản : Thứ nhất là lựa chọn những loại kích thích thích ứng để đánh thức và tiếp xúc. Để xác định những đặc điểm cơ bản của loại kích thích thích ứng, chúng ta cần khám phá cho mỗi cá tính của trẻ em, hai loại ngưỡng kích thích : a) Ngưỡng sơ khởi : Để một kích thích có tác dụng hữu hiệu, chúng ta phải lựa chọn những cường độ ở trên ngưỡng sơ khởi. Cường độ này tăng giảm tùy trẻ em và cá tính của em. Nếu kích thích ở dưới cường độ tối thiểu này, trẻ em không có
  47. phản ứng. b) Ngưỡng khổ đau còn gọi là ngưỡng chịu đựng. Ngưỡng khổ đau là cường độ tối đa, một trẻ em có thể chịu đựng được. Những cường độ ở trên ngưỡng khổ đau sẽ tạo nên những cực hình, trên hai bình diện tâm lý và sinh lý. Nếu kích thích vượt cường độ khổ đau, vẫn kéo dài hay là lập đi lập lại, hệ thần kinh có thể bị chấn thương. Trong lãnh vực thính giác chẳng hạn, tần số quá cao sẽ làm rách vở màn nhĩ trong lỗ tai. Và trẻ em sẽ trở nên khiếm thính. Những kích thích ở dưới ngưỡng sơ khởi được gọi là kích thích bất cập. Những kích thích ở trên ngưỡng khổ đau được gọi là kích thích thái quá. Ở giữa hai ngưỡng tối đa và tối thiểu, chúng ta có thể chọn lựa những kích thích
  48. thích ứng để giao tiếp với trẻ em. Để quán triệt vấn đề, chúng ta cần thêm hai yếu tố khác : thời gian kích thích và số lượng kích thích. Chính phản ứng của trẻ em sẽ soi sáng và hướng dẫn chúng ta trong công việc : Sau một thời gian được kích thích, trẻ em sẽ có phản ứng quen nhàm, lơ đãng. Nếu trẻ em ngột ngạt vì quá nhiều kích thích dồn dập cùng một lúc, các em sẽ có phản ứng rút lui, ngoảnh mặt nơi khác, khước từ, đóng kín cửa giác quan. Biết thông đạt, hiểu biết, thông cảm với trẻ em là biết ghi nhận, quan sát lắng nghe “những sứ điệp câm nín”, những cách thức các em nhắn gởi cho chúng ta : “Thôi con mệt rồi, mẹ ngừng lại đừng chơi thêm! “Mẹ chỉ nói một điều thôi. Nhiều điều
  49. làm con lẫn lộn, rối loạn. Chỉ nói, đừng làm. Hay là chỉ nhìn đừng nói. Hãy vuốt ve, dỗ dành con trong thinh lặng ” “Hãy từ từ và dịu dàng bồng bế con lên, để con có thời gian mở mắt nhìn mẹ” “Sao mẹ mạnh tay và đột ngột như vậy? Mẹ tức bực ai mà trăm dâu đổ đầu tằm như vậy? “Mẹ buồn chuyện gì với ba, thì nói cho ba nghe. Sao lại lơ là, lơ đãng với con!” Thay vì biết lắng nghe như vậy, chúng ta đã phóng chiếu lên trẻ em những tình trạng khổ đau, buồn phiền chán nản chủ quan của chúng ta. Chúng ta đưa ra những lời nhận xét và giải thích hoàn toàn tiêu cực, thay vì ghi nhận những sự kiện khách quan, mắt thấy, tai nghe, tay chân va chạm. Trong những điều kiện như vậy, chúng ta chỉ thấy
  50. vấn đề, khó khăn thay vì đón tiếp và chấp nhận trẻ em với bao nhiêu vốn liếng có sẵn của em. Trong cách bồng bế, tắm gội, thay áo quần, ru ngủ, thoa bóp, cho con bú theo D. Winnicott, người mẹ đã bộc lộ cho đứa con hay biết ba tin tức về mình : * Lề lối tiếp xúc : hiện diện tích cực hay là lơ đểnh. * Cách xử trí : tôn trọng, chấp nhận đứa con hay không. * “Cách nhìn con” con được gọi là kiến thị về đứa con : Tích cực hay tiêu cực. Nếu bà mẹ đã thấy con khuyết tật, bà sẽ tạo mọi điều kiện để đứa con càng ngày càng trở nên khuyết tật. Đó là hiện tượng “thực hiện những dự tưởng của chính mình”. Thứ hai là khám phá hiện trạng ý thức
  51. của trẻ em. Để tiếp xúc và kích thích một cách thích hợp với mức độ và khả năng đáp ứng của trẻ em, chúng ta còn phải khảo sát thời điểm thuận lợi. Để làm công việc lựa chọn thời điểm giao tiếp này chúng ta cần phân biệt và phát hiện sáu tình trạng ý thức của trẻ sơ sinh. Tình trạng thứ 1 : Giấc ngủ thâm sâu và bình lặng. Đôi mắt khép kín. Tứ chi và cơ thể không có những cử động. Nhịp thở điều hòa. Khuôn mặt bình lặng, nét mặt không nhăn nhó, môi miệng không máy động. Tuy nhiên ở đầu các ngón tay, và mí mắt, có những cử động đơn sơ và nhẹ
  52. nhàng. Tất cả những kích thích bình thường trở nên vô hiệu. Đối với trẻ em lành mạnh, sinh ra đúng ngày tháng và đúng cân lượng (2,500 3 kilô) giai đoạn này kéo dài độ 4 tiếng đồng hồ, mỗi chu kỳ. Đối với trẻ em sinh ra thiếu tháng, chu kỳ này chưa ổn định, cho đến khi hệ thần kinh được phát triển đầy đủ. Giấc ngủ thâm sâu là thời gian nghỉ ngơi bồi dưỡng về mặt cơ thể. Hệ thần kinh của những trẻ em thiếu tháng, dễ bị kích động, cần giai đoạn giấc ngủ thâm sâu để từ từ tổ chức và phát triển. Tình trạng thứ 2 : Giấc ngủ náo hoạt Hai mắt khép lại và một vài khi nhãn cầu cử động nhẹ và quay tròn. Toàn thân cử động, trở qua trở lại, hay
  53. là co giật. Hơi thở nhẹ nhàng và không đều. Mí mắt nhấp nháy, nét mặt nhăn nhó, miệng mỉm cười, máy động hay là bú mút. Theo lời giải thích của một số tác giả, đây là giai đoạn mộng mị, cần thiết cho việc bồi dưỡng tâm trí. Hệ thần kinh của trẻ sơ sinh phát triển mạnh trong giai đoạn này và bắt đầu phân phối những phần vụ chuyên biệt cho mỗi cơ cấu não bộ khác nhau. Trong giai đoạn này, trẻ em có thể tiếp nhận những kích thích từ ngoài và bị đánh thức dễ dàng khi có những kích thích mạnh. Tình trạng thứ 3 : Giai đoạn trung gian và chuyển tiếp giữa ngủ và thức. Hai mắt có khi mở ra, khi khác khép lại. Tuy dù mắt mở ra, trẻ em còn mơ màng,
  54. không tươi tỉnh. Chân tay có thể cử động chậm chạp. Nếu được đánh thức hoặc kích thích vào lúc này, trẻ em sẽ từ từ trở nên thức tỉnh hoàn toàn và hoạt bát, sẵn sàng tiếp thu và trao đổi. Tuy dù còn mơ màng, trẻ em đã có thể quan sát, lưu tâm và ghi nhận một vài điều đang xảy ra hai bên cạnh mình. Tình trạng thứ 4 : Tỉnh thức hoạt bát Ở vào giai đoạn này, trẻ em có tác phong bình lặng, không náo động, không vùng vẫy, chạy nhảy lung tung. Đôi mắt linh động, láu lỉnh có khả năng tiếp thu tất cả những gì đang xảy ra chung quanh. Đây là giai đoạn tốt hảo nhất để trẻ em học tập, tiếp xúc, trao đổi. Những ngày đầu tiên, giai đoạn này chỉ kéo dài vài ba phút. Nhưng sau ba bốn
  55. tuần lễ, có thể đạt thời gian chừng 20, 30 phút đồng hồ. Tình trạng thứ 5 : Tỉnh thức náo động Khả năng chú ý bắt đầu giảm suy. Nếu trẻ em vẫn còn được kích thích, các em sẽ “trở chứng” nghĩa là trở nên bực bội, phẫn nộ, khước từ hoặc phản kháng, đập vỡ, phá hoại hay là liệng đồ vật tung tóe khắp nơi. Tán loạn, vô tổ chức là những đặc điểm trong tác phong của trẻ em trong giai đoạn này. Tuy dù vậy, chúng ta còn có thể tiếp xúc, trao đổi, dỗ dành. Dựa vào những sở thích của trẻ em, chúng ta có thể điều hợp và hướng dẫn trẻ em trở lại tình trạng “quân bình và trung bình”. Kinh nghiệm sẽ dạy chúng ta : Dừng lại hay là thay đổi thể thức kích thích, trước khi trẻ em hết khả năng chịu
  56. đựng, và trước khi trẻ em “trở chứng”. Để tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ em học tập, tiếp xúc, chúng ta hãy lưu tâm canh chừng : Ngưỡng khổ đau. Ngưỡng này tăng giảm tùy thuộc điều kiện sức khoẻ và điều kiện sinh lý hiện tại của trẻ em. Vui thích là điều kiện và phương tiện để chúng ta phát huy khả năng học tập. Đó cũng là tiêu chuẩn để chúng ta tiếp tục hay dừng lại. Học tập chỉ thu lượm kết quả, chừng nào học tập mang lại vui thích. Mất hết vui thích, học tập sẽ biến thành cực hình, tạo khổ đau. Nếu khổ đau vẫn tăng cường, trẻ em sẽ khóc la inh ỏi. Trạng thái thứ 6 : Khóc la inh ỏi. Khóc la là một sứ điệp. Cho nên trước khi tìm cách can thiệp, chúng ta phải tìm hiểu chức năng tích cực của tín hiệu này.
  57. Khi trẻ em khóc, các em đang có thể nhắn gửi chúng ta những điều sau đây : 1. Con đang khổ đau, 2. Con đang đói bụng, 3. Con đang bực bội khó chịu trong cơ thể, 4. Con đang buồn chán, cần có người trao đổi, tiếp xúc, bồng bế, 5 . Con đang cần những vận động để điều hòa sinh hoạt của tim phổi, hoặc bộ máy tiêu hóa. Trong trường hợp bình thường sau ba ngày, người mẹ đã có khả năng giải thích, tìm ý nghĩa trong tiếng khóc của đứa con mới sinh ra. Sau 3 tuần, một tháng, khóc la xảy ra theo những chu kỳ đều đặn trong ngày. Đó là loại khóc la số 5 : một nhu cầu vận động để điều hòa cơ thể, sau những lúc khóc la
  58. vì nhu cầu như vậy, tự động trẻ em sẽ trở về trạng thái bình lặng, thoải mái và trầm mình vào giấc ngủ. Đây là một loại “thể dục” của trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, đối với một số bà mẹ, tiếng khóc la của đứa con tạo nên những tình trạng lo âu khắc khoải hay là những mặc cảm tội lỗi, khả dĩ làm tê liệt mọi năng lực cần thiết. Từ đó, bà mất hết khả năng để đảm nhiệm những công việc bình thường của một bà mẹ chăm lo cho đứa con. Thực ra, tiếng khóc la của đứa con không phải là nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng suy nhược như thế. Tiếng khóc la của đứa con chỉ là cơ hội gợi lại cho bà tất cả những vấn đề khủng hoảng và xung đột nội tâm mà chính bà đã kinh qua trong quá khứ. Đứa con của bà, bằng xương
  59. bằng thịt trước mắt bà, đã hà hơi, tiếp sức và làm sống lại một đứa bé khác với bao nhiêu vết thương lòng luôn luôn rướm máu và chưa một lần được ai băng bó, thoa dịu, vỗ về, chữa trị. Những bà mẹ như thế cần có người giúp đỡ, lắng nghe, phản ảnh. Nhờ đó, bà sẽ có khả năng tìm về những ngày tháng xa xưa, sống lại những tâm tình đã được chôn vùi dồn nén trong đáy sâu của vô thức. Đem ra ánh sáng, chuyển biến vô thức thành ý thức, khách thể hóa, khả năng nhìn lại mình : Đó là những điều chúng ta cần xúc tác nơi bà mẹ, để bà lấy lại niềm tin và đón nhận đứa con với những vốn liếng thực sự của em. Thay vì khước từ, tránh né nhắm mắt hay là tô son điểm phấn những điều bà không dám nhìn vì sợ hãi.
  60. * * * CHƯƠNG 1.3 TRẺ EM TỪ 6 THÁNG ĐẾN 1 NĂM 1. Theo Stella Chess và Alexander Thomas, [1] để theo dõi và đánh giá tiến trình phát triển của trẻ em vào lứa tuổi này, chúng ta cần khảo sát kỹ lưỡng những yếu tố sau đây : 1/ Mức độ và chất lượng những hoạt động của trẻ em : thụ động, chủ động hay là hiếu động (vận động lộn xộn, nhảy từ cái này qua cái khác). 2/ Mức độ tập trung hay là khả năng
  61. quan sát chú ý. 3/ Ổn định, kiên trì trong hoạt động và tình cảm hay là tính khí thất thường, không ổn định. 4/ Dè dặt sợ sệt, co rút hay là có khả năng tiếp xúc, nhất là trong những hoàn cảnh mới lạ. 5/ Cường độ của phản ứng và tình cảm, xúc động. 6/ Khả năng thích nghi mau, chậm trong một môi trường mới lạ. 7/ Điều kiện cơ thể và sinh lý : ăn uống, tiêu hóa, ngủ nghỉ. 8/ Ngưỡng độ kích thích và mức độ nhạy cảm : dễ bị kích thích hay là phản ứng chậm chạp. 9/ Tính khí : u sầu, hay gắt gỏng, bực bội
  62. 2. Khả năng vận động : 2.1. Thế ngồi : 5 tháng : ngồi dựa vào 2 tay ra đằng trước, mất quân bình, nếu vận động. 6 tháng : vẫn ngồi dựa vào hai tay, nhưng đạt được thế quân bình khi vận động đưa đầu ra trước hoặc ra sau. Nhưng mất quân bình khi nghiêng về mặt hoặc trái. 7 tháng : ngồi không cần dựa vào hai tay. Nhưng còn mất quân bình khi vận động. 8 tháng : làm chủ được thế ngồi và có thể vận động quay ra trước va sau hay là quay ra hai phía mặt và trái. Khi thấy trẻ em có khả năng ngồi, còn giữ thế bất động : Trẻ em mới bắt đầu có khả năng ngồi. Thế ngồi + vận động : Thế ngồi đã có mặt gần 1 tháng.
  63. Trẻ em có khả năng chuyển vận từ thế nằm, bò qua thế ngồi một cách dễ dàng : Thế ngồi đã được thực tập hai tháng. 2.2. Cách xử dụng bàn tay và các ngón tay : 6 tháng : chưa phân biệt 2 phần lòng bàn tay và đầu ngón tay, trẻ em cầm đồ vật trong lòng tay. 7 tháng : biết di chuyển đồ vật từ tay này sang tay kia, và bắt đầu sử dụng đầu ngón tay. 8 tháng : dùng 2 ngón tay cái và trỏ để kẹp đồ vật. Để thực tập “thế kẹp”, trẻ em có thể dùng hai ngón tay để lượm những vật ở trên mặt đất. Cũng vào lứa tuổi này, trẻ em càng ngày càng ổn định thứ tự chính và phụ giữa hai tay trái và mặt. Tay chủ động sẽ luôn luôn
  64. đưa ra để nhận hoặc nắm đồ vật. 2.3. Thế Trườn và Bò : Từ 7 đến 8 tháng, trẻ em thích di động. Từ thế nằm em lật qua thế trườn tới sau 8 tháng : bò 4 chân, bò tới hoặc bò lui như con cua. Tuy nhiên, một số trẻ em không đi qua giai đoạn này. Từ thế ngồi, trẻ em học đứng lên. Sau đó, em học đi. 2.4. Thế đứng : Chung quanh 9 tháng, trẻ em học đứng lên. Vào giai đoạn này, vấn đề an toàn cần được chúng ta lưu tâm một cách đặc biệt. Những tai nạn té ngã, ngộ độc có thể xảy ra bất cứ lúc nào, nếu trẻ không được người lớn theo dõi, canh phòng. Vào lứa tuổi này ý thức về giới hạn cũng như hiểu biết về nguy cơ, hiểm nghèo
  65. chưa có mặt. Vì lý do đó : Chúng ta cần lưu tâm về vấn đề vệ sinh nhà cửa. Trẻ em có thể bỏ vào miệng bất cứ cái gì. Thuốc diệt rầy, muỗi, chuột cũng như thuốc men phải cất kỹ, có tủ khóa lại. Lửa, điện, than, tầng cấp là những nơi tai họa có thể xảy đến. Nếu nhà có bếp điện, bếp ga, hay là bồn tắm, chúng ta cũng cần có biện pháp đề phòng. 3. Kỹ năng học tập và khám phá 3.1. Vấn đề học tập chủ yếu trong giai đoạn này là ý thức và hiểu biết về tính chất thường tồn của sự vật và con người. * Trẻ em đi tìm những đồ chơi đã biến mất. * Trẻ em yêu thích những trò chơi trốn
  66. tìm. * Trẻ em liệng xa đồ vật, để người lớn lượm lại cho mình. * Trẻ em phân biệt người lạ người quen và có phản ứng lo sợ trước người lạ mặt : "Sự hiện diện của một khuôn mặt xa lạ nhắc cho em sự vắng mặt của mẹ, có thể hay là đã xảy ra", cho nên trẻ em có phản ứng lo sợ. * Đồng thời trẻ em bắt đầu có khả năng hiểu biết về nguyên lý nhân quả. Để tạo điều kiện cho trẻ em có thể chấp nhận những hoàn cảnh “xa lìa tạm biệt” như vậy, bậc cha mẹ cần chuẩn bị cho trẻ em về vấn đề ra đi của mình. a/ Thông báo trước cho trẻ em hay ngày giờ và lý do vắng mặt của mình. b/ Lúc có mặt trở lại, chúng ta cũng cho trẻ em hay.
  67. c/ Trong những lúc sống và tiếp xúc với trẻ em, tổ chức những trò chơi trốn tìm, thu giấu đồ vật sai trẻ em đi lấy những vật dụng ở phòng kế cạnh. d/ Khi giao phó trẻ em cho một người lạ, chúng ta cần chọn những người nào biết tiếp xúc, gần gũi với trẻ em, trao đổi bằng liếc nhìn, và cư xử một cách dịu dàng, cẩn trọng. e/ Nếu vì lý do công việc, chúng ta phải xa lìa trẻ em hằng ngày, chúng ta cần tìm ra những cơ hội để bù trừ sự vắng mặt ấy. f/ Yêu cầu những người ngoài gia đình thậm chí ông bà nội ngoại hay bà con cô bác đừng quá vội vã bồn chồn, muốn ôm ẵm trẻ em khi gặp gỡ. Trái lại, hãy dành cho trẻ em thời giờ làm quen, tiếp cận. Không tạo những “chuyển tiếp” như vậy,
  68. chúng ta sẽ được trẻ em kết nạp vào loại người “vi phạm lãnh thổ”; và các em sẽ tỏ ra những thái độ dè dặt, sợ sệt hoặc từ khước. g/ Thay vì áp đặt cho trẻ em những điều lệ hoặc qui luật, chúng ta cần dành thì giờ để giải thích cho trẻ em hiểu lý do, nguyên nhân hoặc thể thức làm. h/ Khi có những cấm đoán, chúng ta cũng cần có một thái độ tương tự : giải thích tại sao một cách ngắn gọn, với ngôn ngữ đơn sơ, thích hợp với trình độ. Về lâu về dài, thái độ và thể thức làm như vậy sẽ tạo niềm tin và quan hệ tình cảm vững chãi cho trẻ em. Bằng không, độ một vài tháng sau này, khi trẻ em có kỹ năng ngôn ngữ, các em sẽ lặp đi lặp lại mãi hoài câu hỏi “tại sao?”, mà không ai có thể thỏa mãn các em.
  69. i/ Trên bình diện tâm bệnh, vì nhu cầu an toàn nội tâm, một số trẻ em có khuynh hướng lặp đi lặp lại mãi hoài một hành vi, một câu nói. Thuật ngữ tâm lý gọi đó là tác phong “Nhai lại”. Lý do sơ khởi của hành vi và tác phong “nhai lại” là trở về với một hoàn cảnh trong đó, trẻ em đã tìm gặp một phần nào cách làm thỏa mãn vấn đề lo sợ của mình. Nhưng, trong điều kiện hiện thời, câu trả lời ấy không còn thích ứng. 3.2. Ý thức về giới hạn hành động hay là ý thức về hoàn cảnh nguy cơ, hiểm nghèo Bài học này phải bắt đầu từ lúc trẻ em có khả năng trườn, bò, di chuyển, vận động. Hơn ai hết, chính bà mẹ hoặc những người thay thế bà mẹ là người có khả năng và trách nhiệm giúp trẻ em hội
  70. nhập và nội nhập bài học này. Hai yếu tố hoặc 2 điều kiện gần như “bẩm sinh”; nghĩa là có mặt một cách tự nhiên, giúp trẻ em tiếp thu và hội nhập bài học này. Yếu tố 1 : Trẻ em cảm thấy bất ổn. Đây là một tình cảm, cảm xúc, nói được là một ý thức mơ hồ, chưa được xác định, thuộc địa hạt cảm thức. Yếu tố 2 : Trẻ em đưa mắt nhìn mẹ để tham khảo ý kiến “con làm được hay không? “con có thể đi tới hay là rút lui? Không có ai để trả lời câu hỏi chính lúc ấy, nhiều tai nạn có thể xảy ra, nếu hoàn cảnh có tính nghiêm trọng. Nếu có bà mẹ đáp trả bằng liếc nhìn cổ võ hay là cấm đoán, đứa trẻ sẽ từ từ nội nhập “câu trả lời và sự có mặt của bà mẹ”
  71. khi có hiểm nguy. Sau này, khi đã có ý thức ấy, mặc dù bà mẹ vắng mặt, đứa trẻ sẽ có khả năng rút lui nếu cảm thấy bất ổn. Tình cảm bất ổn ==> dừng lại hỏi ý kiến = Đánh giá (mắt mẹ). Nếu tình cảm bất ổn ==> Rút lui. Chính Robert Emde đã giúp chúng ta thấy sự chuyển biến của một phản xạ lo âu thành phản ứng khôn ngoan, đánh giá mình, trung gian liếc nhìn của bà mẹ. Tác giả này đã tổ chức một thí nghiệm sau đây : Trên một mặt bằng làm bằng kính, trẻ em có thể trườn bò, di động. Khi bò tới một khoảng chừng vài mét,
  72. trẻ em có thể, qua mặt kính nhìn thấy một hố sâu ở bên dưới. Trẻ em từ 612 tháng sẽ dừng lại, đưa mắt nhìn mẹ ở bên kia “hố thẳm”. Nếu mặt mẹ vẫn tươi cười, trẻ em sẽ can đảm bò tới. Nếu mẹ tỏ ra sợ hãi, cấm đoán, trẻ em sẽ rút lui. Thí nghiệm này cho ta thấy : a/ Trẻ em đã có thể hiểu biết thái độ tình cảm và ước muốn của bà mẹ, khi nhận thấy diện mạo, điệu bộ và những dấu hiệu khác của bà mẹ. b/ Dựa vào ý kiến của bà mẹ, các em có thể có những quyết định hành động tiến tới hoặc rút lui. 3.3. Ý thức và hình ảnh về mình : Tích cực hoặc tiêu cực Trước khi bắt tay vào một hành động, một số trẻ em, vào khoảng 8 hoặc 9 tháng,
  73. đã cho chúng ta biết thái độ và cảm thụ của mình thế nào : Tích cực, thích khám phá, tò mò kiên định, hãnh diện về kết quả. Tiêu cực, sợ thất bại, khước từ, bực bội, bỏ cuộc nửa chừng, bất cố, nhảy từ cái này qua cái nọ. Thái độ và thể thức hoạt động như vậy biểu lộ một hình ảnh về mình. Tích cực, tự tin, ý thích muốn học hỏi và khám phá. Tiêu cực, cảm thức bất lực, sợ thất bại, không dám mạo hiểm tìm tòi. Trong đa số những trẻ em chậm phát triển, vấn đề “ý thức và hình ảnh tiêu cực” về mình làm cho tình trạng mỗi ngày càng thêm trầm trọng. Theo D. Winnicott, ý thức về khả năng của mình đã được phát triển theo một trình
  74. tự như sau : Giai đoạn 1: trẻ em cảm thức một nhu cầu Giai đoạn 2: Nhu cầu làm nẩy sinh một ý thích được thỏa mãn Giai đoạn 3: trẻ em mơ tưởng đối tượng làm cho mình thỏa mãn Giai đoạn 4: Trẻ em bộc lộ ra ngoài ước mong của mình Giai đoạn 5: Ba mẹ đem đến cho em chính điều em đã mơ tưởng Giai đoạn 6: Ý thức đến tính cách ở ngoài của đối tượng, nhưng mình có khả năng hoặc đi tìm hoặc yêu cầu kẻ khác làm cho mình. Ý thức về khả năng sẽ bị tổn thương trong những hoàn cảnh sau đây : a/ Mẹ trả lời quá sớm, trước khi đứa con mơ tưởng, hình dung đối tượng và bộc
  75. lộ ra ngoài. b/ Mẹ trả lời quá chậm : trẻ con đã khóc la, nhưng không ai động chuyển. Dần dà trẻ em có một ý niệm tiêu cực và bi quan về cuộc sống. c/ Mẹ trả lời không thích ứng : "con dao 2 lưỡi". Cho nên trẻ em sinh ra nghi kỵ. d/ Mẹ trả lời “chấp cố, chấp thủ” không ý thức đến giai đoạn phát triển của trẻ em. e/ Mẹ trả lời tùy hứng, bốc đồng: Trẻ em không thể hiểu biết và dự đoán. Trong quan điểm ấy, ý thức về mình hoặc hình ảnh tích cực bao gồm 4 yếu tố: y.t.1 : Tôi có khả năng y.t.2 : Tôi là một nhân vật quan trọng, có giá trị y.t.3 : Tôi có xác tín như vậy : Tự tin y.t.4 : Tôi biết về giới hạn của tôi : khi nào có thể, khi nào không.
  76. Hình ảnh và ý thức tích cực về mình là trọng tâm và cơ bản của công cuộc giáo dục và dạy dỗ. Bao lâu, chúng ta chưa thành công trong việc kiện dựng một hình ảnh tích cực về mình nơi trẻ em, chúng ta phải can đảm xét lại toàn bộ tư tưởng và phương pháp giáo dục của chúng ta. 3.4. Ngôn ngữ của trẻ em Trong vòng 4 hoặc 5 tháng này, trẻ em càng ngày càng phát âm, khi tiếp xúc với người lớn, cũng như khi chơi một mình. Phát âm trở thành một trò chơi rất hấp dẫn đối với các em. Những âm thanh như Ba, Má, đã thường được lặp đi, lặp lại, hay là được trẻ em sử dụng để gọi kẻ khác. Có trẻ em dùng âm “ê, ê ” để tiếp xúc hay là kêu người lớn.
  77. Dù phát âm rõ ràng hay không rõ ràng, đa số trẻ em lên 8 hoặc 9 tháng đều hiểu rõ giá trị truyền đạt, giao tiếp của các âm thanh. Thay vì khóc la, các em đã biết diễn tả tâm tình của mình qua âm thanh. Hiểu biết cơ bản của trẻ em là nhận thức về vai trò dấu hiệu của một số âm thanh. Ví dụ mỗi buổi chiều, tiếng máy xe hay là tiếng động của bước chân tạo nên một phản ứng vui mừng vì các em hiểu : Đó là dấu hiệu “Ba đi làm về. 4. Những xung đột mẹ con cần xa lánh và đề phòng Vì lý do thực tập những kỹ năng mới như trườn bò, đứng đi, trẻ em trong lứa tuổi này rất dễ bị kích thích và căng thẳng. Nhiều trẻ em có phản ứng “khó ăn, khó ngủ”. Các em thích vận động, hơn là ngồi yên để ăn. Ở trong giường, các em mải mê
  78. đứng lên, ngồi xuống, vận động trườn bò thay vì nằm yên để chờ giấc ngủ. Vì lo âu, nhiều bà mẹ đã trở nên căng thẳng, có thái độ cưỡng ép con ăn và ngủ. Nguyên nhân những xung đột mẹ con đã đâm chồi nẩy lộc trong hai địa hạt ăn và ngủ này. Thái độ lành mạnh là không quan trọng hóa cũng như không tạo nên những xung đột. Khi trẻ em tỏ ra có vấn đề ăn và ngủ sau một vài tuần, những vấn đề này sẽ không còn lý do tồn tại, nếu bà mẹ đã không biến làm đề tài căng thẳng xung đột giữa mẹ và con. Nhiều bà mẹ đã đặt vấn đề “vệ sinh tiểu tiện và đại tiện” vào giai đoạn này. Theo thiển ý của tôi, đây là ảnh hưởng méo mó của sách vở và văn minh Âu Tây. Một bà
  79. mẹ mộc mạc người Việt Nam sẽ biết chắc rằng : Đặt vấn đề như vậy là quá sớm, không cần thiết. * * * CHƯƠNG 1.4 TRẺ EM TỪ 12 ĐẾN 18 THÁNG 1. Những kỹ năng trong giai đoạn này : 1.1. Trẻ em bắt đầu biết đi chập chững. 1.2. Mặt vận động và trí năng : * Dùng bốn hình khối lập phương đặt để trên nhau, để xây một tầng tháp. * Có thể tìm ra một đồ chơi được cất giấu và chuyển vận 2 lần. Như vậy, trẻ em có kỹ năng này là có
  80. khả năng hiểu biết về tính chất thường tồn của sự vật. * Có khả năng hình dung và tưởng tượng cũng như dùng vật này để thay thế vật khác. Ví dụ : dùng một thanh gỗ nhỏ để làm bình sửa cho em bú. * Bắt đầu hiểu biết về quan hệ Nhân quả giữa 2 sự vật. Cho nên trẻ em thích khám phá tìm hiểu. Vì tò mò, nên trẻ em thích đụng đến, cầm lấy mọi đồ vật. 1.3. Trong lãnh vực trò chơi Trẻ em chơi bên cạnh nhau : chơi song song. Nhưng chưa có trò chơi hợp tác : cùng làm với nhau, chơi một trò chơi với nhau Tuy nhiên, nhờ chơi bên cạnh nhau, các em có thể học cách chơi của những trẻ em lớn hơn : CHƠI NHƯ NHAU.
  81. 1.4. Trong lãnh vực “sơ đồ thân thể” * Trẻ em 1 năm nhìn vào tấm gương tỏ ra bỡ ngỡ nhìn “cái mũi có tô son đỏ”. * Trẻ em 15 tháng, đưa tay đụng vết son đỏ trên mặt tấm gương. * Trẻ em 18 tháng : biết đưa tay lên mũi của chính mình để lau vết son. 1.5. Ngôn ngữ : Trong lứa tuổi này, trẻ em có khả năng hiểu những mệnh lệnh đơn sơ thông thường. Chúng ta có thể bảo một trẻ em đi lấy một vật dụng ở một nơi khác trong nhà. Khi chơi một mình, trẻ em thường huyên thuyên dài dòng, có cung điệu trầm bổng, phát ra những âm thanh. Nhưng trong những câu nói ấy, chưa có một từ nào rõ rệt, ngoại trừ : Ba, má, bé, không Mặc dù chưa nói được thành lời, nhưng qua cử điệu, trẻ em có thể diễn tả để người
  82. lớn hiểu được em muốn cái gì. Ví dụ trẻ em có thể đưa tay chỉ điều mình muốn. Nói tóm lại, từ những cơ bản trao đổi, tiếp xúc ấy, dần dần trẻ em sẽ đưa vào những từ càng ngày càng rõ rệt. Và số từ càng ngày càng gia tăng. Để giúp trẻ em tiếp thu dễ dàng, người lớn dùng câu đơn sơ, thường lặp lại những từ quan trọng. Khi trẻ em phát âm sai, thay vì sửa chữa, chúng ta có thể dùng câu hỏi để kiểm tra: "Con nói gì mẹ không hiểu. Con nói “con gà” phải không? À con gà kêu : o, o, ò". Để giúp trẻ em học nói, chúng ta nên bắt đầu bằng tiếng chim kêu, gà gáy, để các em học tập phát âm. Vào tuổi này, trẻ em thích nghe những mẫu chuyện đơn sơ thông thường. 2. Đa số trẻ em ở lứa tuổi này đều có
  83. tác phong hiếu động : * đụng tay vào mọi đồ vật, nhưng chưa tập trung chú ý vào một cái gì lâu dài. * dễ bị kích thích. * không có khả năng chọn lựa một đối tượng kích thích và khước từ tạm thời hoặc bỏ qua một bên những đối tượng khác. Vấn đề giáo dục, là hạn chế lượng số những yếu tố kích thích, để giúp trẻ em kéo dài khả năng tập trung chú ý của mình. 3. Những cơn tức giận và la ó rộn ràng : Thái độ khước từ và bất tuân Khi trẻ em đi vào lứa tuổi từ hơn 1 năm đến 2 năm rưởi, không khí giáo dục rất căng thẳng. Ba lý do chính yếu : Lý do 1. Trẻ em bắt đầu phân biệt Mình và Người. Cho nên, để chứng minh quyền tự lập và tự chủ của mình, trẻ em muốn khước từ ý kiến và lời đề nghị của kẻ
  84. khác. “Chấp Ngã” : Thái độ qui ngã có một chức năng tích cực trong vấn đề giáo dục. Phát huy nhân cách và vừa được ý thức một cách rất sơ phác và thô thiển. Lý do 2. Trẻ em bắt đầu hình dung và tưởng tượng. Đồng thời, các em bắt đầu có ý niệm : những gì biến mất, không thấy không phải là không còn, nhưng vẫn còn. Trên bình diện xã hội, các em bắt đầu va chạm với những qui luật và giới hạn hành động. Để hội nhập và nội nhập những qui luật ấy, trẻ em cần chứng nghiệm và khám phá : “Cái gì làm được, “Cái gì làm không được”. Sở dĩ trẻ em thường xuyên có ý đồ thách th ức, làm ngược lại, hay là trốn thoát khỏi tầm kiểm soát của người lớn, là vì các em
  85. muốn học tập về những giới hạn và quyền năng của mình. Lý do 3. Trong khi trẻ em thuộc lứa tuổi này chung sống hay là chơi chung với nhau trong một môi trường, có nhiều hiện tượng tranh chấp, giằng co, xung đột, đụng chạm, đánh lộn nhau. Khí cụ để đấu tranh và tự vệ ở tuổi này là những chiếc răng. Cho nên có những trẻ em hay cắn những trẻ em khác. Vì những lý do ấy, cha mẹ thường nêu lên vấn đề kỹ luật và trừng phạt trong giai đoạn này. 4. Học tập về kỷ luật và vấn đề quyền uy : Để có thể có thái độ và hành động thích ứng trong lãnh vực kỷ luật và quyền uy, chúng ta cần quán triệt một cách sâu xa những nguyên lý cơ bản sau đây :
  86. Nguyên lý 1 : Căn bản của hành động giáo dục, trong đó có vấn đề sửa phạt, là tình thương và tâm thần an lạc, bình thản. Trong những điều kiện bực bội, khắc khoải, lo âu, giận dữ, căng thẳng, chúng ta không thể có thái độ và hành động thích ứng trong lãnh vực giáo dục. Trong những hoàn cảnh như vậy, “không làm” có ích và có lợi hơn là “làm”, vì áp lực của những tình cảm lo buồn, bực tức có thể gây nên những lệch lạc đáng tiếc trong cách thế phản ứng và xử lý chúng ta. Nguyên lý 2 : Mỗi tác phong của trẻ em, cho dù tiêu cực đến độ nào cũng có một phần vụ tích cực, nhằm diễn tả và nhắn gởi cho ta một điều gì. Vào lứa tuổi 2 năm, một trẻ em chưa có khả năng nói một cách rõ ràng những điều em ước mong và suy nghĩ. Tác phong là
  87. một loại ngôn ngữ, diễn bày một lời nhắn gửi. Chúng ta hãy học tập lắng nghe, tìm hiểu ý nghĩa và trả lời một cách thích đáng, thay vì có phản ứng bốc đồng, vội vã, dưới áp lực của một tình cảm đau buồn, lo hãi. Nguyên lý 3 : Tìm hiểu ý nghĩa trước khi hành động, để cách thế phản ứng và giải quyết của chúng ta có 3 tính chất sau đây : Hợp lý Hợp tình Hợp cảnh Tính chất thứ 1 là hợp lý : Trước khi hành động như trên đây chúng ta đã nói tới, chúng ta phải cố gắng tìm hiểu phần vụ tích cực trong thái độ và hành vi của trẻ em. Thêm vào đó, chúng ta cần xác định rõ ràng cấp độ phát triển của trẻ em, để tránh
  88. những lề lối giải thích lệch lạc. Tính chất thứ 2 là hợp tình : Lề lối xử thế hay là phản ứng của chúng ta là phải đáp ứng nguyện vọng cơ bản của trẻ em. Vào lứa tuổi 2 năm, đa số trẻ em có thái độ và hành vi chống đối, như chúng ta đã thấy trên đây, thứ nhất là vì các em muốn tìm hiểu giới hạn thực sự của mình là gì. Thứ hai là các em muốn trắc nghiệm hay là xem thử người lớn như cha mẹ có quan hệ thế nào với mình : thương hoặc ghét. Tính chất thứ 3 là hợp cảnh : khi đụng chạm đến vấn đề kỷ luật và sửa phạt, chúng ta không thể cố chấp, áp dụng một cách máy móc và bất di dịch một nguyên tắc sẵn có. Trẻ em trước mắt chúng ta là một con người xương máu cụ thể. Để hiểu rõ một hành vi “bất tuân” và để đối trị hành vi bất tuân ấy, chúng ta không
  89. thể làm ngơ, bỏ qua những điều kiện sinh sống hiện tại của trẻ em, cũng như tình trạng tâm lý và sinh lý của em. Duy chữ “không” cũng có rất nhiều ý nghĩa tùy trường hợp. Nguyên lý 4 : Sau hết trong vấn đề kỷ luật và sửa phạt, chúng ta không thể bốc đồng, tùy tiện hoặc tùy hứng. Để công việc dạy dỗ mang lại kết quả, chúng ta phải xác định rõ ràng mục tiêu của chúng ta là gì. Mục tiêu ấy có thực hiện được không? Có những khó khăn nào xảy ra nếu chúng ta thành đạt mục tiêu. Điều nào quan trọng nhất ? Nhiều người lớn, bậc cha mẹ, vì thiếu mục tiêu rõ rệt, cho nên có khuynh hướng kiểm soát tất cả, can thiệp tối đa. Nhưng vì thiếu đắn đo, cho nên họ dễ bỏ cuộc, đầu hàng nhanh chóng.
  90. Theo D. Stern thể thức phản ứng của chúng ta trước một hành vi của trẻ em, chỉ hữu hiệu chừng nào phản ứng ấy là một hành vi có tính Hòa ứng. Hòa ứng có nghĩa là phản ánh tác phong bên ngoài, đồng thời cũng phản chiếu những sinh hoạt nội tâm, đặc biệt là những tình cảm và xúc động đang có mặt bên trong. Vì thiếu hòa ứng, đa số lề lối sửa phạt và dạy dỗ đều trật đường rầy hay là “lạc đề”, cho nên không có kết quả thực sự tích cực ! * * * CHƯƠNG 1.5 TRẺ EM 2 TUỔI 3 TUỔI
  91. 1. Những đặc điểm cần ghi nhận và quan sát 1.1. Khả năng bắt chước điệu bộ của cha mẹ. 1.2. Khả năng đồng hóa với người cha mẹ cùng phái. 1.3. Phản ứng chống đối, ý thích độc lập, tự lập. Ngược lại, những trẻ em còn có tác phong bám sát, lệ thuộc cha mẹ, không muốn hay là thiếu khả năng tự lập trong vấn đề vui đùa : Đó là vấn đề báo động cần được chúng ta nghiên cứu kỹ lưỡng và tìm phương cách đối trị. 2. Dấu hiệu của những trẻ em lành mạnh : 2.1. Tự tin : Chơi một mình. Tò mò, thích khám phá, tìm kiếm.
  92. Thích những trò chơi mới lạ. 2.2. Điệu bộ vững vàng , thích hợp với hoàn cảnh vì có sự phối hợp quân bình giữa tay, chân và mắt. 2.3. Ngôn ngữ : Biết chào, từ chối, gọi tên một số đồ vật quen thân. Giọng điệu êm đềm và thích ứng. 2.4. Ý thức về phái tính của mình và có tác phong đồng hóa với người cha mẹ cùng phái. 2.5. Biết sử dụng một cách dứt khoát và tự nhiên phía mặt hay trái trong các cử điệu thông thường như bắt tay, cầm muỗng, đồ chơi. Vào tuổi này, nếu mặt trái chưa ổn định, cử điệu của trẻ em sẽ còn vụng về không vững vàng. 3. Những kỹ năng về mặt trí tuệ cần được nghiên cứu và quan sát kỹ lưỡng :
  93. 3.1. Trong các trò chơi, trẻ em vận dụng một cách tự nhiên. Khả năng hình dung những cảnh tượng trong cuộc sống hằng ngày. khả năng bắt chước người khác. khả năng phân biệt nam nữ. khả năng hiểu biết về nguyên nhân của hành động. khả năng hiểu biết về mục đích của hành động và chức năng của một số dụng cụ. khả năng giả vờ làm người này, hoặc người kia hay là dùng một vật để thay thế vật khác. khả năng tổ chức hoặc xếp đặt các yếu tố theo một thứ tự thời gian và không gian. 3.2 Khi tiếp xúc hoặc sử dụng những trò chơi, trẻ em đã tỏ ra có khả năng thực thi những cử điệu và vận động rất tinh vi
  94. và thích ứng, ở đầu ngón tay, nhất là 2 ngón tay cái và tay trỏ để cầm các đồ vật. Khi trẻ em thuộc lứa tuổi này còn thiếu những vận động vi tế này hay là còn vụng về khi đưa tay tìm nắm các đồ vật, chúng ta cần tìm hiểu về thực trạng của hệ thống thần kinh, nhất là những chấn thương não bộ. 3.3. Trong thể thức tiếp thu, sử dụng và hiểu biết về các tin tức do môi trường cung cấp, chúng ta cần ghi nhận những phản ứng sau đây : a/ Một số trẻ em như vượn chuyển cành, thiếu ổn định và tập trung tư tưởng : các em đụng đến mọi đồ chơi nhưng không có khả năng tổ chức một trò chơi ổn định với bất cứ vật dụng nào. Đó là những trẻ em hiếu động. b/ Một số trẻ em quá nhạy cảm : kích
  95. thích càng nhiều, những trẻ em này càng rối loạn không thể tập trung chú ý vào một đối tượng. c/ Một số trẻ em dễ bỏ cuộc, bởi vì không có khả năng hiểu biết, những liên hệ giữa hai yếu tố, nhất là những liên hệ về không gian trong những trò chơi ghép hình, chẳng hạn. d/ Một số trẻ em trong số này không có khả năng định hướng trong các vận động chân tay. Nghĩa là cả hai tay đều hoạt động một cách lộn xộn, thiếu tổ chức. Cho nên cách thức giải quyết không được hữu hiệu. 3.4. Nếu chúng ta để ý quan sát thể thức hoạt động của những trẻ em này, chúng ta có thể ghi nhận những đặc điểm sau đây : a/ Khi thực hiện một công việc, trẻ em loại này không tỏ ra hứng thú và thoải mái. b/ Thời gian để hoàn thành công việc,
  96. có khi kéo dài gấp 2 lần, so với kết quả của những trẻ em khác. c/ Những trẻ em này thường bỏ cuộc nửa chừng. d/ Trẻ em loại này dùng mọi thủ thuật để thoái thác khước từ công việc do người lớn đề nghị. 3.5. Thể thức đối trị a/ Đừng bao giờ gây áp lực hay là la rầy, sửa phạt. Trái lại chúng ta cần nâng đỡ, vì những trẻ em này đang có những khó khăn trong vấn đề thu nhận và hiểu biết. b/ Tìm những lúc bình lặng, yên ổn để sinh hoạt và dạy dỗ. c/ Đừng dùng quá nhiều dữ kiện hay là nhiều loại kích thích cùng một lúc. Khi nói, chúng ta không dùng bộ điệu. Khi nhìn chúng ta không dùng lời nói. d/ Chỉ bày thể thức thực hiện theo từng
  97. giai đoạn, từ dễ đến khó. e/ Trước mỗi giai đoạn, dành thì giờ để trẻ em có thể nghỉ ngơi, giải trí. f/ Khi làm việc, chúng ta phải tôn trọng vận tốc và nhịp điệu của từng em. g/ Chọn những công việc, để trẻ em có thể dám làm và thành công. Khi trẻ em thành công, chúng ta phải tức khắc tán dương, bằng cách giải thích nhờ vào đâu em đã thành công. 4. Lãnh vực ngôn ngữ Trẻ em 2 tuổi có thể sử dụng động từ và tính từ trong các câu nói hằng ngày. Đi chợ Áo đẹp Trẻ em có thể hiểu và thực hiện những mệnh lệnh bao gồm 3 yếu tố : đi tìm một vật, mang ra, và đặt lên bàn. Nhiều trẻ em không nói, nhưng có khả
  98. năng diễn tả ý muốn của mình một cách rõ ràng bằng cử chỉ, điệu bộ Theo các nhà chuyên môn về tâm lý và ngôn ngữ trẻ em, những trẻ em có khả năng truyền đạt bằng cử điệu, sẽ có khả năng diễn tả bằng lời nói. Các em không phải là những trẻ em chậm phát triển về mặt trí tuệ. Trong những trường hợp như vậy, người lớn nên cổ võ ngôn ngữ : “Mẹ hiểu con muốn cái gì. Nhưng con hãy thử nói ra cho mẹ nghe: con muốn gì? Có phải con muốn chiếc ôtô không? Con nói đi : ôtô. Nói đi, rồi mẹ đưa cho!" Có nhiều nguyên nhân gây nên sự chậm phát triển về ngôn ngữ : a/ Vấn đề “khó nghe, hay là không nghe”. b/ Những trẻ em quá được nuông chiều.
  99. Cha mẹ đã tạo nên mọi dễ dàng. Trẻ em không cảm thấy cần nói để được thỏa mãn. c/ Trong nhà có nhiều anh chị và những anh chị này quá nuông chìu đứa em. d/ Cha mẹ dùng 2 ngôn ngữ cùng một lúc trong đời sống hằng ngày. Trẻ em cần nhiều thời giờ hơn để phát âm, vì trong 2 ngôn ngữ, có nhiều âm cần khắc phục trước khi sử dụng. * * * CHƯƠNG 1.6 TRẺ EM 3 TUỔI 6 TUỔI 1. Những phản ứng chống đối, khước
  100. từ của lứa tuổi 2 năm đã bắt đầu lắng dịu. 2. Sau ba tuổi, trẻ em bắt đầu ý thức đến Phái tính của mình : chúng ta cần lưu tâm đến 3 hiện tượng : * Các em tò mò, khám phá bộ phận sinh dục của mình và nơi người khác : trẻ em cũng như người lớn. * Có thể có những hành vi thủ dâm trong giai đoạn này. * Trong cuộc sống hằng ngày, bắt chước và gắn bó một cách đặc biệt vào người cha hoặc người mẹ, và lơ là tạo khoảng cách với một trong hai người. Trong lãnh vực này, thái độ lành mạnh của cha mẹ : * đừng quá phân vân và gây những áp lực, cấm đoán khắt khe. Vì thái độ cấm đoán, chúng ta có thể biến một phản ứng bình thường, nhất thời
  101. thành một tập quán chùng vụng. * đừng có những bình phẩm hoặc giải thích tiêu cực, khi trẻ em không tỏ ra thái độ quyến luyến và gắn bó với mình. “Nó ghét tôi “Nó không thèm để ý đến tôi ” * Điều cấm kỵ là sửa phạt hoặc tức giận vì có cảm tưởng mình bị “bỏ rơi, từ khước”. * Tìm mọi cách và mọi cơ hội để tiếp xúc, trao đổi, chuyện trò, chơi đùa và sẵn sàng trả lời khi trẻ em đưa ra những câu hỏi có liên hệ đến phái tính và liên lạc nam nữ. Câu trả lời một đàng phải thực, một đàng phải vắn gọn, thích hợp với lứa tuổi. Vào giai đoạn này, nội dung, không quan trọng bằng lề lối và chất lượng trao đổi.
  102. 3. Trong lãnh vực xã hội, vào lứa tuổi này trẻ em cần tiếp xúc với các trẻ em cùng lứa tuổi. * Mục tiêu là để có kinh nghiệm về lề lối tiếp xúc, cư xử của các bạn cùng tuổi, đặc biệt, trong vấn đề tranh chấp, xung đột, thương lượng. * Điều tối quan trọng, trẻ em cần học tập vào lứa tuổi này là biết chia sẻ những gì mình có, với bạn bè. Có những trẻ em khi gặp khó khăn trong vấn đề này, lúc bấy giờ người lớn phải can thiệp để hướng dẫn. Trong số đồ chơi, đồ dùng, hướng dẫn trẻ em phân biệt cái mà trẻ em quí trọng nhất không muốn chia sẻ. Những đồ dùng còn lại, “con có thể cho bạn bè mượn, và bạn bè có thể cho con mượn những đồ con không có”.
  103. Để bắt đầu, chúng ta cần tôn trọng tình cảm quyến luyến của trẻ em, từ đó chúng ta có thể trao đổi, hướng dẫn 4. Trong lãnh vực học tập, phát triển trí năng : Một vài nguyên tắc sư phạm : 1. Thay vì áp đặt từ ngoài và đòi hỏi trẻ em tuần phục, chúng ta cần phát huy và giúp trẻ em phát huy ý thích học tập. Ý thích học tập là điều kiện tối quan trọng để trẻ em có thể phát huy trí năng của mình. 2. Học là học cho chính mình. Cho nên nếu trẻ em không tìm thấy thích thú trong vấn đề học tập, trẻ em sẽ trở nên bị động và bao nhiêu vấn đề về phát huy trí năng bị tắc nghẽn. 3. Điều tối quan trọng cần học tập vào lứa tuổi này là thể thức tiếp xúc và cư xử với người khác, trẻ em cùng lứa tuổi, và
  104. người lớn. Đặc biệt trong vấn đề tranh chấp, xung đột giữa bạn bè, và thể thức tìm hiểu và đối xử với những người lớn trong gia đình. 4. Bài học quí hóa nhất là ý thức tích cực về bản thân mình. “Tôi là 1 giá trị đích thực và mọi người yêu chuộng tôi”. “Nhu cầu tự lập được kẻ khác tôn trọng: tôi có khả năng”. 5. Trò chơi với chúng bạn cùng lứa tuổi là phương tiện học tập và phát triển hữu hiệu nhất. * * * [1] Know your Child - New York, Basic Book, 1987.
  105. PHẦN 2 THỂ THỨC PHÁT HIỆN NHỮNG TRẺ EM CÓ NGUY CƠ TRỞ THÀNH KHUYẾT TẬT Bí chú : Phần 2 nầy bao gồm nhiều tin tức rất chuyên môn dành cho Bác sĩ và chuyên viên Tâm Lý. Người cha mẹ và độc giả không có chuyên môn có thể qua Phần 3. Công tác của chúng ta là “can thiệp và đề phòng” càng sớm càng tốt, khi chúng ta phát hiện những trẻ em có nguy cơ trở thành khuyết tật.
  106. Để tổ chức và thực hiện công tác này, chúng ta cần xác định những yếu tố sau đây: 1. Thể thức phát hiện. 2. Trẻ em có nguy cơ. 3. Can thiệp và Đề phòng. 4. Càng sớm càng tốt. Ở những nơi, hệ thống y khoa được tổ chức chặt chẽ, vấn đề phát hiện đã được bắt đầu từ khi đứa con còn ở trong bào thai của người mẹ. Hội chứng Down, Mongolisme còn gọi là Trisomie 21 (chứng suy thoái của sắc thể số 21) có thể được phát hiện, bằng phương pháp phân tích tế bào trong nước bào thai, từ tuần lễ thứ 13 đến tuần thứ 17. Có lẽ trong tương lai rất gần, y khoa có thể phát hiện những suy thoái sắc thể, bằng cách phân tích máu của người mẹ, khi bào thai được 10 tuần
  107. lễ. Tuy nhiên, trong những điều kiện y khoa hiện thời, một số hội chứng như Rett chỉ được phát hiện khi trẻ em lên 8 tháng hoặc 1 năm Trong một số trường hợp, công việc chẩn đoán chỉ được xác định dần dần qua nhiều năm, sau bao nhiêu lần khám nghiệm. Trong những điều kiện y tế và xã hội tại Thuỵ Sĩ, mỗi trẻ em được một bác sĩ chuyên về nhi đồng theo dõi từ lúc sinh ra. Khi có những dấu hiệu báo động, chính bác sĩ sẽ hướng dẫn cha mẹ tìm đến những bác sĩ chuyên môn. Và khi có những chẩn đoán rõ ràng, bác sĩ chuyên môn sẽ đặc trách công việc thông báo. Và chính bác sĩ này sẽ giới thiệu trẻ em với các tổ chức hoặc cơ quan chuyên trách về vấn đề giáo dục và trị liệu. Từ 0 đến 3 tuổi, đa số trẻ
  108. em được theo dõi tại gia đình. Những cán viên đặc trách vấn đề xã hội và các giáo viên đặc biệt đến tận nhà làm việc với người mẹ để giáo dục đứa con, mỗi tuần một hoặc hai lần trong khoảng một tiếng đồng hồ. Tuỳ trường hợp, bác sĩ sẽ quyết định sử dụng phương tiện vật lý trị liệu, ngôn ngữ trị liệu hay là tâm lý trị liệu dưới nhiều hình thức khác nhau Dần dần, sau một vài tháng hay một năm, trẻ em sẽ được giao phó cho những cơ quan, tổ chức chuyên trách về các lớp học đặc biệt, thay thế cơ quan giáo dục lưu động. Trong hoàn cảnh và điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam, hai điều cần được thực hiện : Thứ nhất là tổ chức công tác phát hiện càng sớm càng tốt những trẻ em có nguy cơ trở thành khuyết tật.
  109. Thứ hai là tổ chức công tác can thiệp và đề phòng bằng cách hướng dẫn người mẹ trong những công việc giáo dục hằng ngày, khi đứa con sơ sinh ở vào lứa tuổi 0 đến 3 năm. Công việc chúng ta được coi như một cái phễu : bắt đầu phát hiện mọi nguy cơ và tức khắc can thiệp sau một thời gian can thiệp, hướng dẫn, hy vọng một số lớn trẻ em không còn thuộc diện nguy cơ. Cho nên trong tình thần và ý hướng của tôi, đối tượng công tác của chúng ta không phải là đứa con sơ sinh mà thôi, nhưng cả hai mẹ con. Chúng ta hướng dẫn và giúp đỡ bà mẹ, để bà mẹ trong cuộc sống hằng ngày tạo cho con những điều kiện thuận lợi trong việc tiếp xúc, trao đổi và học tập. Hướng dẫn có nghĩa là trình bày và giới
  110. thiệu cho bà mẹ một số kỹ năng đơn thuần bình thường trong vấn đề dạy con. Giúp đỡ là đặt trọng tâm vào vấn đề lắng nghe, trao đổi, phản ảnh, tạo niềm tin và gây quan hệ. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề “can thiệp và đề phòng” ở một chương khác. Ở đây tôi chỉ trao đổi một vài ý kiến về công tác phát hiện những trẻ em có nguy cơ. * * * CHƯƠNG 2.1 PHƯƠNG PHÁP APGAR Tại phòng sinh, tức khắc sau khi đứa con ra khỏi lòng mẹ, hầu như khắp nơi trên
  111. thế giới các bác sĩ hộ sinh sử dụng phương pháp Apgar để khám nghiệm đứa bé sơ sinh. Năm yếu tố được khảo sát : màu da, nhịp tim, nhịp thở, trương lực của cơ (hay là mức độ co giản của bắp thịt, mực độ vận động) và thể thức phản ứng khi bị kích thích. Mỗi yếu tố được đánh giá như sau : Tối thiểu : 0 Trung bình : 1 Tối đa : 2 Kết quả : Tổng số điểm 7 : Tình trạng khả quan : Trẻ em lành mạnh. Sau đây là bản tóm lược cách thức chấm điểm :
  112. Điểm 0 1 2 Nhịp Không ≤ > tim đập 100/1g 100/1g Không Thở Thở Nhịp thở tự mạnh nhiên và không thở đều Khóc tức khắc mạnh Xanh Tái tím ở Màu nhợt thâm đầu, Hồng da xanh chân tay thắm miệng Co Co Vận Mềm giản yếu giản mạnh, động nhũn ớt hoạt bát
  113. Phản Không Cử ứng khi động nhẹ Ngoảnh có phản mặt khóc la bị kích ứng nhăn nhó thích Sau 5 phút, trẻ em được khám nghiệm lần II. Nếu kết quả vẫn dưới 3 điểm, có lẽ trẻ em sẽ có những vấn đế trầm trọng sau này, sau khi được hồi sinh. Chúng ta cần theo dõi những trẻ em này. Chúng ta có thể lặp lại lần III sau 15 phút để kiểm chứng kết quả. Thông thường, trong sổ tay hoặc hồ sơ sức khoẻ của mỗi em, có kết quả và số điểm Apgar. Đây là một dữ kiện đầu tiên có thể giúp chúng ta trong vấn đề phát hiện.
  114. * * * CHƯƠNG 2.2 PHƯƠNG PHÁP BRAZELTON T. Berry Brazelton là một bác sĩ chuyên về trẻ em, làm việc tại Bệnh viện Nhi đồng ở Boston, Mỹ. Phương pháp hoặc trắc nghiệm Brazelton mang tên là N.B.A.S. (Neonatal Behavioral Assessment Scale). Đồng thời ông là giáo sư ở nhiều Đại học và là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu danh tiếng. 1.Mục đích và ý hướng của trắc nghiệm NBAS là khảo sát tác phong của trẻ sơ sinh trong nhiều lãnh vực sau đây :
  115. 1. Khả năng phản ứng trước những kích thích dồn dập. 2. Khả năng vận động hay mức độ co giản của các cơ, còn gọi là Trương lực cơ. 3. Khả năng được dỗ dành. 4. Khả năng tự điều hướng, để trở lại tình trạng bình lặng. 5. Tình trạng bực tức cau có (khóc la). 6. Khả năng tổ chức tình trạng thức tỉnh trong sáu giai đoạn khác nhau. 7. Thể thức ngoại hiện và diễn tả nhu cầu và yêu sách của mình. 8. Thể thức “Bú, mút” và “Liếm môi”. 9. Khả năng tiếp thu và phản ứng trong lãnh vực giác quan. Nói cách chung, trắc nghiệm này giúp chúng ta kiểm kê và liệt kê tất cả vốn liếng
  116. hiện hành của trẻ sơ sinh, trên hai bình diện năng động tích cực (khả năng) cũng như bị động, tiêu cực (những vấn đề). Khác với những loại trắc nghiệm khác, phương pháp NBAS cần được sử dụng nhiều lần, với tốc độ và nhịp điệu : từng tuần, từng tháng hay là từng 10 ngày tuỳ khả năng và nhu cầu đánh giá của chúng ta, đồng thời cũng tuỳ theo mục tiêu và phương thức làm việc của mỗi người. Nếu điều kiện cho phép, chúng ta có thể hướng dẫn người cha và nhất là người mẹ trong cách sử dụng, để họ có thể áp dụng trực tiếp, không cần sự chứng giám hoặc công việc kiểm soát của chúng ta. Là một trắc nghiệm đánh giá khả năng hiện hành và khả năng học tập của trẻ em sơ sinh, đồng thời NBAS là phương tiện trao đổi giữa mẹ và con hay là giữa chúng
  117. ta và người mẹ; cũng như giữa các thành viên cùng một nhóm làm việc với người mẹ, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Nếu trong tất cả mọi bản kết quả của nhiều người, đều có khuynh hướng đi lên theo ngày tháng và tất cả kết quả đều vượt mức trung bình : Đó là dấu hiệu rõ rệt cho ta biết : Trẻ em có khả năng học tập. Tình trạng kết quả đồng đều đi xuống hay là vẫn dẫm chân tại chỗ : đó là dấu hiệu đòi hỏi chúng ta phải có biện pháp hữu hiệu hơn. Lẽ đương nhiên, giữa hai lần đánh giá và đúc kết kết quả, chúng ta đã có những chương trình can thiệp với người mẹ. Và giữa toán làm việc của chúng ta, đã có những cuộc thảo luận, trao đổi về chương trình can thiệp với đứa trẻ. Nếu qua việc áp dụng trắc nghiệm này,
  118. * Người mẹ biết quan sát con mình, * Người mẹ ý thức đến những khả năng rõ rệt của đứa con, * Người mẹ biết trao đổi, tiếp xúc, chuyện trò với đứa con mình, * Người mẹ biết đặt những câu hỏi và trao đổi với chúng ta về đứa con và về chính mình, Công việc “Can thiệp và đề phòng” của chúng ta đã đạt được mục tiêu. Còn lại vấn đề phát hiện : sau một năm làm việc như vậy, vấn đề sẽ được giải quyết. Hoặc là đứa bé đã tỏ ra có khả năng học tập, hoặc là vấn đề khuyết tật càng ngày càng rõ ràng. Tuy nhiên, trong trường hợp trẻ em khuyết tật thực sự, “khuyết tật” không còn là một gánh nặng cho bà mẹ và cho các giáo viên sau này, bởi vì bà mẹ đã có kỹ năng tiếp xúc và trao đổi với con
  119. mình. Nói tóm lại, Trắc nghiệm NBAS giúp chúng ta khảo sát và đánh giá khả năng học tập của trẻ sơ sinh. 2. Dụng cụ cần thiết cho công việc trắc nghiệm : 1 cái lúc lắc nhỏ có màu sặc sỡ. 1 cái chuông nhỏ. 1 trái banh nhỏ màu đỏ rực rỡ. 1 ngọn đèn pin có ánh sáng mạnh. 3. Nội dung trắc nghiệm và thể thức xử dụng : Trắc nghiệm NBAS bao gồm 27 tiết mục. Thời gian áp dụng : 30 phút. I. Tiết mục 1 4 : Khả năng rút lui và khả năng quen nhàm. Khả năng rút lui, khả năng khép kín cửa giác quan hay là khả năng quen nhàm : cả ba loại khả năng này đều có một chức năng
  120. tự đề phòng và bảo vệ trước những kích thích dồn dập, lặp đi lặp lại, có thể tạo nên tình trạng mệt mỏi, khả dĩ gây tai hại cho sức khoẻ và nhất là hệ thần kinh. Trong ý hướng ấy khả năng quen nhàm là khả năng tự động hạ giảm mức độ phản ứng nhạy cảm. Đó là dấu hiệu: ngưỡng sơ khởi phải gia tăng mức độ. Sự có mặt của khả năng này là dấu hiệu biểu lộ sự lành mạnh và vẹn toàn của hệ thần kinh trung ương não bộ. Trong trường hợp ngược lại, hệ thần kinh có phản ứng quá bén nhạy, cho nên dễ bị căng thẳng thường xuyên. Ngưỡng sơ khởi ở mức độ thấp và không thể gia tăng. Những trẻ em có hệ thần kinh não bộ thuộc loại này hay giật mình, tỉnh thức, không thể bảo vệ giấc ngủ của mình. Cho nên tác phong mệt mỏi bực bội.
  121. Ở vào tình trạng tỉnh thức, những trẻ em này trở nên hiếu động, thiếu khả năng phối trí và phối hợp trên bình diện vận động. Cho nên tay làm một đàng, chân đi một nẻo. Hai mắt nhìn về hai hướng khác nhau. Sức chú ý rất là hời hợt nông cạn, không thể kéo dài lâu. Nói tóm lại, khả năng đình chỉ, tạm hoãn những vận động phản xạ không có mặt, cho nên khả năng tập trung bị phân loạn, Đó là chướng ngại rất lớn lao cho công việc tiếp thu, tổ chức trong địa hạt học tập. Nếu như tình trạng này mãi hoài kéo dài, kết hợp vối những khó khăn khác : đó là một tiêu cứ rất quan trọng trong công việc phát hiện của chúng ta. Nguyên nhân tạo nên tình trạng này thay đổi tuỳ trường hợp. Tôi chỉ trích dẫn một vài ví dụ :
  122. Trẻ em sinh ra thiếu tháng : hệ thần kinh chưa phát triển đầy đủ. Trẻ em khuyết tật với lý do : hệ thần kinh não bộ bị chấn thương lúc sinh và trước khi sinh, suốt thời kỳ ở trong bào thai. Trẻ em có mẹ nghiện ngập rượu mạnh, xì ke, ma tuý trong thời gian thai nghén. Trẻ em thiếu dinh dưỡng trầm trọng và không lớn mạnh trong 3 tháng cuối cùng trước khi sinh. Để tức khắc giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho vấn đề phát triển, chúng ta nên tạo cho trẻ em này một môi trường bao che đùm bọc lúc ban đầu : Nhiều nghỉ ngơi. Tránh những tiếng động và ánh sáng quá chói chang. Nhẹ nhàng, từ tốn khi bồng bế tắm gội.
  123. Tránh những gì làm giật mình. Hạn chế những kích thích : bắt đầu từ những cường độ rất thấp, đừng kết hợp 2 loại kích thích khác bản chất như giọng nói và thoa bóp. Đừng quá kéo dài những trò chơi kích động. Nhẹ nhàng và từ từ khi cần phải đánh thức con dậy. Mang con và áp con vào lòng giống người da đỏ, trong những tháng đầu tiên. Thường xuyên thoa bóp nhẹ nhàng toàn thân và ru con trong lúc còn thức tỉnh. Thể thức sử dụng Chúng ta phải khảo sát 4 tiết mục này đương khi trẻ em ở tình trạng 1 : ngủ ngon. Tiết mục 1. Bấm đèn chói sáng vào mắt của đứa bé chừng 1-2 giây, trẻ em giật
  124. mình, cử động và từ từ trở về giấc ngủ bình lặng. Bấy giờ, chúng ta bấm lần II, và cứ như vậy cho đến 10 lần. Chúng ta ghi lại số lần cuối cùng khi trẻ em không còn phản ứng. Tiết mục 2. Rung lúc lắc cách xa độ 25- 30 cm, trong vòng 1 giây. Tiết mục 3. Rung chuông trong vòng 1 giây. Tiết mục 4. Lấy que tăm ấn nhẹ vào gót chân. II. Tiết mục 5-9 : Khả năng chú ý và tiếp xúc với môi trường chung quanh : vật và người. Đặc biệt trong 5 tiết mục này chúng ta khảo sát những vốn liếng cơ bản của trẻ sơ sinh, trên hai bình diện chú ý và tiếp xúc với ngoại cảnh, trong đó có cả người và đồ vật.
  125. Để có thể chú ý, trẻ em cần vận dụng nhiều khả năng khác nhau : Khả năng nhìn hoặc nghe. Khả năng đình chỉ hoặc tạm hoãn mọi hoạt động khác, trong khi nhìn và nghe. Khả năng vận động, hướng chuyển đầu và mặt từ trước ra sau, từ dưới lên trên để theo dõi một vật đang di động. Chúng ta đã khảo sát với khá nhiều chi tiết hai khả năng cơ bản của trẻ em là Thấy và Nghe. Ngay từ lúc sinh ra, trẻ em đã biết vận dụng 2 khả năng cơ bản này để tiếp xúc với môi trường chung quanh, để tiếp thu những dữ kiện. Đây là nền tảng của tất cả khả năng học tập sau này. Thiếu nền tảng này hay là gặp trắc trở ở đây và không được người lớn tạo điều kiện khắc phục, trẻ em sẽ trở nên nghèo nàn trong địa
  126. hạt trí năng. Chậm phát triển bắt nguồn từ những khó khăn sơ khởi này. Trên đây, chúng ta đã phân biệt 2 cách nhìn nơi trẻ em : Cái nhìn linh động, hoạt bát tạo vui thích và hứng khởi cho người mẹ, đồng thời mang lại vui thích hứng thú cho trẻ em. Càng nhìn càng cười, càng cười càng phát âm vận động. Cái nhìn bất động vô cảm : chúng ta có cảm tưởng trẻ em nhìn, nhưng không thấy gì cả; nhìn trong một tình trạng nhiều mê hơn tỉnh. Cái nhìn chứa chất khổ đau. Với cái nhìn loại này, trẻ em không tiếp thu vì không thiết lập liên hệ, không thể liên kết cái này với cái khác. Đó là cái nhìn không tổ chức, liên kết, đối chiếu, so sánh. Chính cái nhìn ấy, nếu không được khắc
  127. phục càng sớm càng tốt, là mầm móng của CHẬM phát triển. Trong lãnh vực thính giác, chúng ta có thể ghi nhận những hiện tượng tương tự. Trẻ em nghe, nhưng âm thanh chỉ là tiếng động làm nhức nhối khổ đau, trên bình diện tâm lý. Cho nên trẻ em có khuynh hướng bịt tai. Trẻ em nghe với nét mặt vui tươi, hớn hở. Âm thanh ở đây chưa phải là giọng nói có ý nghĩa. Nhưng là dấu hiệu dẫn tới một cái khác, gợi lên một tình cảm năng động, một sự sống sự có mặt của mẹ mình. Theo D.Stern, từ những tháng ngày đầu tiên, trẻ em đã bộc lộ, thực hiện và thực tập hai khả năng chủ yếu, biểu hiện một trí năng phong phú dồi dào : a/ Khả năng hội nhập các dữ kiện liên
  128. giác quan Thấy Nghe ¤ Đối tượng duy nhất Va chạm Ba dữ kiện của ba giác quan khác nhau đều biểu hiện cùng một đối tượng. Ví dụ : bước đi mẹ mùi sữa mẹ b/ Khả năng nhận biết mình là nguyên nhân: Chủ động có tác quyền và gây ảnh hưởng : “Nếu tôi khóc, mẹ sẽ hiện ra” “Nếu tôi vùng vẫy, mẹ sẽ đến chơi đùa với tôi” Thiếu môi trường và điều kiện thực tập, hai khả năng này sẽ mai một, cùn mòn và thoái hoá, như trong trường hợp những trẻ
  129. em mồ côi, mang chứng bệnh “Thiếu tình thương” của R.Spitz. Nói một cách vắn gọn, tất cả chương trình can thiệp của chúng ta nhằm phát huy và phục hồi hai khả năng này. Với hai tiết mục 8 và 9 chúng ta khảo sát khả năng tiếp xúc với giọng nói và khuôn mặt loài người. Hai phản ứng đặc biệt diễn tả khả năng này : Trẻ em đã biết phân biệt đồ vật và con người. Hai cách theo dõi hoàn toàn khác biệt nhau. Trước đồ vật trẻ em theo dõi bình lặng, chăm chú. Trước mặt người và giọng nói, trẻ em trở nên linh động và hoạt bát hơn, có ý hướng tiếp xúc trao đổi. Thêm vào đó, trẻ em có thể bắt chước há miệng, nhe răng giống như người lớn. Nói cách chung, đời sống xã hội đã bắt
  130. nguồn từ hai “mầm mống” này. Thể thức sử dụng : Chúng ta khảo sát năm tiết mục sau đây, khi trẻ ở vào tình trạng 4 : Thức tỉnh hoạt bát. Tiết mục 5 : Đưa trái banh đỏ trước mặt trẻ em, có đường kính chừng 5 cm cách xa chừng 30-35 cm, di chuyển từ trước ra sau, và từ dưới lên trên với góc độ 30 độ. Trẻ em ở thế ngồi hay đứng, có người nâng đỡ. Tiết mục 6 : Rung lúc lắc và di chuyển. Tiết mục 7 : Đưa mặt mình và di chuyển. Tiết mục 8 : Kêu tên, đứng bên trái hoặc bên mặt. Tiết mục 9 : Vừa đưa mặt vừa nói chuyện và điệu bộ nhe lưỡi III. Khả năng tổ chức và xử dụng những tình trạng ý thức .
  131. Tiết mục 10 : Chất lượng và thời gian của tình trạng thức tỉnh hoạt bát, chú ý. Tiết mục 16 : Khả năng sử dụng sự dỗ dành của kẻ khác : khó hoặc dễ, lâu hoặc mau. Phải làm gì để dỗ dành khi trẻ em khóc la. Mất bao lâu để trở về trạng thái bình lặng nhờ việc dỗ dành của kẻ khác. Tiết mục 17 : Mức độ của tình trạng khóc la inh ỏi và khả năng tự động trở lại bình lặng, khả năng tự điều hợp : mất bao nhiêu thời gian ? Tiết mục 18 : Tốc độ nhanh hoặc chậm khi trẻ em chuyển qua tình trạng khóc la inh ỏi. Tiết mục 19 : Giai đoạn bực bội cau có, suốt thời gian khám nghiệm : Tình trạng 5 - Thức tỉnh náo động. Tiết mục 24 : Số lượng những tình trạng
  132. ý thức đã diễn biến suốt thời gian khám nghiệm thế nào ? Công việc khám nghiệm bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Giai đoạn thứ 1 : Trẻ em đang còn mê ngủ chúng ta còn giữ khoảng cách, khảo nghiệm từ ngoài. Trẻ em ở thế nằm. Tình trạng ý thức số 1. Giai đoạn thứ 2 : Chúng ta ẵm trẻ em ngồi lên để khảo sát các đề mục 5-9. Trẻ em còn nửa ngủ nửa thức. Tình trạng 3. Giai đoạn thứ 3 : Chúng ta bắt đầu từ từ cởi trần em bé và khảo sát cách thức da thịt đổi màu. Giai đoạn thứ 4 : Chúng ta bắt đầu khảo sát những phản xạ, vận động của trẻ em trong nhiều tư thế khác nhau.
  133. Trong giai đoạn 3 và 4, chúng ta ghi nhận những biến chuyển nơi trẻ em : Thời gian cần thiết để thức tỉnh. Chất lượng của tình trạng thức tỉnh. Khả năng chấp nhận và chịu đựng những loại kích thích khác nhau : ánh sáng, âm thanh, nhiệt độ, những va chạm, những thế bồng bế. Giai đoạn 5 : Giai đoạn phản kháng bằng tiếng khóc la, để bênh vực chủ quyền của mình. Tuy dù phản kháng, khả năng tiếp xúc vẫn còn ? Chúng ta còn có thể thương lượng dỗ dành hay không ? Và suốt thời gian được khám nghiệm, ngoài vấn đề “bị kích thích”, qua tất cả sáu giai đoạn trẻ em đã chủ động thế nào, đã diễn tả những gì : vui buồn, bực bội, mỉm cười, bú mút Nói cách chung, trẻ em đã
  134. có những hành động nào, đã làm gì để khắc phục những khó khăn, trở ngại ? Nói tóm lại, suốt thời gian khám nghiệm, trẻ em đã bộc lộ rõ nét nhân cách và cá tính của mình qua những khả năng sau đây : Khả năng thích nghi. Khả năng chịu đựng nghịch cảnh. Khả năng bộc lộ tình cảm, diễn tả ý thích. Khả năng khắc phục những khó khăn. Khả năng khước từ, phản kháng. Khả năng tự điều chế. Khả năng tiếp xúc, trao đổi với người khác. Một trẻ em lành mạnh sẽ có khả năng đi qua từng giai đoạn, một cách xuôi thuận, êm đềm. Chúng ta một phần nào có thể dự
  135. phòng và tiên liệu sự diễn biến. Trái lại, những bùng nổ đột ngột hay là những ứ động cho ta thấy tình trạng vô tổ chức hay là thiếu tự chế. IV. Khả năng vận động . Tiết mục 11. Mức độ co giãn các cơ. Tiết mục 12. Thể thức vận động : mạnh mẽ, dễ dàng ? Tiết mục 13. Phản ứng của cánh tay, vai và đầu ở thế ngồi. Tiết mục 14. Khả năng thu mình trong hai cánh tay của người lớn. Tiết mục 15. Khả năng tự vệ (đưa tay lên mắt cất chướng ngại). Trong khi khảo sát những tiết mục trước đây, chúng ta đã ghi nhận một vài vận động thiết thực nhưng thoáng qua và khó ghi nhận của trẻ em trong liếc nhìn và cách thế quay đầu theo dõi hay là ngoảnh mặt
  136. tránh né những kích thích bên ngoài. Ở đây chúng ta đề cập đến vận động toàn diện của cơ thể, nhất là ở chân và tay. Để nắm vững tầm quan trọng và vai trò cơ bản của vận động trong toàn thể tiến trình tăng trưởng và phát triển của trẻ em, chúng ta cần khảo sát tỉ mỉ hai vấn đề : Trương lực của cơ và các phản xạ. Nói đến Trương lực của cơ cũng như khi bàn đến Ngưỡng kích thích, chúng ta cần nghĩ đến một mức độ sẵn sàng, sắp sẵn hoặc để phản ứng, hoặc để vận động. Các bắp cơ luôn luôn ở tình trạng chuẩn bị để co lại hoặc giãn ra; trong khi con người ở tình trạng nghỉ ngơi, không hoạt động. Chừng nào được kích thích, các bắp cơ sẽ sẵn sàng phản ứng co hoặc giãn tuỳ điều kiện và nhu cầu. Tình trạng phát triển bình thường của hệ thần kinh và sức khoẻ
  137. của cơ thể là tình trạng sẵn sàng. Trong địa hạt vận động, đó là tình trạng TRƯƠNG LỰC. Trương lực bất cập xảy ra khi mức độ sẵn sàng ở dưới trung bình. Cho nên, khi cần phải hoạt động hoặc phản ứng tức khắc, bắp cơ thiếu điều kiện. Chính vì lý do đó, những trẻ em có tình trạng Trương lực bất cập gặp rất nhiều khó khăn trắc trở trong tất cả mọi hoạt động đòi hỏi chú ý và tập trung tư tưởng. Vấn đề tiếp thu, học tập, tiếp xúc, trao đổi xã hội cũng vì đó, bị ngưng trệ hoặc bế tắc. Đa số trẻ em có hội chứng Mongolisme (chứng suy thoái của sắc thể số 21) đều có ít nhiều những khó khăn này. Không hiểu rõ như vậy, chúng ta có thể đề xuất những nhận xét hoàn toàn tiêu cực về tác phong và nhân cách của các em :
  138. “Em A thích làm biếng “Em B hay chọc ghẹo các em bên cạnh “Em C thích nằm bẹp suốt ngày “Em D hay lơ đãng” Trương lực thái quá cũng là một chướng ngại lớn lao, rất khó khắc phục, trong vấn đề học tập, đặc biệt trong lãnh vực chú ý và thực hiện ý định. Trường hợp trương lực bất cập tạo nên những trẻ em thiểu động, bất động. Trái lại, trường hợp Trương lực thái quá tạo nên những trẻ em hiếu động, thường xuyên vùng vẫy. Như sóc chuyền cành, những trẻ em này nhảy từ việc này qua việc nọ và không bao giờ hoàn thành một công việc nào. Trong phòng học cũng như trong gia đình, trẻ em loại này thích bày biện lung tung, lộn xộn những vật dụng hoặc đồ chơi ở khắp cùng mọi nơi. Theo
  139. từ ngữ chuyên môn của K. Goldstein, đó là tác phong hốt hoảng, vô tổ chức, lăng xăng, hỗn độn. Những bộc lộ bên ngoài ấy phát xuất từ hai tình trạng : Tình trạng tâm lý : nội tâm lo âu, khắc khoải, căng thẳng và xung đột. Tình trạng thần kinh : não bộ bị chấn thương hoặc chấn động mạnh. Song song với vấn đề TRƯƠNG LỰC CƠ, chúng ta còn phải khảo sát sự có mặt hay vắng mặt của một số phản xạ. Sự vắng mặt của những phản xạ này trong sáu tháng đầu tiên là một triệu chứng đáng lo ngại về tình trạng nguyên vẹn của hệ thần kinh. Sự có mặt, sau lứa tuổi từ 6 tháng trở lên cũng cần được lưu tâm một cách rất nghiêm túc, trong vấn đế tăng trưởng và phát triển.
  140. Trước hết, phản xạ là gì ? Phản xạ là những phản ứng tự động, tự nhiên của cơ thể, trong địa hạt vận động khi được kích thích. Đây là một hình thức tổ chức của cuộc sống trong đó vấn đề sống còn là ưu tiên số một. “Trí thông minh” chưa có mặt. Hệ thần kinh trung ương não bộ chưa hoạt động. Phản xạ đã có mặt khi đứa bé còn ở trong bao thai. Một trong những chức năng của nó là tạo điều kiện cần thiết và đầy đủ, để bào thai có thể di động và đi ra khỏi tử cung. Cuộc sống sau khi đứa con sinh ra đòi hỏi những hình thức tổ chức càng ngày càng phức tạp và kiện toàn. Thể thức phản ứng đại loại, tự động, tức khắc dần dần nhường chỗ cho những suy tư, quyết định, chọn lựa, tiên liệu, phối hợp của Trí
  141. thông minh. Nhờ hình thức tổ chức này, con người có khả năng trì hoãn những phản ứng của mình, để chọn lựa một giải pháp thích hợp với hoàn cảnh và môi trường chung quanh. Không có hệ thần kinh não bộ, con người sẽ không có khả năng tinh vi ấy. Trong lứa tuổi từ 0 đến độ 6,7 tháng, Hệ Thần kinh còn tiếp tục tăng trưởng cho đến khi mọi đường dây được bao bọc bằng một lớp my-ê-lin. Vấn đề tổ chức và vấn đề chuyên môn phải đi đôi với nhau và liên hệ mật thiết vào nhau. Sáu tháng đầu tiên của cuộc sống là một giai đoạn chuyển tiếp cần thiết trong cuộc sống của con người. Nhờ những phản xạ, đứa trẻ sơ sinh tiếp tục cuộc sống trong bao thai. Đồng thời, những phản xạ tạo điều kiện thuận lợi và cần thiết cho sự xuất
  142. hiện của Trí thông minh sau này. Trong ý hướng ấy, phản xạ không phải chỉ là một vết tích của một cơ cấu tổ chức đã lỗi thời. Phản xạ chuẩn bị Trí Thông minh. Không có phản xạ, Trí Thông minh không thể phát triển. Tuy nhiên, sau một thời gian nếu những phản xạ không biến hoá, để trở thành những hành động có mục đích và ý hướng, sự tồn đọng ấy là dấu hiệu báo động cho ta hay : có một điều gì trắc trở, bế tắc trong tiến trình tăng trưởng và phát triển. 1. Phản xạ co giãn ở cổ : Đầu nghiêng về phía lưng (thế ngồi). Các bắp cơ giãn ra ở phía trước và rút lại ở phía lưng. 2. Phản xạ uốn cong toàn thân (vuốt lưng dọc theo xương sống). 3. Phản xạ Mo Ro còn gọi là phản xạ
  143. ôm choàng (kéo đầu lui sau hay vỗ mạnh vào gối đầu). Hai tay giăng ra và gấp lại thành vòng cung. Hai chân phóng ra trước. 4. Phản xạ bước đi tự động và phản xạ đứng lên đưa chân thẳng ra. Khi hai chân đụng đến một mặt bằng. 5. Phản xạ bò sát (thế nằm trên bụng). 6. Phản xạ tự vệ (ở thế nằm, có tấm vải che mắt). Quay đầu trước sau hoặc hai bên và đưa tay lên mắt để cất đi một tấm vải nhẹ. 7. Phản xạ tìm vú mẹ (đào đất hay là rúc rỉa). Khi được thoa vuốt quanh miệng, trẻ em quay đầu bên này bên kia. 8. Phản xạ ợ hơi : Trước hoặc sau lúc bú, trẻ em ợ hơi để loại ra những chất nhờn cản trở đường hô hấp. 9. Phản xạ Babkin hay là đưa tay vào miệng (khi được thoa má hay là được cầm
  144. ngón tay của người lớn). Như chúng ta đã nhấn mạnh nhiều lần, Trắc nghiệm NBAS nhằm khảo sát và phát hiện những vốn liếng sẵn có của trẻ em. Những phản xạ phải được xem là một trong những vốn liếng ấy. Khi còn ở trong lòng mẹ, vốn liếng này chuẩn bị và tạo điều kiện để bào thai thoát ra khỏi lòng mẹ. Sau ngày sinh, phản xạ tạo điều kiện để trẻ em vận động. Với thời gian, học tập và thực tập, vận động có qui mô tổ chức, mục đích và ý hướng. Nếu tình trạng bị cứng đọng, sẽ không có kết quả là sự chuyển hoá. Nói cách khác, không có tiến tức là thối : Trẻ em đang có vấn đề trong lãnh vực học tập. Chúng ta cần sớm can thiệp. Thể thức sử dụng
  145. Để khảo sát những tiết mục này, bắt đầu từ tiết mục thứ 10, chúng ta đã cất hết mọi loại quần áo trên thân thể của trẻ em, và chúng ta bắt đầu phát hiện những phản xạ trên đây. IV. Những hoạt động thích nghi. Trong giai đoạn cuối cùng của trắc nghiệm, chúng ta khảo sát khả năng tự điều hướng, tự chế, thích nghi của trẻ em. Nói cách chung, nhờ những khả năng này, chúng ta đã tiên liệu và tiên đoán khả năng tự lập của trẻ em sau này vào lứa tuổi từ 7 hoặc 8 tháng trở lên, khi trẻ em bắt đầu biết đi và phải xa lìa mẹ trong một số hoàn cảnh. Tiết mục 20. Thể loại và cường độ hoạt động suốt thời gian trắc nghiệm (thể thức trả lời, phản ứng).
  146. Tiết mục 21. Rụt rè, run rẩy, sợ sệt suốt thời gian trắc nghiệm. Tiết mục 22. Khuynh hướng giật mình. Tiết mục 23. Thay đổi màu da. Tiết mục 25. Những hoạt động do trẻ em tổ chức (tự dỗ dành) để trở về tình trạng tỉnh thức bình lặng. Tiết mục 26. Đưa tay lên miệng. Tiết mục 27. Mỉm cười bắt chước (thích ứng với hoàn cảnh). Thể thức chấm điểm : Không có Kém Trung bình Tốt 0 đ 1 đ 2 đ 3 đ I. Phản ứng quen nhàm 1. Đèn, ánh sáng.
  147. 2. Lúc lắc, âm thanh. 3. Chuông. 4. Kim - que tăm, xúc giác. II. Chú ý, tiếp xúc 5. Trái banh đỏ. 6. Lúc lắc. 7. Khuôn mặt. 8. Gọi tên. 9. Cử điệu, nét mặt, bắt chước. III. Cách tổ chức các tình trạng 10. Thức tỉnh hoạt bát. 16. Chấp nhận sự dỗ dành. 17. Khóc la rõ rệt và trở về bình lặng. 18. Chuyển tiếp giữa các giai đoạn. 19. Giai đoạn tỉnh thức náo động (bực bội, cau có, phản đối). 24. Số lượng đầy đủ các giai đoạn. IV. Khả năng vận động 11. Trương lực.
  148. 12, 13, 14, 15. Phản xạ. VI. Mức độ hoạt động 20. Trong suốt 27 tiết mục, trả lời rõ ràng. 21. Thái độ rụt rè. 22. Nhạy cảm, giật mình. 23. Thay đổi màu da. 25. Khả năng tự dỗ dành. 26. Đưa tay lên miệng (phối hợp). 27. Mỉm cười xã hội. Sơ đồ khám nghiệm Tốt Trung bình Kém Lần Lần II Lần III Lần IV Lần V
  149. I Sau 5 Sau 10 Sau 20 Sau 30 ngày ngày ngày ngày * * * CHƯƠNG 2.3 TRẮC NGHIỆM BRUNET-LÉZINE 1. Mục đích yêu cầu Trắc nghiệm BL khảo sát bốn phương diện : a. Tư thế và vận động cơ thể (TV) b. Khả năng phối hợp các giác quan (PG).
  150. c. Ngôn ngữ (NN) d. Tiếp xúc xã hội (XH). nơi những trẻ em từ 0 đến 3 tuổi. 2. Đặc điểm : a. Áp dụng nhanh chóng. b. Cách chấm điểm dễ dàng. c. Dụng cụ đơn giản, ít tốn kém, có thể mua sắm tại chỗ trong các loại đồ chơi của trẻ em. 3. Bản trắc nghiệm với 160 đề mục : Tuổi 1 tháng Ở thế ngồi, ngẩng đầu lên một đôi 1. TV lần. 2. Được đặt ở thế nằm trên bụng, TV ngẩng đầu lên một đôi khi. 3. Ở thế nằm, trườn tới. TV
  151. 4. Có phản ứng khi nghe tiếng chuông PG (không thấy) 5. Mắt nhìn và theo dõi 1 chiếc vòng PG đỏ. 6. Nhìn mặt người làm trắc nghiệm. XH Câu hỏi : 7. Nắm chặt ngón tay của người lớn. TV 8. Phát ra những âm thanh từ cổ NN họng. Nín khóc khi nghe tiếng nói hay là 9. XH bà mẹ đến gần nôi em. Có phản ứng “tiên đoán” trước 10. khi được cho bú : hớn hở chắp XH môi
  152. 2 tháng 11. Ở thế ngồi, có thể giữ đầu thẳng TV đứng một vài giây. 12. Ở thế nằm sấp, có thể ngẩng cả TV đầu lẫn vai lên. 13. Khi được kéo nâng lên, tư thế nằmTV ngửa, vẫn giữ thẳng đầu. 14. Đưa mắt theo dõi người lớn di PG động ở thế ngồi. 15. Ở thế nằm, theo dõi chiếc vòng PG được di chuyển 180 độ. Có phản ứng khi nhìn mặt người 16. lại gần (thế nằm, phản ứng như XH đôi môi máy động).
  153. Câu hỏi : Trở thay thế nằm : để nằm nghiêng 17. TV trở qua thế nằm ngữa. 18. Phát nhiều âm thanh a, rờ, gờ NN 19. Yên tĩnh lắng nghe khi mẹ nói XH (không thấy, từ phía lưng). 20. Mỉm c uời với khuôn mặt quen XH thuộc. 3 tháng 21. Ngồi, đầu thẳng đứng. TV 22. Nằm sấp, dựa trên cùi tay. TV Ngồi nhìn một khối vuông đặt trên 23. bàn có màu đỏ chói. PG
  154. Đưa tay với chụp và tình cờ nắm 24. được cái lúc lắc. PG 25. Quay đầu nhìn theo một đồ vật. PG 26. Mỉm cười với chính người làmXH trắc nghiệm. Câu hỏi : 27. Níu lấy tấm khăn, vải và kéo về TV phía mình. 28. Líu lo ríu rít từng hồi. NN Trở nên náo hoạt khi thấy bình 29. XH sữa hay là mẹ vén áo cho bú. Vui đùa với 2 tay của mình : xoè 30. tay ra trước đôi mắt, hai tay nắmPG nhau
  155. 4 tháng 31. Nằm ngửa, duỗi chân thẳng. TV 32. Nằm sấp, nâng đầu và vai lên cao. TV 33. Ngồi và vuốt ve sờ mó thành bàn. PG Ngồi nhìn một hạt đậu để trên bàn 34. (hạt đậu ván lớn hơn đậu đen, hay PG là hạt nút áo). 35. Nằm ngửa đưa tay lấy chiếc vòng PG treo sẵn ở phía trên mắt, ngực. Nằm ngửa, rung lúc lắc và chăm 36. nhìn. PG Câu hỏi : 37. TV
  156. Kéo tấm vải hay khăn và che mặt. 38. P hát âm khi có người nói chuyện. NN 39. Cười to tiếng. XH 40. Quay đầu nhìn phía người gọi. XH 5 tháng Kéo hai tay đỡ trẻ em ngồi thẳng, 41. và đỡ nhẹ trẻ em ở phía lưng : TV Trẻ em ngồi thẳng, đầu và thân ngay thẳng. Nằm ngửa, đưa tay cất tấm khăn che đầu và mặt hay là trở qua trở lại để hất tấm khăn khỏi đầu (có ý 42. định rõ rệt, mặc dù có hay không TV kết quả) : cử động có ý hướng, mặc dù chưa làm được.
  157. 43. Ngồi đưa tay nắm lấy khối vuông PG ở sát gần hay là đụng tay mình. 44. Cầm một khối vuông và nhìn khối PG vuông thứ hai. 45. Đưa tay nhận lấy một đồ vật PG người khác cho. 46. Mỉm cười với bóng hình trong XH chiếc gương soi. Câu hỏi : 47. Tìm cách lượm lên cái lúc lắc ở TV trong tầm tay của mình. 48. Phát ra tiếng kêu vui sướng. NN Đạp chọi để cất tấm chăn che 49. chân (để khám phá, chơi đùa với XH chân).
  158. 50. Cười, phát âm khi vui đùa với đồ XH chơi. 6 tháng Có thể đứng thẳng và chịu được một phần sức nặng của toàn thân. Đ ưa tay đỡ trẻ em đằng sau, ở dưới nách. N âng trẻ em đứng lên, hai bàn 51. chân đặt ngay ngắn trên đất hoặc TV mặt bằng, không di động, không nghiêng qua hai bên cũng như không nghiêng về phía trước sau. T rong khi ấy, chúng ta nâng nhẹ nhàng hai bên và quan sát sức chịu đựng của trẻ em. Nằm ngửa, đưa tay cất tấm vải
  159. 52. trên mặt và làm được. TV Ngồi tại bàn và đưa tay nắm lấy 53. khối vuông trước mắt, cách xa 50 PG cm. Cầm 2 khối vuông trong hai tay và nhìn theo khối thứ 3. Trường hợp 54. trẻ em chưa có khả năng đưa tay PG kia để nắm lấy khối thứ 2, chúng ta cầm và đưa cho tay ấy. Ngồi ở trước một cái vòng được treo lên bằng một sợi dây và đưa qua đưa lại nhẹ nhàng : 55. T rẻ em đưa một tay, nắm cái vòng PG hay là kéo về phía mình. Nếu có người cầm dây kéo cái vòng, trẻ em giữ chặt lại. Ngồi cầm muỗng và xát hoặc cọ
  160. muỗng vào mặt bàn (thay vì đút 56. vào miệng. Đây là một thể thức PG khám phá kết hợp đồ vật - diện tích). Câu hỏi : Ngồi thẳng đầu và thân có dụng cụ như gối, mền hoặc thành ghế nâng 57. đỡ, không ngả qua 2 bên hoặc ra TV đàng trước trong một lúc khá lâu 5-10 phút. Uốn giọng lên xuống Rờ, gờ, pờ, 58. NN bờ. 59. Nằm ngửa, đưa tay cầm 2 chân. XH Phân biệt mặt lạ và mặt quen C ười với người quen. 60. XH N hìn quan sát bỡ ngỡ mặt lạ. Bắt