Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng (Phần 2) - Lê Hồng My

pdf 133 trang ngocly 1800
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng (Phần 2) - Lê Hồng My", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfloi_van_nghe_thuat_nguyen_hong_phan_2_le_hong_my.pdf

Nội dung text: Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng (Phần 2) - Lê Hồng My

  1. Chương hai CÁC THÀNH PHẦN CƠ BẢN TRONG LỜI VĂN NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN HỒNG Lời trần thuật I. ƯU THẾ CỦA TRẦN THUẬT NHÂN VẬT HOÁ Trong các thành phần của lời văn nghệ thuật, lời trần thuật đóng vai trò rất quan trọng. Từ điển thuật ngữ văn học đã chỉ rõ, ngoài chức năng kể việc: "nó bao hàm cả việc mô tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật ." [44; tr247]. Căn cứ vào khoảng cách và góc độ quan sát của chủ thể với đối tượng trần thuật, người ta chia lời trần thuật thành các dạng cơ bản : - Lời trần thuật khách quan: Là lời của người trần thuật đứng ở ngôi thứ ba có khoảng cách với đối tượng. Ở dạng này, lời trần thuật mang tính khách quan, ít bộc lộ sắc thái biểu cảm. - Lời trần thuật tham dự: Là lời người trần thuật khi đã thâm nhập sâu vào cảm xúc, suy nghĩ, ấn tượng của nhân vật. Điển hình nhất là người trần thuật ở ngôi thứ nhất kể lại những gì trực tiếp trải qua hoặc chứng kiến. Vì vậy lời trần thuật tham dự còn được gọi là lời trần thuật nhân vật hoá. Ở dạng này, lời trần thuật bộc lộ rõ tính chủ quan của chủ thể trần thuật. Mỗi dạng lời trần thuật đều có ưu thế riêng của nó. Lựa chọn hình thức nào còn tuỳ thuộc vào sở trường, cá tính sáng tạo của nhà văn và nhiệm vụ nghệ thuật của từng tác phẩm. Ở một vài truyện ngắn hoặc một số đoạn trong tiểu thuyết, khi cần thiết, Nguyên Hồng cũng dùng lời trần thuật khách 66
  2. quan, người trần thuật không nhập cảm vào ý thức một nhân vật nào, chỉ thuật lại những gì mắt thấy tai nghe. Với thái độ khách quan tỉnh táo của người trần thuật tác giả có điều kiện phanh phui đến tận cùng những thảm cảnh của xã hội cũ. Các truyện ngắn Người con gái, Người mẹ không con, Giọt sữa, Con chó vàng đã được bắt đầu bằng lối kể "điềm nhiên" của người trần thuật đứng ngoài câu chuyện. Thái độ khách quan được thể hiện qua cách gọi nhân vật bằng những từ ngữ trung tính: người con gái, người con trai, người chú, họ, kẻ, người vợ (Người con gái), ông lão mù (Con chó vàng), con bé ấy, người đàn bà (Người mẹ không con), đứa trẻ, người mẹ (Những giọt sữa). Lời miêu tả không "tô hồng" đối tượng, không kèm theo đánh giá của người trần thuật. Loại bỏ các yếu tố biểu cảm, lời văn không nhằm tác động trực tiếp vào cảm xúc người đọc mà tạo sức thuyết phục bằng lời kể khách quan, đảm bảo tính chân thực của tình tiết. sự kiện. Là nhà văn đa cảm, nhưng cũng có lúc Nguyên Hồng (ra kìm nén được cảm xúc bồng bột, tách mình ra khỏi nhân vật để miêu tả những sự thật tàn nhẫn, vạch trần những vết thương xã hội. Sê-khốp nói, trong cuộc sống cũng như trong nghệ thuật, sự lạnh lùng là không thể thiếu, chỉ có sự lạnh lùng mới nhìn được sự việc một cách tỏ tường, nhà văn phải tỏ ra thản nhiên khi viết những truyện thương tâm. Mang nhãn quan của một nhà văn hiện thực, Nguyên Hồng không thể không sử dụng thái độ khách quan như một phương pháp để quan sát cuộc sống, một cách thức để phản ánh hiện thực. Vì thế, những lời trần thuật khách quan đã xuất hiện trong sáng tác của Nguyên Hồng như một tất yếu và đạt hiệu quả nghệ thuật nhất định. Điều đáng lưu ý là, nhìn đời sống với thái độ tỉnh táo lạnh 67
  3. lùng không phải là bản chất nhãn quan Nguyên Hồng. Vì vậy, số tác phẩm được trần thuật khách quan không nhiều. Nhà văn ít khi duy trì trọn vẹn hình thức trần thuật khách quan thuần tuý trong một tác phẩm. Thường lối trần thuật tỉnh táo, có khoảng cách với đối tượng trần thuật, chỉ sử dụng ở một phần trong truyện ngắn hoặc một số đoạn trong tiểu thuyết. Ngay cả lúc Nguyên Hồng tỏ ra khách quan, chừng mực nhất để cảm xúc không trào lên ngọn bút thì lời văn cũng không phải là những ghi chép lạnh lùng trên giấy. Lời trần thuật khách quan trong sáng tác của Nguyên Hồng bao giờ cũng là sự kìm nén cao độ cảm xúc của người trần thuật với đối tượng. Những câu, những đoạn hoà nhập giữa người trần thuật và nhân vật, những lời trữ tình ngoại đề thống thiết trong mạch trần thuật chính là sự bùng nổ của cảm xúc mà thái độ khách quan ban đầu chỉ giống như sợi dây cháy chậm. Thế mạnh của Nguyên Hồng là ở dạng lời trần thuật nhân vật hoá, lời người kể chuyện hoà nhập vào lời nhân vật, thấm đẫm cảm xúc, tâm trạng của nhân vật. Ở dạng này, Nguyên Hồng thành công nhất khi sử dụng lời trần thuật từ ngôi thứ nhất. Có thể kể đến Những ngày thơ ấu, Người đàn bà Tầu, Mợ Du, Giọt máu Sức hấp dẫn của các tác phẩm trước hết là ở lời kể đằm thắm, chân thành, giàu cảm xúc của nhân vật "tôi" - người kể chuyện. Những ngày thơ ấu đọng lại trong tâm hồn người đọc "những rung động cực điểm của một tâm hồn trẻ dại lạc loài bị vùi dập trong lòng một gia đình cũ kĩ sắp tàn" (Thạch Lam). Bằng những lời chân thật, cảm động, nhân vật "tôi" tự trình bày cuộc đời và những cảm xúc riêng tư, tạo nên dư âm sâu lắng cho dòng kỉ niệm. Nỗi vui sướng rạo rực và niềm hạnh phúc tuyệt 68
  4. vời của bé Hồng khi được ngồi trong lòng mẹ sau những ngày xa cách ngùi ngùi thương nhớ đã được diễn tả thật thấm thía bởi chính những thanh âm phát ra từ một tâm hồn tràn đầy xúc động mà mỗi sợi tơ lòng của nó đã rung lên tha thiết trong khoảnh khắc đặc biệt ấy: "Tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp vào đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi, tôi thấy những cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt". Đã có nhiều nhà văn viết về tình mẫu tử nhưng viết đến mức cảm động như đoạn văn trên chắc không phải là nhiều. "Ngòi bút tác giả đưa lại cho người đọc cảm giác hồi hộp cùng mạch văn và con chữ' (Nguyễn Trọng Hoàn). Trong trích đoạn trên, giả sử Nguyên Hồng không để nhân vật trực tiếp thể hiện tâm trạng, mà nhờ người thứ ba đứng ngoài quan sát và nói hộ bé Hồng thì chắc chắn lời kể sẽ không đạt đến độ vi diệu như vậy Dùng tiếng nói của người khác, cho dù có nhập cảm đến đâu, cũng vẫn là lời người ngoài cuộc, khả năng bộc lộ cảm xúc hạn chế nhiều so với lời tự truyện ở ngôi thứ nhất mà Nguyên Hồng đã sử dụng. Hình thức trần thuật thích hợp đã góp phần quan trọng vào thành công của tác phẩm. Vũ Ngọc Phan đánh giá, trong Những ngày thơ ấu, Nguyên Hồng đã làm được một điều rất khó là "nói được cái tôi chân thật" mà lại làm cho người đọc cảm thấy những điều thú vị" [91;tr45]. Nguyễn Đăng Điệp khẳng định: "Cái mà Nguyên Hồng cần hơn cả thì ông đã đạt được. Văn ông đã nói lên được nỗi lòng của ông, tâm trạng của ông. Điều này được thể hiện một cách nhuần nhuyễn trong Những ngày thơ ấu khiến cho tác phẩm trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyên Hồng góp vào nền văn học Việt Nam hiện đại". [40;tr235] Ở truyện ngắn Mợ Du, nhân vật An - người kể chuyện, cũng 69
  5. là người trực tiếp chứng kiến tình cảnh éo le và cảm động của hai mẹ con Dũng. "Tôi" (An) thương xót nỗi bất hạnh của người mẹ, tìm mọi cách cho mợ Du được gặp Dũng lén lút mỗi lần ít phút ở góc vườn khuất vắng. Người kể đã từng "đắm vào", "tê mê", "bùi ngùi, thương tiếc" cùng hai mẹ con Dũng khi gặp gỡ cũng như lúc chia lìa: "Lần nào sự gặp gỡ của hai mẹ con Dũng cũng làm tôi sung sướng, và lần nào sự chia lìa của hai mẹ con Dũng cũng thấm cả nước mắt tôi làm tôi bùi ngùi trong sự thương tiếc mênh mông". Với những lời kể rưng rưng xúc động, chất trữ tình lai láng, Mợ Du xứng đáng được coi là một bài thơ ca ngợi tình mẹ. Hoá thân thành nhân vật văn học là con đường thuận lợi để người trần thuật của Nguyên Hồng soi tỏ tâm tư nhân vật. Hình tượng người kể chuyện ở ngôi thứ nhất trong Những ngày thơ ấu, Mợ Du, Người đàn bà Tầu đã đem lại cho người đọc độ tin cậy cao với tình tiết truyện và đồng cảm cùng với những lời tâm sự được giãi bày. Kiểu trần thuật này tạo điều kiện cho Nguyên Hồng thể hiện chủ quan của mình và thế giới bên trong của nhân vật nhiều hơn so với trần thuật từ ngôi thứ ba có khoảng cách, lời trần thuật giàu chất trữ tình, dễ tạo nên rung động trực tiếp ở người đọc. Một dạng trần thuật nhân vật hoá khá phổ biên trong sáng tác của Nguyên Hồng là người trần thuật hoà nhập vào nhân vật, nhưng không xưng tôi mà xưng tên như Bính, Sinh, Hưng, Muống, Thanh, Huệ Chi , đảm nhiệm vai trò chủ thể trần thuật ở một số đoạn, chương trong tác phẩm. Kiểu trần thuật nhân vật hoá xưng tên có trong Đây bóng tối, Trong cảnh khôn cùng, Hàng cơm đêm, Bỉ vỏ, Quán Nải, Hơi thở tàn, Cửa biển Lời trần thuật vừa trình bày diễn biến khách quan của tình tiết, sự 70
  6. kiện, vừa thâm nhập vào thế giới tâm hồn nhân vật để biểu hiện cảm xúc, tâm trạng. Dạng này tuy thành công không đều như lời trần thuật của nhân vật "tôi" ở ngôi thứ nhất nhưng có những điểm đột sáng. Truyện ngắn Trong cảnh khốn cùng được nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đánh giá là "hay tuyệt". Người trần thuật đã hoá thân vào nhân vật Quyến để nói hộ chị những tâm sự thầm kín. Truyện được bắt đầu bằng cảnh đêm trên một dòng sông, nhưng mục đích miêu tả là "tiếng sóng lòng" của Quyến, người chủ con đò. Có "một thoáng rùng mình", "chép miệng thở dài" khi nhìn thân hình "xanh xao ốm yếu, đờ đẫn" của người chồng bệnh tật nằm bất động trong khoang đò; có nỗi thổn thức của "những ước mong rạo rực" trong đêm xuân bên "anh chân sào tráng kiện" Tất cả những tình cảm rất thật, rất đàn bà ấy đã được diễn tả tinh tế. Người trần thuật đã mượn lời Quyến để tỏ lòng thay chị. Sự tinh tế đó có thể sẽ không còn nữa nếu thay đổi cách thức trần thuật. Giả sử truyện được trần thuật một cách tuyệt đối khách quan bằng lời của người trần thuật ở ngoài nhân vật thì dù có miêu tả tỉ mỉ chi tiết đến mấy cũng khó diễn tả thấm thía những rung động sâu xa thầm kín của nhân vật. Hoặc nếu tác giả chuyển hẳn sang dạng trần thuật của "tôi" ở ngôi thứ nhất, để Quyến tự nói ra những nỗi khuất khúc trong tình cảm, thú nhận ham muốn ích kỉ và ý nghĩ phụ bạc người chồng đau ốm? Cũng khó chấp nhận cách trần thuật này bởi sự phản bội của người vợ mới chỉ trong ý nghĩ (theo quan niệm của người phương Đông) cũng đã là tội lỗi. Liệu có người phụ nữ nào muốn "hở môi" thú nhận tâm trạng ấy, nhất là với kiểu nhân vật không "nổi loạn" như Quyến? Vậy, sử dụng tiếng nói của một "người khác" rất hiểu nhân vật, thâm nhập sâu vào suy nghĩ và tâm trạng của 71
  7. nhân vật trong trường hợp này là hợp lí, phù hợp với quy luật tình cảm và quy luật đời sống, thể hiện sự thành công trong nghệ thuật trần thuật của Nguyên Hồng. Lời trần thuật nhân vật hoá cũng đã tạo nên những chương, đoạn đáng nhớ trong Đây bóng tối, Hàng cơm đêm, Bỉ vỏ, Cửa biển. Trong Cửa biển, ưu thế của lời trần thuật nhân vật hoá được khẳng định rõ qua những đoạn kể về cái chết của Gái Đen và Huệ Chi. Cái chết của Gái Đen được kể lại trong chương cuối cùng, tập II bộ Cửa biển. Khi biết Kiều phản bội cách mạng, làm chỉ điểm cho mật thám, Gái Đen đau khổ vô cùng. Không ngờ vì nhẹ dạ, cô đã làm gia đình bị tai tiếng, đứa con sắp sinh là con thằng phản phúc. Những giây phút vượt cạn cuối cùng vật vã của Gái không chỉ là nỗi đau thân xác để đổi lấy hạnh phúc, không phải là nỗi hồi hộp đợi chờ kết quả của tình yêu. Ngoài cơn đau thể xác xé lòng của những phụ nữ khi sinh nở, cô còn phải trải qua trận vật vã trong tâm can vì phẫn uất, nhục nhã. Trong truyện Một con người ra đời, M. Goóc-ki dùng lời kể của người thanh niên tốt bụng tận tình giúp đỡ người phụ nữ khi trở dạ với cái nhìn bên ngoài đối tượng để thể hiện nỗi đau thân thể của người mẹ trẻ. Trong trường hợp của Gái Đen, người trần thuật đã hoà nhập vào nhân vật, hướng cái nhìn vào thế giới bên trong, thấu đến tận cùng nỗi đau tột đỉnh cả về thể xác và tinh thần của Gái. Nguyên Hổng đã chọn lời trần thuật phù hợp với mục đích nghệ thuật cần thể hiện. Đây là chương truyện để lại nỗi xúc động đặc biệt với người đọc. Trích đoạn Huệ Chi trước lễ cưới cũng thể hiện rõ ưu thế của lời trần thuật nhân vật hoá. Ngày Huệ Chi bị ép gả cho tên trùm hiến binh Nhật, biệt thự Biển Xanh ngập những hoa: "Từng 72
  8. quãng, từng quãng mô tay vịn đã có một chậu hoa hay một bình hoa hồng, lại còn thêm những bó hoa huệ theo những con song tiện, tưởng như mỗi quãng là một cụm hoa trồng ở phía trong chồi ra. Hoa sen thì gần như ngập cả thảm lót". Trong trạng thái chập chờn thực - mộng, Huệ Chi như lướt trên tấm thảm hoa ấy. "Bước chân Huệ Chi càng không thấy tiếng động, chập chờn, bập bồng thêm, đôi bước còn như ngập lún rồi hất lên những. cánh hoa nhỏ nõn mát rượi". Được "lọc" qua cái nhìn trong sáng của Huệ Chi, những đoá hoa trong toà biệt thự trở nên thanh khiết đến kì lạ. Nếu cảnh vật hiện lên qua cái nhìn của Kim Tú, chắc người đọc không khỏi rùng mình ghê rợn. Trong' tâm địa hắn, toà biệt thự Biển Xanh chỉ là nấm mồ đầy hoa trắng lạnh lẽo vùi chôn một đời thiếu nữ để hắn có điều kiện thoả mãn mọi tham vọng. Kẻ ác tưởng có thể mượn sắc màu Thiên đường để che đậy mưu đồ quỷ dữ. Có lẽ, vì thế Nguyên Hồng không tả toà biệt thự bằng lời của Kim Tú. Nguyên Hồng tả cảnh bằng tâm trạng và cảm giác của Huệ Chi, một con chiên lành gặp nạn dữ cầu mong được Chúa thương xót, cứu giúp, một đứa con gái ngoan hiền bé nhỏ, yếu ớt đang cần được mẹ che chở, yêu thương. Qua lăng kính con chiên, mỗi cánh hoa nhỏ nõn, mát rượi như phép thiêng dẫn Huệ Chi thoát khỏi sự bủa vây của cái xấu, cái ác, nâng bước chân cô phiêu bồng, siêu thoát. "Khung cảnh hiện thực xung quanh Huệ Chi thành thế giới được "thiên đường hoá", làm cho cõi thực và cõi mộng, cõi đời và cõi Chúa hoà nhập trong từng bước đi của Huệ Chi, làm cho con đường dẫn Huệ Chi đến cái chết đẹp lộng lẫy như một thánh đường nghiêm trang và vĩ đại, đẹp như con đường về nước Chúa. Qua lăng kính đứa con yêu tìm về với mẹ, Huệ Chi như đi trong mơ, trở lại thời thơ bé, được mẹ cho ăn chè ngô non, xôi hoa cau, 73
  9. được gối tay mẹ ngủ. ~nleo tiếng gọi từ quê mẹ vọng lên trong tâm tưởng, Huệ Chi mở cửa lan can sân gác thượng tầng gió thổi hun hút, lờ đờ bước ra" Chỉ có hoà nhập vào nhân vật, trần thuật bằng cảm giác và tâm trạng của Huệ Chi lúc đó, Nguyên Hồng mới có thể "lồng ghép" khung cảnh Thánh đường và Quê mẹ, cõi Đạo và cõi Đời, hiện tại và quá khứ, ý thức và vô thức, tỉnh táo và mộng du biến ảo đến linh diệu như vậy. Nguyên Hồng đã phát huy ưu thế của kiểu trần thuật nhân vật hoá, xoáy sâu vào thế giới tâm linh của Huệ Chi, lời trần thuật có đường biên gần như song trùng với độc thoại nội tâm nhân vật. Popspelôp gọi đó là trần thuật theo dòng ý thức. Nó giúp tái hiện đời sống tinh thần của nhân vật trong trạng thái bất định, phức tạp nhất, vượt ra ngoài sự khống chế của logic. Trong Cửa biển có thể chọn ra những trang xứng đáng được coi là mẫu mực của kĩ thuật dựng người, dựng cảnh hay diễn tả tâm lí trong những trường hợp phức tạp nhất. Nằm trong số đó, trích đoạn Huệ Chi trước lễ cưới được coi là áng văn kiệt tác. Sử dụng lời trần thuật nhân vật hoá, Nguyên Hồng đã thể hiện sâu sắc những trạng thái tình cảm phức tạp của nhân vật, lời trần thuật giàu cảm xúc, lay động tâm can người đọc. Ưu thế của lời trần thuật nhân vật hoá cũng dẫn đến xu hướng xoá nhoà khoảng cách trong lời trần thuật. II. XU HƯỚNG XOÁ NHOÀ KHOẢNG CÁCH TRONG LỜI TRẦN THUẬT Trong cuộc sống, Nguyên Hồng có nhu cầu tự nhiên là phải xích lại gần đến mức hoà nhập hẳn vào quần chúng, phải sống trong lòng cộng đồng, giữa người đời xiết bao thân thiết mến yêu. ông chủ động xích gần lại, thậm chí xoá bỏ khoảng cách giữa những con người cùng cảnh. Tương ứng với đặc tính đó, 74
  10. lời trần thuật của ông có xu hướng xoá nhoà khoảng cách giữa các đối tượng. Trước hết là hiện tượng xoá nhoà khoảng cách giữa lời tác giả và lời người trần thuật, thể hiện rõ trong các tác phẩm có tính chất tự truyện, người kể mang tên tác giả: Những ngày thơ ấu, Bước đường viết văn, Một tuổi thơ văn, Những nhân vật ấy đã sống với tôi, Cuộc sống Khi viết tự truyện, mức độ bộc lộ "cái tôi chân thật", "thành thật" của các tác giả rất khác nhau. Tô Hoài viết hồi kí với vẻ lung linh chờn vờn của sự thực. Nguyễn Tuân có nói về mình cũng chỉ qua từng mẩu vụn. Còn Nguyên Hồng đã kể cho ta nghe hết cả những cái cay đắng, những cái truỵ lạc của mình và những người thân mình trong Những ngày thơ ấu, nhờ đó, ta biết rõ hẳn một quãng đời quá khứ của ông. Các tập hồi kí Nguyên Hồng để lại đã "tổng kiểm kê" tường tận từng đoạn đời, từng chặng đường sáng tác và những tâm trạng, cảm xúc nhà văn đã trải qua, tạo thành "bức chân dung tự hoạ" sát thực. Còn với các nhân vật mang bóng dáng tác giả như Sinh (Hơi thở tàn), Thanh (Cửa biển), ông đã mang mình vào nhân vật, ông đã trình bày chính nỗi đau khổ của mình. Nhiều đoạn kể về Thanh, Sinh cũng trùng hợp với cuộc đời tác giả. Nhân vật Thanh (người trần thuật đầu tiên trong Cửa biển) có ngày, tháng, năm sinh (5/11/1918), hoàn cảnh gia đình, chỗ ở, nghề nghiệp hầu như trùng khít với tư liệu về cuộc đời nhà văn. Hiện tượng "mang mình vào trang viết" khiến trong nhiều tác phẩm của Nguyên Hồng, lời người kể chuyện cũng chính là lời tác giả kể về mình, cái "tôi" trong tác phẩm với Nguyên Hồng ngoài đời là một. Hiện tượng xoá nhoà khoảng cách dẫn tới hoà nhập giữa lời tác giả và lời người trần thuật dã đem lại nét đặc sắc cho nghệ 75
  11. thuật trần thật của Nguyên Hồng, nhất là ở hồi kí. Người đọc tiếp nhận các tình tiết, sự kiện, nhân vật trong lời trần thuật với cảm giác "đúng sự thật”, từ những biến động trong đời sống lịch sử, xã hội đến chuyện "bếp núc" của các nhà văn; từ chuyện về đồng nghiệp, bạn bè đến chuyện riêng tư của tác giả. Vũ Ngọc Phan từng đánh giá về cách viết "thành thật" trong Những ngày thơ ấu: "Lối tự truyện này, ở Anh, ở Mĩ, ở Nga rất thịnh hành, nhưng ở nước Việt Nam ta, viết được tôi cho là can đảm lắm" [91;tr45]. Bao quát trên một diện rộng hơn, Nguyễn Đăng Điệp khẳng định: "Chính sự chân thành trên đây đã là yếu tố đầu tiên, cốt tử làm nên vẻ đẹp hồi kí Nguyên Hồng" [40; tr234]. Lời trần thuật xoá nhoà khoảng cách lời giữa tác giả và lợi chủ thể trần thuật đã góp phần vào thành công trên. Một dạng khác cũng khá phổ biến trong lời trần thuật của Nguyên Hồng là sự hoà nhập giữa lời của các chủ thể trần thuật. Họ có nhiều điểm chung trong tình cảm, suy nghĩ và cách nhìn đời sống. Vì thế, trước một sự việc, một tình tiết, chủ thể trần thuật có thể khác nhau nhưng lời văn phản ánh cái nhìn của họ hầu như không khác biệt. Không ít trường hợp, nhiều chủ thể cùng hoà đồng tiếng nói trong lời trần thuật. Trong Cửa biển, Thanh, Dâng, mẹ La đều đảm nhiệm vai trò người trần thuật ở những chương, đoạn khác nhau của tác phẩm. Nhiều khi cách nhìn, thái độ, quan niệm của họ với một đối tượng hoàn toàn đồng nhất. Đơn cử một ví dụ tiêu biểu, đó là lời của Dâng, Thanh, mẹ La và người trần thuật ở ngôi thứ ba về nhân vật cụ Ước. Có thể tóm tắt như sau: 76
  12. ĐỐI TƯỢNG TRẦN THUẬT Cụ Ước : đẹp được ngưỡng mộ "Đôi lông "Cặp lông mày rậm bạc "Ông cụ vẫn " khi ông cụ mày của ông phơ rủ cả ngồi ở trước đứng ngồi ở cụ bạc phơ, xuống mắt và mặt Thanh ( ). trước mẹ. Tóc rủ cả xuống cặp mắt thì Đôi lông màu ông cụ bạc hết mắt. long lanh rậm và bạc trông như tơ Có những sợi như cước của phơ, cái trán như cước xoã, dài cong cụ ước còn lồng lộng, lông mày cụ vươn lên như theo thấp chòm râu như rậm, cũng phạc lông mày của thoáng ở là rễ tre như là phơ, nhiều sợi những ông cụ trước mặt tơ bóng càng rủ cả xuống đẹp lão ngày Dâng một ngời lên mắt. Đôi mắt xưa trong quãng rất xa sắc mặt ông cụ ( ) tranh Tầu. rồi mới chịu ông cụ hồng quắc thước Mắt ông cụ chìm đi " lên" [90;40] từng trải, suy hơi nheo lại [90;36] nghĩ. mà vẫn lấp Râu ông cụ lại lánh" [90; càng đẹp" 195] [82;36] Hiện tượng xoá nhoà khoảng cách làm cho lời trần thuật của 77
  13. Nguyên Hồng chưa đạt được sự thay đổi linh hoạt điểm nhìn, góc nhìn trần thuật. Trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao, nhân vật lão Hạc được soi xét từ nhiều phía, lời kể của chủ thể trần thuật với đối tượng trần thuật có sự thay đổi các mức độ khoảng cách khác nhau. Lúc đầu nghe lão Hạc nói chuyện định bán "cậu Vàng", lời kể của ông giáo "dửng dưng", cách biệt tâm sự của lão Hạc: "Tôi nghe câu ấy nhàm rồi". Sau đó nhìn vẻ mặt "co dúm" của lão Hạc khi báo tin đã bán con chó, lời kể về lão xót thương và cảm thông hơn: "Tôi muốn ôm choàng lấy lão mà oà lên khóc". Chuyện của Binh Tư lại đẩy điểm nhìn của ông giáo ra xa, lời kể lại tạo khoảng cách, chứa nỗi băn khoăn, nghi ngại: "Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để kiếm ăn ư?". Nhưng đến phần kết truyện, lời của ông giáo đã thấm đẫm nỗi lòng lão Hạc, cảm thông, xót thương và nâng niu nguyện ước của người cha đáng kính: "Lão Hạc ơi, lão hãy yên lòng mà nhắm mắt! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố gắng giữ gìn cho lão ". Kết hợp những lời kể có khoảng cách khác nhau, Nam Cao đã thể hiện những khám phá bất ngờ, mới mẻ về con người. Khi cần đến điểm nhìn bên trong để phân tích chiều sâu tâm lí nhân vật, Nam Cao mới chủ động xoá nhoà khoảng cách trong lời trần thuật, tạo thành lời văn đa thanh, phức điệu. Sáng tác của Nguyên Hồng chủ yếu là sự khẳng định các giá trị đã được xác định. Chẳng hạn, giá trị của người phụ nữ là đức hi sinh, của người chá là sự gương mẫu, của người nghệ sĩ là tác phẩm nghệ thuật, của người chiến sĩ cách mạng là tinh thần tranh đấu Trong ý thức nghệ thuật của Nguyên Hồng, các giá trị đó đã đạt tới sự ổn định, bền vững. Công việc của người cầm bút chủ yếu là đồng tình, ngợi ca, tin tưởng. Nguyễn Tuân có 78
  14. nhận xét: "Nguyên Hồng là người ưa tô tượng đúc chuông" cũng cùng ý đó. Nguyên Hồng không chú trọng việc thay đổi góc nhìn để tìm kiếm các giá trị mới. ông còn rút ngắn khoảng cách giữa lời tác giả - chủ thể trần thuật - và lời của đối tượng trần thuật tới mức hoà nhập tạo thành tiếng nói chung, chịu sự quy định của ý thức tác giả. mang cảm xúc và giọng điệu của tác giả, khác hẳn với lời văn tạo khoảng cách của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng hoặc Nguyễn Huy Thiệp sau này. Lời trần thuật "giãn cách" hay "xoá nhoà khoảng cách" phụ thuộc rất nhiều vào cá tính và cách nhìn đời sống của nhà văn. Các nhà văn có cái nhìn khách quan, tỉnh táo thường lựa chọn lời văn "giãn cách", tạo khoảng cách cần thiết giữa chủ thể và đối tượng trần thuật để có thể soi xét đối tượng từ nhiều góc độ, qua đó phân tích và khám phá các giá trị đời sống tinh thần xã hội. Còn với Nguyên Hồng, sứ mệnh văn chương với ông không phải là tìm tòi, phán xét, thẩm định các giá trị đời sống. Là nhà văn của tình thương, nặng về xúc cảm, ngòi bút của ông hướng vào trọng trách "bênh vực và cảm thông những người bị đau khổ, giày xéo, doạ đày", "tìm chỗ đứng trong tâm hồn mọi người và để được yêu thương lại với một mối tình nồng nàn thắm thiết mênh mông" (Ngọn lửa). Vì thế mỗi lần cầm bút là một lần Nguyên Hồng hoá thân hoà lời cùng nhân vật. Hiện tượng xoá nhoà khoảng cách trong lời trần thuật của Nguyên Hồng còn là hệ quả của các phương thức tổ chức lời văn. Luôn đặt yêu cầu phải cụ thể hoá tới mức tối đa đối tượng phản ánh và giãi bày trực tiếp cảm xúc tâm trạng, Nguyên Hồng thường say sưa bộc lộ chủ quan của mình, nói hộ nhân vật, kể cả khi viết tiểu thuyết, thể loại rất cần sự chừng mực tỉnh táo. Đối với người đọc, nhà văn cũng muốn ở bên cạnh nghĩ hộ, kể hộ, không để khoảng 79
  15. trống cần thiết cho họ suy luận, tưởng tượng, tái tạo. Vì thế, lời trần thuật của Nguyên Hồng chủ yếu là lời gián tiếp một giọng, lời tái hiện và phẩm bình thế giới khách quan theo ý đồ của tác giả, tính chất đa thanh, đối thoại mờ nhạt. Phương thức nghị luận với mục đích phân tích, triết lí, chiêm nghiệm xuất hiện ít. Phương thức biểu đạt chủ yếu là miêu tả, tự sự, biểu cảm. Mảng đặc sắc nhất là cát bụi và ánh sáng. III. MIÊU TẢ CÁT BỤI VÀ ÁNH SÁNG, MẢNG ĐẶC SẮC NHẤT TRONG LỜI TRẦN THUẬT CỦA NGUYÊN HỒNG Thành phần của lời trần thuật gồm những đoạn tự sự ứng với thành phần cốt truyện, những đoạn trữ tình ngoại đề, đoạn miêu tả chân dung nhân vật hoặc ngoại cảnh Trong các thành phần đó, mỗi tác giả, tuỳ theo sở trường và công sức sáng tạo, làm nên mảng đặc sắc riêng. Nguyễn Công Hoan thành công trong những bức biếm hoạ về bọn quan lại từ tư dinh đến chốn công đường. Ngô Tất Tố thông thạo cảnh rượu chè xôi thịt chốn hương thôn. Thạch Lam tài hoa tinh tế khi khơi gợi nét đẹp "dịu ngọt chăng tơ". Nguyễn Tuân từng làm "kinh động hồn trí" độc giả bằng những đoạn văn miêu tả cảnh gió to thác dữ Còn Nguyên Hồng rất thành công khi miêu tả cát bụi và ánh sáng. Đây là tín hiệu thẩm mĩ đặc biệt trong lời trần thuật của nhà văn. Vì sao cát bụi lại trở thành tín hiệu nghệ thuật đặc biệt dưới ngòi bút của Nguyên Hồng? Điều đó có liên quan trực tiếp đến hoàn cảnh sống nhà văn đã trải. Nguyên Hồng chính thức xuất hiện trên văn đàn với truyện ngắn Linh hồn đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bảy, số 125, ra ngày 17 tháng 10 năm 1936. Trước đó, từ 1935, tác giả đã viết được một tập gồm năm truyện ngắn. Tập truyện chưa được đăng đã bị mất bản thảo Nhưng những "đứa 80
  16. con tinh thần" non nớt ấy đã được Nguyên Hồng nâng niu mãi trong tâm tự như kỉ niệm về mối tình đầu sâu nặng với văn chương. Trong số đó, Nguyên Hồng nhớ nhất truyện Cát bụi lầm. Mấy chục năm sau, khi ôn lại bước đường viết văn, ông vẫn còn nhớ rõ tên truyện, cốt truyện, nhân vật và cảm xúc khi viết truyện. Đâu phải ngẫu nhiên cát bụi có sức ám ảnh đối với nhà văn như vậy. Chính chỗ đứng trong cuộc đời đã hằn dấu vào văn chương Nguyên Hồng ngay từ buổi đầu cầm bút. Chỗ đứng ấy trước hết là mảnh đất Nam Định, nơi những hạt bụi buồn tủi đã găm vào kí ức những ngày thơ ấu của nhà văn chuỗi dài ẩn ức, nơi Nguyên Hồng đã trải qua thân phận của "đứa trẻ côi cút cùng khổ" sớm phải lăn lóc trong cát bụi đầu đường xó chợ. Mười sáu tuổi, rời mảnh đất nhiều đắng cay chua xót ấy ra đi, theo mẹ và cha dượng đến Hải Phòng, Nguyên Hồng nhập hẳn vào cuộc sống của hạng người cùng khổ, dấn thân vào cát bụi cả về nghĩa bóng và nghĩa đen. Đến với Sáu Kho, Xi măng, Sông Cấm, Vườn - hoa - đưa - người , Nguyên Hồng đã tận mắt thấy "những kẻ quần áo rách rưới, lấm láp và khét lẹt mùi dầu mỡ, khói bụi và bùn đất". Bản thân ông và gia đình phải sống trong túp lều trông ra vũng nước đen ngầu bọt và chuồng lợn ngập ngụa phân tro. Nhiều đêm mưa dầm gió bấc, Nguyên Hồng và người cha dượng trên một chiếc phản lung lay, hai thân hình nhọc lả co quắp trong một chiếc chăn rách mướp Muốn sống mà không có việc làm để sống, có lúc Nguyên Hồng đã bị khủng bố bởi "cái chữ đen tối khủng khiếp”: chết.!. Nhưng mảnh đất Hải Phòng cần lao đã mang đến cho Nguyên Hồng con đường sống: "Tôi lớn lên dưới đôi vú mẹ đầy bụi than và vết đế quốc bóp xé"(Sức sống của ngòi bút). Nguyên Hồng đã trở thành người viết văn trong đám những người nghèo 81
  17. đói, đau khổ, lầm than. Suốt cuộc đời, dù sống ở Nam Định, Hải Phòng, Hà Nội hay Yên Thế - Nhã Nam, Nguyên Hồng vẫn là "người của đất" gắn cùng cát bụi. Các nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, Thế Sinh, Thanh Kim, Ý Nhi mỗi khi nhớ Nguyên Hồng, đều chung nỗi xúc động về sự gắn bó đặc biệt đó: "Quần ống cao ống thấp/ Vẫn đỏ quạch bụi đường" (Thanh Kim), "Râu tóc anh là cỏ rối bời/ Máu thịt anh nhuộm màu đất cát" (Thế Sinh), "Như một lão nông về quê sau chuyến đi xa/ Một kẻ lang thang suốt đời tìm đất mới" (Ý Nhi) Từ khi Nguyên Hồng về Yên Thế, hằng năm, trên con đường gập ghềnh bụi đỏ, ông vẫn đạp xe về đất văn chương Hà Thành, về với đất cảng Hải Phòng, gặp gỡ các bạn viết, trao đổi sáng tác, rồi lại về bên chõng tre nền đất ấp Cầu Đen cặm cụi viết. Đất vẫn ấm nồng dưới đôi bàn chân lấm cát bụi của Nguyên Hồng cho tới lúc ra đi, để ông "Phút cuối cùng/ Cảm nhận hết sức nặng của đất đai và cuộc sống" (Kính tặng Nguyên Hồng - Nguyễn Khoa Điềm). Hoàn cảnh sống đã tác động sâu sắc đến thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng. Vai trò của hoàn cảnh với sáng tác của nhà văn từng được các nhà nghiên cứu khẳng định: "Nếu hoàn cảnh lớn tác động đến chiều hướng và tầm cỡ chung của tư tưởng nghệ thuật nhà văn thì hoàn cảnh nhỏ đem đến cho tư tưởng ấy nội dung và hình hài cụ thể" [84 ;tr51] ; "Hoàn cảnh riêng gắn liền với cuộc đời cá nhân của mỗi người cầm bút, quy định góc nhìn riêng của mỗi nhà văn, tạo điều kiện cho nhà văn quan tâm đến vấn đề nào, cho phép nhà văn nhìn thấy cái gì của hiện thực đời sống. Chính điều này ảnh hưởng sâu sắc tới khuynh hướng tư tưởng của tác phẩm" [98;tr12]. Là một phương diện quan trọng trong thế giới nghệ thuật của nhà văn, lời văn nghệ thuật cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc hoàn cảnh nhà văn đã trải. Khi 82
  18. Nguyễn Khuyến rũ bỏ bụi bậm chốn quan trường trở về "vườn Bùi chốn cũ", trong thơ cụ đau đáu câu chữ về tiết sạch giá trong. Tú Xương bao phen long đong nơi "trường thi trận bút" mới để lại cho đời những bi khúc về Hán học buổi chợ tàn. Nguyên Hồng đã "bắt rễ" vào cát bụi lầm than để tìm dược nguồn sữa dồi dào nuôi dưỡng cả cuộc đời sáng tạo nghệ thuật. Cát bụi cần lao chính là thứ "bụi quý" bởi nó đã mang lại muôn vàn tinh thể quý giá giúp Nguyên Hồng xây cất nên những công trình nghệ thuật có dấu ấn riêng, mang hơi thở của cuộc sống lam lũ. Hai chữ cát bụi đã trở thành tín hiệu ngôn ngữ xuất hiện trong nhiều tác phẩm tự sự, từ truyện ngắn (Đây bóng tối, Hàng cơm đêm, Bảy Hựu Nhà bố Nấu, Hai mẹ con, Những mầm sống, Mợ Du, Bố con, Lão Đen, Người mẹ không còn, Một trưa nắng, Trước xác chết) đến kí (Những ngày thơ ấu, Sức sống của ngòi bút, Bước đường viết văn, Những nhân vật ấy đã sống với tôi) và tiểu thuyết (Bỉ vỏ, Quán Nải, Ngọn lửa, Sóng gầm, Thời kì đen tối, Cơn bão đã đến, Khi đứa con ra đời). Trong các tác phẩm trên, có tới 71 lượt hai chữ cát bụi, khi thì đứng riêng, khi kết hợp với các từ ngữ khác như những làn bụi li ti hột bụi, tảng bụi, cơn lốc bụi than, luồng bụi than, bụi xi măng, cát bụi tầm, một trời than bụi, cát bụi nghi ngút, cát bụi mù mịt, cát bụi nồng nực, bụi than quằn quại, bụi cuốn lên, bụi than bết với mồ hôi, bụi than bụt gạch táp xuống, v.v Xuất hiện trong các đoạn văn, câu văn miêu tả cát bụi là các từ ngữ chỉ đơn vị đo lường ở nhiều mức độ Có những từ ngữ chỉ mức độ lớn. nồng độ cao, trạng thái nặng nề (tảng, luồng, một trời, mù mịt, lầm lên, nghi ngút ) hoặc các từ ngữ chỉ mức độ nhỏ, sắc thái tươi sáng (hột, làn, li ti, vụn vàng vụn bạc ). Nếu không có nguồn từ ngữ về 83
  19. cát bụi đa dạng, phong phú và sử dụng chính xác, linh hoạt như thế, Nguyên Hồng không thể tạo được hình tượng cát bụi đầy ám ảnh trên các trang viết của ông. Từ cấp độ ngôn ngữ, tác giả đã tạo nên hình tượng cát bụi với nhiều tầng ý nghĩa, có giá trị về nhận thức, giá trị tư tưởng tình cảm và giá trị thẩm mĩ đặc biệt. Trong toàn bộ số lần miêu tả cát bụi, không trường hợp nào Nguyên Hồng sử dụng bút pháp ước lệ của thơ xưa như "Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia" (Nguyễn Du). Nguyên Hồng sử dụng chủ yếu bút pháp tả thực. Từ ngữ tả cát bụi xuất hiện nhiều nhất trong các đoạn văn miêu tả cuộc sống của những người lao động lam lũ, làm hiện lên không gian cát bụi, nơi làm việc, nơi sinh sống của họ. Kết hợp cát bụi với các từ rác rưởi, bẩn thỉu, hôi hám nhà văn đã cụ thể hoá hình ảnh các xóm chợ tồi tàn ngoi ngóp trong than, trong bụi, trên những bãi rác sỉ than và những ao tầng. Ở đó, những đứa trẻ nghèo sinh ra, lớn lên, chơi đùa trong cát bụi nồng nực: "Tiếng trống cái vẫn khua inh ỏi. Trên bục rạp hát, trẻ con cứ sấn sổ, cướp lấy cái dùi. Chúng nó chen lấn nhau, chửi nhau và kêu thét ầm ầm. Thêm không biết bao nhiêu đứa tuồn lên đó, đua nhau chạy nhảy. Cái cột gióng rung chuyển, cát bụi mù mịt" (Người mẹ không con). Nơi ăn chốn ở của chúng và cha mẹ ngập trong bụi: "Trưa hè, dưới nắng lửa, vẫn những làn bụi lầm lên chập chờn " (Nhà bố Nấu), "những làn bụi lầm lên như vôi" (Hàng cơm đêm) Nơi làm việc của những người thợ chỗ nào cũng ngập trong bụi: "Bụi than và bụi xi măng từ nhà điện và lò nung tạt sang lại đen sầm cả trời đất. Mọi người quay cả ra ngoài sông, kẻ nhắm mắt, người chúi cả vào nón. Có người vừa ho rũ, vừa chửi rủa trời, rủa cái thân mình", "Những người đun xe ngồi phệt xuống mé 84
  20. tầng máy, vừa run vì gió rét, vừa thở dốc và ho rũ rượi vì nhọc, vì bụi"(Sóng gầm) Cát bụi đã trở thành yếu tố không thể thiếu khi tác giả tả Hải Phòng vất vả và đau thương:"Phía trời đằng khu Nhà máy Xi măng và khu Sáu Kho, khói bụi toả lên như một toà thành có hoả trận" (Sóng gầm) Cát bụi đã tạo nên bầu khí quyển Hải Phòng cần lao trên trang viết của Nguyên Hồng. Người ta đã tìm thấy nhiều từ ngữ nói về nỗi vất vả cơ cực của người lao động trong văn chương : "mồ hôi thánh thót " (Ca dao), "Đòn gánh tre chín rạn hai vai" (Nguyễn Du), "Lặn lội thân cò" (Tú Xương) "Bát cơm chan đầy nước mắt" (Nguyễn Đình Thi) nhưng chưa có ai chọn cát bụi như Nguyên Hồng. Dưới ngòi bút của ông, hai chữ cát bụi có khả năng kết hợp rất rộng, nhờ đó, hình tượng cát bụi cũng được bồi đắp thêm nhiều tầng ý nghĩa. Cát bụi chỉ sắc màu lao khổ trong các bức "kí hoạ" đám đông lam lũ. Khói bụi, than bụi là cái nền, trên đó là những người thợ quần áo đầy than bụi. Cát bụi làm thành những hình hài cùng khổ. Một người con gái làm trong lò nung "đầu tóc trắng bụi, mặt mày như người bạch tạng, quần áo không còn chỗ nào lành" [27;tr137]. Giờ nghỉ giữa tầm của thợ lò: "Kẻ uống nước, kẻ hút thuốc, mặt mày ai nấy đều đỏ bừng, mồ hôi và than bụi, đất cát bê bết cả đầu tóc và quần áo" [20;tr358]. Khó có thể nhận ra từng người bởi "chỗ làm chỉ còn là đám bụi lửa lúc nhúc những hình thù và sự huyên náo mà ai nấy đều sầm cả mặt mũi, lộng cả óc" [20;tr115]. Người khoẻ đi tầm, vào ca, đứng lò, ngập trong bụi đã đành. Người già con trẻ ở nhà lăn lộn bòn củi, mót than cũng lầm trong bụi đất, mặt mày lấm lem nhem nhuốc. Giữa cát bụi, họ làm việc đến lao lực. Trong tác phẩm của Nguyên Hồng, mỗi nhân vật cùng khổ là một tấm thân cát bụi với cả nghĩa bóng và nghĩa đen. Dù ở 85
  21. tuổi nào, ở đâu, làm gì thì cát bụi cũng gắn với họ như tấm thẻ căn cước, tấm giấy thông hành của số phận cần lao. Trong đêm đen của xã hội cũ, cuộc đời của những người cùng khổ là cuộc hành trình cát bụi, sinh tồn và ra đi trong cát bụi. Sự hoá thân của họ cũng bi thảm không kém gì cảnh Ca-di- mô-dô "tan thành bụi" trong Nhà thờ Đức Bà Pari của Vích-to Huy-gô. Mợ Du chết trong gian nhà ở thuê lạnh lẽo, xung quanh chỉ có "những mảng nắng ở ngoài trời và loạn xạ những cát bụi trong cái khoảng mành che cho người chết" (Mợ Du). Bảy Hựu "thở hơi cuối cùng" giữa "bụi đường, khói thuốc" (Bảy Hựu). Năm Ất Dậu, người chết như ngả rạ làm cho "mùi hôi thối nồng nặc cũng bốc lên cùng với bụi" (Địa ngục). Đứa con của Gái Đen ra đời vào một đêm "vùng trời ngoài Sáu Kho và khu Xi măng càng rừng rực, ngun ngút những quầng sáng và khói bụt". Cũng lúc đó, người mẹ khốn khổ của nó qua đời (Cơn bão đến). Khác với Thạch Lam "tả người nghèo mà không muốn cho người đọc thấy những mảnh rách, mụn vá trên quần áo họ", Nguyên Hồng tả người nghèo với tất cả nỗi khổ cực, lam lũ như cuộc đời thực của họ, cả khi sống và khi chết. Viết về họ, tất nhiên, Nguyên Hồng còn tìm đến với những chất liệu ngôn từ khác như mồ hôi, nước mắt, nhà tù, nhà ổ chuột nhưng từ ngữ về cát bụi vẫn là yếu tố quan trọng nhất tạo nên sắc màu lao khổ trên trang viết của nhà văn Cát bụi đã giúp Nguyên Hồng tạo nên những nhân vật nghèo khổ của riêng ông, không phải là những bóng dáng lặng lẽ cam chịu nơi phố huyện xa vắng, không phải là những người nông dân ngắc ngoải sau luỹ tre làng, mà là những phu phen, thợ thuyền, những người buôn thúng bán bưng lam lũ nơi bến tàu, bãi kho, hầm lò, xưởng máy hỗn tạp. Trên hành trình lao khổ, mỗi nhân vật của Nguyên Hồng là 86
  22. tấm thân cát bụi mang vác khổ đau, không phải bị Đức Chúa Trời trừng phạt mà do bóc lột, bất công, bạo ngược đầy đoạ họ. Cảm quan tôn giáo có thể chi phối phần nào ngòi bút Nguyên Hồng khi ông hướng vào cát bụi, nhưng hoàn toàn không tham gia vào việc xử lí chất liệu nghệ thuật đặc biệt này. Nguyên Hồng đã miêu tả cát bụi bằng cái nhìn của một nhà văn hiện thực. Trong truyện ngắn Đây bóng tối, nhà văn còn dùng chất liệu cát bụi để tạo nên một hình ảnh khái quát về số phận của người lao động cùng khổ: "như số kiếp của con ngựa già vươn cổ, xoải chân, bụng đói lép kẹp hóp lại, đem hết sức bình sinh kéo từng đoàn xe chồng chất những cái nặng nề ghê gớm của Thiếu thốn, Đói rét, Đau ốm, và Khổ ải trên một con đường ( ) con đường quanh co cát bụi lầm". Nguyên Hồng đã mang đến cho cát bụi một ý nghĩa biểu tượng vượt lên trên nghĩa thực vốn có của nó. Dưới ngòi bút của ông, lời văn tả cát bụi còn chứa đựng những giá trị tinh thần cao quý. Nguyên Hồng đã tìm thấy "những ngọc ngà trắng trong giữa bụi bậm đời thường" (Với Nguyên Hồng - Lê Văn Vị) Cát bụi đồng nghĩa với vất vả, đau thương, lao khổ nhưng cát bụi còn là sức mạnh lao động, là mầm sống mạnh mẽ được hiện lên qua bút pháp lãng mạn của nhà văn. Hai chữ cát bụi đã âm vang trong bản tụng ca cuộc sống Những mầm sống: "Một sự huyên náo như không bao giờ tắt. Tiếng guốc khua vang trên bờ hè, những lớp sóng cười nói trào lên cuồn cuộn, rồi tràn lan, rồi tung cao Bánh xe bò chuyển rầm rầm, lăn loang loáng những vòng lửa trong nắng xuân chói loà Những xẻng cuốc và ván gỗ đẩy trong xe bắn ra những trận như mưa rào rào Và những tà áo, những nón lá, những 87
  23. chóp mũ trắng thở ra những tàn bụi li ti. Một sự sống mãnh liệt quá, đè lên, vượt qua và cuốn theo tất cả những sự uỷ mị, những cái tối tăm, những cái gì có vẻ chậm chạp"; " cây cỏ rung lên trước gió, mưa rào rào phấn vàng, phấn bạc và tung ra khắp bốn phương trời những hột bụi nảy nở của muôn vàn bầu nhị". Đúng là Nguyên Hồng đã khai thác đúc luyện lấy chất thơ từ trong bùn đất sỏi đá than bụi. Nhờ "đãi cát tìm vàng", nhà văn đã tìm thấy cái đẹp trong cuộc sống cần lao cơ cực. Nhiều nhân vật của Nguyên Hồng, trong những cảnh ngộ bi đát nhất cũng đã tìm thấy từ cát bụi sức mạnh tinh thần để vượt qua hoàn cảnh nghiệt ngã. Khi Năm Sài Gòn bị bắt, chỗ dựa duy nhất của Tám Bính không còn nữa. Đứa con trong bụng lại sắp đến ngày sinh. Tiền "bồi" của bọn đàn em Năm Sài Gòn đưa cho bình ghê rợn như những lưỡi gươm sắc vấy máu". Vì vậy, mặc dù đã cố tìm cách lần hồi buôn bán kiếm sống, nhưng nghĩ đến cảnh cùng cực của mình, không khỏi có lúc Bính tuyệt vọng. Bỗng một buổi tan chợ, Bính được nhìn thấy: "Trên bờ hè, dưới rặng xoan lao xao phấp phới, phu phen thợ thuyền đã về tầm. Những chiếc mũ dạ lấm láp hắt ánh sáng và bụí. Những chiếc nón lá vàng rực lên. Những lồng ngực bóng nhẫy phơi ra giữa những tà áo vải thô thuộm xanh. Những ống quần láng cộc nổi gọn trên những bắp chân tròn trĩnh bám đầy mạt than và cát lấm tấm như vụn bạc. Những bao gạo lấm láp quấn đằng trước theo nhịp chân hất ra những làn bụi nhảy múa"(Bỉ vỏ). Cát bụi ánh lên vẻ đẹp cuộc sống lành mạnh, lương thiện Bính từng khao khát, giúp Bính hi vọng vượt qua tình cảnh cùng quẫn. Thế giới kỉ niệm của bé Hồng cũng lấp lánh "bụi vàng, bụi bạc". Chúng đã đến với Hồng như một sự cứu rỗi đúng lúc Hồng không còn đủ sức chịu đựng hình phạt ghê gớm của ông thầy đối với một 88
  24. đứa trẻ thân phận hèn kém. Trốn khỏi góc tường hôi hám đã phải quỳ suốt năm buổi học, trong góc sân trường đầy hoa nắng, phút chốc, em say sưa ngắm "muôn vàn cành hoa cánh bướm phấp phới trong đám bụi vàng bụi bạc và trong ánh sáng ngời của pha lê chói điện" (Những ngày thơ ấu). ánh sáng cát bụi đã biến thành đôi hài kì diệu đưa em vào một thế giới đượm sắc màu cổ tích, xoa dịu nỗi đau đớn nhục nhã em vừa phải trải qua. Đó chính là giấc mơ đẹp đối với cuộc đời trẻ thơ bất hạnh. Cát bụi còn làm nổi bật nghị lực và sức chịu đựng gian khổ của những con người nhà văn yêu thương ngưỡng mộ. Ví dụ như trường hợp của mẹ La. Mỗi khi đội than mẹ phải chịu đựng bụi than quyện mồ hôi thấm xót mắt. Nhiều lúc qua chiếc cầu rùng rình, dưới sông đầy những cọc nhọn hoắt, người đi sau cứ giục, mẹ "cứng mắt ra chịu xót, đi mò như người bịt mắt đi dây làm xiếc"(Sóng gầm). Bụng đói ruột thắt, bụi than thấm xót da thịt, cái chết rình rập Nhưng tình yêu con đã cho mẹ sức mạnh để chịu đựng và vượt qua tất cả. Trong cát bụi, đức hi sinh và tình thương con của người mẹ nghèo khổ càng ngời lên, sáng đẹp. Mượn lời Nguyễn Tuân, có thể nói, Nguyên Hồng đã "tô tượng, đúc chuông" bằng cát bụi, tạo nên những hình tượng đẹp về con người cần lao, con người tranh đấu, trong đó có những bức chân dung xứng đáng được lưu giữ trong "Viện bảo tàng con người Việt Nam". Hai chữ cát bụi vốn chỉ các yếu tố vật chất tự nhiên, Nguyên Hồng đã thổi hồn cho chữ, từ đó, nên nó đã nói hộ nhà văn bao tình cảm, suy nghĩ về con người và cuộc sống. Cát bụi giống như một tế bào "mã hoá" kiểu gen nghệ thuật của Nguyên Hồng, chứa đựng trong nó đau thương và sức sống, xót thương và tin tưởng, hiện thực và lãng mạn, ánh sáng và bóng tối, cụ thể mà 89
  25. khái quát, nhỏ bé mà lớn lao Trong sách Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, cát bụi mang ý nghĩa: "Bụi là biểu tượng của sức mạnh sáng thể" [47; tr110]; "ngược lại, đôi khi cát bụi là dấu hiệu của sự chết" [47;tr110]. Có thể nhận thấy cát bụi trong sáng tác của Nguyên Hồng đã góp phần làm đầy lên và mở rộng các lớp ý nghĩa biểu tượng trên. Đến với Cát bụi chân ai của Tô Hoài người ta biết được bao nhiêu chuyện đời, chuyện văn, biết cả cái "khoái tỉ" của Nguyên Hồng nằm ngay xuống đất hưởng cái thú tẩm quất. Đến với cát bụi trong văn Nguyên Hồng, người đọc không khỏi bất ngờ về những khám phá, miêu tả sâu sắc của nhà văn. Cát bụi là vẻ đẹp độc đáo Nguyên Hồng đã tìm kiếm được trong cuộc đời sáng tạo nghệ thuật, giúp cho sáng tác của ông vừa nồng nàn hơi thở của đời sống cần lao, vừa dồi dào cảm hứng lãng mạn. Cát bụi thiên nhiên sinh ra từ đất. Cát bụi trong văn Nguyên Hồng được sinh ra từ "Người của đất". Nhà nghiên cứu Đoàn Trọng Huy đã suy ngẫm thật sâu sắc về tác giả của những lời văn miêu tả cát bụi vừa phân tích ở trên: "Nguyên Hồng hoà với đồng ruộng, bến bãi, núi rừng, tâm hồn ông mang bản chất mộc mạc như đất đai, là con người của tự nhiên. Dễ nghĩ rằng, đất mịn màng mềm mại. Nhưng đất cũng thô nháp, cứng rắn chứ. Đất, ấy là cát mịn, là bùn mềm, cũng là tường thành, chiến luỹ. Đất hiền lành và dữ dội, xét cho cùng, đất, đá cùng một bản chất. Đất có thể nặn thành bụt, xây nên lâu đài ngọn tháp đồ sộ trường tồn với lịch sử. Đúng thế, Nguyên Hồng là "người của đất", là biểu tượng của sức mạnh hồn nhiên và mãnh liệt" [64;tr10]. Nguyên Hồng cũng để lại nhiều trang văn đặc sắc miêu tả vẻ đẹp của ánh sáng. Trong các sáng tác, các nhà văn thường dùng 90
  26. bút danh khác với tên tục (do cha mẹ đặt). Thứ Lễ là Thế Lữ, Lê Ta; Nguyễn Tuân là Nguyễn, Ngột Lôi Quật, Thanh Hà, Nhất Lang, Tuấn Thừa Sắc; Ngô Tất Tố là Thôn Dân, Thục Điểu, Lộc Hà, Phó Chi, Tuệ Nhỡn Trường hợp dùng tên khai sinh làm bút danh suốt một đời văn như Nguyên Hồng không nhiều. Bằng lòng với tên mình "cái tên làm bút danh, cái tên mà tôi nhất định không đổi, cứ giữ y nguyên của bố mẹ đặt cho" có phải bản tính ông vốn giản dị, hay còn vì nhà văn đã tìm thấy trong đó những ý nghĩa mà không một bút danh nào đắc ý hơn? Xét từ con người đến văn chương Nguyên Hồng, quả thực không có tên gọi và bút danh nào hay hơn thế. Hai chữ Nguyên Hồng gợi liên tưởng tới hình ảnh "một trái tim nguyên vẹn khối hồng" của nhà văn (Với Nguyên Hồng - Thế Sinh). Nguyên Hồng cũng là màu của lửa, của sự sống, của ánh sáng, của bình minh. Bút danh đó rất phù hợp với con người và phong cách nhà văn, một ngòi bút luôn hướng về ánh sáng, "Tôi sẽ chỉ có ánh sáng, và chính tôi là ánh sáng" (Nguyên Hồng). Những trang miêu tả ánh sáng là những trang văn đẹp nhất, say đắm nhất của ông. Trước hết là vẻ đẹp của ánh sáng thiên nhiên: ánh trăng và ánh nắng. Nguyên Hồng không viết nhiều về trăng nhưng lại có được những trang văn đẹp, giàu chất thơ khiến người ta nhớ mãi. Số. lần trăng xuất hiện trong Bỉ vỏ là 4 (trên tổng số 25 lượt tả thiên nhiên), trong Những ngày thơ ấu là 2. Tuyển tập Nguyên Hồng, tập I, có 28 truyện, trăng xuất hiện 3 lần trong 2 truyện (Mợ Du, Láng). Tác giả thường chỉ tả trăng đan xen trong bức tranh toàn cảnh hoặc tâm trạng nhân vật. Điều đáng lưu ý là ông đã có những đoạn văn viết về trăng thật ấn tượng. Nhà văn thường dùng các cụm danh từ có tính từ làm định ngữ để gợi lên độ sáng hoặc hình dạng của trăng: ánh trăng ngọc, vàng trăng 91
  27. trong biếc, ánh trăng vằng vặc, vành trăng lá lan Kết hợp với cụm từ tả trăng là những từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm và hài hoà thanh điệu khiến lời văn đẫm cảm xúc, giàu chất nhạc, chất thơ. Viết về trăng, bút pháp trữ tình lãng mạn của Nguyên Hồng và chất thi sĩ trong tâm hồn ông có dịp bộc lộ và gắn kết, tạo nên những trang văn da diết, xao xuyến lòng người. Có lúc văn Nguyên Hồng "vụng về, cẩu thả" song ở những đoạn tả trăng, ngòi bút ông thật là tinh tế. Sự hoà hợp giữa ngôn từ và cảm xúc, giữa văn . và nhạc, giữa cảnh và tình đã đạt đến độ nhuần nhuyễn trong đoạn văn đặc sắc sau: "Gió càng mạnh, khí lạnh đêm khuya càng thấm. Những mảnh lá chạy xào xạc trên mặt đường, chạy cả vào lòng tôi cùng với những âm thanh mơ hờ như của tiếng chim rủ rỉ đâu đây. ánh điện dần phơn phơn xám. Soi sáng cho cảnh vật vắng lặng chìm đắm lúc bấy giờ là hơi sương bàng bạc, hơi sương sữa một đêm trăng nặng mây. Trong lòng tôi, tiếng lá lao xao như không bao giờ tắt. Giá buốt quá. Trong lòng tôi xác lá vụn mãi ra, nhiều bao nhiêu lại biến nhanh đi bấy nhiêu. Tôi đi, mê man, với hình ảnh một đám ma tẻ lạnh không kèn không trống" (Những ngày thơ ấu). Đoạn văn có sự hài thanh và hoà nghĩa giữa các từ ngữ biểu thị trực tiếp trạng thái của cảnh vật và tâm trạng, chứa các âm tiết có trường độ dài: gió mạnh, khí lạnh đêm khuya, mảnh lá xào xạc, âm thanh mơ hồ, cảnh vật vắng lặng, hơi sương bàng bạc, đêm trăng nặng mây, xác tá vụn mãi ra, đám ma tẻ lạnh khiến cho khung cảnh vắng lặng và nỗi niềm cô quạnh của cậu bé Hồng trong đêm Nô- en cứ theo dòng văn mà miên man, lan toả. Từ chất liệu ngôn từ, trăng đã trở thành hình ảnh đẹp trên trang viết của Nguyên Hồng. Trăng còn thấm đẫm cảm xúc, tâm trạng nhan vật Trong chuôi ngày cay đắng của bé Hồng cũng có 92
  28. những kỉ niệm êm đềm thơ mộng đã đi vào thế giới tâm hồn trong sáng của em. Mỗi kỉ niệm như một niềm an ủi cho tuổi thơ bất hạnh. Một kỉ niệm đẹp là ánh trăng trong giấc mơ tươi sáng mà "những gì tốt đẹp của một trẻ thơ đều hoàn toàn được nảy nở trong đó". Có đêm, bị mắng nhiếc tàn tệ "Hồng uất ức thầm thì khóc đến một hai giờ", rồi mệt quá, thiếp đi. Em đã đến với giấc mơ: "Dưới ánh trăng bàng bạc bỗng hiện ra một bóng người mảnh dẻ, nhẹ bước trên những cành xoan tây mờ mờ xao động suốt dải đường nhựa lấp loáng ( ). Tôi thoáng thấy hai con mắt long lanh trên gương mặt trắng mát chiếu lên nhìn tôi. Trước chiều gió, những sợi tóc bay xoã ra như tơ, phấp phới dưới vành trăng ngọc" (Những ngày thơ ấu). ánh trăng man mác và bóng dáng người bạn nhỏ đã mang lại cho Hóng cảm giác êm đềm, em "chẳng còn nghĩ đến cảnh đời đầy đoạ nữa". Xiết bao khao khát những điều tốt đẹp, hình ảnh "ánh trăng ngọc" dù chỉ thoáng hiện trong mơ cũng trở thành kỉ niệm ngọt ngào còn xao xuyến mãi trong em. Trăng trong truyện ngắn Mợ Du, cũng nồng nàn, da diết như tâm trạng của người mẹ khi về gặp Dũng: "ánh trăng vằng vặc đã gội tràn trề xuống hai gương mặt đầm đìa nước mắt áp lên nhau và hai mái tóc ngắn dài trộn lẫn với nhau. Hương hoa cau và hoa lí sáng và ấm đã xao xuyến lên bởi những tiếng khóc dồn dập vỡ lở ở một góc vườn rì rì tiếng dế". Đoạn văn tái hiện một khung cảnh rất đỗi xót thương nhưng cũng thật huyền diệu, bay bổng, lãng mạn. Cùng với "hương hoa cau và hoa lí", ánh trăng vừa đùm bọc, ôm ấp, chở che, vừa tô điểm cho cuộc gặp gỡ của hai mẹ con Dũng. Trong đoạn văn miêu tả trên, vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng đã lan toả sang cảnh vật khiến không gian ngập tràn hương thơm, ánh sáng; và vẻ đẹp "bàng bạc của đêm 93
  29. thu đầy trăng" đã làm cho hình ảnh quấn quýt của hai mẹ con Dũng trở nên huyền ảo, xúc động hơn. Tình người đã làm đẹp thiên nhiên và vẻ đẹp thiên nhiên càng tô đậm tình người. Cái đẹp đã được tạo nên bởi sự hoà hợp tuyệt vời giữa cảnh và tình, giữa ánh trăng (vẻ đẹp vĩnh cửu của thiên nhiên) và tình mẫu tử (vẻ đẹp muôn đời thiêng liêng trong đời sống tinh thần nhân loại). Đó chính là "bài thơ cuộc đời" Nguyên Hồng đã viết nên bằng trái tim nhạy cảm và ngòi bút chan chứa yêu thương. Vẻ đẹp ấy dễ gì đi vào quên lãng, cho dù thời gian có là thử thách khắt khe. Để cho hai số phận bất hạnh tìm đến với nhau, trong Chí Phèo, Nam Cao đã khéo léo tạo nên một không gian rười rượi những trăng, nhờ trăng mà đôi lứa phát hiện ra nhau, hai sinh thể được làm người. Cực tả nỗi cô đơn, trong Lời kĩ nữ, Xuân Diệu mượn hình ảnh "trăng ngà lạnh buốt". Nguyên Hồng ít tả những đêm trăng tình ái rạo rực bâng khuâng, hoặc trăng lạnh trăng suông giá buốt lòng người. Trên trang viết của nhà văn, ánh trăng thường mang vẻ đẹp tinh khiết, bao la, lan toả, hoà quyện với các yếu tố thiên nhiên khác để tạo nên khoảng không gian ngập tràn linh khí, nâng đỡ những con người bất hạnh đang rơi vào tình trạng bi kịch. Lòng xót thương "Kẻ khó" đã thôi thúc "ông Chúa Hồng" tìm mọi cách sẻ chia, an ủi họ. Và trăng, ánh sáng dịu dàng của thiên nhiên cũng là một trong rất nhiều "liệu pháp" xoa dịu nỗi đau tinh thần của nhân vật. Vì thế, những khi nhân vật "chịu nạn" của ông chấp chới giữa hạnh phúc và đau khổ, giữa sự sống và cái chết trăng đã kịp thời xuất hiện, chứng giám, đồng cảm, chở che, an ủi. Cái đêm Gái Đen trở dạ đau đớn, phải đưa đến bà đỡ, lúc đầu trời rất tối, mọi người khiêng Gái phải bấm đèn mới thấy đường đi. Khi trăng đã lên 94
  30. cao, xa xa vùng trời Sáu Kho và khu Xi măng càng rừng rực, thoảng đưa trong gió hương hoa đêm và cả mùi lúa chín, mùi rơm rạ của mấy thửa ruộng gặt sớm. Không gian vọng về tiếng máy và tiếng sóng ngoài khơi. Đó là những phút cuối cùng của Gái. Vầng trăng xuất hiện lặng lẽ trong đêm, giúp cho Gái có thể nhận biết lần cuối quang cảnh, hương vị quen thuộc trên mảnh đất máu thịt mà Gái sắp phải chia lìa vĩnh viễn. ánh trăng cùng tiếng máy, tiếng sóng, hương lúa, hương hoa; cùng mẹ La, mẹ Gái, cụ Xim đã chia xẻ nỗi đau của Gái, tiễn đưa Gái đến phút cuối cùng. Nếu không có trăng, Gái phải ra đi trong bóng đêm tối tăm, lạnh lẽo thì còn xót xa biết chừng nào. Cũng tương tự như vậy, "vành trăng lá lan" cùng với "hương hoa càng như sương toả" đã tạo nên tấm thảm không gian dệt bằng hương thơm và ánh sáng đưa Huệ Chi trở về quê mẹ trong tâm tưởng Sử dụng chủ yếu bút pháp lãng mạn, những đoạn văn miêu tả ánh trăng của Nguyên Hồng không chỉ tạo nên những bức tranh phong cảnh thơ mộng mà còn là cách nhà văn xoa dịu "vết thương lòng" cho những con người bất hạnh. ánh trăng là vẻ đẹp thiên nhiên, ánh trăng cũng là nguồn sáng yêu thương toả ra từ trái tim nhân đạo của nhà văn. Trong tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm của Nguyên Hồng, tình yêu say đắm nồng nàn nhất với thiên nhiên là nắng. Nếu xét nhu cầu tinh thần của con người (nhất là với người nghệ sĩ), có thể nói đến những nỗi khát. Nguyễn Tuân khát những chuyến đi, "đi là hạnh phúc", xê dịch "làm thay đổi thực đơn cho cảm giác". Xuân Diệu khát tình yêu "Uống xong lại khát là tình", đỉnh điểm của niềm khát khao giao cảm mãnh liệt với đời. Nguyễn Bính khát hương quê, hồn quê, bởi "Thầy bu mình với chúng mình chân quê", đó là "tấm chân tình" của nhà thơ đất Thiện Vịnh. 95
  31. Còn Nguyên Hồng? Một tâm hồn khát nắng! Ở đâu, lúc nào tâm hồn Nguyên Hồng cũng quấn quýt với nắng. Có cậu bé Hồng bị phạt đòn đến tróc từng mảng da thịt vẫn ngẩn người quên đau khi nhìn thấy "một thác nắng ở trên trời rào xuống". Có người thanh niên Nguyên Hồng chập chững bước vào nghề cầm bút được gặp "ngôi sao" Thế Lữ, lòng dạt dào sung sướng, ánh mắt nhìn đâu cũng thấy nắng vàng rực rỡ. Nắng như một "chất dính" bắt nhạy với tâm hồn nhà văn. Nắng là vầng hào quang xán lạn Nguyên Hồng luôn dõi theo, hướng tới, luôn mở rộng cánh cửa tâm hồn để luồng sáng của nó chiếu rọi tận tâm can mới thoả, đúng như lời nhận xét "Nguyên Hồng như có cái bản năng tự nhiên của cỏ cây luôn hướng về ánh sáng. Một tâm hồn đầy ánh sáng, đáy ánh nắng"(Nguyễn Đăng Mạnh). Cho đến chỗ yên nghỉ vĩnh viễn Nguyên Hồng chọn nơi Ghềnh Đá, ấp Cầu Đen, có thế "đầu gối sơn, chân đạp thuỷ" cũng hướng về phía mặt trời đỏ rực cuối trời xa. Ở nơi đó, "Mặt trời đỏ không thể nào lặn xuống/ Ngày chùng chình chẳng nỡ trôi qua" (Với Nguyên Hồng - Thế Sinh). Có thể hình dung con người ấy, tâm hồn ấy chưa bao giờ thôi khát nắng. Hẳn ông muốn khi còn sống hay lúc thân xác đã về với đất, cũng không bao giờ phải xa rời ánh mặt trời rực rỡ chốn dương gian. Từ cảm xúc tự nhiên nắng đã đi vào cảm quan nghệ thuật của Nguyên Hồng, giúp ông có được những trang văn tả nắng đặc sắc vào bậc nhất trong văn học nước ta. Khi Nguyên Hồng tả nắng, một lượng từ ngữ phong phú đã được nhà văn hào phóng tung ra trên trang viết: nắng vàng tươi, nắng rực rỡ, nắng cuồn cuộn, nắng vàng ngời, nắng bừng lên, nắng mênh mang, nắng chập chờn, nắng chói loà, nắng sáng ngời, nắng vàng điệp ánh vàng chói lọi, nắng mới tuôn vào từng 96
  32. thác Vốn từ ngữ giàu có đã giúp Nguyên Hồng viết thoả thuê, say mê về nắng. ông không chỉ tả nắng bàng đơn.vị câu mà còn mở rộng tới đoạn văn và phức đoạn. Trong tác phẩm Cuộc sông, Những mầm sống, Bước đường viết văn có hàng trang tả nắng. Cảm hứng về nắng của Nguyên Hồng được hiện thực hoá trên lời văn nhờ phương tiện ngôn từ phong phú và đã tạo thành hình tượng nghệ thuật đặc sắc, hấp dẫn. Nguyên Hồng tả các trạng thái của nắng bằng nhiều từ ngữ chỉ sắc thái khác nhau. Có ánh nắng "đã héo hẳn đi" (Cái xích cũ), có ánh nắng nhạt, vàng hoe như mạ úa (Người mẹ không con), có nắng hấp hối (Hàng cơm đêm), nhưng hấp dẫn nhất là vẻ đẹp của thác nắng rực rỡ từ bầu trời cao rộng cuồn cuộn chảy xuống rồi toả ra mênh mang tất cả cảnh vật, con người đều bừng lên rực rỡ trong ánh nắng tràn đầy sinh khí: "Từ trên cao giội xuống, nắng tha hồ tràn lan, nắng muôn màu đằm thắm"(Cuộc sống). "ánh nắng mênh mông tràn ngập. Đường nhựa sáng loá như lát bằng vàng điệp. Lá cây rung lên muôn vàn tia hào quang bay phấp phới. Các mái ngói, các ống máng, các cửa kính, các biển hàng lấp lánh những ánh ngời"(Những mầm sống). Bút pháp lãng mạn của nhà văn đã chụp lấp sắc độ cực điểm của nắng và toàn bộ khung cảnh, miêu tả nó trong trạng thái say đắm mãnh liệt. Ở những đoạn văn như thế, vẻ đẹp nồng nàn của nắng đã cộng hưởng trọn vẹn với trạng thái nồng nhiệt của nhà văn, tạo nên khúc ca sôi nổi về cuộc sống tràn đầy ánh sáng. Nguyên Hồng không chỉ thấy trạng thái, sắc màu của nắng, nhà văn còn làm sống dậy nhạc nắng, hương nắng và hồn nắng. Nhiều người đã biết đến "khúc nhạc thơm" trong thơ lãng mạn, "gió thơm khoai sắn" trong thơ Tố Hữu, nhưng có lẽ còn ít ai 97
  33. biết đến "nắng thơm" của Nguyên Hồng. Ngòi bút của ông đạt đến độ đắm say, bay bổng trong câu văn tả hương vị nắng: "Phấn nắng vàng ngời toả bồng bềnh, phấn nắng trước còn thơm man mác sau nồng nàn cuồn cuộn chảy vào cảm giác tôi " (Cuộc sống). Có cảm tưởng như nhà văn không chỉ nhìn nắng, ngắm nắng hay tắm nắng mà là uống nắng, cách tết nhất làm nguôi ngoai cơn khát. "Thức nhọn mọi giác quan" để cảm nhận nắng, Nguyên Hồng còn nghe thấy nhạc nắng: "nắng phấp phới reo" (Cuộc sống), "Ngoài sân nắng đương reo" (Bố con lão Đen). Nắng được nhân hoá, khi vui như con trẻ, khi nồng nàn như người đương thì sung sức. Ngòi bút Nguyên Hồng tỏ ra say sưa nhất khi tả nắng rực rỡ, chói chang trên đất cảng Hải Phòng. Hiếm thấy ở đâu ngôn từ về nắng lại được sử dụng phong phú, hấp dẫn và hình ảnh nắng lại mang vẻ đẹp trẻ trung đến thế. "Sáu Kho và nắng và gió ( ). Từ trên cao giội xuống, nắng tha hồ tràn lan, nắng muôn màu đằm thắm. Nắng sáng ngời trên những mái tôn, nắng loang loáng chạy trong những cành lá và đuổi theo những mặt kính kền và đồng của xe cộ. Nắng quấn quýt những da thịt dầu dãi, nắng pha trộn với mây những vàng rực, hồng tươi, tím biếc, trắng chói lọi và xanh trong tươi làm nền cho các tiếng rộn ràng và nồng nàn của nắng vùng vẫy"(Cuộc sống). Nắng trong văn Nguyên Hồng là "một thứ nắng có sức sống, có linh hồn và cũng hoạt động sôi nổi như con người" [81; tr149]. Với tình yêu đất nước nồng nàn, Nguyên Hồng đã gọi nắng của mọi miền đất nước về toả sáng trên trang văn. Nắng bờ bãi sông Hồng vào những ngày cuối đông: "Bờ bãi sông Hồng vốn đã đẹp, năm ấy thuận thời tiết lại càng đẹp, cả những hôm nắng to ( ), cả những buổi rạng đông bừng bừng báo hiệu ( ), cũng 98
  34. như những buổi trưa nắng gió lộng lẫy" (Bước đường viết văn), "Nắng chang chang" trên đất Nhã Nam, Yên Thế(Núi rừng Yên Thế). Nắng Bắc Bẩu biên ải xa xôi "cũng tuôn muôn ánh rực rỡ với mây, nước, cành lá và đất, đá" (Cuộc sống). Và nắng xuân giữa Thủ đô Hà Nội: "Lộc non của cây cối từng lớp, từng lớp phơi phới trên đầu tôi với ánh nắng. Toàn cảnh Hồ Hoàn Kiếm lồng lộng trong suốt, giữa một không gian trong sáng vô ngần" (Sức sống của ngòi bút). Nếu mở rộng đến nắng trong thơ : "Uông Bí - Hòn Gai nắng chói kim cương" (Hoa gạo mùa xuân lạt nở), "Những trưa hè ngun ngút nắng Trường Sơn" (Cửu Long giang ta ơi) thì đúng là Nguyên Hồng đã tạo nên tấm hình đất nước bằng sắc màu của nắng. Lời văn tả nắng của Nguyên Hồng bao giờ cũng nhiều tính từ biểu thị màu sắc, trạng thái và những từ ngữ tạo hình, biểu cảm, câu chữ kết vần quấn quýt giàu nhạc điệu, giàu chất thơ. Có thể xác nhận đặc điểm đó ngay trong đoạn mở đầu bài bút kí Những mầm sống: "ánh nắng mênh mông tràn ngập. Đường nhựa sáng loá như dát bằng vàng điệp. Lá cây rung lên, muôn vàn tia hào quang bay phấp phới. Các mái ngói, các ống máng, các cửa kính, các biển hàng lấp lánh những ánh ngời". Đoạn văn gồm bốn câu, câu nào cũng có tính từ tả sắc màu lung linh của nắng: vàng điệp, sáng loá, hào quang, lấp lánh, ánh ngời, với các từ chỉ trạng thái: mênh mông, tràn ngập, phấp phới Sự phối hợp các âm tiết mở, vang (ang, anh) trong các từ: ánh trắng, sáng loá, vàng điệp, hào quang, ống máng, biển hàng, lấp lánh, ánh ngời tạo thành chủ âm của đoạn văn, gợi cảm giác nhạc nắng đang bay bổng, vang xa. Nguyên Hồng đã hoàn toàn làm chủ cả một kho mĩ từ phong phú về nắng và những đoạn văn tả nắng đặc sắc đã đem đến cho bạn đọc khoái cảm thẩm mĩ đặc biệt. Lời văn tả nắng là giai điệu 99
  35. đẹp Nguyên Hồng đã góp vào bản hoà ca về thiên nhiên đất nước. Nó sẽ mãi mãi ngân nga cùng với "Trời xanh đây là của chúng ta" (Nguyễn Đình Thi), "Nắng chói sông Lô hò ô tiếng hát" (Tố Hữu) "Bát ngát câu Kiều bờ tre mái rạ" (Chế Lan Viên) để ca ngợi Việt Nam đẹp, Việt Nam thơ. Nếu như không có con mắt tà tâm hồn nghệ sĩ, không có niềm say mê tin tưởng cuộc sống thì nắng chỉ là "ánh sáng trực tiếp từ mặt trời chiếu xuống" - hiện tượng thiên nhiên thuần tuý. Sức sống tự bên trong tâm hồn nhà văn đã in dấu lên mọi cảnh vật, mọi màu sắc làm cho những cảnh sắc đó sôi động hẳn lên, rung lên, vang lên mạnh mẽ. Nhờ thế, nắng trong văn Nguyên Hồng mới chói loà rực rỡ như vậy. Sắc nắng rực rỡ trong văn Nguyên Hồng chính là biểu hiện của lòng ham sống, tin yêu cuộc sống, là vẻ đẹp của lí tưởng, là những ước mơ lãng mạn về tương lai. Dưới ngòi bút Nguyên Hồng, nắng còn là một thứ ngôn ngữ nghệ thuật góp phần thể hiện số phận và đời sống tinh thần nhân vật. Bỉ vỏ có 6 lần tả nắng. Tương ứng với những đoạn đời khác nhau của Bính, nắng cũng mang trạng thái, màu sắc khác nhau. Khi Bính lâm vào cảnh giang hồ lẩn lút, xuất hiện trong mạch trần thuật những câu văn tả thứ nắng nhợt nhạt, yếu ớt. Nhìn nắng, Bính thấy ủ dột như những tia sáng hấp hối. Trong tác phẩm, hai lần nắng bừng lên ấm áp đều tương ứng với hai lần phục thiện của Bính. Lần thứ nhất, khi Năm Sài Gòn bị bắt, Bính nhất định không nhận tiền "bồi" của đồng bọn Năm Sài Gòn, định tâm buôn bán kiếm sống, sẽ nuôi được đứa con sắp đẻ, sẽ nuôi Năm để Năm khỏi làm điều gian ác Niềm hi vọng mới thoáng chiếu vào tâm trí Bính cũng đã đủ khiến Bính thấy nắng tươi ấm lên nhiều: "ánh nắng vàng tươi và trong suốt của 100
  36. một ngày thu ấm đang lùa vào đầy nhà". Bính đã cố gắng thực hiện ước mơ đó. Cô chạy chợ nuôi thân, chờ Năm. Lần thứ hai trong tác phẩm, nắng bừng lên, cảnh vật trở nên "ấm áp, rực rỡ" Qua lời văn tả ánh nắng, người đọc đã nhận thấy niềm hi vọng vẫn sáng lên trong tâm hồn Bính. Có thể nhận thấy hiệu ứng tâm lí của nhiều đoạn văn về nắng trong Quán Nải, Cuộc sống, Hơi thở tàn, Cửa biển, Núi rừng Yên Thế Nắng như phiên bản số phận và tâm trạng nhân vật. Nắng còn là nơi nhà văn gửi gắm tình cảm đối với nhân vật, mong muốn sưởi ấm những cuộc đời bất hạnh. ánh nắng đưa lại cho bà Phó niềm vui nho nhỏ. Trong ánh nắng, bà thấy "những ngọn mướp non và hoa vàng đương phơ phất. Tiếng chim chích choè rộn ràng" Vậy mà từ lâu, bị dâu con cạnh khoé vì già nua, nghèo khó, bà như là "không thấy gì, nghe thấy gì"(Cái xích cũ). Ánh nắng giội vào nhà giam giúp cho những tội nhân khốn khổ bớt phần lạnh lẽo, cách biệt với cuộc sống bên ngoài: "Nắng vàng chảy mênh mang, sương mờ tan trong phấn nắng chập chờn" (Tết của tù đàn bà). Qua cảnh thiên nhiên bừng sáng, tác giả muốn gửi đến những người đàn bà bất hạnh trong chốn lao tù lời an ủi và niềm hi vọng vào một ngày sáng sủa hơn. ánh nắng đem đến cho Sinh nguồn sinh lực mới sau chuỗi ngày bệnh tật. Được tắm mình trong nắng tưng bừng, ấm áp, Sinh càng thấy mình chưa thể chết: "Sinh phải sống chiến đấu cùng chung quanh để đi tới hạnh phúc" (Hơi thở tàn). Một ông già nghèo khổ (cũng trong Hơi thở tàn) đã qua đời trong nhà thương làm phúc, không ai thân thích, chỉ có nắng tiễn đưa ông, xua tan tử khí quanh con người xấu số. Trong "ánh nắng vàng ngời như lửa đốt" của một sáng mùa hè, "ông đã ra đi thanh thản và mãn nguyện". Nắng là nguồn sáng ấm áp từ tâm hồn nhà văn sưởi ấm 101
  37. cho nhân vật. Theo hành trình sáng tác của Nguyên Hồng, sắc thái thẩm mĩ của nắng cũng có sự chuyển biến. Trong những sáng tác ban đầu (Bỉ vỏ , Những ngày thơ ấu và một số truyện ngắn) từ nắng thường gắn liền với các từ ngữ sóng, gió, mây trời, cây lá hoặc xóm chợ, túp lều, rác rưởi, quần áo lấm láp, cát bụi để tái hiện khung cảnh thiên nhiên hoặc cảnh sống và lao động vất vả, ngột ngạt; từ ngữ chỉ nắng ủ dột, nhợt nhạt nhiều hơn từ ngữ chỉ nắng ấm áp tươi sáng. Về sau, từ ngữ có nghĩa nóng, ấm được nhà văn sử dụng nhiều hơn, tạo nên hình ảnh nắng chói loà rực rỡ. Từ khoảng năm 1939, khi các nhà văn hiện thực chưa vượt qua được Tắt đèn, Bước đường cùng lăm tối thì trên trang sách của Nguyên Hồng đã bật lên Những mầm sống mạnh mẽ. Nắng cũng tràn đầy sinh khí: "Nắng xuân càng tô thêm ánh ngời vàng ngọc lên cảnh vật, gió xuân rướn cao mãi muôn vàn bản nhạc vang lừng. Làn sóng người đã lan ra khắp hang cùng ngõ hẻm. Người ta mong đợi một ngày kia làn sóng cuồn cuộn ngày hôm nay sẽ lôi cuốn được tất cả những làn sóng rải rác khác để chồm lên và vượt qua những dốc cản trở, những tảng đè nén, những hố sâu vùi dập để đi tới một dải đất rực rỡ, xán lạn như bầu trời xuân tràn ngập ánh nắng trong buổi trưa này" [88; tr168]. Lúc đó Nguyên Hồng cũng bắt đầu được tiếp thu ánh sáng của Đảng. Sự chuyển biến trong nhận thức xã hội và ý thức nghệ thuật đã chi phối sự thay đổi nhãn quan ngôn từ của nhà văn. Các tác phẩm sau đó, trong những đoạn miêu tả khí thế đấu tranh cách mạng hoặc không khí lao động dựng xây đất nước, gắn liền với nắng là các từ ngữ sắc cờ, màu lửa, tiếng hát, làn sóng người, ống khói, trời xanh, mây toả Màu vàng đặc trưng của nắng chuyển sang ánh đỏ do hoà cùng màu cờ, màu máu, màu lửa: "Màu đỏ của cờ và băng biển càng rực lên trong 102
  38. ánh nắng, trong những hàng người, trên những hàng người. Và qua những lớp người ngùn ngụt vì hơi thở, vì bụi nắng, có thêm một cái gì như của lửa, của bão thổi ra từ toàn thân họ và từ những dòng chữ khẩu hiệu trên tay họ trương lên trong ánh đỏ Màu đỏ thắm tươi vô cùng. Màu đỏ của máu [80;155]. "Ngoài khu công nhân, các khu mới dựng, tường vôi mới, còn loá nắng như kim nhũ ( ). Tiếng còi tàu văng vẳng. Tiếng các chòm cây reo nắng. Đỉnh trời trên nhà máy, bốn cột khói dựng lên bay trắng càng lấp loá tầng xanh" [77;74-75]. Sự chuyển biến trong sắc thái thẩm mĩ đã gia tăng sức biểu hiện của nắng. Nắng là mảng màu không thể thiếu trong những bức tranh hoành tráng mang tầm vóc sử thi về đất nước và dân tộc. Khi cảm hứng sử thi gặp cảm hứng lãng mạn, được sự nâng đỡ của cường độ cảm xúc mạnh, Nguyên Hồng đã viết nên những đoạn văn sôi nổi, lôi cuốn, ca ngợi ánh sáng rực rỡ của thiên nhiên và ánh sáng diệu kì của Đảng, của cách mạng. Nắng đã phản ánh rất rõ sự vận động ý thức nghệ thuật của Nguyên Hồng trên con đường tiếp cận, hình thành ý thức nghệ thuật vô sản. Trong cảm quan nghệ thuật của Nguyên Hồng, những gì tốt đẹp đều có khả năng toả sáng. Vì vậy, văn ông ngập tràn ánh sáng. Từ lớp lời văn, một hình tượng nghệ thuật đặc sắc đã được tái hiện và tái tạo hiện diện trong hầu hết các tác phẩm của Nguyên Hồng, gắn bó và soi sáng vẻ đẹp hình tượng nhân vật chính diện: Hình tượng ánh sáng. ánh sáng được thắp lên từ tấm lòng, bàn tay của những con người bị dồn đẩy vào đường cùng vẫn còn giữ được thiện căn bền vững. Trong chương đầu tiên của tập Cơn bão đã đến, tới mười lần tác giả tả ngọn đèn "sáng lên" của ông già Phe- mì trong đề lao Bắc Mê. Bị tù tội oan ức, suốt hai mươi năm trong ngục, ông cụ "chịu khó", "hiền lành 103
  39. như người cổ xưa ấy" vẫn bền bỉ thắp sáng ngọn đèn an ủi những người cùng hoạn nạn, để cuộc sống tù đày của họ khỏi chìm lấp vào bóng đêm lạnh lẽo. Nguyên Hồng miêu tả tiếng sáo cuối cùng của Sơn trong phòng hỏi cung của tên phó cẩm Moê là một dòng âm thanh đẹp lung linh ánh sáng. Những nết nhạc của bài Quốc tế ca "bay đến đỉnh cao thì sáng láng tuyệt vời". Đó cũng là lúc tình yêu lí tưởng và lòng dũng cảm của Sơn rực sáng (Thời kì đen tối). Viết về lời ru của mẹ, Nguyên Hồng so sánh: "những tiếng ru óng ánh như hằng hà vì sao trong đêm khuya đã kết đọng trong cảm xúc và tâm hồn tôi những hạt châu" (Sức sống của ngòi bút). Những nhân vật nhà văn yêu quý, tin tưởng, ngưỡng mộ thường mang vẻ đẹp tươi sáng. Gặp lại mẹ sau những ngày xa cách, bé Hồng xúc động vô cùng khi nhận thấy: "Gương mặt mẹ tôi vẫn tươi sáng với đôi mắt trong, và nước da mịn làm nổi bật màu hồng của đôi gò má" (Những ngày thơ ấu). Cụ ước cũng là bức chân dung ngời sáng của Nguyên Hồng. ánh sáng toả ra từ ánh mắt, gương mặt, nét cười và từ tấm lòng nhân hậu của cụ. Ngưỡng mộ cụ như người thầy thông tuệ, Thanh thấy vẻ đẹp của cụ "không vàng ngọc gì quý báu bằng, chói lọi bằng". Khi mẹ La bị đi đày, cụ ước không còn nữa nhưng mẹ La vẫn thấy cụ "lồng lộng như một vầng hào quang". Đôi mắt, gương mặt, râu tóc cụ "chan hoà ánh sáng", truyền cho mẹ La can đảm vượt ngục để trở về với đàn con. Và người mẹ oan khổ ấy cũng ngời sáng vẻ đẹp của tình mẹ, của nghị lực và niềm tin (Cửa biển). Các nhân vật cùng khổ của Nguyên Hồng đã tiếp sức cho nhau để vầng hào quang nhân bản lưu truyền bền bỉ và mỗi lúc một toả sáng hơn, đúng như suy ngẫm của nhà văn: "Tôi đã từng thấm thía vì thấy tất cả những con người cùng khổ vất vưởng bị 104
  40. bao nhiêu huỷ hoại về xác thịt cũng như về tinh thần ấy, thảy đều giữ được sâu xa trong tình cảm, trong tâm hồn họ một phần như là ánh sáng. Nó vẫn cứ cháy, cứ ngời lên giữa những gió bão than gio vùi dập của cuộc đời"(Sức sống của ngòi bút). Theo Kinh Cựu ước: ánh sáng do Chúa tạo ra và Giê-su là ánh sáng của trần gian. Còn Nguyên Hồng nhận thấy: "Lịch sử cách mạng, Đảng, các đồng chí Đảng viên và quần chúng chiến đấu đã rọi ánh sáng" và "trong những hình ảnh và tên tuổi tươi sáng chói lọi kì diệu này có một người: Nguyễn Ái Quốc"(Bước đường viết văn). Nguồn ánh sáng đó đã tạo nên cảm hứng mãnh liệt để ông viết .nên những trang văn đậm chất lãng mạn, vĩnh cửu hoá vẻ đẹp của con người, ca ngợi Đảng, Bác và cách mạng. Đến đây, hẳn không còn phải băn khoăn khi xếp Nguyên Hồng vào "típ" những nhà văn có tâm hồn và bút pháp lãng mạn. Vẫn biết rằng trong cuộc đời và trên trang viết, mỗi người lãng mạn theo một cách riêng. Người ta từng nói về Nguyễn Bính lãng đãng lửng lơ trong những bài thơ kể lể sự tình hoa thơm bướm lượn; Hoàng Cầm dệt giấc mơ hoa tình chị em, dẫu biết là bờ mê bến lú mà vẫn cứ dấn thân như một kẻ giời đày Còn Nguyên Hồng đã chưng cất được một thứ men say: ánh sáng. Nhiều người thuộc tính nết Nguyên Hồng đã nhắc đến rượu - thứ men say Nguyên Hồng rất thích. Nhưng hẳn là thứ men say tạo nên hưng phấn sáng tạo cao độ ở Nguyên Hồng, để đôi mắt ông mê say đắm đuối, để trái tim ông rộn ràng đập gấp, để từ bàn tay ông con chữ như bay lên, chính là ánh sáng. Rượu chỉ làm nên một Nguyên Hồng dân dã giữa đời thường với thói tật không dễ sửa Còn những trang văn tả nắng, tả ánh sáng đặc sắc mới làm nên Nguyên Hồng, một nghệ sĩ đích thực trong văn chương, khiến cho thế giới nghệ thuật của ông từ phong cảnh 105
  41. thiên nhiên đến đời sống xã hội đều được chiếu rọi bởi những ánh sáng rực rỡ. Những trang viết về cát bụi và ánh sáng, từ ngôn từ đến hình tượng và ý nghĩa, đều góp phần tạo nên nét đẹp riêng cho sáng tác của Nguyên Hồng. Đó là những điểm sáng thẩm mĩ phản ánh sự thành công xuất sắc của ông trong sáng tạo nghệ thuật. Lời đối thoại của nhân vật Lời đối thoại của nhân vật"Lời đối thoại là lời trong cuộc giao tiếp song phương mà lời này xuất hiện như là phản ứng đáp lại lời nói của người khác" [38; tr118]. Điều kiện để thực hiện đối thoại là phải "có sự hiện diện của người nói và người nghe, và mỗi phát ngôn đều trực tiếp hướng đến người tiếp chuyện và xoay quanh một chủ đề hạn chế của cuộc thoại" [38; tr93]. Tham gia vào thành phần cấu tạo của lời văn nghệ thuật, lời đối thoại phải làm bộc lộ rõ tâm trạng và tính cách của từng nhân vật .Lời đối thoại đã trở thành sức mạnh nghệ thuật của nhiều cây bút: Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng và Nguyễn Khaả, Ma Văn Kháng, Lê Lựu sau này. Trong lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng, đối thoại chiếm dung lượng câu chữ thấp hơn so với lời trần thuật và độc thoại nội tâm nhân vật. Trong 28 truyện in trong Tuyển tập Nguyên Hồng tập I, có tới 7 tác phẩm hoàn toàn không có lời đối thoại. Đặc điểm hình thức của lời đối thoại trong văn Nguyên Hồng là thường có dấu gạch đầu dòng trước mỗi lượt lời thoại và kèm theo chỉ dẫn về cử chỉ, thái độ của đối tượng tham thoại trên lời trần thuật. Bị giãn cách bởi lời trần thuật xen giữa các lượt lời thoại nên trên văn bản. lời đối thoại của Nguyên Hồng có hình 106
  42. thức rất dễ phân biệt với lời đối thoại có các lượt lời kế tiếp liên tục của Vũ Trọng Phụng hoặc lời đối thoại hoà lẫn trong lời trần thuật của Nam Cao. Khi xây dựng nhân vật, Nguyên Hồng rất coi trọng đặc tính xã hội của đối tượng. Điều đó được thể hiện trực tiếp trong lời đối thoại. I. ĐỐI THOẠI PHẢN ÁNH BẢN CHẤT XÃ HỘI CỦA NHÂN VẬT Nhân vật của Nguyên Hồng thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Nhà văn đã tạo được tiếng nói, cách nói của tầng lớp xã hội mà nhân vật đại diện. Thời kì mới cầm bút, Nguyên Hồng viết nhiều về giới lưu manh trộm cắp. Do có những ngày đã từng chung đụng với mọi hạng trẻ hư hỏng của các lớp cặn bã, Nguyên Hồng thông thuộc cách ăn nói trợn trạo bất cần đời của đám dân "anh chị". Đây là một đoạn đối thoại của Năm Sài Gòn và đồng bọn trong một cuộc tụ tập. Cả bọn chăm chú nghe Chín Hiếc kể về một "phi vụ" làm ăn đắc ý của hắn. "Hắn nói đến đây cả bọn nhao nhao lên hỏi: - Có "tễ bướu" không? - Bao nhiêu "thạnh " Chín Hiếc so vai cười nhếch một cái rồi móc ở túi ra 12 tờ giấy bạc một đồng và 10 tờ giấy 5 đồng. Hắn đưa mặt trông một lượt, thong thả nói: - Trước hết tôi biếu anh Năm "trách chợm", còn mỗi anh "kẹo thạnh". Năm Sài Gòn cười nhạt: 107
  43. - Thôi tôi không cần tiêu lắm, còn chú đương túng chú cứ giữ "trách chợm" này mà tiêu. Chín Hiếc trầm ngâm, mắt hắn vừa thoáng gặp cặp mắt long sòng sọc của Năm. Hắn vội nói: - Anh không cần nhưng em muốn anh cứ cầm lấy và đây em đưa thêm "chợm gập" nữa để anh xe pháo. Tư -lập -lơ lấm lét chờ Năm nhận lời mới hất hàm hỏi Chín: - Thế "khánh vọt" với “khong bẹt" đâu? Chín Hiếc vội cười đáp: - Ấy tôi suýt quên thằng "vỏ lỏi" bế đứa bé ra ao than, chực tháo khánh vàng và vòng, xích thì có bốn "so quéo" ở trong ấy đi ra bắt gặp nó, nó hoảng hốt vội vứt đứa bé xuống một cái hố rồi chạy mất. Một lúc sau tôi và nó đến thì người đã đến xem đông kín cả đường. Lại thấy cả bóng "cớm chùng" và "cớm tẩy", tôi phải bấm nó rồi cả hai "ngũ đị" thẳng. Ba Bay liền nhíu đôi lông mày lưỡi mác nhè nhè hỏi Hiếu: - Bỉ ấy có "te" không? - Te thì mày làm gì? - Rõ phí của! Cả bọn cười vang lên" (Bỉ vỏ). Trực tiếp tham gia vào cuộc đối thoại trên có Chín Hiếc, Năm Sài Gòn, Tư -lập -lơ và Ba Bay. Khi nói với "anh Năm", lời Chín Hiếc nhún nhường, rào đón vì hắn đã hiểu rõ "luật chơi" trong giới giang hồ. Lời Năm Sài Gòn có vẻ kẻ cả, trịch thượng. Lời Ba Bay bộc lộ rõ chất côn đồ dâm bẩn Đây là một đoạn đối 108
  44. thoại hay vì tác giả đã tạo được giọng điệu riêng trong sắc thái chung. Tên nào trong bọn cũng dùng tiếng lóng của giới lưu manh trộm cắp, nên dù có nói kiểu "rắn giả lươn" như Chín Hiếc hay dâm ngôn như Ba Bay thì chất giang hồ đều bộc lộ rõ rệt. Những kẻ bị dồn đẩy vào nghề trộm cướp muốn tồn tại được phải bất chấp cả can án và tù tội. Chúng phải tỏ ra yêng hùng ngay trong khẩu khí. Nguyên Hồng đã chú ý xây dựng đối thoại để thể hiện đặc tính đó. Trong một cuộc nhập bọn, nhóm giang hồ của Hai Răng Vàng cùng nhau tuyên thệ. Ba Đen là kẻ chủ xướng: " Phải khai tên tuổi, quê quán và án tích để anh em chấm xem có đáng mặt "chơi" thì rồi mới thề, mới uống máu chứ! Sửu Nháy cười khà khà vỗ ngực nói luôn: - Tôi là Sửu Nháy, 21 tuổi, không cha mẹ, không anh em vợ con, không quê quán - Can án mấy lần. - Can án sáu lần, tổng cộng bốn năm tù - Thề thế nào? - Xin nguyện hết lòng giúp đỡ, bênh vực anh em, giữ kín công việc của anh em, nếu sai lời sẽ bị trời chu đất diệt. ( ) Tư Chơi bước vào. Nắm chặt bàn tay, Tư đấm mạnh vào ngực thề: - Tôi là Tư Chơi, 24 tuổi, không quê quán anh em, can án tám lần, tổng cộng bảy năm tù, nguyện như Sửu Nháy, nếu sai lời xin quỷ thần hai vai bắt hộc máu chết tươi" (Bảy Hựu). Cứ như thế, cuộc uống máu ăn thề diễn ra suốt lượt. Cả "bỉ" Bảy Hựu cũng thề và uống rượu máu như những tay nam tử 109
  45. trong bọn. Lời thề nào cũng có "án" và "máu". Bao quát các đoạn đối thoại của loại nhân vật này, dễ nhận thấy Nguyên Hồng chưa cá biệt hoá tiếng nói của từng nhân vật. Lời của Năm Sài Gòn, Hai Răng Vàng, Tư Lập Lơ, Tư Chơi, Sửu Nháy hoặc Bảy Hựu, Chín Huyền đều na ná như nhau. Điều nhà văn đã làm được là tạo nên những lời đối thoại rất đặc trưng của giới giang hồ, cũng trợn trạo, bất cần như chính cách sống ngoài đời của đối tượng. Các nhân vật thuộc lớp người lao động cực nhọc như phu phen, thợ thuyền phần lớn đều nói năng xô bồ, bạo dạn. Sóng gió thiên nhiên vùng cửa biển và cuộc vật lộn quyết liệt với miếng cơm manh áo khiến người họ trở nên rắn rỏi từ lời nói đến việc làm. Hoàn cảnh sống đã rèn đúc nên ở họ tính can đảm đến táo tợn. Gặp những việc chướng tai gai mắt, chẳng mấy ai chịu nhắm mắt cho qua. Với bọn mặt người dạ thú, họ sẵn sàng nói cho vuốt mặt không kịp, kiểu như lời mẹ Nghĩa-rằng và mẹ La đốp chát với mụ Đội Nhị. Hai bà mẹ có hai đứa con trai nghịch như tướng cướp. Mụ Đội Nhị cậy thần thế buông lời doạ dẫm: " Thế này thì còn giời đất thiên địa nào nữa? Con cái con mẹ La sát con mẹ Nghĩa rằng chúng nó phá xóm đây. Điều chúng nó ra bóp Ngã sáu cho ông xếp Bảy mề đay săng đan cho chúng nó một trận thì mới được. Vốn đã ghét Đội Nhị chuyên ôm chân liếm gót bọn mật thám, lại nghe câu nói chọc gậy bánh xe của mụ, mẹ La nổi cơn tam bành "tóc búi ngược", "cạp quần xắn để trễ cả lườn ra" vẫy tay chỉ về phía nhà Đội Nhị: - Nào thằng nào con nào đe bỏ tù con bà thì ra đây cho bà 110
  46. xem mặt nào! Đương lúc mẹ con bà túng đói, lại được chúng nó đưa con cái đi cho đề lao nuôi cơm thì còn gì hơn nữa! Ra đây, cứ ra mặt đây với bà. Còn mẹ Nghĩa "làm một chai con hươu, rót ra cả bát uống làm hai ngụm rồi thủng thẳng: - Con dại thì cái mang. Hàng xóm láng giềng chuyện gì không nên không phải thì gọi mà bảo nhau. Động một tí là lên cẩm lên bóp, động một tí thì toà án đề lao. Chúng mày tiền nhiều của lắm, thần thế đến thế cơ à? Nghĩa rằng thì là đây nhà nhất gian ở thuê, gạo chạy nhất bữa, quần áo nhất manh thân danh chỉ là con mẹ đội than ở Sáu Kho Nhưng mà chúng mày mà động đến lông chân con bà thì " (Sóng gầm). Những lời như băm vào mặt mụ Đội Nhị của hai người đàn bà được mệnh danh là Tôn nhị nương và Cố đạt tẩu ở xóm Cấm khiến bọn du côn bấu sấu ở gần đấy cũng phải "lè lưỡi, đưa mắt cho nhau" Còn đối thủ thì "tím mặt lại" không dám ra oai khích bác nữa. Nhưng chỉ với kẻ cạn tàu ráo máng họ mới "chan tương đổ mẻ", "ngoa ngôn lộng ngữ” như vậy. Còn với người cùng cảnh ngộ, họ dành cho nhau những lời tình nghĩa đến nao lòng. Đặc biệt dịu dàng là tiếng nói của người phụ nữ với cha mẹ, chồng con, bà cỏn lối xóm. Bươn trải trong đói nghèo vất vả, chồng mù loà, con nhỏ dại, nhưng Mũn vẫn dành cho Nhân những lời an ủi ngọt ngào. Những lời yêu thương dịu dàng của Mũn như liều thần dược với cuộc đời tàn tật của Nhân. Mũn không thể giúp Nhân sáng mắt trở lại nhưng đã giúp anh sáng lòng: "Dần dần Nhân quên hẳn sự đau đớn đui mù ( ) mất hẳn những tư tưởng hắc ám thường thì thầm xui giục Nhân tìm cách chết đi để Mũn nhẹ gánh nặng trên vai. Không những thế, trong tình thương yêu ấy, Nhân còn cảm thấy đời vui vẻ, Nhân ham 111
  47. thích sống". Đâu ngờ những lời dịu ngọt và tấm thân mảnh mai của người đàn bà như Mũn lại có sức mạnh "như là một tấm lá chắn đỡ lấy trăm nghìn mũi tên sắc nhọn để che chở cho chồng con được vẹn toàn "(Đây bóng tối). Người mẹ bé Hồng (Những ngày thơ ấu), Muống (Quán Nải), bà mẹ Thưởng (Hai mẹ con), mẹ Tuyên (Cuộc sống), bà cụ Xim, mẹ La, mẹ Nghĩa, mẹ Thanh, Dâng, Xim (Cửa biển) đều có những lời "như cởi tấm lòng", thể hiện cách sống xởi lởi, chân tình của người lao động. Mỗi lời nói đều là gói vàng, của cải quý giá của những cuộc đời chỉ có hai bàn tay trắng. Đối thoại tình nghĩa thể hiện rất rõ quan niệm về con người của Nguyên Hồng: Tất cả những con người bị coi là cặn bã ấy đều không ít chau chuốt cho sự sống những tình cảm sâu xa tươi thắm mà các bọn người trong giai cấp bóc lột không thể nào có được, không thế nào xử sự được. Nguyên Hồng không mấy thành công khi xây dựng nhân vật phản diện. Có lẽ vì bao nhiêu tâm huyết và sở trường của ông dã tập trung vào nhân vật cùng khổ. Tuy vậy, qua một số chân dung nhân vật phản diện trong Bỉ vỏ, Giọt máu, Ngọn lửa, Cửa biển, ta cùng xác định được kiểu đối thoại của chúng. Đối thoại loại nhân vật này thường có hai dạng. Dạng thứ nhất là những lời chua ngoa, nanh nọc, cục súc, bất nhân như đối thoại của vợ thằng trẻ tuổi (Bỉ vỏ), mụ chủ nhà (Giọt máu). mụ Bê (Ngọn lửa). vợ chồng Kim Tú, Ba Lé, Tây Cậu, vợ chồng Đội Nhị (Cửa biển). Một mụ nhà giàu đã trùm lợp lên Bính những lời độc địa: "Gớm đồ gái đĩ già mồm. Bà thèm đặt điều cho cái hạng người bán trôn nuôi miệng để làm gì". Miệng lưỡi kẻ giàu sang "có gang có thép" đã trực tiếp đẩy Bính vào nhà chứa (Bỉ vỏ). Lời rủa sả độc địa của mụ Bê chuyên nghề cho vay nặng lãi khiến con nợ đến phát điên phát dại mà chết (Ngọn lửa). Với các 112
  48. nhân vật phản diện giàu sang quyền thế hơn như Thi San, Đờ- vanh-xi, Moê, lối đối thoại của chúng thường ở dạng thứ hai, dùng lời lẽ kiểu cách hoa mĩ để che đậy ý nghĩ thâm hiểm. Các nhà lí luận văn học gọi đó là dạng đối thoại không phù hợp, vì lời đối thoại không phù hợp suy nghĩ của nhân vật, "nghĩ một đằng, nói một nẻo". Dạng này thể hiện rõ trong các cuộc thoại giữa Thi San - Đờ-vanh-xi. Trao đi đáp lại là những câu nói lịch sự đưa đẩy: "Thưa ngài", "Ngài quá khen" Nhưng đằng sau cảnh tay bắt mặt mừng và những lời "có cánh" ấy là câu rủa thầm: "Thằng nhà quê hãnh tiến Thi San" hoặc "Con chó đói thịt" v.v Cả hai nhân vật đều nói chung một giọng: giọng giả dối (giọng thật ẩn kín trong độc thoại nội tâm). Ở hoàn cảnh nhân vật phải bộc lộ bản chất, những lời hoa mĩ kiểu cách không còn nữa. Đối thoại của chúng trở về dạng đối thoại thứ nhất đã trở thành bản chất của loại người này. Miệng lưỡi chúng buông ra toàn những lời thô tục như lời của Đờ-vanh-xi với Kim Tú: "Con lợn nào lại quấy rầy tao chiều thứ bảy thế này"; hoặc những lời cuối cùng của vợ chồng Thi San: - Đồ vô tích sự, ăn hại. - Quân tính toán ma mị. - Con đĩ, con đĩ lầy lụa, bừa bãi. - Thằng bất lực bầy nhầy đểu giả. - A! Con Giáng Hương vô ơn bạc nghĩa (Thời kì đen tối). Xây dựng đối thoại của các nhân vật phản diện, Nguyên Hồng thể hiện ý thức giai cấp rõ rệt. ông muốn khẳng định rằng bọn người bóc lột là những kẻ giả dối, xấu xa, bộc lộ ngay cả trong ngôn từ giao tiếp của chúng. Ở một số trường hợp, do tác giả quá chú trọng phẩm chất xã hội, lãng quên phẩm chất nghệ 113
  49. thuật nên lời đối thoại của nhân vật gò ép, thiếu sinh động, nhân vật bị biến thành "cái loa" tuyên truyền tinh thần đoàn kết đấu tranh. Bà cụ Việt là người già ở thôn quê nhưng có khả năng phân tích chính sách của Việt Minh như một cán bộ tuyên truyền (Bà cụ Việt). Xim mới giác ngộ cách mạng nhưng có tầm nhìn của nhà phân tích xã hội và lời nói mang tính chất biện luận chính trị hùng hồn (Cửa biển). Lời đối thoại được coi là phần khó nhất của văn xuôi bởi ngoài yêu cầu lời thoại phải bắt nhau, đuổi nhau, chèn nhau, quện lẫn với nhau vô cùng chặt chẽ và sinh động, tiếng nói nhân vật còn phải được cá thể hoá để bộc lộ tính cách. Đối thoại trong văn Nguyên Hồng không ít trường hợp chưa đáp ứng tốt yêu cầu đó. Nhìn chung, Nguyên Hồng mới tạo được những lời đối thoại phù hợp với bản chất xã hội của nhân vật. Các nhân vật có cùng cảnh ngộ, nghề nghiệp, bản chất xã hội như nhau thường có lời đối thoại tương tự, mỗi nhân vật chưa trở thành "con người này" với tiếng nói riêng của nó. Nhược điểm đó đã làm giảm đi một phần tính chất thẩm mĩ của lời văn nghệ thuật và tính sinh động của một số hình tượng nhân vật. II. ĐỐI THOẠI MANG TÍNH CHẤT ĐỘC THOẠI Cùng là phát ngôn trực tiếp của nhân vật, nhưng khác với đối thoại, lời độc thoại nhân vật "không nhằm hướng đến người khác và tác động qua lại giữa người với người" [51;tr31] . Lời độc thoại cũng "không đòi hỏi sự đáp lại, độc lập với phản ứng của người tiếp nhận" [44;tr129]. Còn trong đối thoại lời nói này phát ra để đáp lại lời nói trước, lời người này hồi đáp lời người khác. Các đối tượng tham thoại phải tôn trọng chủ đề cuộc thoại, nhận biết mục đích phát ngôn trước để có hồi đáp cho phù hợp 114
  50. So với tiêu chí chung thì lời đối thoại nhân vật của Nguyên Hồng có nhiều trường hợp chệch chuẩn. Không ít cuộc thoại người nói sao nhãng người nghe hoặc lời nói không hồi đáp một phát ngôn cụ thể nào, người nói cất tiếng trong cuộc đối thoại như một nhu cầu bộc lộ cảm xúc, giãi bày tâm trạng, đối tượng tiếp nhận phản ứng ra sao không quan trọng. Đối thoại mang tính chất độc thoại rõ rệt. Dạng dễ nhận thấy là các cuộc .thoại có đủ các vai giao tiếp nhưng chỉ có lời của chủ ngôn (vai phát ra diễn ngôn). Vai tiếp nhận diễn ngôn không có phát ngôn hồi đáp. Ví dụ, trong truyện ngắn Đây bóng tối có đoạn kể Nhân lắng tai nghe cuộc thì thầm trong đêm khuya giữa Mũn và người giúp việc. Cả 5 lượt lời liên tục đều là lời của người vú già: - Hôm nay nó lại dán nặng vé hay sao mà mợ ăn qua quýt vài hột cơm như thế? - Mợ nhỉ, nó ức mợ thật, nấu thêm vài cân bánh chực trốn vé, nó bắt được, nó phạt mợ, nhưng lại lấy chỗ bánh thừa ấy đi và đẽo thêm năm xu nữa thì cũng quá tồi. v v Tất cả các phát ngôn một chiều từ người giúp việc đều nhằm mục đích nói hộ tác giả nỗi xót thương với nhân vật Mũn. Truyện ngắn này có 4/6 cuộc đối thoại mang tính chất độc thoại, thiếu điều kiện cần và đủ cho cuộc thoại, lời hồi đáp bị ẩn đi khó khôi phục được. Trong truyện ngắn Giọt máu, cả hai cuộc đối thoại giữa mụ chủ nhà và bé Thạo đều là lời một bên. Cuộc đối thoại thứ nhất có 18 lượt lời thì 14 1ượt là của chủ nhà. Lần nào mụ cũng lên giọng bà chủ xa xả đủ điều: "Thầy mày không để tiền giả tiền 115
  51. nhà tao à" ; "Nhà chúng mày lại khốn nạn như thế được?" v.v Thạo có nghe không cũng mặc. Bốn lần Thạo cất lời thì chỉ là mấy câu "lí nhí", "giọng nhỏ hơn", "ngập ngừng", "run không ra tiếng": "Thầy con đi: thầy con khất bà", khiến mụ chủ nhà càng được thể: "Nhà mày như câm cả đấy à?". Thực ra, những câu nói ấp úng của Thạo không có vai .trò hồi đáp trong cuộc thoại. Không cần nghe, mụ chủ nhà cũng biết thầy Thạo chưa có tiền nhà phải đi trốn. Mụ chửi thế nào chẳng phải chịu. Còn Thạo, trước người đàn bà nanh nọc ấy, em còn biết đối đáp ra sao? Vì vậy, xét về bản chất thì những lời đối thoại của hai bên cũng chỉ là một dạng của độc thoại. Truyện ngắn Nhà bố Nấu có hai cuộc đối thoại thì cuộc đối thoại thứ hai chỉ có lời của bà mẹ nói về lối sống "đói cho sạch, rách cho thơm". Cô Tí con gái bà (đã lấy Tây) chỉ biết đáp lại bằng nước mắt. Nhiều cuộc đối thoại trong các truyện Người mẹ không con, Vực thẳm, Ngọn lửa, Hơi thở tàn, Cuộc sống cũng mang tính chất độc thoại rõ rệt. Một biểu hiện khác là cuộc đối thoại có đủ hai đối tượng, các lượt lời trao đáp luân phiên đều đặn nhưng không hướng vào chủ đề đối thoại, thực chất là mỗi đối tượng tham thoại lại tự nói với chính mình. Như trường hợp đối thoại giữa Quyến và người trai phụ đò trong một đêm xuân: "Dứt lời, anh chân sào đứng lên, vươn vai thở hắt mạnh một cái. Khi hai mắt anh thoáng gặp mắt Quyến long lanh, thì vẫn lại cái cảm giác rạo rực ấy miên man khắp thân thể anh. Bất giác anh bật nói: - Lạ nhỉ? Quyến ngờ vực hỏi: 116
  52. - Cái gì thế anh? Anh chân sào lúng túng: - Không bác ạ" (Trong cảnh khốn cùng). Cuộc đối thoại trên không rõ chủ đề bởi các phát ngôn không hộc lộ một ý nghĩa tường minh nào. Chủ ngôn (anh chân sào) không hướng vào đối tượng tiếp nhận diễn ngôn (Quyến). Những thông tin họ muốn truyền đạt vẫn còn phong kín. Phải đặt trong mạch truyện mới hiểu được cả câu hỏi của Quyến và anh chân sào đều mang tính hướng nội, họ tự hỏi lòng mình. Cả hai bên cùng quyến luyến nhau nhưng không dám tin vào điều đó. Hoặc một đoạn đối thoại của hai vợ chồng Năm Sài Gòn sau khi Bính nhảy tàu bị kẹp nát bàn tay, cụt mất quá nửa: "Bất giác Bính ngẩng đầu lên lờ đờ nhìn Năm, thở dài một tiếng nhẹ : - Đáng tiếc! Năm bỡ ngỡ: - Cái gì, đáng tiếc? Tám Bính thẫn thờ lắc đầu: - Thật đáng tiếc!"(Bỉ vỏ). Về hình thức, cuộc thoại trên có lời hỏi và lời đáp. Nhưng về nội dung, hai lượt lời của Bính đều mang tính chất độc thoại vì câu hỏi của Năm không được Bính tiếp nhận để giải đáp trong phát ngôn tiếp theo. Bính đang mải đuổi theo suy nghĩ riêng. Cô "tiếc" vì không thuyết phục được Năm trở lại con đường lương thiện khiến họ lâm vào cảnh cùng đường. Còn Năm lại không thể hiểu được tâm trạng đó của Bính. Nguyên nhân dẫn đến hiện 117
  53. tượng khập khiễng trong cuộc đối thoại này là sự trái ngược trong quan niệm sống giữa hai người. Đoạn đối thoại giữa bà cô và bé Hồng (Những ngày thơ ấu) dồn dập những câu hỏi. Mỗi câu hỏi của bà cô là một lần cào gai xát muối vào tâm hồn non nớt khổ đau của cháu. Nhưng bà cô đã rơi vào tình thế "độc diễn", lạc lõng không lời đáp lại. Nghe giọng cô nói "ngọt xớt,, và thấy bộ mặt đắc ý "cười rất kịch", Hồng đã nhận rõ sự hằn học nhỏ nhen của bà ta đối với mẹ mình, em "toan trả lời" rồi lại "cúi đầu không đáp". Cuối cùng không thể đừng được, Hồng đã trả lời qua loa chiếu lệ lộ vẻ "bất cần". Vì thế cuộc đối thoại chỉ là lời độc thoại của người .cô nói cho "sướng miệng" mà thôi:. Nhiều khi nhân vật của Nguyên Hồng nói với người khác nhằm kể lại quá khứ hoặc thở than về hoàn cảnh thực tại cho đỡ cực lòng. Những lời dài dòng của bà Phó với đứa cháu gái là dịp bà ôn nghèo kể khổ: "À thế ra ở trong cái nhà này chỉ có bà là con ăn đầy tớ chúng bay thôi. Mày nhớn bằng ngần ấy, hỏi ai vẫn còn phải hầu mày? Hỏi con mẹ mày nó đi làm biền biệt cả ngày kia, nó để lại cho bà được một chén con gạo thì cái cơm nguội buổi trưa vào mồm mày có đủ không? Và cái thằng bố mày nó nghe chúng bạn vào Sài Gòn, Sài chéo kia, hỏi nó dã gửi về cho bà chục nhớn chục bé gì mà từ ngày mày còn như cái giẻ vắt vai bà phải giường cứt chiếu đái cho mày cho tới ngày nay, mày bắt chước con mẹ mày miếng một miếng hai với bà" (Cái xích cũ). Một đứa con nít như cái Thuột làm sao hiểu nổi những chuyện lôi thôi rắc rối bà nó kể lể. Nhưng cái đó bà Phó không coi trọng bởi bà nói để mà nói, để trút bớt nỗi bực dọc, lo toan, cực nhục hằng ngày. Nói là cách bà lão tự xót thương mình. Đứa cháu chỉ còn biết dựa cột mà nghe. 118
  54. Mang tính độc thoại, nhiều đoạn đối thoại trong lời văn nghệ thuật của Nguyên Hồng chủ yếu tập trung vào mục đích giãi bày hoàn cảnh và tâm trạng của nhân vật, tính xung đột ý thức giữa các đối tượng tham thoại mờ nhạt; lời đối thoại cũng chịu sự chi phối sâu sắc của nguyên tắc bộc lộ trực tiếp cảm xúc, tâm trạng. Nghiên cứu về Nguyễn Khải, người ta đã khẳng định một thế mạnh của nhà văn là năng lực khám phá các xung đột ý thức qua những cuộc đối thoại, tranh biện căng thẳng để tạo nên tính đa thanh cho văn bản nghệ thuật. Nguyên Hồng không có được thế mạnh đó. Đối thoại nhân vật của Nguyên Hồng chưa được cá thể hoá sâu sắc, lại có xu hướng "độc thoại hoá" khiến tính chất đơn thanh càng bộc lộ rõ trong lời văn nghệ thuật của ông. Trong các thành phần cấu tạo lời văn nghệ thuật của Nguyên Hồng, đối thoại là bộ phận mờ nhạt hơn so với lời trần thuật và độc thoại nội tâm. Lời độc thoại nội tâm I. ĐỘC THOẠI NỘI TÂM XUẤT HIỆN Ở MỨC ĐỘ CAO, ĐA DẠNG TRONG HÌNH THỨC THỂ HIỆN Độc thọai nội tâm cũng là thành phần cốt yếu trong lời văn nghệ thuật nó đảm nhiệm chức năng quan trọng: biểu hiện thế giới tinh thần của nhân vật cả "các vận động chưa thành hình của tâm hồn con người" [51;tr73].Theo Từ điển thuật ngữ văn 119
  55. học, độc thoại nội tâm là "lời phát ngôn của nhân vật nói với chính mình, thể hiện trực tiếp quá trình tâm lí, nội tâm, mô phỏng hoạt động cảm xúc, suy nghĩ của con người trong dòng chảy trực tiếp của nó" [44; tr87]. Về cơ bản, người ta chia độc thoại nội tâm thành các dạng: Lời độc thoại nội tâm nguyên dạng, thuần tuý. Là những lời trực tiếp bên trong không bộc lộ thành âm thanh. Ở dạng này, đoạn độc thoại nội tâm có các dấu hiệu hình thức rõ ràng, dễ nhận biết như dấu gạch ngang đầu dòng, để trong ngoặc kép kèm theo những từ ngữ thông báo "nhủ thầm", "nghĩ thầm", "tự nhủ" trong lời trần thuật. Lời độc thoại nội tâm ở dạng biên thể, mở rộng: Tồn tại dưới hình thức lời nửa trực tiếp, đối thoại tưởng tượng, dòng ý thức, nhật kí, thư từ v.v trong số đó hình thức lời nửa trực tiếp khó nhận diện hơn cả vì nó thường hoà lẫn trong lời trần thuật. Để xác định, người ta căn cứ chủ yếu vào dấu hiệu bộc lộ trạng thái bên trong của nhân vật Tiêu chí để xác định đoạn độc thoại nội tâm bao gồm cả dấu hiệu hình thức và dấu hiệu nội dung mà nó biểu hiện. Trong văn xuôi Quốc ngữ nước ta những năm đầu thế kỉ XX, độc thoại nội tâm là thủ pháp nghệ thuật mới mẻ: Các cây bút lãng mạn đã chú ý khai thác thế mạnh của thủ pháp nghệ thuật này, góp phần giải toả một số bế tắc, bất cập của tính chất ước lệ, công thức trong văn học truyền thống, văn học buổi giao thời. Tuy nhiên, với các nhà tiểu thuyết xã hội theo khuynh hướng "tả chân" lúc đó, độc thoại nội tâm chưa được coi trọng. Trước trọng trách phản ánh "sự thực ở đời", họ tập trung phản ánh xung đột xã hội nhiều hơn xung.đột tâm lí. Khi xây dựng nhân vật, bút lực dồn vào miêu tả ngoại hình, hành động và đối 120
  56. thoại. Độc thoại nội tâm nhìn chung mờ nhạt. Trước Cách mạng tháng Tám, trong dòng văn học hiện thực phê phán nước ta, Nguyên Hồng thuộc số ít nhà văn coi trọng độc thoại nội tâm. Những tác phẩm sau này, ông vẫn dành cho độc thoại nội tâm vị trí quan trọng. Khảo sát ba tiểu thuyết Bỉ vỏ, Số đỏ, Tắt đèn (gần nhau về thời điểm ra đời, tương đương về số trang) thì Bỉ vỏ có số lần độc thoại nội tâm nhiều hơn cả (Bỉ vỏ: 26 lần, Số đỏ: 7 lần; Tắt đèn: 4 lần). Truyện ngắn Miếng bánh có 9 lần trên 13 trang truyện. Tiểu thuyết Cửa biển có nhiều nhân vật xuất hiện độc thoại nội tâm với tần số cao. Thanh: 113 lần; Xim: 104 lần; mẹ La: 59 lần Đó là mức độ kỉ lục mà cho tới nay ít tiểu thuyết nào sánh kịp. Lời độc thoại nội tâm trong tác phẩm của Nguyên Hồng có nhiều hình thức thể hiện phong phú. 2. Ở dạng thuần tuý Nguyên Hồng thường dựa vào lời văn từ ngữ "mách bảo" kèm theo dấu gạch đầu dòng trước lời độc thoại nội tâm nhân vật. Nhà văn dã thay đổi các từ ngữ báo hiệu khá linh hoạt: tự hỏi, nhủ thầm, tự nhủ(, lòng nhủ lòng, nảy ra ý nghĩ, một câu nói thầm vang lên, kêu thầm lên, bụng bảo dạ, lắc đầu, ước thầm, suy tính, đáng lẽ phải hét lên, tự giễu, những câu nói chỉ trực trào ra, một tiếng kêu cất lên như xé trong người, tâm trí hét lên, thấy tâm trí bâng khuâng v.v Số lượng đoạn độc thoại nội tâm thuần tuý ở Bỉ vỏ là 8/26 đoạn, trong Tuyển tập Nguyên Hồng, tập I (28 truyện ngắn) là 17/47 đoạn, chiếm khoảng 1/3 trong tổng số đoạn độc thoại nội tâm của các tác phẩm trên. Con số đó cho thấy ngoài độc thoại nội tâm ở dạng thuần tuý, Nguyên Hồng còn sử dụng các hình thức biểu hiện khác. 121
  57. 1. Ở dạng mở rộng Độc thoại nội tâm có hình thức nhật kí, thư từ xuất hiện ngay từ Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu và được mở rộng hơn trong Bước đường viết văn, Cửa biển Các trang nhật kí của bé Hồng (Những ngày thơ ấu), Tôi - Nguyên Hồng (Bước đường viết văn), Thanh, Trần Văn, Thái Trang (Cửa biển) đều là "lời nói bên trong" của nhân vật. Sử dụng nhật kí, Nguyên Hồng đã tạo nên được tiếng nói nội tâm sâu sắc, bộc lộ những suy nghĩ thầm kín, giải toả tâm trạng bức xúc khi nhân vật không thể cùng ai bày tỏ. Nhật kí của bé Hồng (Những ngày thơ ấu) là những dòng tâm sự rưng rưng nước mắt trong lúc tủi cực nhất. Viết nhật kí để vơi đi nỗi cô đơn, Thanh (Sóng gầm) cũng "thành thật và cảm động" trên những trang nhật kí khi đang chập chững bước vào đời, những nỗi băn khoăn về nghề nghiệp, lẽ sống chưa biết tìm ai san sẻ. Mẹ con Thanh mới phiêu bạt đến xóm thợ nghèo. Lúc đầu mọi người nhìn vẻ mặt "chữ nghĩa", "đứng đắn" của Thanh một cách nể trọng nhưng có phần xa lạ. Những người hiểu biết từng trải như cụ Ước, cụ Cam đều là bậc cao niên khiến Thanh đắn đo, e dè khi tiếp xúc. Vì vậy Thanh đành phải giãi bày tâm sự trong nhật kí. Khi chán chường thất vọng: "Sao tôi sống nổi cái cuộc sống này", "hiểu nổi cái cuộc sống này?". Khi phấn chấn, tin tưởng: "Can đảm và nghị lực ơi! Còn ngày mai và những ngày mai phải sống". Nhật kí đã góp phần "đa dạng hoá" hình thức độc thoại nội tâm của Nguyên Hồng. Hình thức thư từ mang tiếng nói nội tâm nhân vật đã được Nguyên Hồng sử dụng trong Bỉ vỏ, Cuộc sống, Hơi thở tàn. Lời thư viết cho cha mẹ, bạn bè cũng là lời nhân vật tâm sự với chính mình. Lá thư dài "non bốn trang giấy" Bính định gửi về cho cha mẹ chứa đựng bao nỗi xót xa cay đắng của Bính tích tụ 122
  58. từ khi phải bỏ làng ra đi bị lừa lọc, ruồng rẫy, lại sắp phải bán thân làm lẽ lấy tiền chuộc cha mẹ đang bị kẻ xấu vu vạ ở quê Càng về cuối, lời thư của Bính càng xa dần mục đích thăm hỏi gia đình, đắm dần vào nỗi niềm tâm sự riêng tư. Lời thư cứ khơi sâu mãi vào tâm trạng đau đớn khiến cho bức thư chưa tới phần kết mà Bính đã "bủn rủn chân tay, nước mắt chảy ròng ròng" rồi "xé vụn thư ra". Trong thư, Bính thương mình xót xa nhiều hơn là giãi bày hoàn cảnh cùng cha mẹ. Nhiều đoạn thư trong Cuộc sống cơ bản cũng là độc thoại nội tâm. Bừng mắt (bức thứ nhất) là lời tự bạch của Xuân về tình cảm say mê mãnh liệt với Hải Phòng. Nắng mới (bức thứ hai) là lời tự lí giải của Xuân về lẽ sống và nghệ thuật v.v Một hình thức tồn tại của độc thoại nội tâm rất gần với nhật kí, thư từ được Nguyên Hồng sử dụng là ghi chép trong sổ tay. Tiêu biểu như đoạn "lia bút rất nhanh vào sổ tay" của Thái Trang trong Cửa biển khi anh chứng kiến quang cảnh ngày Tổng khởi nghĩa hào hùng, rực lửa: "Trước biển người - tôi vẫn thấy chữ biển này chưa đủ tả - lá cờ lớn sải từ thượng tầng Nhà hát lớn xuống mặt thềm, bỗng hiển hiện thành một thanh gươm thần bằng thép lửa ( ) Nghẹn người quá rồi. Giờ phút thiêng liêng sắp điểm đây". Dòng ghi chép trào dâng nỗi xúc động của người nghệ sĩ trước giờ phút thiêng liêng của lịch sử dân tộc. Lời độc thoại nội tâm của Nguyên Hồng còn có dạng lời đối thoại ngầm, nhân vật đối thoại với một người nào đó trong tâm tưởng hoặc đối thoại với chính mình. Đó là lời của Hưng tự chất vấn, lên án gay gắt việc làm hèn mạt của bản thân biến miếng ăn thành miếng nhục: "Khốn nạn! Sao mày lại lén lút, ăn không chia sẻ với vợ con như thế. Mày thèm khát thế vợ con mày no đủ hay sao" (Miếng bánh). Có khi, trong tình thế quẫn bách, 123
  59. nhân vật tưởng như gặp được người tin cậy để giãi bày tâm sự và mong tìm được chỗ dựa tinh thần. Trong dòng độc thoại nội tâm của mẹ La trước khi vượt ngục, (chương I, Cơn bão đã đến), những người thân yêu lần lượt hiện về trong tâm trí mẹ: Cụ Ước, ông cụ bố chồng, lão La và những đứa con. Tưởng như ai cũng ở ngay bên mẹ, nghe mẹ trò chuyện, động viên, giúp mẹ có đủ sức mạnh vượt ngục. Mẹ khấn ông bố chồng: "ông ơi! ông đã sống khôn chết thiêng cho con được gặp lại chồng con, các con con thì xin ông cũng biết cho con" [79;22]; rồi khẩn cầu cụ ước: "Cụ Ước ơi ! Con ăn ở thế nào thì quỷ thần hai vai và cả cụ nữa chứng giám cho con không thể chịu mãi mối oan khiên này đâu!" [82;39] Nhưng cụ Ước và ông bố chồng mẹ La đã mất, những đứa con ở xa nên lời đối thoại trong tâm tư mẹ La chính là lời độc thoại nội tâm tự trấn an tinh thần của mẹ. Lời cụ Cam khấn con trong ngày giỗ, lời Huệ Chi trò chuyện với mẹ trong tưởng tượng đều là biến thể của độc thoại nội tâm. Hình thức tồn tại phổ biến nhưng rất khó nhận diện triệt để, chính xác của độc thoại nội tâm là hình thức lời nửa trực tiếp: "Lời của nhân vật có bề ngoài thuộc về tác giả (về mặt chấm câu, ngữ pháp) nhưng về nội dung và phong cách lại thuộc về nhân vật,, [44;tr129]. Hình thức này ở Bỉ vỏ có 11/26 đoạn, trong Tuyển tập Nguyên Hồng, tập I [88] có 26/47 đoạn, chiếm khoảng gần 1/2 tổng số đoạn độc thoại nội tâm, nhiều hơn cả dạng thuần tuý (Điều đó cũng phù hợp với xu hướng xoá nhoà khoảng cách trong phương thức tự sự của Nguyên Hồng chúng tôi đã phân tích kĩ ở phần lời trần thuật). Độc thoại nội tâm dưới hình thức lời nửa trực tiếp thường đan xen, hoà lẫn với lời trần thuật. Để nhận biết, cần phải căn cứ vào sự chuyển đổi giọng điệu từ người trần thuật sang giọng 124
  60. điệu của nhân vật, hoặc căn cứ vào mục đích biểu đạt của lời văn từ hướng ngoại chuyển dần vào hướng nội; lời gián tiếp chuyển thành lời nội tâm nhân vật. "Tám Bính vội vàng xuống bếp. Bính vừa bước Lời khỏi ngưỡng cửa, nước mắt đã ứa ra, chan hoà. Qua trần những giọt nước mắt đầm đìa, Bính thấy hiện vụt ra thuật một cảnh mịt mù, buồn tẻ trong lớp tre xanh rì ở tít đằng xa Làng Sòi ! Làng Sòi ! Sáu năm qua lâu biết bao dài biết bao! Mà Độc biết đến bao giờ Bính mới có được một cuộc đời thoại trong sạch êm đềm như cuộc đời của mọi người nội trong buổi đầu xuân? tâm Khó lắm. Nếu Năm Sài Gòn vẫn sống và vẫn yêu thương Bính. Nếu đứa con Bính vẫn biệt tăm tức. Nếu cha mẹ Bính vẫn cùng làng nước, đinh ninh Bính là một sự xấu xa gớm ghiếc cần phải xa lánh"(Bỉ vỏ). Trong đoạn văn trên, lời trần thuật đã chuyển dần sang lời độc thoại nội tâm và từ "Làng Sỏi! Làng Sỏi? " lời văn chuyển hẳn thành độc thoại nội tâm của Bính mặc dù không có dấu hiệu hình thức tách bạch nào. Đoạn độc thoại nội tâm của Bính vẫn mang vỏ ngôn ngữ là lời trần thuật, chỉ có nỗi niềm tâm sự của Bính chứa đựng trong lời văn là dấu hiệu căn bản để xác định đó là lời độc thoại nội tâm trong mạch trần thuật. Độc thoại nội tâm trong lời văn Nguyên Hồng còn phát triển thành dòng nội tâm có dung lượng tương đương phức đoạn thể hiện những diễn biến nội tâm phức tạp của nhân vật. Theo chúng tôi, đó là biểu hiện ban đầu của dòng ý thức, "cũng là một 125
  61. hình thức của độc thoại nội tâm, nhưng là độc thoại nội tâm với sự tự do liên tưởng, không có mục tiêu đặc biệt nào, không có sự khống chế của logic" [99;tr16]. Các trường hợp độc thoại nội tâm của mẹ La khi vượt ngục, của Gái Đen khi trở dạ, của Dâng khi đang mang thai bị ốm, của Huệ Chi trước lễ cưới, của cụ Cam khi định lấy máu thằng cháu ngoại con Gái Đen tiếp cho thằng Côn đều có biểu hiện này. Chúng chưa cực đoan tới mức không chú ý bối cảnh, ngoại cảnh, câu văn không dùng dấu chấm, dấu phẩy nhưng đã chớm có dấu hiệu của dòng ý thức với lời văn rời rạc, đứt mạch, thiếu logic, thời gian hoà trộn thực hư, hiện tại, quá khứ nhập nhoà. Những lời cuối cùng của Gái Đen "giọng nghe càng như mê, xa lạc một cách lạ: - Bà ơi? U ơi! Bà và u đỡ cho con. Để con đẻ nó ở đây con đẻ nó ở đây rồi con về nhà. Con về nhà với ông với thằng Cam , thằng Côn , ông ơi ! Hai em ơi ! Hự hự bà ơi ! U ơi ? Mẹ La ơi ! Con đẻ tôi đẻ Hự hự con phải về nhà thôi ông ơi! Thày ơi!" (Cơn bão đã đến). Độc thoại nội tâm và dòng ý thức theo quan niệm chung hiện nay là hai biện pháp nghệ thuật nổi bật của tiểu thuyết hiện đại Sử dụng linh hoạt, đa dạng các hình thức độc thoại nội tâm, trong đó có cả biểu hiện ban đầu của dòng ý thức, Nguyên Hồng đã tạo nên được ít nhiều tính hiện đại trong lời văn nghệ thuật của ông. II. ĐỘC THOẠI NỘI TÂM ĐỒNG HIỆN VỚI TRẠNG THÁI TÂM LÍ CĂNG THẲNG, SOI THẤU TÌNH CẢNH VÀ TÍNH CÁCH NHÂN VẬT Với các nhân vật của Nam Cao, những xung đột trong tư tưởng hoặc va chạm trong đối thoại luôn tạo nên phản ứng tâm 126