Làm thế nào để gia tăng lòng tự trọng của bạn? (Phần 1)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Làm thế nào để gia tăng lòng tự trọng của bạn? (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
lam_the_nao_de_gia_tang_long_tu_trong_cua_ban_phan_1.pdf
Nội dung text: Làm thế nào để gia tăng lòng tự trọng của bạn? (Phần 1)
- Nathaniel Branden LÀM THẾ NÀO ĐỂ GIA TĂNG LÒNG TỰ TRỌNG CỦA BẠN? How to Raise Your Self-Esteem? PHƯƠNG PHÁP ĐÃ ĐƯỢC CHỨNG MINH, HƯỚNG TỚI HÀNH ĐỘNG TỰ TIN VÀ TỰ TRỌNG HƠN Lm. Giuse Trần Đình Long, SSS Chuyển ngữ 2012
- BẠN PHẢI CẢM THẤY THẾ NÀO VỀ BẢN THÂN Việc bạn phải cảm thấy thế nào về bản thân hầu như chủ yếu ảnh hưởng đến từng khía cạnh trải nghiệm của chúng ta, từ cách thức chúng ta hoạt động trong công việc, tình yêu, tính dục, đến cách thức chúng ta điều hành với tư cách cha mẹ, đến việc chúng ta có khả năng thành đạt cao như thế nào trong cuộc sống. Các phản ứng của chúng ta đối với những sự kiện xảy ra trong cuộc sống hàng ngày được hình thành từ con người và cách thức chúng ta nghĩ về con người của mình. Lòng tự trọng chính là bí quyết đối với sự thành công hoặc thất bại. Lòng tự trọng có một giá trị khác - nó cũng giữ bí quyết đối với sự hiểu biết về bản thân và người khác. Tôi nghĩ rằng không một vấn đề cá biệt nào về tâm lý mà lại không thể bắt nguồn từ một khái niệm nghèo nàn về bản thân. Lòng tự trọng tích cực là một yêu cầu chủ yếu đối với một cuộc sống trọn vẹn. Chúng ta làm thế nào để phát triển lòng tự trọng? Chúng ta làm thế nào để bẻ gãy chu kỳ của những lối cư xử tự chuốc lấy thất bại phát xuất từ sự thiếu lòng tự trọng? Đây là những câu hỏi mà cuốn sách này được viết ra để trả lời. Tiến sĩ Nathaniel Branden
- Lời Nói Đầu Một luật sư nói: “Thật khó để tôi yêu và trao tặng tình yêu, vì tự trong trái tim mình, tôi cảm thấy mình không đáng yêu”. Một giáo sư đại học cũng là mẹ của ba đứa con nói: “Đối với bất cứ điều gì tôi làm, luôn luôn có một giọng nói bên trong tôi rằng: ‘Không đủ. Tôi không đủ’. Không có nhiều niềm vui trong những việc tôi làm, việc cứ cố gắng chứng tỏ bản thân mình chỉ càng làm gia tăng tình trạng kiệt sức”. Một thiếu niên không hạnh phúc hỏi: “Thế nào là mục đích của sự nỗ lực hoàn tất bất cứ điều gì? Tôi luôn luôn cảm thấy như thể bất cứ ai khác đều biết một số điều mà tôi không biết – và có thể không bao giờ biết. Dường như thể bẩm sinh tôi bị thiếu điều gì đó mà mọi người khác đều có”. Một kẻ nghiện rượu nói: “Hạnh phúc khiến tôi khiếp sợ. Tôi có cảm giác là nếu tôi hạnh phúc, thì điều gì đó khủng khiếp sẽ xảy ra. Như vậy, nếu mọi sự đều tốt đẹp, thì tôi lại nốchết ly này đến ly khác, và mọi sự kết thúc tốt đẹp khá sớm, nhưng ít nhất tôi không quá khiếp sợ - tôi vẫn phần nào kiểm soát được - tôi biết mình mong muốn gì - tôi không chờ đợi sét đánh”. Một phụ nữ đã từng hai lần kết hôn, hai lần li dị nói: “Tôi biết mình đã từng ngủ với quá nhiều đàn ông. Trong vài phút, khi tôi đang bị lôi cuốn, tôi cảm thấy mình có ý nghĩa đối với người nào đó, mình có giá trị. Sau đó, tôi lại cảm thấy càng cô độc hơn, và tôi coi thường bản thân mình còn tồi tệ hơn trước nữa, điều này lại đưa đẩy tôi đến với người đàn ông khác. Nhưng tôi làm thế nào để tìm được một lối thoát? Làm thế nào để ngừng lại? Làm thế nào để học hỏi cách yêu thương bản thân mình?”, Chúng ta làm thế nào để phát triển lòng tự trọng? Chúng ta làm thế nào để bẻ gãy chu kỳ của những lối cư xử tự chuốclấy
- thất bại phát xuất từ sự thiếu lòng tự trọng? Đây là các câu hỏi mà cuốn sách này trả lời. Tôi bắt đầu nhận thấy một cuốn sách như vậy thật cần thiết, trong lúc tôi đang được phỏng vấn sau khi phát hành cuốn Tôn trọng Bản thân, tôi nghe thấy lập đi lập lại một câu hỏi đặc biệt: “Thưa Tiến sĩ Branden, ông đã trình bày một bức tranh toàn diện về vai trò của lòng tự trọng trong đời sống con người, và tình trạng bị hủy hoại do sự thiếu khái niệm về bản thân gây ra, nhưng bằng những thuật ngữ đơn giản hàng ngày, một người có thể làm gì để gia tăng mức độ tự trọng của họ, khi không có sự trợ giúp của một bác sĩ tâm lý? Chúng tôi có thể làm gì để tin tưởng nhiều hơn vào bản thân, tự tin hơn, cảm thấy tin tưởng hơn vào con người của mình?”. Tôi nhận thấy cần phải viết thêm một cuốn sách về lòng tự trọng. Cuốn sách này không phải là sự kéo dài lý thuyết về lòng tự trọng, nhưng là sự mở rộng cách thực hành lòng tự trọng. Mối quan tâm cơ bản của nó là hành động, cả về mặt tinh thần lẫn thể lý, làm gia tăng hoặc xói mòn lòng tự trọng. Những chiến lượcđể xây dựng lòng tự trọng mà tôi giới thiệu trong những trang sau đây đã được thử nghiệm kỹ với hàng ngàn thân chủ trong suốt ba thập niên mà tôi thực hành liệu pháp tâm lý. Ở mức độ cá nhân hơn, chúng cũng được thử nghiệm trong lãnh vựcthể hiện đầy đủ tiềm năng của mình mà tôi đang theo đuổi. Tôi nhận thấy lòng tự trọng của mình trở nên mạnh mẽ hoặc suy yếu đi, tùy thuộc vào mức độ tôi thực hành liên tục các nguyên tắcvà thông lệ mà cuốn sách này chủ trương. Tôi không viết như một quan sát viên khách quan, nhưng như một người đã từng sống những điều mà tôi đang viết. Những ý tưởng này có hiệu quả. Nếu mục đích của bạn là phát triển lòng tự tin và tự trọng, thì cuốn sách này được gửi đến bạn.
- Tuy nhiên, vì cuốn sách này hướng tới hành động, vì nó trình bày chi tiết các bài tập về lối cư xử cụ thể trong cuộc sống hàng ngày để làm gia tăng lòng tự trọng, nên nó được gửi đến các chuyên gia cũng như những người không chuyên môn. Các bác sĩ tâm lý đều biết rằng lãnh vực của chúng tôi rất cần đến những trình tự cụ thể như thế nào, để làm biến đổi một khái niệm nghèo nàn về bản thân. Tôi hy vọng rằng họ sẽ chọn cách thử nghiệm những thông lệ riêng của họ bằng các phương tiện mà cuốn sách này cung cấp.
- Chương 1 Tầm Quan trọng của Lòng Tự trọng Việc chúng ta cảm thấy thế nào về bản thân chủ yếu ảnh hưởng đến từng khía cạnh trải nghiệm của chúng ta, từ cách thức chúng ta hoạt động trong công việc, tình yêu, tình dục , đến cách thức chúng ta điều hành với tư cách cha mẹ, đến việc chúng ta có khả năng thành đạt cao như thế nào trong cuộc sống. Những bi kịch trong cuộc đời chúng ta đều phản ánh tầm nhìn riêng tư nhất của chúng ta về bản thân. Do đó, lòng tự trọng chính là bí quyết đối với sự thành công hoặc thất bại. Lòng tự trọng cũng là một bí quyết để hiểu biết về bản thân và những người khác.
- Ngoài các vấn đề bắt nguồn từ sinh học, tôi không thể nghĩ rằng một khó khăn riêng biệt về tâm lý – từ nỗi lo lắng và suy nhược, đến nỗi sợ hãi đối với sự thân tình hoặc thành công, đến tình trạng lạm dụng rượu hoặc ma túy, đến sự không thành đạt ở trường học hoặc nơi làm việc, đến sự ngược đãi vợ chồng hoặc quấy rối trẻ con, đến tình trạng trục trặc tính dục hoặc không trưởng thành về cảm xúc, đến hành động tự tử hoặc những tội ác bạo lực - mà lại không thể truy nguyên vào tình trạng nghèo nàn lòng tự trọng. Trong số tất cả những lời phê bình mà chúng ta bộc lộ, không gì quan trọng bằng lời phê bình mà chúng ta bộc lộ về bản thân mình. Lòng tự trọng tích cực là một đòi hỏi chủ yếu đối với một cuộc sống trọn vẹn. Chúng ta hãy tìm hiểu lòng tự trọng là gì. Lòng tự trọng có hai thành phần: cảm giác về năng lực cá nhân và cảm giác về giá trị cá nhân. Nói cách khác, lòng tự trọng là tổng cộng của sự tự tin và tôn trọng bản thân. Nó phản ánh phán đoán tiềm ẩn của bạn để đương đầu với những thách thức trong cuộc đời mình (để hiểu biết và làm chủ các vấn đề), và quyền được hưởng hạnh phúc (để tôn trọng và ủng hộ những sở thích và nhu cầu của bạn). Có lòng tự trọng cao nghĩa là cảm thấy tin tưởng rằng mình phù hợp với cuộc sống, nghĩa là thành thạo và xứng đáng theo ý nghĩa vừa được trình bày. Có lòng tự trọng thấp là cảm thấy không phù hợp với cuộc sống; cảm thấy bất ổn, không phải về vấn đề này hoặc vấn đề kia, nhưng bất ổn về chức năng của một con người. Có lòng tự trọng trung bình là dao động giữa cảm giác phù hợp và không phù hợp, đúng và sai về chức năng của con người, và biểu lộ những sự không nhất quán này qua lối cư xử – đôi khi hành động thật khôn ngoan, đôi khi, lại hành động một cách điên rồ - do đó, càng củng cố sự không chắc chắn. Khả năng phát triển lòng tự trọng và tự tin lành mạnh vốn có trong bản chất con người, vì khả năng suy nghĩ là nguồn gốc cơ bản đối với quyền hạn của chúng ta trong việc phấn đấu
- cho hạnh phúc. Một cách lý tưởng, tất cả mọi người đều nên thưởng thức một mức độ tự trọng cao, trải nghiệm cả sự tự tin về mặt trí tuệ lẫn ý thức mạnh mẽ rằng niềm hạnh phúc là phù hợp. Tuy nhiên, thật không may, nhiều người lại không được như vậy. Nhiều người vẫn đau khổ vì những cảm giác không thỏa đáng, bất an, hoài nghi bản thân, mặc cảm và sợ tham gia đầy đủ vào cuộc sống – một cảm giác mơ hồ rằng “Tôi không có đủ”. Không phải lúc nào bạn cũng nhận ra và thừa nhận những cảm giác này một cách rõ rệt, nhưng chúng vẫn ở đó. Trong quá trình lớn lên, và trong quá trình tự sinh sống, chúng ta cũng hoàn toàn dễ dàng trở nên thờ ơ (hoặc không bao giờ hình thành) một khái niệm tích cực về bản thân. Có thể chúng ta không bao giờ đạt tới một tầm nhìn vui tươi về chính mình, vì nguồn gốc tiêu cực từ những người khác, hoặc vì chúng ta đã không thể hiện được sự thành thật, liêm chính, trách nhiệm và tự khẳng định mình, hoặc vì chúng ta đã phê phán những hành động của chính mình, với sự thương cảm và hiểu biết và không đầy đủ. Tuy nhiên, lòng tự trọng lại luôn luôn là vấn đề về mức độ. Tôi chưa bao giờ biết bất cứ người nào hoàn toàn thiếu lòng tự trọng tích cực, tôi cũng không biết bất cứ ai không có khả năng lớn lên cùng với lòng tự trọng. Lớn lên cùng với lòng tự trọng nghĩa là lớn lên trong niềm tin rằng họ có quyền được sống và xứng đáng hưởng hạnh phúc, do đó, đương đầu với cuộc đời với niềm tin, sự rộng lượng và lạcquan, giúp chúng ta tiếp cận được những mục đích và trải nghiệm trạng thái đầy đủ điều kiện. Lớn lên cùng với lòng tự trọng là mở rộng khả năng của chúng ta đối với hạnh phúc. Nếu chúng ta hiểu điều này, thì chúng ta có thể đánh giá đúng rằng tất cả chúng ta đều có quyền vun trồng lòng tự trọng. Không nhất thiết chúng ta phải ghét mình trước khi chúng ta có thể học hỏi cách yêu bản thân nhiều hơn; chúng ta không cần cảm thấy mình thấp kém để rồi mong muốn cảm thấy tự tin hơn.
- Chúng ta không cần phải đáng thương để mong muốn mở rộng khả năng của mình đối với niềm vui. Khi lòng tự trọng của chúng ta càng cao hơn, thì chúng ta càng được trang bị tốt hơn để đương đầu với những nghịch cảnh trong cuộc đời; chúng ta càng kiên cường hơn bao nhiêu, thì chúng ta càng kháng cự hơn trước sức ép ngừng chống lại nỗi thất vọng hoặc sự thất bại bấy nhiêu. Lòng tự trọng của chúng ta càng cao hơn bao nhiêu, chúng ta càng có khả năng sáng tạo hơn trong công việc của chúng ta bấy nhiêu, điều này có nghĩa là chúng ta càng có khả năng thành công hơn. Lòng tự trọng của chúng ta càng cao hơn bao nhiêu, chúng ta càng có khuynh hướng nhiều tham vọng hơn bấy nhiêu, không nhất thiết theo ý nghĩa nghề nghiệp hoặc tài chính, nhưng về những điều chúng ta hy vọng trải nghiệm trong cuộc sống – về mặt cảm xúc, sáng tạo và tinh thần. Lòng tự trọng của chúng ta càng cao hơn bao nhiêu, thì có thể chúng ta càng phải hình thành các mối quan hệ nuôi dưỡng hơn là phá hoại, vì sự ưa thích đưa đến sự ưa thích, sức khỏe thu hút sức khỏe, sự sống động và chan hòa vẫn hấp dẫn hơn, so với sự trống rỗng và khai thác. Lòng tự trọng của chúng ta càng cao hơn bao nhiêu, thì chúng ta càng có khuynh hướng đối xử với những người khác bằng sự kính trọng, rộng lượng và thiện chí hơn bấy nhiêu, vì người ta không tự coi mình như là mối đe dọa, không cảm thấy mình là “những kẻ xa lạ và e ngại trong một thế giới mà [chúng ta] không bao giờ tạo ra” (trích dẫn bài thơ của A.E. Housman), và vì lòng tự trọng chính là nền tảng của sự tôn trọng đối với người khác. Lòng tự trọng của chúng ta càng cao hơn bao nhiêu, thì chúng ta càng trải nghiệm nhiều niềm vui hơn bấy nhiêu, chỉ qua
- sự kiện chúng ta tồn tại, thức dậy vào buổi sáng, sống bằng cơ thể của chính mình. Đây là những phần thưởng của lòng tự tin và tự trọng. Trong cuốn Tôn trọng Bản thân, tôi thảo luận chi tiết về nguyên nhân tại sao tồn tại các mối tương quan như vậy. Nhưng tôi tin tưởng rõ ràng là nếu chúng ta mong muốn mở rộng những khả năng tích cực của mình, để rồi từ đó biến đổi phẩm chất của sự hiện hữu, thì nghệ thuật nuôi dưỡng lòng tự trọng của chúng ta chính là chỗ để bắt đầu. Tuy nhiên, chúng ta hãy đào sâu hơn nữa vào ý nghĩa của lòng tự trọng. Ở bất cứ mức độ nào, lòng tự trọng là một kinh nghiệm riêng tư; nó nằm trong cốt lõi hữu thể của chúng ta. Đó là điều tôi suy nghĩ và cảm thấy về bản thân, không phải là điều người khác suy nghĩ và cảm thấy về tôi. Khi còn nhỏ, lòng tự tin và tự trọng của chúng ta do người lớn nuôi dưỡng hoặc xói mòn – tùy thuộc vào việc chúng ta được tôn trọng, yêu thương, đánh giá, và khích lệ để tin tưởng vào bản thân hay không. Nhưng ngay cả trong những năm đầu đời, những chọn lựa và quyết định của chúng ta đóng vai trò chủ yếu đối với mức độ tự trọng mà chúng ta phát triển một cách cơ bản. Chúng ta không hề chỉ là những người tiếp nhận những quan điểm về bản thân mình một cách thụ động. Và trong bất cứ trường hợp nào, chúng ta có thể được thừa hưởng bất cứ nền giáo dục nào, nhưng khi trưởng thành, cơ hội vẫn nằm trong đôi tay riêng của chúng ta. Không ai khác có thể hít thở thay cho chúng ta, không ai khác có thể suy nghĩ thay cho chúng ta, không ai khác có thể thúc đẩy chúng ta tự tin và yêu quý bản thân mình. Tôi có thể được gia đình, bạn đời và các bạn hữu của tôi yêu thương, tuy nhiên, chính tôi lại không yêu bản thân mình. Tôi
- có thể được các đồng nghiệp khen ngợi, tuy nhiên, tôi lại coi như mình không xứng đáng. Tôi có thể tưởng nghĩ đến một hình ảnh tự tin và đĩnh đạc thực sự lừa dối tất cả mọi người, tuy nhiên, tôi lại âm thầm lo sợ với một cảm giác về tình trạng không đầy đủ của mình. Tôi có thể đầy ắp những mong đợi đối với người khác, tuy nhiên, tôi lại thất bại đối với những mong đợi của mình; tôi có thể đạt được mọi vinh dự, tuy nhiên, tôi vẫn cảm thấy mình không hoàn tất gì; có thể tôi được hàng triệu người ngưỡng mộ, tuy nhiên, tôi lại thức dậy mỗi sáng với một cảm giác kinh tởm đối với sự lừa dối và trống rỗng. Đạt được “thành công” mà không đạt được lòng tự trọng tích cực thì bị kết án là có cảm giác giống như một kẻ lừa đảo đang lo lắng chờ đợi bị phát hiện. Giống như lời ca ngợi của những người không tạo ra cho chúng ta lòng tự trọng, cũng không tạo ra kiến thức, kỹ năng, những sở hữu vật chất, cuộc hôn nhân, tư cách làm cha mẹ, những nỗ lực bác ái, chinh phục giới tính, hoặc sự đổi mới. Đôi khi, những điều này có thể tạm thời làm cho chúng ta cảm thấy mình tốt hơn, hoặc thoải mái hơn trong những tình huống đặc trưng; nhưng sự thoải mái không phải là lòng tự trọng. Bi kịch là rất nhiều người vẫn tìm kiếm lòng tự tin và tự trọng ở bất cứ nơi đâu, ngoại trừ bên trong chính bản thân họ, vì thế, họ bị thất bại trong cuộc tìm kiếm của mình. Chúng ta sẽ nhận thấy rằng cách hiểu biết tốt nhất về lòng tự trọng tích cực là một kiểu thành quả tinh thần – nghĩa là như một thắng lợi trong sự phát triển ý thức. Khi chúng ta bắt đầu hiểu được lòng tự trọng theo cách này, như là một điều kiện của ý thức, thì chúng ta đánh giá đúng được sự điên rồ của niềm tin rằng nếu chúng ta có thể xoay sở chỉ để tạo ra một ấn tượng tích cực nơi những người khác, thì sau đó, chúng ta sẽ vui hưởng lòng tự trọng tích cực. Chúng ta sẽ ngừng tự nhủ: Giá mà tôi được thăng tiến hơn, giá
- mà tôi trở thành một người vợ và một bà mẹ ; giá mà tôi được coi như một nhà cung cấp giỏi; giá mà tôi có khả năng mua một chiếcxe hơi lớn hơn; giá mà tôi có thể viết thêm một cuốn sách, tiếp thu thêm một công ty, đạt được một phần thưởng nữa, được nhìn nhận hơn về “lòng vị tha” của mình – thế rồi tôi sẽ thực sự cảm thấy thanh thản với chính mình. Chúng ta sẽ nhận ra rằng chính vì cách tìm kiếm này bất hợp lý, nên ham muốn sẽ luôn luôn là “thêm nữa”. Nếu lòng tự trọng nghĩa là phán đoán rằng tôi phù hợp với cuộc đời, trải nghiệm về năng lực và giá trị - nếu lòng tự trọng là ý thức tự nhận thức về bản thân, một tinh thần tự tin vào chính mình – thì không ai có thể đưa đến kinh nghiệm này, ngoại trừ chính bản thân tôi. Khi chúng ta đánh giá đúng bản chất thực sự của lòng tự trọng, thì chúng ta nhận thấy lòng tự trọng không mang tính cạnh tranh hoặc so sánh. Lòng tự trọng đích thực không được diễn tả bằng sự tự ca tụng mình gây thiệt hại đến người khác, hoặc tìm cách làm cho mình cao hơn người khác, hoặc hạ người khác để tự nâng mình lên. Thói ngạo mạn, khoác lác và đánh giá quá cao những khả năng của mình phản ánh lòng tự trọng không đầy đủ, thay vì quá nhiều lòng tự trọng, như một số người vẫn tưởng tượng. Một trong những đặc điểm có ý nghĩa nhất của lòng tự trọng lành mạnh là trạng thái của người không xung đột với bản thân hoặc với những người khác. Tầm quan trọng của lòng tự trọng lành mạnh hệ tại ở sự kiện rằng đây chính là nền tảng khả năng của chúng ta, để đáp ứng những cơ hội trong cuộc sống tích cực và sinh động – trong công việc, trong tình yêu, và trong sự vui chơi. Đây cũng là nền tảng của tinh thần thanh thản, giúp chúng ta có thể vui hưởng cuộc đời.
- Chương 2 Khái niệm về Bản thân như là Vận mệnh Khái niệm về bản thân nghĩa là từ trong ý thức và tiềm thức, chúng ta nghĩ rằng mình là ai và là gì – những đặc điểm tâm lý và thể lý, những vốn quý và khả năng, và trên hết, là lòng tự trọng của chúng ta. Lòng tự trọng chính là thành phần có thể đánh giá được của khái niệm về bản thân. Khái niệm về bản thân hình thành nên vận mệnh của chúng ta; nghĩa là tầm nhìn sâu xa nhất về bản thân ảnh hưởng đến tất cả những chọn lựa và quyết định có ý nghĩa của chúng ta, và do đó, hình thành nên lối sống mà chúng ta tạo ra cho bản thân mình. Những minh họa ngắn gọn dưới đây được đưa ra để làm sáng tỏ việc khái niệm về bản thân ảnh hưởng thế nào đến những cảm giác và lối cư xử của chúng ta. Bạn hãy đọc những câu chuyện với viễn cảnh đó trong tâm trí.
- Jane là một phụ nữ 34 tuổi, nhân viên bán hàng cho một gian hàng lớn. Mặc dù cô đang quan hệ với một người đàn ông mà cô mô tả là “dễ chịu”, nhưng cô vẫn không bao giờ kết hôn. Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với chúng tôi, cô giải thích rằng cô không than phiền gì cụ thể, cho bằng cảm giác bất mãn, cảm thấy “cuộc đời phải có nhiều hơn thế này”. Rồi cô nói thêm: “Tôi muốn hiểu mình hơn, và tôi muốn học hỏi để trở nên tự khẳng định mình hơn”. Tôi yêu cầu cô nhắm mắt lại và xem xét hình ảnh tưởng tượng sau đây: “Hãy tưởng tượng rằng cô đang đứng dưới chân một ngọn núi, bất cứ ngọn núi nào mà cô muốn tạo ra. Có một lối đi dẫn đến đỉnh núi. Cô cảm thấy lực đẩy trên các bắp thịt khi cô leo lên. Có những thân cây và bông hoa trên sườn núi không? Khi cô leo núi, cô ý thức được điều gì đó rất thú vị. Tất cả những nỗi sợ hãi, hoài nghi và bất an của cuộc sống hàng ngày dường như tan biến, giống như cô không còn cần đến quá nhiều hành lý thừa thãi nữa. Càng leo lên cao hơn, cô càng cảm thấy tự do hơn. Khi gần đến đỉnh núi, hãy ghi nhận rằng cô cảm thấy hầu như mình trở nên phi trọng lực. Tâm trí cô rõ rệt. Cô cảm thấy mạnh mẽ hơn, chắc chắn về bản thân hơn là cô đã từng cảm thấy trong cuộc đời. Hãy tưởng tượng trạng thái này và thăm dò nó. Cô có thích trạng thái này không? Cơ thể của cô cảm thấy thế nào, khi cô tự tin hơn và thoát khỏi mối hoài nghi và sợ hãi? Bây giờ, cô chỉ còn vài bước nữa là lên tới đỉnh núi. Lúc đó, cô đứng trên đỉnh núi, nhìn ra toàn thế giới. Cô cảm thấy thế nào? Cô có cảm giác gì về mối quan hệ của mình đối với thế giới? Cảm giác thoát khỏi các mối bất an quen thuộc cũ như thế nào? Hãy dành ra vài phút để khảo sát tỉ mỉ điều đó Và bây giờ, cô hãy trở lại và bắt đầu đi xuống núi. Khi cô lần theo lối đi xuống, cô hãy nhận xét xem mình có mang theo sức mạnh và sự tự do mới hay không, hay là cô để lại những cảm giác đó trên đỉnh núi? Khi cô gần đến
- chân núi, những trọng lượng cũ có trở lại không? Và khi cô trở lại khởi điểm, cô có thể nhìn thế giới từ một viễn cảnh mới không? Cô cảm thấy thế nào? Những thay đổi gì? Cô có trải nghiệm bản thân mình một cách khác biệt không?”. Vài phút sau, cô ấy mở mắt ra: “Tôi vô cùng yêu thích viễn cảnh này từ trên đỉnh núi. Tôi cảm thấy yêu thích bản thân mình, tuy nhiên, đó là một con người mà tôi chưa bao giờ là. Tôi cô độc, sợ hãi. Và tôi nghe thấy tiếng mẹ tôi nói rằng: ‘Con không thuộc về nơi đây’. Khi tôi đi xuống núi, tôi cảm thấy sức nặng cũ đang trở lại, nhưng không hoàn toàn. Tôi cảm thấy điều gì đó khác hẳn. Và lúc tôi ở trên đó, khi khi tôi tự do, thực sự tự do, tôi biết rằng mình có thể làm bất cứ điều gì. Tôi biết rằng không gì ngăn cản được tôi, ngoại trừ bản thân tôi. Tôi có thể thực sự cảm thấy điều này, trải nghiệm nó, không giống như kiểu lý thuyết nào, ông biết đấy, nhưng là điều gì đó thực sự, điều gì đó mà tôi cảm thấy trong cơ thể mình, và nhìn thấy bằng trọn vẹn tâm trí mình. Hầu như giống tình trạng bị say. Tình trạng bị say này giống với lúc đạt được một tầm nhìn hơn, ngoại trừ khi tình trạng này khiến tôi bị mù quáng đối với thực tại”. Tôi gợi ý: “Nhưng phải chăng việc lên cao hơn có thể có nghĩa là đi ngược lại với mẹ cô, mâu thuẫn với cái nhìn của bà về các sự việc ?”. “Tôi giả thử tôi không còn là con gái của bà nữa”. “Và khi nhìn theo cách đó, thì cô cảm thấy giống như một chọn lựa khó khăn”. “Liệu tôi có thể yêu thích bản thân mình nếu mẹ tôi không thích chăng?”. “Cô có thể thế sao?”. “Tôi nhận thấy là tại sao lại không. Và có lẽ bà ấy sẽ học hỏi để yêu thích. Có lẽ bà sẽ dàn xếp với tôi, thay vì tôi dàn xếp với bà”.
- “Có bao giờ cô nghĩ đến sự kiện hầu như mọi lối giải thích về cuộc hành trình của một vị anh hùng đều bắt đầu bằng việc vị anh hùng này rời khỏi nhà, thoát khỏi sự lôi kéo thu hút của gia đình không?”. Trọng tâm hoạt động của tôi đối với Jane là dạy cho cô ấy biết tự nhận thức bản thân nhiều hơn (nhận thức về những cảm giác, mong ước, tư tưởng và khả năng), chấp nhận chính mình (học hỏi để thừa nhận kinh nghiệm của mình, hoặc không có mối quan hệ thù địch với chính mình), và diễn tả về bản thân qua hành động (tự khẳng định mình), điều này nằm trong số những cột trụ quan trọng nhất của lòng tự trọng. Jane đã sử dụng tầm nhìn của việc bắt đầu một cuộc hành trình để bẻ gãy những ràng buộccủa gia đình cô; điều này mang lại cho cô một viễn cảnh mới. Sau vài tháng điều trị, cô nói rằng cô đã đạt được mục đích của mình, và việc điều trị kết thúc . Sáu tháng sau, tôi nhận được một lá thư thật phấn khích, trong đó, cô báo cáo rằng một tuần sau khi chấm dứt điều trị, cô đã rời bỏ công việc của mình để bắt đầu việc kinh doanh lẻ của riêng mình, “tôi muốn làm công việc này từ mấy năm nay, nhưng không có gan làm”, và bây giờ, cửa hàng của cô đang phát đạt. “Trong gia đình tôi, phụ nữ được cho là không có óc kinh doanh, nhưng bây giờ, tôi chấm dứt toàn bộ lối suy nghĩ điên rồ đó. Điều mà tôi đạt được từ việc điều trị là cuộc đời tôi tùy thuộc vào tôi – chẳng phải đó là cơ sở đối với lòng tự trọng sao? – và nếu có điều gì đó mà tôi thực sự mong muốn, thì tại sao tôi lại không đi theo điều đó? Bây giờ, tôi sẵn sàng để bắt đầu suy nghĩ về các mối quan hệ”. Không phải Jane không có lòng tự trọng khi cô đến hỏi ý kiến tôi. Tuy nhiên, một số phần trong lòng tự trọng của cô đã bị đầu tư vào các giá trị sai lầm: trong niềm tin rằng sự tán thành của mẹ cô là cần thiết đối với hạnh phúc và lòng tự trọng của cô. Qua việc học hỏi để rút lại lối đầu tư đó, để đưa cuộc sống cô trở
- lại vào đôi tay cô, và sống bằng phán đoán riêng của mình, cô đã gia tăng lòng tự trọng một cách tự nhiên, và mở cửa cho những khả năng mà trước đây cô vẫn cảm thấy ở bên ngoài tầm tay mình. Có bất cứ khía cạnh nào trong câu chuyện của Jane liên quan đến kinh nghiệm của bạn không? Charles, 50 tuổi, một chủ ngân hàng thành công rựcrỡ, đến gặp tôi vì tình trạng không hạnh phúc sâu xa đối với các mối quan hệ cá nhân của ông, và một nỗi sợ hãi có nguồn gốc sâu xa bị che đậy dưới một vẻ bề ngoài trầm tĩnh và tự tin. Ông nói: “Thật dễ dàng để đánh lừa người ta một cách không thể tin nổi về sự tự tin của tôi. Đó là bởi vì chính họ cũng bất an”. Ly dị sau 15 năm kết hôn, 3 năm sau, ông đã tái hôn với người phụ nữ này, rồi đổ vỡ, và tái hôn, rồi lại đổ vỡ. “Sự thật đơn giản là tôi không kính trọng lắm đối với cô ta. Nhưng cô ấy lại rất ngưỡng mộ tôi, sống bám vào tôi, và mong muốn lúc nào cũng ở với tôi. Điều này thật an toàn và đơn giản. Chúng tôi cãi nhau vì tôi không muốn kết hôn. Tôi hạ nhục, tôi trách cứ cô ấy vì những việc làm trong quá khứ. Cô ấy la lên rằng tôi sợ cam kết. Tại sao tôi lại nên cam kết với một phụ nữ mà, tự trong thâm tâm, thực sự không hề gây thích thú cho tôi? Như vậy tôi đang làm gì với cô ấy?”. Khi tôi nhìn vào khuôn mặt của người đàn ông trung niên này, với mái tóc lưa thưa, thì tôi lại nhận thấy nơi ông ta một chàng thanh niên e sợ, bối rối, và dường như đang phải vươn tay ra tìm kiếm sự giúp đỡ từ chiều sâu ác mộng nào đó trong quá khứ của ông. Tôi hoàn toàn sẵn sàng tin rằng đó không phải là điều mà các bạn hữu của ông ta nhìn thấy ông, nhưng tôi tự hỏi làm thế nào họ lại có thể tránh nhìn thấy điều này. Và tôi nghĩ rằng cảm giác mà ông có về tính chất vô hình chỉ càng có thể bổ sung vào tình trạng dằn vặt của ông ta mà thôi.
- Charles nói rằng ông là con trai duy nhất của một gia đình nhập cư nghèo người Nga, ông đã được nuôi dạy trong tình trạng không có tình yêu thương, không hề có một dấu vết nhỏ nhất nào của sự ấm áp hoặc tình cảm, và ông lại còn bị rất nhiều lối cư xử thật tàn bạo nhục nhã về thể lý. “Nhưng tôi biết mình lanh lợi và có thể sống còn. Tôi biết mình có thể nhìn thấy những điều mà người ta không thể thấy được - như cách làm thế nào để kiếm tiền. Tôi điều hành công việc kinh doanh đầu tiên của mình từ năm tôi mới lên 14 tuổi. Tôi muốn có tiền, nhờ đó, tôi có thể tự do. Hiện nay, tôi kiếm được nhiều tiền. Việc hoạt động kinh doanh thật dễ dàng đối với tôi. Tôi không biết tại sao, nhưng đúng là như vậy. Những nước cờ đúng dường như thật rõ rệt. Về đời sống cá nhân, tôi đã hai lần cố gắng tâm sự với một trong các đối tác về những bất an của mình. Anh ta lại cười tôi, không tin tôi, thậm chí còn không muốn nghe nói đến điều này nữa. Tôi sống trong một căn hộ hai phòng, và không có sở thích gì về những tiện nghi cá nhân. Tôi cảm thấy mình không xứng đáng được như vậy. Tôi cảm thấy hầu như mình không xứng đáng được bất cứ điều gì Ông có biết tôi thích gì nơi ông không? Ông nhận thấy nỗi sợ hãi và đau đớn của tôi, và ông tin vào điều đó, ông không sợ hãi nó, ông không cố gắng thay đổi đối tượng”. Tôi nói : “Và khi nói về điều đó, tôi tự hỏi việc trở nên giống như một cậu bé 5 tuổi đang sống trong căn nhà của ông như thế nào”. Những giọt nước mắt long lanh trong đôi mắt của ông ta, khi ông kể lại với tôi những cách thức thực sự khủng khiếp. Khi ông nói, đứa trẻ mà ông đã từng là càng lúc càng nổi lên rõ ràng trên gương mặt của ông. Rõ ràng khi còn nhỏ, bất chấp ý chí táo bạo của ông để sống còn, Charles đã hình thành một lòng tự trọng thấp khủng khiếp, điều này chính là nguyên nhân gây ra cả cảm giác là mình không xứng đáng, lẫn chọn lựa của ông đối với người phụ nữ mà
- ông đã chiếm hữu trong tình trạng ít quý trọng. Ông là ai khi có được tình yêu với một phụ nữ tuyệt diệu? Và trong khi ông để cho mình kiếm tiền, ông lại không tự cho phép mình vui hưởng đồng tiền đó. Tôi quyết định rằng đứa trẻ - hoặc một cách cụ thể hơn, con người-trẻ thơ bên trong người lớn – nắm giữ điều then chốt để cải tạo lòng tự trọng thấp của Charles. Bởi vì khái niệm về con người-trẻ thơ thật quan trọng, và một lần nữa sẽ xuất hiện sau trong cuốn sách này, nên chúng ta hãy ngừng lại để hiểu biết về khái niệm này: Mỗi chúng ta đều đã từng là một đứa trẻ, và mặc dù có thể chúng ta không nhận ra điều này, chúng ta vẫn mang đứa trẻ đó bên trong mình, như là một khía cạnh của con người chúng ta. Đôi khi, chúng ta thay đổi thành trạng thái ý thức của đứa trẻ mà chúng ta đã từng là, và phản ứng đối với những tình huống trong cuộc sống người lớn của chúng ta, như thể, vì tất cả những mục đích thựctiễn, chúng ta vẫn còn là đứa trẻ đó, với các nguyên tắc, cảm xúc, viễn cảnh, và cách thức rõ rệt trong việc xử lý kinh nghiệm. Đôi khi, đây là điều đáng mong ước– chẳng hạn, khi chúng ta trải nghiệm sự hồn nhiên và tính ham vui của trẻ con. Tuy nhiên, có lúc lại là điều không đáng mong ước– chẳng hạn, khi chúng ta hồi phụcnhững trạng thái bất an, lệ thuộc của đứa trẻ và sự hiểu biết giới hạn về thế giới. Chúng ta có thể học hỏi để nhận ra đứa trẻ đó, làm bạn với nó, và chăm chú lắng nghe những điều mà đứa trẻ cần nói với chúng ta, ngay cho dù điều này thật đau lòng. Trong thực tế, chúng ta có thể để cho đứa trẻ này cảm thấy được đón tiếp bên trong chúng ta, do đó, cho phép con người-trẻ thơ hòa nhập vào con người-trưởng thành của chúng ta. Hoặc chúng ta có thể không thừa nhận đứa trẻ, vì sợ hãi, đau lòng, hoặc bối rối, khiến chúng ta không ý thức về sự tồn tại và những nhu cầu của nó. Trong trường hợp sau, con người-trẻ thơ bị bỏ rơi và không được
- hòa nhập, bắt đầu tiến hành cuộc tàn phá một cách tiêu biểu trong cuộc sống chúng ta, bằng những cách thức mà có thể chính chúng ta không nhận ra: làm cho chúng ta không thể có một cuộc sống với tình yêu hạnh phúc, đưa chúng ta đến những lối cư xử không phù hợp trong công việc, phủ nhận nơi chúng ta sự tự do đối với những hình thức vui chơi của người lớn v.v Tôi muốn khảo sát giả thiết rằng những năm đầu đời của Charles rất đau thương, đến nỗi ông đã tự làm cho mình trở nên tê liệt về mặt tâm lý hầu sống còn, rồi trong quá trình trưởng thành, ông đã để lại con người-trẻ thơ của mình trong một căn phòng kín gió, nơi mà có thể chỉ vừa đủ để nghe được những tiếng la hét của ông, và không thể bắt đầu việc phục hồi lòng tự trọng của ông, cho đến khi ông đã phục hồi được con người-trẻ thơ đó. Với cảm giác là con người-trẻ thơ bị chính con người- trưởng thành của ông loại bỏ và khước từ, với một phần trong con người ông bị một phần khác kết án một cách rất nhẫn tâm, thì không có cách nào để lòng tự trọng của ông sống còn nguyên vẹn. Do đó, những giai đoạn điều trị đầu tiên đều tập trung vào việc hướng dẫn Charles thông qua những năm thơ ấu của ông, để cho ông trải nghiệm ở mức độ càng ngày càng sâu xa hơn về những sự bất xứng, nhục nhã và toàn bộ cảm giác nguy hiểm và hỗn độn đã hình thành nên những ấn tượng đầu tiên của ông về cuộc đời. Điều này được hoàn tất chủ yếu thông qua một thủ tục hoàn tất-câu vốn xuất hiện nổi bật trong phương pháp điều trị của tôi. Tôi giải thích với Charles rằng tôi sẽ đưa ra cho ông một gốc câu, một câu không đầy đủ, và ông sẽ tiếp tục lập lại gốc câu đó, hoàn tất-câu với một kết thúc mỗi lần đều khác nhau, mà không bận tâm đến việc từng kết thúc có đúng theo nghĩa đen, hoặc một kết thúc dường như xung khắcvới nhau hay không. Sau đây là một số trích dẫn từ các lần điều trị trước đây của chúng tôi:
- Tôi đưa ra cho Charles bốc câu: Nếu đứa trẻ bên trong có thể nói được, thì nó sẽ nói rằng – và sau đây là kết thúc của ông: Tôi e ngại. Tôi không hiểu. Tại sao mẹ tôi cứ luôn luôn la mắng tôi? Tại sao bố tôi cứ đánh tôi? Tại sao không điều gì có ý nghĩa cả? Tại sao sẽ không có bất cứ ai chơi với tôi? Tôi không biết cách làm thế nào để nói chuyện với bất cứ ai. Tôi luôn luôn có những cơn ácmộng, và khi tôi khóc, thì bố tôi lại la mắng tôi. Khi tôi tắm, tại sao bố tôi cứ đi vào và chế giễu tôi? Tại sao không ai bảo vệ tôi? Sau đó, tôi đưa ra cho Charles bốc câu: Một trong những điều mà tôi phải làm để sống còn là – Thận trọng. Không cảm thấy. Che giấu. Hiểu. Giữ đôi mắt mình mở rộng trong từng phút.
- Luôn luôn cảnh giác đối với nguy hiểm. Không tin ai. Học hỏi để sống độc lập. Thế rồi trong một phiên họp sau: Một trong những điều mà con người-trẻ thơ của tôi cần đến nơi tôi là - Được sống hồn nhiên. Được lắng nghe. Làm cho nó cảm thấy an toàn Để cho nó khóc. Ấp ủ nó. Không trừng phạt nó như cha tôi vẫn làm. Hiểu được nỗi đau của nó. An ủi nó. Ở đó với nó. Không bỏ đi khỏi nó. Nếu tôi tỏ ra thương cảm và yêu thương hơn đối với con người-trẻ thơ của mình, thì - Tôi sẽ để cho nó chơi thêm. Nó sẽ ít cảm thấy cô độchơn.
- Nó sẽ không cảm thấy bị mọi người bỏ rơi. Tôi có thể là người cha mà nó chưa bao giờ có được. Tôi sẽ để cho nó vui hưởng mọi sự. Tôi có thể làm cho thế giới trở nên tốt đẹp đối với nó. Nó có thể cảm thấy an toàn. Cả hai chúng tôi đều cảm thấy an toàn. Tôi có thể chữa lành cho nó và chữa lành cho cả bản thân mình nữa. Khi chúng tôi đã khảo sát một số chi tiết trong các chủ đề này, tôi nói với Charles: “Ông vui lòng nhắm mắt lại, và tưởng tượng rằng cậu bé Charles đang đứng trước mặt ông. Cậu bé đang nhìn ông như thế nào? Đôi mắt cậu bé diễn tả điều gì? Tôi tự hỏi ông sẽ cảm thấy thế nào, ngay lúc này, nếu ông phải đưa tay ra và nâng cậu bé vào lòng ông, hoàn toàn ôm lấy nó, để cho cánh tay của ông nói lên với nó rằng nó an toàn, lúc này ông đang bên cạnh nó, và vẫn luôn luôn ở đó, cuối cùng, nó có thể cậy nhờ và tin tưởng vào người nào đó. Tôi muốn Charles trải nghiệm con người-trẻ thơ của ông như một thực thể riêng biệt, trong khi đồng thời vẫn giữ lại được sự hiểu biết rằng ông đang đương đầu với khía cạnh phủ nhận chính mình, mà sau đó ông sẽ phải hòa nhập. Charles bắt đầu khócrấm rức. Ông thì thầm: “Cậu bé này có vẻ bị tổn thương, tức giận, không tin tưởng, và muốn tin tưởng rất nhiều Cảm giác này thật tốt đẹp”. “Đúng thế và cho phép nó khócvới ông cả hai người cùng khócvới nhau bây giờ mới thực sự hiểu được mọi việc nhiều hơn là có thể diễn tả thành lời lời nói không cần thiết nữa và ông có thể hiểu rằng ”.
- Thông qua sự hình dung và hình ảnh tưởng tượng có hướng dẫn, cuối cùng, Charles lại đạt được cách giải thoát con người-trẻ thơ của ông, để làm lắng dịu nỗi đau, và cung cấp niềm an ủi, hỗ trợ, và sự kiên định mà đứa trẻ này chưa bao giờ biết đến. Khi làm như vậy, Charles bắt đầu “tha thứ cho” đứa trẻ đó, “tha thứ cho” con người-trẻ thơ của mình – để hiểu rằng sự tha thứ là cần thiết – vì sự thật là đứa trẻ này không biết cách đương đầu như thế nào cho tốt hơn cách nó đã từng làm, đứa trẻ đã đấu tranh để sống còn theo cách thức duy nhất mà nó biế và khi viễn cảnh này trở nên lôi cuốn và hòa nhập, thì lòng tự trọng của Charles bắt đầu nâng lên. Và khi lòng tự trọng của Charles trở nên mạnh mẽ hơn, thì ngay lập tức, ông bắt đầu có vẻ trưởng thành và nam tính hơn. Con người-trẻ thơ của ông bổ sung sự sống cho khuôn mặt ông thay vì nỗi đau đớn. Trong các tuần sau đó, ông bắt đầu có những thay đổi hơn trong cuộc sống, hoàn toàn dựa trên sáng kiến riêng của mình. Ông bắt đầu ăn mặcđẹp hơn, không còn xấu hổ rằng ông không thể mặcnhững bộ quần áo đắt tiền. Ông chuyển từ căn hộ xoàng xĩnh nhất sang một căn nhà thật hấp dẫn. Ông kết thúc mối quan hệ không thỏa mãn suốt ba năm qua, và bắt đầu hẹn hò với các phụ nữ thông minh, có thành tích và độc lập hơn. Ông tỏ ra có năng lực và dứt khoát hơn. Ông có vẻ sống động hơn. Trong việc cải tạo và hòa nhập một phần quan trọng nhưng lại phủ nhận bản thân, ông đã trưởng thành trong sự tiến triển dưới mắt ông. Trong việc biến đổi lòng tự trọng, ông đã biến đổi chính cuộc sống của mình. Tôi đề nghị bạn dành ra một lúc để khảo sát những cảm giác của bạn đối với đứa trẻ mà bạn đã từng là, và tự hỏi về vai trò mà con người-trẻ thơ có thể chiếm hữu trong cuộc sống của bạn hiện nay.
- * * * Eva, 15 tuổi, bị thất bại ở trường. Hiếm khi cô bé từ trường trở về nhà hoặc giữ đúng lời hứa như cô bé đã hẹn. Cha mẹ cô bé than phiền về việc cô thường xuyên nói dối. Trước đám cưới của cô, mẹ cô đã tâm sự rằng cuộc sống riêng của Eva khá “hoang đàng”, và nói với tôi: “Tôi sợ quá. Eva quá giống tôi lúc tôi bằng tuổi nó”. Cha của Eva, một nhà môi giới chứng khoán, đã tâm sự: “Tôi đã từng là một thiếu niên và tôi biết điều gì có thể diễn ra. Bản thân tôi không phải là một thiên thần, như Eva biết rõ, lúc con gái tôi nghe thấy mẹ nó và tôi nói chuyện về điều đó. Tôi thương Eva và tôi bận tâm về thái độ của nó ”. Anh của Eva là một sinh viên giỏi và một đứa con trai mẫu mực. Khi điều trị, Eva thừa nhận rằng trong hai anh em, cô nhìn nhận là anh cô đẹp trai và thông minh hơn. Cô biết rằng mình nhanh chóng khiêu khích những tranh cãi với anh. Điều rất nhanh chóng trở nên rõ ràng đối với tôi, đó là Eva biết rằng lối cư xử “xấu xa” chính là cách thức duy nhất để đạt được sự chú ý. Nói cách khác, cô có một khái niệm nghèo nàn về bản thân, và dường như mải mê biến điều này thành một cuộc sống không hạnh phúc. Vấn đề là: Làm thế nào để gây ra nơi cô một sự thay đổi đối với khái niệm về bản thân và lối cư xử? Tôi yêu cầu cô ngồi trước một cái gương và tự nghiên cứu chính mình. Cô nói rằng cô rất ghét làm như vậy; cô nhận thấy tất cả mọi sự mà cô không ưa nơi bản thân đều phản ánh qua tấm gương. Tôi đề nghị nếu cô có thể đi suốt tuần mà không hề mảy may nói dối bất cứ ai, thì trong phiên họp sắp tới của chúng tôi, cô sẽ ngạc nhiên trước sự thay đổi mà cô sẽ nhận ra trong tấm gương, mặc dù hầu như chắc chắn sự thay đổi sẽ tinh tế, và cô sẽ phải có đôi mắt rất sắcbén mới quan sát được. Cô nghĩ rằng điều
- đó ngớ ngẩn, nhưng cô vẫn đồng ý thực hiện nhiệm vụ này. Tôi tách biệt cha mẹ cô, để yêu cầu họ chấp nhận bất cứ điều gì cô nói trong tuần đó, và không thách thức sự thành thật của cô. Đến phiên họp kế tiếp của chúng tôi, Eva ngồi trước tấm gương và nói: “Tôi có vẻ xấu xí”. Rồi cô thú nhận rằng cô đã nói dối với mẹ cô ba lần. Cô lấy làm ngạc nhiên rằng cô đã không bị nhắclại những lời nói dối đó. Chúng tôi đồng ý thử phân công lại vào tuần tới. Lần này, Eva đến sớm và thông báo ngay trong phòng đợi, trước khi chúng tôi đi vào văn phòng của tôi: “Tôi đã không hề nói dối suốt tuần qua!”. Cô vội vã soi gương. Cô nói nhẹ nhàng, rồi quay sang tôi và hỏi: “Ừmm. Ông có nhận thấy bất cứ điều gì không?”. “Tôi nhìn thấy một cô gái đã chọn sống thành thật suốt tuần”. Nhưng cô cứ khăng khăng: “Tôi có vẻ khác hẳn không?”. Tôi đề nghị cô quay lại soi gương và tự quyết định. Cô thông báo: “Tôi có vẻ hạnh phúc hơn”. “Đúng, đó là sự khác biệt, phải không?”. Sau đó, tôi đề nghị chúng tôi khám phá xem điều gì sẽ xảy ra nếu cô trở về nhà mỗi ngày vào giờ chính xácmà cô đã nói với cha mẹ cô. Phiên họp kế tiếp của chúng tôi phần nào tập trung vào cha mẹ cô. “Bố mẹ tôi đã có cuộc đấu tranh khủng khiếp nhất”. Điều này không làm cho tôi ngạc nhiên. Tôi hỏi: “Còn cô thì sao?”. “Không, đó là mối quan hệ của họ”. Rồi cô soi gương và nói với hình ảnh của mình trong gương: “Bạn nhận thấy điều gì xảy ra khi họ không buộc bạn phải đấu tranh?”. Tôi hài lòng về sự thấu hiểu của cô và vẫn giữ im lặng. Cô tuyên bố: “Tôi nghĩ
- rằng mình khá hơn”. Đó là cách thức cô đang nói với tôi rằng cô đã thực hiện thành công nhiệm vụ của mình là giữ đúng lời hứa. Trong phiên họp sau đó, chúng tôi thực hiện một số việc hoàn tất-câu. Sau đây là những câu trả lời của cô ấy đối với gốc câu: Tôi thích bản thân mình nhất khi - Tôi không cố gắng trở nên giống như bất cứ người nào khác. Thực hiện những điều tôi hứa rằng mình sẽ làm. Làm bài tập ở nhà. Nói sự thật. Vui vẻ với bố tôi. Sử dụng trí óccủa mình, thay vì giả vờ rằng mình ngớ ngẩn. Tránh lo lắng. Tôi thích bản thân mình ít nhất khi - Tôi chơi trò ngớ ngẩn. Hành động một cách dựa dẫm. Nổi giận để gây sự chú ý. Ăn quá nhiều. Hành động bốc đồng. Không đưa ra những ý kiến của mình với mọi người. Nói dối. Thất hứa.
- Trong thời kỳ này, tôi còn hướng dẫn vài phiên họp song song với cha mẹ của Eva, cảnh báo họ sự kiện là khi Eva đã thay đổi và cải thiện, thì có thể họ vẫn trải qua những khó khăn nhiều hơn trong cuộc sống hôn nhân của họ, vì Eva không còn khiến họ rối trí nữa. Tôi cảnh báo họ rằng trên thực tế, có thể họ còn phá hoại ngầm sự tiến bộ của cô, nhằm tránh khỏi phải đương đầu với vấn đề hôn nhân của họ. Chúng tôi đồng ý gặp nhau trong những khoảng thời gian đều đặn, với sự hiện diện của Eva và anh cô, để giám sát phản ứng của gia đình đối với sự thay đổi của Eva. Do đó, lúc bấy giờ mong ướcgây chú ý của Eva đã được đáp ứng, nhưng theo cách thức có lợi cho tất cả các thành viên trong gia đình cô. Chúng tôi còn làm cho cảm giác của cô về giá trị (cộng với cảm giác về sự đáng yêu, quan điểm về sứchấp dẫn) ăn khớp với cảm giác của cô về sự thành thật và hòa nhập. Khi Eva học hỏi để sống có trách nhiệm hơn, thì lòng tự trọng của cô càng gia tăng. Cô yêu mến bản thân mình nhiều hơn. Mong ước của cô trong việc sống có trách nhiệm trở nên mạnh mẽ hơn. Điểm số của cô ở trường cải thiện. Cô trở nên phân biệt hơn cả đối với các bạn bè lẫn trong những sinh hoạt của mình. Cô và anh cô trở thành bạn bè tốt hơn. Một trong những kết quả mà cha mẹ cô đều nhận thấy là các vấn đề riêng của họ góp phần vào những khó khăn của Eva. Họ tìm đến tư vấn hôn nhân. Eva học hỏi để phân biệt giữa những đặc điểm mà cô ngưỡng mộ nơi cha mẹ cô và những đặc điểm nào mà cô không ngưỡng mộ. Cô trở nên phân biệt hơn đối với những điều mà cô vẫn cạnh tranh, và cô loại bỏ những điều gì mà cô cảm thấy chính cha mẹ cô mặc cảm về chúng. Cha mẹ cô thở một hơi dài nhẹ nhõm khi điều này trở nên rõ rệt. Họ mất đi một số mặc cảm mà họ vẫn trải nghiệm với tư cách là cha mẹ, và học hỏi để hỗ trợ những cố gắng của con gái, để cô phát triển thành một người lớn mạnh mẽ, đáng tin cậy.
- Trong việc giúp đỡ Eva củng cố lòng tự trọng của cô, bước quan trọng nhất chính là bước đầu tiên: Cô cần phải loại bỏ thói nói dối. Eva không chỉ nói dối những người khác về những hành động của cô, mà còn dối trá cả đối với chính bản thân về việc mình là ai, giả vờ một sự không tương xứng gây ấn tượng sai lầm về tiềm năng của cô. Cần có rất nhiều việc khác nữa, nhưng sự tự nguyện của Eva trong việc thử nghiệm tính thành thật là điều chủ yếu để bắt đầu sự thay đổi. Liệu có bất cứ khía cạnh nào về mặt tâm lý của Eva có thể liên quan đến bạn không? Tôi tin là quý độc giả hiểu rằng khi tôi kể lại những câu chuyện này, tôi đã bỏ qua rất nhiều. Đây không phải là một cuốn sách về nghệ thuật tâm lý liệu pháp. Những câu chuyện đều được đơn giản hóa để giữ sự tập trung rõ ràng vào những điểm chính liên quan đến các mục đích của chúng ta. Chúng được đưa ra để giúp chúng ta hiểu là những điều chúng ta suy nghĩ về con người của mình đều ảnh hưởng đến cách chúng ta hành động – để giúp chúng ta đánh giá đúng sức mạnh lớn lao của khái niệm về bản thân. Chủ yếu chúng ta quan tâm đến những việc mình có thể thực hiện được với tư cách là người trưởng thành, để gia tăng lòng tự trọng của mình, để học hỏi cách yêu thương và tin tưởng mình nhiều hơn, và để quả quyết hơn về tính hiệu quả của mình. Thật vậy, có thể một số người trong chúng ta cần đến tâm lý liệu pháp, để hoàn toàn giải quyết những khó khăn của mình. Nhưng hầu hết chúng ta đều có khả năng làm được rất nhiều việc cho chính mình, miễn là chúng ta sẵn sàng cố gắng. Tình trạng này phần nào giống như vấn đề rèn luyện thể lý: rõ ràng điều này càng dễ dàng hơn đối với một huấn luyện viên hoặc người rèn luyện, nhưng với sự hướng dẫn đúng cách từ một
- cuốn sách, chúng ta vẫn có khả năng tạo ra sự cải thiện trong điều kiện của mình. Điều này đưa đến vấn đề về ý chí và sự quyết tâm. Chúng ta đều mong muốn thành công trong cuộc sống. Chúng ta mong muốn cho bản thân mình những điều khả thi tốt đẹp nhất một cách thực tế. Nếu lòng tự trọng chính là bí quyết, thì chúng ta làm thế nào để phát sinh nó ?
- Chương 3 Sống Có Ý thức Những từ diễn tả rõ nhất điều mà chúng ta có thể làm để gia tăng lòng tự trọng – để phát sinh thêm lòng tự tin và tự trọng. Đó là: Sống có ý thức. Đối với lời phát biểu này, vấn đề là có thể điều này quá trìu tượng đối với một số người; hiển nhiên nó không biến thành hành động của tâm trí và/ hoặc thể lý. Và nếu chúng ta mong muốn trưởng thành, thì chúng ta cần biết làm gì. Chúng ta cần phải học hỏi những lối cư xử mới. Vì thế, chúng ta phải hỏi: Nếu chúng ta thực hành lối sống có ý thức hơn, thì chúng ta hành động một cách khác biệt theo cách nào? Để trả lời đầy đủ câu hỏi này, chúng ta sẽ cần đến sự cân xứng của cuốn sách này, nhưng trước hết, chúng ta hãy xem tại sao lối sống có ý thức chính là nền tảng của lòng tự tin và tự trọng. Tâm trí là phương tiện cơ bản của chúng ta để sống còn. Tất cả thành tựu rõ rệt của con người đều phản ánh khả năng suy nghĩ của chúng ta. Cuộc sống thành công tùy thuộc vào cách sử dụng trí thông minh sao cho phù hợp – phù hợp nghĩa là đối với những công việc và mục đích mà chúng ta đặt ra cho chính mình,
- và đối với những thách thức mà chúng ta đương đầu. Đây là sự kiện sinh học cốt lõi đối với sự tồn tại của chúng ta. Nhưng cách sử dụng phù hợp đối với ý thức của chúng ta lại không tự động: nói đúng hơn, đó là một hành động chọn lựa. Chúng ta tự do phấn đấu để phát triển hoặc thu lại ý thức. Chúng ta có thể tìm cách để nhìn thấy nhiều hơn hoặc ít hơn. Chúng ta có thể muốn biết hoặc không biết. Chúng ta có thể đấu tranh để làm sáng tỏ hoặc lu mờ. Chúng ta có thể sống có ý thức, hoặc ý thức một phần, hoặc vô ý thức (vì hầu hết những mục đích thực tiễn). Đây là ý nghĩa cơ bản của ý chí tự do. Nếu cuộc sống và hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào cách sử dụng ý thức sao cho phù hợp, thì quy mô chúng ta tôn trọng tầm nhìn hơn là sự mù quáng chính là yếu tố quyết định riêng biệt quan trọng nhất đối với lòng tự tin và tự trọng của chúng ta. Hầu như chúng ta không thể cảm thấy thành thạo trong cuộc sống, trong khi cứ mải suy nghĩ lan man (về công việc, đời sống hôn nhân, hoặc cách đối phó với con cái), trong một tâm trí bối rối tự cảm. Nếu chúng ta bộc lộ phương tiện cơ bản đối với sự sống còn bằng cách cố gắng tồn tại một cách không suy nghĩ, thì vì thế, cảm giác của chúng ta về sự xứng đáng càng trở nên tồi tệ, bất kể sự tán thành hoặc không tán thành của mọi người khác đối với mình. Chúng ta biết những khuyết điểm của mình, cho dù bất cứ người nào khác biết hay không. Lòng tự trọng chính là danh tiếng mà chúng ta đạt được đối với bản thân. Mỗi ngày hàng ngàn lần, chúng ta phải chọn lựa mức độ ý thức mà qua đó chúng ta sẽ hành động. Mỗi ngày hàng ngàn lần, chúng ta phải chọn lựa giữa sự suy nghĩ hoặc không suy nghĩ. Dần dần, theo thời gian, chúng ta thiết lập một cảm giác về loại người của mình, tùy thuộc vào những chọn lựa mà chúng ta thực hiện, sự hợp lý và liêm chính mà chúng ta biểu lộ. Đó là danh tiếng mà tôi nói đến.
- Chúng ta càng thông minh hơn bao nhiêu, thì tiềm năng của chúng ta đối với ý thức càng lớn hơn bấy nhiêu, nhưng nguyên tắc sống ý thức vẫn như nhau, bất chấp mức độ thông minh. Sống có ý thức nghĩa là tìm cách ý thức tất cả mọi sự liên quan đến những hành động, mục tiêu, giá trị và mục đích, và đối xử phù hợp với những điều mà chúng ta nhìn thấy và hiểu biết. Trong bất cứ tình huống nhất định nào, sống có ý thức nghĩa là phát sinh một trạng thái của tâm trí phù hợp với công việc sắp tới. Việc lái xe, làm tình, viết một bản danh sách các tạp phẩm, nghiên cứu một tờ quyết toán – tất cả đều đòi hỏi những trạng thái tâm trí có phần khác nhau, các loại quá trình tâm trí khác nhau. Trong các vấn đề về vận hành tâm trí, bối cảnh quyết định tính cách phù hợp. Sống có ý thức nghĩa là chịu trách nhiệm về nhận thức phù hợp với hành động mà chúng ta tự cam kết. Trên hết, đây chính là nền tảng của lòng tự tin và tự trọng. Vậy thì lòng tự trọng là một chức năng, không phải đối với những điều mà chúng ta vốn có từ bẩm sinh, nhưng đối với cách chúng ta sử dụng ý thức của mình - những chọn lựa mà chúng ta thực hiện liên quan đến ý thức, sự thành thật trong mối quan hệ của chúng ta đối với thực tại, và mức độ liêm chính của cá nhân chúng ta. Một người có trí thông minh cao và lòng tự trọng cao vẫn không cảm thấy phù hợp với cuộc sống hơn, hoặc xứng đáng với hạnh phúc hơn, so với một người có lòng tự trọng cao và trí thông minh khiêm tốn. Sống có ý thức bao hàm sự tôn trọng các sự kiện thực tế - các sự kiện trong thế giới nội tâm của chúng ta cũng như thế giới bên ngoài – ngược lại với thái độ chẳng khác gì “Nếu tôi không chọn lựa để nhìn thấy điều đó hoặc thừa nhận nó, thì nó không tồn tại”. Sống có ý thức nghĩa là sống có trách nhiệm đối với thực tại. Điều này không có nghĩa là chúng ta phải thích những điều chúng ta nhìn thấy, nhưng có nghĩa là chúng ta nhìn nhận
- rằng điều đó là và không là, và những mong ước, hoặc nỗi sợ hãi, hoặc sự khước từ đều không làm biến đổi các sự kiện. Để minh họa những điều tôi muốn nói về lối sống có ý thức, tôi xin đưa ra những ví dụ sau đây: Sống có ý thức. Khi John được tuyển vào một công việc mới, anh đã làm tất cả mọi sự có thể được, để quán triệt những điều đòi hỏi nơi anh, và tiếp tục tìm kiếm những cách thức để thực hiện công việc của mình một cách hiệu quả hơn. Ngoài ra, anh còn tìm cách hiểu được bối cảnh rộng lớn hơn mà trong đó công việc của anh diễn ra, sao cho anh sẽ đủ tư cách thăng tiến và không bị cản trở vô hạn định ở mức độ mà anh khởi đầu. Mong ước cơ bản của anh là học hỏi – và do đó, tiếp tục phát triển trong sự tự tin, hiệu quả, và thành thạo. Sống vô ý thức. Khi Jim được tuyển vào một công việc trong cùng xí nghiệp, anh tưởng tượng rằng nếu anh ghi nhớ những bổn phận hàng ngày được giao phó cho mình, và không thu hút sự chú ý tiêu cực, thì anh có thể hy vọng được an toàn. Những thách thức không hấp dẫn đối với anh, vì chúng lôi kéo theo sự rủi ro và tư tưởng cần có. Anh đã hoạt động ở mức độ nhận thức tối thiểu cần thiết để lập lại những động tác mà anh đã được dạy, không đóng góp gì cho nhận thức riêng. Sự chăm chú của anh hiếm khi lạc khỏi chức vụ anh nắm giữ, ngoại trừ vì mục đích hòa nhập với xã hội hoặc mơ mộng hão huyền. Anh không cảm thấy tò mò về công việc của mình theo nghĩa rộng. Anh cảm thấy tại sao phải thế? Công việc vẫn còn đó. Anh đặt một chiếc đồng hồ nhỏ trước mặt, sao cho anh sẽ biết chính xác khi nào 5 giờ để trở về nhà. Khi anh bị quản đốc đe dọa vì những sai lỗi mà anh đã phạm, thì anh liền kiếm cớ để cáo lỗi và thầm tức giận. Nhưng khi John được đề bạt, và Jim không được, thì Jim lại cảm thấy bối rối và bất mãn.
- Lối cư xử nào trong số này giống như của bạn hơn? Và lối cư xử này có tác động gì đối với lòng tự trọng của bạn? Sống có ý thức. Một phụ nữ hạnh phúc đã kết hôn tên là Serena có lần đã nói với tôi: “Chỉ một giờ sau khi tôi gặp người đàn ông mà tôi đã kết hôn, tôi có thể đưa ra cho ông cả một bài thuyết trình về những điều thật khó chịu khi sống với anh ta. Tôi nghĩ rằng anh ấy là một người đàn ông thú vị mà tôi đã từng biết, nhưng tôi không bao giờ tự đánh lừa mình về sự kiện anh ta cũng là một trong những người chỉ quan tâm đến mình nhất. Anh ta thường giống như một giáo sư lơ đãng. Anh ta dành rất nhiều thời gian cho thế giới riêng của mình. Tôi phải biết điều gì diễn ra, nếu không thì sau đó, tôi sẽ rất tức giận. Anh ta không bao giờ tạo ra bất cứ kỳ vọng nào về loại người mà mình là. Tôi không thể hiểu được những người tự thú nhận rằng họ bị tổn thương hoặc bị sốc về cách thức người bạn đời của họ hoá ra. Nếu bạn chỉ cần chú ý, thì việc họ là gì trở nên rõ ràng. Trong toàn bộ cuộc sống của mình, tôi không bao giờ hạnh phúc hơn bây giờ, trong cuộc hôn nhân này, nhưng không phải là vì tôi tự nhủ rằng chồng tôi “hoàn hảo” hoặc “không có lỗi”. Bạn biết đấy, tôi nghĩ rằng đó là lý do tại sao tôi cảm thấy mình đánh giá rất đúng điểm mạnh và những đức tính tốt của anh ấy. Tôi sẵn sàng nhìn thấy tất cả mọi sự”. Sống vô ý thức. Khi đến với liệu pháp tâm lý, một phụ nữ tên là Carol đã nói ngay ở phiên họp đầu tiên: “Tôi xui xẻo hết sức đối với đàn ông. Ý tôi muốn nói rằng bao nhiêu phụ nữ có thể kể lại rằng cả ba người tình cuối cùng của họ đều đánh đập họ? Tôi không hiểu tại sao những điều này xảy ra. Chúa ơi, tại sao lại là tôi? Tại sao lại là tôi? Không, bạn biết không, tôi không thể nói rằng tôi lo lắng khi quen biết một người đàn ông. Tôi muốn nói rằng một phần của sự phấn khích ở trong tình trạng mê muội, chẳng phải vậy sao? Điều này luôn luôn là một cú sốc lớn – tôi
- không thể tin rằng nó xảy ra! Tôi muốn nói rằng khi họ bắt đầu thay đổi đột ngột. Ồ, giả thử tôi có cách để phần nào biết rằng họ sẽ gặp rắc rối. Có những dấu hiệu. Nhưng tôi mong muốn mọi sự đều tốt đẹp! Tôi mong muốn mọi sự đều Đúng đắn. Như vậy, ngay cả nếu tôi nghe nói về cách họ đối xử với các phụ nữ khác, thì tôi vẫn tự nhủ: ‘Anh ta sẽ khác hẳn đối với mình’. Tôi tự hỏi nếu các phụ nữ khác cũng tự nhủ điều đó Mẹ tôi vẫn nói rằng: ‘Hãy chú ý trước khi con nhảy qua’. Nhưng bạn có thể thú vị theo cách đó không? Tôi chỉ thích nhắm mắt lại và lao vào mà thôi. Hãy đến với những điều khả thi! Đó là triết lý của tôi. Giá mà tôi gặp được một người đàn ông tốt hơn”. Giả thử hai người phụ nữ này tiêu biểu cho sự thái cực của những thái độ đối nghịch nhau. Nhưng trong các mối quan hệ cá nhân của bạn, thái độ nào gần với thái độ của bạn hơn? Sống có ý thức. Khi Roger lớn lên, anh nhìn và nghe thấy nhiều điều mà anh không thể hiểu được. Anh nghe thấy mẹ anh giảng thuyết cho anh về đức tính trung thực, rồi sau đó, trong nhiều dịp khác, anh lại nghe thấy bà nói dối những người hàng xóm. Anh thấy cha anh nhìn mẹ anh với lòng căm thù một lúc sau khi nói với bà: ‘Vâng, bà nói đúng, tôi xin lỗi’. Anh nhận thấy hầu hết người lớn đều gần như không bao giờ nói thật về những cảm giác của mình; họ thường có vẻ không hạnh phúc và thất bại, nhưng điều đó vẫn không ngăn cản họ đưa ra những bài thuyết trình về cách làm thế nào để sống một cuộc đời thành công. Dường như họ quan tâm nhiều đến những điều người khác suy nghĩ, hơn là điều gì đúng. Anh mất tinh thần và đôi khi sợ hãi trước những gì anh nhìn thấy; nhưng anh vẫn tiếp tục nhìn, tiếp tục cố gắng để hiểu được. Anh biết rằng mình không muốn trở nên giống như những người đang lớn lên chung quanh mình. Anh thường cảm thấy cô độc đối với người nào đó có thể thực sự ngưỡng mộ anh. Nhưng anh lại không giả vờ rằng anh ngưỡng
- mộ những người mà anh quen biết. Anh nôn nóng để lớn lên, sao cho anh có thể ra đi và tìm được một đường lối nào do những người lớn mà anh nhìn thấy đưa ra. Trong khi chờ đợi, anh tự nhủ rằng không gì quan trọng hơn là bảo vệ sự trong sáng nơi tầm nhìn riêng của mình và không đầu hàng trước sự tuyệt vọng. Bị bầm dập, ngược đãi và xa lánh khỏi những người chung quanh, anh vẫn cố bám lấy, kiên trì – và lớn lên để khám phá những người bạn mà anh có thể quý mến và ngưỡng mộ, và những khả năng về lối sống mà anh vẫn mơ ước lúc còn nhỏ, khi thậm chí anh không biết đặt tên cho lối sống này bằng những từ nào. Khi lớn lên, anh khám phá được từ - đó là thực tế. Sống vô ý thức. Milton sống trong một thế giới rất giống với thế giới của Roger, nhưng từ rất sớm, anh đã rút ra một kết luận khác hẳn. Lờ mờ và không diễn đạt được bằng lời, anh quyết định rằng: Thật nguy hiểm khi nhìn thấy quá nhiều. Anh mong muốn được thuộc về, anh mong muốn được yêu thương, và anh cảm thấy điều đó quan trọng hơn bất cứ điều gì khác. Vì thế, anh giả vờ không nhận thấy khi nào những người lớn đang nói dối, hoặc đạo đức giả, hoặc tàn nhẫn, và anh học hỏi để cạnh tranh với thái độ của họ. Một ngày đến cách tự nhiên giống như hơi thở. Lúc anh còn là một thiếu niên, anh vẫn tự hỏi điều gì xảy ra đối với tình trạng bị kích động mà anh đã cảm thấy khi còn nhỏ; nhưng anh lại nhanh chóng xua đuổi những tư tưởng này khỏi tâm trí mình. Khi anh lên 20 tuổi, một ngày kia, cha anh đã nói với anh: “Con có nghĩ rằng cuộc đời nói về hạnh phúc không?”. Cho đến nay, Milton vẫn rất tê liệt đến nỗi anh biết rằng không cần có câu trả lời nào; bố anh chỉ phát biểu điều hiển nhiên. Khi Milton 30 tuổi, sau khi uống rượu với bạn bè, anh nói: “Tôi sẽ nói cho bạn biết bí mật của cuộc đời: Hãy thực hiện những cuộc vận động và đừng suy nghĩ gì cả. Sau đó bạn không cảm thấy nỗi đau”. Mọi người đều nghĩ rằng Milton là một anh chàng bình thường, ngoại trừ những đứa con gây rắc rối của anh, chúng đã nhận thấy sự trống rỗng từ đôi mắt của anh đang nhìn
- chằm chằm vào chúng. Nhưng đối với những người lớn, anh có vẻ hoàn toàn bình thường, đó là điều Milton luôn luôn mong muốn, và sẽ bán rẻ mình vì điều đó, và anh đã làm như vậy. Bạn có liên hệ tâm lý của cả hai người đàn ông này với bản thân mình không? Nếu có thể, điều gì sáng tỏ? Sống có ý thức. Karen là một nhà khoa học nghiên cứu về lãnh vực hóa sinh. Cô đã viết vài bài thuyết trình được đánh giá cao, trong đó, cô triển khai một lý thuyết đạt được rất nhiều người ủng hộ trong số các đồng nghiệp của cô. Sau đó, trong một nhật báo vô danh xuất bản tại Úc, cô đọc thấy vài phát hiện thử nghiệm sẽ hoàn toàn vô hiệu hóa lý thuyết của cô, nếu được xác minh. Karen sao chép lại các thử nghiệm, và khám phá rằng quả thật lý thuyết của cô bị phản đối, và cô đã phổ biến một bài thuyết trình thông báo điều này. Khi một cộng tác viên hoài nghi hơn hỏi cô về nguyên nhân tại sao cô lại chọn cản trở sự nghiệp của mình dựa trên cơ sở hướng dẫn từ một nhật báo mà không ai nghe nói đến, thì cô nhìn chằm chằm vào anh ta một cách không thể hiểu nổi, điều này chỉ càng làm cho đồng nghiệp của cô bực bội. Cô nói : “Tôi quan tâm đến điều gì có thật”. Đồng nghiệp của cô nhún vai: “Sự thật là gì?”. Sống vô ý thức. Trường hợp này nhằm chia sẻ não trạng của người đồng nghiệp trong câu chuyện trên đây, bất kể nghề nghiệp của họ. Trong số hai thái độ xung đột trên đối với sự thật, thái độ nào giống của bạn hơn? Bạn nhất quán như thế nào? Và ý thức của bạn về bản thân chịu ảnh hưởng ra sao? Sống có ý thức. Giữa một cuộc tranh cãi nảy lửa với vợ, Jerry đột ngột ngừng lại và nói : “Đợi một phút. Tôi nghĩ rằng tôi đang phòng thủ và không thực sự lắng nghe cô. Chúng ta có thể
- trở lại vài bước và thử lại không? Bây giờ, chúng ta hãy xem tôi có hiểu được điều cô đang nói không”. Sống vô ý thức. Nhiều năm nay, vợ của Phillip đã cố gắng nói với anh rằng cô không hạnh phúc trong cuộc hôn nhân của họ. Phản ứng tiêu biểu của anh là ngái ngủ không thể kiềm chế được. Khi cô cố gắng bàn bạc với anh lúc sáng sớm, với hy vọng rằng anh sẽ tỉnh táo hơn, thì anh lại ngáp: “Tại sao cô cứ luôn luôn bắt đầu những đề tài không thể được này, khi cô biết rằng tôi đang phải sẵn sàng để đi làm?”. Khi vợ anh đề nghị một thời gian thay thế nào sẽ phù hợp hơn, thì anh trả lời: “Bây giờ, cô lại đang cố gắng đánh bẫy tôi! Tôi không thể chịu đựng được sức ép!”. Khi vợ anh nói với anh rằng cô không được chuẩn bị để sống suốt đời với anh, trừ khi họ học hỏi cách truyền đạt, thì anh lại ngáp: “Cô có nghĩ rằng các bà vợ khác hạnh phúc hơn không?”, rồi anh lao ra khỏi nhà. Sau những năm không xung đột như vậy, một ngày nọ, khi anh trở về nhà mới phát hiện rằng vợ anh đã ra đi, và một lá thư ngắn đề là cô không thể chấp nhận tình trạng này được nữa, thì anh đã kêu lên với căn nhà trống trải: “Vấn đề gì thế này? Làm thế nào mà điều này lại có thể xảy ra? Làm thế nào cô ấy lại có thể dứt khoát ra đi mà không dành cho tôi một cơ hội?”. Bạn có ủng hộ lối cư xử này hơn lối cư xử kia không? Bạn có thể tìm thấy những khía cạnh của bản thân mình trong hai câu chuyện trên không? Và bạn thích hoặc không thích những gì bạn nhìn thấy? Sống có ý thức. Bất cứ khi nào Kay quyết định một mục tiêu mới, thì ngay lập tức, cô liền tự hỏi sẽ đòi hỏi gì để đạt được điều này. Khi cô mong muốn bắt đầu công việc riêng của cô, thì cô chuẩn bị một kế hoạch hành động tỉ mỉ, bao gồm hàng loạt
- chiến lược phụ thật chi tiết, cho phép cô chuyển động từng bước hướng tới mục tiêu mong muốn của mình; rồi sau đó, cô mới bắt đầu hành động. Cô không thụ động chờ đợi người nào đó cung cấp cho cô cách đáp ứng đầy đủ những giấc mơ. Khi có điều gì đó bất ổn, thì phản ứng tiêu biểu của cô là: “Tôi đã sơ suất gì?”. Khi cô bặt gặp những trở ngại, cô không nghĩ đến những từ ngữ để đổ lỗi, nhưng những từ ngữ để giải quyết. Cô nhận trách nhiệm rằng mình đang là nguyên nhân đối với những tác động mà cô mong muốn. Khi cô thành công, cô không ngạc nhiên. Sống vô ý thức. Mary không hạnh phúc khi làm việc trong một cửa hàng quần áo và mơ ước có một cửa hàng riêng. Nhưng khi các bạn bè hỏi cô tại sao và làm thế nào mà cô nghĩ rằng mình có thể thành công trong công việc này, thì cô trả lời: “Nhưng điều đó không tuyệt vời sao?”. Khi cấp trên của cô khiển trách cô vì mơ mộng hão huyền trong công việc, bất cẩn và lơ là đối với khác h hàng, thì cô tự nhủ: “Thật khó mà tập trung vào những điều không quan trọng, trong khi tôi đang nghĩ đến những hoài bão của riêng mình”. Khi một người bạn gợi ý rằng sẽ hữu ích hơn nếu cô bày tỏ nhiều sáng kiến hơn trong công việc, thì cô trả lời: “Tại sao tôi lại tự hủy hoại mình bằng cách làm việc cho người khác nào đó?”. Khi nghe cấp trên của cô nói rằng những dịch vụ của cô không còn cần thiết nữa, thì cô cảm thấy sốc và bị phản bội. Cô tự hỏi tại sao một số người dường như thực hiện được những giấc mơ của họ, trong khi cô lại không thể, và cô nghĩ rằng: “Có lẽ tôi chỉ không cẩn thận đủ để thành công trong công việc ”. Cô mơ hồ nhận thức được sự căm ghét đang phát triển trong tâm hồn mình, nhưng cô lại gọi điều đó là “sự căm phẫn đối với tình trạng bất công của ‘hệ thống’”. Nếu bạn biết hai người phụ nữ như vậy, thì bạn sẽ giống như người nào hơn? Người nào nhắc nhở bạn về bản thân mình
- hơn? Và bạn có thể nhận thấy những ám chỉ đối với lòng tự tin và tự trọng của bạn không? Sống có ý thức. Elizabeth yêu chồng bà, vốn là một chủ thầu, và khi bà nghe nói rằng chồng bà đang đi ngang về tắt đối với một số dự án xây dựng của ông, nhằm giảm bớt chi phí, bằng những đường lối gần với sự vô nguyên tắc, thì bà bị rối trí. Bà biết rằng thời gian không tốt cho kỹ thuật xây dựng, và sự cạnh tranh thật khốc liệt. Nhưng tình trạng bận rộn của bà đối với công việc riêng đã ngăn cản bà nhận ra chồng bà lo lắng về việc kinh doanh của ông như thế nào. Khi Elizabeth đề cập đến đề tài này với chồng bà, ban đầu ông đã tức giận và phòng thủ. Nhưng bà kiên nhẫn, và ông nhận thấy bà quan tâm hơn là thù địch, thì càng lúc ông càng bắt đầu chia sẻ với bà những nỗi lo lắng và bận tâm của ông về việc “đi ngang về tắt”. Ngay cả như vậy, họ vẫn trải qua nhiều giờ khó khăn trong tuần tới; đôi khi, mỗi người còn mất sự tự chủ và phải sử dụng đến cách la hét. Nhưng cuối cùng, lý lẽ, tình yêu và sự tôn trọng lẫn nhau đã chiến thắng; ông tự cam kết sửa đổi những sự vi phạm mới đây của ông trong công việc, và thực hành sự liêm chính mà ông vẫn bày tỏ trong quá khứ. Vợ ông củng cố lòng tin của ông rằng ông sẽ tìm được một cách thức để thắng thế. Sau khi thành công trong việc khắc phục một thời kỳ sóng gió, cuộc hôn nhân của họ trở nên mạnh mẽ hơn. Elizabeth nói : “Nếu bạn thực sự yêu thương người nào đó, thì bạn không để cho nỗi sợ hãi cản trở bạn khỏi thách thức người đó, khi đấy là điều mà tình hình đòi hỏi”. Sống vô ý thức. Louise cảm thấy không thoải mái đối với đối tác mới trong tương lai của chồng bà, khi Paul đưa ông ta về
- nhà dùng bữa tối. Paul sở hữu vài ga-ra dịch vụ xe hơi hiện nay đang bị thiếu số vốn cần thiết mà người đàn ông này đề nghị cung cấp, để đổi lại một phần góp vốn kinh doanh. Không câu chuyện gì tại bàn ăn có ý nghĩa đối với Louise, và bà không cố gắng đưa câu chuyện này vào trọng tâm rõ rệt; bà tự nhủ rằng kinh doanh là việc của đàn ông, và bà không nên nghĩ đến việc này. Tuy nhiên, dường như đối với bà, mặc dù chỉ lờ mờ, thì người đàn ông này đang nói rằng trong khi trên giấy tờ, hiện nay ông ta sở hữu đa số, thì trên thực tế, việc kinh doanh vẫn thuộc về Paul. Người đàn ông này nói rằng: “Rốt cuộc , tôi biết gì về các ga-ra dịch vụ?”. Bà nhận ra rằng dường như Paul bồn chồn, rối trí và hơi cáu kỉnh bất cứ khi nào bà nói. Bà tự nhủ rằng bổn phận trước hết của người vợ là giữ gìn sự an bình cho mái nhà, vì thế, bà vẫn im lặng một cách đầy ý thức trách nhiệm. Bà cứ xoay quanh câu chuyện còn lại. Bà không nói gì khi thấy Paul ký kết những giấy tờ mà không kiểm tra với luật sư của ông, và bà quyết định không suy nghĩ gì mỗi khi bà thấy hết nhân viên này đến nhân viên khác bị sa thải, theo lệnh của đối tác mới, và những nhân viên ít kinh nghiệm hơn lại được tuyển dụng mà không bàn bạc với Paul, bà vẫn quyết định không nghĩ hoặc nói gì về việc này mỗi khi bà thấy thu nhập của Paul giảm bớt, mà không có lý do để ông có thể giải thích với bà; và bà quyết định không nghĩ hoặc nói gì về việc này mỗi khi bà thấy Paul trở về nhà và báo tin rằng ông đang lập hồ sơ về vụ phá sản của cá nhân ông. Dường như thể mỗi cú tai họa đều là một dấu hiệu để trấn áp ý thức còn xa hơn nữa của bà. Đến lúc bấy giờ, bà vẫn đang khóc rất nhiều – trên thực tế, cả hai ông bà đều khóc– nhưng họ không nghĩ hoặc nói gì về việc này. Một hôm, Paul nói để trả lời cho sự im lặng của bà: “Bà suy nghĩ về việc đó để làm gì? Tôi đã bị vài vụ xui xẻo. Điều này có thể xảy ra với bất cứ ai”. Louise nhìn ông từ bên kia bàn ăn, cố giữ tâm trí mình một cách tuyệt vọng trong tình trạng bối rối hoang mang khủng khiếp, sao cho bà không bắt đầu hét lên. Nhưng bà vẫn cảm thấy bị phản bội, không phải do chồng bà cho bằng do chính cha mẹ bà, những người từ lâu trước đây đã từng
- hứa hẹn với bà rằng nếu một phụ nữ phục tùng, chịu đựng và không bao giờ thách thức chồng, thì sẽ được hạnh phúc. Nhưng Louise lại không hề hạnh phúc. Tại sao cuộc đời đánh lừa bà? Bà cay đắng tự hỏi “Có lẽ Paul sẽ làm điều gì đó”. Không phải do quan điểm của bà và Paul về sự tồn tại, nhưng các đôi vợ chồng vẫn có thể suy nghĩ và nói chuyện với nhau về các vấn đề trong cuộc sống của họ. Bạn có thể tìm thấy những khía cạnh của bản thân mình trong cả hai người phụ nữ này không? Nếu có, bạn hãy nhận ra họ là ai. Bạn tự hào hay buồn phiền về những điều mà bạn nhận ra? Sống có ý thức. Khi Norman gần đến tuổi 42, anh biết rằng mình đã đạt được những mục tiêu chủ yếu mà anh đã tự lập ra cho chính mình. Anh hạnh phúc trong hôn nhân, anh là một bác sĩ thành công trong việc hành nghề, và anh có ba đứa con mà anh yêu thương và tự hào về chúng. Nhưng càng ngày anh càng ý thức một trạng thái không thỏa mãn mơ hồ phát xuất từ thâm tâm, như thể một phần nào đó không được biết đến của bản thân anh đang cố gắng đưa ra một dấu hiệu thông qua ý thức. Ban đầu, anh có thể nhận ra toàn bộ cảm giác lệ thuộc tràn lan. Anh không gạt bỏ cảm giác này; anh xem xét nó. Dần dần, anh tự khám phá rằng mình đang nhớ lại một giấc mơ bị quên lãng từ lâu trong thời thanh xuân của anh: viết sách. Anh đã giảm bớt kế hoạch làm việc và sinh hoạt xã hội, nhằm dành thêm thời gian để khảo sát tỉ mỉ những giấc mơ và khao khát của mình. Ban đầu, anh không thể nói rằng chúng tiêu biểu cho một mơ ước thực sự hoặc phần còn lại của một hình ảnh tưởng tượng trong thời thơ ấu; nhưng anh biết rằng việc phát hiện ra nó là điều quan trọng, vì anh biết rằng cuộc đời anh và những gì anh thực hiện đều quan trọng. Anh bắt đầu nhận ra rằng mình say mê mong muốn viết tiểu thuyết. Chẳng bao lâu sau, anh phác thảo một cuốn truyện. Hai năm sau,
- cuốn truyện này hoàn tất; một năm rưỡi sau, nó được xuất bản. Cuốn truyện của anh chỉ hay vừa vừa thôi. Nhưng đến lúc này, Norman biết chắc chắn rằng đây là công việc mà anh mong muốn. Cuốn tiểu thuyết thứ hai của anh thành công hơn, cuốn thứ ba vẫn thành công hơn nữa. Anh đã rút lui khỏi ngành y khoa để viết văn toàn-thời gian. Khi ngắm nhìn Norman, vợ anh nhận thấy anh càng ngày càng trẻ trung và hạnh phúc hơn. Khi ngắm nhìn Norman, con cái anh học hỏi được một bài học vô giá: tôn trọng những mong muốn riêng của mình; tôn trọng cuộc sống của mình. Anh nói với chúng: “Các con hãy luôn luôn cảnh giác đối với những dấu hiệu từ bên trong. Đừng hành động cách hấp tấp, nhưng hãy chú ý. Đôi khi, một phần của tâm trí chúng ta đi trước nhiều năm, so với một phần khác trong sự khôn ngoan của nó ”. Sống vô ý thức. Tim chán nản. Anh là một nhà tâm lý đã hành nghề từ năm 28 tuổi, hiện nay anh 51 tuổi, và anh tự hỏi làm thế nào anh có thể chịu đựng được cùng một công việc trong suốt 20 năm nữa hoặc khoảng chừng ấy. Anh có một thời gian tập luyện cá nhân và nhóm, thỉnh thoảng, anh còn hướng dẫn các hội nghị chuyên đề về ngành nghề. Anh không thể nhớ được thời điểm mà anh ngừng làm việc cho vui và bắt đầu làm việc chỉ vì tiền, nhưng anh biết rằng từ lâu trước đó, thú vui đã không còn thích đáng nữa. Anh đã từng mang lại sự phấn khích cho các thân chủ; bây giờ, anh mang lại sự “khôn ngoan” yếm thế, mệt mỏi. Anh cảm thấy mình như một kẻ gian dối, và liên tục xấu hổ rằng dường như không người nào khác nhận ra. Anh chợt nảy ra ý nghĩ mơ hồ rằng các thân chủ đến với anh chỉ với các vấn đề như hiện nay anh đang trải nghiệm. Nhưng điều này không vận động anh suy nghĩ về tình hình của mình hoặc thảo luận về nó với bất cứ ai. Thú tiêu khiển và cách trốn tránh ưa thích nhất của anh là chơi quần vợt, và thông thường, khi một thân chủ đang nói chuyện với anh và anh cảm thấy chán nản, thì anh nghĩ đến quần vợt. Đối với gia đình, dường như càng ngày anh càng tẻ nhạt, thu
- mình lại và dễ cáu kỉnh. Cuối cùng, anh say mê một nữ thân chủ trẻ hơn anh 30 tuổi, và biến mất cùng với chị ta đến một ashram ở Colorado, dưới sự hướng dẫn của một sư phụ người Ấn Độ, người đã dạy cho anh “tình yêu tự do” và “thử nghiệm” ma túy – cùng với sự phục tùng tuyệt đối trước ý chí của sư phụ – như là một đường lối khai sáng tinh thần. Sư phụ này nói với Tim rằng suy nghĩ chính là nguyên nhân gây ra tất cả những rắc rối đối với anh, và Tim muốn tin rằng điều này đúng. Đây là hai thái độ đối với cuộc sống, lý lẽ và thực tế. Thái độ nào gần hơn với của bạn? Và bạn nhận thấy điều gì là kết quả đối với lòng tự trọng của mình? * * * Khi suy nghĩ về các ví dụ trên đây, bạn hãy quan sát loại vấn đề có liên quan trong lối sống có ý thức ngược lại với lối sống vô ý thức : Suy nghĩ, ngay cả khi suy nghĩ thật khó khăn, ngược lại với không suy nghĩ. Ý thức, ngay cả khi ý thức mang tính cách thách thức, ngược lại với không ý thức. Sáng sủa, cho dù điều này đến một cách dễ dàng hay không, ngược lại với sự tối tăm hoặc mơ hồ. Tôn trọng thực tại, cho dù thú vị hoặc đau thương, ngược lại với sự tránh né thực tại. Tôn trọng sự thật, ngược lại với phủ nhận sự thật. Độc lập ngược lại với lệ thuộc.
- Khuynh hướng chủ động ngược lại với khuynh hướng thụ động. Sẵn sàng chấp nhận rủi ro phù hợp, ngay cả trước nỗi sợ hãi, ngược lại với thái độ không sẵn sàng. Chân thành đối với bản thân, ngược lại với sự không chân thành. Sống trong hiện tại và chịu trách nhiệm đối với hiện tại, ngược lại với sự rút lui vào hình ảnh tưởng tượng. Đương đầu với bản thân, ngược lại với sự tránh né. Sẵn sàng nhìn nhận và sửa chữa lỗi lầm, ngược lại với sự chai lì trong lỗi lầm. Lẽ phải ngược lại với sự phi lý. Trong những câu chuyện trên đây, bạn sẽ nhận thấy tất cả những lý thuyết này hiện diện rõ ràng. Một trong các vấn đề quan trọng nhất liên quan đến lối sống có ý thức là sự độc lập về trí tuệ. Người ta không thể suy nghĩ thông qua tâm trí của người khác. Chúng ta có thể học hỏi từ một người khác, nhưng kiến thức đích thực lại bao hàm sự hiểu biết, chứ không chỉ là sự lập lại hoặc bắt chước. Có thể chúng ta hoặc là rèn luyện tâm trí mình, hoặc là chuyển sang người khác trách nhiệm đối với sự hiểu biết và đánh giá, và chấp nhận những phán quyết ít nhiều không thích hợp với nguyên tắc phê bình của họ. Tất nhiên, đôi khi, chúng ta chịu ảnh hưởng bởi những người khác, bằng những cách thức mà chúng ta không nhận ra. Nhưng điều này không thay thế sự kiện rằng vẫn có sự phân biệt giữa tâm lý của những người cố gắng tự hiểu biết các sự việc, và
- những người không cố gắng. Điều chủ yếu ở đây là ý định, mục đích của chúng ta. Về vấn đề chính sách chung, bạn có nhắm đến việc suy nghĩ cho bản thân mình không? Đây có phải là khuynh hướng cơ bản của bạn không? Nói về “lối suy nghĩ độc lập” thật hữu ích, vì sự dư thừa có giá trị nhấn mạnh. Thông thường, điều mà người ta gọi là “suy nghĩ” chỉ là sự phục hồi lại những ý nghĩ của người khác, chứ không hề là suy nghĩ thực sự. Suy nghĩ độc lập – về công việc, về các mối quan hệ có giá trị sẽ hướng dẫn cuộc sống chúng ta – là một phần của cái gọi là lối sống có ý thức. Độc lập là một đức tính của lòng tự trọng. Khi suy nghĩ về những minh họa trên đây, có thể bạn mong muốn hỏi: Chẳng phải những người sống một cách ý thức đều đã có lòng tự trọng tốt, và chẳng phải những người sống một cách vô ý thức đều thiếu lòng tự trọng tốt sao? Vậy thì làm thế nào để lối sống có ý thức trở thành nền tảng của lòng tự trọng tốt? Ở đây, chúng ta bặt gặp điều mà tôi gọi là nguyên tắc của thuyết nhân quả hỗ tương. Qua điều này, tôi muốn nói là thái độ nào phát sinh lòng tự trọng tốt đều cũng là cách diễn tả lòng tự trọng tốt. Thái độ nào là cách diễn tả lòng tự trọng tốt đều cũng phát sinh lòng tự trọng tốt. Lối sống có ý thức vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của lòng tự tin và tự trọng. Khi tôi càng sống một cách ý thức, thì tôi càng tin tưởng vào tâm trí và tôn trọng giá trị của mình hơn. Khi tôi càng tin tưởng vào tâm trí và tôn trọng giá trị của mình hơn, thì tự nhiên tôi càng cảm thấy mình sống một cách ý thức hơn. Cũng mối quan hệ này tồn tại giữa tất cả những thái độ nào hỗ trợ lòng tự trọng.
- Bạn hãy suy nghĩ về những câu chuyện này. Liệu bạn có thể tách biệt các lãnh vực thuộc về cuộc sống của bạn, trong đó, bạn hoạt động với ý thức nhiều nhất? Khi sử dụng tài liệu hướng dẫn trong chương này, bạn hãy chuẩn bị sẵn hai bản danh sách như vậy trong một cuốn sổ. Đây là một cách thức tuyệt vời để đào sâu sự hiểu biết của bạn về vấn đề lối sống ý thức có ý nghĩa gì đối với bạn. Bây giờ, chúng tôi xin bạn nhận ra ba lãnh vực mà trong đó, bạn nhận ra rằng mức độ ý thức trung bình ít hơn nhiều so với mức độ nên có. Bạn hãy suy nghĩ rằng dường như bạn khó khăn để tập trung tâm trí ở mức độ cao trong lãnh vực này. Rồi đối với từng lãnh vực này, bạn hãy viết về sự khó khăn của việc vẫn hoàn toàn ý thức ở đây – rồi sau đó, bạn hãy viết từ 6 đến 10 câu kết thúc càng nhanh càng tốt, mà không “suy nghĩ” hoặc tự kiểm soát mình. Sau đó, bạn hãy làm tương tự như vậy đối với sự tốt đẹp của việc không hoàn toàn ý thức ở đây. Rồi theo sau bằng câu Nếu tôi vẫn hoàn toàn ý thức ở đây – Chắc chắn bạn sẽ thực hiện được một số khám phá sáng tỏ. Trong khi rèn luyện, là bạn đã sống một cách ý thức hơn rồi. Cuối cùng, bạn hãy đưa ra một số tư tưởng cho ngày mai – và cho 7 ngày kế tiếp trong cuộc sống của mình. Hãy suy nghĩ về câu hỏi làm thế nào để bạn có thể áp dụng những ý tưởng này vào các mối quan tâm hàng ngày của bạn. Chẳng hạn, nếu bạn chọn ý thức hơn trong công việc, thì bạn có thể làm gì một cách khác biệt? Nếu bạn chọn trở nên ý thức hơn đối với một hoặc nhiều mối quan hệ hơn của bạn, thì bạn sẽ thay đổi gì về thái độ của mình? Nếu bạn mong muốn phát triển lòng tự tin và tự trọng, thì bạn hãy bắt đầu ngay từ bây giờ. Hãy lần lượt nhận ra ba thái độ mới trong lãnh vực công việc và các mối quan hệ, mà bạn có thể thực hành tuần này – và tự cam kết thử nghiệm chúng. Rồi bạn hãy tiếp tục làm việc trong 7 ngày kế tiếp, và sau đó, để mở rộng hơn nữa ý thức của bạn, mỗi lần một bước
- nhỏ. Trong lãnh vực gia tăng lòng tự trọng, chúng ta tiến triển, không phải bằng cách mơ mộng các bước to tát, nhưng bằng cách tự cam kết qua hành động tiến từng bước nhỏ, chuyển động từng bước không ngừng tiến tới một lãnh vực của tầm nhìn mở rộng- mãi mãi. Không phải sự chọc thủng phòng tuyến và biến đổi không thể xảy ra. Chúng vẫn có thể xảy ra – nhưng không phải đối với những người cứ chờ đợi trong sự thụ động trống rỗng. Chúng ta phải hành động, và chúng ta phải bắt đầu từ nơi chúng ta ở. Một sự thay đổi nhỏ tiến tới ý thức cao hơn mở cánh cửa ra cho một cánh cửa khác – và một cánh cửa khác nữa. Thời điểm chúng ta bắt đầu không thành vấn đề; điều quan trọng là chúng ta nhận trách nhiệm bắt đầu.
- Chương 4 Học hỏi cách Chấp nhận-Bản thân Nếu bản chất của lối sống có ý thức là tôn trọng các sự kiện và thực tại, thì sự chấp nhận-bản thân chính là cách kiểm tra cơ bản của nó. Khi kế hoạch các sự kiện mà chúng ta phải đương đầu liên quan đến bản thân chúng ta, thì lối sống có ý thức có thể đột nhiên trở nên rất khó khăn. Đây là chỗ xâm nhập thách thức đối với sự chấp nhận-bản thân. Sự chấp nhận-bản thân đòi hỏi chúng ta tiếp cận kinh nghiệm của mình với thái độ nào, khiến cho những khái niệm về sự tán thành hoặc không tán thành trở nên không phù hợp: mong ước nhìn thấy, hiểu biết, ý thức.
- Bây giờ, sự chấp nhận-bản thân không có nghĩa là không mong ước để thay đổi, cải thiện hoặc tiến triển. Quả thật chấp nhận-bản thân là một điều kiện tiên quyết của sự thay đổi. Nếu chúng ta chấp nhận những điều chúng ta cảm thấy và con người mình, ở bất cứ giây phút nhất định nào trong sự hiện hữu của mình, thì chúng ta có thể tự cho phép mình hoàn toàn trở nên ý thức về bản chất của những chọn lựa và hành động, và sự phát triển của chúng ta không bị gây cản trở. Chúng ta hãy bắt đầu bằng một ví dụ đơn giản. Bạn hãy đứng trước một tấm gương dài và nhìn vào nét mặt và cơ thể mình. Hãy chú ý đến những cảm giác của bạn trong khi soi gương. Có lẽ bạn sẽ thích một số bộ phận mà bạn nhìn thấy hơn, so với những bộ phận khác. Nếu bạn giống như hầu hết mọi người, thì bạn sẽ nhận thấy một số bộ phận thật khó nhìn lâu, vì chúng gây bối rối hoặc khiến bạn không hài lòng. Có lẽ bạn nhìn thấy một vết sứt trên gương mặt bạn, mà bạn không muốn thấy. Có lẽ có một số bộ phận của cơ thể bạn mà bạn rất không ưa, đến nỗi hầu như bạn không thể chịu đựng được khi tiếp tục tập trung đôi mắt của bạn vào đó. Có lẽ bạn nhìn thấy những dấu hiệu của tuổi tác và không thể chịu đựng, khi liên hệ với những tư tưởng và cảm xúc mà những dấu hiệu đó gợi lên. Như vậy, bạn bị thôi thúc tránh né – thoát khỏi ý thức – để bác bỏ, từ chối, phủ nhận những bộ phận của bản thân mình. Nhưng bạn hãy tiếp tục tập trung vào hình ảnh của bạn trong gương thêm vài phút nữa, và thử tự nhủ: “Bất kể những khiếm khuyết và bất toàn của tôi, tôi vẫn chấp nhận bản thân một cách hoàn toàn và không hạn chế”. Hãy tiếp tục tập trung, hít thở thật sâu, và lập đi lập lại câu này trong một hoặc hai phút, mà không thúc đẩy quá trình. Nói đúng hơn, hãy tự cho phép mình hoàn toàn trải nghiệm ý nghĩa những lời nói của bạn. Có thể bạn tự nhận thấy mình phản đối: “Nhưng tôi không ưa bộ phận nào đó thuộc về cơ thể mình – như vậy, làm thế nào tôi có thể chấp
- nhận bản thân một cách hoàn toàn và không hạn chế?”. Nhưng bạn hãy nhớ rằng: “chấp nhận” không nhất thiết có nghĩa là “ưa thích”; “chấp nhận” không có nghĩa là chúng ta không thể hình dung hoặc mong ước những thay đổi hoặc cải thiện. “Chấp nhận” nghĩa là trải nghiệm, mà không khước từ hoặc tránh né, sự kiện vẫn là sự kiện; trong trường hợp đó, điều này có nghĩa là chấp nhận gương mặt và cơ thể trong gương chính là gương mặt và cơ thể của bạn, và chúng là cái chúng là. Nếu bạn kiên trì, nếu bạn nhượng bộ thực tại, nếu bạn nhượng bộ ý thức (vốn là điều mà sự “chấp nhận” mang ý nghĩa cơ bản), thì bạn có thể nhận thấy mình bắt đầu thư giãn đôi chút, và có lẽ bạn còn cảm thấy thoải mái với bản thân mình hơn, và thực tế hơn. Ngay cho dù có thể bạn vẫn không ưa hoặc thích thú bất cứ bộ phận nào mà bạn nhìn thấy trong khi soi gương, thì bạn vẫn có thể nói: “Ngay bây giờ, đó là tôi. Và tôi không phủ nhận thực tại. Tôi chấp nhận nó ”. Đó là sự tôn trọng đối với thực tế. Mỗi sáng và mỗi tối, bạn hãy thực hiện bài tập này hai phút, và trong vòng một thời gian rất ngắn, bạn sẽ bắt đầu trải nghiệm được mối quan hệ giữa sự chấp nhận-bản thân và lòng tự trọng: tâm trí nào biết tôn trọng tầm nhìn thì cũng tôn trọng chính nó. Và bạn sẽ thực hiện một khám phá quan trọng khác : Bạn sẽ không chỉ ở trong một mối quan hệ hài hòa hơn với bản thân, bạn sẽ không chỉ phát triển lòng tự tin và tự trọng, nhưng nếu có những bộ phận nào của bản thân mà bạn không thích và không có sức mạnh để thay đổi bên trong bạn, thì bạn sẽ được vận động hơn để thực hiện những thay đổi, một khi bạn đã chấp nhận sự kiện như hiện nay chúng là. Chúng ta không được vận động để thay đổi những thứ mà chúng ta khước từ thực tại của chúng. Lòng tự trọng của chúng ta không phải là một chức năng thuộc về sức hấp dẫn thể lý của chúng ta, như một số người vẫn tưởng tượng một cách ngây thơ. Nhưng thái độ sẵn sàng hoặc
- không sẵn sàng nhìn nhận và chấp nhận bản thân có những kết quả đối với lòng tự trọng. Thái độ của chúng ta đối với người mà chúng ta nhìn thấy trong gương chỉ là một ví dụ của vấn đề chấp nhận-bản thân. Chúng ta hãy xem xét các ví dụ khác. Giả thử bạn sắp nói chuyện với một nhóm người và bạn e ngại. Hoặc bạn sắp gia nhập một đảng phái mà trong đó, bạn chỉ quen biết vài người, và bạn cảm thấy bất an hoặc mắc cở. Bạn kiệt sức vì nỗi lo lắng của mình, và bạn cố gắng đấu tranh với nó theo cách thức mà hầu hết mọi người đều làm: bằng cách duỗi căng cơ thể, thu lại hơi thở của bạn, và tự nhủ : “Đừng e ngại (hoặc mắc cở)”. Chiến lược này không có hiệu quả. Trên thực tế, nó còn làm cho tình trạng không thoải mái của bạn càng tồi tệ hơn. Lúc này, cơ thể bạn đang gửi đến bộ não những dấu hiệu báo động khẩn cấp, những dấu hiệu nguy hiểm - mà phản ứng tiêu biểu của bạn đối với chúng là “chiến đấu” với nỗi lo lắng lại càng dữ dội hơn, với nỗi căng thẳng, thiếu oxy, và có lẽ cả với nỗi tức giận và tự-trách mình. Bạn chiến đấu với chính mình – vì bạn không biết làm gì khác. Không ai dạy cho bạn, và bạn chưa bao giờ học hỏi, rằng sự tồn tại một chiến lược thay thế còn hữu ích hơn nhiều. Đó là chiến lược chấp nhận-bản thân. Trong chiến lược này, bạn không chiến đấu với cảm giác lo lắng; nói đúng hơn, bạn hít thở nó, chấp nhận nó. Có lẽ bạn tự nhủ: “Phải chăng mình đang e ngại?”, rồi bạn hít một hơi thở thật chậm, thật sâu, ngay cho dù ban đầu cách này khó khăn. Bạn tập trung hít thở thật nhẹ nhàng và sâu xa, ngay cho dù ban đầu cách này khó khăn và đôi khi có thể vẫn còn khó khăn; bạn vẫn kiên trì; và bạn quan sát nỗi sợ hãi của mình, trở nên nhân chứng đối với nó, mà không đồng nhất với nó, không để cho nó xác định bạn. “Nếu tôi e ngại, tôi vẫn e ngại – nhưng đó không phải là nguyên nhân để hóa ra vô ý thức. Tôi vẫn tiếp tục sử dụng đôi mắt của mình. Tôi vẫn tiếp tục nhìn”. Thậm chí bạn có thể chọn
- cách “nói chuyện” với nỗi sợ hãi của mình, mời gọi nó nói cho bạn biết điều gì tệ hại nhất mà bạn tưởng tượng có thể xảy ra, sao cho bạn cũng có thể đương đầu và chấp nhận nó – một chiến lược có khuynh hướng đưa bạn ra khỏi những hình ảnh tưởng tượng tự-dằn vặt mình và đi vào thực tại tốt đẹp hơn. Có thể bạn còn ý thức được nỗi sợ hãi bắt đầu trong bạn từ khi nào và như thế nào. Có thể bạn đánh giá đúng một cách sâu sắc hơn rằng đây là điều vô căn cứ, trên thực tế, đó là một phản ứng lỗi thời không hề thực sự liên quan đến hiện tại. Bằng cách hoàn toàn chấp nhận nó, bạn có thể nhận ra rằng bạn được giải thoát khỏi quá khứ để đến với hiện tại. Có thể không phải nỗi sợ hãi của bạn lúc nào cũng biến mất – đôi khi nó vẫn còn, đôi khi nó chỉ giảm bớt – nhưng bạn sẽ tương đối thư giãn hơn và tự do hơn để hành động một cách hiệu quả. Chúng ta luôn luôn mạnh mẽ hơn khi chúng ta không cố gắng đấu tranh với thực tại. Chúng ta không thể làm cho nỗi sợ hãi qua đi bằng cách la hét nó hoặc la hét bản thân, hoặc cứ tự trách mình. Nhưng nếu chúng ta có thể mở ra cho kinh nghiệm của mình, tiếp tục ý thức, và nhớ rằng chúng ta lớn lao hơn bất cứ cảm xúc nào, thì tối thiểu chúng ta có thể bắt đầu vượt qua những cảm giác không mong muốn, và thông thường, chúng ta có thể xua tan chúng, vì sớm muộn gì thì sự chấp nhận đầy đủ, chân thành vẫn có khuynh hướng làm tan rã những cảm giác tiêu cực, không mong muốn như nỗi đau đớn, tức giận, đố kỵ hoặc sợ hãi. Nếu một người đang e ngại, thật vô ích khi bạn bảo họ hãy “thư giãn”. Người đó không biết cách làm thế nào để biến lời khuyên này thành lối cư xử. Nhưng nếu bạn nói về cách nhẹ nhàng hít thở thật sâu, hoặc tưởng tượng điều gì có thể cảm thấy không giống như đấu tranh với nỗi sợ hãi, thì bạn đang đề nghị một điều “có thể thực hiện được” – nghĩa là điều gì đó mà người ta có thể làm được. Người ta nên nghĩ đến việc mở rộng để cho phép nỗi sợ hãi đi vào, ngay cả cách chào đón nỗi sợ hãi, kết bạn với nó – hoặc ít nhất quan sát nó mà không đồng nhất với nó – và
- cuối cùng, lên kế hoạch về điều tồi tệ nhất có thể xảy ra rồi đương đầu với nó. Chắc chắn người ta có thể học hỏi để nói rằng “Tôi đang cảm thấy sợ, và tôi có thể chấp nhận sự kiện đó, nhưng tôi lớn lao hơn nỗi sợ hãi”. Nói cách khác, bạn đừng đồng nhất với nỗi sợ hãi. “Tôi nhận ra nỗi sợ hãi của mình và tôi chấp nhận nó và bây giờ, hãy để tôi xem mình có thể nhớ được cơ thể mình cảm thấy thế nào khi tôi không sợ hãi”. Đây là một lời khuyên rất có tác động mạnh để xử lý nỗi sợ hãi (hoặc bất cứ cảm giác không mong muốn nào khác ). Đây là những hành động mà bạn có thể học hỏi, nhẩm lại trong trí tưởng tượng, và thực hành khi tình huống sợ hãi xuất hiện. Cách thực hành mà tôi đang mô tả phù hợp đối với hầu như bất cứ nỗi sợ hãi nào. Nó hữu ích trên chiếc ghế của nha sĩ, hoặc khi bạn chuẩn bị để xin tăng lương, hoặc khi đối diện với một cuộc phỏng vấn khó khăn, hoặc khi phải nói với người nào đó một thông tin đau lòng, hoặc khi vật lộn với những nỗi sợ hãi của sự khước từ hoặc bỏ rơi. Khi bạn học hỏi để biết chấp nhận nỗi sợ hãi, thì bạn chấm dứt việc biến nó thành một tai họa. Rồi nó không còn là chủ nhân của bạn nữa. Bạn không còn bị dằn vặt bởi những hình ảnh tưởng tượng có thể ít thực tế hoặc không hề liên quan đến thực tế. Bạn được tự do để nhìn nhận mọi người và những tình huống theo bản chất của chúng. Bạn cảm thấy có hiệu quả hơn. Bạn cảm thấy kiểm soát cuộc đời mình nhiều hơn. Lòng tự tin và tự trọng gia tăng. Lòng tự trọng gia tăng thông qua quá trình này, ngay cả khi nỗi sợ hãi không phải là sản phẩm của những hình ảnh tưởng tượng phi lý, nhưng trên thực tế, thực tại đặc biệt mà bạn phải đương đầu thật khủng khiếp. Tôi có một người bạn tốt mà mấy năm trước đây đã bị một chứng bệnh ung thư tàn phá. Lúc đó, tôi nghĩ rằng sự dũng cảm của cô ấy trong việc đương đầu với chứng bệnh này thật đặc biệt. Tôi còn nhớ một hôm cô ấy đã nói với tôi
- về câu chuyện này, khi tôi đến thăm cô tại bệnh viện. Các bác sĩ của cô đều nói với cô là việc điều trị bằng chất phóng xạ là cần thiết. Viễn tượng này khiến cô khiếp sợ. Cô hỏi rằng mỗi ngày cô có thể đến phòng xạ trị vài phút trong vòng ba ngày được không, trước khi bắt đầu điều trị. Cô nói với các bác sĩ: “Tôi chỉ muốn xem chiếc máy, làm quen với nó. Rồi tôi sẵn sàng. Tôi sẽ không sợ nữa”. Cô nói với tôi: “Tôi chỉ muốn xem chiếc máy chấp nhận nó chấp nhận tình trạng của mình và suy nghĩ về sự kiện chiếc máy tồn tại để giúp đỡ tôi. Nó làm cho việc điều trị dễ dàng hơn nhiều”. Cuối cùng, cô vẫn chết. Nhưng tôi sẽ không bao giờ quên vẻ thanh thản và đàng hoàng của cô. Cô biết cách làm thế nào để tự coi trọng bản thân. Đây là một minh họa thật đẹp về nguyên tắc chấp nhận mà tôi đã từng thấy. Bạn hãy dành vài phút suy gẫm về một số cảm giác hoặc cảm xúc của mình mà bạn không dễ dàng để đương đầu – sự bất an, đau đớn, đố kỵ, giận dữ, đau khổ, nhục nhã, sợ hãi. Khi bạn cô lập cảm giác, hãy xem bạn có thể tập trung rõ ràng hơn vào nó được không, có lẽ bằng cách suy nghĩ hoặc tưởng tượng bất cứ điều gì khơi dậy nó một cách tiêu biểu. Rồi bạn hãy hít thở cảm giác này, như thể bạn mở cơ thể bạn ra cho nó. Hãy tưởng tượng cảm giác này như thế nào, không phải để phản kháng nó, nhưng để hoàn toàn chấp nhận nó. Hãy khảo sát tỉ mỉ kinh nghiệm. Thử nghiệm thời gian của bạn. Hãy thực hành tự nhủ: “Bây giờ, tôi đang cảm thấy như thế (bất cứ cảm giác gì) và tôi hoàn toàn chấp nhận nó ”. Ban đầu, điều này có thể khó khăn; có thể bạn nhận thấy mình căng thẳng cơ thể trong sự phản đối. Nhưng bạn hãy kiên trì, tập trung vào hơi thở của mình; nghĩ đến việc để cho các bắp thịt của bạn chấm dứt căng thẳng; hãy tự nhắc nhở mình: “Sự kiện là sự kiện; điều gì là, thì nó là; nếu cảm giác tồn tại, nó vẫn cứ tồn tại”. Hãy tiếp tục suy gẫm cảm giác. Nghĩ đến việc cho phép cảm giác ở
- đó (thay vì cứ cố gắng mong ước hoặc muốn cho nó không tồn tại). Giống như tôi, bạn có thể nhận thấy thật hữu ích khi tự nhủ: “Bây giờ, tôi đang khảo sát thế giới của nỗi sợ hãi, hoặc đau đớn, hoặc đố kỵ, hoặc bối rối hoặc bất cứ điều gì). Khi làm như vậy, bạn sẽ khảo sát thế giới của sự chấp nhận-bản thân. Có lần tôi ở trong văn phòng của một bác sĩ, nơi tôi phải chấp nhận hàng loạt mũi tiêm khá đau đớn. Để phản ứng trước cú sốc và nỗi đau đớn của mũi tiêm đầu tiên, tôi ngừng thở và thu lại toàn bộ cơ thể mình, như thể để ngăn chặn một đội quân xâm lược. Nhưng tất nhiên, cách duỗi căng các bắp thịt khiến việc đưa mũi tiêm vào trở nên khó khăn hơn, và do đó, làm cho tôi càng cảm nghiệm nỗi đau đớn hơn. Devers, vợ tôi, người đang ở trong phòng cũng để được tiêm, chú ý đến điều này và nói với tôi: “Khi anh cảm thấy cây kim đụng vào da thịt mình, thì anh hãy hít vào, như thể lôi kéo cây kim vào theo hơi thở của mình. Hãy tưởng tượng rằng anh đang chào đón cây kim”. Ngay lập tức, tôi nhận ra rằng đây chính là điều mà tôi vẫn dạy cho mọi người làm như vậy đối với những cảm xúc, vì thế, tôi đã làm như Devers gợi ý – và cây kim được đưa vào với nỗi lo lắng ít nhất. Tôi chấp nhận cây kim tiêm – và bất cứ cảm giác nào kèm theo – thay vì coi chúng như là những đối thủ. Tất nhiên, chiến lược này rất quen thuộc đối với các vận động viên và diễn viên múa, những người mà công việc đòi hỏi phải “lái theo” nỗi đau đớn, thay vì náo động chống lại nó. Và các bài tập hít thở dạy cho các phụ nữ mang thai điều hòa và làm dịu nỗi đau đớn, lo lắng, và các phản ứng của cơ thể, bao gồm chính xác nguyên tắc mà chúng ta đang xem xét ở đây. Khi điều trị, thỉnh thoảng, tôi vẫn làm việc với các phụ nữ nào gặp khó khăn ở cơ quan cảm giác trong lúc giao hợp. Bởi
- vì nỗi sợ hãi thường tác động để kiềm chế khoái cảm, và từ đó, kiềm chế cơ quan, và bởi vì nỗi sợ hãi thường gây ra phản ứng cắt giảm hơi thở và co rút các bắp thịt – như thể bảo vệ chống lại sự “xâm nhập” của dương vật – nên tôi hướng dẫn các phụ nữ đảo ngược quá trình này. Các phụ nữ học hỏi cách hít vào khi dương vật được đưa vào, để chấp nhận dương vật. Họ học hỏi để mở rộng chào đón, thay vì co rút lại phản đối. Khi làm như vậy, họ học hỏi để chấp nhận và đạt được một mức độ thoải mái và khoái cảm cao hơn trong lúc giao hợp, vì họ đang nhượng bộ đối với kinh nghiệm, thay vì đấu tranh với nó. Kết quả là một khoái cảm tính dục lớn hơn nhiều. Tất nhiên, trong quá trình này, có khuynh hướng biến mất những hình ảnh tưởng tượng là họ đang bị dương vật gây tổn thương hoặc phá hủy, hoặc rơi vào tình trạng mất kiểm soát một cách nguy hiểm. Phụ nữ nào có khả năng tự để cho mình rõ ràng đạt được khoái cảm tột đỉnh đều làm chủ được hơn, so với phụ nữ nào bị bất lực do nỗi sợ hãi. Mục tiêu là sự chấp nhận giải thoát chúng ta để đưa vào thực tại. Nguyên tắc mà chúng ta cần ghi nhớ vẫn như nhau, cho dù đó là nỗi sợ hãi hoặc thích thú mà chúng ta đang co rút lại phản đối: Đừng ở trong mối quan hệ đối đầu với trải nghiệm riêng của bạn. Nếu bạn để cho mối quan hệ đối đầu phát triển, thì bạn tăng cường những điều tiêu cực, trong khi tự tước đoạt những điều tích cực . Sau đây là bốn minh họa về những tình huống mà người ta chọn để thực hành hoặc là sự chấp nhận, hoặc là sự khước từ- bản thân: Thực hành sự chấp nhận-bản thân. Lucian bắt đầu nhận thấy mình đã bị cô bạn láng giềng hấp dẫn về mặt tính dục . Anh tự coi mình như là một người đàn ông hạnh phúc trong hôn
- nhân, và phản ứng ban đầu của anh là tự trách mình. Nhưng chẳng bao lâu sau, anh quyết định rằng thà anh tự hiểu mình thì vẫn tốt hơn là tích cực tự trách mình một cách mù quáng. Anh tự cho phép mình trải nghiệm sự hấp dẫn tính dục (trong đời sống nội tại của anh). Anh chú ý đến những cảm giác mà cô bạn láng giềng đã khơi dậy nơi anh, và anh để cho những hình ảnh tưởng tượng của mình được tự do kiểm soát. Chẳng bao lâu sau, anh ý thức rằng không phải anh khao khát cô bạn láng giềng nhiều cho bằng sự kích thích mới – và không phải vì anh đã chán ngấy vợ anh, nhưng vì anh ngán ngẩm công việc của mình. Anh nhận thấy người phụ nữ mới quen cung cấp lời hứa hẹn một kinh nghiệm trong phút chốc về ấn tượng sâu sắc, mà từ lâu nay công việc của anh không còn cung cấp nữa. Anh không thấy mặc cảm tội lỗi; anh chỉ coi cô bạn láng giềng của mình như một nguồn thông tin có giá trị đối với tâm trạng thất vọng trong con người mình. Anh biết mình sẽ không phản bội vợ, nhưng anh đã tự cho phép mình tưởng tượng rằng chuyện yêu đương của anh với cô láng giềng có thể như thế nào. Trong bữa ăn tối hôm đó, anh đã nói với vợ: “Buổi chiều hôm nay, khi cô láng giềng ngồi cả giờ bên cạnh anh trong sân, anh đã có một vấn đề suốt 8 tháng với cô ấy”. Lối nói thanh thản và khôi hài của anh đã nói lên với vợ anh rằng không có gì khiến chị phải sợ hãi, vì thế, chị hỏi: “Vấn đề đó như thế nào?”. Lucian cầm tay vợ anh và trả lời: “Chán nản, vô vị. Đó không phải là câu trả lời. Nhưng anh nghĩ rằng có thể anh đang tìm được một loại công việc khác hẳn”. Thực hành sự khước từ-bản thân. Điều mà Lucian không biết là Marcia, cô láng giềng của anh, đã có những cảm giác gợi tình đối với anh, và bởi vì cô coi như những cảm giác này là tội lỗi, nên cô đã kiềm chế chúng. Càng ngày cô càng trở nên căng thẳng đối với chồng và các con mình. Có những lúc cô khóc ròng mà không thể giải thích được. Đôi lúc, khi cô gặp Lucian, cô cố tình ve vãn và suồng sã, theo cách thức một đứa trẻ
- suồng sã mà vẫn chưa hoàn toàn biết mình đang làm gì. Marcia không hạnh phúc trong hôn nhân suốt một thời gian dài, nhưng cô lại không cho phép mình đối diện với tình trạng này, bởi vì đối với cô, li dị nghĩa là nhục nhã và thất bại. Nếu cô tự cho phép mình chấp nhận và xem xét những cảm giác của mình đối với Lucian, và có lẽ bàn bạc với chồng cô về những cảm giác này, thì có thể cô đạt được tầm nhìn có giá trị đối với tình trạng của mình. Nhưng khi còn nhỏ, cô đã được dạy dỗ rằng lòng ham muốn đối với một người khác thì cũng xấu xa giống như phạm tội ngoại tình – và cô không muốn mình trở nên xấu xa, vì thế, giải pháp duy nhất mà cô biết là không ý thức. Cuối cùng, sau những năm đau khổ và không quan hệ, chồng cô đã li dị với cô. Cảm thấy mình bị phản bội, bỏ rơi và là nạn nhân, Marcia suy nghĩ rằng: “Tại sao những người tốt trên thế giới này đều luôn luôn phải đau khổ?”. Bạn có thể liên hệ bất cứ điều gì trong hai câu chuyện trên với bản thân mình không? Thực hành sự chấp nhận-bản thân. Sau cuộc li dị, Gina bị sụp đổ vì các con của cô thông báo với cô rằng chúng thích sống với cha chúng hơn. Cô biết rằng mình là một người mẹ thiếu kiên nhẫn, không đồng cảm, bất cẩn, và so với cô, chồng cũ của cô là người nuôi dưỡng tốt hơn đối với lũ trẻ. Thật không dễ dàng để thừa nhận điều này, vì nó rất đau lòng. Nhưng khi lũ trẻ ra đi, cô có nhiều cơ hội để ở lại một mình và suy nghĩ về quá khứ. Cuối cùng, cô đã thừa nhận với chính mình: “Sự thật là tôi chưa bao giờ mong muốn làm mẹ. Tôi trở thành một người mẹ vì tôi tôi nghĩ rằng mình có bổn phận phải làm như vậy”. Cô dành nhiều thời gian yên lặng để suy gẫm về những chọn lựa của mình trong quá khứ, không phải vì mục đích tự chỉ trích mình, nhưng để tự hiểu biết mình. Cô trở nên có khả năng chấp nhận rằng tốt hơn nên để cho lũ trẻ ở với cha chúng. Sau đó, cô dần dần có khả năng đối diện và chấp nhận điều gì đó còn khó khăn hơn nhiều, vì điều này trái ngược với rất nhiều điều mà cô đã được dạy dỗ: cô
- hạnh phúc khi các con mình đã chọn sống với người chồng cũ của cô. Lần đầu tiên trong cuộc đời cô, Gina cảm thấy tự do và không bị trở ngại. Kết quả là khi cô ở với lũ trẻ và cô chọn thường xuyên đến thăm chúng, thì chúng đều bặt gặp một bà mẹ hạnh phúc và có tình hơn, so với chúng đã biết trước đây. Khi các bạn bè và họ hàng thử làm cho cô cảm thấy mặc cảm vì là “một bà mẹ bất thường”, thì cô bình tĩnh nhìn họ và không cố gắng tự vệ. Cô biết mình là ai và cô chấp nhận điều này, và đó là tất cả những gì có ý nghĩa. Cô tự nhủ: “Tôi tiếc nuối những lỗi lầm của mình trong quá khứ, nhưng tôi nghĩ rằng cách thức để tự cứu mình không phải là một lần nữa phủ nhận những mong muốn và nhu cầu của mình”. Thực hành sự khước từ-bản thân. Một hôm, khi ông Jack được 62 tuổi, thì Mark, người con trai 25 tuổi của ông cố gắng nói chuyện với ông về cảm giác như thế nào khi là con trai của ông Jack. Mark nói : “Khi còn nhỏ, con rất sợ bố. Bố quá dữ tợn – Con không bao giờ biết được khi nào bố sắp đánh con”. Ông Jack gắt lên: “Tao không muốn nghe điều này”. Mark kiên nhẫn trả lời: “Bố xem, con biết rằng điều này không thoải mái đối với bố. Bố cần phải nghĩ rằng ý định của con không phải là trách bố và làm cho bố cảm thấy xấu xa. Không phải thế. Con mong muốn bố con mình trở thành bạn hữu. Con muốn hiểu bố xuất thân từ đâu. Chắc hẳn bố bất hạnh khủng khiếp”. Nhưng ông Jack vẫn từ chối lắng nghe; ông không phủ nhận cũng không thừa nhận những lối cư xử của mình trong quá khứ đối với con trai ông, như thể ông thích để lại các sự kiện trong một loại tình trạng lấp lửng, không có thật và cũng không hư ảo, nhưng ông gói chúng trong một màn sương mù không thể xâm nhập được. Mark lại cố gắng và cố gắng, nhưng vẫn không có kết quả. Anh la lên với bố mình: “Tại sao bố không chịu lắng nghe? Tại sao bố không chấp nhận sự thật theo cách thức các sự kiện diễn ra?”. Một hôm, cha anh quát lại: “Tại sao mày không chấp nhận sự kiện rằng tao sẽ không bao giờ trở thành người cha mà mày mong
- muốn?”. Hai bố con nhìn chằm chằm vào nhau trong sự im lặng thật sốc, như thể họ thoáng thấy điều gì đó về bản thân mà họ sẽ bắt đầu quên ngay lập tức. Ông Jack nghĩ trong khi phủ nhận khả năng: “Tôi không thể nào dữ tợn như nó nói được ”. Mark suy nghĩ trong khi phủ nhận khả năng: “Vì quan hệ máu mủ, tôi không thể bỏ đi được”. Chẳng mấy chốc, tiếng la hét cứ thế tiếp diễn. Khi suy nghĩ về tâm lý của hai người trên đây, bạn có thể tìm thấy những khía cạnh nào của bản thân mình không? Nếu có, thì những kết quả từ lòng tự trọng của bạn là gì? * * * Bây giờ, chúng ta hãy suy nghĩ câu hỏi này: Giả thử phản ứng tiêu cực của chúng ta đối với kinh nghiệm nào đó rất áp đảo, đến nỗi chúng ta cảm thấy không thể thực hành sự chấp nhận-bản thân thì sao? Cảm giác, tư tưởng hoặc ký ức rất đau khổ và khích động, đến nỗi chúng ta cảm thấy không thể bàn bạc về sự chấp nhận. Chúng ta cảm thấy mình không có sức mạnh không phải để gây cản trở và thu mình lại. Giải pháp không phải là cứ cố gắng phản kháng lại sự phản kháng của mình. Nếu chúng ta không thể chấp nhận một cảm giác (hoặc tư tưởng hoặc ký ức), thì chúng ta nên chấp nhận sự phản kháng của mình. Nói cách khác, hãy bắt đầu bằng cách chấp nhận chỗ chúng ta đang ở. Nếu chúng ta cứ phản kháng ở mức độ ý thức, thì nó sẽ bắt đầu tan rã. Nếu chúng ta có thể chấp nhận sự kiện rằng ngay bây giờ, trong lúc này, chúng ta khước từ chấp nhận rằng chúng ta cảm thấy đố kỵ, hoặc tức giận, hoặc đau đớn, hoặc khao khát, chẳng hạn – hoặc chúng ta khước từ chấp nhận rằng một khi chúng ta đã chấp nhận hoặc tin tưởng điều gì đó – nếu chúng ta thừa nhận, trải nghiệm, và chấp nhận sự phản kháng của mình –
- thì chúng ta khám phá được một nghịch lý cực kỳ quan trọng: sự phản kháng bắt đầu sụp đổ. Khi chúng ta đấu tranh với một trở ngại, thì nó lại càng phát triển mạnh hơn; khi chúng ta thừa nhận và chấp nhận nó, thì nó bắt đầu tan rã, vì sự tồn tại liên tục của nó đòi hỏi sự phản kháng. Đôi khi, lúc điều trị, khi một người gặp khó khăn trong việc chấp nhận cảm giác nào đó, thì tôi sẽ hỏi xem người đó có sẵn sàng chấp nhận khước từ để rồi chấp nhận cảm giác này hay không. Một lần, tôi hỏi tu sĩ Victor, một thân chủ đã gặp khó khăn lớn trong việc thừa nhận hoặc trải nghiệm cơn tức giận của mình, nhưng ông là một người rất nóng tính. Câu hỏi của tôi khiến ông bị lạc hướng. Ông hỏi tôi: “Liệu tôi có chấp nhận rằng tôi sẽ không chấp nhận cơn tức giận của mình hay không?”. Tôi mỉm cười và nói: “Đúng đó”. Ông la lên: “Tôi khước từ chấp nhận cơn tức giận, và tôi khước từ chấp nhận sự phản kháng của mình!”. Tôi cười và hỏi: “Liệu ông có chấp nhận sự phản kháng để rồi chấp nhận sự phản kháng của ông không? Chúng ta mới bắt đầu ở chỗ nào đó. Chúng ta hãy bắt đầu ở đấy”. Tôi đã yêu cầu vị tu sĩ này đứng trước nhóm và lập đi lập lại: “Tôi không tức giận”. Chẳng bao lâu sau, quả thật ông ấy rất tức giận. Rồi tôi yêu cầu ông ấy nói: “Tôi khước từ chấp nhận cơn tức giận của mình”, ông ấy đã la lên với sự mãnh liệt càng lúc càng tăng. Rồi tôi yêu cầu ông ấy nói: “Tôi khước từ chấp nhận việc tôi khước từ chấp nhận cơn tức giận của mình”, ông ấy đã lao vào một cách hung tợn. Sau đó, tôi yêu cầu ông ấy nói: “Nhưng tôi sẵn sàng chấp nhận việc tôi khước từ chấp nhận sự khước từ của mình”, và ông ấy đã tiếp tục lập lại câu này cho đến khi cuối cùng, ông ấy kiệt sức và cùng cười với cả nhóm.