Nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình đối với phát triển kinh tế Việt Nam
Bạn đang xem tài liệu "Nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình đối với phát triển kinh tế Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- nguy_co_roi_vao_bay_thu_nhap_trung_binh_doi_voi_phat_trien_k.pdf
Nội dung text: Nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình đối với phát triển kinh tế Việt Nam
- Science & Technology Development, Vol 18, No Q2 - 2015 NGUY CƠ RƠI VÀO BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM VIETNAM AND THE THREAT OF FALLING INTO THE MIDDLE INCOME TRAP Nguyễn Văn Luân Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG - HCM - Email: luannv@uel.edu.vn Ngô Văn Hải Đại học Quốc gia TP. HCM (Bài nhận ngày 02 tháng 02 năm 2015, hoàn chỉnh sửa chữa ngày 15 tháng 06 năm 2015) TÓM TẮT Bẫy thu nhập trung bình được đưa ra trong các nghiên cứu về trạng thái phát triển kinh tế của các quốc gia, là thuật ngữ dùng để chỉ tình trạng “mắc kẹt” của nhiều quốc gia đã đạt được mức thu nhập trung bình, trung bình thấp trong thời gian dài không thể trở thành nước có mức thu nhập cao. Năm 2008, Việt Nam đạt ngưỡng thu nhập trung bình thấp (1.052 USD/năm), thoát khỏi trạng thái các nước kém phát triển. Trong giai đoạn 2008 - 2014 tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt mức bình quân 5,5 - 6%/năm. Tuy nhiên, nền kinh tế đang ngày càng bộc lộ sự tăng trưởng chậm, năng suất chưa cao, đồng vốn bỏ ra lớn nhưng hiệu quả thấp, khả năng chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm Theo lời cảnh báo của một số chuyên gia kinh tế, hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề sập “bẫy thu nhập trung bình”. Bài viết này trình bày một cách rõ nét về bẫy thu nhập trung bình, nguy cơ Việt Nam có thể rơi vào bẫy thu nhập trong phát triển kinh tế. Và đề xuất một số giải pháp để Việt Nam có thể tránh, vượt qua bẫy thu nhập trung bình và phát triển kinh tế bền vững. Từ khóa: Nguy cơ, bẫy thu nhập trung bình, phát triển kinh tế. ABSTRACT The concept of middle income trap has been introduced in a plenty of research on a nation’s economic development status which refers to the fact that many nations after attaining a certain income will get stuck at that level. Vietnam got rid of the list of least developed countries to join the lower middle- income countries with an annual GDP per capita of 1,052 USD in 2008. Vietnam enjoyed a steady GDP growth of 5.5 – 6% per year in the period between 2008 and 2014. However, the Vietnam’s economy shows signs of slowdown, low productivity, low return on investment, and low economic transition. Vietnam is also warned to be under the threat of falling into the middle income trap. This paper aims to provide a clear picture of the middle income trap and the threat that Vietnam may fall into the middle income trap, thereby proposing some solutions for Vietnam to circumvent it and sustainably develop the economy. Key words: Threat, middle income trap, economic development. Trang 68
- TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 18, SỐ Q2 - 2015 1. GIỚI THIỆU dài rơi vào tình trạng trì trệ, không chuyển sang nhóm các nước có thu nhập cao. Tiếp theo, Trạng thái bẫy thu nhập trung bình là một xuất hiện các nghiên cứu của Yusuf, Ohno, phạm trù của phát triển kinh tế. Đây là môt tình Kumar và của WB. Khái niệm này có những huống mang tính “tiến thoái lưỡng nan” trong điểm khác nhất định so với lý thuyết vòng luẩn xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển quẩn hay lý thuyết về các giai đoạn phát triển kinh tế. Sự tồn tại của nó mang tính chất khách kinh tế của W. Rostow được đưa ra vào năm quan và có khả năng làm giảm hiệu quả những 1960. Nếu nhìn nhận trong quá trình vận động nỗ lực nhằm phát triển kinh tế theo hướng công của tư duy kinh tế thì có thể thấy khái niệm nghiệp hóa, hiện đại hóa. Có không ít quốc gia “bẫy thu nhập trung bình” chỉ là sự biểu hiện gặp phải tình trạng này và là sự cảnh báo đối của trạng thái xuất hiện trong một khoảng thời với các quốc gia khác trong điều hành và phát gian nhất định trong tiến trình phát triển lâu dài triển kinh tế. của một quốc gia. Trong khi đó, việc nhận thức Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập “bẫy thu nhập trung bình” lại ở một trạng thái trung bình thấp và có những dấu hiệu rơi vào cao hơn về thu nhập và không dẫn đến tình trạng thái bẫy thu nhập trung bình, có khả năng trạng nghèo khổ, nhưng việc thoát ra khỏi vùng gây ra những tác động tiêu cực đến việc thực đó đòi hỏi có những đột phá quan trọng. Lý hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - thuyết của W. Rostow, nhận thức “bẫy thu xã hội đến năm 2020 để Việt Nam cơ bản thành nhập trung bình” chỉ xảy ra trong một giai đoạn nước công nghiệp theo hướng hiện đại. nhất định, nghĩa là nó chỉ phản ánh một giai Cho đến nay, có nhiều nghiên cứu về tình đoạn trong một khoản thời gian phát triển dài. trạng này ở nhiều quốc gia và các nghiên cứu Nói cách khác, nhận thức “bẫy thu nhập trung đó là những nguồn tư liệu quan trọng để Việt bình” nằm ở trình độ phát triển cao hơn của Nam có thể tham chiếu. Tuy nhiên, các nghiên quốc gia so với vòng luẩn quẩn nhưng lại ngắn cứu về Việt Nam còn rất hạn chế và chưa nhận hạn hơn so với cách tiếp cận các giai đoạn phát được sự quan tâm của các nhà hoạch định triển kinh tế, vì trong đó có cả giai đoạn thu chính sách cũng như cộng đồng các doanh nhập thấp, thu nhập trung bình thấp, thu nhập nghiệp và dân cư. Việc nhận thức bẫy thu nhập trung bình cao và tiêu thụ hàng loạt hàng hóa trung bình như là một căn cứ cảnh báo quan tinh xảo - sự thể hiện trình độ phát triển cao trọng đối với quá trình hoạch định chính sách của nền kinh tế có thu nhập cao. và đầu tư phát triển kinh tế của Việt Nam đang Theo quan điểm của Kenichi Ohno đặt ra trong bối cảnh có nhiều thách thức đối (2009)[5], bẫy thu nhập trung bình là trạng thái với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế của một quốc gia khi một hội nhập quốc tế. nước bị mắc kẹt tại mức thu nhập đạt được nhờ 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ BẪY THU có nguồn tài nguyên và một số lợi thế nhất định NHẬP TRUNG BÌNH mà không thể tiến lên để đạt mức cao nhất. Đây là trạng thái quốc gia chỉ dựa vào nguồn tài Khái niệm “bẫy thu nhập trung bình” được nguyên mà không có sự nỗ lực cần thiết. Bẫy đưa ra trong các nghiên cứu về trạng thái phát này xảy ra tại các nước có mức thu nhập trung triển kinh tế của các quốc gia. Những tác giả bình phụ thuộc đáng kể vào nguồn tài nguyên đưa ra khái niệm này là Gill và Kharas (2007) và lợi thế của nước đó. Nếu quốc gia có nhiều để chỉ ra tình trạng các nước đạt được mức thu tài nguyên thì có khả năng đạt được thu nhập nhập trung bình/người nhưng trong thời gian Trang 69
- Science & Technology Development, Vol 18, No Q2 - 2015 cao. Thực tế cho thấy, các nước giàu có về dầu cơ cấu xuất khẩu gắn với các chính sách hỗ trợ mỏ là quốc gia có thu nhập cao nhưng cơ cấu và tăng cường trong lĩnh vực giáo dục, cơ sở hạ kinh tế vẫn lạc hậu và do đó, dễ bị thụt lùi khi tầng, sáng tạo và tiếp cận nguồn tài chính. nguồn tài nguyên cạn kiệt. Cách giải thích này Một số học giả kinh tế và các nhà hoạch phản ánh khá cụ thể thực trạng và nguyên nhân định chính gần đây đã nhấn mạnh sự mở rộng của trạng thái “bẫy thu nhập trung bình”, đó là khái niệm bẫy thu nhập trung bình như là các “trần thủy tinh” khó nhận dạng cụ thể chuyển rào cản phát triển, có thể xuất hiện cho bất kỳ từ giai đoạn hấp thụ công nghệ sang sáng tạo quốc gia nào và ngăn chặn hay làm chậm lại công nghệ. Để vượt qua “trần thủy tinh” này quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển. cần tuyệt đối tránh tư duy “trung bình” trong Việc mở rộng định nghĩa bẫy thu nhập trung phát triển. [6] bình sẽ góp phần giải thích cũng như làm cơ sở Theo quan điểm của Ngân hàng Phát triển lý thuyết để cảnh báo các nguy cơ trì trệ kinh tế Châu Á (ADB, 2011), một quốc gia rơi vào bẫy đối với ngay cả các nước mới chỉ vượt qua thu nhập trung bình là trường hợp quốc gia đó “bẫy nghèo”, tức là đạt mức trung bình thấp không có khả năng cạnh tranh với các nền kinh như Việt Nam. Nguy cơ trì trệ sớm không chỉ tế có tiền lương thấp, thu nhập thấp trong xuất do áp lực cạnh tranh sản xuất ngày càng tăng khẩu hàng chế tạo và với các nền kinh tế phát mạnh dưới tác động của làn sóng tự do hóa triển dựa trên những thay đổi và đổi mới công thương mại toàn cầu. nghệ, kỹ năng cao của người lao động. Các 3. NGUY CƠ SẬP “BẪY THU NHẬP quốc gia đó không thể chuyển dịch đúng thời TRUNG BÌNH” TRONG PHÁT TRIỂN hạn từ mô hình tăng trưởng dựa vào nguồn lực, KINH TẾ VIỆT NAM tiền lương và vồn sang tăng trưởng cao dựa vào năng suất các yếu tố tổng hợp - TFP. Theo số liệu thống kê năm 2008 [11], Việt Nam đạt được mức thu nhập bình quân đầu Anna J. Arne J.N., José R.P (2012) [1] khi người 1.052 USD và trở thành nước có thu nghiên cứu so sánh kinh nghiệm tránh bẫy thu nhập trung bình thấp (theo chuẩn của Ngân nhập trung bình của các nước/vùng lãnh thổ hàng Thế giới)1. Kể từ thời điểm này, Việt Đông Á và các nước Mỹ La tinh đã chỉ ra một Nam thoát khỏi tình trạng nước có thu nhập số nền kinh tế mới công nghiệp hóa (NIEs) như thấp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình của Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc và Singapore Việt Nam trong giai đoạn 2008 - 2014 vào thành công trong việc chuyển sang nhóm các khoảng 5,5 - 6%/ năm. Tuy nhiên, trong các nước có thu nhập cao trong khi các nước Mỹ nước ASEAN, Việt Nam vẫn thuộc nhóm bốn Latinh vẫn ở trong trạng thái thu nhập trung quốc gia (Campuchia, Lào, Mianma, Việt bình. Nghiên cứu này chỉ ra NIEs Đông Á Nam) có thu nhập bình quân đầu người thấp thành công nhờ theo đuổi tăng trưởng dựa vào nhất. xuất khẩu bằng cách tập trung đầu tư lớn và hiệu quả vào các ngành công nghiệp chiến lược (chẳng hạn Hàn Quốc có các ngành luyện thép, 1 Ngân hàng Thế giới phân loại các quốc gia thành viên cơ khí và điện tử) tạo điều kiện để đa dạng hóa thành các nhóm nước theo thu nhập bình quân đầu người. từng bước và chuyển sang phát triển các loại Ngưỡng thu nhập để phân nhóm quốc gia dựa trên số liệu sản phẩm mới sử dụng công nghệ cao. Khi so năm 2012 như sau: Thu nhập thấp (dưới 1.035 sánh với các nước Mỹ La tinh, nghiên cứu chỉ USD/người); thu nhập trung bình thấp (1.036 - 4.085 USD/người); thu nhập trung bình cao (4.086 - 12.615 ra thành công trong đa dạng hóa và tái cấu trúc USD/người); thu nhập cao (từ 12.616 USD/người trở lên). Trang 70
- TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 18, SỐ Q2 - 2015 Những kết quả đạt được trong năm 2014 hạn của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều tín hiệu năm 2014 cao hơn so với 3 năm trước đây; thế lạc quan. Tuy nhiên, trong năm qua vẫn còn nhưng tăng trưởng còn ở dưới mức tiềm năng một số lĩnh vực chưa đạt được kết quả theo và chưa có chuyển biến một cách tích cực về mục tiêu, vẫn đang tồn tại những điểm nghẽn chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng trong phát triển kinh tế. Tiến trình thực hiện tái bền vững. cơ cấu nền kinh tế còn chậm; nợ công cao và Sau 7 năm đạt được mức thu nhập trung cơ cấu chưa hợp lý; cân đối ngân sách nhà bình thấp, trong thời kỳ này tăng trưởng kinh tế nước còn khó khăn. Năm 2014 nợ công của của Việt Nam chậm lại, nguy cơ vướng “bẫy Việt Nam khoảng trên 60% GDP, nợ công thu nhập trung bình” của Việt Nam không còn đang tiến sát tới giới hạn an toàn theo quy định là một nguy cơ xa xôi, mà đã có những biểu của Quốc hội là 65% GDP. Hoạt động sản xuất hiện hiện hữu và rất đa dạng. Những triệu kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn còn chứng này có thể nhìn nhận thông qua các khía nhiều khó khăn, khả năng tiếp cận vốn còn cạnh sau đây: nhiều hạn chế. Việc thực hiện ba đột phá chiến lược, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình tranh bình đẳng và cải cách hành chính dường quân của Việt Nam trong 7 năm qua vào như mới thể hiện được ở việc ban hành một số khoảng 5,5 - 6% chưa đáp ứng yêu cầu cần văn bản pháp quy có liên quan tới thể chế kinh thiết để thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và tế thị trường. Kinh tế vĩ mô chưa thật sự vững bền vững (Biểu đồ 1). chắc, còn tiềm ẩn nhiều yếu tố gây bất ổn dài Đơn vị: % 6,42% 6,24% 5,98% 5,66% 5,40% 5,25% 5,42% 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 Biểu đồ 1. Tốc độ tăng GDP qua các năm Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê năm 2010, 2014 Việt Nam là một nền kinh tế với tiềm năng Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chủ yếu phát triển cao, với mức tăng trưởng bình quân 5 dựa trên gia tăng đầu vào, bao gồm cả việc mở - 6% cũng được xem như là sự trì trệ trong phát rộng tín dụng. Mặc dù nguồn cung lao động triển kinh tế. tăng, nhưng chất lượng nguồn nhân lực không được cải thiện. Đầu tư đóng góp tương đối cao Trang 71
- Science & Technology Development, Vol 18, No Q2 - 2015 trong tăng trưởng GDP của Việt Nam. Tổng thiếu ổn định, khó có thể tạo được tiền đề vững mức đầu tư so với GDP đã tăng đáng kể từ năm chắc để “cất cánh” hay để thoát ra khỏi “bẫy 2000. Tuy nhiên, hiệu quả của mức đầu tư cao thu nhập trung bình”. Mặc dù, mục tiêu tăng chưa tạo ra được hiệu ứng số nhân đối với sản trưởng kinh tế bình quân 5 năm tới (2016 - lượng trong nền kinh tế. So sánh chỉ số ICOR 2020) đạt 6,5 - 7%/năm. của Việt Nam so với các nước Đông Á lân cận Thực tiễn và kinh nghiệm của các nền kinh (xem David và cộng sự, 2008). Gần đây, tốc độ tế mới công nghiệp hóa nhanh chóng vượt qua tăng trưởng phụ thuộc vào đầu tư và xuất khẩu bẫy thu nhập trung bình đều có tốc độ tăng trong khi nền kinh tế đang đối mặt với thâm hụt trưởng bình quân trong giai đoạn “cất cánh” từ kép. 9 - 10%/năm, thậm chí còn cao hơn. Một hệ quả trực tiếp của việc áp dụng chiến Thứ hai, mức thu nhập bình quân đầu người lược tăng trưởng dựa trên đầu tư là gia tăng đạt được trong những năm qua còn ở mức thấp. khoảng cách đầu tư và tiết kiệm. Tỷ lệ tiết kiệm Việt Nam mới trở thành nước có thu nhập trong nước của Việt Nam là vừa phải, khoảng trung bình thấp cho nên khả năng để tiếp cận 30%. Tỷ lệ đầu tư phát triển khoảng 40% GDP; ngưỡng của mức thu nhập trung bình hay khoảng cách này làm cho tài khoản vãng lai rơi ngưỡng thu nhập trung bình cao còn khá dài. vào tình trạng thâm hụt. Ngoài ra, Chính phủ Khoảng thời gian này có thể kéo dài không cũng đang chịu gánh nặng thâm hụt ngân sách dưới 10 năm với kịch bản lạc quan là tốc độ hàng năm đều tăng lên. tăng trưởng kinh tế phải đạt được bình quân từ Từ một nền kinh tế đang phát triển ở trình 8 - 9%/năm, khi không có các cuộc khủng độ thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt hoảng kinh tế hay suy thoái kinh tế đe dọa làm Nam trong giai đoạn này đạt được tương đối suy giảm hoặc làm gián đoạn tốc độ tăng cao so với một số quốc gia khác trong khu vực trưởng này. (Biểu đồ 2). và trên Thế giới, nhưng sự tăng trưởng này lại Đơn vị: USD/người 2053,0 1908,0 1749,0 1517,0 1273,0 1052,0 1064,0 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 Biểu đồ 2. GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê năm 2010, 2014 Trang 72
- TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 18, SỐ Q2 - 2015 Thứ ba, hiệu quả đầu tư, đặc biệt đầu tư của khu vực này là sản xuất hàng chế tạo, đặc công không cao. Nếu đánh giá hiệu quả này biệt là linh kiện điện tử và điện thoại có khả thông qua chỉ số ICOR có thể thấy trong giai năng cạnh tranh cao mà các doanh nghiệp trong đoạn 2006 - 2010, ICOR của khu vực Nhà nước không thể sản xuất được do thiếu năng nước, tư nhân và đầu tư nước ngoài lần lượt là: lực làm chủ công nghệ trung bình và công nghệ 10,2 - 5 - 9,7; giai đoạn 2011 - 2014 là: 6,2 - cao. Đây là kết quả của tư tưởng dựa vào đầu 3,4 - 5,1 [11,13]. Đầu tư công của Việt Nam tư nước ngoài mà thiếu đi chiến lược tiếp nhận kém hiệu quả gây ra tình trạng thua lỗ nặng nề hợp lý, đặc biệt là chiến lược đổi mới công của các doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt là các nghệ theo hướng tăng khả năng cạnh tranh bền Tập đoàn kinh tế nhà nước. Tình trạng thâm vững và lâu dài cả trên thị trường trong nước hụt ngân sách, mở rộng tiền tệ gây ra tình trạng và thị trường thế giới. Có thể nói, sự phụ thuộc lạm phát hoặc tạo ra cơ hội để xuất hiện nhiều quá lớn vào nhà đầu tư nước ngoài có thể là thách thức hơn đối với quá trình phát triển kinh một trong những nguy cơ làm cho đất nước rơi tế. Điều này cho thấy hiệu quả đầu tư thấp khó vào trạng thái bẫy thu nhập trung bình vì sự có thể tạo đủ tiền đề cơ bản để tăng trưởng ổn thao túng đáng kể của nhà đầu tư nước ngoài định nếu chưa nói là làm suy giảm chất lượng theo hướng điều chỉnh chính sách có lợi cho tăng trưởng, lãng phí nguồn lực và làm lệch lạc các nhà đầu tư nước ngoài. các nỗ lực từ phía Nhà nước và doanh nghiệp. Thứ năm, các yếu tố khác có khả năng chi Hiệu quả đầu tư không cao còn làm giảm mức phối đến sập bẫy thu nhập trung bình là cơ cấu độ tiết kiệm cũng như khả năng huy động kinh tế chuyển dịch chậm, tỷ trọng ngành nông nguồn lực có hiệu quả. Nhìn tổng thể, mô hình nghiệp trong GDP hàng năm có giảm xuống, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời nhưng tổng giá trị gia tăng trong sản xuất nông gian qua là tăng trưởng theo chiều rộng, chưa nghiệp tăng chậm. Năm 2014, tỷ trọng ngành có những nền tảng cơ bản để phát triển theo nông, lâm - thủy sản giảm xuống còn 18,12%, chiều sâu cho nên khả năng vượt qua bẫy thu tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên nhập trung bình là hết sức khó khăn. chiếm 81,88%; song chủ yếu là công nghiệp có Thứ tư, nền kinh tế phụ thuộc đáng kể vào giá trị gia tăng thấp và phụ thuộc đáng kể vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, vì khu vực đầu tư nước ngoài. Đồng thời, chính sách tiền này còn được coi là tận dụng được nhiều nhất lương tối thiểu thấp làm giảm động lực phấn nguồn lực bên ngoài để đưa Việt Nam thoát đấu của người lao động, vừa tạo điều kiện để khỏi vòng luẩn quẩn. Việc giảm thiểu tác động nhà đầu tư nước ngoài triệt để lợi dụng, thậm vượt trội của khu vực này chưa có giải pháp chí “bóc lột” nguồn lao động giá rẻ để tăng khả thích hợp. Theo Tổng cục thống kê, tỷ lệ đóng năng cạnh tranh toàn cầu, vừa tạo điều kiện cho góp vào GDP của khu vực có vốn đầu tư nước tình trạng “chảy máu chất xám” từ khu vực tiền ngoài có xu hướng tăng lên, mức trung bình từ lương thấp sang khu vực tiền lương cao, đặc 14,6% trong thời kỳ 2001 - 2005 lên 19,55 % biệt khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. GDP năm 2013. Đối với kim ngạch xuất khẩu, Việt Nam đang phải đối mặt với sự không tỷ lệ đóng góp này trong những năm gần đây có chắc chắn trong các nỗ lực nhằm duy trì tốc độ xu hướng tăng nhanh. Năm 2014, kim ngạch tăng trưởng cao của sự phát triển kinh tế trong xuất khẩu của Việt Nam đạt trên 150 tỷ USD, thời gian dài. Các doanh nghiệp trong nước vẫn trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt thiếu năng lực cạnh tranh, các chính sách và thể 101,6 tỷ USD, đóng góp khoảng 2/3. Lợi thế chế vẫn còn yếu so với tiêu chuẩn khu vực Trang 73
- Science & Technology Development, Vol 18, No Q2 - 2015 Đông Á (Ohno, 2009b) [5]. Nền kinh tế vẫn đã có những thay đổi to lớn. Mặc dù nguồn còn phụ thuộc vào các ngành công nghiệp khai FDI dồi dào và có được những công nghệ mới, thác tài nguyên hoặc các ngành thâm dụng lao chi phí lao động rẻ và tài nguyên thiên nhiên động giá rẻ. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo phong phú, nhưng sản phẩm và dịch vụ của hướng công nghệ cao rất chậm chạp và vẫn bị Việt Nam vẫn yếu trong cạnh tranh quốc tế do chi phối bởi các ngành công nghiệp công nghệ chi phí giao dịch cao. Theo các nhà nghiên cứu thấp. Các doanh nghiệp nhà nước chưa đóng và hoạch định chính sách ở Việt Nam, cải cách vai trò đầu tàu trong hoạt động sản xuất kinh kinh tế dựa vào lý thuyết tự do hóa thương mại doanh và đổi mới công nghệ; trong khi khu vực truyền thống dường như không còn dư địa vì kinh tế tư nhân vẫn còn nhiều hạn chế, chưa trở hầu hết hàng rào thuế quan và phi thuế quan đã thành động lực cho sự phát triển kinh tế. Việt được loại bỏ. Nam đang chỉ ở giai đoạn đầu tư của công Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm nghiệp hóa và hiện đại hóa. Sản xuất vẫn chủ 2008 - 2009 giống như một chất xúc tác mạnh yếu chịu sự chi phối của các doanh nghiệp làm bộc lộ những bất cập của nền kinh tế Việt nước ngoài. Nam trong môi trường kinh tế toàn cầu. Qua Việt Nam đang phải đối mặt với một số vấn những năm khó khăn, có thể thấy rõ một sự đề có tính dễ bị tổn thương của nền kinh tế. mất cân bằng của nền kinh tế như sau: Vào cuối năm 2007 và đầu năm 2008, Việt Một là, mô hình tăng trưởng kinh tế tạo nên Nam đã phải đối mặt với kinh tế quá nóng do những mất cân đối vĩ mô trầm trọng và khiến tăng trưởng tín dụng rất lớn và dòng vốn đầu tư việc cải thiện là khó khăn. Tâm điểm của các khổng lồ. Năm 2008, lần đầu tiên, Chính phủ cân đối vĩ mô là mất cân đối giữa tổng tiết công khai thừa nhận sự đánh đổi giữa tăng kiệm và tổng đầu tư của nền kinh tế (tổng tiết trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Việt kiệm chiếm khoảng 30% GDP) trong khi đó Nam đã mở rộng tín dụng rất lớn trong năm tổng đầu tư (khoảng 40% GDP), tạo ra khoảng 2007, cùng với giá năng lượng và lương thực cách giữa tiết kiệm và đầu tư khoảng 10% thế giới tăng, đã gây ra áp lực lạm phát. Ngoài GDP. Sự mất cân đối này bắt nguồn từ mô hình ra, để ứng phó với các dòng vốn lớn (cả FDI và tăng trưởng dựa trên mở rộng đầu tư, trong đó đầu tư gián tiếp), Chính phủ chưa có được đầu tư công chiếm tỷ trọng lớn (khoảng 50% những chính sách phù hợp nhằm hấp thụ dòng tổng đầu tư toàn xã hội). Trong một nền kinh tế vốn này trong khi duy trì một tỷ giá hối đoái cố đang phát triển như Việt Nam, đầu tư công vào định. Điều này đã buộc Chính phủ phải thay các công trình hạ tầng xã hội và công nghiệp có đổi các ưu tiên từ tăng trưởng sang ổn định ý nghĩa quan trọng, làm tiền đề cho tăng trưởng kinh tế vào năm 2008 với các biện pháp cũng kinh tế trong toàn bộ các khu vực còn lại khác. như chính sách thắt chặt tiền tệ và cắt giảm chi Những nước có nền kinh tế với mức thu nhập tiêu công. Chính sách này cũng đã phát huy tác trung bình như Ấn Độ hay Indonexia cảm thấy dụng làm giảm lạm phát, kìm hãm thị trường rất khó tìm được sự đồng thuận trong việc phân nhà ở và bong bóng bất động sản. bổ nguồn lực lớn cho đầu tư công, do đó, cơ sở Tăng trưởng kinh tế gần đây còn bắt nguồn hạ tầng ở các nước này luôn là một nút thắt cổ từ các chính sách mở cửa kinh tế, trong đó chai cho phát triển. Trái lại, các nước như Việt trọng tậm là tự do hóa thương mại. Từ khi gia Nam hay Trung Quốc có lợi thế lớn trong việc nhập chính thức Tổ chức thương mại thế giới huy động nguồn lực xã hội cho các dự án đầu (WTO) vào năm 2007, nền kinh tế Việt Nam tư công lớn. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là ở Việt Trang 74
- TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 18, SỐ Q2 - 2015 Nam, chất lượng đầu tư công giảm đi nhanh Ba là, hệ thống tài chính và các thị trường chóng. Điều này vừa khiến tình trạng lãng phí tài sản tích tụ nhiều rủi ro và đang bộc lộ rõ nguồn nhân lực và bất bình đẳng tăng lên, vừa những yếu kém. Và là một trong những nguyên tạo ra sự mất cân đối vĩ mô của nền kinh tế. Sự nhân làm tăng thêm bất ổn kinh tế vĩ mô. Khi mất cân đối này, một mặt, thể hiện qua thâm thị trường chứng khoán đi vào trạng thái bong hụt ngân sách tăng cao, mặt khác, dẫn tới thâm bóng sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức hụt thương mại triền miên. Thâm hụt ngân sách Thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007 và cao ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường ngoại tiếp đó là sự bùng nổ của hệ thống ngân hàng hối, đe dọa giảm sút giá trị của đồng tiền Việt thương mại, nhiều người còn hoài nghi về Nam. những rủi to do sự tăng trưởng quá nóng gây ra. Tuy nhiên, bong bóng lớn thực sự nằm Hai là, động năng của khu vực doanh trong thị trường bất động sản, nơi có chu kỳ nghiệp giảm sút. Thời kỳ kinh tế khó khăn tăng trưởng dài hơn rất nhiều. Những khó khăn khiến các doanh nghiệp trong một nền kinh tế trong và ngoài nước đã cùng làm bong bóng bất có độ mở lớn như Việt Nam (tổng kim ngạch động sản và chứng khoán xì hơi, tạo ra những xuất khẩu vượt qua 170% GDP) phải chịu đựng khoản nợ xấu đe dọa sự bền vững của toàn bộ những rủi ro trực tiếp từ sự suy thoái của thị hệ thống ngân hàng. Ngay cả trong hệ thống trường toàn cầu. Trong khi đó, bất ổn kinh tế vĩ ngân hàng, chính sách trần lãi suất huy động mô trong nước càng làm tăng mức độ rủi ro của trong những năm qua đã tự nó tạo ra một cuộc hoạt động đầu tư và kinh doanh sản xuất trong tái cấu trúc ngược, trong đó trao thêm càng nước. Lạm phát cao làm lu mờ các tín hiệu nhiều đặc quyền và sức mạnh cho các ngân trong tương lai của công việc kinh doanh, đồng hàng quốc doanh, đồng thời làm suy yếu các thời lãi suất cao trong thời gian dài làm thoái ngân hàng thuộc khối tư nhân. lui các dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Trong khi đó, khu vực kinh tế nhà nước vẫn hiện diện Bốn là, xét trên toàn bộ nền kinh tế, tính như một khu vực chi phối nền kinh tế (tỷ trọng sáng tạo, nghiên cứu và phát triển (R&D) trong đóng góp vào GDP là 35% so với mức 15% ở sản xuất kinh doanh hầu như chưa xuất hiện, Trung Quốc). Khu vực này dù ít hay nhiều vẫn khiến thị trường lệ thuộc nhiều vào nước ngoài, có những lợi thế trong thời kỳ chịu sự tác động đặc biệt đối với hàng máy móc và nguyên vật của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Thêm vào liệu phục vụ sản xuất. Điều này lý giải tình đó, đa số các doanh nghiệp nhà nước có vị thế trạng nhập siêu trầm trọng từ Trung Quốc và độc quyền, nên có nhiều khả năng tăng giá bán gần đây là Hàn Quốc. Trong khi đa số các nước để bù đắp lạm phát hơn so với doanh nghiệp Đông Nam Á đều có xuất siêu vào Trung Quốc vừa và nhỏ của khu vực tư nhân. Khu vực kinh và nhờ đó được lợi rất nhiều từ sự trỗi dậy của tế tư nhân lần đầu tiên đối diện với sự tác động nền kinh tế lớn nhất Châu Á, thì Việt Nam của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã phải thu dường như bị đẩy vào một trạng thái rất bị hẹp, đóng cửa và phá sản một lượng lớn doanh động. Sự lệ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế. Đây là tín và phương tiện sản xuất, tự nó tạo ra rào cản hiệu đáng lo ngại đối với nền kinh tế, trong khi cho việc giảm giá đồng tiền Việt Nam. Do đó, chúng ta đang khuyến khích, tạo thuận lợi cho dưới chế độ tỷ giá luôn có khuynh hướng tăng kinh tế tư nhân phát triển ở hầu hết các ngành lên trong suốt một thập kỷ vừa qua, sản xuất và lĩnh vực để khu vực kinh tế tư nhân trở nội địa Việt Nam đang ngày càng mất dần tính thành động lực cho sự phát triển kinh tế. cạnh tranh ngay trong nội địa và khả năng đầu Trang 75
- Science & Technology Development, Vol 18, No Q2 - 2015 tư cho quá trình sản xuất để có được giá trị gia tiễn cao. Các ngành sử dụng thế mạnh nền tăng cao, mang tính sáng tạo nhiều hơn của các nông nghiệp, nguồn tài nguyên biển, nguồn tài doanh nghiệp trong nước (kể cả khu vực có vốn nguyên sẵn có cần được coi trọng đầu tư và trở đầu tư nước ngoài) ngày càng giảm sút. thành nghành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam trong tương lai. 4. GIẢI PHÁP VƯỢT QUA BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH CỦA VIỆT NAM Thứ hai, thực hiện quyết liệt ba đột phá chiến lược về hoàn thiện thể chế kinh tế thị Vượt qua “bẫy thu nhập trung bình” của trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cấp Việt Nam là một thách thức khách quan xuất cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực chất phát từ quan hệ nội tại trong nền kinh tế và bối lượng cao để tạo chuyển biến cơ bản về tiền đề cảnh tham gia hội nhập kinh tế toàn cầu. phát triển kinh tế nhằm chuyển dịch nhanh Những cơ hội và thách thức bên trong và bên chóng từ trạng thái thu nhập trung bình sang ngoài đang là tiền đề, điều kiện và là những lực trạng thái thu nhập cao. Việc thực hiện các đột cản đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. phá này gắn với chuyển đổi mô hình tăng Việc nhận thức đúng và đầy đủ “bẫy thu nhập trưởng theo chiều sâu và tái cấu trúc nền kinh trung bình” tạo điều kiện hiểu rõ hơn trạng thái tế. và xu hướng vận hành để thích nghi với tiến trình phát triển kinh tế ở Việt Nam trong giai Thứ ba, cần khai thác các thế mạnh hiện có đoạn 2016 đến 2020 và những năm tiếp theo. của nền kinh tế Việt Nam, trong đó có lợi thế Trong thời kỳ này, khả năng rơi vào bẫy thu về cơ cấu dân số vàng với khoảng 70% số dân nhập trung bình được coi là một trong những ở độ tuổi lao động trẻ nhằm tăng tốc độ tăng thách thức rất lớn đối với sự phát triển kinh tế trưởng trung bình ở mức 8 - 9% liên tục trong của Việt Nam. Đây là khoảng thời gian cần vòng 10 - 15 năm. Điều này đòi hỏi đào tạo được cải thiện một cách hiệu quả đầu tư và áp nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng dụng một cách đồng bộ các giải pháp có tính sáng tạo lớn và đổi mới căn bản giáo dục - đào đột phá để vượt qua bẫy thu nhập trung bình. tạo nhằm tạo nền tảng về nguồn nhân lực dài Các giải pháp cơ bản để Việt Nam có thể vượt hạn vượt qua bẫy thu nhập trung bình có hiệu qua bẫy thu nhập trung bình trong thời kỳ tiếp quả. Ở đây, sự sáng tạo, đặc biệt là sự sáng tạo tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mang bản chất thương mại, nghĩa là sự sáng tạo hội nhập quốc tế bao gồm: nhằm tạo lợi nhuận tối đa, gần như là yếu tố cốt lõi của quá trình vượt qua bẫy thu nhập trung Thứ nhất, chuyển đổi triệt để mô hình tăng bình. Thực chất đây là quá trình tạo ra những trưởng kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu và loại công nghệ mới hay công nghệ cao, sáng coi trọng áp dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học tạo ra các sản phẩm có khả năng thay đổi cơ công nghệ trong các ngành công nghiệp có thế bản trạng thái nhu cầu của thị trường, tăng mạnh và lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh để năng suất và cải thiện năng lực cạnh tranh để tăng khả năng sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tăng giá trị mới hoặc ít ra cũng tiếp nhận, làm tối ưu hóa quy mô và tối đa hóa năng suất, hạn chủ được công nghệ cao, sáng tạo ra các sản chế được tính quy luật của năng suất biên giảm phẩm có khả năng thay đổi cơ bản trạng thái dần, hướng tới trạng thái tính kinh tế nhờ quy nhu cầu của thị trường, tăng năng suất và cải mô qua năng suất biên tăng dần. Việc chuyển thiện năng lực cạnh tranh để tăng giá trị mới đổi mô hình cần bắt đầu từ việc quy hoạch phát hoặc ít ra cũng tiếp nhận, làm chủ công nghệ triển các ngành, vùng hay loại sản phẩm, dịch cao của Thế giới vào quá trình sản xuất. Những vụ theo hướng đảm bảo tính khoa học và thực Trang 76
- TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 18, SỐ Q2 - 2015 thế mạnh nhiều mặt của nền kinh tế Việt Nam hình tăng trưởng theo chiều sâu. Chú trọng việc về nguồn lực và đổi mới chính sách cho thấy nâng cao hiệu quả đầu tư, hiệu quả sử dụng lao Việt Nam hoàn toàn có khả năng để vượt qua động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bẫy thu nhập trung bình có hiệu quả. phát triển khoa học công nghệ gắn liền với đổi mới tư duy và sáng tạo, tạo tiền đề đột phá về Thứ tư, cần chủ động, tích cực hội nhập năng suất lao động. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế quốc tế để kết hợp hiệu quả ngoại lực kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nội lực. Việc chủ động, tích cực đẩy mạnh và vận hành một cách thông suốt, có hiệu quả; các cuộc đàm phán quốc tế, ký kết các hiệp tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển định song phương và đa phương là cần thiết và nhanh và bền vững. cần được coi là định hướng chiến lược cơ bản trong hội nhập. Đồng thời, tích cực khai thác có 5. KẾT LUẬN hiệu quả nguồn nhân lực bên ngoài bao gồm Việc nhận thức và tư duy về “bẫy thu nhập nguồn vốn đầu tư, công nghệ, kiến thức và kỹ trung bình” có vai trò quan trọng trong đánh năng quản lý để tạo ra những thay đổi căn bản giá đúng trạng thái kinh tế Việt Nam. Cách tiếp trạng thái vận hành nền kinh tế trên cơ sở các cận “bẫy thu nhập trung bình” có thể có sự mô hình thành công trong công nghiệp hóa. khác nhau đối với các nền kinh tế khác nhau Các nền kinh tế vượt qua được bẫy thu nhập song vẫn có những điểm chung nhất định như: trung bình như Hàn Quốc, Đài Loan, rất khó khăn để chuyển lên trạng thái thu nhập Singapore, cho thấy yếu tố cốt lõi là sự sáng cao, năng lực thiếu đồng bộ Bên cạnh đó, còn tạo được phát huy tối đa trên cơ sở thể chế ủng có những tác động từ các kết quả tạo ra thiếu hộ triệt để sự sáng tạo của các cá nhân, các chiều sâu, giá trị gia tăng thấp mà vẫn được thị doanh nghiệp. Giải pháp này đòi hỏi tận dụng trường chấp nhận và chịu sự cạnh tranh gay gắt đến mức cao nhất các cơ hội do chủ động, tích từ bên ngoài . cực hội nhập quốc tế mang lại. Bên cạnh đó, cần có sự thay đổi về tầm nhìn và cách tiếp cận Việt Nam có khả năng rơi vào bẫy thu nhập trong phát triển kinh tế lấy động lực và thị trung bình cho nên cần có các giải pháp để có trường toàn cầu làm căn cứ chủ yếu trong thể tránh và vượt qua bẫy thu nhập trung bình hoạch định chính sách và chiến lược phát triển. thông qua việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực, Đây là quá trình nhận thức không có giới hạn coi trọng chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh các nguồn lực phát triển, đặc biệt là nguồn vốn, tế và tái cấu trúc nền kinh tế, thực hiện một công nghệ, thị trường và tri thức để loại bỏ cách có hiệu quả ba mũi đột phá chiến lược. những lực cản níu kéo khả năng rơi vào “bẫy Việt Nam có thể tránh được bẫy thu nhập thu nhập trung bình” nhằm đưa đất nước thoát trung bình hay không và có thể rút ngắn được khỏi bẫy thu nhập trung bình, trở thành nước con đường bứt phá hơn nữa hay không? Câu trả công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm lời hoàn toàn phụ thuộc vào việc điều hành và 2020. các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Để vượt qua được “bẫy thu nhập trung Mặc dù nền kinh tế đang xuất hiện tính dễ tổn bình”, Việt Nam vẫn cần phải thực hiện chiến thương nhưng xét về tổng thể, nền kinh tế Việt lược tăng trưởng nhanh trong thời gian tới gắn Nam vẫn hội đủ các điều kiện để vượt qua bẫy với chất lượng, hiệu quả và khả năng duy trì thu nhập trung bình. Vấn đề là cần phải có một lâu dài. Chú trọng tạo dựng và duy trì cấu trúc chiến lược bứt phá để nhanh chóng trở thành tăng trưởng hợp lý, ngày càng thể hiện rõ mô nhóm các nước có thu nhập cao thông qua tăng Trang 77
- Science & Technology Development, Vol 18, No Q2 - 2015 trưởng cao và bền vững. Chiến lược này khác tư duy, quan điểm, thể chế và chính sách cho hẳn với chiến lược phát triển thoát ra khỏi các phát triển kinh tế. nước kém phát triển. Sự khác biệt cơ bản là ở TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Anna Jankowska, Arne J. Nagengast and Jose Ramon Parea: The middle - income Trap: Comparing Asian and Latin American Experiences, Policy Insight No.96, May 2012 www.oecd.org/dev/insight. [2]. Bùi Tất Thắng, Vấn đề “bẫy thu nhập trung bình” đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam (2014). [3]. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội (2011). [4]. Đỗ Thị Đông, Tránh bẫy thu nhập trung bình: Thực trạng các nước trong khu vực Châu Á và bài học tham khảo đối với Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo “Các vấn đề lý luận cơ bản về nước công nghiệp hiện đại, nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh nghiệm quốc tế về phát triển nước công nghiệp hiện đại. (Đề tài KX 04.07/11 - 15) (2013). [5]. Kenichi Ohno, Bẫy thu nhập trung bình tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp (2014). http:www.grips.ac.jp/vietnam/koarchives/doc/VS30_MIT_NEU.pdf. [6]. Kenichi Ohno: Vượt qua bẫy thu nhập trung bình: Đổi mới chính sách công nghiệp Việt Nam (2010). [7]. Ngân hàng thế giới (WB), Các mục tiêu tác nghiệp hàng năm (2012). [8]. Nguyễn Đức Thành, Lê Kim Sa, “Bẫy thu nhập trung bình” - Lý thuyết, thực tiễn và hàm ý với Việt Nam (2014). [9]. Nguyễn Thường Lạng, Một số vấn đề lý luận về “bẫy thu nhập trung bình” và liên hệ với Việt Nam (2014). [10]. Tổng cục thống kê: Niên giám thống kê 2010, Nxb Thống kê (2010). [11]. Tổng cục thống kê: Niên giám thống kê 2013, Nxb Thống kê (2013). [12]. Tổng cục thống kê: Số liệu thống kê 2014 (2014). [13]. Trần Thọ Đạt, Thoát bẫy thu nhập trung bình: Bài học kinh nghiệm của các nước thành công và hàm ý cho Việt Nam (2014). Trang 78