Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia: Nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập các môn lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng

pdf 644 trang ngocly 40
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia: Nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập các môn lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfky_yeu_hoi_thao_khoa_hoc_quoc_gia_nang_cao_chat_luong_giang.pdf

Nội dung text: Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia: Nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập các môn lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng

  1. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY, HỌC TẬP CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
  2. KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 1
  3. DANH SÁCH THÀNH VIÊN BAN CHỈ ĐẠO, BAN TỔ CHỨC HỘI THẢO (Kèm theo Quyết định số 1530/QĐ-ĐHQG-TCCB, ngày 19/12/2014 của Giám đốc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) I. Ban Chỉ đạo Hội thảo khoa học 1. PGS.TS. Phan Thanh Bình, Giám đốc ĐHQG-HCM, Đồng trưởng ban. 2. GS.TSKH. Bùi Văn Ga, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT, Đồng trưởng ban. 3. PGS.TS. Phạm Văn Linh, Phó Trưởng ban Tuyên giáo TW, Ủy viên. 4. PGS.TS. Huỳnh Thành Đạt, Phó Giám đốc thường trực ĐHQG-HCM, Ủy viên II. Ban Tổ chức Hội thảo khoa học 1. TS. Nguyễn Đức Nghĩa, Phó Giám đốc ĐHQG-HCM, Trưởng ban. 2. PGS.TS. Đinh Ngọc Thạch, Giám đốc Trung tâm Lý luận chính trị, Phó Trưởng ban. 3. TS. Thái Thị Thu Hương, Phó Giám đốc Trung tâm Lý luận chính trị, Ủy viên. 4. TS. Cung Thị Tuyết Mai, Phó Giám đốc Trung tâm Lý luận chính trị, Ủy viên. 5. PGS.TS. Nguyễn Tiến Dũng, Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế - Luật, Ủy viên. 6. PGS.TS. Nguyễn Thế Nghĩa, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và Chính sách quốc gia, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, Ủy viên. 7. PGS.TS. Vũ Văn Gầu, Trưởng khoa Khoa Triết học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, Ủy viên. 8. ThS. Nguyễn Mạnh Hùng, Chuyên viên Vụ Giáo dục Đại học, Bộ GD&ĐT, Ủy viên. 4 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  4. MỤC LỤC 1. BÁO CÁO ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY, HỌC TẬP CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG” Phan Thanh Bình 19 2. VỀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY, HỌC TẬP CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Hoàng Chí Bảo 26 3. ĐỔI MỚI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG Nguyễn Thế Nghĩa 36 4. VỀ ĐỔI MỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY Đinh Ngọc Thạch 45 5. ĐỔI MỚI NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TRIẾT HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Đặng Hữu Toàn 56 6. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG - YÊU CẦU BỨC THIẾT HIỆN NAY Trần Thị Anh Đào 72 KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 5
  5. 7. KHẮC PHỤC MỘT SỐ HẠN CHẾ VỀ NHẬN THỨC, HÀNH ĐỘNG TRONG GIẢNG DẠY, NGHIÊN CỨU MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ Nguyễn Văn Bảng 78 8. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY, HỌC TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO SINH VIÊN - QUAN TRỌNG NHẤT LÀ NGƯỜI THẦY Tần Xuân Bảo 83 9. GẮN LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN TRONG GIẢNG DẠY CÁC BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG HIỆN NAY Phạm Văn Bình 91 10. VỀ VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Nguyễn Thị Kim Chung 96 11. GIẢNG DẠY, HỌC TẬP CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Nguyễn Văn Công 105 12. TÂM VÀ TÀI CỦA NGƯỜI THẦY ĐỐI VỚI VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Nguyễn Đình Quốc Cường - Nguyễn Đình Phong 110 13. MỘT SỐ SUY NGHĨ GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY Nguyễn Văn Đạo 117 6 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  6. 14. ĐỀ XUẤT HƯỚNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Nguyễn Ngọc Diệp 124 15. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN HIỆN NAY Trần Khải Định 135 16. SỰ CẦN THIẾT ĐỔI MỚI CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ THEO NHU CẦU XÃ HỘI Dương Thị Ngọc Dung - Lê Thị Minh Thy 145 17. THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG HIỆN NAY Võ Văn Dũng - Đỗ Thị Thùy Trang 154 18. MỘT VÀI ĐỀ XUẤT NHỎ VỀ VIỆC GẮN LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN TRONG GIẢNG DẠY BỘ MÔN XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY Nguyễn Việt Dũng 163 19. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM THEO TINH THẦN CỦA NGHỊ QUYẾT 29 VỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THỜI KỲ MỚI. Nguyễn Thùy Dương 168 20. NÂNG CAO NĂNG LỰC GIẢNG DẠY CÁC MÔN KHOA HỌC CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN CHO CÁN BỘ GIẢNG DẠY TRẺ Nguyễn Thị Thùy Duyên 175 KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 7
  7. 21. ĐỔI MỚI, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY, HỌC TẬP TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Nguyễn Thị Hương Giang 181 22. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO TÍNH TÍCH CỰC DẠY-HỌC CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ Nguyễn Hữu Hào - Trịnh Văn Thoại 187 23. VẬN DỤNG TƯ LIỆU LỊCH SỬ TRONG GIẢNG DẠY BÀI ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN 1975-1986 Trần Thị Thái Hà 197 24. KỸ NĂNG ĐỌC SÁCH VÀ TÀI LIỆU TRONG HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG Đỗ Thị Thanh Hà. 204 25. GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN HỌC “NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN” Nguyễn Thị Thu Hà 211 26. VAI TRÒ CỦA NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐỐI VỚI GIẢNG DẠY, HỌC TẬP CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Nguyễn Thị Việt Hà 218 27. ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ HỌC VÀ KINH TẾ CHÍNH TRỊ TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT Nguyễn Chí Hải - Nguyễn Hồng Nga - Lê Quốc Nghi 224 8 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  8. 28. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HỨNG THÚ HỌC TẬP CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG Lê Ngọc Hân – Lê Minh Kỷ 242 29. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỌC TẬP MÔN HỌC “NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN” Ở MỘT SỐ TRƯỜNG TRONG ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Trần Hoàng Hảo 249 30. TĂNG CƯỜNG PHƯƠNG PHÁP ĐỐI THOẠI, TRAO ĐỔI, THẢO LUẬN TRONG GIẢNG DẠY CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Bùi Thị Thu Hiền 259 31. ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY- SỰ CẦN THIẾT VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP Đỗ Thị Hiện 266 32. VAI TRÒ CỦA GIẢNG VIÊN ĐỐI VỚI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY, HỌC TẬP CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG Lưu Thị Kim Hoa 272 33. THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN. NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP Nguyễn Thị Kim Hoa 279 KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 9
  9. 34. MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG, KHỐI NGÀNH KỸ THUẬT HIỆN NAY Phạm Đình Huấn 284 35. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Võ Minh Hùng 291 36. GẮN LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN TRONG GIẢNG DẠY CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở BẬC ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG Hồ Trần Hùng - Nguyễn Thế Bính 298 37. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY-HỌC CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG (HỆ KHÔNG CHUYÊN NGÀNH) HIỆN NAY: TIẾP CẬN TỪ PHÍA CHƯƠNG TRÌNH VÀ GIẢNG DẠY Bùi Trung Hưng 305 38. LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. Thái Thị Thu Hương 314 39. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Cung Thị Tuyết Mai 321 10 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  10. 40. ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - VẤN ĐỀ THỰC TIỄN ĐANG ĐẶT RA HIỆN NAY Nguyễn Thị Hương 326 41. THUYẾT TRÌNH - MỘT HÌNH THỨC HIỆU QUẢ TRONG DẠY VÀ HỌC MÔN HỌC ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Phan Thị Lệ Hương 334 42. ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ VỀ ĐỔI MỚI, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC NHỮNG MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ. Hoàng Thị Thu Huyền 339 43. VỀ ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH NGÀNH GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ, GIÁO DỤC CÔNG DÂN THEO CÁCH TIẾP CẬN NĂNG LỰC KHOA HỌC VÀ PHẨM CHẤT SƯ PHẠM CỦA SINH VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HIỆN NAY Nguyễn Ngọc Khá 345 44. GẮN LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN TRONG GIẢNG DẠY CÁC MÔN KHOA HỌC MÁC-LÊNIN Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG HIỆN NAY Đinh Xuân Khuê 352 45. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG ĐÀO TẠO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Nguyễn Thị Anh Khuyên- Lê Văn Tùng 360 KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 11
  11. 46. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM Đặng Chung Kiên 369 47. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC GIẢNG DẠY CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN CHO SINH VIÊN TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Phạm Thị Kiên - Bùi Xuân Dũng 376 48. HOẠT ĐỘNG GIẢNG DẠY, HỌC TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG HIỆN NAY THỰC TRẠNG ĐIỂN HÌNH VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU Trần Nguyên Ký 384 49. BÀN VỀ VAI TRÒ CỦA GIẢNG VIÊN TRONG VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC TỰ HỌC CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG HIỆN NAY Phan Thị Cẩm Lai 393 50. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC – XU HƯỚNG TẤT YẾU TRONG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG HIỆN NAY Trần Thanh Lâm 401 51. ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ VỀ NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ TRONG QUÁ TRÌNH GIẢNG DẠY CÁC MÔN KHOA HỌC MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG Lê Hoàng Việt Lâm - Nguyễn Thị Thu Lài 409 12 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  12. 52. GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HỌC TẬP PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY GẮN LIỀN VỚI THỰC TIỄN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Thanh Liên - Nguyễn Đề Thủy 417 53. MỘT SỐ VẤN ĐỀ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN HỌC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CHO SINH VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ngô Thị Kim Liên 423 54. MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY, HỌC TẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG HIỆN NAY Phạm Thị Lý 429 55. SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY (MINDMAP) TRONG GIẢNG DẠY HỌC PHẦN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN Lê Thị Thu Mai - Nguyễn Thành Minh 436 56. KẾT HỢP CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY MÔN KINH TẾ HỌC CHÍNH TRỊ LẤY NGƯỜI HỌC LÀM TRUNG TÂM Hà Thanh Minh 445 57. VẤN ĐỀ TẠO HỨNG THÚ CHO NGƯỜI HỌC KHI GIẢNG DẠY CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Trương Thùy Minh 452 58. SUY NGHĨ VỀ SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÍCH CỰC MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Lê Thị Ái Nhân 457 KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 13
  13. 59. PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, SÁNG TẠO TRONG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN QUA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG CÓ VẤN ĐỀ Đoàn Phạm Quỳnh Như Như 462 60. VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VÀ TỔ CHỨC VIỆC TỰ HỌC, THẢO LUẬN CỦA SINH VIÊN ĐỐI VỚI CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Nguyễn Huỳnh Bích Phương 470 61. MỘT VÀI KINH NGHIỆM VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐỐI VỚI HỌC PHẦN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Hoàng Xuân Sơn 478 62. GIẢNG DẠY CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Nguyễn Hữu Tâm 486 63. HƯỚNG DẪN SINH VIÊN TỰ HỌC TRONG HỌC CHẾ TÍN CHỈ VÀ VIỆC VẬN DỤNG TRONG GIẢNG DẠY HỌC PHẦN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Lê Minh Tấn 492 64. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC DẠY VÀ HỌC CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA GIẢNG VIÊN TRONG GIẢNG DẠY, HỌC TẬP CÁC MÔN NÀY TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG Hà Trọng Thà 499 14 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  14. 65. SỰ CẦN THIẾT ĐỔI MỚI CÁCH TIẾP CẬN VỀ ĐÀO TẠO CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Đinh Ngọc Thạch 508 66. TRIẾT HỌC MÁC XÍT TỒN TẠI TRONG SỰ ĐỔI MỚI. Nguyễn Ngọc Thu 518 67. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP CÁC MÔN KHOA HỌC MÁC- LÊNIN TẠI ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM Đỗ Phú Trần Tình - Phạm Mỹ Duyên 528 68. GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG Nguyễn Thị Tĩnh 535 69. HỌC TẬP VÀ GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH, ĐỊNH HƯỚNG TƯƠNG LAI CHO SINH VIÊN HIỆN NAY Nguyễn Hữu Tới 545 70. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GÓP PHẦN GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ VÀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN Đỗ Lâm Hoàng Trang 553 71. GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG HƯỚNG DẪN TỰ HỌC CHO SINH VIÊN Mạch Thị Khánh Trinh 561 KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 15
  15. 72. VÀI Ý KIẾN VỀ MÔN HỌC VÀ GIÁO TRÌNH “NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN” Võ Minh Tuấn 567 73. VỀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HIỆU QUẢ DẠY HỌC CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Nguyễn Anh Tuấn 575 74. VẬN DỤNG TRI THỨC KHOA HỌC TỰ NHIÊN VÀ THÀNH TỰU KHOA HỌC KỸ THUẬT TRONG GIẢNG DẠY TRIẾT HỌC Đỗ Hoàng Tuấn 581 75. NGHIÊN CỨU, GIẢNG DẠY CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI – THỰC TRẠNG VÀ MỘT VÀI KIẾN NGHỊ Lê Thị Tuyết 595 76. GIẢNG DẠY LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP HIỆN NAY Lý Hoàng Ánh - Trần Mai Ước 603 77. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY, HỌC TẬP CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NÓI CHUNG, LÝ LUẬN MÁC – LÊNIN NÓI RIÊNG Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG. Nguyễn Khánh Vân 614 78. ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY VÀ HỌC MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP Hồ Ngọc Vinh - Võ Thị Hồng Hiếu 620 16 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  16. 79. ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÍCH HỢP, LIÊN MÔN TRONG GIẢNG DẠY CÁC MÔN HỌC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG KHÔNG CHUYÊN TỪ THỰC TIỄN CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG TP. HỒ CHÍ MINH Đặng Hoàng Vũ 627 80. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ GẮN VỚI GIÁO DỤC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC CHO SINH VIÊN Võ Thị Yến 636 KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 17
  17. 18 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  18. BÁO CÁO ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY, HỌC TẬP CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG” Phan Thanh Bình Kính thưa quý vị đại biểu! Kính thưa các nhà khoa học! Thay mặt đơn vị đồng chủ trì và tổ chức Hội thảo khoa học Quốc gia “Nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập các môn lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng”, tôi xin gửi tới quý vị đại biểu, các nhà giáo, nhà khoa học lời chào trân trọng, chúc toàn thể quý vị mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công! Kính thưa quý vị đại biểu, các nhà khoa học! Hội thảo khoa học Quốc gia lần này là sự triển khai 4 văn bản quan trọng, có tính định hướng về công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập lý luận chính trị, đó là: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013) “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, Nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm PGS.TS, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 19
  19. 2030 (Nghị quyết số 37/NQ-TW, ngày 09/10/2014), Kết luận số 94 (28/3/2014) của Ban Bí thư và Hướng dẫn 127 (ngày 30/6/2014) của Ban Tuyên giáo Trung ương thực hiện Kết luận số 94 “Về việc tiếp tục đổi mới học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân”. Điều này chứng tỏ việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập lý luận chính trị đang được Đảng và Nhà nước quan tâm sâu sắc, gắn liền với nhu cầu xã hội về sự thống nhất, đồng thuận tư tưởng, ổn định chính trị, bảo vệ và phát triển lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam hình thành từ thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, từ những kinh nghiệm và bài học của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, từ những trải nghiệm bi hùng của lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha ta, từ chiều sâu của bản sắc văn hóa dân tộc, được cô đọng, kết tinh trong đường lối cách mạng của Đảng suốt gần 85 năm qua, trở thành kim chỉ nam, thành định hướng phát triển của dân tộc trong thời đại mới. Kính thưa toàn thể quý vị và các nhà khoa học! Nhìn lại công tác nghiên cứu và giảng dạy lý luận chính trị trong thời gian qua, có thể nhận thấy tư tưởng xuyên suốt chính là sự vận dụng sáng tạo và phát triển những luận điểm nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện Việt Nam, góp phần đáng kể vào việc hình thành “bản sắc” Việt Nam về tư duy lý luận thông qua kế thừa có chọn lọc tinh hoa trí tuệ của dân tộc và sức mạnh của thời đại, là sự phổ biến thế giới quan, phương pháp luận và nhân sinh quan tiên tiến, quan điểm, đường lối khoa học và cách mạng của Đảng đến toàn xã hội, đặc biệt đến đội ngũ học viên, sinh viên đông đảo trong các cơ sở đào tạo, các trường đại học, cao đẳng, những người đang và sẽ đóng vai trò tiên phong trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước, hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thành quả đáng trân trọng của đội ngũ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị là bám sát các điểm nóng của thực tiễn xã hội, đào sâu các vấn đề lý luận, thường xuyên tìm tòi, đổi mới phương pháp, chương trình, giáo trình, nội dung giảng dạy phù hợp với điều kiện thực tiễn, gắn với định hướng và chiến lược phát triển chung của các cơ sở nghiên cứu khoa học và đào tạo. Việc học 20 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  20. tập lý luận chính trị trong các trường đại học và cao đẳng bước đầu có những chuyển biến tích cực; người học không chỉ thụ động tiếp thu bài giảng, mà tham gia vào quá trình tương tác tích cực với giảng viên, thể hiện tư duy phê phán, sáng tạo trong việc tiếp nhận và xử lý thông tin, đồng thời bày tỏ sự quan tâm thường xuyên đến những biến đổi của thực tiễn xã hội, của thế giới và Việt Nam, qua đó nâng cao trách nhiệm công dân của mình. Bên cạnh những thành quả đáng khích lệ trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập các môn lý luận chính trị, vẫn còn không ít khuyết điểm, tồn tại cần được xem xét, đánh giá một cách nghiêm túc, từ đó đề xuất các định hướng và giải pháp khắc phục, làm cho việc giảng dạy và học tập các môn lý luận chính trị đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu phát triển xã hội trong giai đoạn hiện nay. Về nghiên cứu khoa học phục vụ cho đào tạo lý luận chính trị, vẫn còn thiếu các công trình mang tầm chiến lược, có tính đột phá về lý luận, góp phần hiến kế cho Đảng về công tác lý luận nói chung, đào tạo lý luận chính trị nói riêng; di sản tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được tìm hiểu khá rộng, ở nhiều lĩnh vực, nhưng chưa đầy đủ, toàn diện; lối tư duy giản đơn, “phân tuyến” cứng nhắc trong việc đánh giá các khuynh hướng, trào lưu tư tưởng trước Mác và ngoài mácxít còn phổ biến; nhiều công trình nghiên cứu chưa vượt qua lối mòn của cách tiếp cận cũ, do đó chưa gợi mở được những điểm mới, thực sự tích cực cho quá trình phát triển xã hội. Nghị quyết của Bộ chính trị (Nghị quyết số 37- NQ-TW, ngày 09/10/2014) về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030 chỉ rõ: “Công tác lý luận còn có những hạn chế, khuyết điểm. Nhìn chung, lý luận còn lạc hậu, tính dự báo thấp, kết quả nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn. Nghiên cứu về tình hình thế giới, khu vực và vấn đề thời đại chưa sâu sắc, toàn diện. Kết quả nghiên cứu về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh còn dàn trải, tính hệ thống chưa cao, chưa gắn kết chặt chẽ với những vấn đề thực tiễn đang đặt ra. Nghiên cứu những trào lưu tư tưởng, học thuyết mới, lý thuyết mới chưa được nhiều Đội ngũ cán bộ lý luận đông, nhưng không mạnh, còn ít chuyên gia lý luận đầu đàn trên các lĩnh vực. Hợp tác quốc tế về lý luận còn hạn chế, hiệu quả thấp”. KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 21
  21. Về giảng dạy các môn lý luận chính trị, những hạn chế, khuyết điểm đã bộc lộ ngày càng rõ trong cơ cấu chương trình, giáo trình và nội dung bài giảng, nhất là phần liên quan đến các khoa học Mác – Lênin. Giáo trình “tích hợp” các môn khoa học Mác - Lênin (Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học) thành môn “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin”, tuy đáp ứng về mặt hình thức nhu cầu giảm tải trong cơ cấu chương trình đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng, song lại làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn, bất cập. Nhiều nội dung trong môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Tư tưởng Hồ Chí Minh còn thiên về tính giáo huấn, chưa thể hiện được các mặt sống động, gắn liền với lịch sử Việt Nam hiện đại, các giai đoạn và các vấn đề của tư tưởng Hồ Chí Minh, chưa kịp thời cập nhật những nội dung thiết thực, những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn xã hội và trong nhận thức. Các giáo trình, chương trình chưa được “cá biệt hóa” theo từng khối ngành đào tạo, dẫn đến tình trạng chung chung, nhàm chán, thiếu hiệu quả trong giảng dạy, học tập. Công tác bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, tổ chức đào tạo chuyên ngành chưa được đầu tư đúng mức, việc chuẩn hóa đội ngũ còn nhiều bất cập. Về học tập các môn lý luận chính trị, tình trạng xem nhẹ các môn lý luận chính trị, quan niệm “học cho qua, học để đối phó” chứ không vì nhu cầu bồi dưỡng thế giới quan và phương pháp luận khoa học vẫn còn diễn ra khá phổ biến ở một bộ phận học viên, sinh viên. Những khuyết điểm, hạn chế vừa nêu xuất phát từ nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan, đang gây nên bức xúc trong xã hội, mà trước hết là ở đội ngũ những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị, những người luôn luôn tha thiết với sự nghiệp “trồng người” thiêng liêng ở lĩnh vực này. Sự hiện diện của các nhà quản lý, các nhà giáo, các nhà khoa học trong buổi hội thảo khoa học Quốc gia hôm nay không ngoài mục đích nào khác là cùng nhau trao đổi đề tìm ra hướng đi, giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập các môn lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng. Kính thưa các nhà khoa học và toàn thể quý vị! Công tác lý luận đang đứng trước những cơ hội và thách thức lớn trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, 22 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  22. toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Những tiến bộ vượt bậc của khoa học, công nghệ góp phần tạo nên sự thay đổi căn bản diện mạo hành tinh chúng ta, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho con người, rút ngắn khoảng cách giữa các dân tộc, nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề ảnh hưởng đến sự tồn vong của nhân loại. Nền kinh tế tri thức, với các trụ cột cơ bản của nó, tạo nên một không gian mở dầy trí tuệ, hứa hẹn những mùa bội thu ở tất cả các mặt của dời sống xã hội, song cũng có thể gây nên những cú sốc mới trong phát triển. Những thảm họa do thiên nhiên và con người gây ra ngày càng trở nên khó kiểm soát. Ở bình diện kinh tế, chính tri, văn hóa, sự ngột ngạt và căng thẳng do chia rẽ và bất đồng về lợi ích giữa các quốc gia và các khối liên minh đang làm cho an ninh thế giới đứng trước nguy cơ khó lường. Tại Việt Nam, mối quan hệ giữa ổn định và phát triển, giữa phát triển kinh tế và giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa giữ vững chủ quyền quốc gia và hội nhập quốc tế thể hiện trong những đường nét phức tạp, với những gam màu tương phản nhau. Tất cả những vấn đề ấy cần được nhận thức, nắm vững và xử lý một cách hiệu quả và bản lĩnh, cần được cập nhật thường xuyên trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy các môn lý luận chính trị, làm cho người học cảm nhận được hơi thở cuộc sống và nâng cao trách nhiệm công dân của mình với Tổ quốc. Và đó cũng là thiên chức cao cả của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị, những người đang đứng ở tuyến đầu của cuộc đấu tranh tư tưởng hôm nay. Ba phương châm, bốn hướng nghiên cứu, năm biện pháp đẩy mạnh công tác lý luận, được nêu ra trong Nghị quyết số 37 của Bộ chính trị; sáu kết luận của Ban Bí thư (Kết luận số 94) và Hướng dẫn số 127 của Ban Tuyên giáo Trung ương về mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới giảng dạy, học tập các môn lý luận chính trị là những định hướng có tính chiến lược đối với các cơ sở đào tạo và giảng viên lý luận chính trị, nhằm thực hiện thành công Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013) của Đảng “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 23
  23. Kính thưa các nhà khoa học và quí vị đại biểu! Công tác lý luận, từ những vấn đề lý luận chung đến việc giảng dạy, nghiên cứu, bồi dưỡng, học tập lý luận chính trị tại ĐHQG-HCM được quan tâm sâu sắc. Đảng ủy, Ban Giám đốc ĐHQG-HCM, lãnh đạo các đơn vị thành viên của ĐHQG-HCM luôn xem công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học về lý luận chính trị là lĩnh vực then chốt nhằm giáo dục thế giới quan, phương pháp luận, tư tưởng cho người học, nâng cao năng lực tư duy, nâng cao tinh thần, trách nhiệm của cán bộ, viên chức, công chức trong toàn hệ thống. Lãnh đạo ĐHQG-HCM cử một Phó Giám đốc ĐHQG- HCM trực tiếp phụ trách công tác lý luận chính trị. Trung tâm Lý luận chính trị trực thuộc ĐHQG-HCM phối hợp với các đơn vị đào tạo chuyên ngành LLCT thực hiện việc tổ chức, điều hành, quản lý, theo dõi, kiểm tra hoạt động giảng dạy, học tập và đánh giá chất lượng đào tạo các môn lý luận chính trị. Đó là hệ thống quản lý thống nhất, có sự phân công về công việc gắn liền với chức năng của các đơn vị thành viên. Đội ngũ những người làm công tác đào tạo lý luận chính trị tại ĐHQG-HCM gồm 72 giảng viên, trong đó có 8 Phó giáo sư, 33 tiến sĩ, số còn lại là thạc sĩ. Hy vọng rằng, với sức mạnh hệ thống ấy, trên cơ sở liên kết với các nhà giáo – nhà khoa học từ khắp mọi miền đất nước, chúng ta sẽ đạt được những kết quả tích cực hơn nữa trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập các môn lý luận chính trị. Kính thưa các nhà khoa học và quí vị đại biểu! Hội thảo khoa học Quốc gia “Nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập các môn lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng” là buổi sinh hoạt chính trị đầy ý nghĩa dành cho những người làm công tác lý luận, nghiên cứu và đào tạo lý luận chính trị. Ban tổ chức Hội thảo bày tỏ vinh dự và vui mừng được tiếp nhận 120 bài tham luận của các nhà giáo, nhà khoa học từ gần 30 đơn vị trên khắp cả nước, trong đó có 79 bài được chọn đăng trong Kỷ yếu Hội thảo. Hầu hết các bài viết đều thể hiện tâm huyết và trách nhiệm của những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị, tha thiết với sự nghiệp đổi mới đất nước. Không ít bài viết bày tỏ sự day dứt, băn khoăn của nhà khoa học trước những bất cập, mâu thuẫn trong công tác lý luận, đào tạo lý luận chính trị, đồng thời gợi mở những ý tưởng qu í báu cho việc phát triển tư duy 24 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  24. lý luận nước nhà, nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập các môn lý luận chính trị trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Những suy tư, trăn trở ấy thật đáng trân trọng và chia sẻ. Tôi tin tưởng rằng, buổi hội thảo hôm nay là dịp để các nhà giáo, nhà khoa học trình bày, trao đổi thẳng thắn, cởi mở những quan điểm của mình theo phương châm “phát huy tự do tư tưởng và tính sáng tạo trong nghiên cứu lý luận, kết hợp thống nhất tính khoa học với tính đảng, giữa khoa học với chính trị”. Một lần nữa, cho phép tôi thay mặt Ban tổ chức Hội thảo khoa học xin cảm ơn các nhà giáo, nhà khoa học cùng toàn thể quí vị đã đến tham dự và góp phần vào sự thành công của hội thảo. Xin kính chúc quí thầy cô cùng toàn thể quí vị đại biểu mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công trong công việc và cuộc sống. Xin trân trọng cảm ơn. KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 25
  25. VỀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY, HỌC TẬP CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Hoàng Chí Bảo* 1. Dẫn luận Đảng ta đã có kết luận và ngay sau đó đã ra Nghị quyết về đổi mới toàn diện, mạnh mẽ nền giáo dục quốc dân, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững1. Giáo dục đại học nằm trong hệ thống cơ cấu của nền giáo dục quốc dân với vị trí đặc biệt và tính đặc thù riêng có của nó. Vị trí đặc biệt bởi, đại học là đỉnh tháp của hệ thống cấp bậc đào tạo; sứ mệnh đại học là đào tạo chuyên gia, cung cấp cho xã hội nguồn nhân lực chất lượng cao, chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc vượt qua điểm nghẽn bằng những đột phá chất lượng của phát triển. Tính đặc thù riêng có của giáo dục đại học là giảng dạy, học tập ở bậc đại học gắn liền làm một với nghiên cứu khoa học. Thầy giáo đại hoc chỉ đúng nghĩa nếu họ đứng trên bục giảng với tư cách nhà khoa học, nếu họ tiến hành lao động dạy học của mình như một lao động nghiên cứu khoa học thực sự, thống nhất và đồng nhất. Sinh viên đại học không phải là sự mở rộng phạm vi, kích thước của học sinh phổ thông trung học mà phải được huấn luyện, đào tạo sao cho có sự phát triển về chất, đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo, biết học * Giáo sư, tiến sĩ, ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương. 1 Xem Văn kiện Hội nghị Trung ương 6, Hội nghị Trung ương 8, khóa XI của Đảng Cộng sản Việt Nam. 26 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  26. tập theo phương pháp và phong cách nghiên cứu để trở thành chuyên gia trong tương lai. Trong trường đại học, không chỉ thầy mới nghiên cứu khoa học mà sinh viên cũng phải tham gia nghiên cứu, có nhu cầu nghiên cứu. Môi trường giáo dục đại học phải là môi trường của tư tưởng, học thuật, văn hóa, phản ánh và thể hiện tinh hoa trí tuệ của đất nước, của quốc gia dân tộc. Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống quốc tế, trong đó hội nhập về khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo sẽ ngày càng được chú trọng, bởi đây là những lĩnh vực được coi là quốc sách hàng đầu. Giáo dục đại học (bao gồm cả sau đại học và trên đại học) phải nỗ lực vượt bậc, tiến kịp mặt bằng chung của khu vực, quốc tế và thế giới, xứng đáng là diện mạo trí tuệ, tinh thần của dân tộc có truyền thống văn hóa và văn hiến tự ngàn xưa, làm nên hình ảnh một Việt Nam xứng đáng với sự tin cậy của bạn bè quốc tế. Đặt vấn đề như vậy để thấy hết trọng trách của giới trí thức đại học ở nước ta và tính bức xúc, cấp thiết của cải cách sâu rộng, triệt để giáo dục đại học đặt trong tổng thể cải cách nền giáo dục quốc dân của nước ta trong nửa đầu thế kỷ XXI. Nền giáo dục Việt Nam, đặc biệt là giáo đục đại học đang đứng trước yêu cầu cách mạng hóa để vượt qua tình trạng suy thoái, để có những đột phá, thực hiện công cuộc chấn hưng giáo dục, coi đó là chìa khóa để chấn hưng dân tộc. Trong vô số nhiều tình huống, thậm chí cả những hội chứng và nghịch lý trong giáo dục và giáo dục đại học ở nước ta từ nhiều năm nay, không thể không nói tới những điều bất ổn trong lĩnh vực dạy và học các môn lý luận chính trị ở bậc đại học hiện nay. Nhận rõ những bất ổn này và tìm đúng những giải pháp khắc phục, góp phần nâng cao chất lượng dạy của thầy, học của trò, lãnh đạo quản lý của ngành và của trường về lĩnh vực trọng yếu này là một đòi hỏi nghiêm túc và cần được đáp ứng kịp thời, thiết thực, hiệu quả. Ở đây, cần xác định một tầm nhìn, xây dựng một triết lý, thiết kế và thực hiện một chương trình hành động mang ý nghĩa là những giải pháp chiến lược. KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 27
  27. 2. Những điều bất ổn - Trong vòng một thập kỷ qua, cùng với việc nở rộ số lượng các trường cao đẳng và đại học, nhất là các trường ngoài công lập còn là xu hướng địa phương hóa đại học, dường như tỉnh nào cũng chạy đua mở trường đại học và hầu hết đều mang danh đại học đa ngành. Khỏi phải làm những dẫn giải về số liệu, hiện tượng và sự kiện trong đời sống giáo dục, học đường ở nước ta thời kinh tế thị trường và mở cửa, kể cả những chính sách và giải pháp đổi mới giáo dục được “sản xuất” ra từ cơ quan quản lý giáo dục của Nhà nước Trung ương gần đây đã gây ra không ít những phản cảm, những phản ứng từ dư luận xã hội, ai ai cũng cảm nhận trực tiếp những bất ổn trong giáo dục nước nhà. Lẽ dĩ nhiên, vẫn có không ít trường đại học có uy tín và thương hiệu, đạt được thành tựu trong đào tạo và nghiên cứu khoa học, có không ít những nhà quản lý giáo dục tâm huyết và trách nhiệm, có không ít các nhà giáo dục đại học tận tâm tận lực với nghề, có trình độ cao, có đạo đức trong sáng được xã hội và các thế hệ học sinh sinh viên tôn vinh, kính trọng. Đó là cơ sở đáng tin cậy cho niềm hy vọng vào triển vọng tốt đẹp của nền giáo dục nước nhà. Song cũng phải thừa nhận một sự thật về những hạn chế, yếu kém, tiêu cực có tính phổ biến trong giáo dục và giáo dục đại học. Nó cũng có mặt và dự phần trách nhiệm trong những tổn thương xã hội, sự suy đồi đạo đức, sự xuống cấp văn hóa đang diễn ra ở nước ta. - Một vấn đề nóng bỏng, nhức nhối và nghịch lý hiện nay là tình trạng mất giá trị của văn bằng đại học, cao học, thậm chí cả văn bằng tiến sỹ do chất lượng thực không được bảo đảm, càng không tương xứng với trình độ quốc tế. Đây là một trở lực của giáo dục đại học Việt Nam trong hội nhập quốc tế. Cũng chưa bao giờ, tình trạng thất nghiệp của những người có học nhiều như bây giờ, trên 170.000 cử nhân, thạc sỹ, cá biệt có cả tiến sỹ mà không tìm được việc làm. Hoặc giả có tìm được một công việc, một chỗ làm việc nào đó, dù là bấp bênh, tạm thời thì cũng là trái ngành, trái nghề, không dùng gì đến vốn liếng tri thức được đào tạo. Đó vừa là sự lãng phí ghê gớm tiềm năng và vốn nhân lực - thứ quý giá nhất trong vốn xã hội, vừa là bằng chứng về nghịch lý xã hội trong phát triển - thiếu nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội nhưng nhân lực đang hiện hữu lại không được sử dụng. Không ở đâu như ở nước ta, những người tốt 28 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  28. nghiệp đại học thất nghiệp lại quay về học nghề để dễ tìm kiếm việc làm. Đào tạo không theo nhu cầu của xã hội, của thị trường cùng với chất lượng đào tạo thấp đã và đang phải trả giá. Sự thật ảm đạm này tự nó làm suy giảm động lực của sinh viên đang theo học hoặc chỉ vừa mới nhập học. Họ nhận thấy từ xã hội điều mà họ không bao giờ mong muốn, đó là tính thiếu triển vọng của học vấn đại học, cũng chính là tính thiếu triển vọng của việc vào đời, lập thân, lập nghiệp của thanh niên trí thức. Trong tình huống này, sinh viên các ngành khoa học xã hội - nhân văn, đặc biệt là lý luận chính trị cảm nhận rõ nhất. Nguồn tuyển sinh đại học về lĩnh vực khoa học xã hội - nhân văn nhất là ngành lý luận chính trị ngày một giảm, một khó khăn có nguyên nhân từ thực trạng vừa nêu. - Điều bất ổn tiếp theo là tình trạng dạy và học các môn lý luận chính trị hiện nay, kể từ khi thực hiện đổi mới, cải cách chương trình, giáo trình, giáo khoa bậc đại học cũng như việc quản lý hoạt động dạy - học lý luận chính trị trong các trường đại học. Đây thực sự là một tình huống có vấn đề, là mắt xích xung yếu phải thay đổi. Những bất hợp lý, những sai sót, nói nghiêm khắc ra là sai lầm trong cải cách lĩnh vực này hơn 10 năm qua đã được nhìn nhận, đánh giá trong dịp tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị khóa VII về công tác lý luận của Đảng, trong đó có đề cập tới giáo dục, tới dạy và học lý luận chính trị bậc đại học. Bộ Chính trị khóa XI gần đây đã ra Nghị quyết mới về công tác lý luận, về dạy và học lý luận chính trị ở bậc đại học nhằm thay đổi tình hình. Theo cải cách dạy và học lý luận chính trị từ mười năm trở lại đây, các môn triết học Mác - Lênin, kinh tế chính trị Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học đã gộp chung lại thành lý luận chính trị, mà một cách rất thực dụng và thô thiển, người ta định danh cho nó là “môn nguyên lý, các nguyên lý Mác - Lênin”, còn quy định nguyên lý 1 (Triết và Chủ nghĩa xã hội khoa học), nguyên lý 2 (Kinh tế chính trị). Khoa học lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã được giảng dạy từ lâu, từ rất sớm trong hệ thống đại học, giờ đây được gọi là môn đường lối cách mạng Việt Nam. Ngoài ra, có một môn, còn tương đối độc lập với nghĩa là một môn học, chứ còn coi trọng nó đến đâu, chất lượng dạy - học như thế nào thì lại là chuyện khác, đó là môn tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ còn riêng các trường đại học KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 29
  29. khoa học xã hội - nhân văn, ở những khoa đào tạo có sinh viên chuyên ngành về lý luận, mà số này thì rất ít, khả dĩ còn giữ được ít nhiều đặc trưng khoa học của từng môn. Trên phương diện quản lý, các trường phần lớn đều hình thành khoa (hoặc bộ môn) lý luận chính trị. Đây cũng là một điều bất ổn, ngay từ nhận thức khoa học áp dụng vào quản lý. Trong bất ổn lớn này, có điều gì đáng phải lo ngại nhất? Đó là: + Làm mất đi tính chuyên môn hóa sâu, tính chuyên nghiệp bền vững trong giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin mà giáo dục đại học đã gây dựng trên nửa thế kỷ mới có được, từ quan niệm, ý thức khoa học đến chương trình, giáo trình và nhất là đến xây dựng đội ngũ giảng viên khoa học chuyên ngành. + Làm tầm thường hóa khoa học trong thực tiễn giảng dạy, giảng viên triết học dạy chủ nghĩa xã hội khoa học đã khó, lại càng khó hơn khi họ phải dạy kinh tế chính trị và ngược lại. Diễn ra trên thực tế hoạt động giảng dạy của giảng viên là tự phát lựa chọn định hướng, tùy tiện trong ứng xử với những tri thức khoa học không chuyên (biết thì dạy kỹ, không biết, không thạo thì nói như sách mà sách nào có phải khuôn vàng thước ngọc!). Hậu quả là dẫn đến sự phiến diện và nông cạn trong truyền thụ tri thức của thầy, trong lĩnh hội, tiếp thu của trò. + Tình trạng sô bồ, hình thức trong việc tổ chức dạy - học, mà rõ nhất là dạy không phải trong lớp học, trên giảng đường đúng nghĩa chuẩn mực của nó mà là trên hội trường, hàng trăm, hàng mấy trăm sinh viên ngồi nghe giảng chung. Chất lượng, hiệu quả là rất thấp nhưng người ta vẫn dễ bằng lòng vì tiết kiệm được thời gian, tiết kiệm được kinh phí, nhất là ở các trường ngoài công lập. + Đang có sự nhầm lẫn lớn trong giảng dạy và quản lý giảng dạy khi đồng nhất phương pháp với phương tiện. Việc lạm dụng sơ đồ, biểu bảng, màn hình trình chiếu, cả việc biến tướng của xêmina, thảo luận nhóm, rèn kỹ năng cho sinh viên đã làm cho phương pháp khoa học thực sự nghiêm túc bị vi phạm. Vai trò chủ đạo của thầy như người thiết kế, truyền dẫn, kích thích tư duy, tư tưởng người học, trau dồi đạo đức, nhân cách từ khoa học giảm sút. Người học không hứng thú học tập do tác động truyền cảm hứng sáng tạo từ 30 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  30. người dạy rất hạn chế, dẫn tới nhận thức lệch lạc, đánh giá không đúng tầm quan trọng, tác dụng nhiều mặt của khoa học lý luận chính trị. Tình trạng này càng nặng hơn bởi những tác động và ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng, kỹ trị, xem nhẹ hoặc phủ nhận tri thức khoa học xã hội - nhân văn và lý luận cũng như các giá trị văn hóa tinh thần. + Sự tách rời có tính phổ biến giữa dạy - học với nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực lý luận chính trị, trước hết và chủ yếu ở đội ngũ giảng viên. Giảng dạy đã lấn át nghiên cứu. Nghiên cứu rơi vào hình thức hóa, sơ lược giản đơn hóa và kinh nghiệm hóa một cách thực dụng. Tiềm lực khoa học thấp, sự tích lũy, bổ sung và “làm mới” tri thức không trở thành một nhu cầu, một sự thôi thúc từ nội tâm của không ít giảng viên. Tình trạng đó làm cho tác dụng, ảnh hưởng, uy tín của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị bị hạn chế lớn, không đáp ứng được yêu cầu của nhà trường và của xã hội. Không thay đổi hiện trạng đáng lo ngại này, sẽ tiếp tục kéo dài sự lạc hậu của lý luận nước nhà, sự trì trệ và tiếp tục suy giảm chất lượng giáo dục đại học (về lý luận chính trị), sự bất cập trong chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta. Không phát triển lý luận, không có đột phá về lý luận, đất nước không thể phát triển, quốc gia - dân tộc không thể hưng thịnh. Nếu coi đó là thông điệp phát triển thì thông điệp này đang hối thúc trực tiếp vấn đề cải cách giáo dục lý luận chính trị ở bậc đại học, tìm đúng giải pháp nâng cao chất lượng dạy - học lý luận chính trị ở các trường đại học. 3. Kiến nghị giải pháp Một, làm thay đổi nhận thức xã hội, trước hết là trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của Đảng và Nhà nước, đặc biệt ở cấp chiến lược, với đội ngũ trí thức với trí thức khoa học xã hội - nhân văn và lý luận ở đại học làm nòng cốt về lý luận, vai trò của lý luận để có ứng xử đúng với giáo dục lý luận chính trị trong các trường đại học và cao đẳng. Giải pháp này tạo ra tầm nhìn và tạo thêm xung lực để tiếp tục đổi mới tư duy trong Đảng và trong xã hội ta. Thiết thực nhất là học và làm theo Bác Hồ về lý luận, về thực hành lý luận, thống nhất lý luận với thực tiễn. KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 31
  31. Chống bệnh coi khinh lý luận và lý luận suông, chống chủ nghĩa kinh nghiệm thông tục, thực dụng một cách thiển cận và cũng chống chủ nghĩa hình thức phù phiếm khoa trương mà thực chất cũng là coi thường lý luận, tầm thường hóa lý luận khoa học. Có hiểu đúng lý luận thì mới nhận ra vai trò, tác dụng, sự cần thiết của nó đối với phát triển xã hội. Lý luận sản sinh ra từ thực tiễn, là kết tinh, khái quát hóa từ thực tiễn, phản ánh bản chất và xu hướng vận động của thực tiễn, trang bị cho con người công cụ nhận thức và hành động một cách tự giác, sáng tạo, có trí tuệ, không mù quáng, phiêu lưu, tự phát. Dấu hiệu trưởng thành tư duy lý luận và lý luận ở chủ thể là sự tiêu hóa nhuần nhuyễn lý luận, biết dùng lý luận như một phương pháp. Đó là sức mạnh của sáng tạo, là trữ năng tinh thần, tư tưởng, trình độ trí tuệ để khám phá cái mới, biết “làm mới” năng lực, phương pháp của con người. Nhờ đó, chống được bệnh sách vở, giáo điều, máy móc, khuôn sáo. Cũng như vậy, phải hiểu chính trị, quan hệ giữa lý luận với chính trị, rộng hơn là quan hệ giữa khoa học với chính trị, sự thâm nhập và tác động lẫn nhau giữa lý luận (triết học) với chính trị thành ra triết học chính trị, văn hóa chính trị. Lý luận chính trị không phải là phép cộng số học giữa lý luận với chính trị. Có lý luận triết học soi sáng chính trị và cũng có lý luận nội tại của chính trị thuộc về lôgíc khách quan và lôgíc chủ quan của chính trị phải được nhận thức thật tường minh. Lý luận chính trị theo đúng nghĩa lành mạnh, tích cực của nó là kết quả của khoa học hóa, văn hóa hóa chính trị, làm cho chính trị trở thành khoa học, thành văn hóa chính trị. Chính trị càng phát triển, càng hiện đại, càng phát huy tác dụng tích cực đối với phát triển xã hội càng phải nhân văn hóa bản thân chính trị, hoạt động chính trị, các quan hệ chủ thể - khách thể trong tổ chức và hoạt động chính trị. Theo Hồ Chí Minh, văn hóa không ở bên ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị. Văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Chính trị nghĩ rộng ra cũng là văn hóa. Văn hóa nghĩ sâu ra cũng là chính trị. Ở trình độ và sự tương tác này, cả chính trị lẫn văn hóa đều có 32 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  32. điểm cốt lõi và đồng quy là LÝ LUẬN, đều có chung nguồn cội là THỰC TIỄN. Lý luận chính trị theo cách hiểu, cách hành xử hiện nay trong trường đại học đó là chủ nghĩa Mác - Lênin - Tư tưởng Hồ Chí Minh và Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Song phải hiểu nó là khoa học - cách mạng - nhân văn, hướng tới giải phóng và phát triển, là kết tinh trí tuệ và tư tưởng, là tổng hợp tri thức lý luận và phương pháp, là một trong những nguồn nội sinh quan trọng nhất của văn hóa, của văn hóa tư tưởng, của văn hóa chính trị. Đây là một tổng hợp, một phức hợp hệ thống chứ không phải tổng số số học máy móc, cơ học. Cần phải ghi nhớ chỉ dẫn của Ăngghen, “hãy gọi tên sự vật đúng như bản thân nó”, “hãy đối xử với chủ nghĩa xã hội như một khoa học, nghĩa là phải nghiên cứu nó”. Hồ Chí Minh từ rất sớm, nhìn nhận chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là khoa học mà còn là đạo đức. Mác đặc biệt chú trọng tới “Nhân đạo hóa hoàn cảnh”, “giải tha hóa lao động và bản chất người” để giải phóng mọi năng lực sáng tạo thuộc về sức mạnh của nhân tính, phải nghiên cứu thấu đáo, triệt để, tới tận gốc rễ của sự vật, mà “gốc rễ đối với con người chính là bản thân con người” Nhận thức đúng, ứng xử đúng đối với LÝ LUẬN và LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ là để xác lập một thái độ tôn trọng nó, xuất phát từ tinh thần khoa học thấm đẫm chất duy lý và nhân văn vốn là hai đặc tính bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đối xử với lý luận chính trị và đội ngũ giảng viên lý luận chính trị đúng với các chuẩn mực KHOA HỌC - CHÍNH TRỊ - ĐẠO ĐỨC và VĂN HÓA. Chỉ như vậy, lý luận chính trị mới có thể hiện hữu trong nhà trường đại học với tư cách là hệ thống các môn khoa học chính danh, chính thống và phải được coi trọng chứ không phải như một loại kiến thức bổ trợ, phụ gia, vừa xem nhẹ vừa tầm thường hóa nó. Hai, phải xác lập lại vị thế, giá trị của từng môn khoa học, mỗi môn khoa học có đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu riêng, đặc trưng, đặc thù riêng trong tập hợp các môn khoa học gọi là lý luận chính trị. Đó là Triết học, Kinh tế chính trị, Chủ nghĩa KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 33
  33. xã hội khoa học, Lịch sử Đảng và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Để đáp ứng yêu cầu giảm tải do quỹ thời gian vật chất dành cho một khóa đào tạo quy định, có thể tinh giản chương trình, giảm bớt phần giảng lý thuyết, tăng cường thực hành, nhất là rèn luyện kỹ năng nghiên cứu độc lập cho sinh viên song nhất thiết không được xóa nhòa ranh giới các khoa học, không vi phạm nguyên tắc chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa trong giảng dạy Đại học. Trở lại vị trí, vị thế của từng môn khoa học cũng có nghĩa là trả lại chỗ đứng và tư cách hành nghề của từng giảng viên khoa học trên bục giảng đại học. Chấm dứt tình trạng giảng dạy tất cả các môn ở mỗi giảng viên trong cái gọi là “các nguyên lý” cũng là để chấm dứt tình trạng tầm thường hóa khoa học. Cũng đồng thời chấm dứt tình trạng giảng gộp các lớp sinh viên trên hội trường. Không vì vin vào cớ thiếu giáo viên, hợp lý hóa, tiết kiệm thời gian, kinh phí mà duy trì mãi tình trạng rất không nghiêm túc về khoa học sư phạm này. Không nên đồng nhất giảng dạy của giảng viên theo môn, theo bài của chương trình pháp quy với nói chuyện ngoại khóa, báo cáo thuyết trình của các báo cáo viên trong các sinh hoạt ngoại khóa. Đây cũng là biện pháp chống lại sự coi thường môn học ở người học. Ba, phải công phu huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và cập nhật kiến thức cho đội ngũ giảng viên theo môn học, theo lĩnh vực chuyên môn hóa của họ. Tăng cường tiếp xúc khoa học và văn hóa giữa các giảng viên với các nhà khoa học, nhất là các học giả có uy tín lớn, tạo động lực đam mê sáng tạo trong nghiên cứu khoa học cho giảng viên, nhất là các giảng viên trẻ. Bốn, tạo môi trường, điều kiện và động lực thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên, của các tập thể sư phạm và các cộng đồng khoa học trong trường đại học. Đây là giải pháp cơ bản, lâu dài, nuôi dưỡng và phát triển tiềm lực tư tưởng, khoa học. Cần có đầu tư đủ mạnh các nguồn lực cho việc thu hút giảng viên và sinh viên nghiên cứu khoa học về lý luận chính trị. Năm, thiết kế lại chương trình, biên soạn giáo trình, giáo khoa theo hướng cơ bản, hiện đại, thực tiễn Việt Nam. Kết hợp các tri thức hàn lâm với tri thức ứng dụng, đa dạng hóa giáo trình, sách tham khảo cho các đối tượng dạy và học. 34 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  34. Sáu, xây dựng trung tâm nghiên cứu đủ mạnh làm nòng cốt trong nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên. Phát triển các mô hình giao lưu học thuật, tư tưởng, văn hóa trong các trường, mở rộng sự hợp tác giữa các nhà trường, gây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh, phát huy tác dụng ảnh hưởng của lý luận chính trị, của trí thức khoa học xã hội - nhân văn và lý luận chính trị trong đời sống thực tiễn, gắn với địa phương, khu vực và cả nước./. KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 35
  35. ĐỔI MỚI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG Nguyễn Thế Nghĩa Lúc sinh thời, cả C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh luôn coi trọng lý luận và đề cao thực tiễn. Các ông nhất quán rằng, thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của lý luận và tiêu chuẩn của chân lý; còn lý luận là “bó đuốc soi đường” cho thực tiễn. Do đó, thống nhất lý luận với thực tiễn trở thành nguyên tắc tối cao của chủ nghĩa Mác-Lênin; và công tác lý luận nhất là lý luận chính trị trở thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất lý luận với thực tiễn, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta luôn đề cao công tác lý luận và đặc biệt chú trọng thực tiễn cách mạng. Nhờ đó, Đảng ta đã đưa ra được Cương lĩnh, đường lối, phương pháp cách mạng đúng và lãnh đạo nhân dân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong những năm đổi mới vừa qua, dưới ánh sáng của lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng, nhân dân ta đã làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, hiện nay “nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức to lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế với nhiểu nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về PGS.TS.GVCC, Trưởng bộ môn Chính trị học, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách Quốc gia, Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG-HCM. 36 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  36. chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa, “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta”1. Tình trạng trên có nhiều nguyên nhân, song một trong những nguyên nhân quan trọng là: “Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tính chiến lược, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng còn hạn chế, thiếu sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa thực sự đi vào chiều sâu ở một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao ”2. Trong khi khẳng định những kết quả tích cực của công tác lý luận trong những năm đổi mới vừa qua, Nghị quyết 37-NQ/TW của Bộ chính trị về công tác lý luận đã chỉ rõ: “công tác lý luận còn những hạn chế, khuyết điểm. Nhìn chung, lý luận còn lạc hậu, tính dự báo thấp, kết quả nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn. Nghiên cứu về tình hình thế giới, khu vực và vấn đề thời đại chưa sâu sắc, toàn diện. Kết quả nghiên cứu về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh còn dàn trải, tính hệ thống chưa cao, chưa gắn kết chặt chẽ với những vấn đề thực tiễn đang đặt ra Đội ngũ cán bộ lý luận đông, nhưng không mạnh Công tác tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị còn hạn chế về chất lượng, trùng lắp về nội dung, chương trình giáo trình; chậm đổi mới về phương pháp ”3. Như vậy, thực tiễn đổi mới và hội nhập quốc tế đang đặt ra những vấn đề cấp bách, đòi hỏi công tác lý luận (nhất là hoạt động 1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.29. 2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.172-173. 3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành trung ương, Nghị quyết của Bộ chính trị về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030 (số 37-NQ/TW, ngày 09 tháng 10 năm 2014), tr.2. KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 37
  37. lý luận chính trị) trong các trường đại học, cao đẳng phải “vươn mình” lên để đáp ứng. Kết luận 94-KL/TW của Ban Bí thư về tiếp tục đổi mới việc học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân đã nhấn mạnh: “Đổi mới việc học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân nhằm tạo bước tiến mới, có kết quả, chất lượng cao hơn, góp phần làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội”4. Và muốn vậy, trước hết phải “Xây dựng cho được đội ngũ giáo viên lý luận chính trị tâm huyết, yêu nghề, tuyệt đối trung thành, có niềm tin, có kiến thức mới gắn với thực tiễn. Đây là nhân tố quyết định sự thành công của việc tiếp tục đổi mới học tập lý luận chính trị trong nhà trường”5. Lịch sử phát triển khoa học và thực tiễn cách mạng đã xác nhận tính quy luật của quá trình lý luận tác động đến thực tiễn để hiện thực hóa lý luận: (1) Lý luận phải phản ánh đúng quy luật phát triển khách quan của xã hội và nhu cầu, lợi ích của quần chúng; (2) Lý luận phải được “thâm nhập vào quần chúng” (trở thành tư tưởng, tình cảm, niềm tin, ý chí cải tạo hiện thực của quần chúng); (3) Lý luận phải thể hiện mình trong mục đích, nội dung, chương trình, kế hoạch và phương pháp hoạt động của quần chúng; (4) Tổ chức hoạt động thực tiễn của quần chúng để hiện thực hóa lý luận6 Tương ứng với “tính quy luật của quá trình tác động ” nói trên, công tác lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng bao gồm 3 hình thức hoạt động cơ bản: a)Hoạt động nghiên cứu lý luận chính trị; b) Hoạt động giảng dạy và đào tạo lý luận chính trị; c) Hoạt động giáo dục tư tưởng chính trị. 1. Hoạt động nghiên cứu lý luận chính trị . Hiện nay, chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục tồn tại và có những bước phát triển mới, đóng góp to lớn cho nền văn minh nhân loại, trong khi đó chủ nghĩa xã hội vẫn chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng 4Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành trung ương, Kết luận của Ban Bí thư về việc tiếp tục đổi mới việc học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân (số 94- KL/TW, ngày 28 tháng 03 năm 2014), tr.1. 5 Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành trung ương, Kết luận của Ban Bí thư về việc tiếp tục đổi mới việc học tâọ lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân (số 94- KL/TW, ngày 28 tháng 03 năm 2014), tr.2. 6 Xem: Nguyễn Thế Nghĩa, Những chuyên đề triết học, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007, tr.289. 38 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  38. trầm trọng; toàn cầu hóa vừa mang yếu tố tích cực vừa mang yếu tố tiêu cực đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trên phạm vi toàn cầu; cuộc cách mạng khoa học- công nghệ phát triển như vũ bão làm cho tri thức khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và trở thành động lực của kinh tế tri thức; công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ở Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu to lớn Tuy nhiên nước ta vẫn đứng trước nhiều nguy cơ và thách thức lớn, trong đó “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”7. Trong bối cảnh phức tạp nói trên, hoạt động nghiên cứu lý luận chính trị ở các trường đại học, cao đẳng cần tập trung vào các vấn đề chủ yếu dưới đây: Một là, Nghiên cứu và đúc kết những giá trị cơ bản, bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; những đặc điểm mới của thời đại, toàn cầu hóa, cách mạng khoa học – công nghệ và kinh tế tri thức. Hai là, nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản hiện đại và chủ nghĩa xã hội hiện thực. Đồng thời nghiên cứu làm sáng tỏ mô hình, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Ba là, nghiên cứu một cách có hệ thống đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó, đặc biệt chú trọng đường lối đổi mới và hội nhập quốc tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bốn là, nghiên cứu về con người Việt Nam, hệ thống giá trị truyền thống dân tộc để “chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng 7 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.184-185. KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 39
  39. tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc,tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc”8. Năm là, nghiên cứu đổi mới chương trình, nội dung, hình thức và phương pháp giảng dạy, học tập lý luận chính trị ở các trường đại học, cao đẳng phù hợp với đối tượng học tập và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong điều kiện mới. Đồng thời, nghiên cứu đổi mới phương thức trong cuộc đấu tranh về tư tưởng, lý luận chính trị hiện nay để bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối chính sách của Đảng và chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”. Để công tác nghiên cứu lý luận chính trị có hiệu quả, các trường cần phải xây dựng chương trình nghiên cứu lý luận chính trị với các đề tài khoa học cụ thể và bố trí nguồn kinh phí tương ứng. 2. Hoạt động giảng dạy và đào tạo lý luận chính trị Giảng dạy lý luận chính trị ở các trường đại học, cao đẳng là hoạt động đưa tri thức lý luận chính trị “thâm nhập vào quần chúng” (hình thành tư tưởng, niềm tin, ý chí cách mạng của quần chúng) để chuyển hóa lý luận thành lực lượng vật chất cải tạo hiện thực. Trong bối cảnh hiện nay, tri thức lý luận chính trị cần được giảng dạy, học tập ở các trường đại học, cao đẳng bao gồm: (1) Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; (2) Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng và luật pháp của Nhà nước; (3) Giá trị truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Thứ nhất, chủ nghĩa Mác-Lênin là đỉnh cao trí tuệ và tinh hoa văn hóa của nhân loại (bao gồm: Triết học Mác-Lênin, kinh tế chính trị Mác-Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học). Giảng dạy chủ nghĩa Mác –Lênin là giáo dục giá trị, tinh thần khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin, mà trước hết là giáo dục nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cùng với “thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật cùng hệ tư tưởng 8 Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, tr.4. 40 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  40. khoa học của giai cấp công nhân cách mạng với đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản trong cuộc đấu tranh xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, tiến tới xây dựng chủ nghĩa cộng sản”9. Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là “hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”10 Giảng dạy Tư tưởng Hồ Chí Minh là giáo dục tri thức Hồ Chí Minh học về triết học, chính trị học, pháp quyền, đạo đức, văn hóa, con người , nhất là giáo dục về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, phong cách và phương pháp (“dĩ bất biến, ứng vạn biến”) của Người trong cuộc sống và trong ứng xử với mình, với người, với công việc cách mạng. Thứ ba, Cương lĩnh, Đường lối, Chính sách của Đảng và luật pháp của Nhà nước không chỉ phản ánh quy luật phát triển khách quan của cách mạng Việt Nam, mà còn thể hiện nhu cầu, lợi ích và khát vọng của quần chúng lao động. Vì vậy, phải giáo dục và làm cho cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất là thế hệ trẻ thấu hiểu và tin tưởng vào cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng và vào sự nghiệp đổi mới làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện hiện nay, cần giáo dục làm cho cán bộ đảng viên và sinh viên các trường đại học, cao đẳng thấu hiểu và tin tưởng vào “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (cương lĩnh bổ sung, phát triển 2011); mục tiêu và những đặc trưng cơ bản của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (thông qua tại Đại hội XI của Đảng) và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, phát triển kinh tế thị trường định hướng 9 Sức sống của chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời địa ngày nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.9. 10 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.88. KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 41
  41. xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc). Thứ tư, giá trị truyền thống dân tộc là giá trị tinh thần cốt lõi của dân tộc, có ích và có ý nghĩa đối với sự phát triển của con người và xã hội, mang tính bền vững, trường tồn trong lịch sử, mà dựa vào đó các thế hệ trẻ có thể phát huy được giá trị quá khứ, tiếp thu được giá trị hiện đại và định hướng giá trị trong tương lai để tự tồn tại, tự phát triển mà không suy thoái, biến chất và đánh mất chính mình. Trong điều kiện hiện nay, giảng dạy về Giá trị truyền thống dân tộc ở các trường đại học, cao đẳng là giáo dục: (1) Ý thức tự tôn, tự lập, tự cường và tự hào dân tộc; (2) Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã được tôi luyện trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc; (3) Tình yêu thương con người và tính cố kết cộng đồng, sống thủy chung nhân ái và khoan dung; (4) Đức tính cần cù, trí thông minh và sáng tạo; (5) Tinh thần lạc quan cách mạng, luôn yêu cuộc sống hòa bình và luôn vươn tới tương lai. Thứ năm, tinh hoa văn hóa nhân loại là kết tinh những giá trị văn hóa tiêu biểu, mang tính nhân văn phổ quát có ích và có ý nghĩa đối với sự phát triển của và nhân loại tiến bộ. Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, giảng dạy về tinh hoa văn hóa nhân loại ở các trường đại học, cao đẳng là giáo dục: (1) Tri thức khoa học tiên tiến và công nghệ hiện đại; (2) Tinh thần dân chủ và ý thức “thượng tôn pháp luật”; (3) Giá trị của tự do, bình đẳng, bác ái và trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc. Đào tạo lý luận chính trị là hoạt động giáo dục toàn diện ở trình độ cao và mang tính chuyên nghiệp đối với sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh chuyên ngành lý luận chính trị (Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Chính trị học, ) - những người sẽ trở thành giảng viên lý luận chính trị, nghiên cứu viên lý luận chính trị, chuyên viên và chuyên gia giáo dục tư tưởng chính trị trong tương lai. Với các đối tượng trên, người học cần được trang bị khối lượng kiến thức hệ thống, toàn diện và sâu sắc của khoa học lý luận chính trị; cùng với kiến thức kinh điển, kiến thức lịch sử các môn học và kiến thức hiện đại được cập nhật thường xuyên. Đồng thời, 42 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  42. cần trang bị hệ thống phương pháp luận, phương pháp và kỹ năng hoạt động thực tiễn cho người học. Hiện nay việc nâng cao chất lượng giảng dạy và đào tạo lý luận chính trị yêu cầu những yếu tố cơ bản sau: (1) Xây dựng phát triển đội ngũ những người Thầy có trí tuệ và nhân cách, giàu lòng yêu nghề, tâm huyết với thế hệ trẻ, mẫu mực trong hoạt động nghiên cứu, trong giảng dạy và trong cuộc sống; (2) Xây dựng, hoàn thiện “Chương trình chuẩn” về giảng dạy lý luận chính trị với những nội dung, hình thức và phương pháp thích hợp đối với đối tượng chuyên ngành và không chuyên ngành lý luận chính trị; (3) Xây dựng, hoàn thiện “Giáo trình chuẩn” và các “Tài liệu tham khảo chuẩn” tương ứng với nội dung các môn học lý luận chính trị và phù hợp với từng đối tượng (chuyên ngành và không chuyên ngành lý luận chính trị). Xây dựng “Chương trình chuẩn” là trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo với sự giúp đỡ của các nhà khoa học; còn xây dựng “Giáo trình chuẩn” và “Tài liệu tham khảo chuẩn” thuộc về trách nhiệm của các nhà khoa học, ở đây cần tránh tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi” của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo; (4) Luôn đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp với nội dung môn học, với đối tượng người học và với thực tiễn đổi mới đất nước; (5) Tổ chức, quản lý, đánh giá, tổng kết quá trình đào tạo, giảng dạy, học tập lý luận chính trị một cách khoa học, khách quan và đúc rút những bài học kinh nghiệm; (6) Bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện, kinh phí cho đào tạo, giảng dạy, học tập lý luận chính trị. Đặc biệt là phải bảo đảm lương cho đội ngũ giảng viên đáp ứng ít nhất ở mức sống trung bình của xã hội; (7) Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và những tiêu cực xã hội, trong đó có tiêu cực trong giáo dục - đào tạo (kể cả những tiêu cực trong đào tạo lý luận chính trị). 3. Công tác giáo dục tư tưởng chính trị Giáo dục tư tưởng chính trị trong các trường đại học, cao đẳng là hoạt động tổng hợp, toàn diện nhằm đạt tới mục tiêu: (1) Bảo đảm sự ổn định về tư tưởng chính trị trong nhà trường, làm cho tất cả cán bộ, đảng viên, viên chức, giảng viên và sinh viên có niềm tin vững chắc vào lý luận chính trị mácxít, vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Trên cơ sở đó, ra sức phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của nhà trường; (2) Đào tạo lực lượng KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 43
  43. trí thức (cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ) không chỉ giỏi về khoa học và chuyên môn, nghiệp vụ, mà còn có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức tốt, sẵn sàng cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để đạt được mục tiêu trên, hoạt động lý luận chính trị cần có những yếu tố cơ bản sau: (1) Nâng cao hơn nữa nhận thức của các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền, các đoàn thể và đội ngũ giảng viên về vị trí, vai trò, tác dụng của công tác lý luận chính trị trong hệ thống các trường đại học, cao đẳng; (2) Có sự thống nhất và phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền, các đoàn thể với đội ngũ giảng viên lý luận chính trị trong việc triển khai công tác lý luận chính trị trong nhà trường; (3) Có chính sách đúng và đủ đối với công tác lý luận chính trị và đội ngũ những người trực tiếp thực thi công tác lý luận chính trị trong nhà trường; (4) Gắn hoạt động lý luận chính trị với công tác xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức đoàn thể chính trị trong sạch, vững mạnh trong nhà trường. Đồng thời, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, giảng viên, viên chức và sinh viên trong nhà trường. Đặc biệt là, phải cảnh giác với “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên và sinh viên trong điều kiện phức tạp hiện nay. Tóm lại, cần đặt công tác lý luận chính trị ở vị trí trung tâm và giữ vai trò xuyên suốt trong tất cả các hoạt động của hệ thống các trường đại học, cao đẳng. Để nâng cao chất lượng công tác lý luận chính trị, Nhà nước cần phải đầu tư cho nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị và giáo dục tư tưởng chính trị một cách thích đáng. Đồng thời, phải tạo ra sự thống nhất và phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa lãnh đạo nhà trường các cấp ủy, các cấp chính quyền, các đoàn thể với đội ngũ nghiên cứu và giảng dạy lý luận chính trị trong việc triển khai các hoạt động lý luận chính trị. 44 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  44. VỀ ĐỔI MỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY Đinh Ngọc Thạch* 1. Thực trạng và những vấn đề đặt ra trong đào tạo, nghiên cứu lý luận chính trị hiện nay Công tác lý luận nói chung, đào tạo, nghiên cứu lý luận chính trị nói riêng đóng vai trò to lớn trong đời sống xã hội, góp phần vào quá trình ổn định xã hội, đồng thuận về tư tưởng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, bảo vệ chế độ, tham mưu, hiến kế cho Đảng, Nhà nước trong việc hoạch định đường lối phát triển đất nước, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đội ngũ làm công tác lý luận là những người tiên phong trong việc phổ biến thế giới quan khoa học và lý tưởng dân chủ, nhân văn, sáng tạo nên nhiều sản phẩm có giá trị, được xã hội thừa nhận, đánh giá tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đáng khích lệ, phải thừa nhận một cách thẳng thắn rằng công tác lý luận còn nhiều bất cập, chất lượng giảng dạy và học tập các môn lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng đang có dấu hiệu suy giảm, công tác định hướng, tổ chức, quản lý chưa đáp ứng tốt những đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, chưa thực sự tạo sự kết nối giữa người giảng và người học, giữa những nội dung trong sách với cuộc sống, giữa lý luận và thực tiễn. Những mâu thuẫn và bất cập trong chương trình, giáo trình, đội ngũ giảng viên các môn lý luận chính trị ngày càng trở nên gay * PGS. TS. Giaùm đốc Trung tâm Lý luận chính trị, ĐHQG.HCM KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 45
  45. gắt. Thứ nhất, nhu cầu xã hội đối với vấn đề phát triển tư duy lý luận nước nhà trong điều kiện mới và sự “giảm tải” chương trình và nội dung các môn lý luận chính trị. Do hiểu sự giảm tải theo nghĩa giản đơn nên trong sáu năm qua (từ năm 2008) nhiều nội dung cần thiết đối với sự phát triển tư duy lý luận đã bị cắt bỏ trong giáo trình, nhất là giáo trình về chủ nghĩa Mác – Lênin, nguy cơ dẫn đến hệ quả xã hội không lường trước, và về lâu về dài có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều mặt của đời sống. Đối với giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, khá nhiều vấn đề mới chưa được cập nhật, làm cho nội dung trở nên khô khan, cách tiếp cận còn cứng nhắc, nên không “truyền lửa” đến cho người học thông qua những chất liệu thực tiễn sử dụng trong giảng dạy. Thứ hai, tính mở, tính sáng tạo không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin và một số biểu hiện của tính “khép kín” và công thức hóa một cách máy móc nội dung của chủ nghĩa Mác – Lênin trong giáo trình. Giáo trình đang sử dụng còn mang nặng tính giáo huấn, thiếu tính đối thoại, gợi mở, xuất phát từ khối lượng môn học và phương pháp tiếp cận môn học. Sự “chật chội” về khối lượng kiến thức cần giảng dạy khiến cho sinh viên không có cơ hội mở rộng kiến thức, tự nghiên cứu, mà chỉ việc nghe, ghi, học thuộc vài nội dung trọng điểm và trả bài, vì thế khả năng đối thoại, tranh luận hầu như bị triệt tiêu, chỉ còn khả năng tiếp nhận thông tin một chiều. Thứ ba, nhu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị và tình trạng thả nổi chất lượng do thiếu một hệ thống đánh giá thống nhất, thiếu cơ chế sàng lọc, thẩm định thực sự hiệu quả về đội ngũ, cũng như những bất cập trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ. Trách nhiệm này chắc hẳn không hoàn toàn thuộc về các nhà giáo, mà do tác động của điều kiện xã hội, một phần do cơ chế, với những quy định chưa thỏa đáng, khiến cho sự say mê sáng tạo của nhà giáo bị suy giảm, còn người học thì thiếu hứng thú. Thứ tư, mâu thuẫn giữa nhu cầu xem xét một cách khoa học, hay nói như Lênin, một cách “có văn hóa” toàn bộ tinh hoa tinh thần của nhân loại, với lối tư duy “phân tuyến” một cách cứng nhắc. Do lối tư duy phân tuyến này mà di sản văn hóa của nhân loại, các tư tưởng, học thuyết trước khi chủ nghĩa Mác ra đời và các khuynh hướng triết học, chính trị, kinh tế phương Tây hiện đại (hiểu theo nghĩa ngoài mácxít) hầu như không được đề cập trong chương trình giảng dạy và học tập, hoặc tuy có giới thiệu sơ lược, nhưng không được đánh giá xác đáng, 46 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  46. khoa học. Việc thiếu tiếp xúc một cách khách quan, nghiêm túc với tinh hoa văn hóa nhân loại trong lịch sử và các dòng tư tưởng triết học phương Tây đương đại vô hình chung đã làm nghèo tư duy lý luận nước nhà, không đáp ứng được quá trình đổi mới tư duy, hội nhập quốc tế. Thứ năm, khoảng cách khó san lấp giữa đào tạo chuyên sâu và khả năng vận dụng vào giảng dạy không chuyên, khiến cho nhiều khối kiến thức bị lãng phí. Sở dĩ có tình trạng đó là vì trong đào tạo không chuyên vẫn đang tồn tại ở nhiều nơi, nhiều cơ sở đào tạo quan niệm đồng nhất đào tạo các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam với những môn chính trị – đó là quan niệm chưa thực sự xác đáng, cần xem xét lại từ góc độ tổ chức, quản lý và nghiên cứu, đào tạo. Cần phân biệt định hướng chính trị với cách hiểu theo lối thuần túy chính trị đối với các môn lý luận chính trị (theo cách gọi cô đọng ba môn học này). Còn nhiều vấn đề cần trao đổi nữa về “gót chân Achille” trong đào tạo, nghiên cứu lý luận chính trị hiện nay. Tình hình thế giới và trong nước đang nảy sinh những vấn đề hết sức phức tạp, nhưng chưa thể xử lý ngay được, chưa cập nhật vào hệ thống quan điểm cần “giáo khoa hóa”, hoặc chưa tìm ra những lời đáp và hướng giải quyết thuyết phục, trong số đó có những “điểm nóng” tác động đến sự tồn vong của chế độ chính trị ở nước ta, các vấn đề mang tính toàn cầu. Môi trường dân chủ và tự do có định hướng cho công tác nghiên cứu lý luận chưa được phát huy đúng mức. Một bộ phận làm công tác giảng dạy và nghiên cứu lý luận ngại đụng chạm những vấn đề gai góc, và đó là lý do của sự thiếu vắng những công trình mang tính đột phá, những gợi mở thực sự tâm huyết, những hiến kế có giá trị cho quá trình đổi mới công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học lĩnh vực này. Công tác quản lý và định hướng phát triển tư duy lý luận, nhất là trong lĩnh vực đào tạo lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng còn lúng túng, trước hết là lúng túng về lựa chọn mô hình và phương thức tổ chức, khiến cho chất lượng đào tạo ngày càng bị đặt thành vấn đề, sự quan tâm của xã hội có dấu hiệu suy giảm. Xã hội đang đặt ra cho công tác lý luận và đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu lý luận chính trị nhiều thách thức mới, mà việc KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 47
  47. giải quyết chúng đòi hỏi không chỉ sự nỗ lực, mà cả ý thức vượt qua những bất cập về cơ chế, sự phản tỉnh cá nhân và thiên chức nghề nghiệp của đội ngũ. Để tạo nên những đột phá trong công tác lý luận nói chung, lý luận chính trị nói riêng trong các trường đại học, cao đẳng, các cơ sở đào tạo, phù hợp với đường lối đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, cần đánh giá thực chất vấn đề đang phát sinh, từ đó đưa ra những giải pháp đồng bộ, toàn diện nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập, nghiên cứu lĩnh vực này. 2. Phát huy sức mạnh hệ thống của ĐHQG.HCM và phối hợp với các nhà giáo – nhà khoa học cả nước nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu lý luận chính trị Là hệ thống đa ngành, đa lĩnh vực, với 06 trường đại học thành viên, 01 khoa trực thuộc, 4 viện chiến lược, trên 30 trung tâm nghiên cứu và dịch vụ, ĐHQG-HCM chiếm vị trí dẫn đầu trong hệ thống các trường đại học phía Nam về việc nghiên cứu lý luận nói chung, nghiên cứu và đào tạo lý luận chính trị nói riêng. Đội ngũ những người làm công tác đào tạo lý luận chính trị tại ĐHQG-HCM đang tỏ ra có ưu thế về chất lượng và số lượng so với nhiều cơ sở đào tạo đại học phía Nam, với khoảng 72 giảng viên, trong đó tất cả đạt trình độ tiến sĩ, thạc sĩ, có nhiều nhà giáo – nhà khoa học đang là cán bộ đầu ngành trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Trung tâm Lý luận chính trị trực thuộc ĐHQG-HCM (ra đời vào năm 2009) cùng với chức năng tham mưu cho lãnh đạo ĐHQG- HCM về công tác lý luận, đã đóng vai trò nòng cốt trong việc tổ chức, điều hành hoạt động giảng dạy, học tập và đánh giá chất lượng đào tạo các môn lý luận chính trị tại 4 trường ĐH và 01 khoa trực thuộc ĐHQG-HCM, phối hợp với các đơn vị khác tiến hành kiểm tra, đánh giá năng lực đội ngũ giảng viên, thống nhất chương trình, điều tiết kế hoạch, hình thành dụ án phát triển đội ngũ trong toàn ĐHQG-HCM, chủ động liên kết với các trường đại học và các địa phương trong đào tạo, tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên đề về nội dung mới của các môn học, về phương pháp, kỹ năng và kinh nghiệm giảng dạy, nghiên cứu cho đội ngũ giảng viên. Nhờ phát huy sức mạnh hệ thống, công tác đào tạo và nghiên cứu lý luận chính trị tại ĐHQG-HCM đã đạt được những kết quả nhất định, không chỉ tạo nên hiệu ứng tích cực từ người học, mà còn cung cấp 48 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  48. cho xã hội những kết quả nghiên cứu có chiều sâu, có tính cập nhật, phù hợp với đường lối đổi mới. Trong hơn 6 năm qua, ĐHQG.HCM đã tổ chức 3 hội thảo khoa học cấp quốc gia, 6 hội thảo cấp ĐHQG, hàng loạt hội thảo và tọa đàm khoa học cấp trường, tham gia nhiều hội thảo, tọa đàm khác do Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức, đề cập đến công tác lý luận, hoặc liên quan trực tiếp đến công tác lý luận và đào tạo lý luận chính trị. Nổi bật trong số đó là Hội thảo khoa học tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị về những vấn đề cấp bách trong công tác lý luận, Hội thảo khoa học về sức sống của chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại ngày nay, Tọa đàm báo cáo và kiến nghị với đoàn công tác của Ban Tuyên giáo Trung ương về công tác lý luận và đào tạo lý luận chính trị tại Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Từ kết quả của các cuộc hội thảo khoa học và tọa đàm, trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo (Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013), Hướng dẫn số 127 HD/BTGTW (ngày 30/6/2014) của ban Tuyên giáo Trung ương và Nghị quyết số 37/NQ-TW (ngày 09/10/2014) của Bộ Chính trị, chúng tôi đề xuất hướng tiếp cận và giải pháp nâng cao chất lượng công tác lý luận và đào tạo lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng nói chung, tại ĐHQG- HCM nói riêng: Thứ nhất, thay đổi phương thức quản lý, tổ chức giảng dạy và học tập các môn lý luận chính trị nhằm phát huy tối đa năng lực đội ngũ tại các cơ sở đào tạo, nhất là các cơ sở đào tạo lớn, khắc phục những bất cập trong việc tổ chức biên soạn giáo trình, tài liệu hướng dẫn đối với các môn lý luận chính trị. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương, Bộ Giáo dục và Đào tạo với các viện, học viện, các trường đại học, cao đẳng trong biên soạn giáo trình, tài liệu phục vụ đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị. Chúng tôi nhận thấy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến giảm sút chất lượng giáo trình các môn lý luận chính trị, song một trong những nguyên nhân cơ bản là thiếu tính cạnh tranh, thiếu sự phối KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 49
  49. hợp giữa các nhà giáo – nhà khoa học trong cả nước, kể cả một số trường hợp thiếu bản lĩnh tiếp cận cái mới trong quá trình biên soạn. Cách đây hơn 6 năm, trước khi giáo trình “tích hợp” được công bố, ban biên tập đã gửi bản thảo đến các đơn vị và cá nhân để xin ý kiến, nhưng thực ra sự góp ý chỉ mang tính hình thức; hơn nữa, nhiều góp ý, gợi mở có tâm huyết, có tính thuyết phục về mặt khoa học đã không được tiếp thu đúng mức. Thay đổi phương thức đào tạo nên bắt đầu từ phương thức tổ chức biên soạn giáo trình, tranh thủ sự hiến kế từ các cơ sở đào tạo lớn và quy tụ các nhà giáo – nhà khoa học có uy tín thực sự. Bên cạnh đó, theo tinh thần Hướng dẫn 127 của Ban Tuyên giáo Trung ương, cần tính đến đặc thù của các lĩnh vực đào tạo tại cơ sở (các khối khoa học khác nhau) để đưa những nội dung chuyên biệt hóa vào giáo trình trên nền chung của bộ khung chuẩn, có sự thẩm định của các chuyên gia khoa học chuyên biệt. Phân cấp quản lý trong đào tạo lý luận chính trị chính là khắc phục những yếu kém của cơ chế, để các nhà giáo – nhà khoa học tự tin và yên tâm hơn trong sáng tạo khoa học, thể hiện tâm huyết của mình trên giảng đường, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập các môn lý luận chính trị. Thứ hai, đổi mới nội dung giáo trình theo hướng cập nhật, hiện đại, đảm bảo thống nhất tính khoa học và định hướng chính trị, kể cả việc vượt qua cách tiếp cận đã từng tồn tại từ những năm 30 của thế kỷ XX đến nay mà không còn phù hợp nữa, trở thành sức nặng của “quả núi” truyền thống đối với những mối quan tâm hiện tại, trong đó điển hình nhất là cách tiếp cận về những vấn đề của lịch sử tư tưởng, vốn quá nặng về sự phân tuyến cứng nhắc, không chú trọng cách tiếp cận giá trị mà C. Mác từng nêu ra1. Cùng với việc xem di sản của quá khứ từ cách tiếp cận giá trị, trong bài viết “Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Pônapác” C. Mác từng lưu ý: “Truyền thống của tất cả các thế hệ đã chết đè nặng như quả núi lên đầu óc những người đang sống”2. Thái độ có văn hóa đối với quá khứ đòi hỏi thực hiện sự “lọc bỏ” biện chứng các yếu tố của nó để tiếp cận một cách thành công những vấn đề mới của thời đại mà không làm mất đi nguồn cội. Mặt khác, bản thân những vấn đề của 1 xem C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 156 - 157 2 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập; t.8; Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 145 50 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  50. ngày hôm qua cũng cần được nhận thức lại, để không bị rơi vào tình trạng lạc hậu, cực đoan, một chiều dưới ánh sáng của trí tuệ loài người trong thế kỷ XXI, thành quả khoa học, công nghệ và những vấn đề mới phát sinh trong đời sống xã hội. Giáo trình “tích hợp” mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, tức giáo trình “trả lại” tên gọi cho các học phần triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học, không thể biên soạn theo lối lắp ghép cơ học, khiên cưỡng như vừa qua, mà cần đảm bảo tính xuyên suốt, thống nhất hữu cơ các bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời mang trên mình hơi thở và những thông điệp của thời đại, của đất nước. Muốn như vậy cần tiến hành trao đổi nghiêm túc giữa những người có trách nhiệm trực tiếp về phương thức và nội dung giáo trình cần biên soạn, phân biệt phần giảng, phần sinh viên tự đọc (có đánh giá kết quả) và phần phụ lục, để có thể bao quát được những vấn đề cơ bản và mở rộng trong chương trình, phân biệt khung chương trình chung và sự cụ thể hóa nó gắn với đặc thù của các trường đại học, cao đẳng. Thứ ba, tăng cường, khuyến khích sự tương tác tích cực giữa giảng viên với người học, dành cho người học (học viên, sinh viên) quyền lực mềm trong đánh giá chất lượng và phương pháp giảng dạy của giảng viên ở mức độ phù hợp. Thông qua kênh đánh giá đó giảng viên thực hiện tự điều chỉnh phương pháp và bồi dưỡng trình độ chuyên môn, trau dồi bản lĩnh chính trị và sự nhạy bén trong việc xử lý các tình huống đặt ra, làm chủ giảng đường bằng chính năng lực và sự trải nghiệm của mình. J. Dewey đã xác đáng khi cho rằng người học ngày nay không còn là “tờ giấy trắng” như J. Locke hình dung vào thế kỷ XVII, mà đã “tự tích lũy” năng lực cuộc sống ngay từ những bước đi đầu tiên; năng lực ấy cần được kích thích, cần được “phát hiện lại” trong suốt quá trình học tập, hướng đến mục tiêu có ích3. Thứ tư, đổi mới nghiên cứu khoa học phục vụ cho đào tạo lý luận chính trị, đặc biệt là đào tạo chuyên ngành, phù hợp với quan điểm của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Muốn như vậy, cần hình thành những nhóm nghiên cứu mạnh, hay 3 xem J. Dewey. Dân chủ và giáo dục; Phạm Anh Tuấn dịch; Nxb Tri thức, Hà Nội, 2008, tr. 78 – 92 KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 51
  51. nghiên cứu trọng điểm, và tổ chức định kỳ các lớp bồi dưỡng chuyên sâu dành giảng viên trẻ. Chính các nhóm nghiên cứu mạnh sẽ tạo nên những công trình chất lượng cao, không chỉ gợi mở những vấn đề mới, cung cấp chất liệu và định hướng tư tưởng cho giảng dạy, học tập, mà còn góp phần phát triển tư duy lý luận nước nhà. Đối với vấn đề bồi dưỡng đội ngũ, có thể thấy rằng, việc tập hợp, liên kết các nhà giáo – nhà khoa học trình độ cao và giàu kinh nghiệm trong nước để mở các lớp chuyên đề nâng cao dành cho giảng viên trẻ tại các cơ sở đào tạo là nhu cầu cấp bách nhằm nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị, khắc phục tình trạng hụt hẫng khi số lượng các nhà khoa học đầu ngành ngày càng ít đi, trong khi đội ngũ kế thừa cần có giá đỡ về chuyên môn, phương pháp và bản lĩnh chính trị. Thứ năm, chuẩn hóa đội ngũ phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đối với đội ngũ giảng viên, sự chuẩn hóa thể hiện ở chuyên ngành đào tạo và sử dụng đúng chuyên ngành trong giảng dạy, nó cần được thẩm định không chỉ thông qua đề cương và giáo án, mà còn thông qua các công trình nghiên cứu chuyên ngành. Sự chuẩn hóa cần được thống nhất ở tầm quốc gia, với bộ khung chung cho các đơn vị đào tạo đội ngũ, thực hiện quá trình sàng lọc nghiêm minh cả đầu vào và đầu ra, tránh tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh, chụp giựt trong đào tạo chuyên ngành giữa các cơ sở đào tạo. Thực hiện “chính danh” trong quá trình chuẩn hóa đội ngũ, thông qua đánh giá thực chất năng lực chuyên môn, ngoại ngữ và tin học, đảm bảo lành mạnh hóa môi trường đào tạo sau đại học là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng đội ngũ, qua đó nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học về lý luận chính trị. Sẽ là lực cản không nhỏ đối với sự phát triển tư duy lý luận nếu tình trạng vàng thau lẫn lộn, thiếu minh bạch và thả nổi chất lượng đào tạo đội ngũ vẫn tồn tại. Thứ sáu, phát huy hơn nữa môi trường dân chủ và tự do có định hướng cho công tác nghiên cứu lý luận; tôn trọng tính sáng tạo của nhà giáo – nhà khoa học, không vội vàng quy chụp “chệnh hướng” đối với những quan điểm “không chính thống”, những thông tin mới, chưa được nêu trong sách giáo khoa và chưa được cập nhật trong các văn bản của Đảng, Nhà nước; khuyến khích việc nghiên cứu các vấn đề bức xúc về công tác lý luận đang đặt ra trong 52 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  52. bối cảnh hiện nay, mở rộng tranh luận học thuật, khắc phục cả chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa cơ hội, cải lương lẫn chủ nghĩa không tưởng và phiêu lưu chính trị, nghĩa là khắc phục các biểu hiện cực đoan trong nghiên cứu khoa học phục vụ cho đào tạo lý luận chính trị. Thứ bảy, nghiên cứu mới về kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, rút ra giá trị, ý nghĩa và bài học đối với quá trình đổi mới đất nước hiện nay, vận dụng những chất liệu tư tưởng sinh động ấy vào quá trình nghiên cứu, giảng dạy, học tập lý luận chính trị. Nghiên cứu kinh điển không phải để “kinh điển hóa” đầu óc của người nghiên cứu, mà là để rút ra những vấn đề bổ ích cho hôm nay. Hiện tại đã có khá nhiều công trình tìm hiểu kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở nhiều khía cạnh, nhiều cách tiếp cận khác nhau, song điều cần thiết là cùng với việc nhấn mạnh yếu tố định hướng và tính chuẩn mực trong hệ thống tư tưởng đồ sộ ấy, cần đặt nó vào hệ quy chiếu của thực tiễn luôn biến đổi để chứng minh sức sống của nó. Chỉ có như vậy sự nghiên cứu mới không rơi vào tình trạng nhàm chán, mang nặng tính giáo huấn, lấn át tính khoa học. Thứ tám, chú trọng nghiên cứu sâu các tư tưởng, học thuyết, quan điểm ngoài mác xít, tăng cường đối thoại với những người làm công tác này ở nước ngoài thông qua các cuộc hội thảo, tọa đàm, tránh sự dị biệt quá xa về tư duy lý luận, tiếp thu tinh hoa tư tưởng của nhân loại, góp phần phát triển hơn nữa lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện mới. Cần xây dựng và thực hiện chương trình trao đổi quốc tế đối với đội ngũ làm công tác lý luận nói chung và lý luận chính trị nói riêng. C. Mác, V. I. Lênin, Hồ Chí Minh là mẫu mực của sự kết hợp cách tiếp cận thế giới quan – tri thức và cách tiếp văn hóa – giá trị trong đánh giá tư tưởng của quá khứ và tư tưởng ngoài mácxít hiện đại. Thái độ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Bertrand Russell và Jean Paul Sartre là minh chứng cho phong cách tư duy trong văn hóa chính trị Hồ Chí Minh. Phong cách ấy cần được kế thừa trong xem xét, đánh giá các học thuyết ngoài mácxít. Bertrand Russell là đại diện của khuynh hướng thực chứng – khoa học trong triết học phương Tây ngoài mácxít thế kỷ XX dưới tên gọi chủ nghĩa thực KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 53
  53. chứng mới, còn Jean Paul Sartre đại diện cho khuynh hướng phi duy lý – nhân bản, người phát ngôn của chủ nghĩa hiện sinh tại Pháp, cả hai đều là đối thủ tư tưởng của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nhưng họ lại là những người đồng sáng lập Tòa án quốc tế, xét xử tội ác chiến tranh xâm lược, kêu gọi vãn hồi hòa bình ở Việt Nam. Chính vì thế mà Bác Hồ thay mặt toàn thể nhân dân Việt Nam viết thư cảm ơn “cụ Rátxen và ông Sáctơrơ” vì những hoạt động chính trị tích cực, đấu tranh cho hòa bình, chia sẻ những đau thương, mất mát với nhân dân ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ4. Trong thời đại hiện nay rất cần cách tiếp cận như thế trong việc tìm hiểu các khuynh hướng triết học ngoài mácxít, và giới thiệu nó một cách phù hợp trong các giáo trình lý luận chính trị để tránh sự đơn điệu về nội dung và một chiều trong đánh giá vấn đề. Thứ chín, tăng ngân sách đầu tư cho công tác lý luận chính trị, trong đó có bốn hướng đầu tư chủ yếu: đầu tư cho con người, cho phát triển đội ngũ; đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đào tạo và bồi dưỡng; đầu tư cho đổi mới phương thức tổ chức và quản lý; đầu tư cho cơ sở vật chất. Chẳng hạn, cùng với việc tiếp tục duy trì kinh phí ổn định cho công tác thực tập, thực tế và tập huấn theo Quyết định 494, ĐHQG.HCM đang hướng đến việc công bố một nghị quyết chuyên về nghiên cứu, đào tạo lý luận chính trị nhằm phát huy sức mạnh của đội ngũ nhà giáo – nhà khoa học toàn hệ thống, gồm Trung tâm Lý luận chính trị và các khoa, bộ môn chuyên và không chuyên ngành tại các trường thành viên. Việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học không chỉ phục vụ cho đào tạo, mà còn hướng đến mục tiêu phát triển tư duy lý luận, phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, xã hội, gắn với phát triển ở tầm vĩ mô và phát triển vùng. Thứ mười, kiến nghị xây dựng Tạp chí về công tác lý luận (phía Bắc và phía Nam), tạo điều kiện cho các nhà giáo công bố các công trình nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực tư duy lý luận, cũng như thông báo khoa học, trao đổi ý kiến về các vấn đề của khoa học xã hội và nhân văn. Hiện nay hệ thống viện và các trường thuộc sự 4 Xem Hồ Chí Minh. Toàn tập, t. 15; Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 200, 338, 339. 54 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  54. quản lý của Đảng đang có các tạp chí trải đều từ bắc đến nam. Nhiều trường đại học cũng đã có các tạp chí (chỉ số ISSN), song lại sử dụng cho nhiều ngành. Trong bối cảnh đó, việc cho ra đời một tạp chí dành cho đội ngũ giảng viên lý luận chính trị và các nhà nghiên cứu lý luận là nhu cầu cấp bách và thực tế. Đó cũng là một trong những điều kiện của việc đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu lý luận chính trị. 3. Thay lời kết C. Mác từng nhấn mạnh: “Bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”5. Chúng tôi hiểu mệnh đề đó không theo cách mà C. Mác dùng để đánh giá các nhà triết học thời trước, mà là từ sự cần thiết thay đổi một triết lý giáo dục đã định hình suốt mấy thập niên qua tại Việt Nam. Nhà giáo dục cần được thường xuyên bồi dưỡng, tái đào tạo để không ngừng hoàn thiện chuyên môn và bản lĩnh chính trị, có thể giải đáp cho người học những vấn đề của thực tiễn và lý luận một cách thuyết phục, chứ không chỉ dựa trên những bản thiết kế tư duy đã định sẵn từ năm này sang năm khác. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo (Nghị quyết 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013) chỉ rõ: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn liền với thực tiễn Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt ” Đổi mới ngay lập tức nội dung và phương pháp tiếp cận trong các môn khoa học Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều không thể, bởi lẽ khái niệm đổi mới cần được hiểu một cách thấu đáo, nhằm tránh những biểu hiện cực đoan trong việc đào tạo và nghiên cứu lý luận chính trị. Đổi mới là một quá trình không đơn giản, đòi hỏi sự cẩn trọng, nghiêm túc, chiều sâu tư duy lý luận, tính đến những điều kiện hiện có và xu hướng vận động của đất nước, những biến đổi của thế giới. Song, đó là đòi hỏi cấp thiết và chính đáng của xã hội, là công việc không thể trì hoãn. 5 C. Mác và Ph. Ăngghen. Toàn tập, t. 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 10 KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 55
  55. ĐỔI MỚI NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TRIẾT HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Đặng Hữu Toàn(*) Trong bối cảnh của công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp đổi mới và chấn hưng nền giáo dục nước nhà đang đứng trước những nhiệm vụ hết sức bức thiết. Trong bối cảnh đó, cũng như bất cứ ngành khoa học nào khác, triết học với tư cách một khoa học cũng cần phải có sự đổi mới. Sự đổi mới này, trước hết phải được thể hiện trong giảng dạy cho mọi đối tượng, trước hết cho một đối tượng hết sức đặc thù là học viên cao học và nghiên cứu sinh triết học - những người có nhiệm vụ truyền thụ tri thức triết học cho các đối tượng khác. Bởi lẽ, như các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã từng nhấn mạnh, để phát triển sự nghiệp giáo dục thì bản thân những người làm công tác giáo dục cũng phải được giáo dục. Để có được sự đổi mới này, chúng ta cần phải có sự đổi mới từ những khâu được coi là then chốt nhất - nội dung và phương pháp giảng dạy. Song, triết học là một môn khoa học đặc thù và do vậy, đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy không thể không tính đến tính đặc thù của nó để trên cơ sở đó, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc đổi mới này. 1. Đặc thù của tri thức triết học là ở chỗ, tri thức triết học mang tính khái quát hóa, trừu tượng hóa cao trong sự phản ánh hiện thực khách quan, được biểu đạt bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật. Hơn nữa, triết học là một khoa học lý luận, chứ không phải một khoa học thực nghiệm. Với tư cách này, triết (*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 56 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  56. học thiên về những tri thức hàn lâm và hầu như không có mô hình thực nghiệm, trực quan. Chức năng cơ bản của triết học là trang bị thế giới quan và phương pháp luận cho người học. Do vậy, việc đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy triết học bất luận thế nào cũng phải đạt được mục đích là giúp người học xác lập được thế giới quan và phương pháp luận khoa học cả trong nhận thức lẫn trong hoạt động thực tiễn. Thêm nữa, triết học, mặc dù là một khoa học lý luận, nhưng không phải vì thế mà nó đứng ngoài đời sống xã hội. Triết học, như chúng ta đều biết, trong suốt chiều dài lịch sử hơn 2500 năm của mình, luôn gắn liền với vận mệnh lịch sử của nhân loại. Trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại, tùy thuộc vào sự đóng góp cho tiến bộ xã hội và cho chính tiến trình phát triển của mình, triết học luôn nắm giữ một vị trí nhất định trong đời sống tinh thần xã hội và có vai trò không thể thay thế khi tham gia vào việc giải quyết những vấn đề có ảnh hưởng đến sự phát triển của đời sống xã hội. Có thể nói, do luôn gắn với quá trình vận động, biến đổi và phát triển của đời sống xã hội, với thực tiễn xã hội, cộng với đặc trưng tư duy phản tư vốn có của mình, với tư cách thế giới quan và phương pháp luận cho hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới, triết học chưa bao giờ từ bỏ vị trí và vai trò của mình trong đời sống xã hội cũng như trong việc giải quyết những vấn đề do lịch sử đặt ra đối với tiến trình phát triển của xã hội loài người. Do vậy, mỗi khi lịch sử nhân loại bước sang một giai đoạn phát triển mới, mỗi khi đời sống xã hội có sự thay đổi mang tính bước ngoặt, chẳng hạn như trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay hay trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, triết học luôn nhìn nhận lại bản thân mình, đánh giá lại vị trí và vai trò của mình để không chỉ có sự thay đổi và phát triển cho phù hợp với sự thay đổi và phát triển của thời đại, của đời sống xã hội, mà còn có thể đưa ra những tiên đoán, dự báo về xu hướng vận động, biến đổi và phát triển tiếp theo của thời đại, của đời sống xã hội. Do vậy, khi đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy triết học, chúng ta cũng phải tính đến sự biến đổi này. Bởi lẽ, trong kỷ nguyên toàn cầu này, triết học không thể đứng ngoài các vấn đề của KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 57
  57. toàn cầu hóa, đặc biệt là các vấn đề về bản chất, nội dung, đặc điểm, nguyên nhân của toàn cầu hóa; tác động của toàn cầu hóa, cả theo hướng tích cực lẫn tiêu cực, đến cuộc sống con người, trong đó không thể thiếu đời sống tinh thần. Với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, triết học không thể không tham gia vào đời sống chính trị - xã hội của đất nước, nhất là vấn đề giữ vững sự ổn định về chính trị - xã hội, bảo vệ độc lập dân tộc trước âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; xác định định hướng phát triển cho đất nước; thực hiện dân chủ hóa và nhân văn hóa đời sống xã hội; phát triển kinh tế tri thức vì sự phát triển bền vững của đất nước; phát triển con người Việt Nam toàn diện; bảo vệ và cải thiện môi trường sống; thực hiện an sinh xã hội; giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh mở cửa, hội nhập quốc tế, giao lưu và tiếp biến văn hóa, 2. Đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy cho một đối tượng đặc thù là học viên cao học và nghiên cứu sinh triết học, chúng ta không thể không tính đến các chức năng vốn có của triết học, ngoài hai chức năng cơ bản nhất là thế giới quan và phương pháp luận của nó, như chức năng chuẩn mực và phê phán, chức năng định hướng, chức năng tiên đoán khoa học và tổng hợp tri thức, với tư cách một cơ sở lý luận. Bởi lẽ, với các chức năng vốn có này, triết học không chỉ mang lại cho người học cách tiếp cận phức hợp, liên ngành trong việc nhận thức bản chất, xu hướng vận động và phát triển của đời sống xã hội, của thực tiễn sống động, luôn vận động và phát triển theo những quy luật của nó, mà còn đem lại cho họ khả năng phản ánh những vấn đề này một cách đúng đắn, khoa học theo quan điểm phát triển, toàn diện và lịch sử - cụ thể để từ đó, giúp họ có thể góp phần tích cực vào việc xây dựng và luận chứng về phương diện lý luận cho các phương thức giải quyết chúng một cách hợp lý và có hiệu quả nhất. Để thực hiện các chức năng vốn có này và thể hiện rõ vai trò là thế giới quan, phương pháp luận cho hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của mình, bản thân triết học không chỉ cần phải tự đổi mới để mang lại cho mình một diện mạo mới, một sắc thái mới, một sự phát triển mới, mà còn phải tuân theo một triết lý mới về sự phát triển bền vững, hướng tới bản chất nhân văn, tính nhân đạo, khát 58 ÑAÏI HOÏC QUOÁC GIA TP. HCM BOÄ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO
  58. vọng dân chủ, tự do và bình đẳng với tư cách những thuộc tính vốn có của cả cộng đồng nhân loại và của mỗi con người. Hơn thế nữa, triết học còn phải trở thành và nhất thiết phải trở thành trung tâm cho quá trình thống hợp văn hóa trên cơ sở thay đổi lối triết lý một chiều truyền thống của mình. 3. Trên thực tế, trong kỷ nguyên toàn cầu này, khi cả cộng đồng nhân loại, mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi con người đều phải đối diện với những nguy cơ và thách thức của toàn cầu hóa, với tính chất nan giải của những vấn đề toàn cầu. Thế nhưng, trong nghiên cứu và giảng dạy triết học đã có không ít người cho rằng, triết học không đóng vai trò gì, không có tác dụng thiết thực nào đối với việc giải quyết những vấn đề toàn cầu. Theo họ, do đối tượng của triết học quá chung, quá cao siêu và thêm nữa, triết học không có phương pháp và thiết bị nghiên cứu riêng của mình như các khoa học tự nhiên nên tính chân lý trong các kết quả nghiên cứu triết học không được đảm bảo, sức hấp dẫn, sự lôi cuốn người học trong giảng dạy triết học không cao. Trái ngược với quan điểm này, không ít người lại tuyệt đối hóa hoặc quá đề cao vai trò của triết học trong đời sống khi khẳng định rằng, chỉ cần nắm được triết học thì sẽ giải quyết được tất cả các vấn đề cụ thể của cuộc sống, kể cả những vấn đề nan giải nhất. Điều này khiến người học tỏ ra nghi ngờ và thiếu tin tưởng vào vai trò của triết học trong đời sống và do vậy, hiệu quả nghiên cứu và giảng dạy triết học không cao. Cả hai thái cực này đều cần phải được tính đến khi đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy cho học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành triết học nhằm giúp cho họ có được nhận thức đúng đắn rằng, trong kỷ nguyên toàn cầu này, để giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề cụ thể của cuộc sống, cần phải có sự kết hợp chặt chẽ cả hai loại tri thức: tri thức chung, trong đó tri thức triết học là hết sức cần thiết và tri thức khoa học chuyên ngành (bao gồm cả sự hiểu biết thực tiễn và kỹ năng nghề nghiệp được thể hiện qua sự hiểu biết thực tiễn đó). Thêm nữa, việc đổi mới nội dung các chuyên đề triết học cũng cần phải khắc phục cả hai thái cực nhìn nhận này về vị trí và vai trò của triết học trong đời sống để sao cho người đọc có được sự nhận KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO KHOA HOÏC QUOÁC GIA 2015 59