Giáo trình Văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX (Phần 2) - Nguyễn Phong Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX (Phần 2) - Nguyễn Phong Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_van_hoc_viet_nam_giai_doan_nua_cuoi_the_ky_xix_ph.pdf
Nội dung text: Giáo trình Văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX (Phần 2) - Nguyễn Phong Nam
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU 1. Cuộc đời và sự nghiệp Trong tiến trình vận động của văn học Việt Nam giai đọan cuối thế kỷ XIX, Nguyễn Đình Chiểu giữ một vị trí rất quan trọng. Ông là nhà văn có ảnh hưởng sâu rộng đối với sự phát triển của văn học dân tộc nói chung, văn học Nam bộ nói riêng. Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 1 tháng 7 năm 1822 (Nhâm Ngọ) tại Gia Định. Tên chữ của ông là Mạnh Trạch, hiệu là Trọng Phủ và Hối Trai. Thân phụ của Nguyễn Đình Chiểu là Nguyễn Đình Huy, nguyên quán ở huyện Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nguyễn Đình Huy từng phục vụ dưới trướng Tả quân Lê Văn Duyệt trong nhiều năm; từ lúc tướng quân họ Lê còn làm quan ở kinh đô cũng như khi được điều vào làm Tổng trấn Gia Định. Sau khi Lê Văn Duyệt chết, vào thời điểm nổ ra cuộc bạo động chống lại triều đình do Lê Văn Khôi (vị con nuôi của quan Tổng trấn) cầm đầu vào năm 1833, Nguyễn Đình Huy sợ bị liên lụy phải bỏ cả gia đình chạy về kinh. Một thời gian sau đó, ông trở về Nam tìm cách đưa Nguyễn Đình Chiểu ra Huế và gửi nhờ gia đình một người quen. Sau một thời gian khá dài nương náu ở Huế, năm 1840, Nguyễn Đình Chiểu quay về Gia Định sống với mẹ (bà Trương Thị Thiệt, vợ lẽ của Nguyễn Đình Huy) và dùi mài kinh sử chờ ngày thi. Khoa Kỷ Mão (1843), Nguyễn Đình Chiểu đậu Tú tài ở trường thi Gia Định. Năm đó ông mới ngoài hai mươi tuổi. Ba năm sau, ông ra Huế chờ dự kì thi Kỷ Dậu (1849), nhưng chưa kịp dự thi thì nhận được tin mẹ mất, phải trở về Nam để cư tang. Trên đường hồi Nam, ông ốm nặng, sau đó bị mù. Trong khoảng thời gian từ 1853 - 1854, ông sống tại Gia Định cùng với vợ (bà Lê Thị Điền); mãi cho đến khi thành này thất thủ vào tay người Pháp thì ông về trú ngụ tại làng Thanh Ba, Cần Giuộc (nay thuộc tỉnh Long An). Kể từ 1862 trở đi, khi triều Nguyễn ký Hiệp ước cắt 3 tỉnh miền Đông 40
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX cho Pháp thì ông cùng gia đình lại chuyển đến Ba Tri (nay thuộc tỉnh Bến Tre). Nguyễn Đình Chiểu là bậc trí thức có uy tín, có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống cộng đồng. Ông được coi là một trong những người chủ xướng phong trào yêu nước chống Pháp vùng Nam bộ (làm mưu sĩ cho các thủ lĩnh kháng chiến, phát động những cuộc di tản, "tị địa" để tẩy chay kẻ thù xâm lược ), mở trường dạy học, làm thuốc trị bệnh cứu người, sáng tác văn chương truyền bá đạo lý Mặc dù bị mù lòa bệnh tật, song con người đó đã không cam chịu, không chấp nhận số phận mà tìm cách vượt lên, làm những việc hữu ích cho xã hội. Ông trở thành kẻ hướng đạo và chạy chữa cho mọi người với một niềm tin tưởng sắt đá vào sự chiến thắng của chính nghĩa, của cái thiện. Nguyễn Đình Chiểu là danh nhân văn hóa của dân tộc. Ông đã đạt được thành quả lao động xuất sắc trên nhiều lĩnh vực khác nhau: giáo dục, y học và văn học. Trên cương vị người thầy, Nguyễn Đình Chiểu đã đào luyện được nhiều thế hệ học trò có phẩm chất tốt. Đạo đức, uy vọng của ông đã thấm sâu vào các môn sinh, góp phần hun đúc "nguyên khí" cho vùng đất mới phương Nam. Với tư cách nhà văn, ông đã có những đóng góp quan trọng cho văn học dân tộc bằng sự nghiệp trứ tác của mình. Ngay cả trong lĩnh vực y học, ông cũng đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Tác phẩm Ngư Tiều y thuật vấn đáp là một hiện tượng lạ trong kho tàng y văn truyền thống của dân tộc. Cuốn sách này chứa đựng nhiều điều khiến ta phải ngạc nhiên, thán phục về tầm quảng bác, sự uyên thâm của tác giả. Đây rõ là một tác phẩm văn học nhưng lại cũng là một cuốn sách thuốc rất độc đáo. Nó không chỉ chứa đựng một quan niệm tiến bộ về đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, mà còn tỏ rõ sự thông hiểu, am tường rất mực của ông trong nghề thuốc. Không hiểu ông đã kịp tích lũy được một khối lượng tri thức y học hết sức phong phú như vậy (gồm cả kinh nghiệm chữa bệnh dân gian, y văn Việt Nam và Trung Quốc) vào lúc nào để có thể tập hợp, trình bày cặn kẽ trong cuốn sách đồ sộ đến thế. Bởi từ năm 27 tuổi ông đã bị mù, đến 38 tuổi thì bị cuốn vào cảnh tao loạn, điều kiện để tiếp xúc với sách vở, tài liệu rõ ràng là rất hạn chế. Chỉ riêng điều đó cũng có thể thấy cái quyết tâm, nghị lực phi thường của ông trong cuộc sống. Cái mục đích học tập, tu luyện của Nguyễn Đình Chiểu thật đáng trân trọng. Bài học đầu tiên về Nguyễn Đình Chiểu chính là bài học về cách sống. Sự sống là điều quý giá nhất, dù trong hoàn cảnh nào cũng phải biết quý trọng và gìn giữ nó; phải biết vượt qua mọi bế tắc tuyệt vọng để giành lấy một cuộc sống đẹp, có ích. 41
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương sáng về lòng yêu quê hương đất nước. Tình nghĩa dân quốc sâu nặng đã trở thành một "phẩm chất" của con người này. Cũng vì thế mà ông đặc biệt nhạy cảm trước mọi vấn đề thuộc về đời sống chính trị xã hội và biết cách xử lý các tình huống đúng đắn, chính xác. Vào thời điểm cả nước đang xao xác vì cái tin triều đình ký hiệp ước nhường đất Nam Kì, Nguyễn Đình Chiểu, với trực cảm của một nhà Nho chân chính, suốt đời gắn bó với đất nước quê hương, đã ngay lập tức nhận ra sai lầm của nhà cầm quyền. Suy nghĩ về sứ mạng kẻ sĩ, trách nhiệm con dân của ông rất rõ ràng: "Mến nghĩa bao đành làm phản nước/ Có nhân sao nỡ phụ tình nhà?". Cái đạo lý lớn lao nhất, có ý nghĩa nhất ở đời là "đạo" yêu nước, là đại nghĩa; cho nên ông không chấp nhận lối hành xử bạc nhược của triều đình. Cắt đất cho giặc là bỏ nước, cũng có nghĩa là bất nhân phi nghĩa. Đây chính là nguyên do khiến ông kiên quyết đứng về phe chủ chiến, khởi xướng phong trào "tị địa". Bước đường phiêu bạt của ông hòa vào dòng người bồng bế dắt díu nhau rời khỏi quê hương đã thể hiện rất rõ thái độ "bất cộng đái thiên" đối với kẻ thù; mặt khác, nó cũng chứng tỏ tấm lòng son sắt của ông đối với đất nước. Lòng yêu nước đã soi rọi cho bước chân của người trí thức mù loà hòa nhập vào đúng xu hướng tiến lên của lịch sử. Vào thời điểm ấy, cả dân tộc được đặt trước ngã ba, ngã bảy của sự lựa chọn. Lối đi mà Nguyễn Đình Chiểu đã chọn: cùng với nhân dân chống Pháp xâm lược, chống triều đình bán nước cũng chỉ là một. Và lịch sử đã chứng minh tính đúng đắn của sự lựa chọn này. 2. Tác phẩm văn học của Nguyễn Đình Chiểu Di sản văn chương của Nguyễn Đình Chiểu để lại cho hậu thế rất phong phú. Tuy nhiên, do sớm bị mù lòa, ông sáng tác trong điều kiện hết sức khó khăn; không thể tự mình viết, phải dựa chủ yếu vào trí nhớ để làm ra tác phẩm rồi nhờ người thân ghi chép lại. Công việc sáng tạo nghệ thuật theo phương thức này rõ ràng là đầy cực nhọc và kém hiệu quả. Trước hết là những khó khăn trong khâu chỉnh sửa, hoàn thiện tác phẩm. Đối với Nguyễn Đình Chiểu thì đây là công đoạn tốn nhiều công sức nhất và trở ngại do vậy cũng sẽ lớn hơn rất nhiều so với các tác giả khác. Điều này rõ ràng có ảnh hưởng đến độ trau chuốt, sự tinh xảo (nhất là về mặt ngôn từ) của tác phẩm. Ngoài ra, cũng vì ông không để lại thủ bút cho nên việc nghiên cứu, tiếp nhận tác phẩm rất khó khăn. Từ trước tới nay, việc xử lý văn bản tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu luôn là một thách đố đặt ra cho giới nghiên cứu. Sự nghiệp trứ tác của Nguyễn Đình Chiểu gồm hai mảng chủ yếu: các bài thơ, văn tế và các truyện thơ Nôm. Mặc dù chúng được sáng tác trong 42
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX nhiều thời điểm, đề cập đến những vấn đề khác nhau của đời sống xã hội thế nhưng lại rất nhất quán, rất thống nhất về cảm hứng chủ đạo, về tư tưởng nghệ thuật. Có thể gọi đó là sự quán xuyến của tư tưởng "nhân nghĩa Nguyễn Đình Chiểu" - một giá trị tinh thần độc đáo mà nhà văn đã thể hiện qua các hình tượng nghệ thuật của mình. Tư tưởng này thấm đẫm trong tất cả mọi tác phẩm, từ các bài thơ, văn tế cho đến những truyện thơ quy mô lớn. Các dạng thức biểu hiện tuy khác nhau song cái cốt lõi chỉ là một. Có khi nhà văn tập trung vào việc biểu dương cái thiện, đấu tranh chống lại cái ác trong phạm trù đạo đức xã hội; lại có khi ông tập trung vào việc biểu dương lòng yêu quê hương xứ sở, đất nước ông bà; đấu tranh chống lại những kẻ độc ác làm hại nhân dân, những biểu hiện thuộc phạm trù chính trị xã hội. Biện chứng trong tư tưởng của tác giả là: Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương. Ông đã dồn hết tất cả nỗi căm phẫn, khinh ghét của mình (ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm) vào những gì làm hại dân. Cái chuẩn để ông bộc bạch thái độ yêu ghét của mình là vì dân. Cái độc đáo, nét khu biệt trong tư tưởng Nguyễn Đình Chiểu là ở đó. Nguyễn Đình Chiểu ý thức rất rõ trách nhiệm, sứ mạng của người cầm bút. Điều này được ông khái quát trong câu thơ bất hủ, mang ý nghĩa một tuyên ngôn nghệ thuật: Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà. Đấy cũng là tư tưởng bao trùm, có ý nghĩa xuyên suốt trong mọi tác phẩm của ông. 2.1. Thơ, văn tế Căn cứ vào tư liệu hiện có, số lượng các bài thơ, văn tế của Nguyễn Đình Chiểu không nhiều. Tất cả chỉ gồm 46 đơn vị tác phẩm: 1 bài hịch (Thảo thử hịch), 1 bức thư (Ký bào đệ thơ); 3 bài văn tế (Tế Cần Giuộc sĩ dân trận vong văn, Điếu Trương tướng quân văn, Lục tỉnh sĩ dân trận vong văn) còn lại là các bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật (trong đó có 2 bài liên hoàn: Điếu Trương tướng quân liên hoàn thập nhị thủ và Điếu Ba Tri đốc binh Phan công trận vong thập thủ). Danh mục tác phẩm nêu trên cho ta thấy chủ đề trong thơ, văn tế của Nguyễn Đình Chiểu rất tập trung. Phần lớn sáng tác của ông đều hướng đến việc ngợi ca những gương anh hùng nghĩa sĩ quên thân vì đại nghĩa, nỗi xót xa trước cảnh đất nước bị họa xâm lăng và lòng căm giận kẻ thù xâm lược. Đây cũng là phần đóng góp xuất sắc của ông vào dòng văn học yêu nước - dòng chủ lưu của văn học Việt Nam giai đoạn này. 43
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Trong mảng thơ, văn tế của Nguyễn Đình Chiểu thì các khúc ca bi tráng về những con người nghĩa dũng buổi đầu kháng Pháp là những áng văn chương có giá trị nổi bật nhất. Với nhóm tác phẩm này, lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, hình tượng người anh hùng kiểu mới của thời đại đã xuất hiện và đi vào bất tử. Đó là các lãnh tụ của phong trào chống giặc giữ nước, bảo vệ dân lành: Làm người trung nghĩa đáng bia son Đứng giữa càn khôn tiếng chẳng mòn Cơm áo đền rồi ơn đất nước Râu mày giữ vẹn phận tôi con Tinh thần hai chữ phau sương tuyết Khí phách ngàn thu rỡ núi non Gẫm chuyện ngựa Hồ chim Việt cũ Lòng đây tưởng đó mất như còn (Điếu Ba Tri đốc binh Phan công trận vong thập thủ, bài X) Những bậc nghĩa dũng như Trương Định, Phan Tòng, Hồ Huân Nghiệp đúng là những nhân cách cao cả, đã tỏa sáng trong một giai đoạn lịch sử đầy cam go của dân tộc. Họ tôn thờ đạo lý, coi trọng cương thường, nhưng không phải là người cố chấp, câu nệ. Khi phải đối mặt với thực tế nghiệt ngã, cần lựa chọn, họ dám khẳng khái kháng chỉ, trái mệnh vua để "theo bụng dân" chống xâm lược, chống đầu hàng. Trước cơn vận ách của nước nhà, bậc sĩ phu sẵn sàng đứng ra gánh vác trọng trách với tâm niệm: Vì nước tấm thân đã gửi còn mất cũng cam/ Giúp đời cái nghĩa đáng làm nên hư nào nại. Những con người dám xả thân vì đại nghĩa đó đã hiện diện trong văn chương cụ Đồ Chiểu với một khí phách hào hùng, quả cảm. Nguyễn Đình Chiểu là người đầu tiên và cũng là người duy nhất xây dựng thành công hình tượng người nông dân yêu nước chống xâm lược trong văn học Việt Nam thời trung đại. Bằng những bài văn tế xuất sắc, ông đã tạo dựng tượng đài cho người nghĩa dân, những kẻ thuộc giai tầng hèn kém nhất trong xã hội. Bức chân dung ấy được dựng bằng một tấm lòng nhân hậu vô bờ, một sự ngưỡng mộ sâu sắc và một tài năng trác tuyệt. Ông đã đưa thể loại văn tế tiến những bước nhảy vọt. Người đương thời đánh giá rất cao văn nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu qua các bài văn tế này. Tùng Thiện vương Miên Thẩm đọc điếu văn của ông đã phải thốt lên: Quốc ngữ danh tề Manh Tả sử Quỷ hùng ca đáo Khuất Bình ai (Đọc Điếu văn nghĩa dân tử trận của Nguyễn Đình Chiểu) 44
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Lời của bậc vương giả so sánh văn chương Đồ Chiểu với những Tả Khâu, Khuất Nguyên - hai nhân vật lừng danh trong lịch sử văn hóa Trung Hoa cổ không phải là ngoa ngôn. Văn tài cũng như "thốn tâm đan" (tấc lòng son) mà Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện trong các bài văn tế xứng đáng được đề cao như vậy. 2.2. Truyện thơ nôm Di sản truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu gồm 3 tác phẩm: Ngư Tiều y thuật vấn đáp; Dương Từ Hà Mậu và Lục Vân Tiên. Đây là một con số rất ấn tượng bởi trong giới văn nhân nước ta thời trước, chỉ có hai người đạt đến con số này(1). Các truyện thơ của ông đều ở trong tình trạng không có di cảo và cũng không thể xác định được thời điểm sáng tác cụ thể vào lúc nào. Truyện Ngư Tiều y thuật vấn đáp (tên đầy đủ là Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca) dài tới 3642 câu lục bát, ngoài ra còn kèm thêm 21 bài thơ Đường luật, rất nhiều phụ chú, trích dẫn từ các sách thuốc cũ của Trung Quốc. Đây là tác phẩm về nghề thuốc, được diễn đạt dưới dạng vấn đáp cho sinh động, diễn ca cho dễ nhớ, dễ phổ biến. Toàn bộ những kiến thức y học, đạo lý nghề y được trình bày một cách khúc chiết, rành rẽ trên nền một tác phẩm văn học: câu chuyện hai người tầm sư học đạo nhằm mục đích cứu đời, cứu người. Bởi thế, có thể xem Ngư Tiều y thuật vấn đáp là một cuốn sách y - văn học. Cốt truyện tác phẩm này đặc biệt ở chỗ những yếu tố chuyên môn (y học) được lồng ghép hết sức khéo léo vào trong các sự kiện mang tính lịch sử, thế sự một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn. Điều lý thú nữa là mặc dù mang đầy đủ tính chất một giáo trình y học, thế nhưng dư âm của thực tại (hoàn cảnh lịch sử dân tộc những năm năm mươi, sáu mươi thế kỷ XIX) lại in dấu ấn rất rõ trên từng trang, từng dòng của tác phẩm. Nhân vật chính trong tác phẩm là Mộng Thê Triền và Bào Tử Phược (những tên gọi có nhiều ẩn ý). Cuộc đời của họ thực sự là những ẩn dụ về nỗi khổ "vợ bìu con ríu". Mộng Thê Triền làm tiều phu núi Bạch Vân, mới 40 tuổi mà lấy vợ những 5 lần. Bốn đời vợ trước chết yểu, người thứ năm cũng đang lâm cảnh ốm đau bệnh tật đến cùng bần khốn khổ. Bào Tử Phược làm ngư ông ở Đông Xuyên, 30 tuổi, có 10 đứa con thì hữu sinh vô dưỡng đến 8 đứa. Hai kẻ bất hạnh về đường thê tử này gặp nhau, cảm thông cảnh ngộ của nhau và cùng phát nguyện đi tìm danh y học thuốc nhằm cứu mình và giúp đời. Qua môi giới của một người có tên Đạo Dẫn, họ gặp Kì Nhân Sư, một bậc thánh trong nghề thuốc. Ông thầy tài giỏi này có một lai lịch 45
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX thật ly kì: do quê nhà bị ngoại xâm, đất đai bị vua cắt bồi cho giặc nên mới tìm cách lánh mình, không cộng tác với kẻ thù. Không những thế, ông còn tự mình xông mù mắt để khỏi chứng kiến cảnh "sinh dân nghiêng nghèo", khỏi phải nhìn thấy "kẻ thù quân thân", tránh cái nhục làm tay sai cho giặc nước. Mặc dù khí khái như thế, nhưng Kì Nhân Sư lại chịu thu nhận hai vị Mộng và Bào làm đệ tử, đào luyện họ thành tài. Hai chàng về sau cũng nối được nghiệp thầy, trở thành những danh y, giúp được nhiều người, bản thân vinh hiển. Về phương diện văn học, Ngư Tiều y thuật vấn đáp có nhiều điểm đáng lưu ý. Mặc dù câu chuyện được tác giả xác định thuộc thời xa xưa bên xứ Tàu với những tên người tên đất cụ thể nhưng thực ra thì mọi thứ đều là sự phóng chiếu từ thực tại Việt Nam. Tất cả đều không nằm ngoài sự ám chỉ triều Nguyễn đớn hèn cắt đất Nam kì cho giặc Pháp sau hàng ước 1874, dẫn đến cảnh dân tình lục tỉnh tỵ nạn Những nỗi niềm ưu tư của nhà thơ trước vận nước được gửi gắm qua những hình tượng mang tính ẩn dụ trong tác phẩm. Hình tượng Kì Nhân Sư trong truyện rất gần gũi với những trí thức Việt Nam chân chính, luôn quan tâm đến vận mệnh dân tộc, gắn bó mật thiết với cuộc sống của nhân dân. Vốn là người tài giỏi, Kì Nhân Sư quyết không đưa tài trí của mình ra phục vụ kẻ thù, không nỡ làm một kẻ sáng mắt ngồi nhìn sinh dân đau khổ; ông quyết làm mù mắt để giữ cái đạo sáng của mình: Thà đui mà giữ đạo nhà Còn hơn có mắt ông cha không thờ Thà đui mà khỏi danh nhơ Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình Thà đui mà đặng trọn mình Còn hơn có mắt đổi hình tóc râu Thực ra thì quá trình tranh đấu nội tâm để chọn lựa cách xử thế của nhân vật Kì Nhân Sư cũng chính là tâm sự xót xa của Nguyễn Đình Chiểu: Nói ra thì nước mắt trào/ Tấm lòng ưu thế biết bao giờ rồi. Trong Ngư Tiều y thuật vấn đáp có rất nhiều những đọan, những câu thơ mang dáng dấp tự thuật như vậy. Nỗi đau về một đất nước đã dời ngôi đổi chủ hiện diện trong thơ ông thật là da diết, quặn thắt. Đây nào phải chuyện U Yên xa lạ đâu đâu, mà là chuyện nhãn tiền nơi Nam kì lục tỉnh: Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông Chúa xuân đâu hỡi có hay không 46
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng Bờ cõi xưa đà chia đất khác Nắng sương nay há đội trời chung Một trong những bất hạnh lớn của cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu là ốm đau bệnh tật và ông thấm thía điều này hơn ai hết. Bởi vậy nên không phải ngẫu nhiên mà ông dành nhiều tâm sức để đúc kết những vấn đề thuộc về y lý, thuốc thang trong một tập sách đồ sộ như thế. Cũng chẳng phải tự dưng ông lại dành nhiều trang sách cho việc giảng giải về bệnh lý trẻ em và phụ nữ. Từ hoàn cảnh riêng của mình, ông nghiệm thấy trong cái thế giới đầy oan khổ, trong cái khối người đang cần được cưu mang này thì những kẻ đáng được bảo vệ trước nhất là trẻ em và phụ nữ. Đấy là những tư tưởng mà các nhà nhân văn lớn của nhân loại, không kể dân tộc, thời đại, đều gặp nhau. Ngư Tiều y thuật vấn đáp do vậy là một tác phẩm độc đáo và có tầm vóc tư tưởng đáng nể trọng. Truyện Dương Từ Hà Mậu cũng là một tác phẩm có dung lượng rất lớn, dài tới 3456 câu lục bát; ngoài ra còn có 35 bài thơ Đường luật xướng họa kèm thêm. Đây là câu chuyện về hai tín đồ tôn giáo (Cơ đốc giáo và Phật giáo) với những chuyến phiêu lưu đến cuối đất cùng trời để tìm lời giải cho nỗi hoài nghi lớn của mình. Chủ đề truyện là vấn đề tôn giáo, một trong những nguyên nhân tạo nên các cuộc xung đột gay gắt trong lịch sử dân tộc đọan cuối thế kỷ XIX. Hà Mậu là người theo cơ đốc giáo, vì hiếm con nên phải đi cầu cúng. Khi vợ mang thai, chàng lại nghi vợ bị quỷ ám và thế là phải tìm thầy cầu thuốc tiên để giải bệnh quỷ. Hai ông Nam Tào, Bắc Đẩu cho hay vợ Hà sẽ sinh con gái. Quả nhiên sau đó vợ chàng sinh được hai gái (đặt tên Tuyết, Băng). Từ đó họ Hà có ý định tìm hiểu về đạo tiên. Khác với Hà Mậu, Dương Từ theo đạo Phật. Vị Phật tử này cũng hiếm muộn con, phải cầu cúng mãi mới được hai trai (đặt tên Trân, Bửu). Dương Từ xuất gia, bỏ mặc vợ con nheo nhóc. Đến khi chán cảnh am vắng quạnh hiu, chàng bèn tìm đường vân du; sống nhờ hảo tâm của thiên hạ, cũng vì thế mà bị chê cười là người vô dụng. 47
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Trên đường du ngọan, họ Dương và họ Hà tình cờ gặp nhau tại chùa Linh Diệu. Hai chàng được Lão Nhan dùng phép thuật cho lên thiên đàng và xuống địa ngục để tìm hiểu về tôn giáo mà mình theo đuổi. Nơi thiên đàng, họ chỉ thấy có Khổng Tử và các môn đồ của bậc chí thánh chứ không hề gặp ai là kẻ đồng tôn giáo với mình cả. Ở địa ngục, họ gặp rất nhiều người, toàn những kẻ phạm tội trên dương thế đang phải thọ hình. Ngoài hạng người bất chính (thầy pháp, thầy thuốc, bà mụ, con buôn ), Dương Từ và Hà Mậu còn gặp cả những người chọn nhầm tôn giáo (theo đạo Giatô). Tất cả đều bị trừng trị bằng những hình phạt thảm khốc. Vừa được mục sở thị, lại nhận được nhiều lời khuyên bảo cải tà quy chính, hai người giác ngộ và quyết tâm từ bỏ đức tin để cải đạo. Trở lại trần thế, họ thành những môn đệ tốt của đức Khổng Tử. Hai họ Dương - Hà về sau thành thông gia và đời đời vinh hiển. Với một câu chuyện như thế, mục tiêu mà nhà văn hướng đến qua Dương Từ - Hà Mậu là rất rõ. Nguyễn Đình Chiểu muốn tìm giải pháp cho bài toán tôn giáo đang được đặt ra một cách cấp bách vào thời điểm này. Lời giải mà tác giả đưa ra là phê phán các tôn giáo không gắn với vận mệnh của đất nước và cổ xúy cho một cái "đạo" có tính truyền thống của dân tộc Việt Nam: đạo yêu nước. Tác giả đã dùng hình tượng nghệ thuật để "giải thích" về sự huyễn hoặc của Thiên chúa giáo, tính chất yếm thế, thụ động của Phật giáo và qua đó đề cao "đạo Ông Bà", "đạo Ta". Đây là cách thức giáo huấn, dùng văn học để thức tỉnh, thuyết phục những người mà theo nhà văn là "lỗi đạo", lầm lạc. Thực ra, trong Dương Từ - Hà Mậu, khi coi Kitô giáo và Phật giáo là "tà đạo", cái căn cứ chủ yếu mà Nguyễn Đình Chiểu dựa vào chỉ là mối quan hệ của nó đối với cộng đồng, dân tộc. Chính vì thế mà ông đã đối lập các thứ "đạo Mọi", "đạo Tây", "đạo Xằng" với chính đạo trên cơ sở trách nhiệm của con dân đối với đất nước. Và để cụ thể hóa điều này, ông "mượn" đạo Nho, đạo Thánh (Khổng Tử) - những khái niệm vốn rất quen thuộc đối với người Việt. Tuy nhiên, đấy thuần túy là những chuẩn mực đạo lý phổ biến; là thứ tư tưởng đã được cải biến, được Việt hóa thành ra một thứ "Nho giáo Việt Nam". Cái đạo này có nhiều điểm khác biệt (thậm chí có chỗ đối lập) so với Nho giáo nguyên thủy. Truyện Lục Vân Tiên được coi là tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Đình Chiểu ở thể loại truyện thơ Nôm. Đây là một trong những đỉnh 48
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX cao của văn chương cổ điển Việt Nam và chiếm giữ một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa cộng đồng. Trong tác phẩm Lục Vân Tiên, người đọc dễ dàng nhận ra nhiều tình tiết có nét tương đồng với cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu. Bởi thế, có thể suy đoán truyện thơ này được sáng tác vào lúc nhà thơ đã bị mù. Qua một thời gian khá dài lưu hành trong dân chúng, năm 1864, một võ quan người Pháp (Gabriel Aubaret) đã sưu tập những bản chép tay rời rạc rồi sắp xếp lại và dịch ra tiếng Pháp, cho in lần đầu trên Kỷ yếu châu Á. Lục Vân Tiên là câu chuyện về cuộc đời của chàng trai họ Lục, một bậc anh hùng nghĩa hiệp. Tác giả đã trình bày một cách đầy đủ, chi tiết quá trình học hành tu dưỡng, những bất hạnh phải nếm trải, mối quan hệ với mọi người của chàng Vân Tiên. Qua tác phẩm này, Nguyễn Đình Chiểu muốn nêu một bài học về đạo lý làm người, cách ứng xử trước những vấn đề cụ thể trong cuộc sống thường ngày. Có thể dễ dàng nhận ra ý đồ nghệ thuật của tác giả ngay từ những câu mở đầu thiên truyện: Trước đèn xem truyện Tây Minh Gẫm cười hai chữ nhơn tình éo le Hỡi ai lẳng lặng mà nghe Dữ răn việc trước lành đè thân sau Trai thời trung hiếu làm đầu Gái thời tiết hạnh là câu trau mình. Tác giả nói rõ: đây là chuyện "nhơn tình", chuyện đạo lý. Tuy nhiên cái đạo lý mà Nguyễn Đình Chiểu muốn truyền bá trong tác phẩm có một ý nghĩa phong phú hơn, biểu hiện của nó cũng sinh động hơn so với những khái niệm quen thuộc của Nho giáo. Chẳng hạn, tác giả có đề cập đến chữ trung, nhưng thực chất đó là trung hiếu, trung nghĩa, trung trinh. chứ không phải là "trung quân" theo nghĩa cương thường. Ngay cả việc tác giả để chàng Vân Tiên đi dẹp giặc Ô Qua theo mệnh vua thì mục đích chủ yếu vẫn là tạo điều kiện cho nhân vật chứng tỏ tài văn võ song toàn, thậm chí, chỉ là cái cớ để Vân Tiên - Nguyệt Nga sum họp là chính. Xét về bản chất, đây là hành động cứu khốn phò nguy, chống lại cái ác (giặc giã) - vốn là trách nhiệm của bậc anh hùng, trang hảo hán. Nói cách khác, Lục Vân Tiên là truyện thơ nhằm biểu dương cái thiện, là bài học về đạo lý làm người. 49
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Bao trùm toàn bộ thiên truyện là tình cảm rạch ròi của nhà văn: yêu chính ghét tà, ngưỡng mộ những con người nghĩa hiệp và căm ghét cái xấu, cái ác. Thế giới trong truyện Lục Vân Tiên là đấu trường một mất một còn giữa đạo nghĩa và bất nghĩa, vô đạo đức. Trong đó, mọi hành vi của nhân vật đều nhắm đến mục tiêu thể hiện cái nghĩa khí, cái nhân nghĩa trong mỗi con người. Chính vì thế, ở đây không có sự phân chia thứ bậc, đẳng cấp khi làm việc nghĩa. Kẻ sĩ làm việc nghĩa theo bổn phận (đã đành), mà đến cả những kẻ hèn khó nhất cũng có những hành vi, nghĩa cử rất đáng trân trọng. Dường như Nguyễn Đình Chiểu có một sự dụng tâm nào đó ngay từ việc đặt tên các nhân vật trong truyện. Đối với những người dân bình thường nơi thôn dã, ông đặt tên họ theo lối "vô danh hóa" (ông Tiều, ông Ngư, Tiểu đồng ) để ngầm chỉ rằng họ là tầng lớp làm việc nghĩa đông đảo nhất, vô tư nhất; đến mức không thể nhớ hết, kể đếm hết. Nhân vật đạo đức trong Lục Vân Tiên đáng quý đáng yêu ở tấm lòng trong sáng, nhiệt thành hiếm thấy. Họ thường ra tay cứu khốn phò nguy như một lẽ tự nhiên, một việc tất yếu phải làm. Cái động cơ chi phối cách hành xử của họ là vì nghĩa: Nhớ câu kiến ngãi bất vi/ Làm người thế ấy cũng phi anh hùng. Điều này trở thành nguyên tắc hoạt động cho mọi nhân vật trong truyện, cả nhân vật chính lẫn nhân vật phụ. Nhân vật Ông Quán chẳng hạn, đúng là một mẫu người khác thường bởi có quá nhiều dị biệt so với đồng nghiệp. Làm chủ quán nhưng không màng lợi lộc, tính tình hào phóng, khí khái, sẵn sàng giúp đỡ kẻ hoạn nạn mà chả tính gì đến việc có được đền đáp hay không. Đấy chính là một trang nghĩa hiệp cải dạng thì đúng hơn. Hoặc nhân vật Tiểu đồng cũng thế. Xét về vị thế xã hội, con người này thuộc hàng thấp kém nhất (bởi đây là gia nhân, hạng tôi tớ, phận con đòi), thế nhưng nhân vật này lại có những biểu hiện vì nghĩa rất độc đáo. Tình cảm của Tiểu đồng đối với Vân Tiên đã vượt ra ngoài quan hệ chủ - tớ. Đấy là cách ứng xử của những con người biết trọng đạo nghĩa. Trong Lục Vân Tiên các nhân vật phản diện được xây dựng như một phép tương phản để tô đậm thêm vẻ đẹp đạo đức của các nhân vật chính. Các nhân vật phản diện, dưới những biểu hiện khác nhau (Trịnh Hâm: nhỏ nhen, thù vặt; Bùi Kiệm: dâm dục, tầm thường, đê tiện; nhà Thể Loan: lọc lừa, phản trắc; Thái sư: nham hiểm ) được thể hiện dưới một cái vỏ chung: bất nghĩa, bất nhân, là người xấu. Thái độ của Nguyễn Đình Chiểu đối với hạng người này là rất rõ ràng, quyết liệt. Ông dành những câu chữ nặng nề, gay gắt nhất để lên án, phê phán, không có bất cứ một chút khoan nhượng nào. 50
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX 2.3. Nghệ thuật truyện thơ Nôm của Nguyễn Đình Chiểu Truyện thơ Nôm của Nguyễn Đình Chiểu có sức cuốn hút rất lớn đối với mọi người Việt Nam không chỉ vì những tư tưởng triết lý sâu sắc, lý tưởng nhân văn cao cả mà còn bởi giá trị nghệ thuật độc đáo của nó. Nét đặc sắc trong các tác phẩm nghệ thuật này được bộc lộ chủ yếu ở ba phương diện: cốt truyện mới mẻ, hình tượng nghệ thuật sinh động và ngôn từ có khả năng biểu đạt cao. Chính các yếu tố thuộc phương diện nghệ thuật, thi pháp thể loại đã khiến cho những câu chuyện đạo lý của ông có sức thuyết phục mạnh mẽ; trở thành lối truyện giáo huấn mẫu mực, điển hình. Thực ra thì giáo huấn bằng văn chương, giáo huấn thông qua hình tượng nghệ thuật không phải đến Nguyễn Đình Chiểu mới có. Đây là một trong những chức năng chủ yếu của văn học trung đại. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là quy mô, tính hệ thống và mức độ tập trung của lối văn chương giáo huấn, luận đề trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu - một quy mô rộng lớn, toàn diện, một hệ thống chặt chẽ, thống nhất cao độ. Ông đã tạo ra được một phong cách nghệ thuật độc đáo của riêng mình. Điểm sáng tạo đáng kể trước hết của Nguyễn Đình Chiểu là cốt truyện. Truyện thơ Nôm Việt Nam thường được hình thành theo lối chuyển thể, cải biên; nghĩa là trên cơ sở một cốt truyện tiền thân, người ta sẽ thay đổi cách thức diễn đạt để tạo nên một tác phẩm thuộc loại hình mới, vừa có đặc điểm truyện kể lại vừa mang tính chất của một tác phẩm thơ ca. Nhưng đối với Nguyễn Đình Chiểu thì khác. Truyện của ông, mỗi trường hợp là một sự sáng tạo riêng biệt về cốt truyện. Mặc dù mở đầu Lục Vân Tiên tác giả có viện dẫn ("Trước đèn xem truyện Tây minh") nhưng thực tế không hề có sẵn một tác phẩm nào tương tự như thế trong kho tàng văn chương Trung Quốc lẫn văn chương Việt Nam. Lục Vân Tiên là tác phẩm có cốt truyện theo dạng cổ tích (một sự mô phỏng cốt truyện cổ tích); Dương Từ Hà Mậu lại có cốt truyện theo lối phiêu lưu, viễn du hiện đại; cốt truyện Ngư Tiều y thuật vấn đáp thì pha trộn nhiều dạng thức (với mô hình một cuộc đối đáp, trò chuyện) Cũng giống như mọi tác phẩm khác thuộc loại hình truyện thơ Nôm, cốt truyện của Nguyễn Đình Chiểu cũng được tổ chức theo mô hình quan hệ nhân - quả, kết thúc có hậu; số phận nhân vật được định đoạt theo nguyên tắc “ân trả oán đền”. Đây cũng là đặc điểm chung của hầu hết tác phẩm văn học trung đại thuộc phương thức tự sự; không chỉ truyện thơ nôm mà cả sân 51
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX khấu truyền thống, truyện cổ tích , cũng có hiện tượng này. Hình thức, diễn tiến cái "hậu" có thể khác nhau (có khi do con người thực hiện, có khi phải cậy đến thần linh, nhờ những thế lực siêu nhiên trợ giúp, có lúc xảy ra nơi trần thế, lại có khi xảy ra nơi thiên đường, địa phủ ) song chung quy, cái âm vang chiến thắng của cái thiện và sự lụi tàn, diệt vong của cái ác là không thể thiếu. Điều này tồn tại như một nguyên tắc nghệ thuật. Lối tổ chức cốt truyện này vốn có căn nguyên sâu xa từ trong quan niệm nhân sinh của người Việt Nam. Cái triết lý "nhân" nào "quả" ấy, "thiện giả thiện báo ác giả ác báo" đã tác động trực tiếp đến quan niệm nghệ thuật của nhà văn và được thể hiện qua hệ thống các hình tượng. Đây đúng là một quan niệm đầy tinh thần lạc quan lành mạnh và vững chắc của nhân dân. Nguyễn Đình Chiểu đã dùng các truyện của mình để lý giải và chứng minh tính tất yếu của quy luật nhân quả. Theo ông, giữa kết quả và nguyên nhân của mọi sự vật, hiện tượng ở trên đời này luôn có mối quan hệ qua lại, chế ước lẫn nhau rất chặt chẽ. Đối với con người, họa và phúc bao giờ cũng bắt nguồn từ chính trong hành vi ứng xử của mình. Tư tưởng này đã chi phối triệt để cách thức, nguyên tắc sáng tạo của nhà văn. Không phải ngẫu nhiên mà trong các truyện thơ Nôm, ông luôn cố gắng để trình bày số phận nhân vật một cách hoàn chỉnh, trọn vẹn. Bởi vì khi kéo dài, mở rộng cuộc đời nhân vật, tác giả có điều kiện tốt nhất để chứng minh một cách thuyết phục quy luật nhân quả. Họa và phúc luôn có nguyên nhân, có quá trình chứ không hề ngẫu nhiên. Chẳng hạn ở Lục Vân Tiên, ngay đầu truyện ông đã nói rằng nhân vật Vân Tiên vốn là kết quả của một quá trình tu nhân tích đức: Có người ở quận Đông Thành/ Tu nhơn tích đức sớm sanh con hiền. Sự ra đời của nhân vật này không đơn thuần là kết quả của hôn nhân mà còn do ứng nghiệm từ công quả tu dưỡng của bố mẹ. Có thể khái quát cuộc đời của Vân Tiên từ khi xuất hiện cho đến kết thúc câu chuyện là cả một hành trình khổ ải để bồi đắp cái đức của mình ngày mỗi cao dày hơn. Cũng chính vì thế mà chàng được báo đáp, được giúp đỡ. Sự báo bổ này không cần chờ đến phần kết truyện mà nó xảy ra liên tục trong thế sóng đôi với những bất hạnh. Sau mỗi khó khăn hoạn nạn, bao giờ Vân Tiên cũng được cứu giúp: bị thả vào rừng thì có du thần dẫn ra gặp ông Tiều, bị đẩy xuống sông thì có giao long dìu vào bờ để gặp nhà thuyền chài, mắt bị mù thì có tiên ông cho thuốc Họa và phúc được trình bày như hai mặt đối lập nhau của cùng một sự kiện. Tinh thần lạc quan của Nguyễn Đình Chiểu, niềm tin vào cuộc đời, vào con người được bộc lộ rõ nhất ở đây: Trong cơn bĩ cực thới lai/ Giữ mình cho trọn việc ai chớ sờn. Nguyễn Đình Chiểu tuyệt vời biện chứng trong 52
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX quan hệ giữa bĩ và thới, giữa giữ mình và vì ai. Đây cũng là triết lý sống của nhân dân, chính xác và giản dị như chân lý. Tác giả khép lại câu chuyện bằng một viễn cảnh thật huy hoàng, trong đó những con người đức độ, có nhân nghĩa sẽ nối nhau làm chủ trên mặt đất này: Trăm năm biết mấy tinh thần/ Sinh con sau nối gót lân đời đời. Đấy là lối kết thúc có hậu đặc sắc bởi nó tạo được sự hô ứng với lai lịch của nhân vật chính trong phần đầu câu chuyện. Nó là lời khẳng định sự ngự trị vĩnh viễn của cái thiện, cái nhân nghĩa, cái đạo lý. Giữa "tiền thân" và "hậu thân" của nhân vật luôn có sự tiếp sức liên tục. Nó chứng tỏ một nguyên lý: sự sống trên thế gian này chính là sự tiếp nối thiêng liêng của điều thiện, của lòng nhân. Đây là quy luật muôn đời. Các nhân vật làm điều ác trong truyện của Nguyễn Đình Chiểu rút cuộc đều phải chịu trừng phạt, không loại trừ ai. Nhưng có một điểm đáng lưu ý là các hình phạt đối với kẻ bất nghĩa đa số đều liên quan đến hình thức gây thù oán của chúng. Tác giả xử lý vấn đề này một cách nhất quán, triệt để. Ông cố ý nhắc lại các dấu hiệu của sự kiện là nhằm để nhấn mạnh tính tất yếu của sự báo ứng, trừng phạt. Đây cũng là cách để làm nổi rõ hơn mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả. Rõ ràng là khi nhắc lại một số chi tiết như một hình thức hồi cố thì cái triết lý nhân quả sẽ nổi lên quyết liệt, riết róng hơn. Cách xử lý nghệ thuật như thế không phải ở truyện thơ nôm nào cũng có. Hình thức trừng phạt ở các truyện của Nguyễn Đình Chiểu khá độc đáo. Có cảm giác ông né tránh, không muốn để con người tham gia trực tiếp vào chuyện báo thù. Và vì thế ông tìm đến những giải pháp thật kì khôi. Chẳng hạn mẹ con Thể Loan bị hai con cọp chặn đường, nhưng khác với tập tính giống loài của dã thú, hổ phải cõng người vào hang, lấy đá lấp hang, xong đâu đấy mới bỏ đi. Trong Ngư Tiều y thuật vấn đáp, hình phạt mà tội nhân phải chịu bao giờ cũng liên quan đến hành trạng lúc trước của chúng: Lão Đậu, một kẻ dốt nát trong khoa trị liệu bệnh đậu mùa "hai đời gây nợ oan gia để dồn" thì bị trừng trị bằng cách để cho lũ âm hồn "kéo đầu đòi mạng lấy côn khỏ đầu" (câu 3112). Lão Cứu hành nghề châm cứu, tham tiền làm ẩu (đấy là điển hình cho loại thầy thuốc mà tác giả gọi là "quá cha giặc mùa") thì bị "kim châm lửa đốt nát da". Lão Tam Sao làm nghề bào chế, sao tẩm thuốc, cũng là một tay đạo tặc trong chốn y lâm; cái tội của lão ngoài sự tráo trở bớt xén, còn là lừa đảo, là kẻ "miệng lưỡi già", đem "cây lá tầm phào" lừa mị dân chúng Với tội danh ấy, lão bị "quay chân vả miệng trả 53
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX khi già hàm" (câu 3238). Bọn thầy pháp, thầy thuốc cao đều bị xử theo nguyên tắc như thế. Còn ở truyện Dương Từ - Hà Mậu, ông lại tạo ra một cảnh địa ngục lạ lùng nhất trong văn chương Việt Nam để trừng phạt kẻ xấu. Truyện thơ nôm Việt Nam có một số tác phẩm nói chuyện địa ngục, song không có tác phẩm nào trình bày được đầy đủ, chi tiết, sinh động với quy mô lớn, ý nghĩa triết lý sâu sắc như trong truyện này. Cái đại pháp trường được dựng nên ở đây là nhằm để xử tất cả mọi tội nhân trên dương thế. Điều cốt yếu mà Nguyễn Đình Chiểu muốn trần tình với mọi người qua cảnh tượng âm ty rùng rợn này là: kẻ làm điều ác nhất định sẽ phải trả giá; những hành vi nhơ nhớp, tội lỗi dù xảy ra ở đâu, vào lúc nào cũng không thể lẫn tránh, che đậy được. Nguyễn Đình Chiểu tỏ ra rất có ý thức trong việc sáng tạo cốt truyện mới (yếu tố cốt lõi của một tác phẩm thuộc loại hình truyện kể). Ông đã bước qua giới hạn của quy phạm thể loại (truyện thơ Nôm) một cách tự tin. Có thể xem đây như một sự thể nghiệm, một bước cách tân đáng kể của nhà văn ở phương diện hình thức thể loại. Trên nền tảng cốt truyện này, tác giả đã xây dựng một thế giới nghệ thuật đặc thù, thế giới của những giá trị đạo đức. Nguyễn Đình Chiểu dồn nhiều công sức hơn cả cho việc xây dựng hình tượng nhân vật. Điều đặc biệt ở đây là chúng gần như được đồng nhất với các khái niệm thuộc phạm trù đạo đức; trở thành các biểu tượng đạo lý. Phẩm chất đạo đức trở thành cái chuẩn, cái khuôn thước để nhà văn sáng tạo nên nhân vật. Điều này thể hiện một cách nhất quán trong cả ba tác phẩm. Nhân vật trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu sống và họat động vì những lý do đạo đức, do vậy cái đẹp của chúng cũng khác so với các truyện thơ nôm cùng loại. Thông thường trong truyện thơ nôm, tài và sắc của các cặp giai nhân tài tử là yếu tố chi phối sự vận động của câu chuyện, là "thế năng" của tác phẩm. Cũng vì thế mà các tác giả phải dồn bút lực vào đây để mô tả ngoại mạo, phẩm chất của họ. Khác với lệ thường đó, Nguyễn Đình Chiểu không quá tập trung vào điều này. Chẳng hạn truyện Lục Vân Tiên, mặc dù Nguyệt Nga là một giai nhân và Vân Tiên là một anh tài nhưng ở đây vai trò của tài, sắc đối với sự phát triển của câu chuyện không phải là quan trọng nhất. Sự gặp gỡ của họ không phải do tài sắc tương cảm mà nên. Nguyệt Nga cảm mến Vân Tiên trước hết (và chủ yếu) là do nghĩa khí, đức 54
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX độ của chàng; còn Vân Tiên đến với Nguyệt Nga cũng không hẳn vì sắc đẹp mà vì tấm lòng chung thủy (cũng là vì nghĩa). Ngay đến điều kiện gặp gỡ tiếp xúc của họ cũng vậy. Hai người gặp nhau trong một cảnh huống hết sức đặc biệt: cảnh cướp bóc hỗn lọan. Vân Tiên, trong vai trò một bậc nghĩa hiệp cứu người, sau khi đã "dẹp xong lũ kiến chòm ong", việc đầu tiên cần làm là quan tâm đến nạn nhân. Một loạt câu hỏi được nêu ra: Hỏi ai than khóc ở trong xe này?/ Tiểu thư con gái nhà ai?/ Đi đâu đến nỗi mang tai bất kì?/ Chẳng hay tên họ là chi?/ Khuê môn phận gái việc gì đến đây? Những lời thăm hỏi này không có chút gì hơi hướng tình ái mà là ứng xử hợp lẽ, kịp thời theo đạo lý. Yếu tố tài sắc trong trường hợp này không có ý nghĩa quyết định tới câu chuyện. Nguyễn Đình Chiểu coi cái đẹp ở bình diện đạo lý đạo đức, cái đẹp nội tâm quan trọng, cao quý hơn cái đẹp hình thể. Chính vì thế mà những phẩm chất "bên trong", đời sống tinh thần của nhân vật đã trở thành phương tiện chủ yếu để tạo động lực phát triển của câu chuyện. Mục tiêu truyền bá đạo lý, đạo đức đã chi phối một cách triệt để mọi biện pháp nghệ thuật, khiến đôi lúc tác giả bất chấp logic thông thường để dựng lên những hình tượng nhân vật thật lạ lùng. Chẳng hạn các nhân vật trong Ngư Tiều y thuật vấn đáp. Trong truyện này, ngay tên nhân vật đã khác thường. Chúng được gọi bằng những cái tên riêng thật ấn tượng: Mộng Thê Triền, Bào Tử Phược, Kì Nhân Sư, Hưởng Thanh Phong, Ảnh Minh Nguyệt Ông đã biến nhân vật thành các biểu tượng và qua đó gợi ý để người nghe liên tưởng, hình dung về nhân phẩm của chúng. Các nhân vật ở đây được hình dung hoàn toàn dưới góc độ đạo lý. Hiện tượng này không phải là phổ biến trong văn học Việt Nam. Trong cách tạo dựng mối quan hệ giữa các nhân vật, Nguyễn Đình Chiểu thường chú trọng khai thác, cố ý nhấn mạnh nguyên tắc đạo lý trong ứng xử, giao tiếp. Giữa vô vàn sự việc diễn ra, tác giả lọc lấy những chi tiết, sự việc mà ở đó, nhân cách của chúng được hiển lộ rõ nhất. Cảm hứng đạo đức đã khiến nhà văn cho nhân vật của mình hành xử theo cái logic mà nếu xét xeo những chuẩn mực thông thường ngoài đời thì khó lòng được chấp nhận. Nhân vật Kim Liên (trong Lục Vân Tiên) chẳng hạn, ngay sau cơn hoạn nạn, khi phải trả lời câu hỏi (Ai than khóc ở trong xe này?) thì lời đầu tiên là: Thưa rằng tôi thiệt người ngay (LVT.139). Câu giãi bày chả ăn nhập gì với câu hỏi, song lại rất hợp lý. Nàng phải vội vã phân trần "thiệt người ngay" bởi sợ hiểu nhầm thành kẻ gian. Người hầu gái ấy đã dùng phẩm chất "người ngay" của mình làm thứ đảm bảo giá trị duy nhất cho lời nói. Hoặc 55
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX tình tiết Nguyệt Nga vẽ tượng Vân Tiên cũng vậy. Chuyện thật khó tin bởi trước đó Nguyệt Nga chỉ mới "liếc nhìn" chàng trong chốc lát, trong cảnh lúng túng vội vàng sau lúc thoát nạn; ấy thế mà nàng có thể "Làu làu một tấm lòng thành/ Vẽ ra một bức tượng hình Vân Tiên" (LVT.254). Thực ra thì logic của vấn đề không phải ở năng lực hội họa mà là "tấm lòng thành" của Nguyệt Nga. Nàng là kẻ chịu ơn và theo đạo lý thì bổn phận của nàng là khắc cốt ghi lòng cái ơn sâu đó. Bức "tượng hình" là biểu tượng của sự tri ơn, là tấm lòng thành của nàng. Nó được tạo ra nhờ sự tương cảm về đạo đức. Chi tiết nghệ thuật này do vậy, vẫn rất chân thực. Các nhân vật trong truyện của Nguyễn Đình Chiểu luôn được đặt trong những tình huống đặc biệt, những thời điểm cần đến sự quên thân vì nghĩa của họ. Mối quan tâm hàng đầu của tác giả là làm sao tạo điều kiện để nhân vật có thể bộc lộ phẩm chất đạo đức (hoặc vô đạo đức) mà thôi. Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua việc so sánh vài trường hợp cụ thể. Hầu hết các truyện thơ nôm (loại truyện diễm tình, giai nhân tài tử) đều có môtip gặp gỡ trai tài gái sắc. Không có "tiền đề" mấu chốt này thì sẽ chẳng có gì hết. Tuy vậy, mỗi tác giả lại có cách xử lý tình huống riêng (điều này do nhiều nguyên nhân chi phối). Thông thường, các cặp trai tài gái sắc kia được bố trí xuất hiện trong những khung cảnh gợi tình, lãng mạn. Riêng Nguyễn Đình Chiểu trong Lục Vân Tiên lại xử lý khác hẳn. Ông để cho Vân Tiên và Nguyệt Nga gặp gỡ nhau trong một cảnh đánh cướp (!). Không thể nói đây là khung cảnh của tình yêu mà phải gọi là màn "kì ngộ" của các số phận. Tác giả dựng tình huống này chính là dành cho những người nghĩa khí, trung tín. Cái đẹp của nhân vật Vân Tiên là sự cao thượng, vô tư. Chàng chia tay với Nguyệt Nga nhẹ nhõm, thanh thản, lòng không chút vướng bận. Trong khi trái lại, cái nết hạnh của Nguyệt Nga quý báu ở chỗ không bao giờ quên được nỗi niềm ân nghĩa. Cái logic trong hành xử mà các nhân vật phải tuân thủ ở đây là: đã làm việc nghĩa thì không cầu lợi, đã chịu ơn thì phải biết ơn, không thể phụ bạc. Trung thành với nguyên lý này, Nguyễn Đình Chiểu đã mô tả hành động của nhân vật theo một cách thức riêng. Chẳng hạn hành động nhảy xuống biển tự tử của nàng Nguyệt Nga khi bị ép cống Phiên bang. Một biến cố quan trọng như thế mà ông chỉ nói gọn trong mỗi một câu: Than rồi lấy tượng vai mang/ Nhắm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngay (LVT.1490). Trong khi cũng cảnh ngộ tương tự, thuật chuyện nàng Kiều trẫm mình ở 56
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX sông Tiền Đường, Nguyễn Du đã dựng nên cả một cơn bão tố nội tâm. Trước khi "đem mình gieo xuống giữa dòng trường giang", Kiều đã làm một cuộc rà xét lại toàn bộ cuộc đời: nghĩ đến cha mẹ, xót cho mối tình đầu, day dứt vì cái chết của Từ Hải, nhục nhã vì bỗng chốc trở thành kẻ phản trắc, hoang mang vì ám ảnh Đạm Tiên Tâm trạng nhân vật ngổn ngang muôn mối. Thành thử, trước khi đắm mình giữa trùng trùng sóng bạc Tiền Đường, Kiều đã "chìm" vì cạn kiệt sức lực. Nhân vật Nguyệt Nga của Nguyễn Đình Chiểu được trình bày theo một nguyên tắc khác. Trước hết, nàng là nhân vật của truyện kể; nhà văn không thể "giữ" nàng lâu trong mạch tiến triển tâm trạng. Bởi nếu tập trung vào phân tích nội tâm thì mạch vận động câu chuyện sẽ bị cản trở. Nhưng quan trọng hơn, vai trò của Nguyệt Nga là phải chứng tỏ cho được nguyên tắc ứng xử chịu ơn - trả ơn của một con người có đủ đức nhân. Từ ý thức về sự đền đáp mà nàng tự nguyện gắn kết đời mình với chàng. Kể từ khi nàng phát nguyện (ở nơi gặp gỡ): "trăm năm cho vẹn chữ tòng" thì cuộc đời nàng đã thuộc về Vân Tiên. Đấy là phép xử thế của kẻ trượng phu, coi trọng nghĩa khí. Kẻ sĩ khi chịu ơn ai thì dám đem cả mạng sống của mình ra mà báo đáp. Đó cũng là nguyên do nàng đứng ra làm tuần chay cúng Vân Tiên; tức là bước chuẩn bị để "xuống chốn cửu tuyền thấy nhau". Nàng đã làm mọi chuyện trong tâm thế xem mình ra đi vĩnh viễn. Nàng nói: "Thân con về nước Ô Qua/ Đã đành một nỗi làm ma đất người" (LVT.1474). Như vậy, màn tự tận ở Hàn Giang chỉ là vấn đề thời điểm mà thôi. Tác giả không dành nhiều thời gian, câu chữ để cắt nghĩa, mô tả tâm trạng là vì thế. Tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu là câu chuyện về "con người đạo đức". Quan niệm này đã chi phối trực tiếp đến việc sáng tạo, sắp xếp, tổ chức không gian, hoàn cảnh. những yếu tố có tính chất bổ trợ khác trong truyện. Không gian, thời gian luôn được trình bày theo nguyên tắc đảm bảo các điều kiện để nhân vật có thể bộc lộ phẩm chất của mình một cách thuận lợi nhất. Cũng vì vậy mà chất "phiêu lưu - xứ lạ" trong truyện của Nguyễn Đình Chiểu rất phong phú. Nhân vật thường được đặt vào tình huống phải di chuyển, phải trôi dạt từ nơi này đến nơi khác. Nếu lập một lược đồ hành trình của nhân vật, ta không khỏi ngạc nhiên bởi nó quá rắc rối, kì bí. Mọi biến cố, mọi sự kiện quan trọng đều xảy ra trên đường đi, trong quá trình di chuyển. Con đường mà nhân vật chính trải qua trong truyện rất hiếm khi nối liền các trang viện, lầu gác mà thường là phải băng qua truông dài phá rộng rừng thẳm hang sâu, những chốn phiêu bồng lạ lẫm Ưu thế không gian 57
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX hành động trong truyện của Nguyễn Đình Chiểu là rất trội bật. Một không gian huyền bí, đậm màu cổ tích, hoang sơ thuần phác: Trải bao dấu thỏ đường dê/ Chim kêu vượn hót bốn bề núi non (LVT.250); Lại xem dặm liễu đường hòe/ Tin ong ngơ ngác tiếng ve vang đầy (LVT.338); Qua truông rồi lại qua đèo/ Dế kêu dắng dỏi sương gieo lạnh lùng (LVT.1646); Ôi thôi bốn phía đều rừng (LVT.1808); Hoa bay nước chảy mấy chừng/ Bóng tùng che núi như vừng lọng xây/ Chim kêu vượn hú vang đầy/ Hiu hiu gió thổi lá cây reo mừng (DTHM.74). Tới nơi vân động gần trên mây rừng (DTHM.983); Tới nơi vân động nửa trên trăng trời (DTHM.1074) Không thể tìm thấy trong các truyện một đọan nào miêu tả khung cảnh đền đài nội thất, dinh thự một cách đầy đủ, chi tiết; mặc dù câu chuyện có đề cập hầu khắp mọi nơi trần thế: phủ đường quan huyện, trang trại phú gia, thậm chí cả quang cảnh triều đình Hầu như mọi đoạn miêu tả cảnh vật đều hướng đến những nơi thoáng đãng, hùng vĩ, nguyên sơ, bí hiểm. Trong một bối cảnh như vậy, rõ ràng con người phải bộc lộ mình bằng khí phách, bằng sự can trường quả cảm. Họ luôn phải hành động, phải di chuyển không ngừng, phải liên tục phiêu dạt từ nơi này đến nơi khác. Hiếm có nhân vật truyện thơ nôm nào lại được miêu tả "hành động đi" một cách vội vã, liên tục như chàng Vân Tiên; các nhân vật Mộng Thê Triền, Bào Tử Phược, Dương Từ, Hà Mậu còn lang bạt "ghê gớm" hơn, thậm chí lên cả cõi trời, xuống tận địa phủ. Độc đáo nhất trong số các hình tượng không - thời gian của Nguyễn Đình Chiểu chính là cảnh địa ngục trong truyện Dương Từ - Hà Mậu. Tác giả dành hơn bảy trăm câu lục bát, chiếm một phần đáng kể trong tác phẩm để miêu tả cảnh địa ngục. Trong quan niệm dân gian, cõi âm là thập điện diêm vương. Nguyễn Đình Chiểu cũng dựng cảnh âm phủ đúng con số 10 (cửa) với những tấm biển đề: Bia đề hai chữ Hoàng Tuyền (DTHM.1531); Đao San Địa Phủ chữ vàng (DTHM.1627); Bia đề rằng: Nại Hà Kiều (DTHM.1672); Hoàng Sa hai chữ bia đề (DTHM.1701); Bia đề rằng Quỷ Môn Quan (DTHM.1727); Bia đề rằng Uổng Tử Thành (DTHM.1759) Không gian ở đây không phân thành tầng lớp, cửa trên cửa dưới như ở cõi trời mà được rải ra trên một mặt phẳng theo thứ tự: Giết đi hoàn lại lòng thòng/ Ngục này hết phép lại vòng ngục kia (DTHM.2000). Sự sắp xếp này bị chi phối bởi ý định răn đe những kẻ bất lương bất nghĩa, khiến chúng phải khiếp sợ trước các hình phạt trùng trùng không dứt. Điều này có khác so với địa ngục trong Thần khúc của Dante. Địa ngục của Dante là những cái hố 58
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX sâu nối nhau theo trình tự nhất định. Trong khi đó, tội nhân của Nguyễn Đình Chiểu lại phải trải qua những kiếp trừng phạt luân hồi, phải trải qua tất cả các cửa. Kẻ phạm tội bị trừng phạt không phải một lần. Kể cả khi đã trải qua hết mọi nhục hình thì còn phải lộn lại, đầu thai làm súc vật để tiếp tục chịu đày ải. Cõi âm theo quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu là một đại pháp trường. Đây là một vương quốc tăm tối, không có ánh sáng, không có hình khối, đường nét: Mờ mờ một cõi quan san/ Mây sầu gió thảm chàng ràng trêu ngươi (DTHM.1514). Nổi bật ở đây là âm thanh ghê rợn của quỷ sứ, của tội nhân. "Không gian trừng phạt" ở Dương Từ - Hà Mậu được chuyển dịch từ những ấn tượng của tác giả về chính nơi trần thế mà ra. Nó có dáng dấp một xứ sở lưu đày nào đó trên mặt đất. Tính chất quái đản, dị thường của nó bị giảm nhẹ đi nhiều bởi những chi tiết của cuộc sống trần thế: thành lũy, cầu quán, chợ búa, rừng núi, xóm làng So với một số truyện nôm khác (Phạm Tải Ngọc Hoa, Phạm Công Cúc Hoa ) trong Dương Từ - Hà Mậu, thế giới cõi âm được hình tượng hóa thành một thế giới quy mô rộng lớn, tính chất đa dạng hơn rất nhiều. Hình phạt đặt ra thì hết sức khốc liệt, nhưng khung cảnh pháp trường thì rất quen thuộc, dễ hình dung. Điều này cũng có tác dụng làm tăng tính thuyết phục của triết lý báo đáp. Việc không tách bạch cõi âm và dương thế gợi nhắc tới những chướng họa có thể trực quan được hàng ngày. Việc kéo gần lại khoảng cách giữa thế giới hoang đường và hiện thực bằng cách bài trí cảnh quan theo mô hình hiện thực, hoặc gán cho thần linh, loài vật một số đặc điểm tính cách con người đều xuất phát từ quan niệm nghệ thuật của nhà văn. Cái cội rễ của cuộc sống con người nằm ở nơi trần thế, còn thiên đường, địa ngục chỉ là những miền hư ảo, không dung nổi cuộc sống con người. Sự gửi gắm niềm tin vào những miền cực lạc mà tôn giáo hứa hẹn chỉ là phù phiếm. Dương, Hà đã làm một cuộc viễn du "kép" theo hai hướng ngược nhau; một cuộc viễn du của thân xác đi đến các cõi, và một chuyến hành trình ngược lại của tư tưởng (từ thiên đường, địa ngục hoang tưởng quay trở về với đức tin cộng đồng). Có thể nói, việc coi con người đồng nghĩa với các giá trị đạo đức, lấy đó làm nguyên tắc của họat động sáng tạo, đồng thời trình bày chúng một cách đầy đủ, hệ thống, đầy sức thuyết phục là một cống hiến quan trọng của Nguyễn Đình Chiểu. Hiếm có nhà văn nào lại tập trung toàn bộ tài năng, 59
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX nghị lực của mình để suốt đời biểu dương, ca ngợi, cổ xúy bảo vệ con người về phương diện đạo đức, đạo lý, phẩm hạnh một cách nhiệt thành, mãnh liệt và kiên trì đến như vậy. Truyện thơ nôm của Nguyễn Đình Chiểu mang đầy đủ đặc điểm, tính chất của những truyện kể. Đối với dạng tác phẩm này, phương thức truyền tải hữu hiệu nhất là kể, diễn tấu (chứ không phải đọc bằng mắt) và con đường tiếp nhận tốt nhất là nghe kể. Nó thích hợp cho những sinh họat mang tính cộng đồng. Khi được trình bày ở những nơi đông người, không khí giao tiếp sẽ giúp tác phẩm thoát lộ hết mọi ưu điểm, tính chất, đặc trưng thể loại. Những câu chuyện đạo lý, anh hùng nghĩa hiệp rất cần sự cộng hưởng của đám đông (từ những giọt nước mắt, những chuỗi cười sảng khoái, đến tiếng "đế" kèm theo); nói cách khác, cần một môi trường, một không khí "văn hóa truyện Nôm". Chính đặc điểm này sẽ chi phối, thậm chí quyết định cách sử dụng, tổ chức ngôn từ tác phẩm. Trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, lời kể chuyện thường được thể hiện theo lối gián tiếp. Toàn bộ thông tin về nhân vật, sự kiện cũng như lời đối thoại đều được trình bày qua lời kể của tác giả. Do đó, câu thơ mang tính chất khẩu ngữ rất rõ. Nhiều khi có cảm giác đó là những câu cửa miệng hàng ngày được đưa trực tiếp vào tác phẩm. Chẳng hạn một câu bình luận của tác giả: - Xưa nay những đứa vô nghì Dẫu cho có sống làm gì nên thân (LVT.1968); - Thấy vầy nên dửng dừng dưng Ở đừng vô đạo ở đừng vô luân (LVT.1754). Lối diễn đạt này tạo nên sự giản dị, gần gũi khiến người nghe dễ tiếp nhận thông tin, dễ nắm bắt, theo dõi biến cố câu chuyện. Nguyễn Đình Chiểu đã đưa vào trong ba truyện một lớp từ biểu đạt các khái niệm đạo đức rất đặc sắc. Chúng xuất hiện với mật độ dày đặc, ý nghĩa nhất quán. Ông tạo ra từ, ngữ, thành ngữ mang phong cách riêng bằng phương pháp ghép nối, chuyển dịch chữ nghĩa đầy tính sáng tạo. Chẳng hạn ông dùng hàng lọat những tổ hợp từ để diễn đạt các sắc thái nghĩa, các nội hàm khác nhau của khái niệm ơn, nghĩa, đạo Hệ thống từ ngữ này đã giúp 60
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX tác giả diễn đạt những ý tưởng, quan niệm vốn phức tạp, trừu tượng một cách dung dị, dễ dàng. Nguyễn Đình Chiểu còn được coi là nhà văn tiêu biểu của vùng đất Nam bộ bởi nét riêng trong cách dùng thổ âm thổ ngữ. Cái phong cách Nam bộ thể hiện qua nhiều yếu tố, trong đó dễ thấy nhất là sự xuất hiện thường xuyên của lớp từ đặc trưng vùng miền. Đó có thể là những từ ngữ chỉ các sự vật hiện tượng, những thời trân đặc sản của riêng xứ sở này: khẳm, đành rành, tối dầm, phăn theo, lựa phải, phủ phê, như dồi, bậu, thon von hoặc những thành ngữ, những lối so sánh, ví von độc đáo: vùa hương bát nước, vẽ hùm ra chó, khô lân chả phụng, no ngày khẳm tháng, cùi dày làm ăn, thuốc châm môi cọp Nam bộ là vùng đất mới được khai phá, thiên nhiên hoang dã, trù phú nhưng cũng đầy khắc nghiệt. Đặc điểm này đã ảnh hưởng sâu sắc tới cách nghĩ, đến thị hiếu nghệ thuật, lời ăn tiếng nói của người dân. Nét văn hóa phương Nam này được thể hiện rất rõ qua lối so sánh, ví von, liên tưởng trong ngôn từ của Nguyễn Đình Chiểu. Chẳng hạn đọan kể về một nhân vật (ông Ngư) trong Lục Vân Tiên: Rày doi mai vịnh vui vầy Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng Một mình thong thả làm ăn Khỏe quơ chài kéo mệt quăng câu dầm Nghêu ngao nay chích mai đầm Một bầu trời đất âm thầm ai hay (LVT.792). Đúng là thần thái, khẩu khí của một ngư ông Nam bộ thuở xưa. Đoạn thơ toát lên cái tinh thần "văn hóa sông nước" của những con người hào hiệp sống trong một môi trường hoang sơ và trù phú. Có thể nói Nguyễn Đình Chiểu đã tạo được một lối kể chuyện độc đáo, đầy cá tính và rất hiệu quả. Sức hấp dẫn mà các truyện thơ Nôm có được một phần xuất phát từ đây. Nguyễn Đình Chiểu là một hiện tượng văn hóa đặc sắc. Ở ông có sự hòa hợp tuyệt vời giữa cuộc đời và văn chương. Những khát vọng thẩm mỹ, những lý tưởng nhân sinh cao quý không chỉ hiện diện trong văn phẩm mà còn được thể hiện bằng chính hành vi của ông. Nguyễn Đình Chiểu là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn chương Việt Nam. 1. Có thể kể đến trường hợp Lý Văn Phức (1785-1849) với Truyện Tây sương; Ngọc Kiều Lê; Cừu Loan nương. 61
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX TÀI LIỆU THAM KHẢO - Nguyễn Đình Chiểu (1997), Toàn tập, 2 tập, NXB Văn học, Hà Nội. - Xuân Diệu (1982), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập 2, NXB Văn học, Hà Nội. - Nguyễn Lộc (1997), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. - Nguyễn Phong Nam (1997, tái bản 2004), Giáo trình văn học Việt Nam giai đọan cuối thế kỷ XIX, NXB Giáo dục, Hà Nội. - Nguyễn Phong Nam (1998), Nguyễn Đình Chiểu từ quan điểm thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội. - Nguyễn Phong Nam (2001), Dấu tích văn nhân, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng. - Nguyễn Ngọc Thiện (2003), Nguyễn Đình Chiểu về tác giả và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. - Lê Trí Viễn (1984), Nguyễn Đình Chiểu, Trường Đại học tổng hợp TP. Hồ Chí Minh. - Lê Trí Viễn, Phan Côn, Nguyễn Đình Chú, Huỳnh Lý, Lê Hoài Nam (1976), Lịch sử văn học Việt Nam, tập 4 a, NXB Giáo dục, Hà Nội. 62
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX NGUYỄN KHUYẾN 1. Vài nét tiểu sử Nguyễn Khuyến sinh năm 1835 tại thôn Văn Khê, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục (nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, Hà Nam Ninh). Thuở nhỏ ông có tên là Nguyễn Thắng, lớn lên, khi đi thi và thành đạt, ông được đổi tên là Nguyễn Khuyến. Tên tự của ông là Mẫn Chi, hiệu Quế Sơn. Nguyễn Khuyến xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo, người cha từng thi đỗ tú tài ba khoa, chuyên nghề dạy học. Năm 17 tuổi (1852), Nguyễn Khuyến dự kỳ thi hương đầu tiên trong đời. Trải qua 19 năm theo đòi khoa cử (với 9 kỳ thi), mãi tới năm 1871 ông mới nhận cờ biển Tiến sĩ do chính vua Tự Đức ban tặng. Thời gian ra làm quan của Nguyễn Khuyến là 12 năm: mở đầu bằng chức Đốc học tỉnh Thanh Hóa, qua Án sát tỉnh Thanh, Bố chánh Quảng Ngãi, được cử làm phó cho Lã Xuân Oai trong đoàn sứ bộ qua nhà Thanh kêu xin viện binh đánh Pháp và kết thúc bằng chức Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên (mà kỳ thực chưa nhậm chức ngày nào). Bước đường họan lộ của ông cũng khá gập ghềnh: cũng từng bị phạt, bị giáng chức và nhất là quá trình đó lại trùng với một giai đoạn bi thảm nhất, sóng gió nhất của lịch sử dân tộc. Kể từ năm 1873, khi Nguyễn Khuyến bắt đầu đảm nhận một chức học quan ở Thanh Hóa, thực dân Pháp cũng bắt đầu đánh lan ra Bắc Kì, hàng loạt sự biến nghiêm trọng diễn ra dồn dập đe dọa nỗi an nguy của đất nước; đến năm 1884 khi ông vĩnh viễn từ bỏ công danh về ẩn náu nơi làng quê thì cũng đúng lúc triều đình Huế ký hàng ước, thừa nhận quyền thống trị của thực dân. Nguyễn Khuyến mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại quê nhà. Suy ngẫm về cuộc đời mình, Nguyễn Khuyến tự đánh giá một cách xót xa: Ơn vua chưa chút báo đền Cúi trông thẹn đất, ngửa lên thẹn trời (Di chúc) 63
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Nguyễn Khuyến là một học trò xuất sắc của nhà trường phong kiến, một nhà Nho ưu tú về phẩm hạnh cũng như học vấn nhưng ông cũng là nạn nhân của tư tưởng Nho giáo khi nó đã lâm vào tình trạng phá sản. Cũng có thể xem Nguyễn Khuyến là một trong những đại biểu cuối cùng của một kiểu nhà Nho: kiểu nhà Nho quân tử (mà hồi quang sau chót của nó là những gương mặt nghĩa sĩ Cần vương). Cuộc đời ông là một bi kịch. Trong ông luôn diễn ra nỗi mặc cảm về sự bất lực, mặc cảm trước trách nhiệm đối với đất nước, dân tình của một trí thức chân chính, luôn diễn ra sự trăn trở về sự lỗi thời của vai trò mình đang sắm Cuộc đời và văn chương Nguyễn Khuyến gắn rất chặt với đời sống thôn quê. Ông được coi là nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam. 2. Văn chương Nguyễn Khuyến Tác phẩm của Nguyễn Khuyến cho tới nay vẫn chưa sưu tập và công bố một cách đầy đủ. Nhưng với những gì chúng ta đã có cũng đủ để khẳng định được sự đóng góp lớn lao của ông vào lịch sử văn học dân tộc. Sáng tác của ông chủ yếu được viết bằng chữ Hán - thứ văn tự mà ông dùi mài từ nhỏ. Bằng thơ văn chữ Hán, Nguyễn Khuyến đã chứng tỏ được sức học phi thường, tri thức uyên bác của mình. Song điều hơn đời của ông lại ở chỗ bên cạnh cái túc học, thâm Nho, am tường kinh sử, Nguyễn Khuyến còn là một tài thơ Nôm xuất chúng. Thơ Nôm của ông có thể sánh với bất kỳ thi sĩ tài danh nào trong lịch sử văn học. Ở tác phẩm của Nguyễn Khuyến có hiện tượng song trùng trong diễn đat về một hình tượng thơ (vừa bằng chũ Hán, vừa bằng chữ Nôm). Có thể xem đây là những "cặp" tác phẩm toàn bích của một nghệ sĩ bậc thầy. Xét ở phương diện hình thức, Nguyễn Khuyến đã thử sức và thành công trên nhiều thể lọai: văn, thơ luật, hát nói, câu đối. Ông được coi là người làm câu đối cự phách nhất trong văn học Việt Nam xưa nay. Nội dung tác phẩm của Nguyễn Khuyến rất phong phú, ở đây chỉ xét một số mặt tiêu biểu: 2.1. Một nhân cách trong sáng, một tâm hồn cao thượng. Nguyễn Khuyến là người rất tự trọng. Ông ý thức được tài năng và đức hạnh của bản thân, dẫu rằng có đôi khi ông cười cợt sự thành đạt của mình: 64
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Học chẳng có rằng hay chi cả Cưỡi đầu người kể đã ba phen Cũng hiếm người có được cái nhìn đối với công danh phú quý tỉnh táo như Nguyễn Khuyến. Con người ấy dám vứt bỏ những danh lợi để giữ vẹn toàn danh tiết. Một người vinh hiển đã đến bậc đỉnh chung, đang trên đà thăng tiến, ấy vậy mà dám dừng phắt lại, chối từ tất cả, cam chịu nghèo đói, con người ấy nhất định không phải hạng tầm thường. Có thể nói ông đã đạt đến cái đỉnh cao nhân cách mà các nhà Nho quân tử hằng mơ ước. Chính vì thế mà ông có đủ tư cách để sổ tọet mọi thứ hình nhân gian giảo, đểu cáng, hèn hạ. Với sự lịch lãm của mình, Nguyễn Khuyến thường hướng sự phẫn nộ vào tầng lớp trên của xã hội. Ông gắn nỗi nhục mất nước, sự suy đồi về phong hóa đạo đức với trách nhiệm của các đối tượng ấy, lấy đó làm lý do đả kích. Bởi thế tinh thần công dân trong thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến là một đặc điểm rất nổi bật. Những kẻ mang danh rường cột nước nhà, các bậc thượng lưu trí thức thường bị ông đả kích rất sâu cay, nhất là các vị đỗ đạt cao. Trong lịch sử văn chương nước ta, dễ thường chưa có ai đả kích ông nghè cay độc, ác liệt như Nguyễn Khuyến, dù bản thân ông là người hiển đạt. Ông nghi ngờ: Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ Cái giá khoa danh ấy mới hời Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi (Vịnh tiến sĩ giấy) Sự khinh miệt của Nguyễn Khuyến không phải là vô căn cứ. Điều quan trọng đối với ông, khi xét con người, không phải ở cái danh hão mà là ở hành động. Trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng thì cái tài tầm chương trích cú của những ông tân khoa tiến sĩ là vô nghĩa. Ngẫm từ mình, ông thấu hiểu sự vô duyên, vô dụng của mình ngay trong hình tượng ông tiến sĩ giấy. Chính ông đã từng đúc kết một cách chua chát về vị thế của một nhà Nho “lạc thời” và tự trào bằng những câu chữ xót xa, cay đắng: Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng (Tự trào) Nguyễn Khuyến từng nhiều năm lăn lộn chốn quan trường, ông hiểu sâu sắc rằng công danh chỉ là "một giấc chiêm bao", nó cũng chỉ như một 65
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX áng phù vân mà thôi. Bởi thế ông mới dặn con, mà kỳ thực là độc thoại với chính mình: Vị hữu quan thời dục tố quan Hữu quan thủy giác tố quan nan Hoạn đào chỉ dĩ khinh tâm trạo Lợi cục hà năng lãnh nhãn khan (Thị tử Hoan) (Chưa được làm quan thì thích làm quan Được làm quan rồi thì mới biết làm quan là khó Bể hoạn sóng gió chỉ nên chèo với tấm lòng coi nhẹ Thấy cuộc lợi sao cho có con mắt lạnh lùng) Noi theo lý tưởng nhà Nho, nghĩa là làm quan để thi thố tài năng kinh bang tế thế, trí quân trạch dân, đấy mới là điều khó, còn nếu như chỉ chăm chăm trục lợi, đục khóet dân lành thì đấy là điều đáng phỉ nhổ. Với những kẻ vị kỷ, bất kỳ là quan lớn hay quan nhỏ ông đều chỉ trích: Quốc vận nhược vi gia vận ách Đại nhân ưng tác thỉ nhân hô (Hung niên V) Ông căm ghét thói luồn cúi, bợ đỡ cả ngoài đời lẫn trong văn chương. Ông dám công khai chế diễu những kẻ tự coi là văn nhân mà nỡ uốn cong ngòi bút vì bổng lộc: Cận lai học thực đa hoang lạc Huống trị thời gian thái dẫn phân Quân thả quy cầu đương tự đắc Hoàng đô bất thiểu tụng công văn (Tái vị nhân đại nghĩ kỷ công bi văn cánh vô sở đắc, nhân phú dĩ thị). (Gần đây sự học đã hoang phế nhiều Huống chi gặp buổi đời khó khăn lắm sự rối ren Anh hãy trở về mà tìm lấy sẽ được Thứ văn tán tụng công đức ở kinh đô không thiếu) Thực ra thì chẳng riêng thời Nguyễn Khuyến mới có cái thói đê hạ ấy, duy có điều thời buổi này nó nhộn nhạo quá người ta không thèm nghĩ đến việc che đậy nữa; nó hoành hành trong thiên hạ một cách nghiễm nhiên. Và cũng phổ biến như bất kỳ thời nào, cái giống nịnh hót giỏi, có "nghề" nhất 66
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX lại thuộc về kẻ có học. Đả kích bọn này, Nguyễn Khuyến dùng ngay kinh truyện, điển tích: Vị ngã phất tu chung hữu khích Thức nhân thóa diện tích tằng ưu (Tiểu thán) (Kẻ phảy râu cho mình, rốt cuộc cũng gây nên hiềm khích Người ta nhổ vào mặt mình mà chùi đi, đời xưacòn cho là đáng lo). Dựng lại cái điển tích Khâu Chuẩn nói đùa Đinh Vị (đời Tống) khi Đinh Vị phảy râu cho Khấu Chuẩn, rút cục lại gây nên thù oán và điển tích Lưu Sư Đức (đời Đường) dặn dò em khi ra làm quan phải hết sức nhẫn nhục, dù có ai nhổ vào mặt cũng nên để nó khô đi không nên lau kẻo người ta giận, Nguyễn Khuyến không nhằm khoe tài đọc nhiều, nhớ điển của mình, mà là nhằm làm một phép so sánh, một sự kiểm nghiệm, đối chứng với sử sách. Thời Nguyễn Khuyến, cái nhục mất nước luôn phơi bày nhãn tiền, cái cảnh nghênh ngáo nơi thị thành của bọn tóc quăn mũi lõ hàng ngày chọc vào mắt ông, không phải là ông không nhận ra mặt mũi cùng nanh nọc của chúng nó, ngặt vì bị câu thúc nên phải rất dè chừng khi bày tỏ mối phẫn uất của bản thân. Do vậy mà ta ít thấy nhà thơ đánh trực diện vào quân xâm lược. Ông dồn tất cả nộ khí của mình vào những chuyện có dính dáng đến Tây. Những trò "vui vẻ trẻ trung", "Hội Tây", "Hội đấu xảo", những kẻ "lấy Tây" đều là nhố nhăng, đáng phỉ nhổ. Ông quy tất cả những kẻ hợp tác với giặc dưới mọi hình thức đều là những kẻ đánh đĩ lương tâm để mưu cục lợi. Nguyễn Khuyến đã réo chửi tất tật, từ những kẻ bắng nhắng tập tọng, đến những kẻ sếp sòng, những tên đĩ bợm có bằng, nhờ làm tay sai cho kẻ thù mà "có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc". Cũng như nhiều nhà Nho khác, Nguyễn Khuyến ít khi nói trực tiếp về mình. Tuy vậy, căn cứ vào cái yêu, cái ghét cũng có thể thấy được nhân cách của một con người. Bằng những hành vi vủa mình, Nguyễn Khuyến đã chứng minh một cách cụ thể cái tiết tháo rắn rỏi của một người trí thức chân chính. Xưa nay, khi đánh giá tài thơ của Nguyễn Khuyến, người ta dễ dàng xếp ông vào hạng ưu tú. Thế nhưng bàn đến lòng ái quần, ái quốc của 67
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Nguyễn Khuyến, thì nhiều người lại tỏ ra dè dặt. Trong thế cục bấy giờ, nếu đặt Nguyễn Khuyến bên cạnh những Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Quang Bích mà luận, không thể không thấy một sự cách quãng khá xa. Bởi vậy khi xếp Nguyễn Khuyến vào những người có "chút lòng yêu nước mờ nhạt" (như có ý kiến từng đánh giá) thì chưa hẳn đã hoàn toàn vô lý. Tuy nhiên, nếu xem xét vấn đề một cách tòan diện hơn, sẽ thấy việc đánh giá tư tưởng của ông như thế là chưa thỏa đáng. Đọc thơ của Nguyễn Khuyến, nhất là giai đọan cuối đời, dễ dàng nhận thấy sự trăn trở day dứt ghê gớm của ông trong việc tìm một hướng đi, một cách hành động, một lối ứng xử thích hợp nhất. Việc treo ấn từ quan chứng tỏ nỗ lực rất lớn của ông. Dĩ nhiên, khi so sánh với các nghĩa sĩ Cần vương bôn tẩu dặm trường mưu phục quốc vì chữ trung quân, thì việc ông Tam nguyên Yên Đổ chịu ngồi yên trong lũy tre làng Và ngâm khúc Bùi viên cựu trạch ca là một hành động tiêu cực. Nhưng như thế không phải là đối lập với người Cần Vương. Kỳ thực, cả hai kiểu nhà Nho này đều cùng một hướng suy nghĩ. Trong tòan bộ văn thơ Nguyễn Khuyến, số tác phẩm trực tiếp bộc bạch tâm tư trước cảnh nước mất nhà tan không nhiều, nhưng nó lại đóng một vai trò hết sức quan trọng. Đấy thực sư là những cái "chốt" trong tư tưởng của ông. Nổi bật là bài Cuốc kêu cảm hứng : Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ Ây hồn Thục Đế thác bao giờ Năm canh máu chảy đêm hè vắng Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ Có phải tiếc xuân mà đứng gọi Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ Thâu đêm ròng rã kêu ai đó Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ Những câu thơ hay cũng như cái đẹp, chỉ có thể cảm nhận chứ rất khó chứng minh. Truyền rằng Nguyễn Khuyến có lần đi thăm bạn, đêm hè nghỉ lại ở một quán trọ, canh khuya trằn trọc vẳng nghe tiếng chim cuốc mà chạnh lòng nghĩ đến những nỗi niềm non nước, nhân đó viết những lời này. Con chim đỗ quyên vô tình đã đánh động những ưu tư uẩn khúc trong lòng một lữ khách khiến một câu chuyện huyễn hoặc bỗng chốc hóa thành một biểu tượng cho lòng nhớ nước. Thực ra lấy tứ từ tiếng kêu con chim cuốc để 68
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX ký thác tâm tư thì văn học nước ta không chỉ có Nguyễn Khuyến, nhưng cái nỗi đau quặn thắt, da diết như kia thì không ở đâu có nổi. Chính Nguyễn Khuyến cũng là một con chim cuốc rỏ máu vì nỗi đau mất nước, tan đàn. Cái "điệu quyên" này đã ngân lên để hòa được vào trong dòng mạch những lời thống thiết chiêu hồn nước trong lịch sử đấu tranh và lịch sử văn chương nước Việt là một bằng chứng rõ ràng về ấm lòng ưu quốc ái dân của Nguyễn Khuyến. Cùng chung mạch cảm xúc ấy là những bài có tính chất hoài cựu về một đất nước đã dời ngôi đổi chủ: Thập tải không tê cựu giám môn Du du tâm sự hướng thùy luân Khuê lâu vị đoạn tiêu chung hưởng Bích thủy do chiêu dạ nguyệt hồn Thức mục triêm cân ngô đạo ách Phất bi khán tự cổ nhân tồn (Hà Nội Văn miếu hữu cảm) (Đã ngót mười năm nay lại tới cửa giám cũ Nỗi lòng dằng dặc biết tỏ cùng ai Lầu Khuê văn chưa dứt tiếng chuông đêm Dòng Vị thủy còn ghi hồn trăng khuya Lau nước mắt đẫm khăn vì nỗi đạo ta khốn ách Phủi bia cũ xem chữ thấy người xưa vẫn còn) Giữa cảnh náo loạn của một xã hội thực dân buổi mới hình thành, tác giả đưa ta về với người xưa, trở lại với những biểu tượng văn hiến của dân tộc. Ông đã hữu hình hóa khái niệm văn hóa dân tộc; và dòng nước mắt sở dĩ trào tuôn là bởi nỗi niềm cố quốc. Cần phải đặt tâm tư ấy vào bối cảnh chung, tức là phải đặt thái độ của Nguyễn Khuyến vào thời điểm xã hội đầy rẫy những kẻ xu nịnh, những kẻ vốn nắm giữ vận mạng đất nước nay quay ra làm chó săn chim mồi cho giặc mới thấy cái tiết tháo, cái tấm lòng của nhà thơ là rất đáng trân trọng. Tâm tư của ông lúc này là nỗi cô đơn, là sự bơ vơ giữa đồng bào, là cảm giác lạc lõng giữa những người vốn trước là đồng môn, đồng đạo. Thành thử trong thơ Yên Đổ, thấy đầm đìa nước mắt: Bút nghiễn trầm tư ưng hữu lệ Sơn hà cử mục bất thăng sầu 69
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX (Tiễn môn đệ) (Ngẫm nghĩ đến bút nghiên muốn trào nước mắt Ngước nhìn sông núi khôn xiết đau buồn) Tuy nhiên ông không thể vươn cao hơn nữa ngoài việc bỏ mặc thế cuộc để giữ gìn danh tiết cho riêng mình và than thở. Sau một thời gian "lặn lội trên đường đời", cái đích cuối cùng mà ông đạt tới không nằm ở phía trước, mà oái oăm thay lại ở phía sau: Vườn Bùi chốn cũ Mấy mươi năm lụ khụ lại về đây (Bùi viên cựu trạch ca) Cuộc đời đã quần cho Nguyễn Khuyến tơi tả. Thất bại đè nặng lên cái dáng đi "lụ khụ" của ông tam nguyên vốn nuôi nhiều hùng tâm tráng chí. Bế tắc lý tưởng, nhà thơ đi tìm sự giải thoát, sự đồng điệu ở những biểu hiện dị thường của cuộc đời. Nói khác đi, Nguyễn Khuyến đã thử ướm mình qua nhiều tâm trạng, nhiều địa vị mong tìm nơi ẩn náu yên ổn, khả dĩ đưa lại ít nhiều thanh thản cho tâm hồn giữa một bối cảnh đầy bão tố. Cho nên Nguyễn Khuyến đã say, "thử say", dù biết "rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy", thậm chí ông còn ước có được thứ rượu thần khả dĩ say được nghìn ngày chờ khi nước nhà qua cơn binh hỏa hãy tỉnh (!). Đáng buồn là rượu chẳng thể tiêu sầu nổi, không quên đời được: Bắc song hứa cữu thê lương thậm Thuẫn bút hàm bôi ý vị bình (Bấy lâu nay trước song cửa phía bắc thấy buồn bã vô chừng; nhấm bút đề thơ, ngậm chén uống rượu nhưng dạ vẫn chưa khuây) Càng tỉnh, càng buồn, ông càng làm người giả điếc, làm mẹ Mốc giả ngây giả dại Nhưng ông thấy không ổn. Lại có lúc ông đi tìm yên ổn trong lời biện bạch về chước tháo lui của mình. Ông dặn dò con cháu: Đề vào mấy chữ trong bia Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu (Di chúc) 70
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Nguyễn Khuyến muốn dùng cái chữ "đã lâu" ấy để trối lại với hậu thế hãy hiểu cho mình; ông muốn chối bỏ trách nhiệm với hiện tại, song cái lỗi không chỉ ở chỗ đó, không phải là về đã lâu hay mới về. Chính ông là người hiểu điều đó hơn ai hết thành thử những giải pháp kia hóa ra bất ổn; những cái vỏ kia đều không đủ kín để trốn đời. Thế là ông thấy sợ: "Ngẫm ra ông sợ cái ông này" - sợ chính ngay cái lương tâm của mình. Nguyễn Khuyến muốn tạo vẻ bàng quan trước nhân tình thế cuộc, bàng quan trước hiện thực nhằm che giấu nỗi bất lực của mình, nhưng rút lại ông vẫn không xóa nổi điều ám ảnh ghê ghớm kia. Ông kết tội bản thân: Sống theo học cũ ích gì Tấm thân già yếu chết thì cũng cam (Xuân nhật hữu cảm) Thời gian Nguyễn Khuyến làm quan không lâu. Con người tài hoa ấy bắt đầu nhận lấy cái phận sự phò vua trị nước đúng vào lúc vận nước suy vi, cho đến khi Tự Đức, ông vua mà Nguyễn Khuyến chịu nhiều ân sủng nhất từ trần thì ông cũng từ bỏ hẳn hoạn lộ. Việc quay lưng lại với thời vận là một hành động dũng cảm, nó nói được rất nhiều về bản lĩnh của nhà thơ. Chắc chắn trước khi đi đến quyết định đoạn tuyệt với danh vọng, ông đã phải cân nhắc, lật xới mình nhiều lắm. Bởi vì thói đời mấy ai dám tự nguyện rời bỏ mâm cao bổng lộc để lui về sống cuộc sống thanh bần nghèo túng ở thôn quê một khi không có ai thúc ép mình. Mà giả dụ có tiếp tục làm quan thì ông cũng chả thiếu gì lý do để biện bạch cho mình. Vả chăng bạn bè của ông, nhiều người chân chính vẫn tại vị. Ông từng trăn trở: Khứ quốc khởi vô bằng bối tại Qui gia vị tất tử tôn hiền (Cảm tác) (Mình bỏ nước mà đi nhưng bạn bè vẫn có người ở lại Về nhà vị tất đã có con cháu đức tốt để cậy trông) Nhưng rồi ông gạt bỏ tất cả. Cái bả vinh hoa không lay chuyển được ý chí của nhà thơ. Phải là một nhân cách rất cứng cỏi, một bản lĩnh vững vàng, một quan niệm sống cao thượng thì mới làm nổi việc đó. Phải là người có cái nhìn rất tỉnh đối với công danh, cơm áo ở đời thì mới đủ nghị lực để hạ nổi câu: "Vương bá công danh nhược đẳng nhàn". Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hành động tháo lui của Nguyễn Khuyến. Có thể nói chính lòng yêu nước thương dân đã khiến ông không thể 71
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX tiếp tục làm quan, hợp tác với giặc. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng việc nhà thơ cáo quan không đơn thuần chỉ là một phản ứng bất đắc chí, do căm thù giăc, mà còn là một ý nguyện. Tâm tư của Nguyễn Khuyến trong chuyện này khá phức tạp. Một mặt thì day dứt trăn trở, một mặt thì lại tỏ ra mãn nguyện vì được về. Không thể cắt nghĩa được nguyên nhân của hành động này nếu ta tách rời gốc gác tư tưởng của Nguyễn Khuyến. Không được quên rằng trước tiên ông là một nhà Nho, một con người đã được đào tạo chu đáo bằng giáo lý, tư tưởng Khổng Mạnh. Nghĩa là trong việc cáo quan của ông có sự chi phối của giáo lý này. Việc treo ấn từ quan của các Nho sĩ trong lịch sử không phải là hiếm hoi. Có một sự liên quan nào đấy giữa Tam nguyên Yên Đổ với những Ức Trai, Nguyễn Bỉnh Khiêm Các nhà Nho thường nói nhiều đến chữ nhàn, nhưng trong hành trạng không bao giờ họ xử sự chỉ vì chữ nhàn. Chữ nhàn chỉ là cái cớ. Đấy là chỗ giống nhau, là hằng số bất biến trong ứng xử của các nhà Nho quân tử, danh tiết vẹn toàn. Cái chỗ ngoặt , chỗ dừng lại trong quá trình vận động của cuộc đời họ (tức là lui về ẩn dật) đều thực hiện khi họ bị đặt vào những hòan cảnh khốc liệt buộc phải lựa chon. Hiệp ước Patơnotre (1884) được ký, triều đình nhường đất cho ngoại bang, vậy ông "hành đạo" với ai? Trong bối cảnh này, chỉ có thể hoặc đi "làm giặc" (khởi nghĩa chống Pháp, thực chất cũng chống cả triều đình) như Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám hoặc làm tay sai cho giặc mà thôi. Cả hai con đường đều không hợp với ông, vậy chỉ còn chước tháo lui, noi theo các tiên hiền đi ẩn dật. May thay, trong cái lối ra này, ông còn cố tìm và tìm thấy được đôi chút đồng điệu trong triết lý nhân sinh của dân gian về công danh phú quý - về những cái bóng hư vinh ở đời; và chắc chắn là thi sĩ Quế Sơn không thể không vướng đôi chút phiêu diêu của tư tưởng Lão Trang (đặc biệt là cái tình cảm nồng thắm đối với thiên nhiên) Tất cả đã góp phần dẫn đến chỗ rẽ của ông. Nhưng đấy cũng là chỗ bế tắc của nhà Nho, nhà thơ Nguyễn Khuyến. Ông không vâng theo chủ trương hòa nghị mà cũng không thể công nhiên chống lại chủ trương hòa hoãn của nhà vua. Bi kịch nội tâm của Nguyễn Khuyến chính là bi kịch về nhận thức được nỗi bất lực của mình trước thời cuộc. Giới hạn của tư tưởng thời đại không cho phép ông tự gỡ mình ra khỏi những bế tắc của bản thân. Và vì thế ông đã để lại trong văn chương rất nhiều than thở, dận dỗi với với chính mình: - Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng (Tự trào) - Nghĩ ta, ta lại chỉ thương ta 72
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX (Than già) - Nghĩ đời mà lại ngán cho đời (Ngẫu hững) - Ao xiêm nghĩ lại thẹn thân già (Ngày xuân dặn các con) Cái điệu cảm thán này ta gặp rất nhiều trong tác phẩm của ông (đặc biệt trong thơ chữ Hán). Nó bàng bạc, dàn trải khắp nơi. Nhưng dù sao thì cũng là do cảm thấy mình chưa làm tròn sứ mệnh của kẻ sĩ. Ông chỉ có thể tự an ủi bằng cách nói dựa theo đạo nghĩa thánh hiền: Biết thôi thôi thế thì thôi mới là (Khóc Dương Khuê) Cái sự dừng lại, cái sự “thôi” ấy, theo ông là hợp lẽ, hợp với chữ "tri chỉ" trong giáo lý. Nói cho công bằng, đấy chẳng qua cũng chỉ là lời tự trấn an mình. 2.2. Một tấm lòng đôn hậu trước muôn nỗi nhân tình. Đọc thơ Nguyễn Khuyến ta không hề thấy vướng bận cảm giác đây là thơ của một ông quan đang suy nghĩ, quan sát đời sống dân tình một cách cao đạo. Ông không có cái lối cố gắng hạ mình xuống ngang tầm với những người xung quanh để chia sẻ mà thực sự đã chan hòa cảm xúc, suy tư của mình cùng với lân gia xóm mạc. Ông sống rất mực nhân hậu, chân tình, sống thực sự cởi mở như một người dân quê lam lũ. Thực ra thì điều này cũng không quá khó hiểu. Nguyễn Khuyến dù là người đỗ đạt, danh vọng đủ điều nhưng cái gốc gác nông dân vẫn rất sâu đậm. Cũng vì thế mà ông có được cảm nghĩ hệt như một lão nông thực thụ: Thử khí viêm chưng hạ nhật trường Nho gia điền sự thái phân mang Mỗi sầu hữu túc đa sinh nhiệt Hựu khủng vô hòa thả phạp lương Tân phạn kiêm thu liên bản cốc Dữu khuân chỉ tại cập kiên tường Thế gian vạn sự năng như nguyện Phong dục doanh môn, túc mãn đường (Quan hoạch) 73
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX (Hơi nắng nóng nực, ngày mùa hè dài Mùa màng đến nhà Nho rất là bận rộn Cứ buồn vì có thóc thì sinh nhiều hơi nóng Lại sợ không lúa sẽ thiếu lương ăn Để có cơm ăn và rơm thổi khi gặt cắt cả gốc Gọi là kho với vựa chỉ ở trong bức tường thấp ngang vai Muôn việc ở đời nếu cứ mong là được Thì ta mong gió đầy cửa, thóc đầy nhà) Ông thuật lại cái chuyện đi xem gặt hái rồi ngẫm nghĩ chuyện đời thật dung dị: mình là nhà Nho, thuộc loại dài lưng tốn vải, lười lao động và cũng ngại phải chứa thóc trong nhà thì sinh hơi nóng bức khó chịu. Có điều vì không thể bóc lột của ai được, phải tự làm lấy mà ăn. Nhưng đấy là chuyện phải làm, còn ví thử mọi điều đều có thể ước mà thành được thì ông cũng ngồi ước, nhẹ nhàng mà lại kết quả. Ông dám trải hết suy tư của mình ra để phán xét mình ngay cả ở những chuyện bé mọn, vặt vãnh, tuế toái trong cuộc đời. Chẳng hạn những dằn vặt, cân nhắc xung quanh miếng thịt của người quen biết đưa tặng: Bồi hồi vi sổ từ Trì chi yểm diện khốc Thích thử loạn ly phùng Kiêm chi cùng ngạ xúc Tử ý nhất hà ân Dư tâm nguyên bất dục ( ) Bất thực linh nhân cơ Thực chi linh nhân nhục Bất thực linh nhân bì Thực chi linh nhân tục ( ) Thủ chi hà thương liêm Vô dung thích tha tộc (Nhân tặng nhục) (Ta ngậm ngùi khó nói nên lời Cầm lấy miếng thịt che mặt mà khóc Gặp lúc ly loạn như thế này 74
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Lại thêm sự đói kém bức bách Ý người rất là ân cần Lòng ta không phải là không thích ( ) Không ăn thì người bị đói Ăn vào thì người bị nhục Không ăn thì người bị gầy Ăn vào thì ra con người tục ( ) Ta đây nhận tưởng cũng chẳng hại gì Lại không phải đi kêu nài cửa khác) Đây là một tình huống có thực. Khi quay về sống nghèo đói ở quê, có người thân tình biếu ông một miếng thịt lấy phần từ đám tế mộ. Chuyện chỉ có vậy mà ông trầm tư mãi. Ông chỉ nhận sau khi đã tra cứu kỹ lưỡng trong sử sách để tìm trường hợp tương tự, khi đã tìm được lý do: dù sao thì cũng không phải ngửa tay đi xin kẻ khác (chủ ý nhắm vào bọn tay sai của giặc Pháp). Những giọt nước mắt rỏ quanh một miếng thịt ấy chính là để khóc thương mình đấy thôi. Sự thành tâm trong khi dựng lại cả một cuộc vật vã giằng xé nội tâm đã chứa trong đó một tinh thần phục thiện rất đáng trân trọng. Ông nói mình cũng chỉ là một kẻ phàm trần như hết thảy những người đương thời cùng cảnh đang cơn quẫn bách của cuộc mưu sinh. Ông không đặt mình vào địa vị kẻ bẩm sinh đã cao cả sẵn. Ông cũng có một cuộc sống bình thường như bất cứ ai. Có nghĩa là cũng phải vật lộn (lắm phen rất đỗi gay go) để mà vươn lên. Nguyễn Khuyến là người có những ràng buộc chặt chẽ cả đời sống vật chất lẫn tinh thần với làng quê, với những người dân quê. Có lẽ cái gốc gác của anh hàn sĩ Nguyễn Thắng khi xưa cùng cái thanh bần của một ông tổng đốc về hưu đã là cái tác nhân rất mạnh kéo ông hòa nhập vào cuộc sống cần lao. Vì nghèo, ông thấm thía cái thê thảm, thậm chí là hèn của kiếp nghèo. Và do vậy phải tính toán: Năm nay cày cấy vẫn chân thua Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa Phần thuế quan Tây phần trả nợ Nửa công đứa ở nửa thuê bò Sứm trưa dưa muối cho qua bữa Chợ búa trầu chè chẳng dám mua (Chốn quê) 75
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Ông tính toán và than thở hệt như một bà nhà quê trong cảnh khốn khó. Bao nhiêu là thứ bổ vào một cuộc sống đã chạm nấc cuối cùng của sự bần bách, chỉ biết trông cậy vào một nghiệp cấy cày. Khốn thay là cái nguồn cung cấp ấy lại quá đỗi bấp bênh, thậm chí nhiều phen thua sạch, mất trắng tay. Phải là người trong cuộc thì mới thấu đáo đến như vậy được. Đã từng nợ, ông than nợ: Lãi mẹ lãi con sinh đẻ mãi Chục năm chục bảy tính nhiều sao Và chung cái thấp thỏm với mọi người về thời giá và thời sự: Gạo dăm ba bát cơ còn kém Thuế một vài nguyên dáng vẫn đòi Mọi thứ tai ương của cuộc đời, của thiên nhiên cứ dồn dập trút hết lên đầu người dân cùng đường. Thơ Nguyễn Khuyến có tất cả. Đó không phải là những lời nhận xét, mô tả lạnh lùng, dửng dưng mà đấy là lời chắt ra tự đáy lòng. Có lẽ Nguyễn Khuyến cũng là một trong những nhà Nho đã nêu gương sáng cho người cầm bút về bài học gắn liền văn chương với thực tế mồ hôi nước mắt. Ông cũng góp một lời bàn xác đáng (bàn một cách gián tiếp) vế cái gốc của văn học. Ông dạy con Các con nối chí cha nên biết Nghiên bút đừng quên lua, đậu, cà Với một cội rễ sâu bền như vậy, thế tất giữa ông với lân gia xóm mạc phải nảy nở những lá cành quan hệ xúm xít xanh tươi. Điều làm nên nét đặc sắc, độc đáo trong mảng thơ quê hương làng cảnh của Nguyễn Khuyến chính là cái chất nhân hậu thấm đẫm trong từng câu, từng bài. Nếu gạt điều này ra, mọi sự tinh xảo, tài hoa đều trở nên chông chênh. Bước vào mảng thơ quê hương của tác giả, ta cảm tưởng ông đã tạo ra một thế giới riêng biệt, tách hẳn với thế giới bên ngoài - thế giới bên trong lũy tre làng. Một cuộc đời xô bồ, náo loạn, nhố nhăng, dữ dằn (như trong thơ Trần Tế Xương) khi dội vào cái làng Và điển hình này chỉ còn là những âm ba mơ hồ vang vọng. Cái lũy tre nhà Cụ Tổng, những lũy trúc quanh co tầng tầng lớp lớp dấu kín dặm vào, những ao chuôm tĩnh lặng, trong xanh đã lọc hết tất cả 76
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX những gì là hỗn tạp ở phía ngoài. Có cảm giác về sự ngưng đọng của thời gian, phảng phất một chút gì như huyền ảo. Chỉ có quan hệ của những con người sống trong đó là có thực, là quấn quýt, phát triển. Một tiệc lên lão mà thành phần dự gồm "chú Láo làng bên sang với tớ - ông từ xóm chợ lại cùng ta", thì đấy là một lối sống, mối quan hệ chan hòa hiếm thấy trong văn chương của những người cỡ như Nguyễn Khuyến. Ở đây không hề gợn một chút cách bức bởi cử tọa tòan là những người rất gần gũi, thân thiết, không chút khách khí: Cách dậu mời ông hàng xóm chén Chuyện tràn thóc lúa với tằm tơ Là sự chân tình: Vải chín bà hàng bưng quả biếu Cá tươi ông lão nhấc xơm chào Ông nhớ hỏi thăm bạn sau cơn thủy quái: Ai lên nhắn hỏi bác Châu Cầu Lụt lội năm nay bác ở đâu Mấy ổ lợn con rày lớn bé Vài nong nếp cái ngập nông sâu Giản di, chân tình và khó có thể thiết thực hơn. Nguyễn Khuyến là nhà thơ có nhiều bài về nỗi sinh ly tử biệt sâu lắng nhất trong làng thơ Việt Nam. Đây là đề tài dễ gây sự đồng cảm, song cũng dễ tạo ấn tượng sáo mòn, nhàm chán, khó diễn đạt hết tình cảm của mình. Nhưng với tài năng, với tình cảm chân tình, Nguyễn Khuyến đã tạo được những vần thơ khóc thương người thân thật cảm động. Chẳng hạn bài Khóc Dương Khuê: Bác Dương thôi đã thôi rồi Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta ( ) Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương Tuổi già hạt lệ như sương Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan Nhẹ nhàng, trân trọng, sâu lắng và không khỏi pha đôi chút đắng cay, suy ngẫm Tất cả được thu kết lại trong "hạt lệ" cạn kiệt khổ đau của người già. Hoặc trong câu đối khóc thương người con đoản mệnh: Bảng vàng bia đá nghìn thu tiếc con người ấy Tóc bạc da mồi trăm tuổi thiệt lắm con ơi 77
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Hoặc những lời thương khóc vợ: Lão cũng đã mừng thay nhờ được bà hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất cả chân nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc. Bà đi đâu vội mấy để cho lão vất va vất vưởng búi tóc củ hành, buông quần lá tọa, gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm. Nói một cách khái quát, Yên Đổ là nhà thơ của muôn nỗi ân tình. 2.3. Nhà thơ quê hương làng cảnh Việt Nam. Nếu đặt Nguyễn Khuyến bên cạnh Tú Xương, ta sẽ thấy một sự tương phản đồng thời lại bổ sung cho nhau trong văn chương của hai nhà. Tú Xương là nhà thơ biệt tài với những lời băm bổ, khinh mạn, nguyền rủa cái xã hội nhố nhăng buổi giao thời chốn thành thị; còn Nguyễn Khuyến là ca sĩ tuyệt vời về những cung bậc tình cảm thẳm sâu nơi thôn dã. Cái dữ dội ở Tú Xương càng làm nổi hơn chất sâu lắng, trầm tĩnh ở Nguyễn Khuyến. Trong toàn bộ di sản văn thơ của Thơ Nguyễn Khuyến, các bài về đề tài quê cảnh chiếm một số lượng khá lớn. Nhiều bài thơ (nhất là thơ Nôm) thực sự là những bức tranh thiên nhiên tuyệt tác. Cảnh sắc bốn mùa: Đông: Xương buốt, tai ù, mình tưởng mượn Nón che tơi phủ khách thưa lời Hạ: Bờ dậu mưa rào tung lá thắm Non xa sấm động toát mây vàng Xuân: Tựa cửa gió reo man mát mặt Ngẩng đầu trời nắng hấp hay mi Thoáng thơm cánh mũi hoa đâu nhỉ Rí rít bờ tre có tiếng chi Cái tài của tác gỉa là không trực tiếp tả cảnh, chỉ nói cái ấn tượng mình cảm nhận được, ấy thế mà cảnh vật lại hiện lên như vẽ. Cái sống động, náo nức, rực rỡ như một vũ hội của âm thanh và ánh sáng; màu sắc và hương vị trên đây rất gần với giọng điệu, phong cách của nột nhà Thơ Mới nào đó. 78
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Tuy nhiên cái làm nên vẻ vang cho Nguyễn Khuyến là những bài thơ về cảnh sắc mùa thu. Với chùm thơ thu (mà tiêu biểu là Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm) ông đã đánh dấu tuyệt đỉnh cho một mảng đề tài của thơ Nôm nước Việt. Đọc thơ quê cảnh của Nguyễn Khuyến, điều lý thú trước hết là ở chỗ ta bỗng nhận ra được vẻ đẹp quyến rũ lạ lùng của những cảnh vật đã quá quen thuộc trong cái nhìn, cách cảm, cách nghĩ của chúng ta. Ta bắt gặp cái cảm giác diệu vợi: Một lá về đâu xa thăm thẳm Nghìn làng trông xuống bé con con Hay nét u tịch của một danh lam: Cổ tự tứ lân duy mộc thạch Hàn tăng nhất tháp cộng vân yên (Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá Sư cụ nằm chung với khói mây) Những bức họa đặc sắc theo lối tranh dân gian: -Cá vượt khóm rau lên mặt nước Bướm len lá trúc lượn rào thưa -Trâu già gốc lụi phì hơi nắng Chó nhỏ cách ao cắn tiếng người Có thể tìm thấy trong thơ ông (đặc biệt là thơ Nôm) hàng loạt cảnh sắc, nền nếp sinh hoạt, những hội hè đình đám đã tồn tại hàng nghìn năm. Nguyễn Khuyến đã đưa vào trong những cảnh, những vật bé mọn cái nhìn của một nghệ sĩ bậc thầy với sức khám phá lớn lao, khiến cho tất cả đều trở nên linh hoạt. Một sáng đầu năm mới: Ình ịch đêm qua trống các làng Ai ai mà chẳng rước xuân sang Rượu ngon nhấp giọng đưa vài chén Bút mới xô tay thử mấy hàng Ngoài lũy nhấp nhô cò cụ tổng Cách ao lẹt đẹt pháo thầy Nhang Những lớp học chữ Nho, những thầy và trò cho đến cách phục sức, cỗ bàn đình đám đều được lưu giữ trong thơ Nguyễn Khuyến. Có thể nói thơ ông là cả một bảo tàng (bằng văn chương) về nếp sống thôn quê. 79
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX * * * Nguyễn Khuyến là một gương mặt độc đáo, đại diện cho lớp Nho sĩ cuối thế kỷ XIX, yêu nước thương nhà nhưng bế tắc về lý tưởng, về hành động. Ông đã để lại cho đời một di sản văn chương quý báu. Đó là tâm huyết của một tài năng xuất chúng, một tâm hồn trong sáng, bình dị, nhân ái, đầy tin yêu. TÀI LIỆU THAM KHẢO - Xuân Diệu, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội, 1982. - Nguyễn Văn Huyền, Nguyễn Khuyến tác phẩm, NXB Văn học, Hà Nội, 1984. - Hòang Ngọc Phách, Lê Thước, Lê Trí Viễn, Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1957. - Nguyễn Phong Nam, Giáo trình văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997 (tái bản 2004). - Nguyễn Phong Nam, Dấu tích văn nhân, NXB Đà Nẵng, 2002. - Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, Hà Nội, 1979. - Hoàng Hữu Yên, Thơ văn Nguyễn Khuyến, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1984. - Viện Văn học, Thi hào Nguyễn Khuyến, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992. 80
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX TRẦN TẾ XƯƠNG 1. Trần Tế Xương - con người, thời đại Trần Tế Xương có rất nhiều tên gọi. Thuở nhỏ, tên của ông là Trần Duy Uyên. Khi đi thi Hương, ông lấy tên là Trần Tế Xương. Về sau lại cải thành Trần Cao Xương. Ông đỗ Tú tài năm Giáp Ngọ (1894) nên còn được gọi là Tú Xương. Tên tự của ông là Mặc Trai, hiệu là Mộng Tích. Trần Tế Xương sinh năm Canh Ngọ (1870), tại làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Năm 15 tuổi (1885), đi thi lần đầu, trải qua 8 lần thi; khoa thi cuối cùng ông dự là khoa Bính Ngọ (năm 1906). Ông mất năm 1907. Cuộc đời của con người tài hoa này thật là ngắn ngủi. Với 37 năm hiện hữu nơi cõi thế, Trần Tế Xương như một ánh sao lạ vụt sáng trên bầu trời văn chương nước Việt. Vì sao ấy lướt qua nhưng không tắt mà lưu mãi ánh sáng của nó cho tận đến hôm nay. Trần Tế Xương sống trong bối cảnh giao thời của xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đấy là một xã hội chưa định hình; chế độ phong kiến đang lụi tàn dần còn xã hội tư bản thì cũng chưa rõ rạng. Năm 1873, Pháp hạ xong thành Hà Nội, hạ tiếp thành Nam Định rồi lập bộ máy hành chính đầu tiên với 28 tên thực dân cùng một lũ tay sai bản xứ đặt dưới quyền cai trị của Hac-măng (Harmand). Vai trò của triều đình Huế tại Bắc bộ đến đây xem như chấm dứt hòan tòan. Chế độ khoa cử cũ còn thoi thóp một thời gian ngắn cho đến khi Pháp trực tiếp nhúng tay vào giáo dục thì mới thực sự tắt hẳn. Cuộc đời Trần Tế Xương là cả một bi kịch về sự bế tắc lý tưởng, thiếu lòng tin vào bản thân và cuộc đời, luẩn quẩn trong hành động. Ông trở nên lạc lõng, hay nói khác đi, ông bị văng bắn ra ngoài vòng quay của xã hội đương thời, trở thành một "con người thừa" bất đắc dĩ. Đây cũng là hình ảnh tiêu biểu của một lớp người thời đại. 2. Vị trí của Trần Tế Xương trong lịch sử văn học Việt Nam Từ trước tới nay khi nhận định về vai trò, vị trí của Trần Tế Xương đối với lịch sử văn học Việt Nam, có những cách nhìn nhận rất khác nhau. Bên cạnh những ý kiến khẳng định, đề cao đóng góp lớn lao của nhà văn cho 81
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX văn học dân tộc, cũng có không ít những lời chỉ trích, phê phán. Có ý kiến cho rằng Trần Tế Xương tuy là người có tài nhưng vì trong cuộc sống luôn luôn nếm mùi thất bại nên ông trở thành kẻ bất mãn. Thơ văn Trần Tế Xương là bằng chứng của một người ưa phá phách, cay cú vì khoa cử. Đây là một con người mà nhân cách không có gì đáng biểu dương, thậm chí còn đáng bị lên án bởi những điều trác lạc ông đề cập đến trong thơ. Trái lại, những người hâm mộ thơ ông lại khẳng định đây là một nhà thơ yêu nước, có tinh thần dân tộc, có nhân cách cao cả, rất đáng được quý trọng. Ông biết căm ghét sâu cay cái xã hội giao thời đầy rẫy những thứ xấu xa, đồng thời luôn luôn dằn vặt vì sự bế tắc, bất lực của bản thân trước cuộc đời. Tuy nhiên dù khen hay chê, cả hai phía đều thống nhất một điểm: đây thực sự là một nhà thơ trào phúng kiệt xuất, một bậc thầy trong nghệ thuật ngôn từ; người khai sinh ra một môn phái thơ trong lịch sử văn học Việt Nam. Và chỉ riêng điều đó cũng đã đủ làm nên vinh quang cho Trần Tế Xương. 3. Thơ ca Trần Tế Xương, những nỗi niềm thế sự, nhân tình. Trần Tế Xương để lại cho đời một di sản văn chương có số lượng rất khiêm tốn. Nếu lọc ra những tác phẩm đích xác của ông, tạm thời gạt ra khỏi danh mục những bài đang tồn nghi, con số không quá trăm bài. Tuy vậy, cái giá trị của chúng xét về phương diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật lại vô cùng to lớn. Thơ ca Trần Tế Xương đã thể hiện một cách cụ thể, chính xác, sinh động tâm trạng chán ngắt, phẫn uất đến cực điểm đối với hiện thực cuộc sống đương thời. Trứơc tiên, đó là nỗi niềm chua xót thổ lộ qua những câu thơ cưòi cợt, phỉ báng đối với Nho học cuối mùa. Trong cả lọat bài thơ than vãn đầy cay đắng (Than nghèo, Than cùng, Than thân chưa đạt ), Trần Tế Xương có một lời than rất độc đáo: Than đạo học. Đây là lời cảm khái não nề nhất về chuyện học hành thi cử - vấn đề vốn rất nghiêm chỉnh đối vói các nhà Nho: Đạo học ngày nay đã chán rồi Mười người đi học chín người thôi Cô hàng bán sách lim dim ngủ Thầy khóa tư lương nhấp nhổm ngồi Sĩ khí rụt rè gà phải cáo 82
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi "Đạo học" là học vấn, là đạo nghĩa thánh hiền. Đến thời này thì đạo học đã tàn, nó đã đến chỗ mạt vận. Đây là thời mà: Nào có ra gì cái chữ Nho Ông nghè ông cống cũng nằm co Phải "nằm co" vì thời của Nho học đã chấm hết. Xã hội biến thiên, nếp sống đã thay đổi và dĩ nhiên "đạo" cũng cần phải thay “mốt”. Lúc này là thời của những kẻ theo Tây học. Thơ Trần Tế Xương còn là giọng trào lộng đầm đìa nước mắt của một nạn nhân trước bi kịch thi cử. Đây là mâu thuẫn giữ lý tưởng và hiện thực. Tâm trạng của Trần Tế Xương là nỗi ngán ngẩm, mệt mỏi, hoang mang đến cực điểm. Con người này đang hết sức bối rối. Một đằng thì ra dáng hăm hở, ấp ủ một lý tưởng, một hoài bão: Tấp tểnh người đi tớ cũng đi Cũng lều cũng chõng cũng đi thi Mặt khác lại tỏ ra khinh thị cái đích mà mình đang vươn tới: - Ví dù thi đỗ làm quan lớn Thì cũng nhỏ to cưới chị hầu - Ví dù nhà nước cho ông đỗ Thì hạng lương ông được mấy đồng? Đi làm cho "nhà nước" sau khi đỗ đạt, theo ông là đáng khinh. Nhưng đã là kẻ sĩ mà không đỗ đạt, không có chút danh gì thì cũng thật vô nghĩa. Cho nên rút cuộc, cái vòng đời của họ cứ luẩn quẩn, tắc tị không lối ra. Dù thế nào chăng nữa, thi cử vẫn cứ là thi cử; hỏng thi vẫn cứ là bi kịch, là tai họa đối với nhà Nho. Có lẽ Trần Tế Xương là người đã hạ được những vần tiêu sái nhất, cay đắng và trào lộng vào bậc nhất về chuyện học hành thi cử: Ngày mai tớ hỏng tớ đi ngay Giỗ tết từ đây nhớ lấy ngày Học đã sôi cơm nhưng chửa chín Thi không ăn ớt thế mà cay Đây rõ là lời di chúc của kẻ tự tận. Thái độ, phản ứng của Trần Tế Xương cũng chuyển biến dần theo số lượt thi hỏng. Lúc đầu, dù hỏng thi vẫn còn có thể trào lộng đùa tếu: Khoa này ta học, khoa sau đỗ 83
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Nhưng rồi khoa sau vẫn hỏng thì đâm buồn: Bụng buồn còn muốn nói năng chi Đệ nhất buồn là cái hỏng thi Rồi đau đớn: Đau quá đòn ghen Rát hơn phải bỏng Cáu quá, phải chửi: Tế đổi làm Cao mà chó thế Kiện trông ra tiệp hỡi trời ơi! Kể ra, cái sự hỏng thi cũng là điều dễ hiểu. Học hành như thế, thi cử như thế thì thi trượt âu cũng sự thường. Nhưng cái mà Trần Tế Xương không chịu được là cảnh nhốn nháo, bất công chốn trường ốc. Ông bày tỏ nỗi ê chề trước một lối thi cử pha tạp: Một đàn thằng hỏng đứng mà trông Nó đỗ khoa này có sướng không Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng Chính nỗi đau này đã đưa những bài thơ phúng thích khoa cử của Trần Tế Xương lên một tầm mức cao mà ít có nhà thơ trào phúng đương thời nào sánh kịp. Ông đã lố bịch hóa cái tấn tuồng thi cử để bày tỏ thái độ phủ nhận của mình. Ký sự về một xã hội giao thời Trần Tế Xương sống trong một hòan cảnh hết sức đặc biệt của lịch sử Việt Nam. Những tháng năm cuối cùng của một xã hội lỗi thời đang tắt và một xã hội mới, nhưng đầy hỗn độn đang hình thành. Đây là một bước thoái hóa, một sự đổ vỡ của những giá trị tinh thần đã được xây đắp qua hàng ngàn năm phong kiến. Người ta bơ vơ, lạc lõng và hoang mang vì những chuẩn mực đạo đực bị phá hoại, bị đảo lộn. Thơ Trần Tế Xương là sự phẫn uất của một hồn thơ trong sạch, lương thiện bị xúc phạm. Ông chế diễu và khinh bỉ những điển hình quái gở: Cũng võng, cũng dù Cũng hèo, cũng quất Ăn cậu cũng "thời" Ngủ bà cũng "giấc" Hai cậu con đóng vai ấm tử, lối bếp bồi 84
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX hai cậu như nhau Đôi đức bà lên mặt phu nhân, ngón đĩ thỏa bà nào cũng nhất Tháng rét quạt lông Mùa hè bít tất Đây là những thứ "hàng giả" mà bất kỳ thời nào, hễ cái thang giá trị xã hội bắt đầu xộc xệch thì chúng lập tức xuất hiện, mọc ra như nấm: Áo quần đinh đáo trông ra cậu Ăn nói nhề nhàng khác giọng Ngô Hỏi mãi mới ra thằng bán sắt Mũi nó gồ gồ trán nó dô Nó là "thằng bán sắt", nhưng trong khi thiên hạ nhốn nháo thì cũng vội nhảy ra sắm vai một anh có học thức. Thật giả cứ lẫn lộn lung tung. Nền nếp nho phong lọan ẩu xô bồ. Cái tai họa phong hóa suy đồi đã len lỏi vào tận từng căn nhà mà phá phách: Nhà kia lỗi phép con khinh bố Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng Nhà thơ kêu trời, than thở: có đất nào như đất này không? Có nơi nào như ở cái xứ Vị Hòang vốn yên ấm, tĩnh lặng thế mà giờ đâm nhộn nhạo đến vậy không? Tình cảnh thật khủng khiếp: Ở phố Hàng Song thật lắm quan Thành thì đen kịt đốc thì lang Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố Đậu lạy quan xin nọ chú Hàn Ông chỉ mặt, liệt kê ra đủ mọi kẻ nhố nhăng, mọi cái kệch cỡm: nhà tu hành chuộng hư vinh (Công đức tu hành sư có lọng); đĩ già làm ra dáng kẻ đạo đức (Đĩ rài đĩ rạc còn tấp tểnh những đương tu lý); nhà Nho cũng thô tục không kém kẻ ô trọc (Ý hẳn thịt xôi lèn chặt dạ - cho nên con tự mới tòi ra); quan lại sâu mọt (Chữ y chữ chiểu không phê đến - Ông chỉ quen phê một chữ "tiền") Trần Tế Xương chĩa ngòi bút sắc nhọn của mình vào tất cả mọi việc, mọi hạng người; thậm chí cả những người vốn chất phác hiền lành: Chí cha chí chát khua dày dép Đen thủi đen thui cũng lượt là Ông đã khiến cho người đọc ghê tởm cái xã hội đương thời bằng cả sự bừa bộn hỗn tạp của các sự kiện, đề tài. 85
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Con người thừa - một hình tượng độc đáo trong thơ Trần Tế Xương Trần Tế Xương là một nhà thơ tài năng nhưng không vừa khuôn thước của chế độ phong kiến. Nếu bình thường, nghĩa là nếu như chế độ phong kiến vẫn tiếp tục tồn tại, thì mẫu người như Trần Tế Xương rất dễ trở thành một nhân vật nổi loạn, chống lề thói cổ hũ từ văn chương dẫn đến gươm dao như trường hợp Cao Bá Quát. Ta cũng có thể giả định Trần Tế Xương sẽ có mặt trong lớp người tiên phong của cuộc cách mạng tư sản dân quyền. Nhưng mà xã hội Việt Nam lúc này lại là sự lai tạp giữa những cái mục ruỗng, xấu xa. Thế là Trần Tế Xương mặc nhiên bị văng bắn ra ngoài vòng quay của xã hội đương thời. Ông trở thành một con người thừa chẳng ăn nhập vào đâu cả. Trần Tế Xương ý thức rõ điều này: Trời đất sinh ra chán vạn nghề Làm thầy, làm thợ, lại làm thuê Bác này mới thật thái vô tích Sáng vác ô đi tối vác về Chính sự đảo lộn của xã hội đã dẫn đến bi kịch cá nhân. Làm thầy: hòan tòan thất vọng (Mô phạm tiên sinh quần dính đít - Bô xu tiểu tử khố cong bòi); làm thợ: không được; bởi vì những con người kiểu Trần Tế Xương vốn được xã hội liệt thành một giai tầng riêng, hòan tòan không có khả năng họat động thực tiễn; đi làm thuê: ông không thể chấp nhận (làm thuê này là làm thông ngôn ký, phán cho nhà nước, làm tay sai). Vậy chỉ còn có một cách, một "công việc" là "sáng vác ô đi tối vác về". Câu thơ diễn tả một lối sống quẩn quanh, bế tắc, tự dối mình, vô tích sự. Xã hội đó không dung những con người như Trần Tế Xương mà bản thân Trần Tế Xương cũng không cần hòa nhập với xã hội đó. Đây có thể là một trong những nguyên nhân cho "khuynh hướng ăn chơi" trong thơ ông. Thực ra thì những gì gọi là hành lạc trong thơ Trần Tế Xương không phải đều là sự thật tất cả. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ, nó chứng tỏ Trần Tế Xương rất có ý thức về hành vi của mình. Ông muốn dùng ngay những điều đó để giễu đời, giễu thiên hạ. Khác với các nhà thơ khác, ông không hề có ý định che dấu hành vi của mình (dù hành vi đó trái với chuẩn mực đạo đức đương thời). Trái lại, ông có vẻ tự đắc, khoe khoang là đằng khác: Vị Xuyên có Tu Xương Dở dở lại ương ương Cao lâu thường ăn quỵt 86
- Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX Thổ đĩ lại chơi lường Ông muốn đẩy mình tới tận cùng sự cực đoan để đối chọi lại những kẻ muốn che đậy bằng son phấn. Đã không thèm che đậy, ông còn lỡm thiên hạ bằng sự "uyên bác" trong mớ kinh nghiệm trác lạc của mình. Ông tự coi mình là bậc thầy về các ngón ăn chơi: Dạy câu Kiều lẩy Dạy khúc lý kinh Dạy những khi xuống ngựa lên xe đứng ngồi phải phép Dạy những khi cao lâu chiếu hát ăn nói cho sành Con người này khao khát sống một cuộc đời có ý nghĩa, sống một cách tốt đẹp nhưng xã hội không cho phép làm điều đó. Mọi cái nhảm nhí, vô nghĩa cứ thít chặt lấy khiến ông không làm sao bứt ra nổi. Ông thấy bực bội, muốn phá phách tung hê tất cả rồi thoắt lại trở nên tư lự, buồn bã, ngán ngẩm. Cái nỗi buồn của Trần Tế Xương là một trạng thái khá phức tạp của tình cảm. Đó là nỗi buồn do bi kịch cá nhân, một sự thấm thía về số phận, lại vì do bi kịch của dân tộc, của thời đại. Rõ ràng đấy là một biến thái của tâm trạng bế tắc về lý tưởng sống của những con người kiểu Trần Tế Xương. Họ không tìm ra lối thoát trong hiện thực, không đủ dũng khí để cầm súng cầm gươm nhưng họ cũng không thèm làm tay sai, không chấp nhận phò Tây hại nước. Ở họ nảy sinh một ý thức chống đối, phá phách bằng mọi kiểu đối với cái hiện thực vô lý trước mắt. Nỗi u hoài về đất nước Đối với thói đời đen bạc, Trần Tế Xương chửi rất tục, rất phàm. Ông tung lên giấy tất cả sự phẫn nộ của mình bằng những ngôn từ ghê gớm nhất. Đấy là những câu thơ phá phách, văng bửa, vùng vằng với xã hội. Nhưng lại cũng chính ông, tác giả của những vần thơ sâu lắng, đậm đà ân nghĩa, da diết những nỗi niềm dân quốc, nước nhà. Điểm nổi bật của những vần thơ này là chất hoài cựu về một giang sơn đã chịu nhiều biến cải. Đó là tâm trạng hoài cổ trước cơn dâu bể của quê hương: Trời kia khiến vậy sông nên bãi Ai khéo xui nên phố cả làng Trần Tế Xương hay bằng vào một sự biến cụ thể nào đó của địa dư, cảnh vật mà trừu tượng nó lên thành ra một nỗi niềm vong quốc 87