Làm thế nào để gia tăng lòng tự trọng của bạn? (Phần 2)

pdf 84 trang ngocly 110
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Làm thế nào để gia tăng lòng tự trọng của bạn? (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdflam_the_nao_de_gia_tang_long_tu_trong_cua_ban_phan_2.pdf

Nội dung text: Làm thế nào để gia tăng lòng tự trọng của bạn? (Phần 2)

  1. Chương 6 Hòa nhập với Con người Trẻ trung Hơn Một nữ nha sĩ 37 tuổi nói : “Khi còn con gái, tôi rất mong muốn một cách tuyệt vọng sao cho mẹ tôi yêu thương tôi. Tôi cảm thấy khao khát được đơn giản đụng chạm vào hoặc bất cứ loại tình cảm nào. Tôi cho rằng đó là lý do tại sao tôi không muốn nhìn lại. Tôi không thích biết về bản thân mình, ít nhất vào lúc đó. Có phải thực sự đây là con người của tôi không? Tôi từ chối tin vào điều này. Tôi thích nghĩ rằng đứa con gái này đã chết từ lâu trước đây, và tôi là một người khác nào đó”. Khi chồng cô bỏ cô, anh ta than phiền rằng dường như cô không có khả năng để trao tặng hoặc đón nhận tình yêu, thì cô càng hoang mang và quậy phá; cô thú nhận rằng cô không hiểu anh có ý gì.
  2. Một lập trình viên máy tính 46 tuổi lập lại: “Tôi không thích nhớ lại bản thân mình khi còn là một đứa trẻ. Tôi luôn luôn rất sợ hãi. Cha tôi trở về nhà trong tình trạng say xỉn – ông đánh bất cứ ai đến gần ông. Mẹ tôi không bao giờ bảo vệ chúng tôi. Tôi phải trốn đi; phải tìm những chỗ để ẩn nấp; tôi quá khiếp sợ ngay cả khi nói chuyện. Thật là kinh tởm. Đứa trẻ này đã chán ngấy. Tôi cảm thấy không có bất cứ quan hệ nào đối với ông ta”. Những đứa con của ông không hiểu tại sao cha chúng dường như không thể chơi đùa với chúng. Về mặt cảm xúc, chúng chỉ biết rằng cha chúng hiếm khi có mặt ở đó – như thể chúng không hề có cha. Một nữ y tá 31 tuổi nói : “Mẹ tôi rất hay châm biếm. Cái lưỡi của bà có thể giết người. Khi còn nhỏ, tôi không thể chịu đựng nổi điều đó. Tôi đã khóc rất nhiều. Tôi khúm núm khi nghĩ đến bản thân năm tôi lên 3, 4, 5 tuổi”. Bao nhiêu người đã than phiền về lối cư xử thô lỗ và những nhận xét đôi khi cay cú của nữ y tá này. Cô biết mình có khuynh hướng bị căm ghét, nhưng cô vẫn bối rối không biết tại sao. Một luật sư 51 tuổi nói : “Khi tôi 12 tuổi, có một gã hay bắt nạt ở khu nhà chúng tôi khiến tôi khiếp sợ. Hắn đánh tôi vài lần rồi, và sau đó, chỉ cần nhìn thấy hắn, tôi đã cảm thấy co rúm mình lại. Tôi không thích nhớ đến điều đó. Tôi không thích nói về điều đó. Thật vậy, tôi không thích thừa nhận rằng tôi đã từng là một cậu bé đầy khiếp sợ. Tại sao cậu bé này không thể xử lý tình huống một cách tốt hơn? Tôi phải hoàn toàn sớm quên đi thằng nhỏ này”. Mặc dù luật sư này sáng chói trong công việc, nhưng chỉ có vài thân chủ của ông ưa thích ông. Họ nhận thấy ông không
  3. nhạy cảm và tàn nhẫn. Hơn một thân chủ đã nhận xét: “Ông ta là một kẻ hách dịch”. Có những nguyên nhân khiến nhiều người cảm thấy họ không thể tha thứ cho đứa trẻ mà họ đã từng là. Giống như các thân chủ trích dẫn trên đây, họ khước từ và phủ nhận đứa trẻ đó. Khi được thể hiện thành lời, thì thái độ của họ có nghĩa là như sau: Tôi không thể tha thứ rằng mẹ tôi đã khiến tôi quá khiếp sợ; tôi rất khao khát một cách tuyệt vọng đối với sự tán thành của bố tôi; tôi cảm thấy mình thật không đáng yêu; tôi quá mong ước tình cảm và được chú ý; tôi rất bối rối trước các sự kiện; bằng cách này hay cách khác, tôi đã khuấy động mẹ tôi về mặt tính dục; tôi đã làm điều gì đó, ngay cho dù tôi không có ý kiến gì, để khiến cho bố tôi làm phiền tôi; tôi rất vụng về trong lớp học thể thao; tôi rất hay bị giáo viên của tôi hăm dọa; tôi bị tổn thương quá nhiều; tôi không được nhiều người trong lớp ưa thích; tôi quá nhút nhát; tôi hay mắc cở; tôi không cứng rắn hơn; tôi e ngại rằng mình không vâng lời cha mẹ; tôi sẽ làm bất cứ điều gì để được yêu thích; tôi thèm khát sự tử tế; tôi tức giận và thù địch; tôi ghen tị đối với em trai tôi; tôi cảm thấy tất cả mọi người đều hiểu biết nhiều hơn mình; tôi không biết làm gì khi tôi bị chế giễu; tôi không dũng cảm đương đầu với mọi người; quần áo của tôi luôn luôn nghèo nàn nhất và xoàng xĩnh nhất so với bất cứ người nào trong trường v.v Trong thực tế, chúng ta có thể trải nghiệm đứa trẻ mà mình đã từng là như một nguồn gốc của nỗi đau đớn, thịnh nộ, sợ hãi, bối rối hoặc nhục nhã, bị đàn áp, phủ nhận, từ bỏ, quên lãng. Có lẽ hoàn toàn giống như những người khác đã từng làm, chúng ta khước từ đứa trẻ này – và sự tàn nhẫn của chúng ta đối với nó có thể vẫn tiếp tục hàng ngày và vô tận suốt cuộc đời chúng ta, tại nơi mà đứa trẻ này vẫn tiếp tục tồn tại như một con người phụ thuộc vào con người-trẻ thơ.
  4. Khi không ý thức về những gì mình đang làm, có thể chúng ta thú nhận tìm được bằng chứng bị khước từ khắp mọi nơi trong các mối quan hệ hiện nay của chúng ta, mà không nhận ra rằng nguồn gốc đối với kinh nghiệm bị khước từ của chúng ta ở ngay trong nội tâm, thay vì bên ngoài. Toàn bộ cuộc sống chúng ta có thể là những hành động không ngừng tự-phủ nhận mình, trong khi chúng ta lại cứ tiếp tục than phiền rằng những người khác không yêu thương mình. Khi chúng ta học hỏi để tha thứ cho đứa trẻ mà chúng ta đã từng là, về những điều nó không biết, không thể làm, hoặc không thể đương đầu với, cảm thấy hoặc không cảm thấy; khi chúng ta hiểu biết và chấp nhận rằng cách thức đứa trẻ đó đấu tranh để tồn tại là cách thức tốt nhất mà nó có thể làm – thì con người-trưởng thành không còn ở trong mối quan hệ thù địch với con người-trẻ thơ nữa. Một bộ phận không còn xung đột với một bộ phận khác. Những phản ứng người lớn của chúng ta phù hợp hơn. Trong chương 2, tôi đã giới thiệu khái niệm về con người-trẻ thơ – vốn tiêu biểu cho nội tâm của đứa trẻ mà chúng ta đã từng là, cả chuỗi những thái độ, cảm giác, giá trị và viễn cảnh đã từng là của chúng ta từ lâu trước đây, và chúng được hưởng tính bất tử về mặt tâm lý như một thành phần của toàn bộ con người chúng ta. Đây là một con người phụ thuộc, một nhân cách phụ thuộc– một tình trạng tâm trí có thể bị thống trị ít nhiều vào bất cứ lúc nào, vì vậy, đôi khi chúng ta hành động một cách khá riêng biệt, mà không nhất thiết ý thức rằng mình đang làm như vậy. Chúng ta có thể (hoàn toàn) gắn liền với con người-trẻ thơ một cách ý thức hoặc vô ý thức, rộng lượng hoặc thù địch, thương cảm hoặc tàn nhẫn. Như tôi vẫn tin, các bài tập trong chương này sẽ làm sáng tỏ, khi có quan hệ một cách ý thức và tích cực , thì con người-trẻ thơ có thể được đồng hóa và hòa nhập
  5. vào toàn bộ-con người. Khi có quan hệ một cách vô ý thức và/ hoặc tiêu cực, thì con người-trẻ thơ bị bỏ mặc trong một kiểu lãng quên xa lánh. Trong trường hợp sau, khi con người-trẻ thơ bị bỏ mặc vô ý thức, hoặc bị phủ nhận và khước từ, thì chúng ta đều tan vỡ; chúng ta không cảm thấy toàn vẹn; ở mức độ nào đó, chúng ta cảm thấy xa lánh-bản thân, và lòng tự trọng bị tổn thương. Khi bị bỏ mặc không được nhìn nhận, không được hiểu, hoặc bị khước từ và bỏ rơi, thì con người-trẻ thơ có thể biến thành một “kẻ gây rối”, ngăn cản chúng ta tiến triển cũng như vui hưởng sự hiện hữu. Cách diễn tả bên ngoài của hiện tượng này là đôi khi, chúng ta sẽ bộc lộ lối cư xử ấu trĩ có hại, hoặc rơi vào những kiểu lệ thuộc không phù hợp, hoặc trở nên quá tự yêu mình, hoặc trải nghiệm thế giới như là lệ thuộc vào “những người trưởng thành”. Mặt khác, khi được nhìn nhận, chấp nhận, đi theo, và do đó được hòa nhập, thì con người-trẻ thơ có thể trở thành một nguồn gốc cao quý, phong phú hóa cuộc sống chúng ta, với tiềm năng của nó về sự hồn nhiên, vui chơi và óc sáng tạo. Trước khi bạn có thể trở thành bạn bè hoặc hòa nhập với con người-trẻ thơ, sao cho nó tồn tại trong mối quan hệ hài hòa với con người còn lại của bạn, thì trước hết, bạn phải quan hệ với thực thể bên trong thế giới nội tâm của bạn. Khi giới thiệu cho các thân chủ hoặc sinh viên con người-trẻ thơ của họ, đôi lúc , tôi vẫn yêu cầu họ đi vào một hình ảnh tưởng tượng, tự tưởng tượng mình đang đi dạo dọc theo một con đường làng, để nhìn thấy một đứa trẻ đang ngồi bên thân cây, cách họ một khoảng, và họ tiến lại gần, để nhìn thấy đứa trẻ đó chính là con người mà họ đã từng là. Sau đó, tôi yêu cầu họ ngồi bên thân cây và nói chuyện với đứa trẻ. Tôi khuyến khích họ nói lớn, đào sâu thực tại của kinh nghiệm. Họ muốn và cần nói gì với nhau? Rất thường có những giọt nước mắt, đôi khi còn có cả niềm vui nữa. Nhưng họ luôn
  6. luôn nhận ra rằng đứa trẻ vẫn còn tồn tại bên trong tâm hồn (như một trạng thái tâm trí), và có sự đóng góp để tạo nên đời sống của người lớn – và một con người phong phú hơn, đầy đủ hơn nổi lên từ khám phá này. Thông thường, người ta hay buồn khi nhận ra rằng họ có tư tưởng sai lầm mà họ cần tự loại bỏ khỏi đứa trẻ đó để trưởng thành. Khi làm việc với một thân chủ về mục tiêu hòa nhập với con người-trẻ thơ, tôi sẽ thường đề nghị bài tập đơn giản này mà bạn có thể tự làm được. (Nếu bạn có một người bạn có thể đọc cho bạn những chỉ dẫn sau đây, thì càng tốt hơn nhiều; hoặc bạn có thể đọc những chỉ dẫn này vào một cái cassette, rồi thu băng và quay lại; hoặc đơn giản đọc chúng cho đến khi bạn quán triệt chúng trước khi bắt đầu). Hãy dành ra vài phút để xem những hình ảnh của chính bạn hồi nhỏ (giả thử bạn có vài tấm hình, nếu không, hãy cứ bắt đầu dù không có chúng). Rồi bạn hãy nhắm mắt lại và hít thở vài hơi thật sâu và thư giãn. Hãy đi vào bên trong và khảo sát các câu hỏi này: Cảm giác của đứa trẻ lên 5 tuổi như thế nào? Bạn hình dung đã trải nghiệm cơ thể mình lúc đó như thế nào? Cảm giác khi buồn ra sao? Cảm giác khi phấn khích thế nào? Có giống như đang sống trong nhà bạn không? Bạn ngồi như thế nào? Hãy tưởng tượng mình đang ngồi như một đứa trẻ 5 tuổi. Chú ý đến những gì bạn đang cảm thấy. Hãy ngừng lại ở kinh nghiệm này. Nếu bạn không làm gì khác, ngoại trừ bài tập này mỗi ngày trong suốt 2 hoặc 3 tuần, thì bạn sẽ bắt đầu không chỉ đạt được một ý thức nâng cao về con người-trẻ thơ của mình, mà còn một mức độ hòa nhập cao hơn so với bạn có thể trải nghiệm hiện nay – vì bạn đang tiến được bước đầu tiên hướng tới việc làm cho con người-trẻ thơ trở nên rõ rệt, và đối xử với nó một cách nghiêm túc.
  7. Nhưng bài tập hoàn tất-câu là một phương pháp tiến bộ và có tác động mạnh hơn, để khơi dậy ý thức của bạn về con người-trẻ thơ của mình, và tạo thuận lợi cho sự hòa nhập. Như tôi đã đề cập trước đây, bạn hãy sử dụng một cuốn vở, và viết từng câu chưa hoàn tất, được liệt kê dưới đây ở đầu mỗi trang giấy trắng, sau đó, bạn hãy viết từ 6 đến 10 kết thúc cho mỗi câu, trong khả năng của bạn, hãy làm càng nhanh và càng không chỉ trích-bản thân càng tốt, bằng cách sáng tạo khi cần thiết để giữ được đà tiến. Khi tôi lên 5 tuổi – Khi tôi lên 10 tuổi – Nếu tôi nhớ lại thế giới dường như thế nào khi tôi còn rất nhỏ thì – Nếu tôi nhớ lại cơ thể tôi cảm thấy thế nào khi tôi còn rất nhỏ thì – Nếu tôi nhớ lại người ta dường như thế nào khi tôi còn rất nhỏ thì – Đối với các bạn bè, tôi cảm thấy – Khi tôi cảm thấy cô độc, thì tôi – Khi tôi cảm thấy phấn khích, thì tôi – Nếu tôi nhớ lại cuộc đời dường như thế nào khi tôi còn rất nhỏ thì – Nếu đứa trẻ trong tôi có thể nói được, thì có thể nó nói rằng – Một trong những điều mà tôi phải làm khi còn nhỏ để sống còn là –
  8. Một trong những điều tôi đối xử với con người- trẻ thơ của tôi như bố tôi đã từng làm là – Khi đứa trẻ bên trong cảm thấy bị tôi phớt lờ thì – Khi đứa trẻ bên trong cảm thấy bị tôi chỉ trích thì– Một trong những cách thức mà đôi khi đứa trẻ đó gây rắc rối cho tôi là – Tôi nghi ngờ mình đang hành động vì con người-trẻ thơ của mình khi tôi – Nếu đứa trẻ đó cảm thấy được tôi chấp nhận thì – Đôi khi, để hoàn toàn chấp nhận đứa trẻ bên trong mình, điều khó khăn là – Nếu tôi tha thứ hơn đối với con người-trẻ thơ của mình thì – Nếu tôi phải lắng nghe những điều mà đứa trẻ đó cần nói với tôi thì – Nếu tôi hoàn toàn chấp nhận rằng đứa trẻ đó là một phần có giá trị của tôi thì – Tôi đang trở nên ý thức rằng – Khi tôi nhìn vào con người mình từ viễn cảnh này thì - Đã từng có những thân chủ của tôi làm bài tập này vài lần, cách nhau khoảng một tháng. Tôi không yêu cầu họ nhìn vào cách họ kết thúc những gốc câu dựa trên những cơ hội trước đây. Mỗi lần, họ đều đưa ra những kết thúc mới nào đó giúp họ càng sâu xa hơn. Không một công việc nào khác trong lãnh vực này,
  9. họ đã đạt được những tầm nhìn và sự hòa nhập đặc biệt, điều này đưa đến kết quả là họ tự-chữa lành và nâng cao lòng tự trọng. Tôi đề nghị bạn thử nghiệm bộ bài tập hoàn tất-câu này, và khám phá xem nó có thể hoàn tất điều gì cho bạn. Khi làm bài tập, bạn sẽ nhận thấy rõ ràng hơn rằng công việc này có thể mang lại ích lợi cho bạn như thế nào về lòng tự tin, tự trọng, và ý thức về sự trọn vẹn. Sau đây là một cách thức tiến bộ hơn để làm việc dựa trên lãnh vực được mở rộng trong những gốc câu trên: Bạn hãy làm lại gốc câu: Khi tôi lên 5 tuổi – theo sau là: thì một trong những điều mà đứa bé lên 5 tuổi cần đến từ tôi, và không bao giờ đạt được là - theo sau là: Khi bản thân đứa bé lên 5 tuổi của tôi cố gắng nói chuyện với tôi – theo sau là: Nếu tôi sẵn sàng lắng nghe chính đứa bé lên 5 tuổi của tôi với sự chấp nhận và thương cảm, thì – theo sau là: Nếu tôi từ chối có mặt ở đó với chính đứa bé lên 5 tuổi của tôi, thì – theo sau là: Với ý tưởng lại vươn tới để giúp đỡ chính đứa bé lên 5 tuổi của tôi – . Sau đó, bạn hãy làm cùng bộ bài tập này với chính đứa bé lên 6, 7, 8, 9, 10, 11 và 12 tuổi của mình. Bạn sẽ thực hiện được một điều kỳ lạ về cách tự chữa lành bản thân. Cuối cùng, khi bạn cảm thấy đã thiết lập được một ý thức tốt về con người-trẻ thơ của mình như một thực thể tâm lý, mà bài tập hoàn tất-câu sẽ mang lại cho bạn, sau đây là một bài tập thêm để tạo thuận lợi cho sự hòa nhập có tác động mạnh, vừa đơn giản vừa đặc biệt. Trong khi sử dụng bất cứ loại hành động tưởng tượng nào đối với bạn – nhìn, nghe, những cảm giác vận động – phát sinh ý thức rằng con người-trẻ thơ của bạn đang đứng trước mặt bạn (như tôi đã yêu cầu Charles làm trong Chương 2). Sau đó, hãy tưởng tượng bạn đang giữ đứa bé này trong vòng tay, ôm lấy nó, và nhẹ nhàng vuốt ve nó, mà không nói một lời, sao cho bạn đang ở trong một mối quan hệ chăm sóc nó. Bạn có thể cho phép
  10. đứa bé đáp lại hoặc không đáp lại. Vẫn cứ nhẹ nhàng và kiên quyết. Hãy để cho bàn tay, cánh tay vuốt ve, và bộ ngực của bạn truyền đạt sự chấp nhận, lòng thương cảm, tôn trọng. Tôi nhớ đến Charlotte, một thân chủ ban đầu gặp khó khăn với bài tập này, vì cô nói rằng con người-trẻ thơ của cô là một con người pha trộn nỗi đau đớn, thịnh nộ và hoài nghi. Charlotte nói: “Đứa bé này cứ tiếp tục lẩn tránh, nó không tin tôi – hoặc bất cứ ai”. Căn cứ vào kinh nghiệm của cô bé Charlotte này, tôi chỉ ra rằng phản ứng của cô bé là hoàn toàn tự nhiên. Rồi tôi tiếp tục: “Hãy tưởng tượng tôi đến với chị cùng với một cô bé và nói: ‘Đây là người mà tôi mong muốn chị chăm sóc. Cô bé này có một số kinh nghiệm khá xấu, và rất không tin tưởng mọi người. Chỉ vì một lý do: một người chú tìm cách gạ gẫm cô bé, và khi cô bé cố gắng nói với mẹ, thì bà mẹ lại nổi giận với cô. Vì thế, cô bé cảm thấy mình bị bỏ rơi và phản bội. (Charlotte có kinh nghiệm này vào năm 6 tuổi). Mái nhà mới – và cuộc đời mới của cô bé – sẽ ở với chị. Chị sẽ phải giúp đỡ cô bé tin tưởng chị và nhận ra rằng chị khác hẳn những người lớn khác mà cô bé đã từng gặp gỡ’. Sau đó, chị có thể nói chuyện với cô bé –lắng nghe và để cho cô bé kể lại với chị tất cả những điều mà cô bé cần được người lớn hiểu. Nhưng trước hết, chị hãy chỉ ôm lấy cô bé. Để cho cô bé cảm thấy an toàn qua phẩm chất của con người chị, qua phẩm chất sự hiện diện của chị. Chị có thể làm điều đó không?”. Charlotte phấn khích trả lời: “Được chứ. Cho đến nay, tôi vẫn đối xử với cô bé này như tất cả mọi người khác vẫn đối xử. Giả thử cô bé không tồn tại, không còn ở đó, vì nỗi đau của cô bé khiến tôi khiếp sợ. Tôi nghĩ rằng mình cũng đổ lỗi cho cô bé, gần như mẹ tôi đã từng làm cho tôi”. “Vậy chị hãy nhắm mắt lại, tạo ra hình ảnh cô bé trước mặt chị, sau đó, hãy ôm cô bé trong vòng tay chị, và để cho cô bé cảm thấy sự chăm sóc của chị. Điều này như thế nào đối với
  11. chị? Và tôi tự hỏi chị có thể thích nói gì với cô bé Hãy dành thời gian và khảo sát điều này ”. Sau đó, Charlotte nhận xét: “Trong tất cả những năm vừa qua, tôi vẫn cố gắng trở thành người lớn bằng cách phủ nhận đứa trẻ mà tôi đã từng là. Tôi rất xấu hổ, tổn thương và tức giận. Nhưng lần đầu tiên tôi thực sự cảm thấy giống như một người lớn, khi tôi ôm lấy cô bé trong vòng tay mình, và chấp nhận nó như là một phần của con người tôi”. Đây là một trong những cách thức chúng tôi xây dựng lòng tự trọng. Bây giờ, chúng ta hãy xem xét về con người-thiếu niên. Mỗi chúng ta đều đã từng là một thiếu niên, và chúng ta vẫn mang thiếu niên đó trong con người mình, như một phần của con người chúng ta, cho dù chúng ta có nhận ra, chấp nhận, và làm bạn với con người-thiếu niên đó hay không. Nếu chúng ta nhận ra, chấp nhận, và làm bạn với con người-thiếu niên của mình, thì có thể đây là một nguồn gốc vô giá của năng lực, lý tưởng, hoài bão, và cung cấp một ý thức vô hạn về những khả năng của cuộc sống. Nhưng nếu chúng ta loại bỏ, phớt lờ, từ chối hoặc phủ nhận, thì con người-thiếu niên của chúng ta có thể đưa chúng ta đến nhiều lối cư xử tự-làm hại mình. Chúng ta có thể tự nhận thấy mình lại nói chuyện với thủ trưởng một cách sai quấy và không đúng lúc, hoặc nhìn người khác phái với nỗi sợ hãi và hay thay đổi của thiếu niên, hoặc (đôi khi) hành động thiếu óc phán đoán tốt của một thiếu niên, hoặc biến bất cứ người lớn nào thành một nhân vật-cha mẹ độc đoán, khắc nghiệt mà chúng ta cảm thấy cần phải nổi loạn chống lại họ. Nhưng ngoài tất cả những điều đó, nếu chúng ta để cho con người-thiếu niên xa cách với toàn bộ con người của mình, thì chúng ta cho phép một vết nứt tồn tại bên trong chúng ta, một
  12. sự phân hóa trong việc nhận dạng bản thân, ảnh hưởng bất lợi đến lòng tự trọng. Lại nữa, một phần trong con người chúng ta xung đột với một phần khác. Chúng ta có thể quan sát kiểu xung đột này qua những câu nói sau đây: Một bác sĩ trung niên nói: “Thật là bối rối khi nhớ lại tôi xấu hổ và kỳ cục thế nào qua cách đối xử với các bạn gái trong những năm thiếu niên của tôi. Quả thật ai lại muốn nghĩ đến những điều như vậy? Kẻ lập dị nghèo nàn đó liên quan đến gì đến tôi?”. Như vậy, con người-thiếu niên của ông bị bỏ mặc, nhằm chờ đợi người nào đó sẽ không nhận thấy ông như một “kẻ lập dị”; người sẽ có thể cứu thoát ông lại không muốn xấu hổ khi giao thiệp với ông. Và con người trưởng thành đấu tranh không phải để suy nghĩ về những giây phút không thể giải thích của nỗi cô đơn mơ hồ, ám ảnh đã từng gây tổn thương cho ông vào những lúc không thể dự đoán, từ một nguồn mà ông không thể tưởng tượng được. Một người vợ và bà mẹ 41 tuổi nói: “Khi tôi gần 18 tuổi, tôi vẫn còn muốn cho gia đình tôi quan tâm chăm sóc tôi. Trong khi một phần khác nơi con người tôi lại mơ ước được tự do và sống theo ý riêng mình. Tôi không độc lập lắm. Tôi nghĩ là mình không quyết tâm. Điều ghê gớm của việc đi ra ngoài một mình là gì? Nhưng tôi nổi loạn một lúc , và lê bước trở lại vào cái tổ của mình chỉ một phút sau. Khi nhìn lại, tất cả dường như thật yếu đuối. Tôi không có sức chịu đựng đối với tình trạng thiếu quả quyết. Tôi không thể hiểu nổi người thiếu nữ này nữa. Bạn có nghĩ rằng đó là lý do tại sao tôi thường thiếu kiên nhẫn đối với những đứa con gái tuổi thiếu niên của tôi không? Tôi cũng gặp rắc rối khi hiểu chúng”.
  13. Như vậy, con người-thiếu niên của bà – và cả những đứa con gái tuổi thiếu niên của bà – đều bị bỏ mặc, mà không được hiểu biết, thương cảm và nâng đỡ từ chính người mà họ cần đến nhiều nhất. Và con người trưởng thành đấu tranh để vẫn cứ bận rộn, sao cho họ không cảm thấy những tiếng vang của một nỗi đau từ xa, gây bối rối, mà thời gian không thể chữa lành được. Một thợ máy 48 tuổi nói: “Tôi ghét nhớ lại mình cô đơn như thế nào trong những năm trung học của tôi. Tôi không tốt với người khác, tuy nhiên, tôi vẫn khao khát người nào đó nói chuyện với mình! Tôi rất mãnh liệt. Thật khủng khiếp. Tại sao nhà tâm lý các ông cứ muốn lục lại quá khứ thế? Khi còn thiếu niên, tôi là một kẻ luồn cúi”. Như vậy, con người-thiếu niên của ông bị kết án vào nỗi cô độc không thể thay đổi được. Và con người trưởng thành bị bỏ mặc để cứ thắc mắc về một tiếng nói bí ẩn bên trong ông, mà không gì sẽ lấp đầy được. Một lần nữa, chúng ta có thể quan sát kiểu khắt khe không thương cảm, không đồng cảm – lần này nhắm đến con người trong những năm thiếu niên của chúng ta. Do đó: Tôi không thể tha thứ cho sự vụng về của mình về mặt xã hội khi tôi là một thiếu niên; tôi không thể tha thứ cho nỗi sợ hãi của mình đối với những đứa con trai/ con gái; hoặc nỗi khao khát thật đáng thương của mình để được người nào đó ở với và nói chuyện; hoặc sự nhầm lẫn to lớn mà tôi cảm thấy về hầu hết tất cả mọi sự; hoặc sự bất tài của mình về mặt thể thao hoặc khiêu vũ; hoặc nước da của mình; hoặc sự huyên náo ồn ào; hoặc những nhầm lẫn về tính dục; hoặc trạng thái chập chờn giữa sự nổi loạn và phục tùng; hoặc tính nhút nhát đối với các đảng phái; hoặc sự thụ động; hoặc cuộc chiến đấu với tội lỗi; hoặc trạng thái lẫn lộn; hoặc chủ nghĩa đạo đức; hoặc thói thích phô trương; hoặc tính rụt rè; hoặc tình trạng thiếu kiến thức ; hoặc sự ngụy biện của tôi.
  14. Hoàn toàn giống như chúng ta có thể từ bỏ đứa trẻ mà chúng ta đã từng là, cũng vậy, chúng ta có thể từ bỏ thiếu niên. Nhưng con người-thiếu niên của chúng ta vẫn còn một thành phần tồn tại trong tâm hồn chúng ta, và chọn lựa duy nhất của chúng ta là: hoặc là chúng ta sẽ ý thức, hoặc là vô ý thức về con người-phụ thuộc đó, rộng lượng và đồng cảm, hoặc thù địch và kết án. Liệu con người-thiếu niên của chúng ta sẽ được chấp nhận và đi theo – trong thực tế, làm cho cảm thấy được đón tiếp – hay là bị kết án về vai trò suốt đời của một kẻ cô đơn bị ruồng bỏ? Chúng ta hãy chuyển sang cùng bài tập mà tôi đã giới thiệu để liên hệ với con người-trẻ thơ, bây giờ được áp dụng vào con người-thiếu niên. Nếu có thể được, bạn hãy bắt đầu bằng cách dành vài phút để xem những hình ảnh của mình, được chụp khi bạn còn là một thiếu niên. Sau đó, hãy nhắm mắt lại và hít thở vài hơi thư giãn thật sâu. Hãy đi vào nội tâm và khảo sát các câu hỏi: Cảm giác là một thiếu niên như thế nào? Bạn hình dung đã trải nghiệm ra sao về cơ thể mình lúc đó? Cuộc sống trong nhà bạn ra sao? Bạn ngồi như thế nào? Hãy ngồi như bạn hình dung một thiếu niên ngồi. Chú ý đến cảm giác của bạn. Ngừng lại ở kinh nghiệm này. Dần dần, một viễn cảnh phong phú hơn về con người của bạn sẽ mở ra cho bạn. Hãy chào đón viễn cảnh này với sự chấp nhận và tôn trọng. Đây là một bài tập đơn giản khác, mà bạn sẽ nhận thấy thật hữu ích khi bạn lập lại mỗi ngày trong hai hoặc ba tuần (sau khi bạn đã hoàn tất bài tập của mình về con người-trẻ thơ). Bạn sẽ nhận thấy khi bạn dành cho con người-thiếu niên của mình sự chấp nhận và tôn trọng, thì bạn cảm thấy toàn vẹn hơn, hội nhập hơn, và hài hòa với nội tâm hơn.
  15. Kế tiếp, chúng ta hãy chuyển sang việc hoàn tất-câu như một phương tiện để đưa bài tập này đi xa hơn. Hãy viết từng gốc câu sau đây trên đầu trang giấy riêng trong cuốn vở của bạn, sau đó, viết từ 6 đến 10 câu kết thúc cho từng gốc câu. Khi tôi trở thành một thiếu niên – Khi tôi 14 tuổi – Khi tôi 16 tuổi – Khi tôi vào trung học, tôi cảm thấy – Đối với các bạn thiếu niên của mình, tôi cảm thấy– Đối với người khác phái, tôi cảm thấy – Khi là một thiếu niên, một trong những điều tôi đã làm để sống còn là – Với tư cách của một thiếu niên, mỗi khi cảm thấy tức giận, tôi - Với tư cách của một thiếu niên, khi cảm thấy đau đớn, tôi - Với tư cách của một thiếu niên, khi cảm thấy sợ hãi, tôi - Với tư cách của một thiếu niên, khi cảm thấy cô đơn, tôi – Với tư cách của một thiếu niên, khi cảm thấy phấn khích, tôi – Khi tôi 18 tuổi – Nếu người thiếu niên trong tôi có thể nói, thì nó có thể nói rằng –
  16. Một trong những điều tôi đối xử với con người- thiếu niên của mình như mẹ tôi đã từng làm là – Một trong những điều tôi đối xử với con người- thiếu niên của mình như bố tôi đã từng làm là – Khi con người-thiếu niên của tôi cảm thấy bị chính tôi phớt lờ - Khi con người-thiếu niên của tôi cảm thấy bị chính tôi chỉ trích – Một trong những điều đôi khi con người-thiếu niên của tôi gây rắc rối cho tôi là – Nếu con người-thiếu niên của tôi cảm thấy được tôi lắng nghe và tôn trọng, thì – Nếu con người-thiếu niên của tôi cảm thấy được tôi đồng cảm với những cuộc đấu tranh của nó, thì – Đôi khi, điều khó khăn đối với việc hoàn toàn chấp nhận người thiếu niên bên trong mình là– Một trong những điều con người-thiếu niên của tôi có thể góp phần vào cuộc sống của tôi là – Một trong những điều tôi đánh giá đúng về con người-thiếu niên của mình là – Tôi bắt đầu nghi ngờ - Nếu tôi tự cho phép mình hiểu được những điều tôi đang viết, thì - Trong việc điều trị, khi làm việc bằng phương pháp này, tôi nhận thấy một số thân chủ giận dữ phản đối bài tập này, họ nói rằng vì họ đã từng là những thiếu niên rất cô đơn, bối rối, lúng túng, đến nỗi quả thật họ không muốn làm gì đối với thực
  17. thể này. Họ quên rằng hiện nay thực thể này ở bên trong họ, và thực thể này chính là bản thân họ mà họ đang phủ nhận. Một số gốc câu trên đây nhắm đến việc giải quyết vấn đề này. Chẳng hạn, khi hoàn tất gốc câu: Khi con người-thiếu niên của tôi cảm thấy bị chính tôi phớt lờ -, thì (trước sự ngạc nhiên của chính mình), họ đưa ra những câu kết thúc như: nó gây phiền toái; nó trở nên hằn học; nó khiến tôi làm những việc ngu xuẩn; nó trở nên ngang ngược một cách điên rồ; nó khiến tôi bối rối; nó khiến tôi hành động như trẻ con; nó làm cho tôi liều lĩnh; nó khiến tôi trở nên vô trách nhiệm v.v Rồi khi hoàn tất gốc câu: Nếu tôi tha thứ hơn cho con người-thiếu niên của mình –, hoặc : Nếu tôi đáp ứng những nhu cầu của thiếu niên – thì họ đưa ra những câu kết thúc như: nó sẽ cảm động; nó sẽ ít nghi ngờ; nó giúp đỡ tôi, thay vì đấu tranh với tôi; nó cảm thấy là một phần của tôi; nó cho phép tôi sử dụng sự hiểu biết của mình; nó không để cho tôi liên quan đến các sự việc mà tôi nên tránh xa; nó không nổi loạn; nó không quá ủ rũ v.v Những câu kết thúc này nói thay cho họ. Khi chúng ta tuyên bố xung đột với chính mình, thì chúng ta tạo ra một đối thủ mà chúng ta không thể chinh phục. Khi chúng ta chấp nhận và tôn trọng, thì chúng ta lại tạo ra một người bạn và đồng minh. Như tôi đã làm đối với con người-trẻ thơ, tôi muốn đưa thêm một số gốc câu đối với con người-thiếu niên. Bạn hãy bắt đầu bằng gốc câu: Khi tôi 13 tuổi – và theo sau bằng câu này: Một trong những điều mà con người-13-tuổi của tôi cần đến từ tôi, và tôi lại không bao giờ đạt được là - và rồi: Khi con người-13-tuổi của tôi cố gắng nói chuyện với tôi - và rồi: Nếu tôi sẵn sàng lắng nghe con người-13-tuổi của mình với sự chấp nhận và thương cảm – và rồi: Nếu tôi từ chối hiện diện ở đó với con người-13-tuổi của mình - và cuối cùng: Với tư tưởng lại vươn tới để giúp đỡ con người-13-tuổi của tôi - . Sau đó, bạn hãy làm tương tự như vậy với những “con người” của
  18. bạn, cho đến 19 tuổi (và thậm chí còn vượt quá, nếu bạn thực sự mong ước trở nên tham vọng). Bạn sẽ cảm thấy toàn vẹn hơn, hòa nhập hơn, so với cảm giác mà bạn đã từng có trước đây trong cuộc đời bạn. Rồi sau đó, bạn hãy nhớ lại bài tập thứ bốn được đề xuất để hòa nhập với con người-trẻ thơ, và phỏng theo đó đối với con người-thiếu niên. Hãy sử dụng trí tưởng tượng để đặt con người- thiếu niên bạn. Cả bạn lẫn con người này hãy hình dung là mình có thể cảm thấy gì, khi nhìn vào nhau? Và nếu bạn phải đưa cánh tay ra trong một động tác yêu thương và tin tưởng, thì cảm giác này như thế nào? Và nếu bạn phải ôm lấy con người đó (như người ta ôm lấy một thiếu niên, không phải một đứa trẻ) – truyền đạt không phải bằng lời nói, nhưng bằng bàn tay, cánh tay, và cơ thể bạn – gửi đi những thông điệp của lòng thương cảm và sự chăm sóc – thì bạn có thể cảm nghiệm gì? Hãy làm điều đó và khám phá. Chú ý đến toàn bộ loại cảm giác của bạn. Hãy kiên nhẫn, bất kể bạn nhận được phản ứng gì từ con người-thiếu niên của mình. Trong khi chữa lành cho con người-thiếu niên, bạn chữa lành cho chính mình. Tôi biết rằng một bài tập như vậy sẽ có vẻ kỳ lạ đối với nhiều độc giả. Khi một mình trong phòng riêng – tạo ra một mối quan hệ chăm sóc đối với người thiếu niên mà bạn đã từng là thì sao? Điều đó liên quan gì đến cảm giác của bạn về bản thân mình hiện nay? Nếu bạn làm bài tập – không phải một lần, nhưng vài lần – thì bạn sẽ khám phá được câu trả lời. Bài tập này chỉ cần hai hoặc ba phút. Tuy nhiên, khi bạn kiên nhẫn làm hàng ngày trong suốt một hoặc hai tháng, thì bạn sẽ nhận thấy sự khác biệt trong kinh nghiệm về bản thân mình. Tình trạng xung đột mà bạn đang tham gia vào – một cách vô ý thức – suốt nhiều năm sẽ chấm dứt. Nếu bạn viết nhật ký trong thời kỳ này, và cứ mỗi vài ngày, bạn viết khoảng 6 câu kết thúc
  19. đối với gốc câu: Tôi đang bắt đầu cảm thấy –, thì bạn sẽ có một ý thức rõ ràng hơn về sự tiến bộ của mình. Chỉ việc cam kết làm bài tập này, cũng như các bài tập trước đây, có thể củng cố lòng tự trọng của bạn, vì hàm ý rằng bạn tự coi mình là xứng đáng với loại nỗ lực này. Khi và nếu bạn nhận thấy mình miễn cưỡng trong việc nỗ lực, thì có lẽ câu hỏi mà bạn cần suy nghĩ là: Điều quan trọng hơn mà tôi phải làm là gì?
  20. Chương 7 Sống Có Trách nhiệm Những người vui hưởng lòng tự trọng cao đều có khuynh hướng chủ động đối với cuộc sống khá hơn những người thụ động. Họ có đầy đủ trách nhiệm để đạt được những mong ước của mình. Họ không chờ đợi những người khác hoàn thành những giấc mơ của họ. Nếu có một vấn đề, thì họ hỏi: “Tôi có thể làm gì trước vấn đề này? Những đường lối hành động gì khả thi đối với tôi”. Họ không kêu lên: “Người ta phải làm điều gì đó!”. Nếu điều gì đó bất ổn, thì họ hỏi: “Tôi đã bỏ lỡ điều gì? Tôi tính toán sai chỗ nào?”. Họ không tự cho phép mình đổ lỗi một cách điên rồ. Nói tóm lại, họ chịu trách nhiệm về sự hiện hữu của mình. Và theo nguyên tắc nhân quả qua lại đã được thảo luận trước đây (những hành động phát xuất từ lòng tự trọng tốt cũng là cách diễn tả về lòng tự trọng tốt), người nào chịu trách nhiệm về sự hiện hữu của mình, thì vì vậy, họ đều có khuynh hướng phát sinh lòng tự trọng lành mạnh. Trong chừng mực nào đó, chúng ta
  21. chuyển từ khuynh hướng thụ động sang khuynh hướng chủ động, chúng ta yêu quý bản thân nhiều hơn, tin tưởng mình hơn, và cảm thấy thành thạo hơn để sống và xứng đáng hưởng hạnh phúc hơn. Khi làm việc với các thân chủ trong việc điều trị, tôi thường nhận thấy hầu hết mọi sự thay đổi triệt để nhất đều xảy ra sau khi thân chủ nhận ra rằng không ai đến cứu giúp họ. “Không ai đến cứu giúp” là chủ đề thường xuyên trong công việc của tôi ở mọi mức độ có thể được. Vài thân chủ đã nói với tôi: “Cuối cùng, khi tôi tự cho phép mình đối diện với trách nhiệm đầy đủ đối với cuộc đời của mình, thì tôi bắt đầu phát triển. Tôi bắt đầu thay đổi. Và lòng tự trọng của tôi bắt đầu gia tăng”. Trách nhiệm-bản thân đưa đến những nhận thức rõ như sau: Tôi chịu trách nhiệm về những chọn lựa và hành động của mình. Tôi chịu trách nhiệm về cách thức tôi dành ưu tiên cho thì giờ của mình. Tôi chịu trách nhiệm về mức độ ý thức mà tôi mang lại cho công việc của mình. Tôi chịu trách nhiệm về sự chăm sóc hoặc thiếu chăm sóc mà tôi đối xử với cơ thể mình. Tôi chịu trách nhiệm về các mối quan hệ mà tôi chọn để giữ nguyên hoặc bắt đầu giải quyết. Tôi chịu trách nhiệm về cách thức tôi đối xử với người khác – vợ chồng, con cái, cha mẹ, bạn hữu, đồng nghiệp, thủ trưởng, cấp dưới, nhân viên bán hàng trong một gian hàng.
  22. Tôi chịu trách nhiệm về ý nghĩa mà tôi mang lại hoặc không mang lại cho sự hiện hữu của mình. Tôi chịu trách nhiệm về hạnh phúc của mình. Tôi chịu trách nhiệm đối với cuộc đời mình – về vật chất, cảm xúc, trí tuệ, tinh thần. Khi tôi nói về việc “chịu trách nhiệm” trong văn cảnh này, ý tôi muốn nói đến trách nhiệm không phải như người nhận đổ lỗi về luân lý hoặc tội lỗi, nhưng là trách nhiệm với tư cách là tác nhân chủ yếu trong cuộc đời và lối cư xử của bạn. Đây là một điểm quan trọng. Trong cuốn Tôn trọng Bản thân, khi thảo luận về một số cách áp dụng trách nhiệm-bản thân, tôi đã viết: một thân chủ đang điều trị học hỏi cách đặt vấn đề: “Tại sao và làm thế nào mà tôi lại tự làm cho mình trở nên thụ động đến thế?”, thay vì than thở: “Tại sao tôi thụ động đến thế?”. Thay vì khẳng định rằng họ không thể quan tâm đến bất cứ điều gì, thì thân chủ học hỏi để khảo sát tỉ mỉ về nguyên nhân tại sao và làm thế nào họ cứ tự ngăn cản mình không trải nghiệm những cảm giác mạnh mẽ về bất cứ điều gì. Trong văn cảnh này, “Tại sao” nghĩa là:” Vì mục đích gì?”. Thay vì nói: “Tại sao cái gáy của tôi trở nên căng thẳng đau đớn?”, thì thân chủ học hỏi để nói rằng: “Bằng cách duỗi căng các bắp thịt cổ của mình, tôi đang cố gắng tránh trải nghiệm những cảm giác gì?”. Thay vì than phiền rằng người ta quá thường xuyên lợi dụng họ, thì thân chủ học hỏi để nói rằng: “Tại sao và làm thế nào tôi lại mời gọi hoặc khuyến khích người ta lợi dụng mình?”. Thay vì than phiền: “Không ai hiểu tôi”, thì thân chủ học hỏi để nói rằng: “Tại sao và làm thế nào tôi lại gây khó khăn để người ta
  23. không hiểu mình?”. Thay vì nói: “Tại sao phụ nữ luôn luôn xa cách tôi?”, thì thân chủ đương đầu với câu hỏi: “Tại sao và làm thế nào tôi lại khiến cho phụ nữ luôn luôn xa cách mình?”. Thay vì than thở: “Tôi luôn luôn thất bại đối với bất cứ điều gì tôi nỗ lực ”, thì thân chủ bắt đầu suy nghĩ: “Tại sao và làm thế nào tôi cứ luôn luôn làm cho chính mình bị thất bại đối với bất cứ điều gì tôi nỗ lực ?”. Tôi không cho rằng người ta không bao giờ đau khổ vì tai nạn hoặc lỗi lầm của người khác, hoặc người ta phải chịu trách nhiệm về bất cứ điều gì xảy ra cho họ. Chúng ta không có quyền hạn tuyệt đối. Tôi không ủng hộ khái niệm to tát rằng: “Tôi chịu trách nhiệm về bất cứ khía cạnh gì thuộc về sự hiện hữu của tôi, và bất cứ điều gì xảy đến với tôi”. Chúng ta làm chủ được một số điều; những người khác thì không. Nếu tôi cứ tiếp tục chịu trách nhiệm về các vấn đề vượt quá quyền kiểm soát, thì tôi sẽ đặt lòng tự trọng của mình trước nguy cơ, vì tôi sẽ không tránh khỏi việc gây thất bại cho những mong đợi của mình. Nếu tôi khước từ chịu trách nhiệm về các vấn đề nằm trong tầm kiểm soát, thì một lần nữa, tôi sẽ gây nguy hiểm cho lòng tự trọng của mình. Tôi cần nhận biết sự khác biệt giữa điều gì tùy thuộc và không tùy thuộc vào mình. Tôi cũng cần phải biết rằng tôi chịu trách nhiệm về thái độ và những hành động của mình đối với các sự việc mà tôi không làm chủ được, như lối cư xử đối với người khác. Hiểu theo lý trí, thì trách nhiệm-bản thân thật cần thiết đối với lòng tự trọng tốt. Thói tránh né trách nhiệm-bản thân biến chúng ta thành nạn nhân đối với chính cuộc sống của mình. Nó khiến chúng ta trở nên bất lực. Chúng ta dành quyền hạn cho tất cả mọi người, ngoại trừ chính mình. Mỗi khi nản lòng, chúng ta tìm kiếm người nào đó để đổ lỗi; những người khác có lỗi đối với sự bất hạnh của chúng ta. Ngược lại, cách đánh giá đúng
  24. trách nhiệm-bản thân có thể là một kinh nghiệm khiến chúng ta vui vẻ và được trao quyền để hành động. Điều này đặt cuộc sống trở lại vào bàn tay của chúng ta. Bài tập hoàn tất-câu giúp chúng ta hiểu điểm này một cách nhanh chóng và sáng sủa: Một người môi giới địa ốc tuổi trung niên nói: “Nếu tôi phải bỏ thói đổ lỗi cho vợ tôi về tình trạng không hạnh phúc, thì tôi phải đối đầu với sự thụ động của mình; tôi phải đối đầu với sự kiện tôi buồn bã trong hầu hết cuộc đời mình; tôi phải nhận ra rằng mình đã chọn ở lại với cô ấy, trong khi không ai bắt buộc tôi; tôi phải thừa nhận rằng tôi cần người nào đó để đổ lỗi; tôi phải từ bỏ quyền kiểm soát của tôi đối với cô ấy; tôi phải nhìn vào những chọn lựa của mình; tôi phải làm điều gì đó khác hơn là chỉ chịu đựng”. Một thiếu phụ quá phàm ăn nói: “Nếu tôi phải chấp nhận rằng tôi chịu trách nhiệm về tình trạng cơ thể mình, thì tôi phải từ bỏ cảm giác tiếc nuối đối với bản thân; tôi phải chấm dứt đổ lỗi cho cha mẹ tôi về tất cả mọi sự; chắc chắn tôi phải bắt đầu tập thể dục; tôi nghĩ rằng mình không thể tiếp tục làm hại cơ thể mình như tôi đang làm bây giờ; tôi yêu quý bản thân mình nhiều hơn; tôi có được vóc dáng; tôi ngừng đắm mình trong thói tự-thương hại bản thân; tôi ra khỏi tầm bắn của mình và làm điều gì đó về tình trạng này”. Sau những giông tố không ngừng tuôn trào cảm xúc trong suốt cuộc sống gia đình mình, một phụ nữ đang làm vợ và mẹ nói: “Nếu tôi chịu trách nhiệm về những cảm giác của mình, thì tôi phải nhìn vào sự kiện rằng mỗi khi tôi nản lòng, tôi đều biến thành một đứa trẻ; tôi phải đương đầu với tình trạng tôi thực sự không hạnh phúc ; tôi biết rằng nhiều cơn tức giận của mình che giấu tâm trạng bất an; có lẽ tôi có thể thành thật hơn với
  25. chồng tôi về những nỗi sợ hãi của mình; tôi sẽ không dằn vặt con cái nữa; tôi phải thừa nhận rằng tôi thường sử dụng những cảm xúc để điều động gia đình tôi làm những gì mình gì mình muốn; tôi phải chấp nhận rằng những người khác cũng có cảm giác; tôi sẽ suy nghĩ trước khi nói; tôi sẽ không tự coi mình như là nạn nhân của vũ trụ”. Một người đàn ông ngoài 30 tuổi, chưa bao giờ giữ được công việc của mình quá 8 tháng nói: “Nếu tôi nhận trách nhiệm vì đạt được những điều mong muốn, thì tôi phải nhận ra rằng thời gian đang trôi qua; trước mắt là tôi không còn trẻ nữa; tôi sẽ không mơ tưởng và viển vông quá nhiều; tôi phải thừa nhận rằng tất cả những gì tôi đã từng làm đều là động tác xoay tròn những chiếc bánh xe cuộc đời mình; tôi phải thừa nhận rằng mình đã hoảng sợ đến thế nào khi thực sự tự cam kết đối với bất cứ điều gì; tôi sẽ không ghen tị quá nhiều với thành công của người khác; tôi không thể tiếp tục đổ lỗi cho hệ thống; tôi ổn định ở một đường hướng và ở lại với nó; tôi ngừng đưa ra cớ để cáo lỗi; tôi nhận ra rằng không gì bắt đầu trở nên tốt đẹp hơn, trừ khi tôi thay đổi ”. Một giáo viên trung học 34 tuổi thay đổi bác sĩ vài lần trong một năm nói: “Chừng nào tôi còn có thể đổ lỗi cho cha mẹ tôi về tình trạng không hạnh phúc của mình, thì tôi không bao giờ phát triển; tôi có thể khiến người ta cảm thấy tiếc nuối cho tôi; tôi có thể làm cho những người thân của tôi thấy mặc cảm; tôi có thể làm cho người khác cảm thấy họ đã tùy thuộc vào tôi; tôi có thể tự nhủ rằng đó không phải là lỗi của tôi; tôi có thể làm cho các bác sĩ tiêu tan hy vọng; tôi có thể cảm thấy bi thảm; tôi có thể trở thành một nạn nhân; tôi viện cớ về tất cả mọi sự; tôi không phải chịu trách nhiệm về cuộc đời mình”. Một bác sĩ tâm thần vốn nhiệt tình đáp ứng những nhu cầu của tất cả mọi người, ngoại trừ đối với gia đình riêng của ông, đã nói: “Nếu tôi phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc
  26. đời mình, thì tôi sẽ ngừng nói rằng tôi quá bận rộn nên không thể hưởng hạnh phúc ; tôi ngừng cố gắng gây ấn tượng đối với các bệnh nhân của tôi rằng tôi tử tế và thương cảm như thế nào; tôi ngừng cảm thấy mình giống như một vị tử đạo; tôi ngừng khăng khăng rằng vợ tôi phải đối xử khác với tôi một cách vô giới hạn; tôi biết trách nhiệm của mình đối với những người khác kết thúc ở đâu; tôi sẽ tử tế hơn với vợ con; tôi nhận ra rằng sự hy sinh bản thân là thoát khỏi một trách nhiệm không mong muốn; tôi bắt đầu áp dụng cho bản thân những điều tôi vẫn hướng dẫn các bệnh nhân của mình; tôi thừa nhận rằng không ai có thể sống cho những người khác và nếu có thể được thì họ không nên làm như vậy; tôi phải sống liêm chính hơn; tôi tôn trọng bản thân mình hơn và gia đình tôi sẽ như vậy; tôi phải nghĩ đến những điều mình thực sự mong muốn trong cuộc sống”. Nếu bạn chưa thực hiện các bài tập hoàn tất-câu trong cuốn sách này, thì có thể bạn ngạc nhiên khi người ta vô tư thừa nhận sự thưởng-phạt đối với thói tránh né trách nhiệm-bản thân. Nhưng nếu bạn thực sự muốn gia tăng lòng tự trọng, thì sau đây là một số gốc câu để bạn làm, trước khi bắt đầu đi xa hơn: Đôi lúc , khi các sự việc đang diễn tiến tốt đẹp, thì tôi lại tự làm cho mình trở nên bất lực bằng cách – Cách tốt đẹp trong việc tự làm cho mình trở nên bất lực là – Đôi khi, tôi thử tránh trách nhiệm bằng cách đổ lỗi – Đôi khi, tôi để cho mình trở nên thụ động bằng cách – Đôi khi, tôi sử dụng cách tự-đổ lỗi cho mình để -
  27. Nếu tôi có trách nhiệm hơn khi làm việc thì – Nếu tôi có trách nhiệm hơn đối với thành công trong các mối quan hệ của mình thì – Nếu tôi có trách nhiệm đối với mọi lời tôi phát biểu thì – Nếu tôi có trách nhiệm đối với những cảm giác của mình thì – Nếu tôi có trách nhiệm đối với những hành động của mình, từng phút một thì – Nếu tôi có trách nhiệm đối với hạnh phúc của mình thì – Nếu ý nghĩa duy nhất trong cuộc đời tôi là ý nghĩa mà tôi đang sẵn sàng tạo ra thì – Nếu tôi sẵn sàng hít thở thật sâu và trải nghiệm đầy đủ sức mạnh riêng của mình thì – Ngay bây giờ, điều rất rõ ràng là - Có lẽ bạn ý thức rằng ở một số lãnh vực trong cuộc đời mình, bạn ít có trách nhiệm-bản thân hơn so với những lãnh vực khác. Có thể bạn rất chủ động và có trách nhiệm trong công việc, nhưng lại rất thụ động trong nhà đối với gia đình bạn. Có thể bạn rất có trách nhiệm về sức khỏe của mình, nhưng lại rất vô trách nhiệm về tiền bạc. Có thể bạn rất chủ động về sự phát triển trí tuệ, nhưng lại rất thụ động về những cảm xúc của mình. Bạn hãy xem xét những lãnh vực sau đây: Sức khỏe.
  28. Những cảm xúc. Chọn lựa của bạn về người tình. Chọn lựa về bạn đời. Chọn lựa về bạn bè. Trạng thái hạnh phúc của bạn về tài chính. Mức độ ý thức và trách nhiệm mà bạn đặt vào công việc. Mức độ ý thức và trách nhiệm mà bạn đặt vào các mối quan hệ của mình. Cách thức bạn đối xử với mọi người nói chung. Sự phát triển trí tuệ của bạn. Tính cách. Hạnh phúc. Lòng tự trọng. Bây giờ, bạn hãy hình dung một tỉ lệ từ 1 đến 10, với số 10 biểu thị điều mà bạn coi như trách nhiệm-bản thân tối ưu, và số 1 biểu thị mức độ thấp nhất đối với trách nhiệm-bản thân. Hãy tự đánh giá mình về từng khoản, bằng cách đặt một con số bên cạnh đó. Bạn có thể tách biệt những lãnh vực nào nhiều nhất vì nhu cầu công việc. Ở điểm này, nếu bạn nhận thấy mình nghĩ đến một lãnh vực này hoặc lãnh vực khác mà bạn rất có trách nhiệm, thì có thể bạn nhận thấy mình phản đối: “Nhưng tôi không biết làm gì – tôi không biết làm thế nào để có trách nhiệm hơn”. Tất nhiên, hiếm khi điều này đúng. Trong việc hành nghề trước đây của tôi, khi các thân chủ đưa ra lời phản đối này, thì tôi sẽ thực sự chỉ ra và nói với họ
  29. những điều họ có thể làm để trở thành những người tham gia chủ động hơn trong cuộc sống của họ. Kinh nghiệm đã cho tôi thấy sự sai lầm của phương pháp này. Hiện nay, sau khi các thân chủ biết cách hoàn tất-câu như thế nào, thì tôi thường đưa ra cho họ gốc câu: Một trong những cách thức mà tôi có thể có trách nhiệm hơn đối với (điền vào lãnh vực) – và yêu cầu họ bắt đầu tiếp tục thật nhanh. Sau đó, họ bắt đầu đánh giá mình thực sự hiểu biết như thế nào. Tôi nghe thấy nhiều người, từ tất cả mọi tầng lớp xã hội và phạm vi hoạt động, đã tạo ra những câu kết thúc thấu hiểu một cách đầy ấn tượng sâu sắc đối với gốc câu này, và tôi còn học hỏi để lắng nghe với thái độ hoài nghi rộng lượng, đối với những lời phản đối về sự thiếu hiểu biết và bất lực. Nếu bạn nghe thấy chính mình phản đối, tôi đề nghị bạn cũng làm như vậy. Tất nhiên, đôi khi những người khác có thể giúp chúng ta trở nên ý thức về một số khả năng hành động, nhưng vẫn luôn luôn có một số điều mà chúng ta vốn đã biết rằng mình có thể làm được. Bạn hãy bắt đầu bằng những điều này. Chấp nhận trách nhiệm đối với sự hiện hữu của mình là nhận ra nhu cầu sống một cách hữu ích. Đây là một ứng dụng cơ bản và quan trọng sâu xa, đối với ý tưởng có một đường hướng chủ động trong cuộc sống. Ở đây, không phải là vấn đề về mức độ khả năng hữu ích, nhưng nói đúng hơn, đó là chọn lựa của chúng ta trong việc rèn luyện bất cứ khả năng nào chúng ta có được. Công việc hữu ích là hoạt động tột bậc của con người. Động vật phải tự điều chỉnh theo môi trường tự nhiên của chúng; con người điều chỉnh môi trường tự nhiên theo họ. Chúng ta có khả năng mang lại cho cuộc sống của mình sự hợp nhất về mặt tâm lý và hiện hữu, bằng
  30. cách hòa nhập những hành động của mình với những mục tiêu đã được dự kiến trong suốt cuộc đời chúng ta. Cho dù chúng ta tìm kiếm công việc nào đòi hỏi và diễn tả cách sử dụng đầy đủ nhất, chu đáo nhất đối với tâm trí và các giá trị của mình (giả thử tồn tại cơ hội để làm như vậy), thì không phải loại công việc mà chúng ta chọn ảnh hưởng đến lòng tự trọng của chúng ta (tất nhiên, miễn là công việc đó không độc hại đối với cuộc sống con người). Sống hữu ích là tự cung cấp cho mình một những niềm vui và phần thưởng độc nhất của con người. Sống có trách nhiệm (và do đó, cổ vũ lòng tự trọng lành mạnh) liên quan mật thiết đến lối sống tích cực . Thái độ đối với trách nhiệm-bản thân được thực hiện và diễn tả thông qua những hành động. Tôi có thể thực hiện những hành động nào sẽ đưa tôi đến gần hơn với những mục tiêu của mình? Tôi có thể thực hiện những hành động nào sẽ thăng tiến sự nghiệp của mình? – để cải thiện đời sống yêu thương của tôi – để khơi dậy lối cư xử tốt hơn từ những người khác ? – để gia tăng thu nhập của tôi? – để làm cho bản thân tôi hạnh phúc hơn? – để trau dồi sự phát triển trí tuệ hoặc tinh thần của tôi? Giống như chúng ta cần suy nghĩ về những lối cư xử, nếu chúng ta mong ước gia tăng lòng tự trọng của mình, nếu chúng ta mong ước sống có trách nhiệm hơn, thì chúng ta cần suy nghĩ trong những điều kiện hành động rất cụ thể. Chẳng hạn, thật không đủ tốt khi tự nhủ: “Tôi nên chu đáo hơn”. Bạn sẽ làm gì nếu bạn chu đáo hơn? Thật không đủ tốt khi tự nhủ: “Tôi nên có một thái độ tốt hơn đối với gia đình”. Thái độ tốt hơn sẽ được biểu thị như thế nào qua lối cư xử cụ thể? Lối cư xử có thể về mặt tinh thần hoặc thể lý. Suy nghĩ là một hành động; giữ sự tập trung vào việc thực hiện công việc là
  31. một hành động; làm một bản danh sách là một hành động; đưa ra lời phát biểu đối với một người khác là một hành động; và cũng vậy đối với việc vuốt ve một khuôn mặt, truyền đạt sự đánh giá bằng những lời nói, viết một lá thư, thừa nhận một lỗi lầm, chuẩn bị một bản báo cáo, quyết toán một cuốn sổ séc, hoặc xin một công việc. Câu hỏi vẫn luôn luôn là: Lối cư xử có phù hợp với bối cảnh không? Sống có trách nhiệm-bản thân nghĩa là quan tâm đến câu hỏi đó. Vì thế, nếu chúng ta mong muốn thực hành trách nhiệm- bản thân nhiều hơn ở một số khía cạnh trong cuộc sống của mình, thì chúng ta cần suy nghĩ: Những hành động nào có thể được đối với tôi ở đây? Những chọn lựa của tôi là gì? Nếu tôi không chờ đợi một phép lạ, hoặc chờ đợi người khác làm điều gì đó, thì tôi có thể làm gì? Nếu tôi chọn lựa không làm gì cả, và chấp nhận nguyên trạng, thì tôi có sẵn sàng nhận trách nhiệm về quyết định đó không? Hãy xem xét điều này: Nếu trong cuộc sống của bạn, có những lãnh vực mà bạn thực hành một mức độ trách nhiệm-bản thân cao hơn, so với những lãnh vực khác, thì tôi đoán rằng đây cũng là những lãnh vực mà trong đó, bạn yêu thích bản thân mình nhiều nhất. Lãnh vực nào bạn tránh né trách nhiệm đều là lãnh vực bạn yêu thích bản thân mình ít nhất. Một lần nữa, tôi đề nghị bài tập hoàn tất-câu để kiểm tra điều này: Như vậy: Tôi thực hành trách nhiệm-bản thân lớn nhất khi tôi -; tôi tránh né trách nhiệm-bản thân nhiều nhất khi tôi -; Khi tôi có trách nhiệm-bản thân, tôi cảm thấy -; Khi tôi tránh né trách nhiệm-bản thân, tôi cảm thấy -; Nếu bất cứ điều gì tôi đang viết đều đúng, thì – Tôi đang trở nên ý thức rằng -
  32. Một lần nữa, bạn hãy suy nghĩ về 7 ngày kế tiếp trong cuộc đời bạn. Nếu bạn phải thực hành trách nhiệm-bản thân nhiều hơn, thì bạn có thể làm gì một cách khác biệt? Hãy viết câu trả lời của bạn trong một cuốn vở. Sau đó, hãy nghĩ đến cách biến những điều bạn đã viết thành hành động. Đừng nghĩ đến việc tự cam kết suốt đời, nhưng chỉ trong 7 ngày kế tiếp mà thôi – như một cuộc thử nghiệm. Hãy khám phá tác động đối với ý thức của bạn về bản thân. Khám phá tác động đối với cuộc đời bạn. Sau đó, nếu bạn thích những điều mình khám phá được, hãy thử thêm 7 ngày. Rồi 7 ngày nữa.
  33. Chương 8 Sống Đích thực Những sự dối trá tàn phá nhất đối với lòng tự trọng của chúng ta không quá nhiều bằng những lời dối trá chúng ta nói, so với những sự dối trá chúng ta sống. Chúng ta sống dối trá khi chúng ta xuyên tạc sự thật về kinh nghiệm hoặc sự thật về con người mình. Do đó, tôi đang sống dối trá khi tôi giả vờ yêu thương mà tôi không cảm thấy; khi tôi giả vờ lãnh đạm mà tôi không cảm thấy; khi tôi tự giới thiệu về bản thân nhiều hơn con người của mình; khi tôi tự giới thiệu về bản thân ít hơn con người của mình; khi tôi nói rằng mình tức giận, và sự thật là tôi đang e ngại; khi tôi giả vờ bất lực, và sự thật là tôi lôi cuốn; khi tôi phủ nhận và che giấu sự phấn khích của mình về cuộc đời; khi tôi làm ra vẻ mù quáng phủ nhận ý thức của mình; khi tôi làm ra vẻ có một khả năng hiểu biết mà tôi không có; khi tôi cười trong khi tôi cần phải khóc; khi tôi liên tục dành thời gian cho những kẻ mà tôi không ưa; khi tôi tự giới thiệu về mình như là hiện thân của các giá trị mà tôi không cảm thấy hoặc nắm giữ; khi tôi tử tế với tất cả mọi
  34. người, ngoại trừ những người mà tôi công nhận là mình yêu thương; khi tôi giả mạo những niềm tin để đạt được sự chấp nhận; khi tôi giả vờ khiêm tốn; khi tôi giả vờ ngạo mạn; khi tôi để cho sự thinh lặng của mình hàm ý rằng tôi đồng ý đối với những niềm tin mà tôi không chia sẻ; khi tôi thú nhận say mê một loại người, trong khi vẫn nhất định ngủ với người khác. Lòng tự trọng tốt đòi hỏi sự phù hợp - nghĩa là con người bên trong và con người biểu thị ra ngoài đời phải hòa hợp với nhau. Nếu tôi chọn giả mạo sự thật về con người mình, thì tôi làm như vậy để gây ấn tượng sai lầm đối với ý thức của những người khác (cũng như của bản thân mình). Tôi làm như vậy vì tôi cảm thấy hoặc tin rằng không thể chấp nhận được con người thực sự của mình. Tôi đánh giá ảo tưởng nơi tâm trí người khác vượt trên sự hiểu biết của mình về sự thật. Sự bất lợi là tôi sống suốt đời với cảm giác bị dằn vặt rằng mình là một kẻ lừa đảo. Điều này có nghĩa là trong số những điều khác, tôi tự ràng buộcmình vào nỗi lo lắng khi tự hỏi: khi nào tôi sẽ được khám phá. Trước hết, tôi cự tuyệt chính mình; điều này hàm ý trong lối sống dối trá, trong việc lừa dối sự thật về con người của mình. Sau đó, tôi xoay quanh cảm giác bị những người khác cự tuyệt hoặc tìm kiếm những dấu hiệu khả thi về sự cự tuyệt, mà tôi đang nhanh chóng tìm thấy một cách tiêu biểu. Tôi tưởng tượng rằng vấn đề nảy sinh giữa bản thân tôi và những người khác. Tôi không thấu hiểu rằng chính tôi đã thực hiện nơi bản thân mình điều tồi tệ nhất mà tôi vẫn sợ hãi từ những người khác. Lòng chân thành bao gồm việc tôn trọng sự khác biệt giữa điều có thật và không có thật – và không tìm cách đạt được các giá trị bằng cách lừa dối sự thật; nghĩa là không tìm cách đạt được mục tiêu bằng cách giả vờ rằng sự thật khác hẳn với điều đang diễn ra.
  35. Khi chúng ta cố gắng sống một cách không xác thực, thì chúng ta luôn luôn trở thành nạn nhân đầu tiên của chính mình, vì rốt cuộc sự dối trá hướng tới bản thân chúng ta. Rõ ràng những lời nói dối bình thường trong cuộc sống hàng ngày gây bất lợi cho lòng tự trọng – “Không, tôi không lấy mẩu bánh thứ ba đâu”; “Không, tôi không ngủ với kẻ này người kia”; “Không, tôi không lấy tiền”; “Không, tôi không giả mạo những kết quả bài kiểm tra” v.v Hàm ý luôn luôn là sự thật đáng xấu hổ hoặc tệ hơn cả đáng xấu hổ. Đó là thông điệp mà chúng ta truyền đạt đến chính mình, khi chúng ta đưa ra những lời nói dối như vậy. Đây là mức độ rõ rệt của sự thiếu thành thật. Sau đây, chúng ta phải suy nghĩ về sự thiếu thành thật thuộc loại sâu xa hơn nhiều, một loại kết hợp rất mật thiết (chúng ta có cảm giác như thế) với sự sống còn của chúng ta, đến nỗi chúng ta thường không thừa nhận rằng đó là một thách thức kinh khủng hơn. Việc tránh né sự hiểu lầm có thể có, đánh giá đúng lối sống xác thực không có nghĩa là bắt buộc phải nói sự thật. Điều này không có nghĩa phải thông báo từng tư tưởng, cảm giác, hoặc hành động có thể có, bất kể bối cảnh, sự phù hợp hoặc thích đáng. Lối sống xác thực không có nghĩa là tự nguyện bộc lộ những sự thật riêng tư một cách không phân biệt hoặc lộn xộn. Điều này không có nghĩa là tự ý đưa ra những ý kiến về vẻ bề ngoài của người khác, hoặc đưa ra những lời chỉ trích về mọi khía cạnh – một cách tất yếu – ngay cả khi được yêu cầu. Điều này không có nghĩa là tự nguyện thông tin cho kẻ cướp về những nữ trang đang che giấu. Mặt khác, chúng ta phải nhận ra rằng hầu hết chúng ta đều đã từng được khuyến khích không rõ rệt về lối sống xác thực hầu như từ ngày chúng ta chào đời. Hầu hết chúng ta đều được nuôi dạy và giáo dục bằng những cách thức khiến việc đánh giá đúng về tính xác thực càng
  36. trở nên khó khăn vượt trội. Chúng ta đã học hỏi từ rất sớm để phủ nhận những điều chúng ta đang cảm thấy, để đeo mặt nạ, và rốt cuộc đánh mất mối quan hệ với nhiều khía cạnh trong cuộc sống nội tâm của mình. Chúng ta trở nên vô ý thức về nhiều khía cạnh thuộc về con người nội tâm – nhân danh việc điều chỉnh đối với thế giới chung quanh chúng ta. Người lớn khuyến khích chúng ta phủ nhận những nỗi sợ hãi, tức giận và đau đớn, vì những cảm giác như vậy làm cho họ không thoải mái. Thông thường, họ không biết cách phản ứng như thế nào, khi sự giả vờ hòa hợp trong gia đình bị phá hủy hoàn toàn. Nhiều người trong chúng ta cũng được khuyến khích che giấu (và cuối cùng dập tắt) sự phấn khích của mình. Sự phấn khích lan truyền trong thần kinh của họ. Nó làm cho những người lớn khó chịu khi ý thức được những điều mà từ lâu trước đây họ đã đầu hàng. Sự phấn khích phá hủy công việc hàng ngày. Các bậc cha mẹ lãnh đạm và kiềm chế về cảm xúc có khuynh hướng nuôi dạy những đứa con lãnh đạm và kiềm chế về cảm xúc, không chỉ thông qua các mối quan hệ rõ rệt của họ, mà còn thông qua lối cư xử, vốn bộc lộ cho con cái những điều gì thích đáng, phù hợp và có thể chấp nhận được về mặt xã hội. Ngoài ra, bởi vì rất nhiều điều trong thời thơ ấu gây hoang mang, khiếp sợ, đau khổ và nản chí, nên chúng ta học hỏi cách kiềm chế cảm xúc như một cơ cấu để tự vệ, như một cách thức để giúp chúng ta có thể vượt qua cuộc sống. Chúng ta học hỏi tất cả một cách quá nhanh chóng. Để sống còn, chúng ta học hỏi để “đóng vai người chết”. Cách “đóng vai người chết” rất phổ biến, đến nỗi nói chung, chúng ta nhận thấy đó là một trạng thái bình thường và thậm chí đáng mong ước của các sự việc. Nó quen thuộc, “dễ chịu”, trong khi có thể chúng ta cảm thấy sự sinh động thật xa lạ, thậm chí còn lạc hướng nữa. Tuy nhiên, cách “đóng vai người chết” lại là một chính sách loại bỏ-bản thân và xa rời-bản thân.
  37. Một trong những kinh nghiệm đau lòng và lạc hướng nhất của thời thơ ấu mà người ta đều có khuynh hướng kiềm chế là nhận ra rằng hầu hết người lớn đều là những kẻ dối trá. Điều này cũng có thể trở thành một hàng rào cản đối với sự hiểu biết và đánh giá tính xác thực. Tôi nghe thấy mẹ tôi thuyết giảng cho tôi về đức tính thành thật, rồi sau đó, tôi cũng nghe thấy chính bà lại nói dối bố tôi. Bố tôi nói với mọi người rằng ông coi thường người nào đó, rồi lát sau, chính ông lại bắt đầu nịnh bợ người đó suốt bữa ăn tối. Tôi nhìn thấy một giáo viên trắng trợn phủ nhận sự thật đối với một sinh viên khác, thay vì thừa nhận rằng chính bà đã phạm lỗi. Theo hiểu biết của tôi, thì không nhà tâm lý nào nghiên cứu về tác động gây tổn thương đối với giới trẻ, qua tính chất nghiêm trọng của sự dối trá nơi những người lớn. Tuy nhiên, khi tôi nêu vấn đề trong việc điều trị, và kêu gọi các thân chủ của tôi khảo sát về nó, thì hầu hết họ đều xác nhận rằng vấn đề này gây ra sự phá hủy âm thầm nhất đối với tất cả những kinh nghiệm đầu đời. Nhiều bạn trẻ kết luận rằng lớn lên nghĩa là học hỏi để chấp nhận rằng nói dối là điều bình thường – nghĩa là chấp nhận và đi theo những điều không có thật, như một đường lối của cuộc đời. Nhưng nếu chúng ta tự thừa nhận hình thức này của sự hy sinh-tâm trí, nếu chúng ta tự để cho mình bị điều khiển bởi nỗi sợ hãi, nếu chúng ta gắn thêm tầm quan trọng vào những điều người khác tin tưởng, thay vì gắn bó vào những điều chúng ta biết là đúng – nếu chúng ta đánh giá sự thuộc về vượt trên sự hiện hữu – thì chúng ta sẽ không đạt được tính xác thực. Để đạt được tính chất này, cần phải có lòng can đảm và sự độc lập, đặc biệt bởi vì rất hiếm khi chúng ta bắt gặp những phẩm chất này nơi
  38. người khác. Nhưng tình trạng này không nên cản trở chúng ta; nếu những người sống đích thực là thiểu số, thì cũng vậy đối với những người hạnh phúc ; cũng vậy đối với những người có lòng tự trọng tốt; cũng vậy đối với những người biết cách làm thế nào để yêu thương. Trong khi phẩm chất các mối quan hệ của họ rõ ràng vượt trên phẩm chất của những người có lòng tự trọng thấp, thì nói chung, những người có lòng tự trọng cao lại ít được ưa thích. Họ hay nói thẳng hơn, vì họ vốn độc lập hơn mức trung bình. Họ cởi mở hơn về những suy nghĩ và cảm giác của mình. Nếu họ hạnh phúc hoặc phấn khích, họ không e ngại bộc lộ điều đó. Nếu họ đau khổ, họ cảm thấy không buộc phải “tỏ ra dễ chịu”. Nếu họ giữ những ý kiến không phổ biến, mặc dù vậy, họ vẫn diễn tả chúng. Họ tự khẳng định mình một cách lành mạnh. Và bởi vì họ không e ngại khi là chính mình, nên đôi khi, họ nảy sinh sự đố kỵ và không ưa những kẻ bị ràng buộc nhiều hơn vào quy ước. Đôi khi, với sự hồn nhiên, họ ngạc nhiên vì phản ứng của mình, và đôi khi, họ có thể bị tổn thương do phản ứng này. Nhưng không phải vì thế mà họ đầu hàng cam kết riêng của họ đối với sự thật. Họ không đánh giá ý kiến hay của những người khác vượt trên lòng tự trọng của mình. Họ chỉ biết rằng có những kẻ mà tốt nhất họ nên tránh gặp. Họ tìm cách nuôi dưỡng các mối quan hệ tốt thay cho các mối quan hệ xấu – ngược lại với những kẻ có lòng tự trọng thấp, hầu như luôn luôn kết thúc bằng các mối quan hệ độc hại. Các mối quan hệ của người có lòng tự trọng cao được biểu thị bằng mức độ trên trung bình về sự rộng lượng, tôn trọng, và thái độ đàng hoàng hỗ trợ lẫn nhau. Ai nhắm đến sự phát triển đều có khuynh hướng hỗ trợ khát vọng phát triển của những người khác. Ai thích thú với sự phấn khích của mình đều thích
  39. thú sự phấn khích của người khác. Ai thực hành lối nói thẳng thắn đều đánh giá đúng lối nói thẳng thắn của những người mà họ quan hệ. Ai cảm thấy dễ chịu lúc đồng ý khi họ muốn đồng ý, và khước từ khi họ muốn khước từ đều tôn trọng quyền của những người khác để làm giống như vậy. Ai sống đích thực đều kết bạn với những người tốt lành nhất, đáng tin tưởng nhất, vì những người khác đều biết mình ủng hộ họ chỗ nào – và vì những người như vậy truyền cảm hứng cho những người khác để phù hợp với tính xác thực của họ. Trong lối sống đích thực, chúng ta không chỉ tôn trọng bản thân mình – mà còn trở thành món quà tặng đối với bất cứ ai chúng ta giao tiếp. Một thân chủ than phiền rằng không ai hiểu cô: “Đôi lúc, tôi tạo cho mọi người ấn tượng sai lầm về những điều tôi cảm giác, khi tôi mỉm cười nhưng bên trong tôi lại khóc; khi tôi cố gắng gây ấn tượng đối với những người mà tôi không kính trọng; khi tôi khước từ cơn bực tức của mình và căm giận trong lòng; khi tôi giả vờ rằng không gì làm phiền tôi; khi tôi không đương đầu với bất cứ ai về bất cứ điều gì; khi tôi tỏ ra đồng ý với bất cứ người nào tôi đang nói chuyện với; khi tôi không nói thật những gì mình muốn; khi tôi đồng ý trong khi tôi lại muốn từ chối”. Một thân chủ than phiền rằng không ai quan tâm đến những mong ước của cô: “Đôi lúc, tôi làm cho mọi người gặp khó khăn trong việc dành cho tôi những điều tôi muốn, khi tôi không nói cho họ biết mình muốn gì; khi tôi giả vờ như tôi không mong muốn bất cứ điều gì; khi tôi hành động như thể tôi hoàn toàn không phụ thuộc; khi tôi khéo léo chế nhạo nỗ lực của những người khác để có lợi cho mình; khi tôi chỉ trích bất cứ điều gì; khi tôi cho đi cho lại những người khác, và sử dụng sự trao tặng đó để giữ thái độ xa cách với họ; khi tôi hành động tách biệt; khi tôi vẫn đứng yên trong khi người khác đang cố gắng tiếp cận
  40. với tôi; khi thậm chí tôi không để cho bản thân biết mình mong muốn gì”. Một phụ nữ than phiền rằng người khác lợi dụng bà: “Nếu tôi sẵn sàng từ chối khi tôi muốn từ chối, thì tôi có lòng tự trọng hơn; tôi tự hỏi không biết người ta có thích mình không; tôi cảm thấy mình trong sạch hơn; tôi sẽ có thêm thời gian để làm những việc mình muốn; tôi sẽ không bực tức với ai; tôi sẽ tử tế hơn; tôi sẽ không nổi loạn và từ chối những việc nhỏ nhặt như vậy; người ta sẽ biết tôi; tôi nghĩ rằng nói chung, tôi sẽ quảng đại hơn; tôi không thể cảm thấy mình giống như một vị tử đạo; tôi sẽ chịu trách nhiệm đối với những điều đã xảy ra cho mình; tôi không thể đổ lỗi cho bất cứ ai; tất cả đều tùy thuộc bản thân mình; tôi không thể cảm thấy hối tiếc cho chính mình; tôi có phẩm giá”. Một người đàn ông than phiền rằng cuộc sống của ông thật đáng chán: “Nếu tôi đồng ý khi tôi muốn đồng ý, thì tôi can đảm hơn; tôi chấp nhận nhiều rủi ro hơn; tôi phải để cho mọi người biết tôi là ai; tôi phải thành thật về những việc tôi quan tâm; tôi thường xuyên tiếp xúc với người khác hơn; tôi có những cuộc phiêu lưu; tôi sẽ không quá tự bảo vệ mình; tôi sẽ không quá thận trọng; tôi trở thành một người tham gia vào cuộc sống thay vì như một quan sát viên; con người của tôi sẽ thực tế hơn”. Một phụ nữ quá bận tâm đến việc đạt được sự tán thành của người khác đã nói: “Nếu tôi không ở đây để sống theo những mong đợi của người khác nào đó, thì tôi sẽ nói với họ về những điều tôi thực sự suy nghĩ và cảm thấy; tôi phải tìm thấy đường hướng riêng của mình; tôi phải ủng hộ chính mình; tôi phải chịu trách nhiệm về cuộc đời mình; tôi tìm ra ai thực sự là bạn mình; có lẽ tôi có thể lệ thuộc vào bản thân; đã đến lối tôi tự hỏi điều gì tôi suy nghĩ là quan trọng”. Một người đàn ông than phiền nỗi lo lắng của ông về xã hội: “Nếu tôi chân thành hơn đối với những suy nghĩ và ý kiến
  41. của mình, thì tôi tự hỏi người ta sẽ phản ứng thế nào; tôi nghĩ rằng mình sẽ cảm thấy an toàn hơn; tôi biết rằng mình cảm thấy mạnh mẽ hơn; tôi sẽ thư giãn hơn; tôi sẽ không cảm thấy bị đe dọa như vậy; tôi sẽ yêu quý bản thân hơn; tôi tin tưởng vào chính mình hơn; tôi sẽ không lo lắng quá nhiều về ý kiến của những người khác ; tôi sẽ ít bận tâm hơn; tôi sẽ không cảm thấy mình giống như một công dân hạng hai; tôi biết rằng mình là một thành viên của cộng đồng nhân loại”. Một phụ nữ than phiền rằng không có sự nhận dạng nào: “Nếu tôi thành thật hơn về những cảm giác của mình, thì tôi phải biết mình cảm thấy gì; tôi nghĩ rằng người ta sẽ tôn trọng mình hơn; tôi sẽ tôn trọng bản thân hơn; đôi lúc, tôi phải đương đầu với sự bất đồng; chắc hẳn tôi sẽ mất một số bạn bè; tôi sẽ không luôn luôn thấp thỏm chờ đợi cảm giác của những người khác ; tôi liêm chính hơn; tôi phải thay đổi lối sống của mình; tôi sẽ không nói tôi không biết mình là ai; tôi cảm thấy mình có một trung tâm; tôi cảm thấy có điều gì đó đối với mình; tôi sẽ không cảm thấy trống rỗng; tôi sẽ không cảm thấy quá giả tạo, điều này thật đáng sợ; tôi sẽ trở thành chính mình; tôi có một bản chất”. Trong việc suy nghĩ về vấn đề sống một cách đích thực, sau đây là một số câu hỏi cơ bản để bạn suy nghĩ. (Có một số sự chồng chéo giữa chúng): Nói chung, tôi có thành thật với chính mình về những điều tôi đang cảm thấy hay không, bằng cách chấp nhận những cảm xúc của mình, trải nghiệm chúng, mà không nhất thiết buộc phải hành động dựa trên chúng? Nói chung, tôi có thành thật với người khác về những cảm giác của mình không, trong bối cảnh phù hợp khi nói về những cảm giác ?
  42. Phải chăng tôi phấn đấu một cách ý thức để chân thành và chính xác trong những cách truyền đạt của mình? Phải chăng tôi nói một cách thoải mái, cởi mở, và thẳng thắn về những điều mình yêu mến, ngưỡng mộ và thích thú? Nếu tôi bị tổn thương, bực bội hoặc tức giận, tôi có nói về điều này với sự thành thật và đàng hoàng không? Tôi có bảo vệ chính mình và tôn trọng những nhu cầu và sở thích của mình không? Tôi có để cho người khác nhận thấy sự phấn khích của mình không? Nếu tôi biết rằng mình sai lầm, tôi có thừa nhận điều này một cách thành thật và thẳng thắn không? Tôi có cảm thấy rằng con người mà tôi đang trải nghiệm trong nội tâm chính là con người mà tôi biểu lộ ra ngoài không? Một lần nữa, bạn hãy sử dụng một tỉ lệ từ 1 đến 10, với số 10 tiêu biểu cho tính xác thực tối ưu, và số 1 tiêu biểu cho mức độ thấp nhất có thể hiểu được, hãy tự đánh giá mình dựa trên từng điều khoản này. Tất nhiên, thái độ sẵn sàng sống đích thực của bạn sẽ bị thử thách trong cách bạn tự đánh giá mình. Có lẽ bạn sẽ nhận thấy rõ ràng hơn ở những lãnh vực mà trong đó, bạn tự khẳng định mình một cách không đầy đủ. Kế tiếp, bạn hãy dành vài phút để ngồi yên lặng một mình và suy nghĩ về những điều dối trá mà hiện nay bạn đang sống. Hãy suy nghĩ mà không tự khiển trách mình; mục đích của bài tập này không phải là khơi dậy mặc cảm tội lỗi, nhưng nhằm đạt được sự sáng tỏ và tự hiểu mình nhiều hơn, như một khúc dạo đầu cho tính xác thực đã được nâng cao của con người. Hãy hình dung bạn đang kể câu chuyện của mình cho một người mà bạn quý mến và đồng cảm, người thực sự muốn hiểu bạn, người muốn biết tại sao bạn cảm thấy lối sống dối trá đặc trưng này rất
  43. cần thiết hoặc đáng mong ước đến thế. Hãy nói với người bạn này rằng bạn đang cảm thấy gì về tính thiết thực – giá trị sống còn – nơi tình trạng thiếu xác thực của bạn. Rồi hãy hình dung rằng bạn của bạn sẽ mời bạn khảo sát những hình ảnh tưởng tượng của bạn về những điều sẽ xảy ra, nếu bạn từ bỏ lối sống dối trá này. Hãy giải thích rõ từng chi tiết những điều bạn tưởng tượng sẽ xảy ra. Sau đó, hãy tưởng tượng rằng bạn của bạn đang hỏi liệu có bất cứ điều kiện hoặc hoàn cảnh gì mà qua đó, bạn có thể tự nhận thấy mình đang sống đích thực hơn trong lãnh vực này – và trả lời. Rồi sau đó, bạn hãy ngồi yên lặng và tưởng tượng bạn có thể cảm thấy thế nào, bạn có thể tự trải nghiệm như thế nào, nếu bạn chọn sống một cách đích thực hơn. Hãy dành thời gian để suy nghĩ thấu suốt điều này. Hãy làm bài tập này trong vòng 10 phút, mỗi tuần một lần trong suốt hai tháng và tôi có thể đảm bảo thực sự rằng bạn sẽ cảm thấy lối sống đích thực càng ngày càng tự nhiên hơn, đáng mong ước hơn, và bạn sẽ cảm thấy ít lo lắng hơn và tự tin hơn. Bạn có thể khảo sát thêm về lãnh vực này qua bài tập hoàn tất-câu, bằng cách viết từ 6 đến 10 câu kết thúc cho từng gốc câu sau đây: Để sống chân thành với chính mình về những gì tôi đang cảm thấy, điều khó khăn là – Để sống chân thành với người khác về những gì tôi đang cảm thấy điều khó khăn là – Nếu tôi phấn đấu để thẳng thắn và chính xác trong cách truyền đạt của mình thì – Nếu tôi cởi mở nói về những điều tôi yêu mến, ngưỡng mộ và thích thú thì – Nếu tôi thẳng thắn về cảm giác bị tổn thương, bực tức hoặc tức giận thì –
  44. Nếu tôi sẵn sàng bộc lộ cho người khác sự phấn khích của mình thì – Nếu tôi thành thật về điều này trong khi tôi biết là mình sai lầm thì – Nếu tôi sẵn sàng để cho người khác nghe thấy tiếng nhạc trong thâm tâm tôi thì – Khi tôi nghĩ đến những điều tôi đầu hàng vì sợ bị kết án thì – Khi tôi nghĩ đến những điều tôi đầu hàng vì sợ bị chê cười thì – Nếu tôi sẵn sàng mỗi ngày thử nghiệm lối sống hơi đích thực hơn thì - Không ai trong phút chốc có thể nhảy từ lối sống tương đối không đích thực sang lối sống tương đối đích thực. Đó là ý nghĩa của gốc câu cuối cùng. Vấn đề là: Bạn có sẵn sàng khám phá điều gì xảy ra không, nếu bạn thử nghiệm gia tăng mức độ sống đích thực của mình từng bước một? Trong thâm tâm, chúng ta không kính trọng mình với những sai sót về tính xác thực. Một cảm giác khó chịu còn lại trong tâm hồn. Chúng ta cảm thấy liên quan đến một sự phản bội và chúng ta có lý. Nhưng nếu chúng ta không sẵn sàng đương đầu với vấn đề, thì chúng ta đang cố gắng đạt được lời an ủi của một kẻ bị thua cuộc: “Tôi không thể chịu đựng được điều đó”. Hoặc chúng ta nói: “Người này kẻ nọ dễ dàng thành thật và thẳng thắn, vì họ có lòng tự trọng tốt đến thế. Còn tôi thì không”. Chúng ta quên rằng lối sống đích thực là một trong những cách thức để chúng ta trau dồi lòng tự trọng.
  45. Đánh giá những mong ước và nhu cầu của mình (tất nhiên, mà không mong đợi bất cứ người nào khác chịu trách nhiệm về sự hoàn thành đầy đủ của họ), ngay cả khi thật khó để làm như vậy – phải chăng đây là điều mà lòng tự trọng đòi hỏi chúng ta? Đúng vậy. Nói sự thật về những điều chúng ta suy nghĩ và cảm thấy, mà không biết trước những người khác sẽ đáp lại thế nào? Đúng. Để cho người khác nhìn thấy và nhận biết chúng ta là ai? Đúng. Vẫn trung thành với ý thức riêng của mình, ngay cho dù một mình chúng ta nhìn thấy và nhận biết rằng mình biết gì? Đúng. Đây là thái độ anh hùng của sự tôn trọng bản thân. Đây cũng là đường lối của lòng tự trọng cao. Nhưng hãy đợi đấy. Bạn hãy nhìn lại quãng đường mà mình đã trải qua, từ khi bạn bắt đầu đọc cuốn sách này, có thể bạn bị cám dỗ để phản đối rằng: “Tôi nghĩ rằng mình sẽ không phải làm quá nhiều đến thế!”. Có lẽ bạn tưởng tượng rằng tất cả mọi điều mà bạn được yêu cầu để làm là mỗi ngày phát biểu vài lời khẳng định thú vị, và lòng tự trọng của bạn sẽ trổ sinh. Đây lại là loại thái độ gần như đảm bảo lòng tự trọng không đầy đủ. Ayn Rand nêu lên: “Cuộc đời là một quá trình của hành động tự lực và tự tạo”, và mọi giá trị gắn liền với cuộc đời đều đòi hỏi những hành động liên tục để hỗ trợ và duy trì điều đó”. Bạn không thể đưa thức ăn vào miệng, hoặc duy trì một sự nghiệp thành công, và bạn cũng không thể duy trì một mức độ cao của lòng tự trọng, chỉ bằng cách phát biểu những lời khẳng định. Nếu bạn mua một cuốn sách tựa đề là Làm Thế nào để Có một Cơ thể Lành mạnh, thì bạn sẽ đủ thực tế để biết ngay từ đầu rằng sẽ cần phải có hành động và kỷ luật. Bạn sẽ không làm
  46. được gì khi chỉ tự nhủ: “Cơ thể của tôi đang càng ngày càng lành mạnh hơn mỗi ngày”. Bạn cần có cùng óc thực tế như vậy khi tiếp xúc với cuốn Làm Thế nào để Gia tăng Lòng Tự trọng. Không phải lúc nào bạn cũng có tâm trạng muốn thực hiện việc tập thể dục, cũng vậy, không phải lúc nào bạn cũng có tâm trạng muốn làm các bài tập trong cuốn sách này. Nhưng nếu bạn kiên trì (trong cả hai trường hợp), thì hai điều sẽ trở nên rõ rệt: Phương pháp tập thể dục càng ngày càng dễ dàng và hấp dẫn hơn, khi bạn đạt được “vóc dáng” đẹp hơn – và khi soi gương, bạn sẽ nhìn thấy và thích thú những thành quả.
  47. Chương 9 Nuôi dưỡng Lòng Tự trọng của những Người khác Trong khi mỗi chúng ta đều chịu trách nhiệm cuối cùng đối với lòng tự trọng của mình, thì chúng ta vẫn chọn lựa trong việc hỗ trợ hoặc tấn công lòng tự tin hoặc tự trọng của bất cứ ai chúng ta giao tiếp, giống như những người khác có chọn lựa trong các quan hệ tương tác với chúng ta. Chắc hẳn tất cả chúng ta đều có thể nghĩ đến những dịp người nào đó giao tiếp với mình theo cách thức thừa nhận phẩm giá của chúng ta cũng như của họ. Chắc hẳn chúng ta cũng có thể nhớ lại những dịp chúng ta để lại một mức độ truyền đạt nghèo nàn, vì sợ hãi, tổn thương hoặc tức giận, khi trong phút chốc, phẩm giá mất hết ý nghĩa đối với chúng ta. Và chúng ta đều biết sự khác biệt mà chúng ta cảm thấy giữa hai loại kinh nghiệm đó như thế nào.
  48. Khi mối quan hệ tương tác của con người chúng ta đàng hoàng, thì chúng ta vui hưởng chúng nhiều hơn – và khi chúng ta biểu thị phẩm giá, thì chúng ta yêu mến mình hơn. Khi chúng ta đối xử theo cách thức hỗ trợ lòng tự trọng của những người khác, thì chúng ta hỗ trợ chính mình. Chúng ta hãy suy nghĩ xem một số cách thức này là gì. Một số bác sĩ tâm lý có khả năng gây tác động sâu xa về lòng tự trọng nơi những người đến xin họ tư vấn. Các bác sĩ này có thể đến vì những đường hướng lý thuyết rất khác nhau, và sử dụng các phương pháp rất khác nhau, tuy nhiên, trước sự hiện diện của họ, lòng tự trọng của thân chủ được truyền cảm hứng để gia tăng, khi người đó khám phá những khả năng mới mà dường như trước đây chưa bao giờ có thật. Nếu chúng ta hiểu được một số đặc điểm quan trọng nhất về cách các bác sĩ này làm thế nào để liên hệ với con người, thì chúng ta có thể áp dụng nguyên tắc này vào các mối quan hệ tương tác của mình. Sự hiểu biết này không có gì là bí truyền. Lý tưởng ra, nên áp dụng nguyên tắc này đối với tất cả mọi người. Giấc mơ của cá nhân tôi là một ngày nào đó, nguyên tắc này sẽ được dạy cho các học sinh. Trong suốt nhiều năm qua, tôi (và nhiều sinh viên khác) đã từng nhiều lần hỏi các thân chủ, để biết lối cư xử nào của tôi được họ cho là hữu ích nhất đối với việc củng cố lòng tự trọng của các thân chủ. Những đề tài nào đó trở đi trở lại. Không ai trong số họ là độc nhất đối với tôi. Những lối cư xử mà tôi sắp mô tả sẽ được tìm thấy trong số nhiều bác sĩ tâm lý biết cách làm thế nào để tạo thuận lợi cho sự phát triển của lòng tự trọng.
  49. Để bắt đầu, chúng ta đối xử với con người dựa trên tiền đề của lòng kính trọng. Đối với tôi, đây là yếu tố bắt buộc đầu tiên của liệu pháp tâm lý. Điều này được truyền đạt trong cách tôi chào đón các thân chủ như thế nào, khi họ đến văn phòng, cách tôi nhìn họ, nói chuyện với họ, và lắng nghe họ. Điều này đưa đến các vấn đề như sự lịch thiệp; quan hệ bằng mắt; không hạ cố; không tỏ ra đạo đức; chăm chú lắng nghe; quan tâm với sự hiểu biết và được hiểu biết; tự nhiên một cách phù hợp; từ chối được nhìn nhận trong vai trò của người có quyền lực thông suốt mọi sự; khước từ tin rằng thân chủ không có khả năng phát triển. Sự kính trọng không giảm bớt cường độ, bất kể lối cư xử của thân chủ. Thông điệp mà tôi truyền đạt là: Con người là một thực thể xứng đáng được kính trọng. Thân chủ nào được đối xử theo cách này có thể trở thành một kinh nghiệm hiếm hoi hoặc thậm chí độc nhất, có thể được kích động suốt thời gian để tái cấu trúc khái niệm của họ về bản thân. Tôi nhớ lại một người đàn ông có lần nói với tôi: “Khi nhìn lại suốt quá trình điều trị, tôi cảm thấy không điều gì khác xảy ra khá gây tác động cho bằng sự kiện đơn giản là tôi luôn luôn cảm thấy được ô kính trọng. Tôi đã cố gắng làm tất cả mọi sự có thể được, để làm cho ông coi thường tôi và xua đuổi tôi. Tôi tiếp tục làm sao cho ông hành động giống như cha tôi, nhưng ông vẫn từ chối cộng tác. Bằng cách này hay cách khác, tôi phải đối phó với điều đó, tôi phải đưa vào điều đó, ban đầu thật khó khăn, nhưng khi tôi đã thực hiện, thì cuộc điều trị bắt đầu ảnh hưởng”. Tôi còn nhớ ở một trong các phiên họp đầu tiên của chúng tôi, ông ta đã nhận xét: “Cha tôi vẫn lịch thiệp khi nói chuyện với bất cứ nhân viên phục vụ bàn nào, hơn là ông bộc lộ với tôi”. Khi một thân chủ mô tả những cảm giác sợ hãi, đau đớn hoặc tức giận, thật không ích lợi gì khi nói với họ: “Ồ, bạn không nên cảm thấy như vậy!”. Bác sĩ không phải là một người hướng dẫn công việc. Cách diễn tả những cảm giác, mà không phải
  50. đương đầu với lời chỉ trích, kết án, châm biếm hoặc giảng thuyết có giá trị lớn lao (đối với thân chủ đến điều trị hoặc đối với bất cứ người nào khác). Quá trình diễn tả cảm xúc thường có tác động chữa lành bên trong. Bác sĩ nào không thoải mái trước cách diễn tả những cảm xúc mạnh mẽ của thân chủ đều cần tiếp tục tác động đến bản thân họ. Khả năng lắng nghe một cách thanh thản và với sự đồng cảm chính là yếu tố cơ bản của nghệ thuật chữa lành. Đây cũng là yếu tố cơ bản của tình bạn đích thực. Điều này trái ngược với những người nào cứ ngắt lời bạn bằng những lời khuyên hoặc giảng thuyết – hoặc thay đổi đề tài – , khi bạn đang cố gắng truyền đạt những cảm xúc có tác động mạnh; như thể những người đó không tin tưởng nơi bạn – hoặc nơi chính họ. Với tư cách là bác sĩ, tôi coi như một trong những việc đầu tiên của mình là tạo ra một bối cảnh mà trong đó, người nào đến với tôi đều có thể diễn tả những tư tưởng và ý kiến của họ, mà không sợ bị chế nhạo hoặc chê trách. Nhưng đối với các bác sĩ tâm lý, rõ ràng không nên giới hạn một lối cư xử như vậy. Nếu bạn đồng ý rằng bạn không giành được gì bằng cách làm cho người khác cảm thấy e ngại khi nói trước sự hiện diện của bạn, thì bạn hãy tự hỏi rằng mình có tạo ra một bối cảnh cởi mở đối với người khác, khi họ tương tác với bạn hay không. Trong việc điều trị (và vì mục đích điều trị), một trong những kinh nghiệm mà người ta vẫn hy vọng là trở nên rõ ràng – được nhìn nhận và thấu hiểu. Có thể từ thời thơ ấu, họ đã từng cảm thấy bị xa lánh và không được hiểu, và họ khao khát một cảm giác khác biệt về bản thân. Vì tôn trọng mong ước này và hiểu được tính hợp lý của nó, nên tôi tìm cách đáp ứng phù hợp, bằng cách chia sẻ những nhận xét về thân chủ, và cung cấp sự phản hồi cho phép họ cảm thấy được nhìn nhận và lắng nghe. “Tôi nghĩ rằng tôi đang lắng nghe bạn nói ”. “Tôi hình dung rằng có thể bạn đang cảm thấy ”. “Ngay lúc này, bạn nhận thấy
  51. như thể ”. “Hãy để cho tôi nói với bạn rằng tôi hiểu quan điểm của bạn như thế nào ”. Nhưng chắc hẳn đây là cách truyền đạt của con người, không chỉ là cách truyền đạt trong việc điều trị tâm lý. Tất cả chúng ta đều khao khát được nhìn nhận và thấu hiểu. Chẳng phải chúng ta nên tìm các dành cho người khác điều này, để làm cho nó trở thành một phần tự nhiên trong các cuộc gặp gỡ của con người sao? Các bác sĩ hiệu quả đều phán đoán, nhưng không mang tính “phê phán”. Họ phán đoán qua những điều họ đánh giá rõ rệt, rằng một số lối cư xử cao cấp hơn những lối cư xử khác, từ quan điểm về hạnh phúc và sự lành mạnh lâu dài của thân chủ. Họ không quá đạo đức giả nhằm giả vờ rằng họ vẫn hiện diện ở đó mà không có những tiêu chuẩn – hoặc không có những điều họ thích hoặc không thích. Nhưng họ không lên mặt dạy đời và họ không tìm cách thay đổi lối cư xử bằng cách khơi dậy mặc cảm tội lỗi. Vì thế, họ không nói : “Chỉ những kẻ yếu đuối mới làm điều đó”. Hoặc: “Bạn có biết rằng bạn vô luân đến thế nào không?”. Hoặc: “Tôi không thể giúp bạn, cho đến khi bạn thừa nhận tình trạng đồi bại của mình”. Hoặc: “Tình hình không sáng sủa lắm, phải không?”. Khi chúng ta công kích người khác qua lối đánh giá của chúng ta về tính cách, trí thông minh và những điều tương tự như vậy, thì có thể chúng ta lại đe dọa họ, chứ không truyền đạt sự phát triển, tự tin hoặc tự trọng. Và chọn lựa trở nên đạo đức và “phê phán” không phải là giải pháp công kích bằng những lời ca tụng và khen ngợi thái quá. Điều này thường làm gia tăng những cảm giác không xứng đáng (hoặc không rõ rệt) nơi người nhận, vì họ biết rằng người nói không chính xác. Chúng ta có thể học hỏi để nói rằng mình thích hoặc không thích, ngưỡng mộ hoặc không ngưỡng mộ, mà vẫn không gán ghép, công kích, hoặc khen ngợi một cách phi thực tế: “Tôi thực sự thích bạn khi bạn ”. “Tôi cảm
  52. thấy tổn thương khi bạn ”. “Tôi cảm thấy được bạn truyền cảm hứng bằng của bạn”. Theo kinh nghiệm của tôi, thì các bác sĩ hữu ích đều có lòng thương cảm, nhưng họ không ủy mị và họ không khuyến khích sự thụ động hoặc tự thán. Không biết bao nhiêu thân chủ của tôi đã bình luận về tầm quan trọng của cách phân biệt này đối với sự tiến bộ của họ trong việc điều trị. Tôi hỏi: “Bạn nhận thấy điều gì là những chọn lựa của bạn?”. “Bạn nghĩ rằng bạn có thể làm gì để cải thiện tình hình của mình?”. “Bạn sẵn sàng thực hiện hành động gì?”. Tôi không ngắt lời bằng các câu hỏi này, nếu một người chỉ vừa mới bắt đầu diễn tả nỗi đau khổ. Nhưng thời gian thường đến khi cần đặt ra các câu hỏi này. Tôi tin rằng một phần công việc của tôi hệ tại ở việc đánh thức thân chủ về một đường hướng hành động. Trong cách đối xử với gia đình, bạn hữu và đồng nghiệp, sẽ không thể tránh khỏi những lúc chúng ta có thể giúp đỡ họ, nếu chúng ta chọn, bằng cách chỉ truyền đạt viễn cảnh này mà thôi. Các bác sĩ hiệu quả thật tử tế, nhưng họ không để cho tất cả các thân chủ của họ dễ dàng thắng họ. Chẳng hạn, họ không quên mình khi để cho các thân chủ cứ gọi điện thoại cho họ ngày hoặc đêm vào bất cứ lúc nào, chỉ để nói về các vấn đề lặt vặt. Họ không tự cho phép mình bị khai thác về tiền bạc. Họ không để mặc cho thân chủ có những thái độ lăng mạ hoặc thù địch mà không đối đầu (trừ khi như một chiến lược cụ thể, giới hạn-thời gian vì mục đích điều trị). Họ vạch ra những đường lối. Họ đặt ra những giới hạn. Cũng vậy đối với các bậc cha mẹ tốt, bạn bè thông minh, những người tự trọng trong tất cả mọi hoàn cảnh. Trong việc quan tâm phù hợp đến bản thân, đến những nhu cầu và thời gian của họ, các bác sĩ để lại một tấm gương. Họ báo hiệu: Đây là cách tôi đối xử với bản thân, và đây là cách bạn nên tự đối xử với chính mình. Do đó, một mặt, không có sự đụng
  53. chạm giữa thói ích kỷ hợp lý (tôn trọng những sở thích riêng của mình), và trách nhiệm chuyên môn về mặt khác. Điều này liên quan đến tất cả chúng ta. Cũng như các bậc cha mẹ hy sinh bản thân không để lại một gương mẫu tốt (“Bố mẹ đã từ bỏ cả cuộc đời mình vì các con”), nhưng họ chỉ càng dạy cho con cái họ rằng thật đúng khi tự coi mình như là đối tượng của sự hy sinh – thật ra, điều này lại có khuynh hướng gây ra nỗi oán giận, thù địch và mặc cảm nơi con cái – cũng vậy, những người bạn hy sinh bản thân (“Những nhu cầu của tôi không thành vấn đề”) lại trở thành một gánh nặng, chứ không phải là niềm vui, hoặc cảm hứng, hoặc tấm gương về bất cứ điều gì tích cực mà chúng ta muốn học hỏi. Tôi ý thức rõ rằng lối cư xử, kể cả lối cư xử đáng mong ước nhất, đều có tính hữu ích thiết thực ở mức độ nào đó, trong sự hiểu biết và bối cảnh của cá nhân có liên quan. Do đó, tôi mong ước hiểu được bản thân-trong-thế giới mà từ đó thân chủ đang hoạt động – tương phản với việc chỉ gạt bỏ lối cư xử nào như là “điên rồ”. Chẳng hạn, tiếng la hét đầy tức giận của một bà vợ, vốn có thể rất không thú vị khi chứng kiến, lại tạo ra loại cảm giác khó chịu riêng của nó, nếu chúng ta biết rằng nó hoàn toàn không có gì khiến chồng bà chú ý, và bà không có cảm giác gì về một chọn lựa nào sẽ có hiệu quả hơn. Để lập lại điểm mà trước đây chúng ta đã đưa ra trong cuốn sách này, chúng ta không hiểu được một người, nếu chúng ta chỉ gán cho họ là “đồi bại”, “không suy nghĩ”, “vô luân” và những điều tương tự như vậy. Để hiểu được một người, chúng ta cần biết được bối cảnh mà trong đó, lối cư xử của họ tạo ra loại cảm giác hoặc cảm tưởng nào đó đáng mong ước hoặc thậm chí cần thiết, ngay cho dù về mặt khác h quan, điều này hoàn toàn vô lý. Căn cứ vào mức độ các mối quan hệ cá nhân, điều này có nghĩa là giúp một người đang cư xử một cách không phù hợp
  54. nhận ra họ phát xuất từ đâu, để hiểu rằng họ đang cố gắng thỏa mãn những nhu cầu nào – nói cách khác, để mang lại cho người đó sự hiểu biết và thương cảm tôi đã gợi ý trong chương trước, mà chúng ta nên mang lại cho chính mình. “Lúc đó, bạn cảm thấy gì?”. “Bạn tự nhận thấy mình có những chọn lựa gì?”. “Bạn nghĩ rằng người đó nói gì, bạn đang phản ứng rất mạnh mẽ với ai?”. “Bạn nhận thấy tình hình như thế nào?”. Rõ ràng chúng ta không thể thực hành cách giải quyết này đồng đều với tất cả mọi người chúng ta gặp gỡ. Nhưng đối với những người chúng ta yêu thương hoặc thực sự quan tâm – hoặc có lẽ cả những người chúng ta làm việc chung – thì đây là một phương pháp có tác động mạnh. Bạn hãy nhớ rằng mặc cảm gây tê liệt không phục vụ cho lợi ích của bất cứ ai. Và khi nói điều này, tôi không hàm ý phê phán hành động sai trái hoặc ủng hộ thái độ vô luân. Rõ ràng có những lúc chúng ta cần nói rằng: “Lối cư xử của bạn hoàn toàn không thể chấp nhận được đối với tôi”. Hoặc thậm chí: “Tôi không mong ước liên kết với bạn”. Nhưng nếu mục tiêu của chúng ta là mang lại một sự thay đổi về lối cư xử, và gia tăng lòng tự trọng để hỗ trợ sự thay đổi, thì trong nhiều trường hợp, chiến lược được đề nghị trên đây có nhiều điều để giới thiệu về sự thay đổi. Giống như các giáo viên và huấn luyện viên giỏi nhất, một trong những đặc điểm của các bác sĩ đạt hiệu quả là họ biết rằng các thân chủ của họ có tiềm năng lớn hơn, so với bản thân các thân chủ có thể nhận ra. “Bạn không tin rằng bạn có thể quán triệt môn đại số sao? tôi tin rằng bạn có thể”. “Bạn không nghĩ rằng bạn có thể nhảy cao hơn sao? Hãy thử lại đi”. “Bạn nói rằng bạn không dám hành động chống lại những niềm tin của cha mẹ bạn sao? Tôi tin rằng bạn có khả năng suy nghĩ cho bản thân và điều khiển cuộc sống riêng của mình”. Nói cách khác, các bác sĩ này không mua lấy khái niệm tiêu cực về bản thân. Đây là một quan điểm về tầm quan trọng cao nhất.
  55. Có lần một thân chủ đã nhận xét với một nhà tâm lý trẻ đang nghiên cứu với tôi: “Nếu ông hỏi tôi nghĩ rằng những yếu tố nào có trách nhiệm nhất đối với sự thành công trong việc điều trị, thì tôi sẽ xếp loại trước hết là niềm tin của bác sĩ Nathaniel rằng tôi có khả năng làm được tất cả mọi điều mà tôi cảm thấy có thể làm. Tôi vẫn nghĩ rằng mình không thể kiếm sống nhờ vào điều gì đó mà tôi thực sự thích thú. Hiện nay tôi đang làm được điều đó. Tôi không bao giờ có thể tự hình dung mình hạnh phúc trong tình yêu. Bây giờ tôi đang hạnh phúc. Tôi vẫn nói với ông Nathaniel rằng tôi không có năng lực, và ông ấy sẽ nói với tôi điều gì đó như: ‘Tôi lắng nghe bạn. Chúng ta sẽ tiếp tục chứ?’”. Nếu chúng ta mong ước nuôi dưỡng lòng tự trọng của người khác, thì chúng ta cần phải hiểu và thông cảm với người đó từ tầm nhìn riêng của chúng ta về phẩm chất xứng đáng và giá trị của họ, bằng cách cung cấp một kinh nghiệm về sự chấp nhận và tôn trọng. Chúng ta cần nhớ rằng hầu hết tất cả chúng ta đều đánh giá quá thấp những nguồn lực nội tâm của mình – và cứ giữ tư tưởng đó ở trung tâm nhận thức của chúng ta. Chúng ta có khả năng hơn là chúng ta vẫn tin. Nếu chúng ta hiểu rõ điều này, thì những người khác có thể đạt được sự hiểu biết này từ chúng ta hầu hết qua sự lan truyền. Chẳng hạn, chúng ta có thể học hỏi để lắng nghe cách một người diễn tả những cảm giác của họ, ngay cả khi những cảm giác đó là bất an và hoài nghi bản thân. Và chúng ta có thể lắng nghe mà không chiều theo bất cứ sự thôi thúc nào để giảng thuyết hoặc tranh luận, vì chúng ta hiểu rằng việc hoàn toàn chấp nhận và trải nghiệm những cảm giác không mong muốn chính là bước đầu tiên hướng tới sự vượt trên chúng. Tất nhiên, chúng ta phải nhận ra rằng đôi khi, người ta có thể sử dụng những nhận xét tự làm giảm giá trị bản thân, để vận động chúng ta bất đồng và đưa ra những lời khen ngợi. Chúng ta có thể từ chối tham gia vào trò chơi đó, bằng cách nói rằng: “Tôi
  56. tự hỏi sự thưởng phạt như thế nào, khi tự hạ giá mình trong lúc này”. Có thể chúng ta rất khó khăn để tiếp tục tin tưởng vào người khác, trong khi dường như người đó lại không tin tưởng vào bản thân họ. Tuy nhiên, một trong những món quà lớn nhất mà chúng ta có thể trao tặng là sự khước từ của chúng ta, trong việc chấp nhận khái niệm nghèo nàn đối với bản thân về giá trị bề ngoài của một người, khi nhìn nhận thông qua vẻ bề ngoài, cho đến tận con người sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn vốn tồn tại bên trong, giá mà chỉ như là một tiềm năng. Không phải lúc nào chúng ta cũng thành công. Chúng ta chỉ có thể cố gắng mà thôi. Tốt nhất, chúng ta sẽ làm nổi bật những điểm mạnh nhất bên trong người khác. Tối thiểu, chúng ta sẽ củng cố điểm mạnh nhất nơi bản thân mình. Cuối cùng, trong lối cư xử của chúng ta với người khác, cho dù chúng ta hợp lý, đồng dạng và nhất quán tới mức độ nào, thì chúng ta vẫn bày tỏ với họ về thực tại, bằng một ấn tượng có thể nhận thức và hiểu được – và bất cứ bác sĩ tâm lý thành thạo nào, bất cứ con người tự trọng nào, đều phấn đấu để bày tỏ sự lành mạnh này trong các mối quan hệ tương tác của họ. Vì thế, chúng ta ra hiệu: Tâm trí của bạn thành thạo để đối xử với tôi; tôi không bày tỏ một ấn tượng gây bối rối và mâu thuẫn về thực tại, như sẽ để lại cho bạn cảm giác bối rối, yếu đuối và bất lực. Và khi chúng ta hợp lý, đồng dạng và nhất quán, thì tất nhiên là có lợi cho lòng tự trọng của chúng ta. Nhận xét này cũng liên quan đến lối cư xử của chúng ta đối với những người lớn và trẻ con. Bởi vì trong cuốn Tâm trí Bản thân, tôi khảo sát đề tài về mối quan hệ cha mẹ -con cái, nên tôi sẽ không bao hàm lý lẽ đó ở đây. Điều mà tôi đang mở rộng bây giờ là những nguyên tắc chỉ đạo nói chung, có thể áp dụng vào tất cả các mối quan hệ của chúng ta.
  57. Nhưng nếu bạn có con cái, hãy xem xét kỹ lưỡng những miêu tả trước đây về các lối cư xử, và suy nghĩ xem bạn thực hành chúng một cách nhất quán như thế nào – vì con cái cần đến lối cư xử này từ bạn, thậm chí còn nhiều hơn cả người lớn nữa. Tôi đã từng nghe thấy vô số thân chủ nói với tôi khi điều trị, qua các bài tập hoàn tất-câu: “Nếu tôi có kinh nghiệm về việc được tôn trọng khi còn nhỏ”; “Nếu người nào đó tin tưởng vào tôi khi tôi còn trẻ”; “Nếu người nào đó đã truyền đạt cho tôi rằng những mong muốn và cảm giác của tôi đều có ý nghĩa”; “Nếu người nào đó nhìn nhận tôi như một cá nhân độc nhất”; “Tôi sẽ học hỏi để tự trọng; tôi có thể tin tưởng vào bản thân; tôi sẽ coi trọng những mong muốn của mình, và làm việc để hoàn tất chúng; tôi sẽ có ý thức rõ rệt hơn về con người mình”.
  58. Khi chúng ta càng làm việc dựa trên bản thân mình nhiều hơn, thì dường như chúng ta càng đạt được sự thích đáng hơn trong các mối quan hệ tương tác của mình. Chắc hẳn không bậc cha mẹ nào có lòng tự trọng lành mạnh lại nghĩ rằng thói chế giễu con cái sẽ truyền đạt cho chúng sự độc lập và thành thạo. Không giáo viên nào có lòng tự trọng tốt sẽ cần được nói rằng thói châm biếm không phải là một phương pháp giáo dục tốt. Chắc hẳn không nhà quản trị nào tự trọng nghĩ rằng họ sẽ khơi dậy điều tốt nhất từ người khác, bằng cách đối xử với họ với vẻ coi thường. Không người tự tin nào cố gắng giữ được bạn bè bằng cách tự cho mình là một kẻ có quyền lực, và lôi kéo họ thông qua sự bất an của họ. Trong lãnh vực quan hệ cha mẹ -con cái, rõ ràng trong khi không gì được đảm bảo, thì cách thức hay nhất để truyền đạt lòng tự trọng tốt nơi con cái là bản thân chúng ta phải có lòng tự trọng (cũng như cách tốt nhất để truyền đạt những thái độ tính dục lành mạnh là bản thân chúng ta sở hữu chúng). Nhưng nguyên tắc này bao quát hơn. Nếu chúng ta mong ước đóng góp tích cực vào khái niệm của người khác về bản thân – bất cứ người nào khác, không chỉ những đứa trẻ - thì lòng tự trọng (giống như đức bác ái) phải bắt đầu ngay tại nhà, đối với bản thân chúng ta. Sự thanh thản truyền đạt sự thanh thản, hạnh phúc truyền đạt hạnh phúc, sự cởi mở truyền đạt sự cởi mở, và khi chúng ta sống theo những điều tốt đẹp nhất bên trong con người chúng ta, thì chắc hẳn chúng ta lôi kéo được những điều tốt đẹp nhất nơi những người khác. Nếu chúng ta kiên quyết để cho những người khác nhận thấy sự phấn khích của mình, thì chúng ta hàm ý rằng sự phấn khích đó là một giá trị, và họ không nên kiềm chế sự phấn khích của họ. Nếu chúng ta để cho những người khác nhận thấy niềm đam mê của chúng ta đối với những mục tiêu của mình, thì chúng
  59. ta ngấm ngầm ủng hộ khả năng của họ trong việc thiết tha tham khảo mục tiêu. Nếu chúng ta tự hào tôn trọng các giá trị và sở thích của mình, thì chúng ta ra hiệu cho những người khác rằng họ có quyền tôn trọng các giá trị và sở thích của họ. Nếu chúng ta có sự liêm chính để trở thành con người của mình, thì chúng ta có thể truyền đạt sự liêm chính đó cho những người khác. Cũng vậy, trong việc tôn trọng bản thân, chúng ta giúp xây dựng một cộng đồng những người có lòng tự trọng lành mạnh. Chủ nghĩa cá nhân không phải là đối thủ của cộng đồng, nhưng là cột trụ quan trọng nhất của nó. Nếu những ý tưởng này dường như có giá trị đối với bạn, thì chúng có ý nghĩa gì trong các mối quan hệ tương tác của bạn đối với mọi người, trong tháng tới của cuộc đời bạn? Và tháng tới nữa?
  60. Chương 10 Vấn đề về Thói Ích kỷ Lòng tự trọng thường bị nhầm lẫn với khái niệm sai về “thói ích kỷ”. Trong khi khuynh hướng văn hóa mà tôi đang ám chỉ dễ được nhận thấy khắp mọi nơi, thì tôi vẫn bắt gặp sự hiểu lầm này nơi một số cá nhân, lúc tôi đang thực hiện một tua quảng cáo cho cuốn Tôn trọng Bản thân. Hiện nay, có một khuynh hướng thiếu suy nghĩ khi gạt bỏ bất cứ cá nhân nào tích cực quan tâm đến sự phát triển cá nhân như là “kẻ quá tự yêu mình”, đây là một kiểu phản ứng dữ dội chống lại hoạt động tiềm năng của con người. Dường như “Bản thân” đã trở thành một từ có tính chất khích động, ít nhất trong một số phạm vi.
  61. Lòng tự trọng, sự thể hiện đầy đủ tiềm năng của mình, sự phát triển năng khiếu bản thân – ngay cả việc tìm kiếm sự tự trị - đều đang trở nên bị hoài nghi về mặt luân lý. Những người phỏng vấn liên tục hỏi: “Chẳng phải chúng ta có đủ ‘thế hệ của cái tôi’ sao? Chẳng phải bạn đang đang khuyến khích thói ích kỷ sao?”. Mặc dù cá nhân tôi vẫn được đối xử một cách ấm áp, nhưng tôi vẫn không thể chịu đựng được khi nhận ra rằng dường như chỉ những từ Tôn trọng Bản thân đã gợi lên sự bất an. Họ nói: “Còn về các vấn đề thế giới thì thế nào? Chẳng phải bạn quan tâm đến việc vượt khỏi cá nhân riêng biệt sao?”. Và: “Chẳng phải mỗi người đều đã sẵn có có một cái tôi quá lớn sao?”. Vì các câu hỏi này rất được thường xuyên đặt ra, nên thật có lý khi cho rằng chúng bộc lộ điều gì đó về những giả định của rất nhiều người. Chúng ta cần thách thức những giả định này. Hãy để cho tôi kể ra rằng cả trong cuốn Tôn trọng Bản thân lẫn trong bất cứ cuốn sách nào trước đây của tôi, đều không hề có thông điệp là: “Trước hết là Bản thân Tôi – bất kể quyền lợi của những người khác ”. Nói đúng hơn, tôi vẫn quan tâm đến việc khảo sát mối quan hệ giữa lòng tự trọng và hạnh phúc của con người, về mặt cá nhân và xã hội. Trong quá trình theo đuổi này, tôi nhận thấy rõ rằng các giá trị của chủ nghĩa cá nhân và tính tư lợi được giải thoát vẫn cung cấp nền tảng khả thi tốt nhất đối với sự cộng tác, rộng lượng và tiến bộ về mặt xã hội. Bạn hãy tự hỏi mình thích chia sẻ cuộc sống xã hội với ai? Phải chăng đó là những người tôn trọng quyền lợi của bạn, và không đòi hỏi bạn phải hành động ngược lại với tính tư lợi của bạn – hoặc là những kẻ đối xử với bạn như là một đối tượng hy sinh? Những người vui hưởng cảm giác mạnh mẽ về nhân dạng cá nhân – hoặc là những kẻ cứ mong đợi bạn tạo ra sự nhân dạng đối với họ? Những người chịu trách nhiệm về sự hiện hữu của họ
  62. - hoặc là những kẻ cứ tìm cách đẩy trách nhiệm đó sang cho bạn? Tất nhiên, đây là một vài trong số những hậu quả về mặt xã hội của lòng tự trọng, cả cao lẫn thấp. Thật đủ dễ dàng để vạch ra một số kẻ quá tự yêu mình vẫn nói về việc “theo đuổi sự phát triển cá nhân của tôi”, hoặc “theo đuổi lòng tự trọng của tôi”. Điều này thật dễ dàng, vì có thể tìm thấy chủ nghĩa quá tự yêu mình ở bất cứ nơi nào. Nhưng chủ nghĩa cá nhân, lòng tự trọng, sự tự trị, quan tâm đến sự phát triển cá nhân - những đặc điểm này không hề mang tính cách quá tự yêu mình. Chủ nghĩa quá tự yêu mình là một điều kiện cho thói chỉ quan tâm đến bản thân một cách thái quá và không lành mạnh, phát xuất từ ý thức có nguồn gốc sâu xa của sự thiếu sót và bất tài trong nội tâm. Thật khôi hài, những người có cái tôi mạnh mẽ lại cứ bị gán cho những thói đồi bại tiêu biểu – nhỏ mọn, lối cạnh tranh hiếu chiến, quá sẵn sàng trong việc xúc phạm – mà trên thực tế, đây là những tác hại riêng biệt để làm suy yếu cái tôi. Tôi không thể tưởng tượng bất cứ con người có lý trí nào cho rằng cần phải theo đuổi sự thể hiện đầy đủ tiềm năng của mình – nghĩa là thể hiện những tiềm năng tích cực của mình – mà lại không liên hệ và cam kết đối với các mối quan hệ cá nhân. Tôi đã hỏi những người phỏng vấn tôi: “Chẳng phải vì tính tư lợi của mình, mà tôi tìm kiếm những người để tôi có thể yêu mến, kính trọng, và ngưỡng mộ sao?”. Tôi vẫn thường nhìn thấy một tia sáng trong những nụ cười của họ khi trả lời: “Chẳng phải vì tính tư lợi của mình, mà tôi sống trong thế giới an toàn hơn, lành mạnh hơn và tốt đẹp hơn – và cố gắng đưa đến một thế giới như vậy sao?”. Sự phân biệt giữa bản thân và những người khác, hoặc bản thân và thế giới, không có cơ sở giá trị trong thực tế. Thật vậy, có bằng chứng áp đảo rằng khi mức độ tự trọng của một cá nhân càng cao, thì chắc chắn người đó sẽ càng đối xử với người
  63. khác bằng sự tôn trọng, tử tế và quảng đại hơn bấy nhiêu. Những người không có kinh nghiệm trong việc yêu quý bản thân mình thì đều ít hoặc không có khả năng yêu thương người khác. Những người trải nghiệm sự bất an sâu xa và hoài nghi bản thân đều có khuynh hướng coi người khác như đáng sợ và thù địch. Những người ít hoặc không có lòng tự trọng đều không có gì để góp phần vào thế giới. Dưới ánh sáng của toàn bộ điều này, chúng ta phải đặt câu hỏi: Tại sao những khái niệm về lòng tự trọng và thể hiện đầy đủ tiềm năng của mình – nghĩa là những mục tiêu cá nhân – đều gây ấn tượng nơi một số người như là rất đáng ngại? Tại sao chỉ những mục tiêu “xã hội” mới đáng tôn trọng? Tôi tin rằng câu trả lời hệ tại ở sự thất bại của nhiều người trong việc tự giải thoát mình khỏi khái niệm độc đoán về đạo đức, vốn đặt những khái niệm về điều tốt đẹp ở bên ngoài cá nhân, nghĩa là bên ngoài bản thân bạn. Chúng ta vẫn bắt gặp quan điểm này qua những đường lối khác nhau trong các gia đình, trường học, giáo hội và chắc chắn cả trong hệ thống lãnh đạo. Trên thực tế, hầu như tất cả các hệ thống đạo đức nào đã đạt được mức độ ảnh hưởng nào đó trên thế giới đều có những biến đổi đối với chủ đề về sự tình nguyện phục tùng và hy sinh bản thân. Mặc dù lòng vị tha vẫn được đánh đồng với đức hạnh, thói ích kỷ bị coi như đồng nghĩa với hành vi xấu xa. Trong các hệ thống này, cá nhân luôn luôn trở thành nạn nhân, bị bóp méo chống lại chính mình, và bị điều khiển để trở nên “vị tha” trong việc phục vụ một số giá trị cao hơn được đưa ra làm nguyên cớ - pharaô, hoàng đế, vua chúa, bộ tộc, đất nước, gia đình, niềm tin thực sự, giai cấp hoặc xã hội (hoặc “hành tinh”). Chúng ta sẽ dễ dàng hiểu rằng rất nhiều người sẵn sàng tự nguyện phục tùng người khác hoặc một loại nhân vật quyền lực nào đó, mà dưới quyền cai trị của người đó, đôi khi phạm
  64. phải những hành động tàn ác, nếu chúng ta nhớ rằng hầu hết tất cả chúng ta đã được giới thiệu từ tốt lành. “Anh ấy là một chàng trai tốt – anh ấy chăm sóc, cư xử tốt với tôi”. “Cô ấy là một cô gái tốt – cô ấy làm những gì cô nói ”. Ngay từ đầu, chúng ta đã được chỉ dẫn rằng đức hạnh không bao gồm sự tôn trọng những nhu cầu, mong muốn, và khả năng cao nhất của bản thân, nhưng nói đúng hơn, đó là thỏa mãn những mong đợi của người khác. “Sống vì người khác” được giải thích như là chủ yếu đối với luân lý, và những ai giảng dạy điều này lại quan tâm đến sự vâng phục hơn là lòng tự trọng. Với tư cách là một nhà tâm lý, tôi không thể nhớ được lần nào tôi lại không nhận thức về học thuyết này như là gây tác hại đối với hạnh phúc về mặt cảm xúc và tâm trí. Ngày nay, với sự thăng tiến của phong trào bình quyền nam nữ, nữ giới đang bắt đầu nhận thấy rõ sự kiện rằng học thuyết này mang tính cách lôi kéo và khai thác. Bạn hãy hình dung câu trả lời, nếu một nhà thuyết trình nói với một nhóm phụ nữ hiện đại: “Đừng nghĩ đến những nhu cầu và mong muốn riêng của mình – hãy chỉ nghĩ đến những nhu cầu và mong muốn của những người mà bạn phục vụ mà thôi. Sự hy sinh bản thân là nhân đức cao cả nhất”. Nam giới cũng cần phải có một cái nhìn mới mẻ về học thuyết này, vì nó ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Nó không phân biệt giới tính. Vấn đề này mang tính toàn cầu. Điều không may là nhiều người đang đấu tranh với vấn đề về sự phát triển năng khiếu bản thân lại cảm thấy bất lực và bị đe dọa bởi những lời tố cáo là ích kỷ. Được, vậy nếu cho rằng “ích kỷ” nghĩa là “quan tâm đến lợi ích của bản thân”, thì tất nhiên, hành động theo đuổi lòng tự trọng và sự phát triển cá nhân đều là ích kỷ. Cũng vậy đối với sức khỏe thể lý. Cũng vậy đối với sự lành mạnh. Cũng vậy đối với hạnh phúc. Cũng vậy đối với việc tiếp tục hít thở không khí.
  65. Nếu đây là hành vi xấu xa, thì chúng ta tồn tại như thế nào? Chúng ta không thể từ chối bản thân mà không từ chối cuộc sống. Vậy để sống một cách thành công, chúng ta cần có một nguyên tắc xử thế về tính tư lợi hợp lý. Chúng ta không thể suy nghĩ sáng sủa về sự hiện hữu của mình hoặc những yêu cầu về hạnh phúc của con người, cho đến khi chúng ta được chuẩn bị để tôn trọng quyền lợi cá nhân đối với cuộc sống riêng của họ - cho đến khi chúng ta hiểu rằng mỗi người, kể cả bản thân chúng ta, đều là một mục đích nơi chính mình, không phải là một phương tiện đối với mục đích của người khác. Chúng ta không thể đấu tranh cho lòng tự trọng – và chúng ta không thể đạt được điều này, cho đến khi chúng ta sẵn sàng tôn trọng bản thân và tự hào tuyên bố rằng chúng ta có quyền làm như vậy.