Lưu dấu Champa tại Cẩm Lệ
Bạn đang xem tài liệu "Lưu dấu Champa tại Cẩm Lệ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- luu_dau_champa_tai_cam_le.pdf
Nội dung text: Lưu dấu Champa tại Cẩm Lệ
- Nghiên cứu - Trao đổi LƯU DẤU CHAMPA TẠI CẨM LỆ ? Đinh Bá Truyền* - Bùi Ngọc Minh uận Cẩm Lệ1, miền đất cổ xưa, nơi lưu dấu trong lòng bao điều huyền bí của một nền văn minh rực rỡ ngót 2.000 năm tuổi. Nơi đây, từ rất lâu đời, những cư dânQ của vương quốc Champa trù phú đã biết dẫn thủy nhập điền, canh tác lúa chiêm, trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa và đã kiến tạo nên những đền đài, mộ tháp nguy nga.2 Nhưng thế kỷ XV trôi qua như một cơn hồng thủy, cơ hồ muốn nhấn chìm tất cả mảnh đất này, để rồi chỉ còn các phế tích Chàm rải rác khắp nơi. Đến đầu thế kỷ XX, những phế tích Chàm trên địa bàn quận Cẩm Lệ ngày nay mới được các Hố thiêng tại trung tâm tháp Phong Lệ nhà Champa học lừng danh như Albert Sallet, Henri Parmentier, Edouard Huber để tâm nghiên cứu và những tên gọi người Chăm của người Việt trước đây, chính họ là lớp người đầu tiên vén lên bức màn bí nhiều phiến đá sa thạch nền nguyên là bệ thờ của mật về một nền văn minh cổ kính đã bị tàn phá, lãng tháp Chăm Cẩm Bắc bị dân làng xoi thủng, làm thành quên. lò để rang đồ cúng, nhiều bộ Linga mà dân làng cho là “cối xay mọi” bị đập ra để lấy đá xây dựng, gạch Trong vòng bốn năm lặn lội sưu tầm các cổ vật cho Chăm từ phế tích cũng được tận dụng làm đường.7 Bảo tàng Điêu khắc Chăm (từ năm 1919 đến 1923), Tuy thế, có một số phiến đá Hời từ phế tích mà dân bác sĩ Sallet đã nhiều lần đến Cẩm Lệ. Tại thôn Cẩm làng tin là linh thiêng đã biến thành Thần Thạch. Tín Bắc (nay thuộc phường Hòa Thọ Đông), ông đã phát ngưỡng dân gian thờ Đá phản ánh quá trình giao lưu, hiện ra một di chỉ Champa khá quan trọng. Đó là Linh tiếp biến văn hóa Chăm - Việt, nó không chỉ được bảo Sơn, một vùng đồi thấp có rất nhiều mảnh vụn cổ vật lưu tại Cẩm Lệ mà còn hiệu hữu trên nhiều vùng đất từ một phế tích tháp Chăm, địa điểm này tọa lạc gần khác ở Trung kỳ.8 Miễu thờ Thần Thạch được A. Sallet bến đò ngang Cẩm Lệ và kéo dài khá xa.3 Ngày nay, tìm thấy tại di chỉ Linh Sơn, trên bệ thờ có một phiến có thể xác định di chỉ Linh Sơn nằm trên dải đất kéo đá Hời, hai mặt khắc đầy chữ Nho, rất dài, chép rõ dài từ Gò Thị lên phía bắc mà điểm cuối của nó là Gò danh sách những người cúng dường, đề niên hiệu Theo. Địa danh Gò Theo là do đọc trại từ Gò Thiên, Dương Hòa năm thứ 6 (1648) và niên hiệu Khánh một cách gọi vắn tắt của Thiên Y A Na, vị Thánh Mẫu Đức năm thứ 9 (1657), đều thuộc triều vua Lê Thần Ponagar của người Chăm.4 Tông.9 Sallet còn tìm thấy một trụ biểu bằng đá của Tại Cẩm Bắc và Hóa Quê5, Sallet đã khảo sát những tháp Chăm Cẩm Bắc đã trở thành cột mốc phân định giếng cổ Chăm khá bề thế, sâu thẳm, thành lát gạch ranh giới giữa hai làng Cẩm Lệ và Hóa Quê, trụ được đá kiên cố. Các giếng nước này tồn tại như có phép dựng vào năm Gia Long thứ 12 (1813), đang bị vùi ở màu, và dùng để cất dấu những bia ký, những tác dưới mương. Ông đề nghị trục nó lên. Trụ đá này đột phẩm điêu khắc và cả đồ vật bằng vàng.6 Không may nhiên trở nên linh thiêng bởi sự ngộ nhận của dân mắn như gạch đá của các giếng Hời (Hời là một trong làng và nghiễm nhiên trở thành Ông Mốc, được dân * ThS., Cựu sinh viên Đại học Sorbonne (Pháp). Phó Giám đốc Trung tâm Văn hóa - Thể thao quận Cẩm Lệ. Phaùt trieån 43 Kinh Ñaøteá Naüng- Xaõ hoäi
- Nghiên cứu - Trao đổi địa phương và những khách qua đường dâng hương, các món trang sức bằng vàng.13 Tại làng Hóa Quê, đầu sùng bái.10 thế kỷ XX, nhà bi ký học trứ danh Edouard Huber, giáo sư của trường Viễn Đông Bác Cổ (E.F.E.O.), đi khảo sát Ngày nay, tuy phế tích tháp Cẩm Bắc, Thần Thạch một tấm bia Chăm, ông ta định phát quang xung tại miễu Linh Sơn11 và bệ thờ Ông Mốc đã không còn quanh một ngôi miếu tọa lạc trên “cồn Dàng”14 để tìm nữa nhưng tín ngưỡng thờ đá vẫn còn lưu truyền tại cổ vật, tức thì tiếng đồn lan tràn, đến tận Đà Nẵng Cẩm Lệ, bằng chứng là mỏm Đá Ông có đặt tượng rằng ở đó có đủ loại thú vật khác nhau được làm từ Phật Bà tại bờ bắc sông Cẩm Lệ. Đúng đêm rằm hay vàng khối, nào bò, rùa, nai được chôn khắp dưới đất, đêm ba mươi âm lịch hàng tháng, đứng trên cầu Cẩm và người ta còn có thể nhặt được các quả thảo mộc Lệ nhìn về hướng Đảo Nổi, ta dễ dàng nhận ra tổ hợp làm bằng kim loại quý như vàng, bạc.15 mỏm Đá Ông - tượng Phật Bà được nhiều tín hữu dùng thuyền đến viếng, dâng hương hoa chiêm bái Trong khoảng 25 năm trở lại đây, tại khu vực Gò và thả đèn hoa đăng sáng cả mặt sông. Đầu những Theo thuộc di chỉ phế tích tháp Cẩm Bắc mà Sallet năm 80 của thế kỷ XX, do tác động của dòng chảy và đã từng khảo sát, đã có bốn trường hợp ghi nhận là sự sạt lở mà một mỏm đá đen trồi lên tại vị trí hiện đã đào được vàng Chăm. Khoảng năm 1989, ba anh thấy. Trải qua vài mùa lũ lụt nữa, mỏm đá vẫn đứng em H., L., N. rủ nhau đào những ngôi mộ Chàm có nguyên chỗ cũ, quá trình “thiêng hóa” diễn ra và thế là hình mu rùa để kiếm đồ tùy táng, bán lấy tiền. Họ đào dân địa phương bắt đầu sùng kính mỏm đá. Ban đầu được một tấm bia mộ, bèn thuê người dịch, ai ngờ đó họ chỉ đặt một lư hương lên trên, dần dà dựng thêm là bản đồ chỉ đến kho báu được chôn trong một ngôi tượng Phật Bà. Chính quyền sở tại thời đó, với lý do mộ khác nằm cách đấy khoảng 300 m về hướng đông bài trừ mê tín dị đoan, đã cho di dời tượng Phật Bà từ bắc. Nhờ thế, ba người đã tìm được rất nhiều vàng bạc mỏm đá về chùa Cẩm Nam. Vài năm sau, thấy không trong mộ. Biết tin, nhiều người nữa cũng tìm vào bên ai đả động đến, dân địa phương thỉnh tượng Phật Bà trong, họ nhặt được rất nhiều đồng tiền thời xưa còn ra lại mỏm đá, tiếng lành đồn xa, tổ hợp mỏm Đá - rơi vãi và 3 chiếc đèn dầu phụng Chăm. Trúng được tượng Phật Bà ngày càng đông khách hành hương. kho báu, ba anh em H., L., N. trở nên sung túc. Nhưng Tất nhiên, để góp phần tăng độ linh thiêng cho tổ “ăn vàng Hời ắt rơi nước mắt”, chỉ độ vài năm sau, nội hợp này, những câu chuyện truyền miệng trong bộ anh em bất hòa, con cái trở nên hư hỏng, gia cảnh dân chúng, có khi ở chợ hay lúc trà dư tửu hậu, kể sa sút và họ đã phải bán nhà đi nơi khác. Gần đó, anh về những sự không may mà các vị quan chức có liên P. cũng đào được hũ đựng vàng chôn ngay dưới kim quan đến vụ di dời gặp phải, nhưng sự thật đúng đến tĩnh khoảng 20 cm. Từ ngày có vàng, cuộc sống gia đâu, chẳng ai có thể xác minh được. Thật ra mô thức đình anh P. có khá lên, nhưng chẳng được bao lâu anh kết hợp thờ mỏm Đá và tượng Phật Bà ở đây có nguồn ta qua đời trong một vụ tai nạn. Trường hợp tương gốc từ mô thức thờ Đá - thờ Mẫu của người Việt ở xứ tự, cách đây khoảng 10 năm, ông N. trong một lần Đàng Trong từ thế kỷ XVI, mà mô thức thờ Đá - thờ xới đất trồng rau, vô tình đào trúng một buồng chuối Mẫu lại có nguồn gốc từ việc thờ Linga - Yoni.12 Tóm bằng vàng, tuy ông N. đã đem số vàng đi làm từ thiện, lại, hiện tượng thờ mỏm Đá - tượng Phật Bà tại bờ nhưng ít năm sau đó ông ta vẫn bị đụng xe và nằm sông Cẩm Lệ ngày nay chẳng qua chỉ là sự phản ánh một cách chính xác quá trình tiếp biến văn hóa tín ngưỡng phồn thực từ người Chăm xưa. Nhưng cũng qua hiện tượng này, mới thấy tín ngưỡng dân gian Chăm - Việt nó có sức sống mạnh mẽ và bền lâu đến nhường nào (trong khi đó đền đài, mộ tháp đều đã biến mất!). Những di chỉ Champa thường gắn liền với những lời đồn thổi về các kho vàng được người Chăm đem táng theo. Đã có nhiều trường hợp ghi nhận tìm được vàng Hời. Chẳng hạn: năm 1903, tại Mỹ Sơn, Parmentier đào được một cái chum đựng một bộ sưu tập toàn đồ trang sức bằng vàng; tại La Thọ, người ta Đài thờ thuộc Phật viện Đồng Dương (Vihāra Lokeśvara) tại cũng thu nhặt từ một cuộc khai quật nhiều đĩa bạc và Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng 44 Phaùt trieån Kinh teáÑaø -Naüng Xaõ hoäi
- Nghiên cứu - Trao đổi liệt giường cho đến nay.16 phù điêu thần Vishnu có đôi môi dày dưới cánh mũi nở to, phù điêu đoàn tiên nữ Apsara thanh tao siêu Những trường hợp ở Gò Theo làm chúng tôi nhớ thoát Cũng trong năm đó, Parmentier đã đến khảo đến hoàn cảnh của ông Trà Văn X, nhà ông ở ngay sát phế tích tháp Phong Lệ và nhận định tại đây có trên nền phế tích Phật viện Đồng Dương (nay thuộc thể đã có một quần thể gồm nhiều công trình kiến huyện Thăng Bình, Quảng Nam). Năm 1978, trong lúc trúc khác nhau. Ngoài ra ông còn thấy có rất nhiều đang đào đất để làm chuồng heo thì ông Trà phát gạch Chăm đã được dùng để xây nhà và lát cả một hiện ra bức tượng Bồ tát Lakṣmīndra-Lokeśvara bằng con đường dẫn đến bờ sông.21 Hiện nay, trong số hơn đồng thau.17 Hai mươi năm sau, chẳng những hai đứa 20 món cổ vật tìm thấy tại Phong Lệ có 9 tác phẩm con của ông đều lần lượt qua đời vì tai nạn giao thông điêu khắc được trưng bày tại Bảo tàng Điêu khắc mà bản thân ông cũng bị đụng xe chấn thương sọ Chăm Đà Nẵng. não, hiện nay gia đình chỉ còn hai vợ chồng thui thủi sống qua ngày trong cảnh cô hàn.18 Ngẫm lại câu “ăn Trong khi bộ sưu tập cổ vật Phong Lệ được nhiều vàng Hời ắt rơi nước mắt” quả chẳng sai. người biết đến thì nền móng của phế tích tháp Phong Lệ bị vùi sâu vào lòng đất. Những tưởng nó đã Gần đây nhất, tại Gò Theo, vào ngày 10.4.2012, mất tích thì tháng 4.2011, gia đình ông Ông Văn Tồn đã có một người đi rà phế liệu đào được vàng Hời. và bà Lê Thị Út, trú tại xóm Cấm (tổ 3, phường Hòa Địa điểm phát hiện hũ vàng là lô đất đang xây nhà Thọ Đông) khi đào móng làm nhà tại lô đất số 173 của chị Nguyễn Thị Thùy T. thuộc tổ 34, phường Hòa và 101 đã phát hiện ra một pho tượng cổ đầu người Thọ Đông. Người rà phế liệu dùng cuốc đào lên một mình chim (tượng thần điểu Kinnari trong thần thoại nắp đồng có 5 lớp (mỗi lớp dày khoảng 4 mm) đã bị Ấn giáo) và nhiều gạch Chăm. Ngay sau đó, Bảo tàng ôxy hóa và một hũ gốm Chăm bên dưới đã bị vỡ, bên Điêu khắc Chăm đã thực hiện khai quật khẩn cấp trong có chứa 6 kg kim loại màu vàng. Người rà phế đợt 1. Kết quả sơ bộ xác định đây là nền móng tháp liệu thu gom tất cả và chở đi mất dạng, đến nay vẫn Phong Lệ trong quần thể tháp Chăm Hóa Quê. Đoàn chưa rõ tung tích. Khi người này vừa rời hiện trường, đã khai quật 5 hố với diện tích khoảng 206 m2, phát người dân đem một số mảnh kim loại rơi vãi đi thử ở hiện được tháp cổng và bắt đầu lộ một phần của tháp tiệm kim hoàn gần đó và bất ngờ nhận ra đó là vàng, chính. Đến tháng 8.2012, Bảo tàng Điêu khắc Chăm nhưng tuổi vàng còn non. Ngay sau đó, người dân Đà Nẵng phối hợp với các nhà khảo cổ của Trường xung quanh kéo đến cố tìm những mảnh vụn còn lại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc và mang đi bán được tổng cộng gần 10 triệu đồng.16 gia Hà Nội) tiến hành khai quật đợt 2. Quá trình khai Sự việc qua đi, chủ nhà cho làm móng tiếp và đến nay quật đã làm lộ rõ quy mô, cấu trúc chân móng của nhà đã xây xong. một tòa tháp Chăm rất lớn, chân móng có hình chữ Nằm trên địa bàn phường Hòa Thọ Đông còn có Thập, từ cửa Đông đến cửa Tây có chiều dài 23,15 m, một di tích Champa nữa, đó là nền móng tháp Phong và từ cửa Bắc đến cửa Nam có chiều dài 19,3 m. Từ Lệ. Vào đầu thế kỷ XX, phế tích tháp Phong Lệ lọt móng tường Đông đến móng tường Tây dài 15,85 thỏm trong khu vực đồn điền chè, cà phê của ông m và từ móng tường Bắc đến móng tường Nam dài chủ Camille Paris.19 Tại đây, năm 1900, ông ta đã sưu 16,15 m. Đặc biệt đoàn đã phát hiện ra hố thiêng nơi tầm được khá nhiều cổ vật Chăm và đem bán cho một đặt bệ thờ bộ Linga-Yoni biểu tượng của thần Siva, người Pháp, người này bán tiếp cho một người Hoa. đây là hố thiêng có kích thước lớn nhất trong các hố Trước lời đề nghị mua lại từ kiến trúc sư Parmentier, thiêng của đền tháp Chăm được phát hiện đến thời người chủ mới của bộ sưu tập đã vui lòng hiến tặng điểm này. Ngoài ra, dưới phần tháp chính còn có 8 toàn bộ số cổ vật do Paris thu thập cho trường Viễn ô khám, mỗi ô đều có chứa cát, một viên gạch hình Đông Bác Cổ. Theo Parmentier thì đa phần các cổ vật vuông đặt trên một hòn đá cuội và dưới cùng là hai có nguồn gốc từ một tháp Chăm bị sụp thành gò nhỏ viên đá thạch anh có nhiều đầu nhọn. Hiện nay công trong khu vực đồn điền và chủ đồn điền đã lấy gạch tác khai quật tại di tích Chăm Phong Lệ đã tạm dừng, từ đó để xây nhà.20 Năm 1909, Parmentier đã thống kê chắc sẽ có một dự án khai quật, khảo cổ học quy mô được hơn 20 món cổ vật mang về từ Phong Lệ, trong lớn trên diện rộng để tiếp tục giải mã những bí ẩn đó có những tác phẩm điêu khắc tuyệt đẹp như bộ dưới nền tháp. Linga biểu tượng dương vật của thần Siva, tượng bò Nằm kề phía đông của phường Hòa Thọ Đông là thần Nandin, phù điêu thần Siva múa giữa đàn rắn phường Khuê Trung, nơi đây có một di chỉ Champa thần Naga theo âm điệu thoát ra từ bốn nhạc công, Phaùt trieån 45 Kinh Ñaøteá Naüng- Xaõ hoäi
- Nghiên cứu - Trao đổi Văn bia tháp Hóa Quê, từ trái sang: mặt A (Đông), B (Tây), C (Bắc), D (Nam) khá nổi tiếng là phế tích tháp Hóa Quê (nay thuộc tổ Jaya Simhavarman I, và ba mốc còn lại thuộc triều vua 20, Bình Hòa). Đầu thế kỷ XX, ông Rougier, tham tá Bhadravarman II. Mặt đầu tiên văn bia khắc đầy một hạng 2 tòa Công sứ Hội An, đã tìm ra di chỉ này tại lời cầu khấn dài đến thần Siva, rồi đến bốn khổ thơ ca “cồn Dàng”, đồng thời phát hiện một tấm bia Chăm ngợi công đức vị vua đang trị vì Bhadravarman, người bốn mặt.22 Ngay sau đó, giáo sư Huber đã đến nghiên được sánh ngang với vị vua Yudhisthira trong thiên cứu, phiên âm Latinh và dịch văn bia Hóa Quê ra Pháp anh hùng ca Mahbhārata của người Hindu. Những ngữ, toàn bộ công trình này sau đó được đăng trên mặt tiếp theo là những lời tán tụng đến một gia đình tập san của trường Viễn Đông Bác Cổ, số XI, năm 1911. hoàng thân có quan hệ rất gần với hoàng gia và có Bia Hóa Quê làm bằng đá sa thạch, cao 120 cm, rộng quê quán ở khu vực xung quanh nơi đặt bia (Cẩm Lệ 63 cm và dày 30 cm, bốn mặt bia đều có văn khắc: ngày nay), đây là môn phiệt đã dựng lên cụm tháp Hóa Quê. Người chồng có tước hiệu Ājñā (Hoàng thân), tên - Mặt A (Đông) có 17 dòng chữ bằng Phạn ngữ, là Sārthavāha, đã kết hôn với bà Pu Po Ku Rudrapura. hành văn theo thể thi kệ. Hoàng thân Sārthavāha là em vợ vua Indravarman II - Mặt B (Tây) có 19 dòng chữ bằng Phạn ngữ, theo của vương triều Đồng Dương hùng mạnh, và cũng thể thi kệ và văn xuôi. là cháu ruột của vua Rudravarman (ông nội của vua - Mặt C (Bắc) có 17 dòng chữ bằng Phạn ngữ, theo Indravarman II). Vị hoàng thân Sārthavāha có một cô thể văn xuôi. con gái, vương hậu Ugradevī, người đã kết hôn với vị vua đang trị vì Bhadravarman II, và có ba công tử: - Mặt D (Nam) có 19 dòng chữ bằng Chăm ngữ cổ Mahāsāmanta, Narendranrpavitra, Jayendrapati (xem đại theo thể văn vần. Phả hệ vương triều Đồng Dương - Indrapura ở dưới Theo như văn bia, vào cuối thế kỷ thứ IX, đầu thế đây). Tất cả ba vị công tử này đều đang giữ những kỷ thứ X, một gia đình Chăm quyền quý đã dựng lên chức vụ cao cấp bên cạnh vua Bhadravarman II. Vị tam ba ngôi tháp, một tại địa điểm dựng bia và hai cái còn công tử, quan Thượng thư Jayendrapati, là một học lại tại vùng đất lân cận xung quanh đó. Trên bia có giả uyên bác. Chính ông là người đã soạn ra những khắc bốn mốc thời gian, đó là năm 820, 829, 830 và bài thi kệ và văn xuôi cho chín tấm bia được dựng 831 niên lịch Saka. Người Chăm dùng lịch Saka, một trước các tháp Chăm: hai tấm được dựng bởi vua Jaya loại lịch cổ Ấn Độ. Kỷ nguyên Saka so với Công lịch bắt Simhavarman I và bảy tấm từ vua Bhadravarman II.23 đầu tính sau Thiên Chúa giáng sinh 78 năm, vậy bốn Văn bia còn cho chúng ta biết để thưởng công soạn mốc thời gian tương ứng là năm 898, 907, 908 và 909 chín bài ký, vua Bhadravarman II đã ban cho Thượng Công nguyên. Mốc thời gian đầu tiên là dưới triều vua thư Jayendrapati một cỗ kiệu, một cái lọng bằng lông 46 Phaùt trieån Kinh teáÑaø -Naüng Xaõ hoäi
- Nghiên cứu - Trao đổi công, một bao kiếm bằng vàng, nhiều bình sứ có quai Chăm lại biến thành một nữ thần Việt? Đó là do tín và bình gốm lớn, một cái đĩa bằng bạc, một đai thắt ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Vào thế kỷ XV, XVI, lưng, nhiều khuyên tai và vòng tay bằng vàng, một trên đường nam tiến, hễ thấy một pho tượng Chăm cặp váy bằng lụa 24 nào có khuôn mặt giống phụ nữ thì người Việt sẽ đặt ngay lên bàn thờ và nó trở thành những Bà Vú, Bà Hời, Theo như văn bia, vợ của Hoàng thân Sārthavāha Bà Mụ, Bà Phật, Bà Đá, Bà Lồi, Bà Vàng, Bà Ngọc, Bà có tước hiệu là Pu Po Ku (Nữ Thánh chủ) và mang Thiên, Bà Thai Dương 26 và trường hợp ở làng Hóa tên Rudrapura (thành phố thần Bão tố), Pu Po Ku Quê là Bà Ngũ Hành. Trước miếu, ngay phía bên trái, Rudrapura có nghĩa là Nữ Thánh chủ thành phố thần có một giếng Chăm vuông vức tuyệt đẹp, trụ giếng Bão tố, mà bản quán của gia đình Sārthavāha và Pu và thành giếng được ghép từ các phiến đá sa thạch Po Ku Rudrapura là khu vực lân cận xung quanh địa một cách tinh xảo. Vì người Chăm cần dùng nước để điểm dựng bia Hóa Quê, từ đó thể biết rằng vào cuối làm nghi lễ thể tẩy Linga nên niên đại của giếng ắt thế kỷ thứ IX, đầu thế kỷ thứ X vùng đất Cẩm Lệ có phải trùng với tháp Hóa Quê, hơn ngàn năm. danh xưng là Rudrapura - thành phố Thần Bão tố.25 Nhờ những dòng Phạn ngữ trên văn bia Hóa Quê Trải qua hơn ngàn năm, khu đất nơi tháp Hóa do quan Thượng thư triều Đồng Dương Jayendrapati Quê tọa lạc nay trở thành Khu di tích lịch sử văn hóa soạn, và nhờ bản dịch sang Pháp ngữ của giáo sư Khuê Trung bao gồm phế tích tháp Hóa Quê, miếu Bà, Huber nên chúng ta có thể biết vào cuối thế kỷ thứ giếng Chăm, nhà thờ Tiền Hiền và nghĩa trũng Hòa IX, đầu thế kỷ thứ X, gia đình Hoàng thân Sārthavāha Vang. Gần đây, khi phát quang khu vực này người ta và Nữ Thánh chủ Rudrapura, chủ nhân của mảnh đất lại tìm thấy một bệ Yoni kích thước 1 m x 0,8 m và một trù phú Rudrapura - thành phố thần Bão tố 27 - mà tượng thần Ganeśa đã mất một tay cao 55 cm, hiện ngày nay mang tên Cẩm Lệ, đã dựng lên cụm tháp nay bệ và tượng được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Hóa Quê. Cụm gồm ba tháp gần nhau, đó là tháp Đà Nẵng. Sau miếu Bà 100 m, có một phần bệ thờ Śrī-Mahārudra (Cẩm Bắc) thờ Hoàng thân Sārthavāha Linga chạm khắc những dải xoắn theo phong cách vào năm 898, tháp Śrī-Mahāśivalingeśvara (Phong Lệ) Đồng Dương. Chắc chắn là dân làng đã tận dụng gạch thờ Parameśvara vào năm 907 và tháp Bhagavatī (Hóa đá từ phế tích để xây miếu, rất có khả năng móng Quê) thờ Nữ Thánh chủ Rudrapura vào năm 908.28 tháp nằm ngay dưới miếu. Trong miếu Bà, thấy thờ Nhưng tiếc thay, tất cả đều đã sụp đổ hoàn toàn. Căn bốn pho tượng Chăm có nguồn gốc Ấn giáo đã được cứ mốc thời gian khắc trên bia và trên cơ sở nghiên Việt hóa bằng cách đắp thạch cao, tô màu, đội mão, cứu các di tích, có thể khẳng định cụm tháp Hóa Quê choàng y để trở thành Thần Mẫu. May còn một pho được xây dựng theo phong cách Đồng Dương. Đến tượng bên trái ngoài cùng mà đầu chưa bị tô màu, nay, chúng ta đã xác định chính xác vị trí nền tháp chúng tôi nhận ra ngay là đầu thần Kumāra (con trai Hóa Quê là miếu Bà, tổ 20 Bình Hòa, phường Khuê thần Siva), một vị nam thần Chăm đã được sắc phong Trung và nền tháp Phong Lệ là lô đất số 173, 101, xóm thành Bà Thổ (!). Điều kỳ lạ là trong miếu chỉ có bốn Cấm, tổ 3, phường Hòa Thọ Đông, nhưng vẫn chưa pho tượng mà lại có bài vị kèm sắc phong đến năm biết đích xác vị trí nền móng tháp Cẩm Bắc, nó vẫn Bà tương ứng với Ngũ Hành. Tại sao một nam thần nằm đâu đó trong lòng đất Linh Sơn. Ngoài di tích cụm tháp Hóa Quê, đầu thế kỷ XX, tại làng Hòa An (nay thuộc phường Hòa An, quận Cẩm Lệ), Parmentier còn tìm thấy một tượng đá có tư thế ngồi xổm và những đống đổ nát từ gạch đá xây vòm của một tháp Chăm.29 Ngày nay, một số phế tích của tháp Hòa An vẫn còn được lưu giữ tại chùa An Sơn (tổ 15, phường Hòa An, quận Cẩm Lệ). Vị trí của chùa nằm ngay dưới chân núi Phước Tường30 và chùa được dựng trên nền một tháp Chăm vào khoảng giữa thế kỷ XIX. Băng qua tam quan, đến giữa sân chùa còn thấy hai trụ cửa bằng đá sa thạch có chạm khắc những dải xoắn theo phong cách Đồng Dương đang Hiện vật thu được từ cuộc khai quật tháp Chăm Phong Lệ được tận dụng làm hai trụ tựa cho một cột cờ (!). Bên Phaùt trieån 47 Kinh Ñaøteá Naüng- Xaõ hoäi
- Nghiên cứu - Trao đổi trái chùa, thấy có một bệ thờ Linga hình vuông, trên quận Cẩm Lệ ngày nay, chúng ta có thể hình dung mặt có xuất hiện vết nứt, cạnh đó có hai trụ biểu bằng ra diện mạo và quy mô của thành Rudrapura. “Sông đá và những phiến đá dày dùng làm đế cho các trụ Thiêng” của thành là sông Cẩm Lệ, “núi Thiêng” của biểu. Bệ thờ và những phiến đá này được nhà chùa thành là núi Phước Tường. Trung tâm tôn giáo của bố trí thành một bộ bàn ghế đá dùng để tiếp khách thành đặt tại Hòa An và trung tâm chính trị tại khu thập phương (!). Cách đó không xa về hướng tây bắc vực Cẩm Bắc, Phong Lệ, Hóa Quê (phường Hòa Thọ là một giếng Chăm hình tròn, thành giếng được ghép Đông và phường Khuê Trung ngày nay). Theo motif từ những viên đá sa thạch hình chữ nhật. Trong số các của những thành phố (pura) được hình thành trên phế tích còn lại, đặc biệt còn có một tượng nam thần, các lưu vực sông nhỏ, chảy trên triền dốc đứng, ngăn được thờ trong một ngôi miếu nhỏ, nhưng tượng đã cách bởi núi non tại vùng Đông Nam Á thời tiền sử mất đầu và bị đắp xi măng tạo thành đầu của một vị do Bennet Bronson đúc kết31, thì thành Rudrapura hòa thượng nào đó (!). Tư thế ngồi của pho tượng này ắt có một cảng thị đóng vai trò trung tâm kinh tế - làm ta liên tưởng đến tượng nam thần đang trưng thương mại. Chắc chắn cảng thị này phải nằm gần bày trên đài thờ thuộc Phật viện Đồng Dương (Vihāra địa điểm hợp lưu của ba con sông Cẩm Lệ, Vĩnh Điện Lokeśvara) tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng. và Cổ Cò. Rất có khả năng đó là Hiên cảng32, một cảng Những gì còn sót lại ở chùa An Sơn cho thấy tháp Hòa cổ nằm tại làng Nại Hiên Tây (nay thuộc phường Bình An có cùng niên đại với cụm tháp Hóa Quê, cuối thế Hiên, quận Hải Châu) và có thể có thêm một tiền cảng kỷ thứ IX, đầu thế kỷ thứ X. đóng tại làng Nại Hiên Đông (nay thuộc phường Nại Hiên Đông, quận Sơn Trà). Như vậy thành Rudrapura Qua việc khảo sát những phế tích tháp Chăm tại vào cuối thế kỷ thứ IX, đầu thế kỷ thứ X có địa giới 48 Phaùt trieån Kinh teáÑaø -Naüng Xaõ hoäi
- Nghiên cứu - Trao đổi khá rộng, nó bắt đầu từ làng Hòa An dưới chân núi Lệ, s’étend fort loin: les débris qu’elle montre témoignent d’un Phước Tường trải xuống Cẩm Lệ, rồi kéo dài đến tận important emplacement”. Dẫn theo: Sallet, “Les Souvernirs Nại Hiên.33 Chams dans le Folk-lore et les Croyances Annamites du Quang-Nam”, Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H.), No. Đã có một tòa thành Chăm tồn tại cách đây hơn 2/1923, 204. 1000 năm mà những phế tích của nó đang nằm rải Địa danh này ngày nay có tên Trung Sơn xứ, chúng tôi rác khắp nơi trên địa bàn quận Cẩm Lệ. Hy vọng vào nghi ngờ Sallet chép Linh Sơn là chưa đúng, bởi từ thế kỷ một ngày nào đó, tất cả các chân móng tháp sẽ được XVIII, vùng đất này đã có tên Trung Sơn. Dẫn theo: Phan phát lộ, đến lúc đó chúng ta lại có dịp khám phá thêm Khoang, Việt Sử xứ Đàng trong, (Hà Nội: Văn học, 2000), 209. nhiều điều kỳ diệu về một nền văn minh huyền bí 4 Đào Thái Hanh, “La déesse Thiên-Y-A-Na”, B.A.V.H., No. này. Những lưu dấu Champa tại Cẩm Lệ ngày nay đâu 2.1914, 163. Gò Theo, điểm cuối của di chỉ Linh Sơn, là vùng chỉ có những phiến đá, tượng đá hay móng gạch Hời đất có tứ cận: phía đông giáp xứ đất Bắc Thuận, phía bắc đỏ chói mà còn là niềm tin dai dẳng trong dân gian về giáp Đông Phước, phía tây giáp quốc lộ 1A, phía nam giáp thần linh, ma quỷ và nỗi ám ảnh triền miên về những thôn Phong Bắc (nay là các tổ từ 34 đến 37, phường Hòa lời nguyền đến từ cõi hư vô. Cái tín ngưỡng thuần Thọ Đông). cảm tính về một quá khứ Hời đầy bí nhiệm dường 5 Hóa Quê (化 圭), đổi thành Hóa Khuê (化 閨, theo Ô như vẫn tồn tại mãi trong tâm thức của mỗi một con châu cận lục của Dương Văn An, vào đời vua Lê Anh Tông, người vùng “Cẩm giang Lệ thủy” này năm Tân dậu, niên hiệu Chính Trị thứ 4 (1561), Hóa Khuê là một trong 66 xã của huyện Điện Bàn, về sau chia thành Đ.B.T. - B.N.M. ba làng Hóa Khuê Đông, Hóa Khuê Tây và Hóa Khuê Trung (Khuê Trung). 6, 7, 9, 13, 15, 26 Sallet, “Les Souvernirs Chams dans le Folk-lore et les Croyances Annamites du Quang-Nam”, B.A.V.H., No. 2/1923, 207, 209, 209, 220, 220, 213. 8 Cadière, “Croyances et Practiques religieuses des Annamites dans les environs de Hué. Le Culte des Pierres”, Chú thích Bulletin de l’École Française d’Extrême-Orient (B.E.F.E.O.), Vol. 1 Cẩm Lệ nay là danh xưng của một quận thuộc thành XIX, No. 2/1919, 30. phố Đà Nẵng. Cẩm Lệ (錦 荔) theo Hán Việt từ điển trích 10 Với giọng văn khá mỉa mai, Sallet thuật lại sự tích bệ dẫn (www.hanviet.org) thì chữ Cẩm (錦) trong từ cẩm tú thờ Ông Mốc ở Cẩm Lệ: “J’apporte ici une petite contribution (錦 繡: tươi đẹp) và chữ Lệ (荔) trong từ lệ chi (荔 枝: cây à l’étude du culte des pierres en Annam. La pierre de Cẫm- vải), Cẩm Lệ nghĩa là “Cây vải tươi đẹp”. Tương truyền, danh Lệ était couchée dans un fossé, et comme son examen xưng Cẩm Lệ bắt nguồn từ “Cẩm giang Lệ thủy” (錦 江 荔 pouvait présenter quelque intérêt, je demandai aux autorités 水). Nước sông Cẩm ngọt như trái cây vải hay là hai bên bờ provinciales de vouloir bien la faire relever (au surplus cette sông Cẩm có nhiều cây vải mà có tích này chăng? Theo Ô pierre ne portait-elle pas les caractères “lập thạch” 立 石?). châu cận lục của Dương Văn An (Huế: Thuận Hóa, 1992), vào Le village crut devoir faire mieux, et, quelques semaines après, đời vua Lê Anh Tông, năm Tân dậu, niên hiệu Chính Trị thứ je retrouvai la pierre dressée sur son socle maçonné. Un mois 4 (1561), Cẩm Lệ là một trong 66 xã của huyện Điện Bàn. plus tard, sur ce socle étaient disposés des chapelets de fleurs, Trước năm 1796, làng Cẩm Lệ hoàn toàn nằm phía nam des papiers votifs et le vase habituel garni de sable où, piqués, sông Cẩm Lệ. Sau trận lụt năm Bính thìn (1796), lý trưởng achevaient de se consumer des bâtonnets d’encens : le vieux làng Cẩm Lệ thấy vùng đất nam sông Cẩm Lệ ẩm thấp bèn piédroit cham, la pierre-limite des Annamites, etait devenu đi xin lý trưởng làng Bình Khương (Bình Thái ngày nay) ở “Ông-Mốc” 翁 木, “Monsieur le Terme”, et était honoré par phía bắc sông, cho dân làng Cẩm Lệ đến đó cư trú. Được les gens du village et plus encore par les voyageurs. Peut- sự đồng ý của làng Bình Khương, dân làng Cẩm Lệ từ phía être doit-on penser que les habitants de Cẫm-Lệ à cause de nam vượt sông sang phía bắc, khai phá 3 gò đất hoang là cet ordre venu de hauts fonctionnaires, avaient pu croire que Gò Thị, Gò Tràm và Gò Theo để “tái định cư”. Từ đó làng Cẩm puisque de grands mandarins lettrés et sérieux s’intéressaient Lệ chia thành Cẩm Lệ Nam thôn và Cẩm Lệ Bắc thôn. au sort de cette pierre et réclamaient pour elle une attitude 2 Maspéro, Le Royaume de Champa, (Paris et Bruxelles: plus noble, il fallait bien qu’elle possédât une vertu et un Les Éditions G. Van Oest, 1928), 35-41. pouvoir particulier”. Dẫn theo: Sallet, “Les Souvernirs Chams 3 Nguyên văn: “Linh-Sơn 靈 山, de Cẫm-Lệ Bắc-Thôn 錦 dans le Folk-lore et les Croyances Annamites du Quang- 荔 北 村, canton de Bình-Thái 平 泰 總, huyện de Hòa-Vang Nam”, B.A.V.H. No. 2/1923, 210. 和 榮 縣. Cette colline qui s’arrête auprès du bac de Cẫm- Tạm dịch: “Ở đây, tôi xin đóng góp phần nhỏ cho việc Phaùt trieån 49 Kinh Ñaøteá Naüng- Xaõ hoäi
- Nghiên cứu - Trao đổi nghiên cứu phong tục thờ đá ở Trung kỳ. Phiến đá tại Cẩm Lệ 18 Trường hợp của ông Trà Văn X., chúng tôi trực tiếp bị vùi dưới một cái mương, và thấy có thể dùng đá vào việc gì chứng kiến, nếu có quý vị độc giả nào muốn xác minh thì đó hữu ích, tôi yêu cầu chính quyền tỉnh nên trục nó lên (vả lại có thể theo chúng tôi đến gặp ông Trà, nhà ông chỉ cách vị phiến đá này đâu có mang chữ “lập thạch” 立 石?). Làng sở trí Tháp Sáng của Phật viện Đồng Dương 2 km. tại tin rằng cần phải dùng nó vào việc tốt hơn, và vài tuần sau 19 Đầu thế kỷ XX, khu vực lân cận Tourane (Đà Nẵng) có đó, tôi thấy trụ đá được dựng trên bệ có tô vôi hẳn hoi. Một một số đồn điền của các ông chủ: Tây Kho bạc anh (Camille tháng sau đó, trên bệ thấy bày những bó hoa, giấy vàng mã Paris) ở Phong Lệ, Tây béo ở Hóa Quê, Tây Kho bạc em và một cái lư đựng cát quen thuộc mà hương cắm đã cháy hết (Gravelle Paris) ở Nghi An, Tây Bertrand, Tây Hãng ở Phước chỉ còn trơ cọng: trụ biểu cổ của Chăm, cột đá làm ranh giới Tường của người An Nam, đã trở thành “Ông-Mốc” 翁 木, được dân 20 làng và cả khách qua đường sùng bái. Phải chăng dân làng Nguyên văn: “Peu de temps après, l’ancienne propriété Cẩm Lệ vì từ mệnh lệnh của các quan trên, yên trí các quan de C. Paris à Phong-lệ, vendue d’abord à un Français, passait trên vốn lắm chữ, nghiêm túc đã xem trọng phiến đá và đã đề a un Chinois. Sur notre demande d’achat il fit aimablement cập về nó với một thái độ rất lịch lãm, nên chắc mẫm rằng nó don à l’Ecole des sculptures que C. Paris y avait rassemblées; phải ẩn chức một tư đức và một quyền năng đặc biệt”. elles provenaient pour la plupart des décombres d’un monument čam qui formait une butte dans les limites de sa Trước năm 1980, trụ Ông Mốc vẫn còn, nằm gần bến đò concession et qui lui fournit les briques de l’habitation”. Dẫn Nga, ranh giới giữa Khuê Trung và Cẩm Lệ, trên trụ có dòng theo: Parmentier, “Catalogue du Musée Čam de Tourane”, 嘉 隆 十 二 年 七 月 二 十 五 日 chữ ” (Gia Long thập B.E.F.E.O., Vol. XIX, 1919, 5. nhị niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật: ngày 25 tháng 7 21 năm Gia Long thứ 12). Parmentier, “Inventaire Descriptif des Monuments Čams de l’Annam”, Vol.1, (Paris: Presses de l’École Française 11 Miễu Linh Sơn ngày nay được gọi là miễu Bà, thuộc d’Extrême-Orient (P.E.F.E.O ), Ernest Leroux, 1909), 319-324. tổ 33 phường Hòa Thọ Đông. Sau năm 1975, Thần Thạch 22, 23, 24, 28 không còn nữa. Huber, “Études Indochinoises”, B.E.F.E.O, Vol. XI, 1911, 285, 286, 296, 297. 12 Cadière, Bài đã dẫn, 4 - 5. Quá trình “thiêng hóa” mỏm 25 Đá Ông bên bờ sông Cẩm Lệ ngày nay diễn ra y chang như Theo kinh Vệ Đà, thần Bão tố Rudra là tiền thân của những gì mà linh mục L. Cadière miêu tả về mỏm “Đá nổi” thần Siva, vị thần tối cao trong Ấn giáo. bên bờ sông Thạch Hãn đoạn chảy qua làng Trinh Thạnh 27 Vào đầu thế kỷ thứ X, trên mảnh đất Amarāvatī (Quảng hơn 90 năm về trước. Hiện nay, tại Cẩm Lệ và một số nơi Nam, Đà Nẵng ngày nay) có các thành phố: Indrapura - kinh khác nữa, người ta tin rằng linh hồn của nạn nhân chết thành Thần Sấm sét (Đồng Dương); Simhapura - thành phố nước sẽ trú lại mỏm “Đá đen” và do đó mỏm Đá sẽ rất linh Sư tử (Trà Kiệu); Čampāpura - thành phố Chiêm Bà (Thanh thiêng. Thân nhân của nạn nhân chết nước thường đến đây Chiêm, Điện Bàn); Và những tác giả bài viết này phát hiện thắp hương khấn vái. Đặt trên mỏm Đá một tượng Phật Bà, ra thêm một thành phố nữa, đó là Rudrapura - thành phố người ta tin rằng Phật Bà sẽ phù hộ độ trì cho linh hồn của Thần Bão tố (Cẩm Lệ). nạn nhân chết nước sớm được siêu thoát. Tóm lại, các linh 29 Parmentier, “Notes d’Archéologie Indochinoise I-VI”, hồn của những nạn nhân chết nước xem mỏm Đá là nhà và B.E.F.E.O, Vol. XXIII, 1923, 274. Phật Bà là người độ trì (!). Về phần pho tượng Phật Bà được 30 đặt trên mỏm Đá, chúng tôi đã nghe vô số tin đồn thổi về Đại Nam nhất thống chí (quyển XIII) do Quốc sử quán sự linh thiêng của pho tượng này. Chả biết nó thiêng cỡ triều Nguyễn biên soạn, chép núi Phước Tường 福 祥 là nào? Nhưng điều đó không thuộc phạm vi của bài viết, Cẩm Lệ Sơn 錦 荔 山. chúng tôi không tiện nêu ra. Đến tháng 12.2012, tượng 31 Bronson, “Exchange at the Upstream and Downstream Phật Bà đã được di dời về chùa Cẩm Nam. Ends: Notes Toward a Functional Model of the Coastal State 14 “Cồn Dàng” là tên thường gọi những vùng đất cao có in Southeast Asia”, Economic Exchange and Social Interaction phế tích Chàm. Ngày nay, vị trí “cồn Dàng” là Khu di tích lịch in Southeast Asia: Perpectives from Prehistory, History, and sử văn hóa Khuê Trung bao gồm phế tích tháp Hóa Quê, Ethnography (Ann Arbor, 1977), 39-52. giếng Chăm, miếu Bà, nhà thờ Tiền Hiền và nghĩa trũng 32 Tương truyền, năm 1471, vua Lê Thánh Tông trên Hòa Vang tại tổ 20 Bình Hòa, phường Khuê Trung. đường nam chinh đã cho đậu thuyền tại bến Nại Hiên để 16 Phỏng vấn ông Huỳnh Bá Hoàng, tổ trưởng tổ 34, lấy nước ngọt từ giếng Bộng (giếng có niên đại thế kỷ X) phường Hòa Thọ Đông. Trường hợp thứ tư mới xảy ra gần [Theo gia phả tộc Nguyễn Thanh - Nại Hiên Tây do anh đây, nên chúng tôi chưa có ghi nhận gì về sự “báo ứng” của Nguyễn Thanh Định cung cấp]. Muộn nhất là từ cuối thế kỷ vàng Hời. XV, người Trung Hoa đã gọi bến Nại Hiên (và cả khu vực Đà Nẵng) là Hiên cảng. 17 Bức tượng Bồ tát Lakṣmīndra-Lokeśvara hiện đang 33 được trưng bày tại Bảo tàng Chăm Đà Nẵng và đã được Làng Nại Hiên xưa bao gồm ba làng Nại Hiên Đông, công nhận là Bảo vật quốc gia. Nại Hiên Tây và Nại Hiên Nam (Nại Nam). 50 Phaùt trieån Kinh teáÑaø -Naüng Xaõ hoäi