Giáo trình Văn học trẻ em (Phần 1)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Văn học trẻ em (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_van_hoc_tre_em_phan_1.pdf
Nội dung text: Giáo trình Văn học trẻ em (Phần 1)
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH Phan Xuân Phồn GIÁO TRÌNH VĂN HỌC TRẺ EM (Dùng cho ngành GD Mầm non – hệ đào tạo từ xa) Vinh, 2011
- LỜI GIỚI THIỆU Văn học trẻ em là bộ phận trọng yếu trong chương trình giáo dục của sinh viên ngành GD Mầm non. Cuốn sách được biên soạn với nguyên tắc vừa là giáo trình, vừa được mở rộng dưới hình thức tài liệu tham khảo. Hy vọng cuốn sách sẽ giúp ích phần nào cho học viên trong việc học tập môn học này. Do trình độ của người biên soạn còn hạn chế, cuốn tài liệu này không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp và anh chị em học viên. Các tác giả.
- MỞ ĐẦU KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC TRẺ EM I- Đại cương về văn học trẻ em. 1. Khái niệm: Văn học trẻ em là những sáng tác do các em viết và do các nhà văn chuyên nghiệp viết cho các em, bao gồm những tác phẩm có mặt trong văn học truyền miệng của dân tộc cho tới những tác phẩm hiện đại, gồm cả những tác phẩm trong nước và ngoài nước. 2. Các bộ phận cấu thành: Văn học trẻ em gồm hai bộ phận lớn: - Văn học dân gian trẻ em. - Văn học viết trẻ em Trong mỗi bộ phận lại có 2 loại tác phẩm: + Những sáng tác cho trẻ em. + Những sáng tác của trẻ em. 3. Đặc trưng thơ văn cho trẻ em a) Văn học trẻ em đáp ứng yêu cầu giáo dục Những nhà văn, nhà hoạt động văn hoá lớn của Liên Xô (cũ) như M.Gorki; C.X.Mikhancôp, M.K.Gupxcaia đều cho rằng sách cho trẻ em về bản chất là phương pháp và biện pháp giáo dục. Giáo dục ở đây được hiểu theo nghĩa rộng: là công cụ giúp trẻ nhận thức cuộc sống, giúp trẻ cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, xã hội, tâm hồn con người. Những nội dung giáo dục trong văn học dành cho trẻ cần phải được thể hiện rõ ràng. Tính cách, nhân vật phải được thể hiện rõ cái tốt và cái xấu. Thái độ yêu, ghét của tác giả cũng cần phải phân minh. b) Văn học trẻ em phải đảm bảo tính nghệ thuật của thơ, truyện cho trẻ Trẻ sẽ chán và không chấp nhận những câu chuyện khô khan như những bài giảng về đạo đức. Nhiều nhà văn, nhà sư phạm đã khẳng định văn học cho trẻ cần được viết một cách có nghệ thuật trong ý nghĩa đặc biệt của nó. Tác phẩm cho trẻ em không phải là hoàn toàn lặp lại tiếng nói của trẻ em mà phải làm giàu thêm vốn hiểu biết và tiếng nói của trẻ. Nó phải được viết một cách rực rỡ, trong sáng, nhí nhảnh (Dế mèn phiêu lưu ký- Tô Hoài). Cái quan trọng không phải kể về những cái gì mà ở chỗ kể như thế nào. Chính vì vậy những tác phẩm hay được trẻ yêu thích không phải là nhiều. Con lợn qua cách miêu tả của Võ Quảng:
- Lưng mày múp míp Mắt mày húp híp Đuôi mày ngúc ngoắc Miệng thì nhóp nhép Gà mái đẻ nhảy ổ thì thật ngộ nghĩnh: Bỗng mái hoa đổi nết Cái đầu nó nghếch nghếch Cái cổ nó thót thót Nó kêu tót tót tót. Hồn nhiên, giàu trí tưởng tượng trong cách tư duy của Trần Đăng Khoa: Cánh diều no gió Tiếng nó trong ngần Diều hay chiếc thuyền Trôi trên sông ngân (Thả Diều - Trần Đăng Khoa) Quả dừa đàn lợn con nằm trên cao Đêm hè hoa nở cùng sao Tàu dừa chiếc lược chải vào mây xanh (Cây dừa - Trần Đăng Khoa) - Tác phẩm cho trẻ khi đạt yêu cầu về giáo dục về nghệ thuật chính là đảm bảo được tính thống nhất giữa nội dung và hình thức văn học. c) Văn học cho trẻ em phải đảm bảo về tính vừa sức : Văn học cho trẻ em cần phải tính đến khả năng tâm lý của lứa tuổi, cụ thể là khả năng ngôn ngữ, sức tập trung chú ý, đặc điểm tư duy.Trẻ lớp 1: Đọc truyện tranh .Trẻ lớp 2 + 3: Không nhất thiết phải là truyện tranh nhưng dung lượng bài văn, bài thơ phải vừa phải. Một bài thơ chỉ giới hạn từ 10 - 20 câu. Chuyện kể đơn giản, cốt truyện rõ ràng, số lượng nhân vật ít, có thể là thần thoại. Trẻ lớp 4 + 5: Tư duy phát triển, có nhận thức cao hơn có thể kể những chuyện cổ tích dài hơn: Tấm Cám, truyện ngụ ngôn có mâu thuẫn, xung đột, nhân vật có tính cách ; thơ gợi sự suy nghĩ, yêu cầu nhận xét. VD: Thầy bói xem voi, Đeo lục lặc cho mèo, Dế mèn phiêu lưu ký, Đất rừng Phương Nam, Mẹ ốm hay : Mái tranh ơi hỡi mái tranh Ngấm bao nhiêu nắng mà thành quê hương
- (Trần Đăng Khoa) Nắng mưa từ những ngày xưa Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan Sáng nay trời đổ mưa rào Nắng trong trái chín ngọt ngào bay hương Cả đời đi gió về sương Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi ( Trần Đăng Khoa) 4) Ý nghĩa nhiệm vụ - Ý nghĩa của văn học đối với trẻ em được quy định từ chính ý nghĩa của văn học từ bản chất nhận thức, thẩm mỹ, giáo dục của văn học. - Qua bài thơ, câu chuyện trẻ được biết thêm về thế giới xung quanh, về tự nhiên, xã hội. Đó là thế giới của các loài vật, của con người và thiên nhiên: qua truyện cổ tích, thần thoại Trẻ biết được phong tục tập quán của dân tộc là gói bánh chưng, bánh dày để lễ tết, tưởng nhớ đến tổ tiên qua chuyện “Bánh chưng, bánh dày”. - Giúp trẻ nhận thức được những mối quan hệ vốn có của nó: Quan hệ trong gia đình, ngoài xã hội, giáo dục trẻ về lẽ sống, về đối nhân xử thế: Cây khế, Tấm Cám - Nhiều bài thơ ca ngợi thiên nhiên thông qua sự ca ngợi đó là giáo dục lòng yêu thiên nhiên, yêu con người, giúp trẻ cảm nhận được vẻ đẹp của quê hương đất nước, yêu quý lao động: Hạt gạo làng ta (Trần Đăng Khoa). - Nhiều bài thơ có giá trị thẩm mỹ độc đáo văn học ngoài ý nghĩa tiếp tục với môn học, còn có ý nghĩa tiếp xúc với nghệ thuật ngôn từ: E.U.Tri khê-ê-va, nhà giáo dục học Liên Xô khẳng định rằng trẻ em học được rất nhiều tiếng mẹ đẻ qua văn học, đặc biệt là văn học dân gian. * Nhiệm vụ cụ thể: 1 –Văn học trẻ em giúp trẻ hình thành khả năng cảm thụ văn học - Sự cảm thụ và khả năng bộc lộ cảm xúc trước các câu chuyện bài thơ xuất phát từ chính nội dung nghệ thuật của thơ, chuyện. Ngay từ bé việc nghe việc nghe chuyện thơ là đã là một nhu cầu nội tại của trẻ. - Văn học trẻ em giúp trẻ hình thành lòng yêu thích văn học, bồi dưỡng tri thức văn học cho trẻ cũng như khả năng cảm thụ thơ văn của trẻ. Từ đó trí tưởng
- tượng của trẻ phát triển, sức sáng tạo văn thơ có thể nảy nở, hình thành ở trẻ em có năng lực, tư chất văn học: Buổi sáng nhà em, Cây dừa (Trần Đăng Khoa). 2 - Văn học trẻ em góp phần giáo dục đạo đức cho trẻ Chuyện, thơ như là phương tiện hữu hiệu giáo dục trẻ lòng yêu quê hương, yêu bố mẹ, ông bà, yêu những việc làm tốt, phê phán những việc làm xấu, kính yêu Bác Hồ, chăm làm, thật thà Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa Công cha như núi Thái Sơn Ảnh Bác, khi mẹ vắng nhà Ở lứa tuổi này trẻ đặc biệt nhảy cảm trước những vấn đề thuộc về tình cảm. Bởi vậy tư tưởng của nhiều bài thơ, câu chuyện đem đến cho trẻ là lòng yêu thương, giáo dục lòng nhân ái cho trẻ: Ảnh Bác, khi mẹ vắng nhà (Trần Đăng Khoa); ca ngợi tình bạn, tình người: Con chim cu gáy, Con gái người chăn cừu, tục ngữ về đạo đức của nhân dân ta, Nàng Bạch Tuyết và Bảy chú lùn, Cô bé lọ lem, Sự tích chim Quốc 3 – Văn học trẻ em rèn luyện kĩ năng đọc và kể cho trẻ Dạy văn học cho thiếu nhi không phải là đọc, kể thơ văn cho trẻ mà còn bao gồm cả việc tập cho trẻ kể lại chuyện, đọc thuộc thơ một cách diễn cảm, đóng các vai trong truyện thơ Qua đó rèn luyện kỹ năng đọc, kể truyện thơ cho trẻ. Từ đó phát triển vốn ngôn ngữ của trẻ, hoàn thiện dần ngữ âm, ngữ điệu của giọng đọc, lời nói, nắm vững dần các cấu trúc ngữ pháp. Câu hỏi ôn tập Câu 1: Ý nghĩa của tác phẩm văn học đối với đời sống trẻ em. Câu 2: Nêu đặc trưng của văn học trẻ em. Câu 3: Vì sao nói: tác phẩm văn học rèn luyện kĩ năng đọc, kể diễn cảm cho trẻ. Câu 4: Các bộ phận cấu thành của văn học trẻ em?
- CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC DÂN GIAN I. KHÁI NIỆM VĂN HỌC DÂN GIAN Từ thủa tạo sinh và qua quá trình phát triển, có lúc con người ta đứng trước không gian bao la mà ngơ ngác hỏi nhau: Trời sinh ra từ đâu? Đất sinh ra từ đâu? Người sinh ra từ bao giờ? (Dân ca Lô Lô) Núi kia ai đắp mà cao Sông kia ai bới ai đào mà sâu (Ca dao Việt Nam) Cho đến hôm nay và cả mai sau con người đã có thể chinh phục thiên nhiên, bay vào vũ trụ làm việc với tốc độ “ngày dài hơn thế kỷ” nhưng suốt cả tiến trình ấy luôn có một dòng văn học như mạch nước ngầm chảy liên tục và “bám sát lịch sử một cách độc đáo” (Gorki), đó là văn học dân gian. Vậy văn học dân gian là gì: - Thuật ngữ văn học dân gian gồm hai vế: 1. “Văn học”: Chỉ bộ phận sáng tạo nghệ thuật bằng chất liệu ngôn từ. 2. “Dân gian”: - Lưu hành trong nhân dân bằng cách truyền miệng. - Đóng vai trò như tính từ chỉ tính chất, vai trò, đặc trưng loại biệt của dòng văn học này. Trước đây có rất nhiều tên gọi khác nhau để chỉ dòng văn học này: Văn chương bình dân (phân biệt văn chương bác học ) - Thanh Lãng, Văn chương truyền khẩu - “Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam” do nhóm Văn Tân biên soạn. Đến những năm 50 của thế kỷ XX thuật ngữ “văn học dân gian” mới xuất hiện. Năm 1960 thành lập Hội văn nghệ dân gian Việt Nam và năm 1983 “Viện văn hoá dân gian” Việt Nam ra đời tạo điều kiện cho văn học dân gian trở về với cội nguồn phát sinh và phát triển của nó. Vấn đề ở đây là mối quan hệ giữa nghệ thuật ngôn từ và các loại hình nghệ thuật khác: Liên quan đến thuật ngữ folklore (- Folk: nhân dân, - Lore: Sự hiểu biết, khoa học) do nhà nhân chủng học người Anh là Uyliam Tôm Giôn (bút danh Mectơn) đưa ra lần đầu tiên năm 1846. Chung quy có hai quan điểm hiểu và sử dụng thuật ngữ này. 1- Folklore là tất cả các hiện tượng của nền văn hoá tinh thần và văn hoá vật chất.
- 2 - Folklore chỉ giới hạn trong khuôn khổ những sáng tác ngôn từ truyền miệng (sáng tác văn học) của nhân dân. Như vậy thuật ngữ folklore khi chuyển dịch sang tiếng Việt có những tên gọi: “Văn hoá dân gian”, “Văn nghệ dân gian”, “Văn học dân gian”. Có thể phân biệt ba khái niệm: Văn hoá Văn (văn học dân gian) Văn hoá dân gian vât chất Văn nghệ dân gian Văn hoá Nghệ Tinh thần Phong tục tập quán Định nghĩa: Văn học dân gian là thành phần nghệ thuật ngôn từ trong sáng tác có tính chất tổng hợp của nhân dân lao động, hay: văn học dân gian là những thể loại sáng tác dân gian trong đó thành phần nghệ thuật ngôn từ (tức thành phần văn học) chiếm vị trí quan trọng, song bao giờ nó cũng có mối quan hệ hữu cơ với các thành phần nghệ thuật và phi nghệ thuật khác (lời, nhạc điệu - vũ điệu) Định nghĩa này chỉ ra được tác giả của nó là nhân dân lao động và chỉ ra được phương tiện vật chất là nghệ thuật ngôn từ. (Khác văn học viết ngôn từ mang tính chất thuần tuý, còn ở đây ngôn từ mang tính chất tổng hợp). II. ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN 1. Thời điểm phát sinh So với văn học viết thì văn học dân gian ra đời trước và rất sớm, còn văn học viết ra đời khi có chữ viết xuất hiện (thế kỷ X). Thời điểm phát sinh của văn học dân gian gắn liền với nguồn gốc của văn học nghệ thuật. Văn học dân gian ra đời từ thời kỳ công xã nguyên thuỷ kho con người còn chưa có sự phân công lao động (chân tay, trí óc) hoặc chỉ là sự phân công lao động ở trình độ thấp. Đặc tính chung bao trùm của văn học dân gian là tính nguyên hợp (syncretique). 2. Chức năng
- - Cũng như văn học nói chung, văn học dân gian có đầy đủ các chức năng: Nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ, giao tiếp, giải trí, thông báo. Ngoài ra văn học dân gian còn có chức năng riêng biệt: chức năng thực hành (sinh hoạt). Văn học dân gian nảy sinh từ những hoạt động thực hành (sản xuất, chiến đấu, nghi lễ, trao đổi tâm tình ), đến lượt nó văn học dân gian lại phục vụ các hoạt động thực hành một cách đắc lực. Nói cách khác, văn học dân gian hình thành nhằm đáp ứng những nhu cầu khác nhau của con người. VD: đáp ứng nhu cầu nhận thức, lý giải thiên nhiên, tự nhiên thần thoại ra đời, đúc kết kinh nghiệm sản xuất có tục ngữ, nhu cầu tình cảm có ca dao. Do chức năng thực hành chi phối văn học dân gian gắn chặt với đời sống. VD: từ trong lao động xuất hiện các điệu hò (hò giã gạo, hò kéo lưới, kéo gỗ ), từ trong sinh hoạt gia đình xuất hiện các điệu ru con, ru cháu - Là một loại hình có tính nguyên hợp văn học dân gian đảm nhiệm, nhiều chức năng khác ngoài chức năng của văn học như: Sử học, tâm lý học, giáo dục học, xã hội học, dân tộc học, y học Văn học dân gian như cái túi vạn năng đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau của cuộc sống con người. Tính nhiều chức năng của văn học dân gian tạo cho nó đặc điểm nặng về khái quát hoá lại nhẹ về cá thể hoá (nhân vật không có cá tính ) 3. Các thuộc tính cơ bản a) Truyền miệng và biểu diễn: - Truyền miệng là một thuộc tính dễ nhận thất và được nhận thức sớm nhất của văn học dân gian. Truyền miệng là phương thức tồn tại của văn học dân gian. Từ việc sáng tác đến lưu truyền và phổ biến đều bằng phương tiện truyền miệng. Truyền miệng là phương thức sản xuất của văn học dân gian, cùng song song tồn tại với phương thức văn bản của văn học viết. Hai phương thức này không hề loại trừ nhau và thay thế nhau mà nó bổ sung và quan hệ với nhau. - Tính biểu diễn: (diễn xướng) của văn học dân gian là một thuộc tính mới được nhận thức khi nghiên cứu nótg mối quan hệ văn nghệ dân gian. Văn học dân
- gian được truyền miệng thông qua sự biểu diễn của nhân dân. Với tư cách là một nghệ thuật biểu diễn hơn là của một nghệ thuật sân khấu. Trên thực tế nhân dân kể chuyện cổ tích chứ không phải đọc, hát cao dao chứ không phải đọc ca dao, diễn chèo chứ không kể chèo. Sự biểu diễn của văn học dân gian khác với biểu diễn mang tính chất chuyên nghiệp. Văn học dân gian tồn tại và phát triển trước hết là vì nhu cầu được sáng tác (trong lĩnh vực sản xuất tinh thần chưa chuyên môn hoá) của chính những người sáng tác và diễn xướng của chính nhân dân lao động sau đó mới đến nhu cầu thưởng thức văn nghệ. Đối với văn học dân gian người biểu diễn và người thưởng thức có khi chỉ là một văn học dân gian đáp ứng nhu cầu tự bộc lộ (biểu hiện) ở mỗi người. Văn học dân gian chỉ tồn tại một cách sinh động và thực sự đầy đu trong sự biểu diễn của nhân dân trong cuộc sống. Văn học dân gian tồn tại một cách sinh động trong cuộc sống, trong dạng thức biểu diễn gọi là: folklore sống động. Văn học dân gian tồn tại trên sách vở : Folklore tĩnh tại. b) Tính tập thể và vô danh - Nói đến tính tập thể là chúng ta vừa nói đến một hình thức đặc trưng của sự sản xuất nghệ thuật, lại nói cả về phương diện là một phạm trù thẩm mỹ của văn học dân gian. - Về phương thức sáng tác: Mỗi tác phẩm văn học dân gian là sự gia công của nhiều người qua nhiều thế hệ khác nhau. Tuy nhiên, sự sáng tạo tập thể ở đây không hề đối lập với vai trò cá nhân. Những bộ sử thi lớn của thế giới như Iliat - Ôđixê (Hy Lạp) Ramayana, Mahabharata (Ấn Độ), Đẻ đất đẻ nước, Đam San (Việt Nam) thường là kết quả sáng tác của nhiều người qua nhiều thế hệ, nhiều vùng quê khác nhau nhưng không loại trừ vai trò của những người có học vấn. Có thể ban đầu là sáng tác của một người nhưng do quá trình lưu truyền phù hợp với tâm lý của nhân dân quần chúng, được nhiều người chấp nhận, nhiều người gia công, lưu truyền, sửa chữa trở thành tác phẩm tập thể và người sáng tác ban đầu bị lãng quên.
- Do quá trình sáng tạo như thế gọi là tính vô danh (không có tên tác giả). Tính vô danh là hệ quả của tính tập thể (khác với tính khuyết danh của một số tác phẩm). Tại sao văn học dân gian mới có một số tác phẩm lại có tác giả? c) Tính dị bản Trong quá trình lưu truyền bằng miệng, có hai yếu tố thường được sử dụng: truyền thống và ứng tác. - Truyền thống là những bài, những câu đã có sẵn, nghệ nhân chỉ việc học thuộc và biểu diễn lại. - Ứng tác: Tuy nhiên trong lúc truyền lại tác phẩm của người xưa các nghệ nhân dân gian tuỳ theo hoàn cảnh và mục đích sáng tạo nên những tác phẩm hoặc phiến đoạn mới đó là phần ứng tác. Như vậy ứng tác nảy sinh ngay kịp thời trong một hoàn cảnh văn hoá văn nghệ dân gian nào đó. Nếu ứng tác nào hay được nhân dân thừa nhận thì sẽ bổ sung vào phần truyền thống. Từ đó phần ứng tác trong văn học dân gian nảy sinh một thuật ngữ khác là tính dị bản. (?) Vậy văn học viết có dị bản không? Vì sao ? Dị bản văn học dân gian khác gì dị bản của văn học viết? d) Tính địa phương và tính quốc tế: - Văn học dân gian thường là sản phẩm của từng vùng, từng miền mang tình cảm tự cung tự cấp nên nó mang dấu ấn địa phương rất rõ, nó biểu hiện ở ngôn ngữ, điều kiện sống, phong tục tập quán, tính cách con người. - Văn học dân gian rất giàu tính địa phương nhưng cũng rất đậm tính quốc tế . Văn học dân gian các nước trên thế giới rất gần gũi nhau vể thể loại, hình thức biểu hiện cũng như nội dung tư tưởng- Thể hiện qua các típ, mô típ Sự trùng hợp có quy luật chữ không phải ngẫu nhiên vì đều là sáng tạo của nhân dân lao động, gần gũi nhau về tâm tư, tình cảm, ước vọng III- VẤN ĐỀ PHÂN LOẠI VĂN HỌC DÂN GIAN 1. Mục đích
- - Phân loại để tách bộ phận ra khỏi chỉng thể nhằm nghiên cứu sâu hơn và chính xác hơn. - Một sự phân loại đúng sẽ góp phần quan trọng trong việc nhận thức bản chất của đối tượng đang được nghiên cứu. 2. Tiêu chí của sự phân loại Có thể được định ra bởi mục đích nghiên cứu, cần phải có sự thống nhất. Có nhiều cách phân loại do dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. 3. Tình hình phân loại: 3 loại chính. (1) Phân loại theo truyền thống dân tộc (tâm lý dân tộc) chia văn học dân gian thành nhiều thể loại nhỏ: truyền thuyết, cổ tích (2) Phân loại theo tiêu chuẩn quốc tế: Chia văn học dân gian thành các loại hình: Tự sự, trữ tình; từ đó chia ra các thể loại nhưng có những thể loại không xếp được vào loại hình nào cho phù hợp (tục ngữ, câu đố). (3) Phân loại theo phương thức biểu diễn của văn học dân gian: Hiện taị phân thành bốn phương thức: kể, nói, hát, diễn. Trong từng phương thức lại chia thành các loại: kể: thần thoại, cổ tích; nói: tục ngữ, câu đố (khác phân loại 2). Cho đến nay việc phân loại văn học dân gian đang là vấn đề có tính thời sự cần tiếp tục nghiên cứu. Tựu trưng có thể chia ra ba cấp độ trong phân loại: A: Loai hình: Tự sự, trữ tình, kịch. a: Thể loại: Tự sự: thần thoại, truyền thuyết a : Tiểu loại: Cổ tích - thần kỳ - Thế sự - Loài vật. IV - VAI TRÒ VÀ TÁC DỤNG CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN 1. Đối với văn học nghệ thuật - Văn học dân gian bao giờ cũng là cơ sở văn học và nghệ thuật của bất kỳ dân tộc nào trên thế giới. Văn học dân gian là tiền đề, cảm hứng, ảnh hưởng lớn đến văn học viết. - Đối với văn học Việt Nam từ khi chưa có chữ viết văn học dân gian là duy nhất nhưng khi có chữ viết (thế kỷ X) nó vẫn song song tồn tại, phát triển.
- Các tác giả văn học lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học dân gian. Đối với các ngành nghệ thuật khác, văn học dân gian đóng vai trò là nền tảng. 2. Đối với đời sống con người - Nhìn chung văn học dân gian góp phần to lớn trong việc hình thành bản sắc, bản lĩnh dân tộc. Với tư cách là một phương tiện giao tiếp độc đoá của nhân dân, văn học dân gian đã hoàn thành các chức năng xã hội của nó. Góp phần thống nhất tư tưởng của mọi người, cổ vũ giai cấp đấu tranh chống lực lượng thù địch: thiên tai, bão lụt, thúc đẩy quá trình hình thành thế giới quan, nhân sinh quan, bồi dưỡng tinh thần dân chủ, lạc quan. Văn học dân gian như cuốn bách khoa toàn thư dạy khôn cho con người. - Khi xã hội chưa phân chia giai cấp, văn học dân gian là vũ khí đấu tranh giai cấp sắc bén. Bác gọi “những sáng tác ấy là những hòn ngọc quý”. Nếu không học văn học dân gian đến một lúc nào đó chúng ta sẽ giàu của cải nhưng nghèo về tình thương. Câu hỏi: 1 - Văn học dân gian là gì ? Phân tích và giải thích định nghĩa. 2- Phân biệt văn học dân gian, văn nghệ dân gian, văn hoá dân gian 3- Thế nào là tính nguyên hợp của văn học dân gian? Cho ví dụ. 4- Trong các thuộc tính của văn học dân gian, thuộc tính nào là cơ bản nhất? Vì sao?
- VĂN HỌC DÂN GIAN CHO TRẺ EM CHƯƠNG 2: CÁC THỂ LOẠI CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN I- THẦN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT LÀ GÌ ? 1. Vấn đề phân chia thần thoại và truyền thuyết Có nên chia thần thoại và truyền thuyết ra hai thể loại của văn học dân gian hay không? Đây là một vấn đề được một số học giả đề cập và có những ý kiến không thống nhất. - Một số học giả cho rằng không nên chia thần thoại và truyền thuyết thành hai thể loại - chỉ gọi là thần thoại chứ không có truyền thuyết. Quan niệm này được lý giải trong sách Văn học dân gian của Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên (ĐHTH). Theo hai ông truyền thuyết là danh từ thuộc về dã sử, nó không bao hàm giới thuyết và một thể loại văn học nhất định. - Một số học giả khác quan niệm rằng thần thoại và truyền thuyết là hai thể loại của văn học dân gian (giáo trình ĐHSP) Nhìn chung cả hai quan niệm trên đều có lý, song quan niệm thứ hai vẫn có sức thuyết phục và được nhiều người chấp nhận hơn. 2. Định nghĩa a) Thần thoại: Là những truyện kể về thần, xuất hiện vào giai đoạn sau của thời kỳ cuộc sống nguyên thuỷ, nhằm lý giải các hiện tượng tự nhiên và một số vấn đề xã hội, đồng thời thể hiện khát vọng chinh phục thiên nhiên của người nguyên thuỷ. Truyện có tính chất hoang đường kỳ ảo, được xây dựng trên sự tưởng tượng mang tính chất ấu trĩ, ngây thơ. - Thần thoại là tập hợp những truyện kể dân gian về các vị thần, các nhân vật anh hùng thần linh, các nhân vật sáng tạo văn hoá thần linh, phản ánh quan niệm của người thời cổ về thế giới tự nhiên và đời sống xã hội của con người (Lê Chí Quế) b) Truyền thuyết: Là những truyện có tính chất hoang đường kỳ diệu, xuất hiện vào buổi bình minh của lịch sử (gần sử thi). Nó nhằm phản ánh quá trình dựng nước và giữ nước, đồng thời biểu dương ca ngợi sức mạnh của những anh hùng yêu nước. - Truyền thuyết là một thể loại trong loại hình tự sự dân gian phản ánh những sự kiện, nhân vật lịch sử hay di tích cảnh vật địa phương thông qua hư cấu nghệ thuật thần kỳ (Lê Chí Quế).
- “Những truyền thuyết dân gian thường có một cái lõi là sự thật lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lý tưởng hoá gửi gắm vào đó tâm tình thiết tha của mình cùng với thơ và mộng, chắp đối cánh của sức tưởng tượng và nghệ thuật dân gian làm nên những tác phẩm văn hoá mà đời đời con cháu ưa thích” (Phạm Văn Đồng: nhân ngày giỗ tổ vua Hùng. Báo Nhân dân ra ngày 29/4/1969). c) Phân biệt - Thời điểm xuất hiện: Thần thoại ra đời trước truyền thuyết vào thời đại dã man. Truyền thuyết nảy sinh trên cơ sở thần thoại khi con người bước vào ngưỡng cửa của thời đại văn minh, thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Tuy nhiên có một số truyện như “Họ Hồng Bàng” nhập nhằng giữa thần thoại và truyền thuyết. - Chức năng Thần thoại nhằm nhận thức và lý giải tự nhiên. Nó thể hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong đó con người là bản thể. Truyền thuyết nhằm nhận thức và lý giải lịch sử. Nó phản ánh những biến cố trọng đại có ý nghĩa toàn dân, phản ánh mối quan hệ giữa con người và lịch sử. - Nhân vật Thần thoại: Thần hay bán thần. Thần trong thần thoại là những lực lượng tự nhiên được đồ chiếu theo dạng người. Truyền thuyết: Nhân vật thường là những anh hùng lịch sử được thần thánh hoá. Con người trong truyền thuyết là những người khác thường không phải những người đời thường như trong cổ tích. II. NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN. 1. Thần thoại a) Nguồn gốc của thần thoại - Chủ nghĩa duy tâm cổ điển (Heghen) cho rằng: thần thoại có nguồn gốc từ tôn giáo tự nhiên. - Chủ nghĩa duy vật (Mác - Angghen) khẳng định thần thoại bắt nguồn từ cuộc sống và lao động chiến đấu của người nguyên thuỷ. Vậy tại sao người nguyên thuỷ khi phản ánh cuộc sống lao động chiến đấu lại tuởng tượng đến các vị thần? Người nguyên thuỷ sống trong thời đại dã man, trình độ hiểu biết rất thấp kém và dường như hoàn toàn lệ thuộc vào tự nhiên. Giống như đứa trẻ mới ra đời và bắt đầu biết nhận thức. Con người lúc đó mới hiểu biết tất cả thế giới xung quanh mình để dần dần chiếm lĩnh nó. Đối tượng nhận thức rất rộng lớn, khát vọng rất cao xa nhưng
- trình độ hiểu biết lại thấp kém, do đó họ phải dùng tưởng tượng và mượn tưởng tượng để thoả mãn những yêu cầu đó và dẫn tới sự giải thích sai lầm “Bất cứ thần thoại nào cũng dùng tưởng tượng và mượn tưởng tượng để chinh phục sức tự nhiên” (Mác) - Thần thoại là nghệ thuật vô ý thức. Người nguyên thủy chưa có ý thức làm nghệ thuật, họ chỉ mượn tưởng tượng để khám phá những bí ẩn của vạn vật - gắn liền với mục đích rất thực dụng. Người nguyên thuỷ do sống phụ thuộc vào tự nhiên chui rúc trong hang đá, cuộc sống tối tăm sinh ra tâm lý sùng bái tự nhiên. Những hình thức tín ngưỡng của người nguyên thuỷ: tô tem giáo (thờ vật tổ) và bái vật giáo (thờ núi, sông, cỏ, cây). Tất cả những điều đó đã hình thành trong con người nguyên thuỷ thế giới quan đặc biệt: Thần linh chủ nghĩa .Chính thế giới quan đó là cơ sở về mặt ý thức để người nguyên thuỷ tưởng tượng ra thế giới thần linh trong thần thoại. b) Quá trình phát triển của thần thoại Những lớp đầu tiên của của thần thoại có thể xuất hiện rất sớm vào khoảng cuối thời đại đồ đá giữa hoặc đầu thời đại đồ đá mới nhưng thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của nó là vào giai đoạn cuối cùng, giai đoạn phát triển cao nhất của thời kỳ công xã nguyên thuỷ - đó là thời kỳ quá độ chuyển tiếp từ thời đại đồ đá mới sang thời đại đồ đồng tương ứng với bước chuyển từ thị tộc mẫu hệ và bộ lạc riêng lẻ sang hình thức liên minh bộ lạc, bộ tộc theo chế độ phụ hệ. Khi tư duy con người phát triển, sự hiểu biết ngày càng nâng cao, thế giới quan thần linh bị phá vỡ thì thần thoại cũng bị tiêu vong - “thần thoại là thể loại một đi không trở lại trong lịch sử”. Vì vậy, ngày nay không còn thần thoại mà chỉ có tác phẩm mang tính chất thần thoại. 2. Truyền thuyết a) Nguồn gốc: Truyền thuyết ra đời trên cơ sở của thần thoại và gắn với nhu cầu nhằm nhận thức lịch sử của con người khi bước vào thời kỳ văn minh. Do vậy những dấu tích của thể loại vẫn tồn tại ở một số truyền thuyết, cụ thể ở những yếu tố kỳ diệu (Họ Hồng Bàng, Lạc Long Quân - Âu Cơ ). Truyền thuyết đã kế thừa thần thoại và đổi mới cho phù hợp với nhu cầu nhận thức và lý giải lịch sử. Đến truyền thuyết con người đã có ý thức làm nghệ thuật. b) Quá trình phát triển
- Truyền thuyết phát triển theo tiến trình lịch sử của từng dân tộc. Do ý thức về lịch sử là vấn đề luôn được đặt ra trong các thời đại cho nên hiện tại truyền thuyết vẫn có thể xuất hiện. Truyền thuyết với ý nghĩa chân chính của nó được thể hiện tập trung và rõ nét nhất ở thời kỳ Văn lang - Âu Lạc. Bộ phận truyền thuyết này mang tính cổ điển mẫu mực nhất. Vì vậy khi tìm hiểu truyền thuyết dân tộc Việt chủ yếu xem xét ở giai đoạn này. III- NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA THẦN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT 1. Thần thoại a) Giá trị hiện thực - Thần thoại tuy mang đậm tích chất hoang đường kỳ ảo nhưng không phải vì thế mà không mang tính hiện thực. Nếu xẻ bỏ bức màn thần linh chủ nghĩa phủ dày lên thần thoại thì hiện ra thấp thoáng cuộc sống lao động và chiến đấu của người xưa. Đó chính là cuộc sống phải chiến đấu với kẻ thù “bốn chân và hai chân” để bảo tồn cuộc sống. Ẩn sau hình bóng các vị thần do người nguyên thuỷ tưởng tượng ra vẫn là bóng dáng của con người. VD: Thần trụ trời để làm công việc xây dựng kiến thiết cột trụ trời thì cũng phải lao động như con người. Truyện này nhằm giải thích tại sao trời đất phân hai, tại sao có núi non, sông hồ trên biển cả. Truyện “Thần trụ trời” có thể xem là một bài ca về lao động của người Việt cổ. Tiếp sau “Thần trụ trời” có hàng loạt các vị thần khác xuất hiện. Ông đếm cát những vị thần này đều có tầm vóc vũ trụ với những hành động siêu nhiên nhưng đều được chế tác từ chính bản thân con người. Vì thế trong tay thần phải có công cụ mới làm việc được. Công cụ của thần xây rú là đôi quang gánh nhưng gióng được bện bằng tóc của thần, đòn gánh nhổ bằng cây cổ thụ. Thần sét: trong tay có lưỡi tấm sét, thần mưa: vòi phun, thần gió có quạt. Tuy là thần linh nhưng cũng có những nhầm lẫn, ngộ nghĩnh như con người. Thần mưa hút nước linh tinh, thần gió vô ý gây nên bão gió bất ngờ. Vị sứ thần nghễnh ngãng đảng trí gây ra hiện tượng cỏ nhiều hơn lúa. Rõ ràng, nếu không có cuộc sống con người thì không có thế giới thần linh trong thần thoại. Thế giới thần linh trong thần thoại chính là hình bóng của tự nhiên và xã hội mà con người sinh sống vào buổi sơ khai. Giá trị phản ánh hiện thực của thần thoại còn được thể hiện ở trạng thái sinh hoạt có tính nguyên thuỷ của con người thời đó. Đó là một xã hội chưa có
- giai cấp nên quan hệ giữa các thần là bình đẳng. Dần dần từ nhất thần tiến tới đa thần đã phản ánh sự tiến hoá của xã hội nguyên thuỷ từ bình đẳng phân ra đẳng cấp, từ bộ lạc sang bộ tộc. Trong một số truyện thần thoại nó đã thể hiện tính chất duy vật và tư tưởng dân chủ thô sơ mộc mạc. Hai truyện “Cuộc tu bổ các loài vật” và “Việc làm ra lúa ra bông” cho thấy người xưa quan niệm rằng vật chất thì phải sinh ra từ vật chất. Cuộc thảo luận bàn bạc giữa các loài vật trong truyện “Việc làm ra lúa ra bông” thể hiện tính dân chủ của người xưa. Tạo ra ý nghĩa lớn lao về mặt triết học đưa đến cho chúng ta bài học bổ ích và lý thú về tình yêu cuộc sống, niềm lạc quan yêu đời, thái độ tôn trọng lao động. Thần thoại rõ ràng có giá trị phản ánh hiện thực nhưng còn mờ mạt ở tư tưởng “con người đã tự đánh rơi mất mình nhường chỗ cho thế giới thần linh”. b) Tính chất lãng mạn Khát vọng chinh phục thiên nhiên, khám phá những bí ẩn vũ trị và mơ ước muốn có một cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn đã tạo nên tính chất lãng mạn và bay bổng của thần thoại. Chính khát vọng và ước mơ là nguồn động lực thôi thúc người nguyên thuỷ sáng tạo ra các vị thần “lãng mạn là nguồn gốc của thần thoại”. So với giá trị phản ánh hiện thực tính chất lãng mạn của thần thoại đậm nét hơn, nổi bật hơn. Tuy nhiên, lãng mạn trong thần thoại vẫn bắt nguồn từ đời sống hiện thực. + Khát vọng chinh phục thiên nhiên : Đây là khát vọng vô cùng tạo bạo, nó xuất phát từ trình độ hiểu biết hết sức thấp kém của người nguyên thuỷ. Muốn chế ngữ và giải thích hiện tượng lũ lụt thì hình tượng Sơn Tinh - Thuỷ Tinh ra đời. Chính việc người nguyên thuỷ trong điều kiện trình độ thấp kém, muốn khám phá nguồn gốc muôn loài, muôn vật đã tạo ra tính lãng mạn cho thần thoại. Loại truyện giải thích nguồn gốc muôn loài, muôn vật gọi là thần thoại suy nguyên. + Ước mơ có cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn : tác giả dân gian tưởng tượng ra nữ thần nghề mộc dạy dân làm nhà cửa, hạt lúa bằng cái đầu, củ khoai nằm trên đất và nứa chỉ là một cái ống đầy nước ngọt + Ước mơ cuộc sống bất tử: Muốn làm thằng Cuội, Rắn già rắn lột Tính chất lãng mạn trong thần thoại tuy cao xa nhưng không viễn vông. Nó có ý nghĩa tích cực và cách mạng. Như Goócki nói “đó là một thứ lãng mạn
- rất quý vì nó góp phần thức tỉnh tinh thần cách mạng đối với thực tế và xây dựng thái độ thiết thực đối với vũ trụ. Những ước mơ khát vọng trong thần thoại đến thời đại ngày nay trở thành hiện thực. 2. Truyền thuyết Truyền thuyết thực chất là sự nhìn nhận đánh giá của nhân dân đối với các sự kiện và các nhân vật lịch sử. a) Tiếng vọng xa xưa của lịch sử về nguồn gốc dân tộc và sự hình thành Nhà nước: “Họ Hồng Bàng” là truyền thuyết gồm nhiều truyện xâu chuỗi, liên kết thành, trong đó có “Con rồng cháu tiên”, “Sự tích bọc trăm trứng” trung tâm là Lạc Long Quân - Âu Cơ. Nó phản ánh cách giải thích của nhân dân về nguồn gốc dân tộc ta. - Truyện “Con rồng cháu tiên” cho thấy dân tộc ta có nguồn gốc kì lạ: từ sự hôn phối bố rồng mẹ tiên. Cách giải thích ấy tuy hoang đường nhưng mang giá trị hiện thực phản ánh sâu sắc ý thức lòng tự hào dân tộc của người Việt cổ. Đ.G.Khánh: “Dân tộc ta không sinh ra từ bọc trăm trứng nhưng truyện “Bọc trăm trứng” nhất thiết sinh ra từ lịch sử dân tộc ta”. Tiếp đó tác giả giải thích nguồn gốc tên gọi đất nước Văn Lang, phản ánh ý thức về chủ quyền dân tộc. - Ba mẩu truyện còn lại của “Họ Hồng Bàng”: Lạc Long Quân diệt Ngư tinh, Hồ tinh, Mộc tinh nhằm cơ ngợi chiến công của Lạc Long Quân trên ba vùng biển, núi, đồng bằng. Đây là sự phản ánh cuộc chiến đấu để ổn định địa bàn cư trú của ta. b) Truyền thuyết phản ánh công cuộc dựng nước, giữ nước, biểu dương sức mạnh của dân tộc và ca ngợi những anh hùng có công với nước. - “Tháng Gióng” là truyện có tính chất mẫu mực nhất trong bộ phận truyền thuyết chống ngoại xâm. Thánh Gióng là khúc tráng ca ca ngợi sức mạnh của cuộc chiến tranh nhân dân - biểu tượng của người chiến sĩ xuất trận. - An Dương Vương cách Thánh Gióng 2000 năm - An Dương Vương ra đời vào cuối xã hội Âu Lạc. Chủ đề An Dương Vương rất phức tạp. Tóm lại, từ trong truyền thuyết dân gian chúng ta luôn tìm thấy cội nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc ta. Những hình tượng trong truyền thuyết như Thánh Gióng, Lạc Long Quân, Lê Lợi thường có sức khái quát rộng lớn, vừa có tác dụng phục vụ hiện tại, vừa có ý nghĩa phục vụ lâu dài. Vì vậy
- mỗi khi cần động viên, biểu dương sức mạnh dân tộc thì chúng ta lại trở về với cội nguồn truyền thuyết. IV - THI PHÁP THẦN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT - Thi pháp là gì? Bắt nguồn từ thuật ngữ “poeticque” nghệ thuật thơ của Arixtốt là một phạm trù vừa là hình thức vừa là nội dung. Thi pháp là hình thức mang tính quan niệm. 1. Thần thoại Trong thần thoại tác giả dân gian đã quan niệm về thế giới như thế nào thì sẽ có một hình thức biểu đạt như thế ấy. * Hình tượng: - Các vị thần trong thần thoại được đồ chiếu theo dạng người và biện pháp chủ yếu là người cách hoá. - Các nhân vật trong thần thoại nhìn chung đều vô tư, chất phác chưa có nội tâm, chỉ là nhân vật hành động. Đây là kiểu nhân vật chức năng chứ không phải nhân vật tính cách. * Cốt truyện: Đơn giản, ít tình tiết, không có mâu thuẫn trực tiếp * Thời gian nghệ thuật: Buổi hồng hoang của lịch sử loài người * Không gian nghệ thuật : 2. Truyền thuyết Đến truyền thuyết nhân dân có ý thức làm nghệ thuật thực sự. * Cốt truyện: Phức tạp hơn nhiều, chi tiết hơn thần thoại. An Dương Vương giống như caí mạng nhện xoay quanh một nhân vật trung tâm là vua chủ * Kết cấu: Thường có kết cấu chuỗi chùm một truyền thuyết hoàn chỉnh do nhiều mẫu truyện xâu lại. * Thời gian nghệ thuật: Thường là thời gian có tính xác định gắn liền với mốc sự kiện lịch sử “Vào thời Hùng Vương thứ ”. * Không gian nghệ thuật : Gắn với tên đất tên làng cụ thể có tính xác định: núi Mộ Dạ, thành Cổ Loa Xuất phát từ đặc điểm này người ta chia truyền thuyết thành 2 loại: + Sự kiện có thật nhưng nhân vật hư cấu: Thành Gióng. + Sự kiện và nhân vật đều có thật : An Dương Vương.
- * Nhân vật: Thường là những con người được thần thánh hoá, nặng về khái quát hoá, nhẹ về cá thể hoá. Nhân vật có thể là vừa thần vừa người, có thể thần đã tách ta khỏi người. KẾT LUẬN: Thần thoại và truyền thuyết của dân tộc ta tuy không còn giữ nguyên được hệ thống ban đầu của nó, đã bị mất mát và biến tướng đi nhiều nhưng vẫn là thứ của cải vô cùng quý giá được mọi người thừa nhận. Nó đã góp phần đắc lực trong việc bồi dưỡng mỹ cảm và giáo dục con người. Thần thoại và truyền thuyết vừa có tính nhân loại, vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Chú ý tiếp cận chúng từ góc độ thi pháp. V. THẦN THOẠI VỚI TRẺ EM 1. Thần thoại hấp dẫn trẻ em bởi xây dựng bằng tư duy ấu trĩ ngây thơ của người cổ đại. - Tư duy người nguyên thuỷ rất gần gũi với tư duy trẻ thơ. Cách giải thích của họ về tự nhiên và xã hội hoàn toàn phù hợp với trình độ nhận thức của trẻ. Trong thời thơ ấu của lịch sử loài người con người chưa tách mình ra khỏi thế giới tự nhiên, họ phải lệ thuộc vào tự nhiên và bị sức mạnh tự nhiên chi phối. Người ta quan sát và suy ngẫm về các sự vật xung quanh như sông, núi, mặt trời, mặt trăng, sấm, chớp, lụt lội và tìm cách giải thích, chinh phục chúng. Tương tự như sự tò mò và tính hiếu kỳ của trẻ nhỏ. Tuy nhiên khả năng giải thích và chế ngự các hiện tượng tự nhiên của người nguyên thuỷ rất hạn chế. Trong thế giới đại bộ phận những phương tiện có liên quan trực tiếp tới đời sống vẫn nằm ngoài tầm hiểu biết của họ. Trình độ loài người lúc ấy chưa cho phép hiểu được các hiện tượng ấy trong khi nhu cầu cuộc sống buộc phải giải thích chúng. Bắt buộc giải thích những vấn đề đặt ra ngoài tầm hiểu biết của mình, người nguyên thuỷ đã đi đến những nhận thức sai lệch, sự lý giải hết sức ngây thơ, bộc trực và lạc quan. Trẻ thơ hết sức hứng thú với cách lý giải trên và có thể tin tưởng và sự lý giải đó là hoàn toàn đúng. 2. Thần thoại hấp dẫn trẻ em bởi những hình tượng nhân vật thần kỳ, mỹ lệ và thế giới hoang đường, kỳ ảo.
- Mọi lực lượng tự nhiên mà người nguyên thuỷ không hiểu được, không chi phối được đều cho là thần. Nghĩa là thần có sức mạnh vượt ra ngoài khuôn khổ bình thường, ra ngoài sức tưởng tượng của con người. Hình ảnh các vị thần và việc làm của họ đều mang tính chất hoang đường kỳ ảo đã trở thành những mẫu mực đẹp nhất trong trí tưởng tượng của các em. Óc tưởng tượng phong phú, tính chất lãng mạn bay bổng của người xưa trong việc sáng tạo ra một thế giới thần linh đầy bí hiểm và huyền hoặc đã có tac dụng nâng cao sức khám phá và tìm hiểu thế giới xung quanh của trẻ thơ, chắp thêm cho các em đôi cánh ước mơ hồn nhiên, giản dị nhưng cũng hết sức táo bạo, cao đẹp. Ước mơ cuộc sống bất tử: Thằng cuội cung trăng. Ước mơ lao động nhẹ nhàng hơn: Cây lúa 3. Qua thần thoại các em cảm thấy yêu lao động, tin tưởng ở lao động. Thần là hình tượng tự nhiên được đồ chiếu theo dạng người. Suy nghĩ của người nguyên thủy rất gần gũi với trẻ thơ. - Tuy là thần nhưng lại mang tính cách của người: Thần cũng ham chơi, hay quên và láu cá, như :Thần mưa, thần gió, thần lúa - Là thần nhưng muốn đạt được mục đích gì thần cũng phải đích thân từ mình làm việc. Thần trụ trời phải hỳ hục lao động vất vả. Các thần đều phải tự mình đảm đương công việc của mình. - Đặc biệt con người chiến thắng cả thần linh: Cóc kiện trời, Cường bạo Đại vương đánh thần sét VI. TRUYỀN THUYẾT VỚI TRẺ EM 1. Truyền thuyết dân gian bồi dưỡng cho trẻ thơ lòng tự hào dân tộc a) Niềm tự hào lớn lao về dòng dõi con cháu Lạc Hồng Câu chuyện Bọc trăm trứng mang ý nghĩa thiêng liêng đặc biệt - Điều cao quý đáng tự hoà là người Việt Nam có dòng dõi thần linh. Từ đó dạy cho các em tinh thần đoàn kết, yêu mến bạn bè, thương yêu lẫn nhau, vì tất cả đều là anh em một nhà. b) Niềm tự hào về các anh hùng chống xâm lăng. Các em tự hào về một dân tộc đã sản sinh ra những con người anh hùng tuyệt vời: Yết Kiêu, Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung Từ đó tạo cho các em lòng yêu quê hương đất nước, ý chí kiên cường, tinh thần vượt khó, vượt khổ, phấn đấu vươn lên trong học tập, xứng đáng với truyền thống vẻ vang dân tộc.
- c) Niềm tự hào về các anh hùng văn hoá Bên cạnh những anh hùng đánh thù trong giặc ngoài, dân tộc cũng đã sản sinh những người tài giỏi trong lĩnh vực văn học xã hội. Nhân dân ta không chỉ anh hùng trong công cuộc chống ngoại xâm bảo vệ non sông gấm vóc mà còn rất tài giỏi xuất sắc trên mặt trận văn hoá - văn nghệ. Qua truyền thuyết các em thấy được con người Việt Nam rất tài giỏi, họ là những tấm gương sáng cho các em học tập. Họ là những anh hùng khai sáng văn hoá, làm rạng rỡ non sông đất nước, làm rạng danh con người Việt Nam. 2. Truyền thuyết hấp dẫn trẻ em bởi tính chất lãng mạn hào hùng Các nhân vật trong truyền thuyết là các nhân vật trong lịch sử dân tộc, song họ không phải là những con người nguyên mẫu trần trụi mà được tác giả dân gian xây dựng như những nhân vật đẹp một cách phi thường và hoàn hảo. Điều hấp dẫn trẻ em chính là tính chất lãng mạn, âm điệu hào hùng của truyền thuyết. Đó chính là tính chất thơ và mộng là tính văn học bổ sung cho tính chất lịch sử. Bởi âm điệu chủ yếu trong truyền thuyết là âm điệu ngợi ca. Những nhân vật như Lạc Long Quân, Âu Cơ, Thánh Gióng, Hùng Vương ít nhiều mang dáng dấp của các nhân vật thần thoại, nghĩa là họ gần gũi với thần hơn là con người thực ngoài đời. Truyền thuyết mô tả các nhân vật với kích thước khổng lồ, chen lẫn niềm hào hứng đầy thú vị: Hình ảnh bà Triệu cỡi voi ra trận thật tuyệt vời: “Bà cưỡi voi, đi guốc ngà, chịt khăn vàng, mặc áo giáp vàng cầm gươm sáng láng. Voi trắng cùng và bay trên đầu quân giặc. Quân Ngô trông thấy mà khiếp vía kinh hồn”. Người anh hùng không bao giờ chết trong lòng dân tộc, nhân dân ta gửi gắm vào đó cả niềm tin và ước mơ cả tấm lòng thành kính và khâm phục: Họ được xem là lý tưởng của một thời đại, là mẫu mực của dân tộc qua mọi thời đại. Truyền thuyết mô tả Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt, từ đỉnh núi Sóc Sơn bay lên trời, An Dương Vương cần sừng tê bảy tấc (sắc) rẽ nước xuống thuỷ cung. Bà Trưng lên núi Hùng Sơn rồi biến mất, bà Triệu hoá thành luồng hào quang sáng rực, quyện với thanh gươm, bay vụt lên trời. Phùng Hưng hiện hình trong đám dân quê, nghìn xe vạn ngựa bay lên khoảng ngọn cây nóc nhà. Những người anh hùng bất tử đã làm nên hào khí anh linh trên giải đất Việt Nam, luôn phù trợ cho con cháu muôn đời sau.
- TRUYỆN CỔ TÍCH A- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG I- KHÁI NIỆM TRUYỆN CỔ TÍCH 1. Giáo sư Chu Xuân Diên trong “Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học” (ĐHTH TPHCM - 1989) xác định khái niệm truyện cổ tích gồm 3 yếu tố: - Là một thể loại truyện dân gian (thuộc phương thức tự sự: có nhân vật cốt truyện, tình tiết khác kịch dân gian trữ tình, mặc dù có chất thơ chất kịch) . - Truyện cổ tích phải gắn với xa xưa (Ngày xửa ) - Dấu tích của những truyện kể này còn lưu lại đến ngày nay. 2. Giáo sư Hoàng Tiến Tựu trong giáo trình “Văn học dân gian” Nxb Giáo dục 1990: Truyện cổ tích là một loại truyện kể dân gian ra đời từ thời kỳ cổ đại, gắn liền với quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ, hình thành của giai đoạn phụ quyền và phân hoá giai cấp trong xã hội. Nó hướng vào những vấn đề cơ bản, những hiện tượng có tính phổ biến trong đời sống nhân dân, đặc biệt là những xung đột có tính chất riêng tư giữa người với người trong phạm vi gia đình và xã hội. Nó dùng một thứ tưởng tượng và hư cấu riêng (có thể gọi là “tưởng tượng và hư cấu cổ tích”) kết hợp với các thủ pháp nghệ thuật đặc thù để phản ánh đời sống và mơ ước của nhân dân đáp ứng nhu cầu nhận thứ thẩm mỹ, giáo dục và giải trí của nhân dân trong những thời kỳ hoàn cảnh lịch sử khác nhau của xã hội có giai cấp (ở nước ta là xã hội phong kiến). II- NGUỒN GỐC VÀ VẤN ĐỀ PHÂN LOẠI TRUYỆN CỔ TÍCH 1. Nguồn gốc và sự hình thành của truyện cổ tích - Được xét dưới 3 góc độ: a) Sự phát sinh đầu tiên của truyện cổ tích (tức là nguốc gốc ban đầu của thể loại). b) Nguồn gốc trực tiếp của các bộ phận, các tiểu loại, các kiểu loại truyện cổ tích ( tức nguồn gốc riêng, nguồn đề tài và chất liệu cụ thể). c) Nguyên nhân tư tưởng, ý thức xã hội thúc đẩy sự phát sinh, phát triển và biến hoá của thể loại. Nơi phát sinh đầu tiên của thể loại này là phải nói tới thần thoại và thời kỳ bắt đầu tan rã của xã hội thị tộc nguyên thuỷ. Gắn liền với hai yếu tố đó còn có yếu tố thứ ba là nhu cầu nhận thức và lý giải hiện thực xã hội của con người trong điều kiện lịch sử trên.
- - Thần thoại giống như một nguồn nước chung của nhiều dòng, nhiều loại nghệ thuật trong đó có truyện cổ tích. Mác : “Tiền đề của nghệ thuật Hy Lạp và thần thoại Hy Lạp ( ) Thần thoại Ai Cập không bao giờ có thể là miếng đất làm nảy sinh ra nghệ thuật Hy Lạp”. - Truyện cổ tích vừa kế thừa, vừa phủ định thần thoại. Ví dụ: Trí tưởng tượng đi từ thần thoại đến cổ tích là bước phát triển nhảy vọt từ tự phát đến tự giác. Mô típ: Cóc kiện trời, Rùa thần. - Chú ý tới ảnh hưởng của phong tục tín ngưỡng, cảnh vật đất nước. 2. Vấn đề phân loại truyện cổ tích Vấn đề phân loại truyện cổ tích đang là vấn đề tồn tại đáng kể của khoa học về truyện cổ tích thế giới nói chung,Việt Nam nói riêng. - Nguyễn Đổng Chi trong “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” chia 3 loại “nếu như cần phải chia thì theo ý chúng tôi nên chia làm 3 thứ: truyện cổ tích hoang đường, truyện cổ tích thế sự, truyện cổ tích lịch sử” - Giáo trình ĐHTH (tập 2) Nxb ĐHTHCN, H. 1977: xét đến cùng truyện cổ tích chỉ nên chia làm hai loại chính: truyện cổ tích lịch sử và truyện cổ tích thế sự. - Cách phân loại có sức thuyết phục nhất: 3 loại. Giáo trình của Hoàng Tiến Tựu và Lê Chí Quế - Võ Quang Nhơn: Cổ tích thần kỳ, cổ tích loài vật và cổ tích thế sự. 3. Vấn đề sưu tầm cổ tích Việt Nam Trên thế giới tiến hành từ lâu, ở Việt Nam văn bản sớm nhất có chứa đựng cốt truyện, mô típ cổ tích còn lưu giữ đến nay là: Lĩnh Nam chích quái - Trần Thế Pháp biên soạn vào thế kỷ XIV, Vũ Quỳnh - Kiều phú soạn lại vào thế kỷ XV. Sau đó: - Truyện đời xưa - Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn 1966. - Truyện cổ nước Nam - Nxb Vĩnh Hưng Long A 1932, B.1934 Nguyễn Văn Ngọc. - Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (5 tập) - Nguyễn Đổng Chi B- NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM 1. Truyện cổ Việt Nam tập trung phản ánh những xung đột cơ bản trong gia đình và xã hội .
- Nổi bật hai tính chất khác nhau và đối lập là : tính chất bi kịch của nội dung hiện thực xã hội được phản ánh trong truyện và tinh thần bình tĩnh lạc quan của tác giả dân gian. - Chức năng cơ bản của thể loại cổ tích là phản ánh lý giải những mối quan hệ, những xung đột mâu thuẫn giữa người và người trong quá trình phân hoá giai cấp trong xã hội, xung quanh đề tài sinh hoạt gia đình: Anh em trai, chị em gái, dì ghẻ con chồng, chị em khác cha hoặc khác mẹ, con đẻ và con nuôi hoặc những vấn đề xung đột có tính chất bi kịch về hôn nhân gia đình. Nhân vật trung tâm tập trung vào: Thiện > < Khờ dại 2. Truyện cổ tích Việt Nam tập trung phản ánh những lý tưởng xã hội, thẩm mỹ của nhân dân. Vấn đề nhân vật đàn em lực lượng thần kỳ và các nhân vật đế vương trong truyện cổ tích So với xã hội cuộc sống nguyên thuỷ thì xã hội có giai cấp là bước tiễn vĩ đại của lịch sử loài người nhưng cái mất mát lớn lao nhất mà nhân dân lao động bị tước đoạt mất là: quyền bình đẳng, dân chủ - một thứ nhân quyền cơ bản và tối thiểu của con người mà họ đã được hưởng - tuy rằng ở một trình độ thấp trong thời kỳ công xã nguyên thuỷ. - Nhân vật “đàn em” thường được nhìn nhận như những con người đẹp nhất, mẫu mực, lý tưởng của nhân dân. Dù bị thiệt thòi, chịu đau khổ nhưng là người có đạo đức, cần cù, hiếu thảo Tất cả bộc lộ khuynh hướng muốn củng cố bảo vệ những quan hệ (tình cảm, đạo đức, huyết thống ) của giai đoạn thị tộc ở trong cổ tích . Lý tưởng hoá những nhân vật “đàn em” là để củng cố những quan hệ gia đình lung lay, rạn nứt. - Các lực lượng thần kỳ gắn chặt với việc thực hiện và thể hiện lý tưởng thẩm mỹ của nội dung trong truyện cổ tích. Chúng như chiếc cầu kỳ diệu nối liền cuộc đời thực và cuộc đời mộng tưởng (nên có và có thể có) của nhân vật chính diện. - Nhân vật đế vương trong cổ tích vừa là phương tiện nghệ thuật, vừa là hiện thực hoặc lý tưởng xã hội được khái quát hoá và hình tượng hoá. Vì vậy, nhân dân đã đưa những người trong hàng ngũ của mình lên làm vua, hoàng hầu một cách táo bạo và tự nhiên.
- 3. Truyện cổ tích Việt Nam khái quát lên triết lý sống và đạo lý làm người của nhân dân. - Lạc quan, yêu đời, ham sống và thương yêu quí trọng con người đó chính là phần cốt lõi nhất của triết lý sống và đạo lý làm người của nhân dân ta ở cổ tích. Tinh thần lạc quan thể hiện ở kết thúc có hậu nhưng ở một số truyện kết thúc bi kịch nó vẫn toả sáng. Kết thúc có hậu là biểu hiện dễ thấy nhất chứ không phải là biểu hiện cao nhất, càng không phải là biểu hiện duy nhất của tinh thần lạc quan. Những truyện kết thúc bi kịch tinh thần lạc quan gắn chặt với niềm tin vào con người, sự dũng cảm, dám nhìn thằng vào hiện thực dù là hiện thực đen tối. - Nguyên nhân căn bản của sự lý tưởng hoá các nhân vật “đàn em”, “đế vương” chính là sự không bằng lòng, sự phản ứng đối với xã hội có giai cấp, còn nội dung cơ bản là khát vọng dân chủ - cái mà chế độ xã hội có giai cấp đã tước đoạt mất của họ. Vì vậy tác giả dân gian kịch liệt lên án, phủ nhận xã hội phong kiến. - Hầu như truyện cổ tích nào cũng ít hoặc nhiều, trực tiếp hay gián tiếp có mục đích, nội dung và tác dụng giáo dục đạo đức, ca ngợi những hành vi đạo đức, lên án những hành động vô đạo đức, quan niệm: “ác giả, ác báo; ở hiền gặp lành” là niềm tin, là triết lý sống lạc quan, tích cực vừa là ước mơ công lý và đạo lý của nhân dân. V- ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN CỔ TÍCH 1. Thời gian nghệ thuật: Thời gian nghệ thuật trong truyện cổ tích bao giờ cũng là thời gian quá khứ không xác định: Ngày xửa ngày xưa 2. Không gian nghệ thuật Không gian nghệ thuật trong truyện cổ tích thường là phiến định, ước lệ. 3. Truyện cổ tích bao giờ cũng được kể theo một tuyến thẳng hay còn gọi là trực tuyến. 4. Nhận vật của truyện cổ tích thường chỉ dừng lại ở mức điển hình cho một loại người, một kiểu người nhất định như lão phú ông, anh canh điền, cô gái hiền lành, đứa trẻ mồ côi Chứ chưa khắc hoạ được nhiều con người vừa mang tính khái quát vừa mang tính cá thể rõ nét. Nhân vật chức năng chứ chưa phải nhân vật tính cách.
- 5. Yếu tố kỳ diệu hoang đường đóng vai trò quan trọng trong truyện cổ tích. Càng lùi về quá khứ, yếu tố kỳ diệu càng đậm nét. Tuy nhiên lực lượng thần kỳ chỉ là yếu tố phù trợ chứ không thể quyết định thay cho con người. V- MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG CỦA 3 THỂ LOẠI TRUYỆN CỔ TÍCH: Trong ba loại cổ tích thì cổ tích thần kỳ là bộ phận cơ bản cổ điển và tiêu biểu nhất của thể loại truyện cổ tích. 1. Cổ tích thần kỳ a) Phương pháp chiếm lĩnh và phản ánh thực tại. Dùng hư cấu và tưởng tượng dựa trên hai cơ sở thực tại và phi thực tại. b) Thời gian hình thành: Cổ tích thần kỳ là bộ phận ra đời sớm nhất trong thể loại cổ tích còn lưu giữ được những yếu tố cổ. c) Đối tượng miêu tả: Bao giờ cũng hướng về những nhân vật người và những xung đột xã hội của con người: coi đó là trung tâm, là đối tượng chủ yếu. Các nhân vật thần kỳ dù yếu hay mạnh, nhiều người hay ít đều không thể là đối tượng chính của truyện cổ tích thần kỳ. Nếu nhân vật thần kỳ ấn át vai trò con người sẽ thành thần thoại, lực lượng thần kỳ chỉ đóng vai trò phù trợ, xuất hiện khi con người bế tắc. d) Tuy nhiên xét về phương diện nghệ thuật và phương pháp giải quyết mâu thuẫn, xung đột thì lực lượng thần kỳ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Các nhân vật chính ở đây thường thụ động, bất lực. Xung đột được giải quyết và phát triển là nhờ lực lượng thần kỳ. Lực lượng thần kỳ xuất hiện giải quyết xong khó khăn lại lùi về hậu trường nhường chỗ cho con người hoạt động. e) Thế giới trong cổ tích thần kỳ: Không giống với thế giới thực tại của con người, cũng không giống với thế giới thần linh trong thần thoại. Đó là thế giới riêng của cổ tích truyền thuyết trong trí tưởng tượng của người nghe và người kể. Bao gồm nhiều cõi, nhiều tầng khác nhau. f) Thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật đích thực là thời gian, không gian nghệ thuật của truyện cổ tích, hoàn toàn khác với thời gian, không gian thực tại. i) Thành phần nhân vật rất đông đảo và phong phú 2. Cổ tích sinh hoạt
- a) Thời gian ra đời: muộn hơn cổ tích thần kỳ, chủ yếu ở xã hội phong kiến . b) Nhân vật chính diện: có tính chủ động tích cực . c) Tư duy logic được tăng cường, đồng thời xuất hiện ngày càng nhiều sự kết hợp giữa. C. TRUYỆN CỔ TÍCH VỚI TRẺ EM I. TRUYỆN CỔ TÍCH VÀ TÌNH HUỐNG HIỆN HỮU 1. Tựa: Một tác phẩm văn học thiếu nhi có tác dụng tích cực là tác phẩm nhằm rèn luyện trí tuệ và nhân cách cho trẻ. Tuy nhiên muốn cho tác phẩm ấy thật sự lôi cuốn sự chú ý của trẻ em thì tác phẩm văn học cần có tác dụng giả trí và gợi lên trí tò mò, đồng thời nó còn phải kích thích trí tưởng tượng của trẻ em nữa. Về những điều ấy, trong toàn bộ nền văn học thiếu nhi làm phong phú và thoả mãn hơn cả vẫn là truyện cổ tích (thần kỳ và tiêu biểu) Vậy vì sao, truyện cổ tích lại thành công đến thế trong việc làm phong phú đời sống bên trong của đứa trẻ, chúng ta hãy mổ xẻ từ những vấn đề thuộc về bản chất bên trong của truyện cổ tích. + Truyện cổ tích thần kỳ có đặc điểm là đặt ra những vấn đề hiện hữu trong những ý niệm gắn gọn và rõ ràng a) Trước hết xét về nội dung cốt truyện: Hầu hết tất cả mọi truyện cổ tích trên trái đất này đều có một nội dung hết sức gần gũi với cuộc sống đời sống, đời thường: câu chuyện kể về người nông dân, Anh chàng mồ côi, Mụ dì ghẻ - Con chồng, Chàng dũng sỹ, Anh em cùng cha khác mẹ Cốt truyện giản dị, ngắn gọn, kết cấu vừa tầm với trí nhớ của trẻ. Dung lượng cuộc sống đưa vào tác phẩm là vừa, phải không có chi tiết hào, tình huống nào vượt ra ngoài tầm nhận thức của trẻ. Cổ tích có xu hướng đơn giản hoá mọi tình huống. Nội dung truyện kể hoàn toàn lộ thiên. Đứa trẻ có thể kể lại câu chuyện khi nó mới nghe kể một vài lần. Cổ tích chuộng những chi tiết có tính trọng tâm, chủ đề, không chấp nhận những tình tiết mang cầu kỳ, phức tạp. Điều này hoàn toàn phù hợp với tầm nhận thức đứa trẻ nhỏ. b) Về hệ thống nhân vật: - Số lượng nhân vật trong truyện cổ tích không nhiều và các nhân vật ấy đều có tham vọng trở thành nhân vật chính, can thiệp vào sự phát triển của nội dung cốt truyện.
- - Sự phân tuyến (cực hoá) của nhân vật cổ tích. Các nhân vật trong truyện cổ tích không mang tính hai mặt. Chúng không phải là vừa thiện vừa ác, vừa tốt vừa xấu như là con người trong hiện thực. Một sự cực hoá chiếm ưu thế trong đầu óc đứa trẻ. Mỗi nhân vật hoặc cực tốt, hoặc cực xấu. Người anh thì ngu ngốc người em thì thông minh, cô chị thì tham lam, ti tiện, cô em thì hiếu thảo, thật thà, tốt bung Sự đối lập các nhân vật ấy giúp đứa trẻ nhận thức một cách rõ ràng, dễ dàng hơn những khác biệt giữa chúng, điều mà chúng không thể nhận ra được nếu các nhân vật chứa đầy vẻ mâu thuẫn và phức tạp của chúng như là trong đời sống hiện thực. Từ đó bản thân em tự mình đồng hoá vào loại nhân vật nào, các em quyết định sự lựa chọn bằng cách vui lòng tự đối chiếu mình theo nhân vật. Điều này đặt các em vào những cảm xúc mãnh liệt: yêu thương cái tốt, căm ghét cái xấu, ủng hộ cái thiện, bài xích cái ác. Cổ tích thần kỳ tác động mạnh mẽ vào miền tình cảm, hơn là miền lý trí. Các em vui buồn, hờn giận, yêu thường cùng với nhân vật trong cổ tích: Tấm Cám, Cây khế, Thạch Sanh, Xin chôn núi vàng, A.I.Oga, Cô bé lọ lem c) Truyện cổ tích mô tả một cách trực tiếp các xung đột, các mâu thuẫn. Các em sẵn sàng đối đầu với những khó khăn của truyện kể, điều này giúp các em tinh thần vượt khó, không ngại khó khăn, cản trở trong học tập cũng như trong cuộc sống: Thạch Sanh đánh trăn tinh, Tấm đương đầu với mụ dì ghẻ, người anh hùng đánh rồng lửa, trâu đoàn kết giết hổ, nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn Truyện cổ tích hướng về tương lai và làm người hướng dẫn cho trẻ, truyện giúp các em từ bỏ những ước muốn ấu trĩ trong sự lệ thuộc để vươn tới một cuộc sống độc lập một cách thoải mái hơn. 2. Truyện cổ tích - hình thức nghệ thuật độc đáo a) Nét sáng tạo nghệ thuật nổi bật của truyện cổ tích là yếu tố kỳ diệu hay lực lượng thần kỳ . Chúng có sức hấp dẫn, đặt biệt đối với tuổi thiếu nhi.Cổ tích với lực lượng thần vô cùng phong phú, đa dạng. Vật thần kỳ: Búa thần, cung tên thần, hòn ngọc ước Người thần kỳ: Ông tiên, ông bụt, mụ phù thuỷ Con vật thần kỳ: Phượng hoàng, ngựa ỉa phân vàng, trăn thần Lực lượng vô hình:
- Cổ tích còn sáng tạo ra một thế giới hoàn toàn riêng biệt - đích thực là thế giới của cổ tích: Thuy cung, âm phủ, tiên cung một thế giới vừa hư vừa thực. Sự hỗn tạp của thế giới thần kỳ có tác dụng phát huy không ngừng trí tưởng tượng của các em, mở ra trước mắt các em một chân trời mơ ước vừa quen thuộc vừa kỳ lạ. Không có những điều kỳ diệu gây niềm hy vọng cho chúng ta thì chúng ta không đủ sức mạnh để vững bước trên đường đời đầy chông gai này. Nhất là đối với trẻ thơ, những hình ảnh kỳ vỹ và huyền hoặc ấy cần được giữ gìn. Nếu thiếu nó cuộc sống trẻ thơ sẽ trở nên tẻ nhạt, vô ý nghĩa, nghèo nàn. b) Việc lặp đi lặp lại của các hành động, sự kiện: nhằm thử thách nhân vật cổ tích, hình thành cho các em đức tính kiên trì, tập cho các em thói quen hãy mạnh dạn thử và làm lại và nhất định sẽ thành công. Từ đó ác em cảm thấy tin tưởng vào khả năng và sức mạnh ý chí của mình. Người đi câu câu mãi mới được con cá măng, muốn lấy được viên ngọc ước phải vượt qua suối lửa, núi cao, sông sâu c) Cách giới thiệu thời gian phiến định quá khứ xa xăm: Ngày xửa, ngày xưa tại một làng nọ, một quốc vương nọ nhằm đánh lửa cảm giác người nghe, riêng đối với trẻ thơ lại tin tưởng rằng câu chuyện là có thật, hoàn toàn có thể xảy ra đâu đó xung quanh chúng ta. Truyện cổ tích có thể kể về bất kỳ cái gì, bất kỳ ai tồn tại gần gũi xung quanh các em. d) Bằng lối kết thúc có hậu với sự ban thưởng xứng đáng cho nhân vật chính nghĩa và sự trừng phạt cho nhân vật phi nghĩa, truyện cổ tích đã làm yêu lòng trẻ thơ, lấy lại niềm tin đích thực cho các em vào cuộc sống bình đẳng, tốt đẹp của thế giới loài người. Và chúng ta nhớ rằng không có gì nguy hại bằng việc đánh mất niềm tin ở trẻ thơ. e) Truyện cổ tích kể với các em bằng một ngôn ngữ, một giọng điệu hết sức đặc biệt. Nó đóng vai trò như một người bạn chân thành, một người mẹ thân yêu, một người bà đáng kính đang thủ thỉ, tâm tình, trò chuyện cùng em, hiểu được những nỗi buồn vui của em, chia xẻ cùng em những nổi bức xúc thường nhật. Truyện cổ tích (thần kỳ) đi vào cả những bữa ăn, giấc ngủ của các em và theo em suốt cả thời gian năm tháng của cuộc đời.
- TRUYỆN NGỤ NGÔN I- KHÁI NIỆM TRUYỆN NGỤ NGÔN Nói đến Truyện ngụ ngôn người ta hay nghĩ tới các tác giả như Edốp (nhà sáng tác ngụ ngôn nổi tiếng của Hy lạp cổ đại), Phedơvơ (La mã cổ đại), Laphôngten (Pháp thế kỷ XVII) ở phương Tây; Trang Tử ( Trang Chu - Triết gia Trung Quốc cổ đại), Liệt Tử ( Trung Quốc ) phương Đông. Các nhà tư tưởng đã lâu hay dùng thể văn ngụ ngôn để diệt đạt các tư tưởng, các quan niệm của mình. Với thể văn ấy, các ý niệm trừu tượng có thể diệt đạt một cách cụ thể và do đó dễ phổ cập hơn. - Ngụ ngôn: Nghĩa là lời nói ở trong có gửi gắm cái gì đó, một ý tứ gì đó. - Truyện ngụ ngôn là một loại truyện chứa đựng trong nó một sự tích hoàn toàn tưởng tượng, mang quan niệm triết lý hay đạo đức, một kinh nghiệm sống đã được tổng kết. Và như vậy truyện ngụ ngôn có hai phần: Phần cụ thể là truyện kể, phần trừu tượng là ý niệm rút ra từ truyện đó, có thể gọi là lời quy châm. Với tư cách là một thể loại truyện ngụ ngôn có những đặc điểm sau đây: - Truyện ngụ ngôn mượn thế giới loài vật và thế giới đồ vật để nói về con người. (con người đóng vai trò thiết yếu). Mỗi truyện ngụ ngôn là một ẩn dụ lớn. - Mục tiêu của truyện ngụ ngôn là bài học triết lý. Khi nào đạt tới bài học triết lý thì truyện ngụ ngôn kết thúc. Bài học triết lý được xây dựng thông qua hình tượng. Vì vậy triết ký truyện ngụ ngôn không bao giờ là một thứ triết lý khô khan. - Cũng như truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn được sáng tác nhằm mục đích giáo dục trẻ em nhưng truyện cổ tích giáo dục bằng bản thân hình tượng còn truyện ngụ ngôn giáo dục bằng bài học triết lý. II - NỘI DUNG, Ý NGHĨA TRUYỆN NGỤ NGÔN Khi sáng tác truyện ngụ ngôn người ta phân biệt cốt truyện , tức là những sự kiện cụ thể với lời qui châm - tức là ý niệm trừu tượng. Cốt truyện chỉ là phương tiện, còn lời qui châm mới là mục đích. Xét đến cùng thì truyện ngụ ngôn là sản phẩm của sự tưởng tượng, nhưng sản phẩm đó được tạo ra theo yêu cầu của lý trí, dưới sự hướng dẫn chặt chẽ của lý trí. 1. Từ lối nói bằng hình tượng đến truyện ngụ ngôn
- - Truyện ngụ ngôn chỉ có thể hình thành với một trình độ phát triển tương đối cao của tư duy loài người. Lúc đầu, người nguyên thuỷ không thể sáng tác được truyện ngụ ngôn gồm hai phần tách bạch là sự tích cụ thể và ý niệm trừu tượng ngụ trong sự tích ấy. Loài người nguyên thuỷ xưa sống gần gũi với thiên nhiên, con người chưa ý thức được về bản thân mình một cách rõ rệt. Để phục vụ cuộc sống hàng ngày người nguyên thuỷ phải để ý tới đặc điểm của từng loài vật để săn bắn có hiệu quả, mặt khác còn để tự vệ. Người ta gán cho các vật những tình cảm của nhân loại. Thần thoại phát sinh bên cạnh các loại truyện về động vật. Các truyện về động vật là một kho tri thức về “khoa học tự nhiên” của người xưa. ở những truyện này tuy con vật mang tình cảm con người nhưng không có ý định qua xã hội loài vật để nói về xã hội loài người xưa. Tuy nhiên phải thừa nhận rằng truyện động vật là một trong những loại truyện tiền thân của truyện ngụ ngôn. Đa số truyện ngụ ngôn bắt nguồn từ truyện động vật. - Truyện ngụ ngôn là một cách nói tỉ dụ (ví von) của nhân dân. Đặc điểm ngôn ngữ của nhân dân là cụ thể và hình tượng: cao như sếu, thấp như vịt, nhanh như cắt, chậm như sên, nhạt như cáy, dữ như cọp, thân lừa ưa nặng, chó cùng dứt dậu, tiu nghỉu như méo cắt tai, nhăn nhó như khỉ ăn ruốc Dần dần cách nói bằng ví von hình tượng ấy kết hợp với truyện động vật phát triển thành truyện ngụ ngôn. Cáo mượn oai hùm (thành ngữ) + truyện động vật trong thần thoại Con cáo giảo hoạt, con hùm dũng mãnh = truyện ngụ ngôn. 2. Truyện ngụ ngôn và triết lý ứng xử dân gian - Trước hết phải thấy rằng truyện ngụ ngôn phản ánh trí tuệ nhân dân, là kho tàng truyện ngụ ngôn chứa đựng triết học của nhân dân. Tư tưởng triết học của nhân dân có thể tìm thấy trong tất cả các loại hình của văn học dân gian, nhưng nó tập trung nhất ở truyện ngụ ngôn. Tư tưởng triết học thể hiện ở các cấp độ: - Truyện ngụ ngôn nêu lên những bài học Rất nhiều truyện ngụ ngôn nói lên những kinh nghiệm mà nhân dân rút ra được trong cuộc sống. Những kinh nghiệm hiện nay tuy chưa vượt lên thành một ý niệm triết học thực sự, nhưng cũng đúc kết thành những bài học thiết thực, bổ ích:
- Cáo mượn oai hùm, Quạ mặc lông công: khuyên người ta nên tự lực mà hành động, không nên dựa vào người khác, hám hư danh mà chuốc lấy thảm hoạ. Con Dơi, loài chim và loài thú: Phê phán hạng người tráo trở hai mặt. - Một số truyện ngụ ngôn đề cập đến những quan niệm triết học Những truyện ngụ ngôn này có ý nghĩa sâu sắc hơn + Vấn đề nhận thức thế giới: Xẩm xem voi: Xét một vật phải xét toàn diện. Con cò và con đom đóm: Không nên đánh giá thực tại khách quan qua kinh nghiệm chủ quan. + Nhận thức về sự vận động của vạn vật: - Ông vua Chàm nuôi khỉ, Kéo cây lúa lên. Triết học trong truyện ngụ ngôn là một thứ triết lý tích cực, triết lý hành động. Con đường đi tới triết lý của truyện ngụ ngôn là con đường thông qua sự phê phán phủ nhận để để rút ra kết luận. Vì vậy màu sắc phê phán trong truyện ngụ ngôn thể hiện rất rõ. Răn dạy bằng mặt trái của cuộc sống, truyện ngụ ngôn đã tạo cho mình một sức thuyết phục mạnh hơn là trực tiếp nêu lên sự thật của lẽ phải. 3. Truyện ngụ ngôn và đấu tranh giai cấp Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giai cấp luôn diễn ra quyết liệt, truyện ngụ ngôn không nằm ngoài nội dung phản ánh đó. Truyện ngụ ngôn là một vũ khí lợi hại của nhân dân thời trước để chống lại giai cấp thống trị. - Phản ánh bản chất tham lam, tàn bạo, đạo đức giả của giai cấp thống trị Con hổ ăn chay: Bản chất giai cấp thống trị không thể thay đổi, sự tu nhân tích đức đối với chúng chỉ là giả tạo, lừa dối mà thôi. - Những hành vi hống hách, cậy quyền cậy thế của giai cấp thống trị Cọp, cò, cáo và chuột; Chèo bẻo và ác: nhân dân lao động không thể nào đáp ứng được cách sống vô lý của bọn thống trị. - Phê phán những tên tay sai, nịnh hót, vô liêm sỉ Bồ câu và sáo: Những kẻ ra luồn vào cúi đáng sống kiếp giam cầm. Hai thứ mọt: Mọt quan tham mới thực nguy hiểm. Ngụ ngôn thiên về mặt giáo dục hơn là phán ánh hiện thực cuộc sống như truyện cổ tích.
- Nhìn chung, đối với giai cấp thống trị và bè lũ tay sai truyện ngụ ngôn khuyên người ta nên cảnh giác và xa lánh. Bài học về thái độ dứt khoát đoạn tuyệt với kẻ thù, bao hàm một sự phản kháng tích cực. Với tư cách là loại triết lý dân gian, truyện ngụ ngôn đã làm trọn được chức năng giáo dục của mình. III- NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGỤ NGÔN - Truyện ngụ ngôn sử dụng biện pháp so sánh, ví von. Cái khó của truyện ngụ ngôn là xây dựng truyện làm sao cho từng sự vật có thể tiêu biểu cho một hạng người nhất định, nhưng vẫn giá được đặc trưng của nó - thể hiện một cách tự nhiên, hợp lý không gò bó. Cao cáo: tinh ranh xảo quyệt. Con lừa: chậm chạp, vụng về Con hổ: dũng mãnh. Con thỏ: mưu trí - Tích chất kịch: Mỗi truyện ngụ ngôn là một vở kịch nhỏ. Trong vở kịch ấy, mâu thuẫn giữa những hoàn cảnh, sự việc, giữa những tình cảm nhân vật thường được nêu ra một cách sắc nét. Có những tình huống bất ngờ gây kịch tính. - Truyện ngụ ngôn có tính chất thơ ngây trong bản thân nội dung của nó. - Tiếp xúc truyện ngụ ngôn, óc tưởng tượng được phát huy cao độ, phù hợp với cảm nghĩ ngây thơ của trẻ. Tóm lại: Truyện ngụ ngôn là kho tàng tri thức của nhân dân, phản ánh cuộc đấu tranh cho một cuộc đời tốt đẹp hơn, phán ánh sự vươn lên không ngừng của tư duy trong việc nhận thức thế giới và xã hội loài người.
- CA DAO - ĐỒNG DAO I. CA DAO 1. Khái niệm ca dao - dân ca: Đều thuộc thể loại trữ tình dân gian. a. Ca dao - Xét theo nghĩa gốc của từ nguyên thì “Ca” là bài hát có chương khúc, giai điệu được quy định rõ rệt (người hát không tự thay đổi được), còn “dao” là bài hát ngắn, không có giai điệu, chương khúc (bài hát trơn, có thể hát tự do, không quy định chặt chẽ về nhạc điệu). - Nếu dựa vào cách giải thích trên thì về cơ bản, Ca dao và dân ca đồng nghĩa với nhau. - Trong sách “Trung Quốc ca dao” của Chu Tự Thanh (bản dịch của GS Đinh Gia Khánh, tư liệu trường ĐHTH Hà Nội) liên quan đến Ca và Dao như sau: “Ca” là bài hát có hoà với nhạc, còn “Dao” là lời của các bài hát đó. Dao là một thành tố của ca và có thể sử dụng trong nhiều bài ca khác nhau. Như vậy, trong thư tịch cổ Trung Quốc chỉ có khái niệm “Ca” “Dao” chứ không có thuật ngữ ghép ca dao, dân ca như ở Việt Nam. Tuy nhiên, không phải toàn bộ phần lời trong dân ca thì đều là ca dao, mà chỉ là phần lời cốt lõi có kết cấu bền vững, ổn định và có tính trữ tình (không kể những tiếng đệm, láy đưa hơi), (về trữ tình những bài hát giặm ). Vậy chỉ có thể nói: Ca dao là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất của thơ dân gian, là loại thơ dân gian truyền thống có phong cách riêng được hình thành và phát triển trên cơ sở của thành phần nghệ thuật ngôn từ trong các loại dân ca trữ tình ngắn và tương đối ngắn của người Việt. Ca dao là những bài hát có hoặc không có chương khúc, sáng tác bằng thể văn vần dân tộc (thường là lục bát) để miêu tả, tự sự, ngụ ý và diễn đạt tình cảm. Còn dân ca là những bài hát có hoặc không có chương khúc do nhân dân sáng tác lưu truyền trong dân gian ở từng vùng hoặc phổ biến ở nhiều vùng có nội dung trữ tình và có giá trị đặc biệt về nhạc. Khi nói đến dân ca người ta nghĩ đến cả ba yếu tố cơ bản cấu thành nó: âm nhạc, lời ca và phương thức đối xứng. Còn ca dao là bộ phận nghệ thuật ngôn từ chắt lọc từ hệ thống lời ca đó.
- 2. Nội dung của một số bộ phận ca dao phù hợp với trình độ nhận thức của trẻ. 2.1. Ca dao phản ánh cuộc sống lao động cần cù, chất phác của nhân dân ta, tuy vất vả, khổ cực nhưng không bao giờ bi quan. Ví dụ: Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày Ai ơi bưng bá cơm đầy Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần Hoặc: Rủ nhau đi cấy đi cày Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu Trên đồng cạn dưới đồng sâu Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa Ơn trời mưa nắng phải thì Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu Công lênh chẳng quản bao lâu Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu. 2.2. Ca dao thể hiện tình cảm đối với xóm làng, quê hương, đất nước. Đất nước ta rất giàu và đẹp, trong ca dao lại càng giàu đẹp hơn. Ví dụ: - Sông Tô nước chảy trong ngần Con thuyền buồn trắng chạy gần chạy xa Thon thon hai mũi chèo hoa Lướt đi, lướt lại như là bướm bày - Đường vô xứ Nghệ quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ Ai vô xứ Nghệ thì vô - Đường đi quanh quất ruột dê Chim kêu vượn hú dựa kề bên non
- - Hỡi cô tát nước bên đàng Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi - Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm - Gió đưa cành trúc la đà Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương Mịt mù khói toả ngàn sương Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây hồ. 2.3. Ca dao thể hiện tình cảm yêu thương quý mến đối với gia đình. Tình cảm của con cái đối với cha mẹ hoặc ngược lại, tình cảm anh em ruột thịt, tình bạn bè gắn bó keo sơn. Đặc biệt đối với cha mẹ là người sinh thành dưỡng dục, có nhiều kinh nghiệm sống mà con cái phải yêu thương, kính phục, tôn trọng và biết ơn. Từ lâu nhân dân ta đã truyền tụng: - Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. - Gió mùa thu mẹ ru con ngủ Năm canh chầy thức đủ năm canh - Ơn cha nặng lắm ai ơi Ơn mẹ bằng trời chín tháng cưu mang - Chim trời ai dễ đếm lông Nuôi con ai dễ kể công tháng ngày - Trèo non mới biết non cao Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy - Anh em nào phải người xa Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân Yêu nhau như thể tay chân Anh em, hoà thuận hai thân vui vầy - Bạn bè nghĩa tương tri Sao cho sau trước một bề mới thân - Công cha như núi ngất trời Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông Núi cao biển rộng mênh mông
- Công cha nghĩa mẹ ghi lòng con ơi Anh em như thể tay chân Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần. 3. Nghệ thuật: 3.1. Sử dụng thể thơ lục bát của dân tộc, giàu nhạc điệu, giàu hình tượng, trữ tình. 3.2. Ngoài ra, tác giả ca dao còn sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật khác như so sánh, ví von, nhân cách hoá, ẩn dụ, trùng điệp 4. Tác dụng ca dao đối với trẻ em. Ca dao đến với trẻ em từ rất sớm qua lời ru, tiếng hát của người thân. Âm thanh, nhịp điệu và không khí dân ca trữ tình để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn trẻ, ca dao là dòng sữa ngọt ngào nuôi trẻ lớn khôn. Qua đó trẻ cảm nhận được vẻ đẹp ngôn ngữ, cảm nhận được tâm tư tình cảm của người dân lao động một nắng hai sương, cảm nhận được quan điểm đạo đức, lối sống và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc nghìn năm văn hiến. Từ đó, giáo dục trẻ lòng yêu quê hương đất nước, lòng biết ơn, tôn kính, ngưỡng mộ về quá khứ vẻ vang của con người Đại Việt chúng ta. Tóm lại, ca dao là những hòn ngọc vô cùng quý giá từ xưa để lại. Đó là tiếng nói tình cảm của nhân dân đối với đất nước, là mồ hôi nước mắt của nhân dân trong đấu tranh và xây dựng, là trí tuệ và tình thương yêu của nhân dân đối với thiên nhiên, xã hội và con người. Những câu ca dao mượt mà ấy thấm sâu vào tâm hồn trẻ thơ sẽ có tác dụng lớn lao trong việc bồi dưỡng tình cảm, hình thành nhân cách và khơi dậy ở trẻ niềm tự hào về con người, về quê hương đất nước. II. ĐỒNG DAO Trong văn học dân gian của các dân tộc trên thế giới, ít nhiều đều có bộ phận sáng tác danh cho trẻ em hoặc chủ yếu hướng về trẻ em. Đó là lí do và sơ sở khiến cho khái niệm Văn học dân gian thiếu nhi đã và đang hình thành trong hoạt động nghiên cứu văn học dân gian của nhiều nước trên thế giới. Văn học dân gian thiếu nhi của người Việt phát triển khá sớm và chủ yếu tập trung ở hai lĩnh vực truyện kể và thơ ca. 1. Định nghĩa. Đồng dao là thơ ca dân gian truyền miệng trẻ em. Đồng dao có thể bắt nguồn từ các hình thức thơ ca dân gian của người lớn và được người lớn tham
- gia sáng tác sử dụng, nhưng chủ yếu phù hợp với thế giới quan và tâm sinh lý trẻ em và do trẻ em trực tiếp lưu luyến, diễn xướng. 2. Nội dung: 2.1. Đồng dao giúp các em hiểu biết, học hỏi mở mang trí tuệ, giáo dục kiến thức thực tế cho các em. Với các em trước tuổi đi học, đồng dao như người thầy dạy cho các em những khái niệm đầu tiên về thiên nhiên, đất nước con người. Thế giới đồng dao là một thế giới sinh động phong phú, chứa chan sức sống và màu xanh. Trong đồng dao có đủ những con vật gần gũi với cuộc sống xung quanh trẻ như: con trâu, con chó, con lợn, con gà, con voi, con công, con nghé cho đến con cò, con cua, con tôm, con ốc, con ve, con kiến. Ví dụ: - Tập tầm vông, con công hay múa - Con vỏi, con voi - Con gà tục tác lá chanh - Con mèo con chó có lông - Con cua tám cẳng, hai càng - Con cò mà đi ăn đêm - Trời trưa Quả dưa vẹo vọ Con ốc nằm co Con tôm đánh đáo Con cò kiếm ăn Đối với người lớn, có thể đây là những vần thơ ngô nghê, buồn cười nhưng đối với các em là những kiến thức khoa học thường thức rất nhiều thiết thực, bổ ích. Nó dạy cho các em về các bộ phận cấu tạo, các đặc điểm của các con vật, sự vật trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. 2.2. Đồng dao giúp các em học mà chơi, chơi mà học. Một số bài hát đồng dao gắn với trò chơi của trẻ. Nhờ có lời mà trẻ ham thích chơi, nhờ có luật chơi mà trẻ ham thích đọc lời. Các em vừa hát vừa đọc, vừa chơi. Tình cảm chủ yếu được các em thể hiện trong khi hát để trò chơi. Đó là niềm vui sướng hân hoan, phấn khởi và yêu đời của tuổi thơ khi được tụ họp với nhau, nô đùa, ca hát. Ví dụ: - Chi chi chành chành
- - Dung dăng dung dẻ - Kéo cưa lừa xẻ - Rồng rắn lên mây - Bịt mắt bắt dê - Nu na nu nống - Chồng nụ chồng hoa Thông qua các trò chơi hoạt động nhạy cảm, ca hát, đồng dao rèn luyện trẻ thơ về mặt thể lực, góp phần nâng cao năng lực vận động, giúp trẻ hoạt bát, năng động, thoải mái tự tin, hồn nhiên cho tâm hồn trẻ thơ. Tác giả dân gian đã rất tài tình khi tìm cho trẻ những hình thức sinh hoạt văn hoá, tinh thần thích hợp nhất và bổ ích nhất. 2.3. Đồng dao góp phần quan trọng vào việc phát triển, trau đồi ngôn ngữ cho các em, rèn luyện cho các em cả về ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp. Trẻ em lớn hát trẻ em bé bắt chước, trẻ em học nói bằng đồng dao. Khi trẻ bắt đầu bập bẹ tập nói, anh chị, bố mẹ, ông bà những người thân trong gia đình đã dạy trẻ nói bằng những câu đồng dao đơn giản, ngắn gọn và dễ phát âm như: - Ô nô ốc nốc - Dâm dâm, da da - Chi vi, chi vút - Chi chi chành chành - Dung dăng dung dẻ Dần dần, qua lời của các bài hát đồng dao, cùng nhịp điệu, âm thanh, khiến trẻ rất thích thú học thuộc nó. Bên cạnh đó còn có những động tác tương ứng kèm theo như vung tay, lắc đầu, dậm chân tạo nên sự hứng thú cho trẻ, luyện cho trẻ thói quen hát lời nhịp nhàng với những động tác vận động ấy. Quá trình đó giúp trẻ phát âm ngày càng rõ, đọc hát được những câu ngắn và tiến lên hát được cả bài hát. Đồng dao đã dạy trẻ học nói đúng nghĩa, đúng cấu trúc ngữ pháp. Nhìn chung, đồng dao thiên về thông tin truyền đạt kiến thức hơn là phản ánh tư tưởng, tình cảm. Trong nội dung kiến thức lại nặng về kiến thức tự nhiên hơn là kiến thức lịch sử - xã hội và điều đó phù hợp với nhu cầu và trình độ nhận thức của trẻ em. 4. Nghệ thuật
- 4.1. Đồng dao thường sử dụng thể thơ 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ và thể lục bát có vần điệu, dễ đọc, dễ nhớ, dễ thuộc. 4.2. Ngôn ngữ mộc mạc, hồn nhiên, bình dị, nhiều từ láy, nhiều tiếng tượng hình, tượng thanh sinh động phong phú, phù hợp với tâm hồn, tình cảm trẻ thơ. Tóm lại, với Đồng dao, trẻ em thực sự hoà nhập vào thiên nhiên, sống với thiên nhiên, hiểu thiên nhiên theo cách hiểu trẻ thơ. Có thể xem đồng dao là những bài học vui nho nhỏ. Bài học đó vừa giúp các em vui chơi, ca hát, vừa giúp các em quen với một số kiến thức về khoa học hiện tượng, sự vật trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Đồng dao đến với trẻ em đã làm trọn chức năng giáo dục tư tưởng tình cảm, giáo dục thẩm mỹ - đạo đức của mình.