Giáo trình môn Chăn nuôi lợn

pdf 164 trang ngocly 2150
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình môn Chăn nuôi lợn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_mon_chan_nuoi_lon.pdf

Nội dung text: Giáo trình môn Chăn nuôi lợn

  1. GIÁO TRÌNH CHĂN NUÔI LỢN
  2. 1 CHĂN NUÔI LỢN Chương 1 CHĂN NUÔI LỢN VÀ VAI TRÒ CỦA CHĂN NUÔI LỢN TRONG HỆ THỐNG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP Lợn rất quen thuộc với con người, bởi vì nó đáp ứng một số nhu cầu khác nhau của con người. Phạm vi phân bố của lợn rộng khắp nơi điều này là do sự gắn bó gần gũi của nó đối t với con người. Con người khám phá và đi đến các vùng khác nhau của trái đấ thông qua các phương tiện như thuyền, đường bộ, trong quá trình đó họ thường mang theo những chú lợn cùng với các vật nuôi khác đã được thuần hoá và cả các loại giống cây trồng. Khi họ định canh trên một vùng đất mới nào đó, họ tiến hành trồng trọt và chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm và trồng các loại cây mà họ mang theo, đồng thời họ tiến hành các thử nghiệm các giống cây trồng và vật nuôi mới. Giống nào có hiệu quả thì được giữ lại và phát triển, còn các giống khác thì bị loại thải. Lợn là một vật nuôi được duy trì hàng ngàn đời nay, điều này chứng tỏ rằng nó có quan hệ chặt chẽ với con người và hệ thống nông nghiệp. I.VAI TRÒ VÀ VỊ TRÍ CỦA CHĂN NUÔI LỢN 1. Vai trò Nhiều tài liệu đã chứng tỏ rằng: Tổ tiên xa xưa của lợn là lợn hoang dã được con ngư- ời săn bắn để cung cấp thực phẩm cho cuộc sống. Dần dần họ nhận ra rằng thay vì săn bắn, nuôi lợn có thể được tiến hành một cách dễ dàng hơn và thuận lợi hơn trong việc cung cấp thực phẩm cho con người. Xuất phát từ đó họ tiến hành giữ lại một số lợn săn bắn được hoặc mua từ nơi khác để nuôi. Chúng đã quá quen thuộc đến nổi chúng ta ít khi xem xét đến tầm quan trọng của nó. Các câu hỏi cơ bản cần đặt ra là: Nó là gì? Nó đến từ đâu? Tại sao con người nông dân nuôi lợn? Đó là các câu hỏi đặt ra và sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về các đặc tính độc đáo, cũng như vai trò của nó trong sản xuất và trong cuộc sống. Hầu hết mọi người đều có thể nhận biết được con lợn. Giả sử rằng chúng ta đã được thăm một trang trại chăn nuôi và được yêu cầu chỉ ra một con lợn trong số các vật nuôi mà trang trại đó, phần lớn chúng ta sẽ không do dự chỉ ra đúng con vật nào là con lợn. Điều này thật dễ, bởi vì, có một sự kết hợp hiển nhiên về hình dáng, kích thước, ngoại hình, động thái di chuyển, mùi vị và âm thanh của con lợn. Tất cả các đặc điểm đó cho chúng ta biết một cách chắc chắn rằng chúng ta đang nhìn vào một con lợn và chỉ đúng con lợn chứ không phải là con khác. Con lợn mà chúng ta đã nhìn thấy tại trang trại đã được hình thành từ ngàn đời và thậm chí hàng vạn năm thông qua quá trình thuần hóa và chọn lọc lâu đời. Đầu tiên, con người thuần hóa lợn hoang dã và sau đó dần dần thông qua quá trình chọn lọc và lai tạo để tạo nên một số lượng lớn các giống lợn có màu sắc, hình dáng và kích thước khác nhau. Lợn được chọn lọc để đáp ứng một số mục tiêu khác nhau của con người và thích hợp với các điều kiện môi trường địa lý khác nhau. Con lợn "hiện đại" mà chúng ta đang nuôi ngày nay ở các trang trại chăn nuôi lợn là kết quả của hàng loạt quá trình chọn lọc chính thức và không chính thức của con người và tự nhiên. Lợn hiện đại ngày nay không tồn tại trong điều kiện hoang dã nhưng rõ ràng nó mang các gen của tổ tiên xa xưa: Lợn rừng.
  3. 2 Chăn nuôi lợn có vai trò quan trọng trong hệ thống sản xuất nông nghiệp cùng với lúa nước là hai hợp phần quan trọng và xuất hiện sớm nhất trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam. Nói chung lợn có một số vai trò nổi bật như sau: a. Chăn nuôi lợn cung cấp thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao cho con người. GS. Harris và CTV (1956) cho biết cứ 100 g thịt lợn nạc có 367 Kcal, 22 g protein. b. Chăn nuôi lợn cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Hiện nay thịt lợn là nguyên liệu chính cho các công nghiệp chế biến thịt xông khói (bacon), thịt hộp, thịt lợn xay, các món ăn truyền thống của người Việt Nam như giò nạc, giò mỡ cũng làm từ thịt lợn c. Chăn nuôi lợn cung cấp phân bón cho cây trồng, phân lợn là một trong những nguồn phân hữu cơ tốt, có thể cải tạo và nâng cao độ phì của đất, đặc biệt là đất nông nghiệp. Một con lợn thịt trong một ngày đêm có thể thải 2,5 - 4 kg phân, ngoài ra còn có lượng nước tiểu chứa hàm lượng Nitơ và Phốt pho cao. d. Chăn nuôi lợn góp phần giữ vững cân bằng sinh thái giữa cây trồng, vật nuôi và con người. Trong các nghiên cứu về môi trường nông nghiệp, lợn là vật nuôi quan trọng và là một thành phần không thể thiếu được của hệ sinh thái nông nghiệp. Chăn nuôi lợn có thể tạo ra các loại giống lợn nuôi ở các vườn cây cảnh hay các giống lợn nuôi cả trong nhà góp phần làm tăng thêm đa dạng sinh thái tự nhiên. e. Chăn nuôi lợn có thể tạo ra nguồn nguyên liệu cho y học trong công nghệ sinh học y học, lợn đã được nhân bản gen (cloning) để phục vụ cho mục đích nâng cao sức khỏe cho con người. f. Chăn nuôi lợn làm tăng tính an ninh cho các hộ gia đình nông dân trong các hoạt động xã hội và chi tiêu trong gia đình. Đồng thời thông qua chăn nuôi lợn, người nông dân có thể an tâm đầu tư cho con cái học hành và hoạt động văn hóa khác như cúng giỗ, cưới hỏi, ma chay, đình đám. g. Lợn là vật nuôi có thể coi như biểu tượng may mắn cho người Á Đông trong các hoạt động tín ngưỡng như "cầm tinh tuổi hợi" hay ở Trung Quốc có quan niệm lợn là biểu tượng của sự may mắn đầu năm mới. 2. Vị trí Chăn nuôi lợn có vị trí hàng đầu trong ngành chăn nuôi nước ta. Sự hình thành sớm nghề nuôi lợn cùng với trồng lúa nước đã cho chúng ta khẳng định nghề nuôi lợn có vị trí hàng đầu. Không những thế, việc tiêu thụ thịt lợn trong các bữa ăn hàng ngày của con người rất phổ biến. Ngoài ra thịt lợn được coi là một loại thực phẩm có mùi vị dễ thích hợp với tất cả các đối tượng (người già, trẻ, nam hoặc nữ). Nói cách khác, thịt lợn được coi là “nhẹ mùi” và không gây ra hiện tượng dị ứng do thực phẩm, đây là ưu điểm nổi bật của thịt lợn. Phải chăng, thịt lợn là món ăn ưa thích và hợp khẩu vị với mọi người. Tuy nhiên, để thịt lợn trở thành món ăn có thể nâng cao sức khỏe cho con người, điều quan trọng là trong quá trình chọn giống và nuôi dưỡng chăm sóc, đàn lợn phải luôn luôn khỏe mạnh, sức đề kháng cao và thành phần các chất dinh dưỡng tích lũy vào thịt có chất lượng tốt và có giá trị sinh học. 3. Yêu cầu của chăn nuôi lợn Chăn nuôi lợn phải có hiệu quả kinh tế, năng suất và chất lượng sản phẩm tốt, được người tiêu dùng tin cậy. Do vậy, việc chăm sóc, nuôi dưỡng và quản lý đàn lợn phải đảm bảo cho chúng sinh trưởng, phát dục bình thường, có tốc độ tăng trọng nhanh, có khả năng sinh sản tốt và sản xuất con giống có chất lượng cao, có sức đề kháng tốt. Muốn vậy, người chăn nuôi lợn nắm chắc kỹ thuật chăn nuôi lợn, phòng trừ dịch bệnh và tiếp cận tốt với thị trường. II. TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI LỢN TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở NƯỚC TA
  4. 3 1. Tình hình chăn nuôi lợn trên thế giới Nghề chăn nuôi lợn ra đời rất sớm. Cách đây một vạn năm chăn nuôi lợn đã xuất hiện và phát triển ở châu Âu và Á. Sau đó, khoảng thế kỷ XVI, bắt đầu phát triển ở châu Mỹ và thế kỷ XVIII phát triển ở châu Úc. Đến nay, nuôi lợn đã trở thành một nghề truyền thống của nhiều quốc gia. Ở nhiều nước, chăn nuôi lợn có công nghệ cao và có tổng đàn lợn lớn như: Nga, Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Canada, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Điển, Đức, Ý, Úc, Trung Quốc, Xing-ga-pho, Đài Loan Nói chung ở các nước tiên tiến có chăn nuôi lợn phát triển lợn theo hình thức công nghiệp và đạt trình độ chuyên môn hóa cao. Tuy vậy, đàn lợn trên thế giới phân bố không đồng đều ở các châu lục. Có tới 70% số đầu lợn được nuôi ở châu Á và Âu, khoảng 30 % ở các châu lục khác. Trong đó, tỷ lệ đàn lợn được nuôi nhiều ở các nước có chăn nuôi lợn tiên tiến. Nơi nào có nhu cầu thịt lợn cao, nơi đó nuôi nhiều lợn. Tính đến nay chăn nuôi lợn ở các nước châu Âu chiếm khoảng 52%, châu Á 30,4%, châu Úc 5,8%, châu Phi 3,2 %, châu Mỹ, 8,6 %. Nhìn chung, sản phẩm của ngành chăn nuôi lợn được sử dụng rộng rãi khắp nơi trên thế giới (trừ ở các các nước theo tín ngưỡng Hồi giáo). Giá trị dinh dưỡng cao của thịt lợn là nguồn thực phẩm tốt cho con người, không những thế nghề chăn nuôi lợn đã đem lại lợi nhuận không nhỏ cho nền kinh tế của các nước này. 2. Tình hình chăn nuôi lợn ở Việt Nam Chăn nuôi lợn ở Việt Nam có từ lâu đời. Theo một số tài liệu của khảo cổ học, nghề chăn nuôi lợn ở Việt Nam có từ thời đồ đá mới, cách đây khoảng 1 vạn năm. Từ khi, con người biết sử dụng công cụ lao động là đồ đá, họ đã săn bắn, hái lượm và bắt được nhiều thú rừng, trong đó có nhiều lợn rừng. Khi đó, họ bắt đầu có ý thức trong việc tích trữ thực phẩm và lương thực cho những ngày không săn bắn và hái lượm được và họ đã giữ lại những con vật đã săn bắt được và thuần dưỡng chúng. Cũng từ đó nghề chăn nuôi lợn đã được hình thành. Có nhiều tài liệu cho rằng nghề nuôi lợn và nghề trồng lúa nước gắn liền với nhau và phát triển theo văn hóa Việt. Theo các tài liệu của khảo cổ học và văn hóa cho rằng nghề nuôi lợn và trồng lúa nước phát triển vào những giai đoạn văn hóa Gò Mun và Đông Sơn, đặc biệt vào thời kỳ các vua Hùng. Trải qua thời kỳ Bắc thuộc và dưới ách đô hộ của phong kiến phương Bắc, đời sống của nhân dân ta rất khổ sở và ngành nông nghiệp nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng không phát triển được. Vào khoảng cuối thế kỷ XVIII, khi có trao đổi văn hóa giữa Trung Quốc và Việt Nam, chăn nuôi lợn được phát triển. Dân cư phía Bắc đã nhập các giống lợn lang Trung Quốc vào nuôi tại các tỉnh miền Đông Bắc bộ. Tuy nhiên, trong thời kỳ này trình độ chăn nuôi lợn vẫn còn rất thấp. Trong thời kỳ Pháp thuộc, khoảng 1925, Pháp bắt đầu cho nhập các giống lợn châu Âu vào nước ta như giống lợn Yorkshire, Berkshire và cho lai tạo với các giống lợn nội nước ta như lợn Móng Cái, lợn Ỉ, lợn Bồ Xụ. Cùng với việc tăng nhanh về số lượng, chất lượng đàn lợn cũng không ngừng được cải thiện. Các phương pháp nhân giống thuần chủng và các phép lai được thực hiện. Trong thời gian từ 1960, chúng ta đã nhập nhiều giống lợn cao sản thông qua sự giúp đỡ của các nước XHCN anh em. Có thể nói, chăn nuôi lợn được phát triển qua các giai đoạn như sau: - Giai đoạn từ 1960 – 1969: Giai đoạn khởi xướng các qui trình chăn nuôi lợn theo hướng chăn nuôi công nghiệp - Giai đoạn từ 1970 – 1980: Giai đoạn hình thành các nông trường lợn giống quốc doanh với các mô hình chăn nuôi lợn công nghiệp, có đầu tư và hỗ trợ của các nước trong khối xã hội chủ nghĩa như Liên Xô cũ, Hung-ga-ri, Tiệp Khắc và Cu Ba. Hệ thống nông trường quốc doanh được hình thành và Công ty giống lợn công nghiệp Trung ương cũng phát triển tốt và đảm đương việc cung cấp các giống lợn theo hệ thống công tác giống 3 cấp từ Trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, trong những năm chuyển đổi kinh tế sự hỗ trợ của nước ngoài
  5. 4 giảm, cộng thêm đó là tình hình dịch bệnh đã làm cho hệ thống các nông trường giống lợn dần dần tan rã hay chuyển đổi từ sở hữu nhà nước sang cổ phần hóa hay tư nhân. - Giai đoạn từ 1986 đến nay: Đây là giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với môi trường sinh thái và nông nghiệp sản xuất hàng hóa để tham gia thị trường khu vực (AFTA) và tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Từ đó, các mô hình chăn nuôi lợn được hình thành và phát triển ở các tỉnh miền Nam và các tỉnh phía Bắc, hình thức chăn nuôi lợn theo trang trại và doanh nghiệp tư nhân hình thành và phát triển mạnh. Ngoài ra, còn có nhiều doanh nghiệp và công ty chăn nuôi lợn có vốn đầu tư 100% của nước ngoài. Với hình thức chăn nuôi công nghiệp tập trung này, trong những năm tới chăn nuôi lợn nước ta sẽ phát triển nhanh chóng, tuy nhiên hình thức chăn nuôi nông hộ vẫn chiếm tỷ lệ lớn, 96,4% ở các khu vực nông thôn (VNC, 2002). Cho đến nay, có thể nói nhiều doanh nghiệp, công ty hay các Trung tâm giống lợn đã có khả năng sản xuất các giống lợn tốt đáp ứng nhu cầu nuôi lợn cao nạc và phát triển chăn nuôi lợn ở các hình thức khác nhau trong cả nước. Điển hình là các cơ sở của thành phố Hồ Chí Minh, các cơ sở của Viện Chăn nuôi, Viện Khoa học Nông Nghiệp Miền Nam và các Công ty sản xuất thức ăn có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, việc quản lý con giống cũng là vấn đề nan giải và nhiều thách thức, Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn cũng đã ban hành nhiều văn bản về công tác quản lý giống lợn trong cả nước. Hiện tượng các giống lợn kém chất lượng bán trên các thị trường nông thôn vẫn khá phổ biến, do vậy người chăn nuôi gặp nhiều khó khăn trong việc gây dựng đàn lợn ban đầu. Vấn đề đặt ra là các địa phương cần xây dựng các cơ sở giống lợn của địa phương mình để cung cấp giống lợn tốt cho nông dân. Công tác này, trong những năm qua theo Chương trình Khuyến nông, nhiều cơ sở sản xuất con giống bước đầu đã đáp ứng phần nào yêu cầu nông dân. Chăn nuôi lợn trong cả nước đã có nhiều thành công đáng kể như đàn lợn đã tăng tỷ lệ nạc từ 33,6% ở lợn nội lên 40,6% ở lợn lai (miền Bắc) và 34,5% lợn nội lên 42% tỷ lệ nạc ở lợn lai (miền Nam). Đối với lợn lai 3 máu ngoại (Landrace x Yorkshire) x Duroc tỷ lệ nạc trong nghiên cứu đạt 58-61%, trong đại trà sản xuất đạt 52-56%. Năm 2001 cả nước có 21.741 ngàn con lợn, sản xuất 1513 ngàn tấn thịt lợn hơi, xuất khẩu 27,3 tấn thịt xẻ, chiếm 2,6% số thịt lợn sản xuất ra (Nguyễn Đăng Vang, 2002). III. MỘT SỐ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CHĂN NUÔI LỢN Ở NƯỚC TA Mặc dầu trong những năm qua, chăn nuôi lợn nước ta đạt được những thành tựu đáng kể nhưng đứng trước yêu cầu phát triển kinh tế hiện nay, ngành chăn nuôi lợn ở Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức lớn. 1. Giá thức ăn gia súc cao, chất lượng thức ăn chưa được kiểm soát So với các nước trong khu vực và thế giới thì giá thức ăn ở nước ta rất cao và thường xuyên biến động, điều này đã tác động bất lợi cho phát triển chăn nuôi lợn ở nước ta trong những năm qua. Nhìn chung giá thức ăn gần đây có giảm nhưng vẫn cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Giá thức ăn cao là một yếu tố quan trọng dẫn đến giá thành sản phẩm chăn nuôi lợn cao và lợi nhuận chăn nuôi thấp. Chất lượng thức ăn do các nhà máy chế biến thức ăn gia súc sản xuất có chất lượng rất khác nhau và chưa kiểm soát được. Nhiều xí nghiệp sản xuất thức ăn gia súc chưa tuân thủ đúng qui định đã ban hành của Bộ Nông Nghiệp và PTNT. Nguồn nguyên liệu chế biến thức ăn đang còn thiếu, chi phí vận chuyển cao. 2. Năng suất chăn nuôi lợn còn thấp Mặc dù thu nhập từ chăn nuôi lợn chiếm 49,7% trong chăn nuôi nhưng người dân chỉ dành 10% thời gian lao động nông nghiệp cho hoạt động ngành chăn nuôi lợn. Năng suất lao
  6. 5 động chăn nuôi cao hơn 25% so với các hoạt động sản xuất khác trong ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, lợn tăng trọng còn chậm, trọng lượng xuất chuồng chưa cao, thời gian nuôi dài, chi phí cao. Ở các trại chăn nuôi tập trung đang còn gặp nhiều khó khăn trong quản lý, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và cả thị trường tiêu thụ sản phẩm 3. Hệ thống giống lợn chưa hình thành Hệ thống giống lợn hình tháp: Cụ kỵ - Ông bà - Bố mẹ trong thực tế mới được quan tâm khoảng 2 năm gần đây. Tình trạng một số giống vật nuôi tốt lại biến thành vật nuôi thương phẩm; vật nuôi thương phẩm trong các trại tư nhân lại biến thành con giống. Điều này đã làm giảm chất lượng đàn lợn ở thế hệ sau. 4. Tình trạng thiếu nghiêm trọng các nguyên liệu dùng làm thức ăn cho lợn Trong 10 năm qua, hàng năm chúng ta nhập từ bên ngoài khoảng 30-40% nguyên liệu như ngô, 80% khô dầu đậu tương, 50% bột cá và các thức ăn bổ sung có nguồn gốc từ Vitamin - Khoáng và enzyme, axit amin tổng hợp. Theo dự báo của Bộ NN & PHTNT đến 2005 nhu cầu thức ăn tinh cho chăn nuôi là 10 triệu tấn, trong khi đó ta chỉ sản xuất được 7,6 triệu tấn và cần nhập 2,4 triệu tấn hàng năm. Đến 2010 nhu cầu thức ăn tinh sẽ tăng lên 1,6 lần và cần 16-17 triệu tấn trong mỗi một năm, trong khi đó ta chỉ đáp ứng được khoảng 70% nhu cầu. 5. Thị trường tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi lợn vẫn còn gặp nhiều khó khăn Nhu cầu tiêu thụ thịt, trứng và sữa trong nước vẫn tiếp tục tăng do nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống và thu nhập của nhân dân tăng lên. Song giữa người sản xuất và người tiêu thụ sản phẩm vật nuôi vẫn còn có khoảng cách như thiếu thông tin và độ tin cậy. Người chăn nuôi phải bán sản phẩm với giá thấp cho người trung gian, người tiêu thụ lại phải mua với giá cao hơn. Chênh lệch này người giết mổ hay buôn bán thịt lợn được hưởng lợi. Trong khi đó thị trường nước ngoài ngày càng có sự cạnh tranh gay gắt nhất là sau năm 2006 khi Hiệp định AFTA có hiệu lực hoàn toàn, người chăn nuôi cần phải được cung cấp thông tin đầy đủ, tổ chức theo hệ thống từ khâu con giống đến giết mổ và đưa ra thị trường phải đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và chất lượng tốt mới đủ sức cạnh tranh với sản phẩm chăn nuôi lợn của các nước trong khu vực. Đặc biệt, sản phẩm chăn nuôi lợn muốn xuất khẩu sang các thị trường Châu Âu, Mỹ và Nhật, vấn đề an toàn thực phẩm cũng là điều đáng quan tâm của những người chăn nuôi lợn và người quản lý. 6. Mối đe dọa nghiêm trọng từ dịch bệnh đến chăn nuôi lợn Nước ta là một nước nhiệt đới, nơi xuất phát của nhiều dịch bệnh có tính chất khu vực như các bệnh truyền nhiễm: Lở mồm long móng, tụ huyết trùng, phó thương hàn, hội chứng bệnh tiêu chảy, hô hấp và sinh sản. Dịch tả lợn vẫn gây rủi ro rất lớn đến đầu tư phát triển chăn nuôi lợn, nếu đàn lợn không được tiêm phòng nghiêm ngặt. Chính phủ đã có quyết định số 166 và 167 và thông tư qui định ngày 26/10/2001, trong đó hỗ trợ các loại vắc xin chủ yếu tránh các bệnh dịch nhưng việc triển khai không đồng bộ, hệ thống dịch vụ thú y kém nên việc phòng trừ dịch bệnh cho đàn lợn vẫn chưa có hiệu quả cao. 7. Hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới Thuận lợi và thách thức. Hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới (WTO) sẽ tạo cơ hội thúc đẩy ngành chăn nuôi lợn nước ta phát triển do thị trường tiêu thụ sản phẩm được mở rộng, có sự trao đổi kinh nghiệm trong nghiên cứu và kỹ thuật chăn nuôi lợn. Tuy vậy, đây cũng là thách thức lớn đối với nước ta bởi vì trình độ công nghệ và điểm xuất phát của nước ta còn thấp so với các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Ma-lay-xi-a.v.v Theo
  7. 6 cam kết, đến hết năm 2006 nước ta phải mở thị trường chăn nuôi, lúc đó mức thuế nhập khẩu thịt lợn chỉ còn tối đa 5%. Rõ ràng nếu như chúng ta không hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm chăn nuôi lợn trong những năm tới thị trường nội địa về thịt lợn cũng sẽ bị thu hẹp bởi sức ép của chất lượng sản phẩm thịt lợn từ nước ngoài vào Việt Nam. IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI LỢN Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI Thực tiễn nhiều năm qua cho thấy cơ chế, chính sách có tác động mạnh mẽ đến phát triển của chăn nuôi lợn. Để kích thích chăn nuôi lợn ở nước ta trở thành sản xuất hàng hóa cần phải có các chính sách tích cực và đồng bộ. 1. Chính sách liên quan đến công tác giống lợn Thực hiện tốt pháp lệnh về quản lý giống, trong đó có các giống lợn và việc chọn lọc, lai tạo, phổ biến nhanh các giống lợn có năng suất cao, đồng thời vẫn tiến hành nghiên cứu chọn lọc lai tạo cải tiến các giống nội địa và bảo tồn chúng. Tiếp tục rà soát, xây dựng lại và ban hành tiêu chuẩn giống lợn quốc gia đối với các giống lợn. Tiến đến cấp chứng chỉ và thanh tra giống lợn, phân loại giống theo định kỳ và công bố trên thông tin tạp chí chuyên ngành của Bộ Nông Nghiệp và PTNT để mọi người biết và thực hiện. Thành lập Hội đồng cải tiến giống lợn quốc gia bao gồm các nhà khoa học chuyên ngành, đại diện kinh tế tư nhân và Nhà nước, nông dân có kinh nghiệm, Cục, Vụ, Viện, Hội chăn nuôi, Thú y. Cổ phần hoá các trung tâm giống lợn sản xuất không có lãi để các trung tâm này tiếp tục năng động cải tiến, đầu tư nâng cao tiến bộ di truyền giống, tạo giống mới, nâng cao năng lực cạnh tranh. 2. Chính sách liên quan đến sản xuất, chế biến thức ăn chăn nuôi lợn Thiết lập tiêu chuẩn và pháp lênhj chất lượng thức ăn. Tăng cường việc kiểm tra, thanh tra chất lượng thức ăn chăn nuôi. Tăng cường năng lực cho các phòng phân tích để tham gia đánh giá chất lượng thức ăn chăn nuôi. Đồng thời đưa ra một số tiêu chuẩn ngành, tiêu chuẩn quốc gia về thức ăn chăn nuôi; đưa rõ ràng trong đăng ký nhãn hiệu thức ăn. Tạo nguồn nguyên liệu thức ăn với giá thành hạ. Qui hoạch thành các vùng sản xuất nguyên liệu có năng suất cao đủ để cung cấp cho các xí nghiệp và công ty sản xuất thức ăn gia súc. Có thể cho phép nhập khẩu một số nguyên liệu phục vụ cho sản xuất thức ăn gia súc với mức thuế suất rất thấp hay không đánh thuế. Hỗ trợ kinh phí để nghiên cứu dinh dưỡng động vật và khuyến nông trong áp dụng sản xuất, chế biến và sử dụng thức ăn chăn nuôi khoa học và hợp lý. Đặc biệt tập trung nghiên cứu chế biến các phụ phế phẩm của nông nghiệp và công nghiệp chế biến để tăng nhanh nguồn thức ăn cho chăn nuôi lợn. 3. Chính sách liên quan đến mạng lưới thú y và chế biến sản phẩm chăn nuôi lợn Tăng cường vắc-xin phòng bệnh cho gia súc, gia cầm. Nâng cao tỷ lệ tiêm phòng, đặc biệt ở những vùng xa xôi hẻo lánh và các vùng miền núi, hải đảo. Ngoài ra cần hướng dẫn người chăn nuôi biết các phương pháp phòng trừ dịch bệnh tổng hợp cho gia súc gia cầm. Đầu tư trang thiết bị, kỹ thuật cho các trung tâm chẩn đoán thu y vùng và đào tạo cán bộ cho các trung tâm. Củng cố mạng lưới thú y xã, hỗ trợ mỗi xã 1 cán bộ thú y với mức lương tối thiểu từ nguồn kinh phí khuyến nông nhằm nâng cao hiệu quả dịch vụ thú y tại cơ sở. Ưu tiên và khuyến khích vay tín dụng ưu đãi đầu tư cơ sở giết mổ, chế biến thịt. Thành lập hệ thống thanh tra thú y nghiêm ngặt tại các cơ sở giết mổ và chế biến thịt. Coi trọng vệ sinh dịch tể và an toàn thực phẩm coi đây là công tác hàng đầu. Tăng cường và đầu tư thích đáng cho các hoạt động liên quan đến an toàn thực phẩm trong chế biến sản phẩm chăn nuôi lợn. Kiểm soát giết mổ và có qui trình chuẩn cho giết mổ lợn.
  8. 7 4. Chính sách khuyến khích thị trường Thành lập một số chợ đầu mối để qui tụ hàng hoá có qui mô lớn hơn. Tại đây, gia súc được đấu thầu nhằm rút ngắn khoảng cách giá cả giữa nhà chăn nuôi đến người chế biến thịt và người tiêu dùng. Có chính sách tín dụng để ngay tại chợ đầu mối các cơ sở giết mổ, chế biến thịt được ưu tiên đầu tư nhằm giảm chi phí vận chuyển và hao hụt do vận chuyển gia súc. Nhà nước tạo điều kiện để thông tin kinh tế, thương mại thị trường đến được các nhà sản xuất, giết mổ, chế biến sản phẩm chăn nuôi và người tiêu dùng. 5. Chính sách về công tác quản lý đàn lợn Ở các trang trại chăn nuôi lợn cần thiết phải có các biểu mẫu ghi chép đầy đủ về qui mô, cơ cấu đàn và tình hình sản xuất của đàn lợn. Đồng thời có kế hoạch chu chuyển đàn lợn theo yêu cầu của thị trường, cơ sở chăn nuôi và thực tiễn sản xuất. Các chủ trang trại hay công ty cần phải có các thông báo với các tở chức có chức năng theo dõi và quản lý đàn. Ở các nông hộ chăn nuôi lợn, người chăn nuôi nên có các sổ sách ghi chép đầy đủ số lượng đàn lợn, chất lượng, tiêu tồn thức ăn và tình hình dịch bệnh để báo với các cơ quan quản lý chăn nuôi biết được tình hình sản xuất chăn nuôi lợn. Đồng thời các tổ chức và cơ quan quản lý đàn gia súc cần phải có sự theo dõi, giám sát và tư vấn cho việc phát triển chăn nuôi lợn của các nông hộ cũng như các trang trại. 6. Chính sách về đầu tư Cần có chính sách khuyến khích chăn nuôi tập trung, thâm canh có quy mô lớn theo khu vực hoá. Hình thức chăn nuôi tập trung này sẽ giúp chi phí dịch vụ thức ăn, thú y, kiểm soát vệ sinh môi trường chăn nuôi được thuận lợi. Do quy mô chăn nuôi lớn, đòi hỏi vốn lớn, Nhà nước tạo điều kiện cho vay vốn tín dụng với lãi suất thấp, thời gian vay phù hợp với chu kỳ sinh học của vật nuôi và chu kỳ quay vòng vốn đầu tư xây dựng cơ bản và mua con giống cho hình thức đầu tư chăn nuôi tập trung này. Phát triển mô hình chăn nuôi theo nông hộ có thâm canh là chủ yếu, vận động nông dân ứng dụng các kỹ thuật chăn nuôi tiên tiến vào sản xuất, nhanh chóng thay đổi các tập quán chăn nuôi cũ. Xây dựng các mô hình chăn nuôi tổng hợp hướng đến đa dạng hoá nông nghiệp và phát triển bền vững. 7. Chính sách cho công tác nghiên cứu khoa học và khuyến nông Tăng cường năng lực cho các phòng thí nghiệm. Đào tạo cán bộ nghiên cứu và khuyến nông viên. Ưu tiên các nghiên cứu theo chương trình dự án trọng điểm, theo hướng đi thẳng vào công nghệ cao, hiện đại nhưng phù hợp với điều kiện thực tế Việt Nam như: nghiên cứu giống cao sản, nghiên cứu trang thiết bị chuồng trại, tiểu khí hậu chuồng nuôi. Nghiên cứu dinh dưỡng thức ăn theo hướng: Cân bằng a-xít a-min, vitamin-khoáng, năng lượng, nghiên cứu tiêu hoá hấp thu bằng phương pháp hiện đại. Nghiên cứu các chất béo (a-xít béo không no mạch dài) có tác dụng trong việc nâng cao sức đề kháng bệnh cho lợn và chất lượng mỡ của thịt lợn. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin để quản lý giống lợn thịt, giống gốc và giống lợn cụ kỵ, ông bà. Nghiên cứu chế biến sản phẩm chăn nuôi, đảm bảo an toàn thực phẩm trên cơ sở phát triển nông nghiệp hữu cơ. Nghiên cứu hiệu quả kinh tế, hệ thống chăn nuôi, thị trường tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi. Từ đó xây dựng cơ sở khoa học nhằm đề ra chính sách phát triển chăn nuôi ở nước ta trong hiện tại và tương lai. V. MỘT SỐ ĐẶC TÍNH SINH HỌC VÀ SẢN XUẤT CỦA LỢN Từ xa xưa lợn là loài sống thành bầy đàn và thường sống trong rừng. Chúng trú ẩn trong bụi cỏ hay ở đầm lầy và ở trong các hang mà do chính nó đào hay hang đã được bỏ không bởi các động vật khác. Lợn là loại động vật rất thích đằm mình trong các bãi lầy. Nó
  9. 8 thường rất nhanh nhẹn vào ban đêm. Lợn có phổ thức ăn rộng, khẩu phần của nó bao gồm nấm, lá cây, củ, quả, ốc, các thú có xương sống nhỏ, trứng và các xác chết. Nó dùng các cơ, mủi linh động và chân chắc chắn để đào bới và tìm kiếm thức ăn. Kể cả khi được thuần dưỡng trở thành vật nuôi lợn vẫn mang các đặc tính sinh học sau đây: 1. Lợn có khả năng sản xuất cao Lợn công nghiệp ngày nay là những cổ máy chuyển hoá thức ăn có hiệu quả, có tốc độ sinh trưởng cao. Điều này đã rút ngắn thời gian nuôi và có nghĩa là hạn chế được rủi ro về kinh tế. Một con lợn nái có thể dể dàng sản xuất 8 đến 12 lợn con/lứa sau khoảng thời gian có chữa là 114 ngày và trong điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng tốt thì có thể có hai lứa/năm. Khả năng sản xuất thịt cũng khá cao. Một con lợn có trọng lượng xuất chuồng khoảng 100 kg sẽ có khoảng 42 kg thịt, 30 kg đầu, máu và nội tạng và 28 kg mỡ, xương 2. Lợn là động vật ăn tạp và chịu đựng kham khổ tốt Lợn trong mọi giai đoạn khác nhau có thể thích hợp với nhiều loại thức ăn khác nhau, tuy nhiên lợn con có phạm vi thức ăn hẹp hơn. Một số giống có thể thích hợp với khẩu phần ăn có chất lượng thấp và nhiều xơ. Những giống như thế này có vai trò quan trọng trong các hệ thống chăn nuôi quảng canh. Điều này đã được chứng minh trong thực tế ở một số quốc gia mà ở đó người ta sử dụng rau xanh nhiều và bổ sung một lượng nhỏ protein để nuôi lợn. Với phương thức này người chăn nuôi đã làm giảm năng lượng đầu vào và nâng cao hiệu quả sản xuất của lợn nái. Tuy nhiên, trong các hệ thống chăn nuôi hiện đại những thuận lợi này không còn được ứng dụng nữa. Lợn thương phẩm được cung cấp thức ăn một cách cân đối, có chất lượng cao. Khẩu phần ăn có tỷ lệ xơ cao, thấp protein sẽ làm hạn chế quá trình sinh tr- ưởng của lợn. Trong trường hợp này lợn sẽ tồn tại và phát triển nhưng với tốc độ tăng trọng thấp và hiệu quả sản xuất sẽ không cao. 3. Khả năng thích nghi cao Lợn là một trong những giống vật nuôi có khả năng thích nghi cao, chịu đựng kham khổ tốt, đồng thời nó là một con vật thông minh và dễ huấn luyện. Từ các đặc điểm đó đã tạo cho lợn có khả năng sinh tồn cao trong các điều kiện môi trường địa lý khác nhau: nó rất năng động trong việc khám phá các môi trường mới và tìm kiếm các loại thức ăn mới. Trong tr- ường hợp cần thiết lợn có thể chống chọi một cách dữ dội để bảo vệ lãnh thổ của mình cũng như chống lại địch hại. Lợn khá mắn đẻ và có khả năng sinh sản rất nhanh, đặc điểm này có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành bầy đàn mới cũng như sự tồn tại lâu dài của giống nòi trong các điều kiện môi trường mới. Lợn có khả năng thích nghi tốt với mọi điều kiện khí hậu khác nhau, vì vậy địa bàn phân bố của đàn lợn rộng rãi khắp nơi. Lợn có lớp mỡ dưới da dày để chống lạnh, còn vùng nóng chúng tăng cường hô hấp để giải nhiệt. Trước đây, lợn được nuôi theo phương thức tận dụng trong các hệ thống sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ. Chúng thường được nhốt vào ban đêm để tránh các địch hại, nhưng được thả tự do vào ban ngày để tìm kiếm thức ăn. Chúng sinh trưởng rất chậm nhưng lại có khả năng chống chịu bệnh tật và duy trì sự sống cao. Người dân chỉ bỏ chút thời gian hơn để chăm sóc và nuôi d- ưỡng chúng. Tất cả các đặc tính đó đã đáp ứng được yêu cầu của con người, giúp cho con người giành thời gian cho các công việc khác để tạo thu nhập cao hơn và bảo đảm cuộc sống gia đình của họ tốt hơn. 4. Thịt lợn có chất lượng thơm ngon, tỷ lệ thịt xẻ và tỷ lệ mỡ cao trong thân thịt Lợn có thể sản xuất một lượng mỡ đáng kể. Mỡ là một nguồn dự trữ năng lượng lớn. Mỡ còn giúp cho thịt có mùi và vị ngon hơn. Mặc dầu mỡ ít phổ biến trong khẩu phần của con người do tác hại của mỡ động vật nhưng sức khỏe con người lại rất cần một số a xít béo
  10. 9 từ thịt lợn hay mỡ lợn. Ngoài ra, thịt lợn vốn là loại thực phẩm có giá cao và vốn được xem là có giá trị cao hơn so với thịt nạc hay thịt cơ. Lợn có rất nhiều đóng góp có giá trị cho đời sống của con ngời. Hầu hết thân thịt lợn đều sử dụng để chế biến hoặc làm thức ăn cho con người, da của lợn có thể làm thức ăn hoặc cung cấp cho ngành thuộc da, lông có thể được dùng để làm bàn chải, bút vẽ Sự phát triển của công nghệ chế biến thịt hông khói, lên men đã tạo nên một số lượng sản phẩm rất đa dạng từ thịt lợn, các công nghệ này đã giúp cho quá trình bảo quản, nâng cao tính đa dạng, hương vị và nâng cao phẩm chất khẩu phần ăn cho con ngư- ời. Lợn công nghiệp ngày nay có năng suất thịt cao hơn so với các giống lợn truyền thống (khoảng 49% trọng lượng sống), bù vào đó lợn truyền thống có tỷ lệ mỡ cao hơn lợn công nghiệp ngày nay. Nếu ta so với trâu bò hay gia cầm thì tỷ lệ thịt chỉ vào khoảng 38 - 45%. 5. Lợn là loại vật nuôi dễ huấn luyện Lợn là loài động vật dễ huấn luyện thông qua việc thiết lập các phản xạ có điều kiện. Ví dụ trong trường hợp huấn luyện lợn đực giống xuất tinh và khai thác tinh dịch, ngoài ra trong chăm sóc nuôi dưỡng chúng ta có thể huấn luyện cho lợn có nhiều các phản xạ có lợi để nâng cao năng suất và tiết kiệm lao động, ví dụ như huấn luyện lợn tiểu tiện đúng chỗ qui định 6. Đặc điểm tiêu hóa của bộ máy tiêu hoá lợn Lợn là gia súc dạ dày đơn. Cấu tạo bộ máy tiêu hoá của lợn bao gồm miệng, thực quản, dạ dày, ruột non, ruột già và cuối cùng là hậu môn. Khả năng tiêu hóa của lợn với các loại thức ăn cao thường có tỷ lệ từ 80-85% tùy từng loại thức ăn. 6.1. Quá trình tiêu hoá - Miệng: thức ăn ở miệng được cắt nghiền nhỏ bởi động tác nhai và thức ăn trộn với nước bọt làm trơn để được nuốt trôi xuống dạ dày. Nước bọt chứa phần lớn là nước (tới 99%) trong đó chứa enzym amylase có tác dụng tiêu hoá tinh bột, tuy nhiên thức ăn trôi xuống dạ dày rất nhanh nên việc tiêu hoá tinh bột xảy ra nhanh ở miệng, thực quản và tiếp tục ở dạ dày khi thức ăn chưa trộn với dịch dạ dày. Độ pH của nước bọt khoảng 7,3. - Dạ dày: Dạ dày của lợn trưởng thành có dung tích khoảng 8 lít, chức năng như là nơi dự trữ và tiêu hoá thức ăn. Thành dạ dày tiết ra dịch dạ dày chứa chủ yếu là nước với enzym pepsin và axit chlohydric (HCl). Men pepsin chỉ hoạt động trong môi trường axit và dịch dạ dày có độ pH khoảng 2,0. Pepsin giúp tiêu hoá protein và sản phẩm là polypeptit và ít axit amin. - Ruột non: Ruột non có độ dài khoảng 18 - 20 mét. Thức ăn sau khi được tiêu hoá ở dạ dày chuyển xuống ruột non được trộn với dịch tiết ra từ tá tràng, gan và tụy - thức ăn chủ yếu được tiêu hoá và hấp thụ ở ruột non với sự có mặt của mật và dịch tuyến tụy. Mật được tiết ra từ gan chứa ở các túi mật và đổ vào tá tràng bằng ống dẫn mật giúp cho việc tiêu hoá mỡ. Tuyến tụy tiết dịch tụy có chứa men trypsin giúp cho việc tiều hoá protein, men lipase giúp cho tiêu hoá mỡ và men diastase giúp tiêu hoá carbohydrate. Ngoài ra ở phần dưới của ruột non còn tiết ra các men maltase, saccharose và lactase để tiêu hoá carbohydrate. Ruột non cũng là nơi hấp thụ các chất dinh dưỡng đã tiêu hoá được, nhờ hệ thống lông nhung trên bề mặt ruột non mà bề mặt tiếp xúc và hấp thu chất dinh dưỡng tăng lên đáng kể. - Ruột già: Ruột già chỉ tiết chất nhầy không chứa men tiêu hoá. Chỉ ở manh tràng có sự hoạt động của vi sinh vật giúp tiêu hoá carbohydrate, tạo ra các axit béo bay hơi, đồng thời vi sinh vật cũng tạo ra các vitamin K , B. . . 6.2. Cơ chế tiêu hoá thức ăn ở lợn
  11. 10 Tiêu hoá thức ăn ở lợn là quá trình làm nhỏ các chất hữu cơ trong đường tiêu hoá như protein, carbohydrate, mỡ để cơ thể có thể hấp thu được. Tiêu hoá có thể diễn ra theo các quá trình: (1) Quá trình cơ học: Nhai nuốt hoặc sự co bóp của cơ trong đường tiêu hoá để nghiền nhỏ thức ăn; (2) Quá trình hoá học: là quá trình tiêu hoá nhờ các men tiết ra từ các tuyến trong đường tiêu hoá ; (3) Quá trình vi sinh vật: Là quá trình tiêu hoá nhờ bacteria và protozoa. 6.3. Khả năng tiêu hoá Trong quá trình tiêu hoá và hấp thụ thức ăn, một phần thức ăn ăn vào nhưng không được hấp thu làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu hoá. Hiệu quả tiêu hoá ở lợn phụ thuộc vào một số yếu tố như tuổi, thể trạng và trạng thái sinh lý, thành phần thức ăn, lượng thức ăn cung cấp, cách chế biến thức ăn. Lợn rất khó tiêu hoá xơ vì vậy lượng xơ trong khẩu phần cần hạn chế. 7. Thương mại, thu nhập và phúc lợi từ chăn nuôi lợn Sau khi được thuần hoá, lợn sớm trở thành một món hàng có giá trị cho việc kinh doanh và buôn bán. Trước khi tiền tệ xuất hiện, con người đã tiến hành trao đổi lợn để lấy các loại hàng hóa khác. Quá trình thương mại diễn ra cũng có nghĩa là con lợn bắt đầu có giá trị kinh tế. Việc bán lợn và các sản phẩm lợn cung cấp một nguồn thu nhập cho hàng triệu gia đình nông dân trên thế giới. Các sản phẩm này đã ảnh hưởng rộng đến các hoạt động kinh doanh khác như: Thương mại, vận chuyển, thị trường, giết mổ, chế biến thức ăn và nhiều lĩnh vực khác nữa. Ngoài ra nó còn có tác dụng kích cầu đối với các ngành chế biến thức ăn, sản xuất con giống, tinh dịch, thuốc thú y và các thiết bị khác. Khi lợn có giá trị kinh tế, chúng là một hình thức tiết kiệm cho người dân. Nó là một hình thức dự trữ chờ khi điều kiện thị tr- ường thuận lợi hoặc khi gia đình cần có một món tiền đột xuất. Đối với nhiều xã hội, việc dự trữ tài sản thường là quan trọng hơn giá trị của vật nuôi với tư cách là nguồn lương thực. Một đàn lợn lớn có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm tính an toàn cho tương lai khi các bất trắc xảy ra bằng cách chuyển các sản phẩm trung gian (ví dụ như sản phẩm của trồng trọt) sang dạng sản phẩm dự trữ lâu dài dưới dạng lợn. 8. Lợn có giá trị về văn hoá và xã hội Một điều quan trọng cần lưu ý là lợn đã được xem là một loài vật nuôi có tầm quan trọng không chỉ vì giá trị thức ăn mà còn có các giá trị văn hoá độc đáo. Điều này được thể hiện trong các bài hát, thơ ca, tranh ảnh hội hoạ, sách. Lợn được xem là có các đặc tính của con người. Nó được thể hiện là các đấng anh hùng hay là kẻ hung dữ trong các chuyện ngụ ngôn. Người ta thường nói "ngu như lợn" vậy nhưng ở Úc nhiều nghiên cứu đã khẳng định trí thông minh của lợn và được ghi nhận trong một số xã hội. Tuy nhiên, trong các xã hội khác nó lại được xem là con vật bẩn thỉu và ngu dốt. Con người còn nuôi lợn như là một động vật cảnh trong nhà và để làm bạn đồng hành trong những lần dạo chơi. Các sản phẩm phụ của lợn (như đuôi và xương) được bán để làm các đồ trang trí nội thất. Trong một số xã hội, số lượng lợn nuôi trong gia đình cũng phản ảnh vị thế của gia đình đó trong xã hội. Ngoài ra, chúng còn được dùng như là một cơ sở cho hình thức tín dụng bản địa và hệ thống đầu tư giữa các cộng đồng. 9. Lợn có khả năng sản xuất phân bón tốt Giống như các gia súc và gia cầm khác, lợn đóng góp một nguồn phân bón đáng kể cho trồng trọt. Một con lợn trưởng thành có thể sản xuất 600 - 730 kg phân bón/năm. Hàm lư- ợng Nitơ trong phân tươi vào khoảng 0.5 đến 0.6%; phốt phát: 0.5%; và kali: 0.4%. Ở Việt Nam, phân lợn là nguồn phân hữu cơ chủ yếu cung cấp cho trồng trọt, đặc biệt là cho nghề trồng rau. Ở một số quốc gia, nơi mà trồng mía là một nghề chủ đạo như Phi-líp-pin, phân lợn
  12. 11 được dẫn một cách trực tiếp từ trại nuôi lợn ra đồng mía để vừa có chức năng tưới tiêu và chức năng nâng cao độ màu mỡ cho đất. 10. Một số hạn chế của chăn nuôi lợn - Ô nhiễm: Lợn là động vật có dạ dày đơn và có nhu cầu protein cao cho nên phân của nó có thể gây ô nhiễm cho môi trường và cộng đồng. Nếu chúng ta không xử lý một cách hợp lý phân và nước tiểu, có thể gây ô nhiểm nguồn nước và đất đai. Mùi vị của phân và nước tiểu có thể gây khó chịu cho cộng đồng sống gần trang trại lợn đặc biệt sự phát xạ của Nitơ trong nước tiểu. Đã có nhiều thành phố thực hiện chính sách cấm chăn nuôi lợn trong thành phố như sử dụng phân lợn để sản xuất khí mêtan (qua Biogas) và thực tế này đã được tiến hành ở nhiều nước như Đài loan, Phi- líp- pin, Việt nam và một số nước khác. Tuy nhiên, nhiều nhà sản xuất chỉ đơn giản đưa các chất thải này ra theo con đường nhanh nhất và đơn giản nhất. - Sức khoẻ: Lợn có thể là một yếu tố truyền bệnh qua con người ví dụ bệnh nhiệt thán và các bệnh truyền nhiễm khác. - Cạnh tranh lương thực: Ở nhiều nước có thu nhập thấp thì có thể không có đủ lương thực cho con người, trong khi đó hệ thống chăn nuôi công nghiệp hiện đại lại sử dụng nhiều thức ăn có chất lượng tốt như ngủ cốc cho chăn nuôi. Do vậy lợn có thể cạnh tranh lương thực với con người. Chăn nuôi lợn công nghiệp đã tạo ra sự tăng nhảy vọt về hiệu quả sản xuất. Điều này đã làm cho nó trở thành một ngành có tính cạnh tranh cao. Nhiều công ty chăn nuôi có thể có lợi nhuận lớn. Các hộ nông dân nhỏ phải nâng cao hiệu quả sản xuất để duy trì tính lợi nhuận quá trình sản xuất đó. Chăn nuôi lợn càng phát triển thì việc sử dụng nguồn lương thực càng nhiều và gây nên tính cạnh tranh mạnh mẽ về lương thực với con người.
  13. 1 Chương 2 GIỐNG VÀ CÔNG TÁC GIỐNG LỢN I. NGUỒN GỐC GIỐNG LỢN 1. Nguồn gốc và phân loại sinh học đối với lợn Hầu như ai cũng nhận biết được loài vật nuôi này. Ngày nay, lợn đã trở thành vật nuôi quen thuộc với chúng ta. Lợn nhà có nguồn gốc từ lợn rừng, đầu tiên do con người săn bắn và hái lượm, họ bắt được lợn rừng và đem về nuôi, dần dần con người ý thức và lựa chọn những con lợn tốt để nuôi, còn những con kém chất lượng có thể giết thịt nhằm cung cấp thực phẩm. Tổ tiên của lợn chính là lợn rừng, Voncopvialov (1956) cho rằng lợn nhà được tạo ra từ các giống lợn rừng châu Á và châu Âu. Hệ thống phân loại của lợn được sắp xếp theo sơ đồ 2.1. Bảng 3. Phân loại giống lợn Lợn Loài Động vật (Animal) Ngành Động vật có xương sống (Chordata) Lớp Động vật có vú (Mamalia) Bộ Guốc chẵn (Artiodactyla) Họ Lợn (Suidae) Giống Sus Các giống lợn được phân thành các giống lợn chính và các giống lợn phụ. Ở rừng châu Á và Âu có tới 4 giống lợn chính và 25 giống lợn phụ. Lợn ngày nay được tạo thành từ 3 giống lợn phụ của châu Á: Sus orientalis, Sus vitatus, Sus crytatus và 1 giống lợn châu Âu Sus crofa. Lợn (Babyrousa), lợn rừng (Hylochoerus) và lợn hoang dã (Sus) là các giống lợn khác nhau ở vùng nhiệt đới và ôn đới. Lợn nước hoặc lợn đầm lầy (Potamochoerus) là giống lợn thích nghi như các động vật sống bán thủy sinh. Giống lợn Phacochoerus là một dạng lợn rừng Savannah. 2. Đặc điểm hình thành và phát triển Tất cả các động vật điều là thành viên của giới động vật hay còn gọi là Metazoa. Tất cả động vật có vú thuộc ngành có xương sống, phụ ngành có xương sống (ví dụ: có một xư- ơng sống), nó bao gồm cá, bò sát, lưỡng thê, chim, và động vật có vú. Lợn thuộc về lớp động vật có vú, (động vật có nhau thai). Tất cả động vật có vú đều có ba đặc điểm mà chúng ta không thể tìm thấy ở các động vật khác đó là: 3 xương tai ở giữa; lông và sản xuất sữa bởi hệ thống tiết sữa bằng tuyến, còn được gọi là tuyến vú. Lợn thuộc vào thứ có guốc. Cái tên móng guốc liên quan đến động vật có vú có móng, nó tương tự nhưng không nhất thiết quan hệ gần gũi với phân loại. Hiện tại thì động vật đã được chia thành nhiều thứ: Guốc lẻ (bao gồm ngựa, ngựa vằn và tê giác) và Guốc chẳn (bao gồm lạc đà, bò, nai, dê, lợn và cừu). Họ lợn bao gồm lợn, cả lợn cỏ pê-ca-ri và lợn nước. Mặc dầu chúng ta không được biết đầy đủ về nguồn gốc của lợn ở vùng Mỹ-La-Tinh nhưng nó lại thể hiện tốt ở các lục địa khác của của thế giới (Châu Phi, Châu Á, châu Âu). Tuy nhiên, con người đã nhập chủng Sus scrofa (có nguồn gốc từ lợn rừng châu Âu), đây là giống mà lợn ngày nay được thuần hoá, chúng đến rất nhiều nơi trên thế giới như Bắc Mỹ, New Guinea, Úc và New Zealand. Họ lợn
  14. 2 bao gồm 3 họ phụ (Phacochoerinae warthogs, Suinae, Babyrouinae), có chủng lợn (Sus) trong đó có 25 giống phụ và 4 giống chính. Có 4 giống phụ trong 25 giống phụ đã được thuần hóa và đưa vào sử dụng hiện nay cho ta thấy mối quan hệ họ hàng và nguồn gốc chung của các loại giống lợn trên thế giới. Họ lợn Suidae Họ phụ Họ phụ Họ phụ (Phacochoerinae (Suinae) (Babyrouinae) warthogs) Chủng Chủng Chủng Chủng Chủng (Phacochoaerus) (Phacochoaeru (Potamochoe (Sus) (Babyrousa) s rus) Sơ đồ 2.1. Quan hệ họ hàng và nguồn gốc của các giống lợn Nhìn ở sơ đồ 2.1 chúng ta thấy lợn các giống khác nhau có tổ tiên chung. Tuy nhiên, hình dạng, kích thước và cả vùng sinh tồn đều khác nhau. Chức năng các cơ quan bộ phận của các loại lợn khác nhau cũng khác nhau tùy theo điều kiện sinh tồn của chúng. Kích cỡ và hình dạng của lợn cũng thay đổi khác nhau tùy theo từng giống. Đầu và toàn thân có thể dài 190- 500 mm, đuôi dài khoảng 35-450 mm, lợn trưởng thành có thể nặng 350 kg. Đặc điểm ngoại hình của lợn cũng khác nhau tùy theo đặc trưng của từng giống. Xem xét về khảo cỏ học, xương và hộp sọ của lợn có những nét đặc trưng riêng biệt của các giống khác nhau, tuy nhiên chúng có đặc điểm chung ở hình 2.1. Mắt của lợn thường là nhỏ và nằm cao trên hộp sọ. Tai của lợn khá dài và rủ xuống, với một núm lông nằm gần đầu mút. Hộp sọ thường dài và có một điểm chẩm khá bằng phẳng. Một trong những điểm đáng chú ý nhất của lợn là có mũi linh động và nó có một sụn tại chóp đỉnh. Và nó được nâng đỡ bởi một xương mũi nằm dưới mũi. Hộp sọ có một điểm nhô ở chỏm, nó được hình thành từ xương supraoccipital và xương đỉnh. Cả 4 ngón chân của lợn đều có móng, nhưng nó chỉ thể hiện chức năng trong vận động ở các ngón giữa (thứ ba và thứ tư), bởi vì các ngón bên nhỏ hơn và định vị cao hơn ở đùi. Công thức răng là khác nhau giữa các loại giống lợn, một công thức tổng quát cho giống là lợn: 1-3/3, 1/1, 2-4/2 hoặc 4, 3/3 = 34 - 44. Răng cửa phía trên có kích cỡ giảm theo một chiều, răng cửa phía dưới dài, hẹp và định vị tại một góc thấp trong hàm do vậy nó gần như nằm theo chiều trục hoành. Răng nanh phía trên mọc ra ngoài và cong lại; tiếp giáp giữa răng nanh trên và răng nanh dưới tạo thành các góc cạnh sắc. Răng nanh trên luôn luôn dài ra, răng cửa có đầu nhọn.
  15. 3 II. CÁC GIÓNG LỢN NỘI NƯỚC TA 1. Giống lợn Ỉ 1.1. Nguồn gốc xuất xứ Lợn Ỉ có nguồn gốc từ giống lợn Ỉ mỡ ở miền Bắc Nam Định. Qua một thời gian dài, giống lợn ỉ mỡ đã tạp giao với các nhóm giống lợn khác trở thành giống lợn ỉ ngày nay với hai loại hình chính là ỉ mỡ và ỉ pha. Nòi ỉ mỡ bao gồm những con mà nhân dân ta gọi là ỉ mỡ, ỉ nhăn, ỉ bọ hung. Nòi ỉ pha bao gồm những con mà nhân dân ta gọi là ỉ pha, ỉ bột pha, ỉ sống bương. 1.2. Phân bố Trước những năm 70 lợn ỉ được nuôi hầu như ở khắp các tỉnh đồng bằng Bắc bộ như Nam Định, Hà Nam, Hà Tây, Hưng Yên, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Thái Bình, Quảng Ninh, Ninh Bình, Thanh Hoá, Hải phòng. Vị trí phổ biến của nó dần dần phải nhường cho lợn Móng Cái có sức sinh sản tốt hơn, và từ cuối những năm 70 lợn ỉ thu hẹp dần đến mức độ nguy kịch như ngày nay, chỉ còn sót lại ở một số xã của tỉnh Thanh Hoá. 1.3. Đặc điểm sinh học Đặc điểm ngoại hình: "Lợn Ỉ" có nhiều loại hình trong đó phổ biến là Ỉ mỡ và Ỉ pha. Lợn Ỉ mỡ: Lợn Ỉ mỡ cũng có lông da đen bóng, đa số có lông nhỏ thưa, một số có lông rậm (lông móc) như ỉ pha. Đầu hơi to, khi béo trán dô ra, mặt nhăn nhiều, nọng cổ và má sệ từ khi lợn 5-6 tháng tuổi, mắt híp, mõm to bè và ngắn, môi dưới thường đài hơn môi trên, lợn nái càng già mõm càng dài và cong lên nhưng luôn ngắn hơn Ỉ pha. Vai nở, ngực sâu, thân mình ngắn hơn Ỉ pha, lưng võng, khi béo thì trông ít võng hơn, bụng to sệ, mông nở từ lúc 2-3 tháng, phía sau mông hơi cúp. Chân thấp hơn Ỉ pha, lợn thịt hoặc hậu bị có hai chân trước thẳng, hai chân sau hơi nghiêng, lợn nái thì thường đi chữ bát, hai chân sau yếu. Lợn Ỉ pha: Lợn Ỉ pha có lông da đen bóng, đa số có lông nhỏ thưa, một số có lông rậm lông móc). Đầu to vừa phải, trán gần phẳng, mặt ít nhăn, khi béo thì nọng cổ và má chảy sệ, mắt lúc nhỏ và gầy thì bình thường nhưng khi béo thì híp. Mõm to và dài vừa phải, lợn nái càng già mõm càng dài và cong lên. Vai nở vừa phải, từ 8-9 tháng vai bằng hoặc lớn hơn mông, ngực sâu. Thân mình dài hơn so với ỉ mỡ, lưng đa số hơi võng, khi béo thì trông phẳng, bụng to, mông lúc nhỏ hơi lép về phía sau, từ 6-7 tháng mông nở dần. Chân thấp, lợn thịt hoặc hậu bị thì hai chân trước tương đối thẳng, hai chân sau hơi nghiêng, lợn nái thì Hình 2. 1. Đầu sọ và bộ răng của lợn Sus scrofa (lợn hoang châu Âu)
  16. 4 nhiều con đi vòng kiềng hoặc chữ bát. Giống này có hai dạng: Đen và Gộc (Sống bương) . Cả hai dạng đều được tạo ra tại vùng Nam định. Giống Ỉ đen đã tuyệt chủng không còn nữa - con lợn nái cuối cùng phát hiện năm 1994 tại Ninh bình. Còn giống lợn Gộc nay có gần 100 con đang được đề án Quỹ gen vật nuôi bảo tồn tại Thanh hoá. 1.4. khả năng sản xuất Khả năng sinh trưởng: Điều tra một số vùng nuôi lợn Ỉ thuần, với những phương thức và điều kiện nuôi dưỡng của địa phương đã cho thấy khả năng sinh trưởng và tầm vóc của hai nòi lợn Ỉ pha và Ỉ mỡ tương đương nhau, thể hiện qua khối lượng và kích thước các chiều đo của chúng ở các bảng sau: Bảng 2.1. Khối lượng lợn ỉ mỡ và ỉ pha qua các mốc tuổi (kg) Tháng Lợn Ỉ pha Lợn Ỉ mỡ tuổi Trung bình Biến động Trung bình Biến động Sơ sinh 0.425 0.25-0.77 1 2.034 1.1-3.8 2 4.401 2.0-6.6 4.528 2.0-7.0 3 7.525 5.0-12.0 7.300 4.5-11.7 6 24.9 18.0-42.0 22.5 15.5-40.0 9 39.9 30.0-55.0 41.3 28.0-52.0 12 48.2 40.0-66.0 * Nguồn: nguyên Khánh, Dương Đức Hiền, 1963 Bảng 2.2. Khối lượng và kích thước lợn Ỉ pha và Ỉ mỡ Giống Năm tuổi Khối lượng (kg) Cao vây (cm) Dài thân (cm) Vòng ngực (cm) lợn Lợn 1 38.4 39.5 77.7 74.9 Ỉ 2 44.4 41.5 83.9 81.4 pha 3 48.4 42.9 90.0 84.7 > 3 49.4 44.1 95.6 87.6 Lợn 1 36.3 38.8 75.6 73.5 Ỉ 2 42.2 40.5 82.0 80.5 Mỡ 3 46.5 42.0 88.7 83.5 >3 49.3 42.6 91.5 86.3 * Nguồn: nguyên Khánh, Dương Đức Hiền, 1963 2. Giống lợn Móng Cái 2.1. Nguồn gốc xuất xứ Lợn Móng Cái thuộc lớp động vật có vú (Malnlllaha), bộ guốc chẵn (Artiodactyla), họ Suidae, chủng Sus, loài Sus domesticus, giống Móng Cái. Lợn Móng Cái là giống lợn nội được hình thành và phát triển lâu đời ở vùng Đông Bắc Việt Nam. Trước đây Móng Cái và ỉ là hai giống lợn nội chính được nuôi và phát triển rộng rãi trong ngành chăn nuôi của miền Bắc và miền Trung nước ta. Có thể xem các vùng Hà Cối (huyện Đầm Hà), Tiên Yên (Đông Triều) tỉnh Quảng Ninh là nguồn cội của giống lợn Móng Cái. Do đặc điểm sinh sản tốt nên từ những năm 60 - 70 trở đi lợn Móng Cái đã lan nhanh ra khắp đồng bằng Bắc Bộ làm cho vùng nuôi lợn ỉ bị thu hẹp dần. Từ sau 1975 giống lợn này được lan nhanh ra các tỉnh miền Trung kể cả phía Nam.
  17. 5 2.2. Đặc điểm ngoại hình Đặc điểm của lợn Móng Cái có đầu đen, giữa trán có điểm trắng hình tam giác, giữa tai và cổ có khi rộng đến vây có một dải trắng cắt ngang kéo dài đến bụng và bốn chân. Lưng và mông có mảng đen kéo dài đen khấu đuôi và đùi, có khi trông giống hình yên ngựa nhưng có khi cũng chỉ là mảng đen bình thường có đường biên không cố định. Đầu to, miệng nhỏ dài, tai nhỏ và nhọn, có nếp nhăn to và ngắn ở miệng. Cổ to và ngắn, ngực nở và sâu, lưng dài và hơi võng, bụng hơi xệ, mông rộng và xuôi. Bốn chân tương đối cao thẳng, móng xoè. Theo điều tra từ năm 1962, lợn Móng Cái chia ra hai nòi khác nhau: nòi xương nhỡ (nhân dân quen gọi là xương to) và nòi xương nhỏ. Đặc điểm chính của hai nòi này là: - Nòi xương to: Dài mình, chân cao, xương ống to, móng chẽ nhìn như 4 ngón, mõm dài và hơi hớt, tai to đưa ngang, tầm vóc to, khối lượng 140- 170 kg, có con tới 200 kg, xuất hiện động dục chậm hơn, có thể từ 7-8 tháng mới bắt đầu, đa số có 14 vú, một số ít 12 vú, số con đẻ trung bình 10- 12 con/ lứa. - Nòi xương nhỏ: Mình ngắn, chân thấp, xương ống nhỏ, hai móng to chụm lại, mõm ngắn, thẳng, lai nhỏ dỏng lên trên, tầm vóc bé, khối lượng 85kg là tối đa, lập mỡ sớm từ 6 tháng, đa số có 12 vú, số ít có 14 vú, số con đẻ trung bình 8-9 con/1ứa. 2.3. Khả năng sản xuất Khả năng sinh trưởng: Do quá trình chọn lọc trong sản xuất, ngày nay đa số nòi lợn xương nhỏ đã được cải tạo với đực nòi xương to và trong nhân dân hiện nuôi đa số là nòi xương nhỡ hoặc xương nhỏ đã được cải tạo, vì vậy tầm vóc đàn lợn hiện nay gần với nòi xương nhỡ. Khả năng sinh sản: Lợn đực 3 tháng tuổi biết nhảy cái và trong tinh dịch đã có tinh trùng, lượng tinh dịch 80- 100 ml. Lợn cái 3 tháng tuổi đã bắt đầu động hớn nhưng chưa có khả năng thụ thai. Thường thì lợn cái đến khoảng 7-8 tháng tuổi trở đi mới có đủ điều kiện tốt nhất cho phối giống và có chửa, thời điểm đó lợn đã đạt khối lượng khoảng 40-50 kg hoặc lớn hơn. Bảng 2.3. Khối lượng cơ thể của lợn Móng Cái Tháng tuổi Số con theo dõi Khối lượng bình quân (kg) 2 862 6 3 426 10 4 264 14 5 426 20 6 562 25 7 184 31 8 168 37 9 153 45 10 150 55 11 148 60 * Nguồn: Dương Giang, Trần Lâm Quang, Nguyễn Duy Đông, 1973
  18. 6 Bảng 2.4. Một số chỉ tiêu về khả năng sinh sản của lợn nái Móng Cái Chỉ tiêu Đơn vị Giá trị trung bình Chu kỳ động hớn Ngày 21 Thời gian động hớn Ngày 3 - 4 Tuổi phối giống lứa đầu Tháng 6 - 8 Thời gian có chửa Ngày 110 - 120 Số lứa đẻ trong năm Lứa 1,5 - 2 Số con đẻ ra trong một lứa Con 10 - 14 Khối lượng sơ sinh/con Kg 0,45 - 0,5 Khối lượng lúc cai sữa/con Con 6 - 7 Khoảng cách hai lứa đẻ Tháng 5,5 - 6 * Nguồn: Dương Giang, Trần Lâm Quang, Nguyễn Duy Đông, 1973 3. Giống lợn cỏ 3.1. Nguồn gốc xuất xứ Lợn Cỏ là sản phẩm đặc trưng của một số vùng đất nghèo ở miền Trung mà chủ yếu là ở các tỉnh khu Bốn cũ. Đây là sản phẩm của một nền kinh tế nghèo nàn, quản lý kém, thoái hóa nghiêm trọng do phối giống đồng huyết. 3.2. Phân bố Trước những năm 60, giống lợn này thấy nhiều ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, khu vực Bình Trị Thiên. Do lợi ích kinh tế thấp và nhất là sau khi có chủ trương phổ biến rộng lợn Móng Cái ra các tỉnh miền Trung thì đàn lợn này bị thu hẹp nhanh chúng, không ai nuôi lợn đực nữa và giống lợn này gần như tuyệt chủng. Có một số con lợn con cai sữa để lại (có thể là đã bị tạp giao) nhưng không hề thấy con đực giống Cỏ nào. 3.3. Đặc điểm ngoại hình Lợn Cỏ có tầm vóc nhỏ, nhỏ hơn so với các giống lợn nội như lợn Móng Cái, lợn Ỉ. Thể trạng của lợn trưởng thành trung bình vào khoảng 30 - 35kg. Đại đa số là lợn lang trắng đen, mõm dài, xương nhỏ, chủ yếu đi bàn, bụng xệ. Dân địa phương thường mô tả lợn Cỏ như dạng "bồ câu chân nhện". Da mỏng, lông thưa, màu da trắng bợt thể hiện sự yếu ớt, thiếu dinh dưỡng. Lợn đực thường nhỏ hơn lợn cái do phải phối giống sớm. Phần lớn lợn đực giống là gây ngay từ lợn con trong đàn, lợn con nhảy mẹ nên đồng huyết rất nặng. Những năm 60 khi định tiêu chuẩn cho lợn đực giống Cỏ, người ta (Nghệ An) rất khó khăn khi phải định tiêu chuẩn giống là phải từ 20 kg trở lên bởi vì cả tỉnh khó tìm thấy con đực có trọng lượng lớn hơn 20 kg. 3.4. Khả năng sản xuất Lợn nội mỗi năm đẻ 1,2 - 1,3 lứa, mỗi lứa chỉ 6 - 7 con. Do tác động của thức ăn nghèo dinh dưỡng và cộng thêm phối giống đồng huyết (con nhảy mẹ) tạo nên. Khối lượng lợn con lúc cai sữa (2 tháng tuổi) khoảng 3 kg. Lợn nái động dục rất sớm, khoảng 3 tháng tuổi. Tuổi đẻ lứa đầu thường khoảng 10 tháng tuổi. Lợn đực động dục cũng sớm: 2 - 3 tháng tuổi. Do lợn nhảy quá sớm và không được quản lý riêng, làm việc quá sức nên lợn đực giống thường không lớn được. Lợn nuôi thịt đến khoảng 25-30 kg giết thịt, tỷ lệ thịt xẻ thấp, phần bụng (nội quan) và đầu lớn, tính ra tỷ lệ thịt xẻ chỉ đạt khoảng 50 - 55%. Tính trạng đặc biệt: Là loại hình lợn mini. Có lúc người ta định giữ lại để tạo lợn địa phương mini có chất lượng thịt thơm ngon, nhưng ý tưởng đó không thành cũng do giá trị kinh tế thấp vì lợn quá nhỏ, người đã bỏ nó không thương tiếc trước khi có ý đồ bảo tồn giống lợn cỏ này. 3.5. Vấn đề bảo tồn nguồn gen
  19. 7 Không đặt ra với lợn Cỏ về vấn đề lưu giữ và sản xuất mà nên lưu giữ tư liệu và hình ảnh để tham khảo. 4. Giống lợn Sóc 4.1. Nguồn gốc xuất xứ Lợn Sóc thuộc lớp động vật có vú (Mammalia), bộ guốc chẵn (Artiodactyla), họ Suidae, chủng Sus, loài Sus domesticus, nhóm giống lợn Sóc. Lợn Sóc là giống lợn thuần được nuôi phổ biến trong khu vực buôn làng đồng bào vùng Tây Nguyên, dân địa phương thường gọi là "heo Sóc", "heo Đê". Lợn Sóc là giống lợn rất lâu đời và duy nhất được dân địa phương nuôi, rất gắn bó với đời sống kinh tế và văn hoá của đồng bào Tây Nguyên. 4.2. Phân bố Trước kia, lợn Sóc được nuôi ở hầu hết các buôn làng của đồng bào các dân tộc Êđê, Gia-rai, Bana, Mơnông ở 4 tỉnh Lâm Đồng, Đắc Lắc, Gia Lai, Kon-Tum. Ngày nay số lượng và phân bố thu hẹp dần bởi sự xâm nhập của các giống lợn khác và lợn lai. Số lượng ước tính khoảng 5000 lợn trưởng thành đang được nuôi rải rác trong các buôn làng vùng sâu vùng xa, còn các vùng quanh đô thị phần lớn đã bị lai tạp. 4.3. Đặc điểm ngoại hình Hình dáng lợn Sóc rất gần với lợn rừng, tầm vóc nhỏ, mõm dài, hơi nhọn và chắc, thích hợp với đào bới kiếm thức ăn. Da của giống lợn này thường dày, mốc, lông đen, dài, có bườm dài và dựng đứng. Chân nhỏ, đi bằng móng rất nhanh nhẹn. 4.4. Khả năng sản xuất Khả năng sinh trưởng: Lợn Sóc có tầm vóc nhỏ, dáng hoang dã, thích nghi với việc thả rông tự tìm kiếm thức ăn. Tốc độ sinh trưởng chậm và phụ thuộc nhiều vào nguồn thức ăn kiếm được. Khối lượng ở 1 năm tuổi chỉ đạt 30-40 kg, tăng trọng chỉ khoảng 100g/ ngày. Rất nhiều việc phải làm như chọn lọc, nuôi dưỡng tốt mới mong nâng tầm vóc và khả năng sản xuất của giống lợn này. Bảng 2.5. Khối lượng cơ thể trong điều kiện thả rông và nuôi nhốt Tháng Thả rông Nuôi nhốt Tuổi N (con) Khối lượng (kg) N (con) Khối lượng (kg) 2 200 3,85 12 4,15 6 200 17,45 12 19,42 12 100 30,57 12 40,42 24 100 50,87 - Nguồn: Lê Viết Ly và Võ Văn Sự, 2001 Khả năng sinh sản: Do còn hoang dã hoặc nuôi nhốt trong điều kiện ít được chăm sóc, lợn Sóc có tuổi thành thục về tính muộn, thời gian động dục lại sau đẻ dài dẫn đến khoảng cách hai lứa đẻ dài, thường chỉ được 1,1 - 1,2 lứa/năm. Số con đẻ ra một lần ít. Do thả rông và giao phối tự do, nên hiện tượng phối giống cận huyết là không tránh khỏi. Bảng 2.6. Một số chỉ tiêu sinh sản của lợn Sóc Chỉ tiêu Đơn vị tính Kết quả Tuổi động dục lần đầu Tháng 6-9 Tuổi đẻ lần đầu Tháng 10-15 Số con đẻ ta/lứa Con 6-10 Khối lượng sơ sinh kg 0,4-0,45 Nguồn: Lê Viết Ly và Võ Văn Sự, 2001
  20. 8 Khả năng cho thịt: Do được nuôi thả rông thiếu dinh dưỡng, ít tích luỹ mỡ, tỷ lệ nạc của lợn Sóc khá cao so với nuôi nhốt, mặc dù nuôi nhốt có khối lượng cơ thể lớn hơn, tỷ lệ thịt xẻ cũng khá hơn. Bảng 2.7. Các chỉ tiêu chất lượng thịt với hai phương thức nuôi Chỉ tiêu Đơn vị tính Nuôi nhốt Thả rông Số lượng mổ khảo sát Con 3 3 Khối lượng giết mổ Kg 40,55 35,33 Tỷ lệ thịt xẻ % 77,74 75,00 Tỷ lệ nạc/thịt xẻ % 34,38 43,79 Nguồn: Lê Viết Ly và Võ Văn Sự, 2001 Ưu điểm của giống lợn Sóc là có khả năng chui rúc và đào bới, tự kiếm thức ăn trên các loại địa hình khác nhau, có khả năng làm tổ, đẻ con và nuôi con nơi hoang dã không cần sự can thiệp của con người. Thích nghi tốt với điều kiện tự nhiên ở Cao Nguyên với độ cao > 500m so với mặt biển, khả năng chống đỡ bệnh tật cao, nhanh nhẹn, sống thả, ít phụ thuộc vào sự cung cấp của con người . 4.5. Công tác bảo tồn Đã tiến hành khảo sát để đánh giá hiện trạng và tiềm năng của giống lựa này. Bắt đầu tiến hành công tác nhân thuần, chọn lọc, gây đực cung cấp cho các địa phương để tránh đồng huyết. 5. Giống lợn Mẹo (Lợn Mèo Nghệ An) 5.1. Nguồn gốc xuất xứ Lợn Mẹo thuộc lớp động vật có vú (Mammalia), bộ guốc chẵn (Artiodactyla), họ Suidae, chủng Sus, loài Sus domesticus, giống lợn Mẹo. Lợn Mẹo được hình thành tại vùng núi cao của dãy Trường Sơn, nơi có khí hậu mát mẻ và địa hình đồi núi rộng rãi thích hợp cho thả rông tự do. Qua hàng trăm năm sống ở vùng núi cao, lợn Mẹo đã thích nghi và phát triển tốt trong điều kiện sinh thái, kinh tế và tập quán chăn nuôi của người H'Mông địa phương. 5.2. Phân bố Lợn Mẹo được nuôi chủ yếu ở vùng núi tỉnh Nghệ An, tập trung nhiều ở hai huyện Kỳ Sơn và Tương Dương. Sau các cuộc điều tra giống những năm 60 lợn Mẹo được phổ biến dần xuống các huyện đồng bằng Nghệ An (Anh Sơn, Đô Lương, Nam Đàn) và con đực được lai với các giống địa phương để nuôi kinh tế (lai nội x nội). 5.3. Đặc điểm ngoại hình Lợn Mẹo có tầm vóc khá lớn, trường mình, phát triển cân đối. Lông da màu đen, da dày, lông dài và cứng, thường có 6 điểm trắng ở 4 chân, trán và đuôi, một số có loang trắng ở bụng. Đầu to, rộng, mặt hơi gãy, trán dô và thường có khoáy trán, mõm hơi dài, tai vừa phải và hơi chúc về phía trước. Vai rộng, lưng dài rộng, phẳng hoặc hơi vồng lên. Phần hông rộng và phẳng, mông rộng và chiều cao mông thường cao hơn vai. Bụng lợn to, dài nhưng không sệ. Chân lợn cao, thẳng, vòng ống thô, đi đứng trên hai ngón trước . 5.4. Khả năng sản xuất Khả năng sinh trưởng: Lợn Mẹo được nuôi chủ yếu trong điều kiện thả rông quanh năm, ít được chăm sóc của con người nên tốc độ sinh trưởng chậm, thời gian nuôi kéo dài, có khi đến 2-3 năm tuổi. Nhiều con lợn được nuôi trên 2 năm có khối lượng lớn từ 200-300 kg. Bảng 2.8. Khối lượng cơ thể của lợn Mẹo (kg)
  21. 9 Tháng tuổi Khối lượng Sơ sinh 0,48 1 tháng 2,39 2 tháng 4,20 4 tháng 13,00 6 tháng 25,00 9 tháng 43,90 12 tháng 64,20 24 tháng 82,80 36 tháng 114,90 * Nguồn: Lê Viết Ly, 1964 Khả năng sinh sản: Lợn đực có thành thục sinh dục sớm, có thể nhảy cái lúc 4-5 tháng tuổi, nhưng lợn cái thành thục sinh dục muộn, tới 8-9 tháng tuổi mới động dục, cá biệt có con tới 1 năm tuổi mới động dục lần đầu. Lợn đực Mẹo có phẩm chất tinh khá tốt và ổn định qua theo dõi từ lúc 8-9 tháng đến 2 năm tuổi. Bảng 2.9. Các chiều đo cơ bản của lợn Mẹo (cm) Tháng tuổi Dài thân Vòng ngực Cao vây Cao mông 6 tháng 70,7 65 39 42,72 9 tháng 84,78 78,42 45,9 47,9 12 tháng 94,42 85,67 49,89 52,01 24 tháng 101,17 94,07 54,71 56,67 36 tháng 116,30 103,31 59,51 61,12 * Nguồn: Lê Viết Ly, 1964 Lợn nái Mẹo được nuôi trong điều kiện thả rông ở miền núi có số lứa đẻ thấp (trên 1 lứa/năm), nhưng nuôi ở đồng bằng điều kiện chăm sóc và chế độ dinh dưỡng tốt hơn đã cho khả năng sinh sản cao hơn. Trong điều kiện nuôi thả rông miền núi mỗi lứa lợn Mẹo chỉ đẻ trung bình 6-7 con, lứa đầu thường chỉ 3-4 con, tỷ lệ nuôi sống thấp (khoảng 60-70% nhưng ở đồng bằng các chỉ tiêu này cao hơn, lứa 1 đẻ trung bình 8 con, lứa 3-4 đẻ 9- 10 con. Tầm vóc to, thể hình cứng cáp, bốn chân đứng thẳng đó là đặc điểm nổi bật của giống lợn này. Đặc điểm này rất hiếm thấy trong các giống lợn nước ta. Tính trạng này là quý trong việc cải tạo đàn lợn nội qua lai giống. 5.5. Công tác bảo tồn nguồn gen Lợn Mẹo vẫn còn rất phổ biến ở các bản vùng cao miền Tây Nghệ An. Ngoài việc tiếp tục thu thập tư liệu, tuyển chọn và nuôi tốt đực giống tốt thì công tác bảo quản tinh trùng đông lạnh qua ex-situ đang được thử nghiệm. 6. Giống lợn Lang Hồng 6.1. Nguồn gốc xuất xứ Lợn Lang Hồng thuộc lớp động vật có vú (Mammalia), bộ guốc chẵn (Artiodacty/a), họ Suidae, chủng Sus, loài Sus domesticus, giống lợn Lang Hồng. Qua sự điều tra của Viện Khảo cổ thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam, lợn đã tồn tại một cách liên tục tại miền Bắc nước ta trong khoảng từ 20 - 30 vạn năm cho tới 3000 - 4000 năm trước Công nguyên. 6.2. Phân bố Lợn Lang Hồng được phân bố chủ yếu ở các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang (Hà Bắc cũ), nằm ở khoảng vĩ độ 20,38 - 21,37; kinh độ 105,52 - 107,02. Nhiệt độ lạnh vào các tháng 12, tháng 1 và tháng 2 hàng năm; tháng 2, 3 mưa phùn, ẩm ướt (Trần Đình Miên, 1979). Nhìn chung, lợn Lang Hồng được nuôi nhiều ở vùng đồng bằng và thung lũng hạ lưu các sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam. Trong các vùng này có nhiều đồi núi, vùng cao
  22. 10 nhất cao hơn mặt biển 260 m, vùng thấp nhất cao hơn mặt biển 2 - 4 m. Đất ở các khu này thuộc loại phù sa cũ có xen lẫn đất chiêm trũng và bạc màu; pH của đất từ 4-5; mùn 0,8 - 1,3%; kali 0,285 %. Trên nền đất đai trên xuất hiện một thảm thực vật rất phong phú. Ngoài những loại mộc và những loại lương thực chính của người, còn có nhiều loại cây có thể làm thức ăn xanh cho lợn như rau muống, mùng, rau lấp, khoai, sắn, bèo 6.3. Đặc điểm ngoại hình Lợn Lang Hồng có khoang trắng không ổn định. Lợn Lang Hồng thường có lưng võng, bụng xệ, càng lớn lại càng xệ, càng võng. Vốn là loại lợn hướng mỡ nên càng béo càng di động khó khăn, chân đi cả bàn, vú quét đất. Lợn Lang Hồng có đầu to vừa phải, mõm bé và hơi dài. Tai to, đứng, hơi úp về phía trước, cổ ngắn, lưng dài và rộng tuỳ từng con, lưng võng, có khi võng sâu tạo thành nếp nhăn từ lưng đến bụng. Bụng to và võng. Lợn có chửa bầu vú quét đất, núm vú chìa ra, mông rộng và thẳng, gốc đuôi to và cao. Bốn chân vừa phải, bụng xệ trông càng thấp, càng yếu, bàn chân đi chụm khi còn non, khi lớn lên hơi choãi, móng sau có con có thể chạm đất, lông ngắn và thưa, da hơi hồng. Mõm ươn ướt, mắt tinh nhanh, đuôi phe phẩy. Bụng có 12 vú, ít con có vú lẻ, vú lép, nói chung đầu thẳng hàng dọc, cân đối hàng ngang. 6.4. Khả năng sản xuất Khả năng sinh trưởng: Qua điều tra bình tuyển với số lượng n > 3000 lợn ở các lứa tuổi, cho biết sinh trưởng lợn Lang Hồng như sau: Sơ sinh: 0,40 - 0,45kg; cai sữa: 5,0 - 5,5kg; 6 tháng: 19 - 25kg; 10-12 tháng: 39 - 45kg; 13-24 tháng: 46 - 54kg; trên 25 tháng: 55 - 65kg. Các chiều đo dài thân và vòng ngực ở các giai đoạn như lúc 12 tháng tuổi: 76,30 - 81,31 cm và 76,40 - 81,70 cm; lúc 24 tháng tuổi: 82,15 - 86,50 cm và 79,30 - 86,1 6 cm; lúc trên 30 tháng tuổi: 86,30 - 93,52 cm và 84,95 - 92,03 cm. Nhìn chung lợn Lang Hồng là lợn hướng mỡ, lưng võng, bụng xệ, chỉ số tròn mình luôn đạt 94-97% thậm chí có khi 100%. Lợn sau 12 tháng tuổi sinh trưởng phát dục đã ổn định. Khối lượng, các chiều đo có tăng sau tuổi này chủ yếu do tích luỹ mỡ. Khả năng sinh sản: Lợn nái Lang Hồng cho con bú đều đặn, ít giẫm hay đè bẹp con. Sức tiết sữa của lợn nái Lang Hồng thường cao nhất vào lúc lợn con 3 - 4 tuần tuổi và đạt 85 kg trong tháng đầu. Thời gian sử dụng của lợn nái Lang Hồng không cao. Thường loại thải sau 5-6 lứa đẻ nghĩa là lúc lợn mẹ 4 tuổi trở đi vì lúc này cơ thể yếu ớt, lúc chửa lưng càng võng, bụng càng xệ, vú càng quét đất, đẻ xong người gầy sút rất nhanh, khả năng quay vòng chậm. Lợn đực thành thục sớm hơn, 3 tháng đã thành thục về sinh dục. Khai thác tinh hoặc cho nhảy trực tiếp vào lúc 6 tháng, lợn được sử dụng khoảng 2-3 năm. Phẩm chất linh dịch của lợn Lang Hồng không khác mấy so với các loại lợn nội khác ở nước ta: lượng xuất tinh 50- 120 ml, hoạt lực tinh trùng: 70-80%; mật độ tinh trùng 80-150 triệu/ml; tỷ lệ kỳ hình 3-7%. Lợn Lang Hồng có sức chống bệnh cao, chống chọi được với điều kiện sống kham khổ, lạnh khô và nóng ẩm. Khả năng cho thịt: Lợn Lang Hồng là loại lợn hướng mỡ. Trọng lượng trước lúc giết thịt 50- 60 kg (10- 12 tháng tuổi tỷ lệ thịt xẻ 65-68%. Tỷ lệ thịt móc hàm 72-75% tỷ lệ mỡ 35-38%; tỷ lệ nạc 38-42%. Đặc điểm tốt: Lợn Lang Hồng là giống lợn có thành thục về tính sớm, chịu đựng kham khổ và có sức sinh sản tốt. Do đó lợn Lang Hồng được nhân dân Hà Bắc ưa chuộng và nuôi làm nền để lai kinh tế với lợn đực ngoại Landrace, công thức lai (LD x LH) của tác giả Trần Đình Miên và CTV. 6.5. Công tác bảo tồn nguồn gen Do lợn Lang Hồng rất giống lợn Móng Cái về ngoại hình và sức sản xuất. Cần thiết phải phân định rõ hơn xem có phải là giống riêng biệt hay chỉ là một nhóm của lợn Móng Cái.
  23. 11 Hiện nay lợn Móng Cái rất phổ cập và đã lai nhiều với lợn Lang Hồng nên cần xác định một số vùng Tương đối rõ ràng để bảo tồn lợn Lang Hồng theo phương thức in-situ. 7. Giống lợn Thuộc Nhiêu 7.1. Nguồn gốc xuất phát Lợn Thuộc Nhiêu thuộc lớp động vật có vú (Mammalia), bộ guốc chẵn (Artiodactyla), họ Suidae, chủng Sus, loài Sus domesticus, nhóm giống Thuộc Nhiêu. Lợn Thuộc Nhiêu một thời là giống lợn nổi tiếng ở vùng Tiền Giang, Long An và phụ cận thành phố Hồ Chí Minh. Lợn Thuộc Nhiêu là nhóm giống lợn lai giữa lợn ngoại với lợn nội được hình thành từ hàng trăm năm trước đây và được phát triển trong sản xuất ở nhiều vùng. Đầu tiên là con lai giữa lợn địa phương với lợn tàu mà người Hoa đưa vào Việt Nam từ những năm 1900, những con lai này tiếp tục lai với lợn Crannais do người Pháp mang vào đầu những năm 1920, sau đó những con lai lại tiếp lục lai với lợn Yorshire hình thành nên nhóm giống lợn Thuộc Nhiêu. Thuộc nhiêu là tên một làng thuộc xã Dương Điềm, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. 7.2. Phân bố Nhóm giống lợn này bắt nguồn từ vùng Thuộc Nhiêu và được phát triển khá rộng ra các tỉnh Tiền Giang, Vĩnh Long, Long An, Đồng Nai, Bình Thuận, Cần Thơ, Sóc Trăng 7.3. Đặc điểm ngoại hình Lợn Thuộc Nhiêu có màu lông da trắng tuyền, một số có bớt đen nhỏ, thường ở quanh mắt, một số nhỏ có da bông đen trắng, lông trắng hoặc da bông đen trắng, lông đen trắng. Đầu to vừa, mõm hơi cong, mũi thẳng thon, tai nhỏ, ngắn, hơi nhô về phía trước. Đa số lợn có thể chất thanh sổi, thân hình vuông, thấp, lưng hơi oằn, mông vai nở, chân thấp, yếu, đi ngón, móng xoè, đuôi ngắn. Với việc gia tăng máu ngoại thông qua lai với lợn Yorkshire đực, lợn Thuộc Nhiêu ngày càng có ngoại hình thiên về lợn Yorkshire. 7.4. Khả năng sản xuất Khả năng sinh trưởng: Nhìn chung lợn Thuộc Nhiêu là nhóm giống lợn được hình thành từ việc tạp giao giữa nhiều giống, qua nhiều thế hệ và thời gian rất dài, tầm vóc lợn Thuộc Nhiêu thuộc loại khá. Điều tra lợn một số địa phương đã cho kết quả ở bảng sau: Bảng 2.10. Khối lượng và chiều đo cơ thể của lợn Thuộc Nhiêu Tháng tuổi Khối lượng (kg) Vòng ngực (cm) Dài thân (cm) 2 9.42 48.54 51.40 4 19.95 68.90 68.92 6 41.13 82.21 86.48 8 65.63 94.09 99.90 10 78.78 102.82 109.16 12 98.67 112.00 115.78 * Nguồn: Võ Ái Quốc và CTV., 1993 Khả năng sinh sản Lợn đực: Lợn đực có khả năng làm việc lúc 6 tháng tuổi, khi đó khối lượng cơ thể đạt khoảng 50 kg. Lượng tinh dịch mỗi lần xuất 90-100 ml, hoạt lực tinh trùng đạt 80% và nồng độ tinh trùng khoảng 175 triệu/ml.
  24. 12 Lợn cái: Lợn cái có tuổi động dục đầu tiên lúc 210 ngày (7 tháng tuổi), tuổi phối giống lần đầu lúc 240 ngày (8 tháng tuổi) và đẻ lứa đầu lúc 355 ngày (gần 1 năm tuổi). Bình quân lợn đẻ 2 lứa/năm; số con sơ sinh trung bình mỗi lứa 9,5 con; nuôi sống đến cai sữa 9 con. Khả năng cho thịt: Kết quả khảo sát cho thấy lợn Thuộc Nhiêu loại hình to cho tỷ lệ thịt khá cao, xấp xỉ một số giống lợn ngoại đã nhập vào nước ta như lợn Yorkshire. Bảng 2.11. Tỷ lệ thịt, mỡ của lợn Thuộc Nhiêu loại hình to Chỉ tiêu Đơn vị Tỷ lệ Khối lượng giết mổ Kg 107 Khối lượng thịt xẻ Kg 79.40 Tỷ lệ thịt xẻ % 74.32 Tỷ lệ thịt nạc % 32.03 Tỷ lệ thịt mỡ % 38.20 * Nguồn: Võ Ái Quốc và CTV., 1993 Tính trạng đặc biệt: Do lợn Thuộc Nhiêu là sản phẩm của sự tạp giao giữa lợn địa phương với nhiều giống lợn ngoại và có chiều hướng thiên về lợn Yorkshine nên nó mang nhiều đặc tính của lợn Yorkshine và thích nghi khí hậu vùng nuôi. Tuy nhiên do tính chất giống lai và phương thức nuôi nên lợn Thuộc Nhiêu có phần nhiều mỡ hơn. 7.5. Công tác bảo tồn Sau năm 1975, do áp lực của thị trường và với chủ trương tạo giống lợn Yorkshire Việt Nam, lợn Thuộc Nhiêu được lai cấp tiến với lợn đực Yorkshire (qua thụ tinh nhân tạo) và ngày nay hình bóng con lợn Thuộc Nhiêu chỉ còn qua những con lai năng suất thấp. Công tác lưu giữ nguồn gần chủ yếu tập trung vào việc thu thập tư liệu của giống lợn này mà không tiến hành giữ giống thuần, một phần vì khó thực hiện ở một địa bàn áp lực thị trường mạnh (gần thành phố Hồ Chí Minh), phần nữa vì bản thân giống không có những nét thật đặc trưng vì quá gần với lợn Yorkshire. 8. Giống lợn Ba Xuyên 8.1. Nguồn gốc xuất phát Lợn Ba Xuyên thuộc lớp động vật có vú (Mammalia), bộ guốc chẵn (Artiodactyla), họ Suidae, chủng Sus, loài Sus domesticus, nhóm giống Ba Xuyên. Vào cuối thế kỷ thứ XIX, từ một giống lợn có màu da đen tuyền cho lai với lợn lang từ đảo Hải Nam đưa vào vùng Hậu Giang rồi tiếp tục lai với các giống lợn từ Pháp đưa vào như lợn Craonais, Berkshire, Tamworth đã hình thành nên nhóm giống lợn Ba Xuyên. 8.2. Phân bố Lợn Ba Xuyên tập trung nhiều ở huyện Vị Xuyên tỉnh Sóc Trăng, và hiện nay có rải rác ở các tỉnh Vĩnh Long, Cần Thơ, Tiền Giang, Kiên Giang, An Giang, Long An, Đồng Tháp 8.3. Đặc điểm ngoại hình Phần lớn lợn Ba Xuyên có cả bông đen và bông trắng trên cả da và lông, phân bố xen kẽ nhau. Đầu to vừa phải, mặt ngắn, mõm hơi cong, trán có nếp nhăn, tai to vừa và đứng. Bụng to nhưng gọn, mông rộng. Chân ngắn, móng xoè, chân chữ bát và đi móng, đuôi nhỏ và ngắn. 8.4. Khả năng sản xuất
  25. 13 Khả năng sinh sản: Lợn đực bắt đầu có biểu hiện nhảy cái lúc 4-5 tháng tuổi, nhưng thường được sử dụng phối giống tốt khi 6-7 tháng tuổi với khối lượng cơ thể khoảng 45 kg. Lợn đực có thể giao phối trực tiếp với khoảng cách 2-3 ngày/1ần. Lợn cái có biểu hiện động dục lần đầu lúc 6-7 tháng tuổi. Bảng 2.12. Khả năng sinh trưởng Tháng Khối lượng Kích thước các chiều đo (cm) tuổi Cơ thể (kg) Dài thân Vòng ngực Cao thân Vòng ống 2 7,25 50,54 46,80 29,38 8,98 3 13,54 61,74 55,88 34,27 10,28 4 19,68 70,63 64,80 39,43 11,56 5 28,10 80,88 73,19 44,75 12,64 6 43,66 88,80 80,57 48,61 13,66 7 54,40 93,15 88,49 50,98 14,24 8 65,81 100,48 93,62 52,12 15,01 9 74,84 105,70 99,23 56,60 15,42 10 83,74 109,47 104,34 58,48 16,10 11 96,25 113,80 109,13 58,94 16,35 12 100,52 115,79 111,05 62,12 16,71 >12 119,51 120,42 116,52 66,49 17,90 * Nguồn: Võ Ái Quốc và CTV., 1993 Bảng 2.13. Một số chỉ tiêu sinh sản của lợn Ba Xuyên Chỉ tiêu Đơn vị tính Trung bình Tuổi động dục lần đầu Ngày 202.7 Khối lượng lúc động dục lần đầu Kg 53.7 Chu kỳ động dục Ngày 20.07 Thời gian mang thai Ngày 115.64 Khoảng cách hai lứa đẻ Con 180.23 Số con đẻ/lứa Kg 8.49 Khối lượng con sơ sinh Con 0.71 Số con còn sống đến cai sữa Con 7.68 Khối lượng lợn con cai sữa 45 ngày Kg 7.56 * Nguồn: Võ Ái Quốc và CTV., 1993 Khả năng cho thịt: Lợn Ba Xuyên có khả năng cho thịt khá, tuy nhiên chất lượng thịt còn chưa cao do mỡ lưng khá dày và diện tích cơ thăn chưa cao. 3.8. 5. Tính trạng đặc biệt: Lợn Ba Xuyên thích hợp với vùng lúa đồng bằng sông Cửu Long, nơi nhiều thức ăn tinh giàu năng lượng nên hình thành giống lợn to, nhiều mỡ. 3.8.6. Công tác bảo tồn nguồn gen: Trước mắt phương pháp bảo tồn in- situ là chủ yếu. Có thể tính toán việc hảo tồn các vật chất di truyền theo phương pháp ex-situ. Bảng 2.14. Một số chỉ tiêu về chất lượng thịt lợn Ba Xuyên Chỉ tiêu Đơn vị tính Giá trị trung bình Khối lượng giết thịt Kg 97 Tỷ lệ thịt móc hàm % 73.31 Độ dày mỡ lưng Cm 4.36 Diện tích cơ thăn Cm2 21.0 * Nguồn: Võ Ái Quốc, Trịnh Hữu Phước, Nguyễn Minh Thông, Đặng Huỳnh Khai, 1993 9. Giống lợn Phú Khánh 9.1. Nguồn gốc xuất xứ
  26. 14 Lợn Phú Khánh thuộc lớp động vật có vú (Mammalia),bộ guốc chẵn (Artiodactyla), họ Suidae, chủng Sus, loài Sus domesticus, nhóm giống lợn Phú Khánh. Theo tài liệu điều tra cơ bản thì lợn trắng Phú Khánh là lợn lai giữa lợn địa phương với các giống lợn ngoại, chủ yếu là lợn Yorkshire, qua nhiều năm phát triển lợn lai này đã dần dần thích ứng với điều kiện chăn nuôi và khí hậu ở địa phương tỉnh Phú Khánh cũ (nay là tỉnh Khánh Hoà và Phú Yên). Lợn đã được chọn lọc, nhân thuần và xây dựng thành nhóm giống lợn trắng Phú Khánh. 9.2. Phân bố Lợn trắng Phú Khánh được nuôi chủ yếu tập trung ở hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà. 9.3. Đặc điểm ngoại hình Lợn Phú Khánh có da lông mầu trắng tuyền, lông hơi thưa, da mỏng, đầu nhỏ, mõm cong vừa phải, tai đứng hướng về phía trước lưng thẳng, bụng to nhưng không sệ, ngực sâu, chân chắc khoẻ nhưng đi bàn. Có hai loại hình: Lợn da bóng không lông (thực chất là ít lông) và lợn có da lông bình thường. 9.4. Khả năng sản xuất Khả năng sinh trưởng: Lợn trắng Phú Khánh có khối lượng sơ sinh khá cao, biến động từ 0,7 kg đến 1,3 kg. Lợn có tầm vóc to trung bình phù hợp với thị hiếu, khối lượng lợn nái trưởng thành 24 tháng tuổi đạt 145 kg. Lợn cái hậu bị 8 tháng tuổi có khối lượng trung bình 62,15kg, lợn nuôi vỗ béo lấy thịt có khối lượng lúc 8 tháng tuổi là 88,3 kg tăng trọng trung bình 435 g/ngày với tiêu tốn thức ăn cao cho 1 kg tăng trọng. Lợn đực lúc 8 tháng tuổi có khối lượng cơ thể 52,61kg, thấp hơn lợn cái 10-15%, tăng trọng trung bình 6,8-7 kg/tháng, nhưng đến trưởng thành khối lượng đạt 150 kg. Khả năng sinh sản: Lợn đực lúc 8 tháng tuổi có thể sử dụng cho phối giống có kết quả tốt. Phẩm chất tinh dịch có sự khác nhau qua các lứa tuổi. Hoạt lực và nồng độ tinh trùng cao nhất ở 12-18 tháng tuổi và giảm từ 20 tháng. Mỗi lần xuất tinh từ 140 – 170 ml, hoạt lực từ 77-82 %, Nông độ tinh trùng biến động từ 207-343 triệu/ml, giai đoạn có nồng độ tinh trùng cao nhất ở độ tuổi 12-18 tháng tuổi (Phạm Hữu Doanh, 1989) Lợn cái: có khả năng sinh sản tốt ngay từ lứa 1 tới lứa 6, sau đó giảm dần. Đàn lợn nái được chọn lọc đã có các chỉ tiêu cao hơn đàn đại trà. Đàn lợn nuôi ở các trại nhà nước có các chỉ tiêu cao hơn và ổn định hơn so với lợn nuôi ở trại tập thể gia đình. Bảng 2.15. Khối lượng cơ thể và các chiều đo của lợn Phú Khánh Tháng tuổi Khối lượng (kg) Dài thân (cm) Vòng ngực (cm) Sơ sinh 0,7-1,3 2 tháng 11,2-2,1 4 tháng 23,4- 26,8 6 tháng 40,07 – 42,8 105,0 ±12,1 100,6±10,6 8 tháng 62,15- 67,4 113,5±16,2 104,0±11,2 12-16 tháng 98,0 – 113,5 123,0±16,2 109,0±14,3 16-18 tháng 119,0- 120,1 134,0±19,2 117,0±17,6 18-21 tháng 145,0- 154,1 142,0±18,1 124,0±18,6 * Nguồn: Phạm Hữu Doanh, 1989 Khả năng cho thịt: Nhóm lợn trắng Phú Khánh có hướng sản xuất nạc - mỡ, lợn được nuôi vỗ béo cho các tỷ lệ thịt, mỡ như sau: Trọng lượng xuất chuồng 98 kg, tỷ lệ thịt xẻ 76%, tỷ lệ nạc 43%, xương 7,8 và P2 là 5,4 mm
  27. 15 Bảng 2.16. Một số chỉ tiêu về khả năng sinh sản của lợn cái Phú Khánh Chỉ tiêu Đàn nái đại trà Đàn nái chọn lọc Số lứa đẻ bình quân/năm 1,7 1,8 Số con sơ sinh một ổ 8,68 8,63-9,4 Khối lượng sơ sinh (kg) 1,08 1,1-1,15 Khối lượng lúc 21 ngày tuổi (kg) 26,28 32,25-32,55 Số con nuôi sống ở 55 ngày 7,35 7,22-7,8 Khối lượng lúc 55 ngày tuổi (kg) 7,79 8,4-8,7 * Nguồn: Phạm Hữu Doanh, 1989 10. Giống lợn Mường Khương 10.1. Nguồn gốc xuất xứ Lợn Mường Khương thuộc lớp động vật có vú (Mammalia), bộ guốc chẵn (Artiodactyla), họ Suidae, chủng Sus, loài Sus domesticus, giống Mường Khương. Lợn Mường Khương được nuôi nhiều ở vùng núi phía Bắc và gắn liền với đời sống người H?Mông. 10.2. Phân bố Mường Khương là giống lợn địa phương có từ lâu đời, được nuôi ở nhiều vùng thuộc tỉnh Lào Cai, nhiều nhất là ở huyện Mường Khương. 10.3. Đặc điểm ngoại hình Lợn có màu sắc lông da đen tuyền hoặc đen có đốm trắng ở đầu đuôi và ở chân, lông thưa và mềm. Đa số lợn có mõm dài thẳng hoặc hơi cong, trán nhăn, tai to hơi cúp rũ về phía trước Lợn có tầm vóc to, nhưng lép người, bốn chân to cao vững chắc. Lưng không thẳng nhưng cũng không võng lắm, bụng to nhưng không sệ tới sát đất, mông hơi dốc. 10.4. Khả năng sản xuất Bảng 2.17. Khối lượng cơ thể của lợn Mường Khương nuôi thịt qua các lứa tuổi (kg) Tháng tuổi Khối lượng (kg) Sơ sinh 0.60 ± 0,04 1 tháng 2,31 ± 0,08 2 tháng 5,55 ± 0,01 3 tháng 10,59 ± 0,35 4 tháng 16,48 ± 0,44 6 tháng 27,88 ± 0,91 9 tháng 54,13 ± 5,59 12 tháng 69,31 ± 1,15 > 12 tháng 92,44 ± 2,13 Nguồn: Lê Viết Ly và CTV, 2000 Khả năng sinh trưởng: Điều tra trên 432 lợn Mường Khương nuôi thịt từ sơ sinh đến trên 12 tháng tuổi đã thu được số liệu trung bình về khối lượng cơ thể và kích thước một số chiều đo chính. Lợn Mường Khương có tốc độ sinh trưởng chậm, khối lượng sơ sinh khá cao (0,6 kg), từ sơ sinh đến 4 tháng tuổi lợn tăng trọng thấp (3-4 kg/tháng), giai đoạn choai 5 - 6 tháng tuổi lợn bắt đầu cho tăng trọng khá hơn (5-6 kg/tháng). Sau 12 tháng tuổi lợn vẫn còn phát triển và khối lượng trung bình trên 90 kg, có những con dạt tới 121,5 kg ở 18 tháng tuổi .
  28. 16 Bảng 2.18. Kích thước các chiều đo chính của lợn Mường Khương nuôi thịt qua các lứa tuổi (cm) Tháng tuổi Dài thân Vòng ngực Cao vây 6 tháng 63,78 ±1,59 69,89 ±1,49 41,15 ±0,47 9 tháng 90,10 ±10,63 93,48 ±10,76 46,64 ±5,63 12 tháng 100,99 ±1,30 107,0 ±1,46 53,14 ±0,93 > 12 tháng 115,44 ±2,09 125,57 ±2,41 56,43 ±1,63 Nguồn: Lê Viết Ly và CTV, 2000 Khả năng sinh sản: Lợn Mường Khương có tuổi động dục đầu tiên muộn 6-7 tháng tuổi), tuổi đẻ lứa đầu là khoảng một năm tuổi, thời gian động hớn dài (5-7 ngày), thời gian có chửa 114-116 ngày, số con đẻ ra và nuôi sống thấp (5 con/ lứa), khả năng nuôi con thấp do tập quán thả rông, thiếu dinh dưỡng, số lứa đẻ trong năm khoảng 1,2 - 1,3 lứa. Khả năng cho thịt: Khảo sát một số lợn ở các lứa tuổi khác nhau đã cho các tỷ lệ thịt, mỡ khác nhau. Do sống trên đỉnh núi cao, vận chuyển khó khăn, không có thị trường, người H’Mông có thói quen nuôi lợn thật to để cúng giỗ, cưới xin, có những con lợn nuôi to tới vài năm tuổi nên mỡ nhiều. Tính trạng đặc biệt: Lợn có tầm vóc lớn, sức chống chịu tốt với điều kiện chăn thả ở các vùng núi cao là đặc điểm nổi bật của giống lợn này. Có thể sử dụng các ưu điểm này để lai nâng tầm vóc lợn địa phương có khối lương nhỏ. Bảng 2.19. Các tỷ lệ thịt mỡ của lợn Mường Khương Chỉ tiêu Lợn 9-10 tháng tuổi Lợn trên 12 tháng tuổi Khối lượng giết mổ (kg) 55-60 77-121,5 Tỷ lệ móc hàm (%) 73,50-78,62 77,13-82,39 Tỷ lệ thịt xẻ (%) 64,08-69,83 66,67-74,16 Tỷ lệ nạc (%) 39,89-46,41 29,72-45,34 Tỷ lệ mỡ (%) 29,00-38,76 32,41-55,94 10.5. Công tác bảo tồn nguồn gen Lợn Mường Khương hiện tập trung tại các vùng núi cao nơi người H'mông ở. Thị trường ở đây chưa phát triển do vùng núi xa xôi, độ cao lớn đi lại khó khăn nên việc lai kinh tế với lợn ngoại qua thụ tinh nhân tạo hầu như chưa có. Trước mắt vẫn là thu thập các số liệu và giúp cải tiến nuôi dưỡng lợn đực giống. Các nhà nghiên cứu bảo tồn nguồn gen động vật nuôi đang tiến hành khảo sát, so sánh sự khác và giống nhau giữa lợn Mường Khương và lợn Mẹo để xác định mối quan hệ giữa chúng. III. CÁC GIỐNG LỢN NGOẠI NHẬP NUÔI Ở NƯỚC TA 1. Giống lợn Berkshire 1.1. Nguồn gốc xuất xứ Các đây khoảng 300 năm, lợn Berkshire được khám phá bởi Oliver Cromwell's ở vùng shire của Berks (nước Anh). Nguồn gốc của giống lợn này là lợn có màu hơi đỏ và sống ở vùng cát. Năm 1823, lợn này được công nhận bởi Hội đồng giống Hoàng gia Anh. 1.2. Phân bố Lợn Berkshire chủ yếu được nuôi ở vùng Đông Nam nước Anh. Trước năm 1970, giống lợn Berkshire được nuôi khá phổ biến ở châu Âu và một số nước châu Á và Phi.
  29. 17 1.3. Đặc điểm ngoại hình Lợn Berkshire toàn thân có màu đen, có sáu điểm trắng ở trán, bốn chân và đuôi. Thân dài, rộng, đầu ngắn, mặt hơi cong, tai nhỏ hơi hướng về phía trước, cổ ngắn, ngực sâu rộng, xương sườn nở, bốn chân thẳng vững chắc, lông mượt, tính tình hiền, thể chất khỏe, thành thục sớm. 1.4. Khả năng sản xuất: * Sinh trưởng phát dục: Trọng lượng sơ sinh trung bình 1,1 - 1,2kg; trọng lượng cai sữa trung bình 12 - 15kg. Lợn trưởng thành có thể nặng tới 270 - 300kg. * Khả năng sinh sản: Lợn Berkshire đẻ ít con, trung bình 7 - 8 con /lứa. Lợn này được nhập vào nước ta năm 1959. Khả năng thích nghi của chúng khá tốt song khả năng sản xuất, khả năng lai tạo với các giống lợn nội của ta kém hơn các giống lợn khác nên nó bị đào thải vào những năm 1970. 1.5. Hướng sử dụng: Sau thập niên 70, giống lợn này không được lựa chọn ở nhiều nước và dần dần không sử dụng. Hiện nay, ở Anh đang nuôi dưới dạng bảo tồn. Ở nước ta, giống lợn Berkshire nhập vào nuôi từ những năm 1920 đã tạo ra giống lợn Ba Xuyên ngày nay ở Nam Bộ. 2. Giống lợn Yorkshire 2.1. Nguồn gốc xuất xứ Vào những năm đầu thế kỷ XVI, nhiều người chú ý đến việc phát triển chăn nuôi lợn ở Anh phát triển giống lợn. Đến năm những 1770, lợn Trung Quốc được nhập vào Anh theo chủng Sus indicus và cho lai tạo với Sus scrofa. Mãi năm 1851 Joseph Luley, là người tạo giống đã tạo giống lợn Yorkshire ở vùng Bắc Shires. Trong thời gian này, nhà chọn Bakewell đã cải tạo lợn Leicestershire, của giống lợn đại phương Bắc Shires, Yorkshire và Lancashire, của Lincolnshire và Leicestershire để tạo ra giống lợn Yorkshire ngày nay nhưng đến năm 1884, Hội đồng giống Hoàng gia Anh mới công nhận giống lợn Yorkshire. 2.2. Phân bố Lợn được nuôi nhiều ở vùng Đông Bắc nước Anh, nhân dân ở đây có tập quán nuôi lợn chăn thả trên đồng cỏ. Sau đó, lợn được cải tiến thành nhiều nhóm khác nhau. 2.3. Đặc điểm ngoại hình Toàn thân có màu trắng, lông có ánh vàng, đầu nhỏ, dài, tai to dài hơi hướng về phía trước, thân dài, lưng hơi vồng lên, chân cao khỏe và vận đông tốt, chắc chắn, tầm vóc lớn. 2.4. Khả năng sản xuất * Sinh trưởng phát dục: Trọng lượng sơ sinh trung bình 1 - 1,2 kg, lợn trưởng thành đạt 350 - 380 kg, dài thân 170-185 cm, vòng ngực 165-185 cm. Con cái có cân nặng 250-280 kg, lợn thuộc giống lợn cho nhiều nạc. * Khả năng sinh sản: Lợn cái đẻ trung bình 10 - 12 con/lứa. Có lứa đạt 17-18 con, cai sữa 60 ngày tuổi đạt 16-20 kg/con. 2.5. Hướng sử dụng
  30. 18 Lợn Yorkshire là giống lợn phổ biến nhất trên thế giới, lợn được nuôi ở nhiều nơi. Ở nước ta lợn cũng được nhập vào từ những năm 1920 ỏ miền Nam để tạo ra lợn Thuộc Nhiêu Nam Bộ. Đến 1964, lợn được nhập vào miền Bắc thông qua Liên Xô cũ. Đến năm 1978, chúng ta đã nhập lợn Yorkshire từ Cu Ba. Những năm sau 1990, lợn Yorkshire được nhập vào ta qua nhiều con đường của nhà nước, công ty và từ nhiều dòng khác nhau như Yorkshire Pháp, Bỉ, Anh, Úc, Mỹ, Nhật Mỗi dòng đều có những đặc điểm ngoại hình và sản xuất đặc trưng của nó. Giống lợn này cũng một trong những giống nước ta đang chọn cho chương trình nạc hóa đàn lợn. 3. Giống lợn Đại bạch (Liên Xô) 3.1. Nguồn gốc xuất xứ Là giống lợn nguyên là giống Yorkshire của Anh cải lương mà thành. Lợn Đại Bạch được tạo ra ở Nga, khi họ nhập 37 lợn đực và 45 lợn nái từ Anh đem nhân thuần chủng để tạo thành giống lợn Yorkshire Nga có tầm vóc rất lớn gọi là lợn Đại Bạch. 3.2. Phân bố Lợn được phân bố chủ yếu ở Nga và một số nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ. 3.3. Đặc điểm ngoại hình So sánh đặc điểm ngoại hình của lợn Yorkshire và Đại bạch thì không khác nhau lắm. Giống lợn Đại Bạch có tầm vóc to hơn. Toàn thân có màu trắng, lông dày và mềm, tai mỏng đứng thắng hoặc hơi hướng về phía trước, vai đầy đặn, ngực sâu rộng, lưng hông rộng và bằng, mình dài, xương sườn nở, bốn chân to khỏe, đùi to tròn, móng chân chắc chắn thích hợp với hướng chăn thả. 3.4. Khả năng sản xuất Sinh trưởng phát dục: Đại bạch thành thục sớm, sinh trưởng nhanh. Trọng lượng sơ sinh đạt 1 - 1,2 kg; 2 tháng tuổi đạt 17 kg; 3 tháng tuổi đạt 26 kg; 4 tháng tuổi đạt 37 kg; 5 tháng tuổi đạt 51 kg; 6 tháng tuổi đạt 65 kg; 7 tháng tuổi đạt 79 kg; 8 tháng tuổi đạt 90 kg; 10 tháng tuổi đạt 126 kg. Lợn trưởng thành con đực cân nặng tới 450 kg, con cái nặng 280-350 kg. Khả năng sinh sản: Đại bạch có khả năng sinh sản cao: trung bình đẻ 10 - 12 con/lứa, sức tiết sữa cao (60 – 80 kg). Tóm lại Đại Bạch có nhiều ưu điểm: tầm vóc lớn, thể chất khỏe, khả năng thích nghi cao, chịu kham khổ, thích hợp với hướng chăn thả, sinh trưởng phát dục nhanh, đẻ nhiều con. 3.5. Hướng sử dụng Ở nước ta lợn Đại Bạch nhập vào từ năm 1964 từ Liên Xô. Giống lợn này được nuôi khá phổ biến từ những năm 70 đến 80, sau đó chúng ta nhập các dòng lợn Yorkshire từ các nước khác cũng có tầm vóc lớn. Đến nay, loại hình Đại Bạch Nga gần như được thay thế nhiều bằng các giống lợn Yorkshire. 4. Lợn Landrace (LD) 4.1. Nguồn gốc xuất xứ Lợn Landrace có nguồn gốc Đan Mạch được hình thành vào khoảng 1924-1925. Do quá trình tạp giao giữa các giống lợn từ Anh, Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha, Trung Quốc tạo thành. Lợn Landrace được tạo thành bởi quá trình lai tạo giữa giống lợn Youtland (có nguồn gốc Đức) với lợn Yorkshire (có nguồn từ Anh). 4.2. Phân bố
  31. 19 Giống lợn này chủ yếu được nuôi nhiều ở Đan Mạch. Sau 1990, lợn được chọn lọc và có năng suất cao và được nuôi ở nhiều nước châu Âu 4.3. Đặc điểm ngoại hình Toàn thân có màu trắng tuyền, đầu nhỏ, dài, tai to dài rủ xuống kín mặt, cổ nhỏ và dài, mình dài, vai-lưng-mông-đùi rất phát triển. Toàn thân có dáng hình thoi nhọn giống như quả thủy lôi, đây là giống lợn tiêu biểu cho hướng nạc. 4.4. Khả năng sản xuất Lợn Landerace có khả năng sinh sản cao, mắn đẻ và đẻ nhiều: Trung bình đạt 1,8 - 2 lứa/năm. Mỗi lứa đẻ 10 -12 con, trọng lượng sơ sinh (Pss) trung bình đạt 1,2 - 1,3 kg, trọng lượng cai sữa (Pcs) từ 12 – 15 kg. Sức tiết sữa từ 5 - 9 kg/ngày. Khả năng sinh trưởng của lợn rất tốt. Theo một số kết quả sản xuất ở Thái Lan và Công ty chăn nuôi CP Biên Hòa cho thấy lợn Landrace có rất nhiều ưu điểm: Sinh sản tốt, tăng trong nhanh, tiêu tốn thức ăn thấp, tỷ lệ nạc cao và chất lượng thịt tốt. Lợn có khả năng tăng trọng từ 750-800 g/ngày, 6 tháng tuổi lợn thịt có thể đạt 105-125 kg. Khi trưởng thành con đực nặng tới 400 kg, con cái 280-300 kg. 4.5. Hướng sử dụng Lợn Landrace được coi là giống lợn tốt nhất trên thế giới hiện nay và được nuôi rất phổ biến ở nhiều nơi. Giống lợn này được nhập vào nước ta vào khoảng 1970 qua Cuba. Những năm sau 1990, lợn Yorkshire được nhập vào ta qua nhiều con đường của nhà nước, công ty và từ nhiều dòng khác nhau như Yorkshire Pháp, Bỉ, Anh, Úc, Mỹ, Nhật Mỗi dòng đều có những đặc điểm ngoại hình và sản xuất đặc trưng của nó. Giống lợn Landrace được chọn một trong những giống tốt để thực hiện chương trình nạc hóa đàn lợn ở Việt Nam. 5. Giống lợn Duroc (Du) 5.1. Nguồn gốc xuất xứ Có nguồn gốc miền Đông, nước Mỹ và vùng Corn Belt. Dòng Duroc được tạo ra ở vùng New York năm 1823, bởi Isaac Frink. Giống lợn Duroc-Jersey có nguồn của hai dòng khác biệt Jersey Red của New Jersey và Duroc của New York. Còn dòng lợn Jersey đỏ được tạo ra vào năm 1850 vùng New Jersey bởi Clark Pettit. 5.2. Phân bố Chủ yếu được nuôi ở vùng New Jersey và vùng New York, nước Mỹ. 5.3. Đặc điểm ngoại hình Toàn thân có màu hung đỏ (thường gọi lợn bò), đầu to vừa phải, mõm dài, tai to và dài, cổ nhỏ và dài, mình dài, vai-lưng-mông-đùi rất phát triển. Giống lợn Duroc là giống lợn tiêu biểu cho hướng nạc, có tầm vóc trung bình so với các giống lợn ngoại. 5.4. Khả năng sản xuất Lợn Duroc có khả năng sinh sản tương đối cao. Trung bình đạt 1,7 - 1,8 lứa/năm. Mỗi lứa đẻ từ 9 đến 11 con, Pss lợn con trung bình đạt 1,2 - 1,3 kg, Pcs 12 – 15 kg. Sức tiết sữa của lợn đạt 5 - 8 kg/ngày. Khả năng sinh trưởng của lợn tốt. Theo một số kết quả sản xuất ở Đài Loan và Thái Lan cho thấy lợn Duroc có nhiều ưu điểm: Tăng trọng nhanh, tiêu tốn thức ăn thấp, tỷ lệ nạc cao và chất lượng thịt tốt. Lợn có khả năng tăng trọng từ 750-800 g/ngày, 6
  32. 20 tháng tuổi lợn thịt có thể đạt 105-125 kg. Lợn Duroc trưởng thành con đực nặng tới 370 kg, con cái 250-280 kg. 5.5. Hướng sử dụng Lợn Duroc được coi là giống lợn tốt trên thế giới hiện nay và được nuôi rất phổ biến ở nhiều nơi, đặc biệt nuôi theo hướng nạc và sử dụng thịt nướng. Giống lợn này đã được nhập vào nước ta vào khoảng 1956 ở miền Nam, sau đó đến 1975, lợn được nhập vào nước ta qua nhiều chương trình và các công ty chăn nuôi. Giống lợn Duroc được chọn một trong những giống tốt để thực hiện chương trình nạc hóa đàn lợn ở Việt Nam. Tuy nhiên, nuôi lợn Duroc cần có chế độ dinh dưỡng cao và chăm sóc tốt mới đạt được kết quả tốt. 6. Giống lợn Pietrain (Pi) 6.1. Nguồn gốc xuất xứ Giống lợn có nguồn từ một làng có tên Pietrain, thuộc Bỉ. Người ta không rõ giống này được tạo ra năm nào nhưng ước chừng vào khoảng 1950-1951. Giống lợn này đã trở nên phổ biến ở Bỉ và sau đó xuất qua các nước khác, đặc biệt là CHLB Đức. 6.2. Phân bố Giống lợn này chủ yếu nuôi ở Bỉ và Đức. Sau đó lợn được nuôi khá nhiều nơi trên thế giới. 6.3. Đặc điểm ngoại hình Toàn thân có màu trắng và có nhiều đốm màu xám trên và không ổn định, đầu nhỏ, dài, tai to hơi vểnh, cổ to và chắc chắn, mình dài, vai-lưng-mông-đùi rất phát triển. Toàn thân trông như hình trụ. Đây là giống lợn tiêu biểu cho hướng nạc. 6.4. Khả năng sản xuất Lợn có tầm vóc trung bình và khả năng sản xuất thịt nạc cao, nuôi tốt có thể đạt 66,7% nạc trong thân thịt. Trọng lượng sơ sinh 1,1-1,2 kg con, cai sữa 60 ngày đạt 15-17 kg/con, 6 tháng tuổi đạt 100 kg. Lợn đực có nồng độ tinh trùng cao, 250 - 290 triệu/ml. Lợn cái có khả năng sinh sản tương đối tốt, lợn đẻ trung bình 9-11 con/lứa, năm đạt 1,7-1,8 lứa/năm. 6.5. Hướng sử dụng Lợn Peitrain được coi là giống lợn tốt và cao nạc trên thế giới hiện nay và được nuôi ở nhiều nước. Giống lợn này được nhập vào nước ta vào khoảng 1993, hiện nay giống lợn Peitrain được sử dụng để lai tạo với các giống lợn khác tạo thành các tổ hợp lai có nhiều ưu điểm như PiDu x LandYork hay (Pi x (Yr x MC). Giống lợn này được nhập vào nước ta qua nhiều chương trình và các công ty chăn nuôi khác nhau. Giống lợn Peitrain được chọn một trong những giống tốt để thực hiện chương trình nạc hóa đàn lợn ở Việt Nam. 7. Giống lợn Edel (DE) 7.1. Nguồn gốc xuất xứ Lợn có nguồn gốc từ Đức và được hình thành vào khoảng cuối thế kỷ 19 khi những người chăn nuôi lợn ở Đức cho lai tạo giữa giống lợn của Đức và giống lợn Yorkshire của Anh tạo ra con lợn Edel trắng (Schwein Deuscher Edel) 7.2. Phân bố
  33. 21 Giống lợn này chủ yếu nuôi ở vùng Gottingen, Munchen và sau 1990, lợn được chọn lọc và có năng suất cao và được nuôi ở nhiều nước châu Âu 7.3. Đặc điểm ngoại hình Toàn thân có màu trắng hồng, đầu nhỏ, dài, tai to dài rủ xuống kín mặt, cổ nhỏ - dài, mình dài, vai-lưng-mông-đùi rất phát triển. Toàn thân có dáng hình như giống lợn Yorkshre. 7.4. Khả năng sản xuất Lợn Edel có khả năng sinh sản cao, mắn đẻ và đẻ nhiều: Trung bình đạt 1,8 – 1,9 lứa/năm. Mỗi lứa đẻ 9 -12 con, trọng lượng sơ sinh (Pss) trung bình đạt 1,2 - 1,3 kg, trọng lượng cai sữa (Pcs) đạt 12 – 15 kg. Sức tiết sữa của lợn đạt 5 - 9 kg/ngày. Khả năng sinh trưởng của lợn rất tốt. Giống lợn Edel có rất khá nhiều ưu điểm: Sinh sản tương đối tốt, tăng trọng nhanh, tiêu tốn thức ăn thấp, tỷ lệ nạc cao và chất lượng thịt tương đối tốt. Lợn có khả năng tăng trọng từ 650-700 g/ngày, 6 tháng tuổi lợn thịt có thể đạt 100 kg. Lợn DE trưởng thành con đực nặng tới 420 kg, con cái 320-350 kg. 7.5. Hướng sử dụng Lợn Edel được coi là giống lợn khá tốt ở Đức, 1960 lợn Edel được chọn lọc thuần chủng, 1964 được nhân theo dòng của Cộng hòa dân chủ Đức. Tuy nhiên, hiện nay giống không được nhiều nước châu Âu ưa chuộng vì tỷ lệ mỡ trong thân thịt tương đối cao. Lợn Edel được nhập vào nước ta năm 1974 từ Đông Đức nuôi thích nghi ở nông trường Phú Sơn, sau đó được nuôi ở An Khánh và trại Đông Á. Hiện nay, giống lợn này không được phổ biến ở Việt Nam bởi vì khả năng cải tạo các giống lợn địa phương kém hơn LD và Yorkshire, lợn Edel có sức đề kháng kém hơn các giống lợn Yorkshire hay Landrace, (Beynen và Linh, 2003). 8. Giống lợn Cornwall 8.1. Nguồn gốc xuất xứ Lợn có nguồn gốc từ vùng Cornwall, phía Nam nước Anh được hình thành vào khoảng 1824-1825. Do quá trình tạp giao giữa các giống lợn từ Anh, Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha, Trung Quốc tạo thành. Lợn Cornwall được tạo thành bởi quá trình lai tạo giữa giống lợn Berkshire với lợn Trung Quốc. 8.2. Phân bố Giống lợn này phổ biến ở Hung-ga-ri và một số nước Nam Âu vào những năm đầu của thế kỷ XX. Do lợn có màu đen tuyền và thích nghi tốt hơn ở các nước có nhiệt độ cao hơn, chính vì vậy giống lợn này không nuôi phổ biến ở Anh. 8.3. Đặc điểm ngoại hình Toàn thân có màu đen tuyền, đầu nhỏ và dài, tai to dài rủ xuống kín mặt, cổ nhỏ - dài, mình dài, vai-lưng-mông-đùi phát triển. Toàn thân có dáng hình dáng tiến về phía trước, lợn chậm chạp và ít vận động so với các giống lợn Yorkshire hay Duroc. Giống lợn này có tỷ lệ mỡ khá cao. 8.4. Khả năng sản xuất Lợn Cornwall có khả năng sinh sản thấp, đẻ ít con và thưa: Trung bình đạt 1,4 - 1,5 lứa/năm. Mỗi lứa đẻ 9 -10 con, trọng lượng sơ sin (Pss) của lợn con trung bình đạt 1,2 - 1,3 kg, trọng lượng cai sữa (Pcs) đạt 12 – 15 kg. Sức tiết sữa lợn 3 - 5 kg/ngày. Khả năng sinh trưởng của lợn chậm hơn so với Landrace hoặc Yorkshire. Lợn có khả năng tăng trọng từ
  34. 22 500-600 g/ngày, 7 tháng tuổi lợn thịt có thể đạt 90-100 kg. Khi trưởng thành con đực nặng 300 kg, con cái 220-240 kg. 8.5. Hướng sử dụng Lợn Cornwall được coi là giống lợn thích nghi khá tốt ở các vùng xứ nóng và có sức đề kháng cao. Lợn được nhập vào nước ta năm 1974, qua Hungary nuôi thích nghi ở nông trường Thành Tô và Ba Vì, do không thích hợp về khí hậu nên lợn được chuyển vào nông trường giống lợn Triệu Hải năm 1976. Ở đây giống lợn này thích nghi và phát triển. Đến năm 1993, do chủ trương trắng hóa đàn lợn tại các tỉnh Thừa Thiên Huế và Quảng Trị và do ảnh hưởng của cơ chế thị trường và khoán sản phẩm đến người lao động, giống lợn này không được ưa chuộng. Hơn nữa chủ trương của Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn trắng hóa đàn lợn miền Trung, từ đó giống lợn này được loại bỏ hoàn toàn ở khu vực Bình - Trị - Thiên. 9. Giống lợn Hampshire 9.1. Nguồn gốc xuất xứ Giống lợn này có nguồn gốc từ Anh Quốc, vùng Hampshire, Scotland, Northumberland. Khoảng giữa 1825 và 1835, giống lợn Hampshire được xuất sang Mỹ và từ đó giống lợn này được phát triển khá phổ biến ở châu Mỹ. 9.2. Phân bố Giống lợn này được nuôi nhiều ở vùng Hampshire, Schotland, Northumber-land, nước Anh. 9.3. Đặc điểm ngoại hình Lợn có màu lông đen toàn thân và có vành lông trắng vắt qua vai bao gồm cả chân trước và ngực. Lợn có đầu nhỏ thanh, cổ dài và hẹp thân. Toàn thân trông chắc chắn và vận động tốt, thích hợp với hệ thống chăn nuôi chăn thả trên đồng cỏ. 9.4. Khả năng sản xuất Lợn Hampshire có khả năng sinh sản tương đối tốt, lợn đẻ từ 10-12 con/lứa, mỗi năm đẻ 1-8 - 2 lứa. Trọng lượng sơ sinh lợn con trung bình đạt 1,1 - 1,2 kg. Sức tiết sữa của lợn 5 - 7 kg/ngày. Khả năng sinh trưởng của lợn tương đối nhanh, tăng trọng 700 g/ngày. Lợn có tỷ lệ thịt xẻ cao và đây là một giống lợn hướng nạc. 9.5. Hướng sử dụng Lợn Hampshire được coi là giống lợn tốt ở Anh và Mỹ vào đầu thế kỷ XIX. Năm 1922, Hội đồng giống nước Mỹ đã lựa chọn giống lợn Hampshire để cho lai tạo với các giống Landrace và giống Belksville. Ở nước ta, giống lợn này được nhập vào năm 1989 để làm tươi máu cho các giống lợn ngoại đang nuôi ở một số nông trường lợn giống. Hiện nay, giống Hampshire không được nuôi phổ biến ở nước ta nữa nhưng chất lượng giống của Hampshire vẫn được giữ và khá ưa chuộng ở một số nước như Mỹ, Đức và Hungary. 10. Giống lợn Meishan 10.1.Nguồn gốc xuất xứ Giống lợn này có nguồn gốc từ vùng hồ và thung lũng của Trung Quốc, chúng được xem như lợn Taihu từ hồ Taihu, Fengjing và Minzhu, giữa miền Bắc và miền Trung. 10.2. Phân bố Giống lợn Meishan chủ yếu được nuôi ở miền Bắc và Trung của Trung Quốc, một số vùng ven sông Chang Jiang và bờ biển phía Đông Nam.
  35. 23 10.3. Đặc điểm ngoại hình Giống lợn này có màu đen, mặt và da nhăn, lông đen toàn thân và có vành lông trắng vắt qua vai bao gồm cả chân trước và ngực. Lợn có đầu nhỏ thanh, cổ dài và hẹp thân. Toàn thân trông chắc chắn và vận động tốt, thích hợp với hệ thống chăn nuôi chăn thả trên đồng cỏ. 10.4. Khả năng sản xuất: Giống lợn Meishan có trọng lượng tương đối lớn so với các giống lợn châu Á. Lợn nái trưởng thành có chiều cao 57.8 cm, vòng ngực 100 cm và trọng lượng 61,6 kg. Tỷ lệ thịt xẻ thấp khoảng 68%, tỷ lệ mỡ cao. Lợn có khả năng sinh sản rất tốt, đẻ trung bình 15-16 con/lứa, có khi 20 -22 con. Lợn có khả năng tăng trọng tương đối tốt. 10.5. Hướng sử dụng Giống lợn Meishan được nhập vào Mỹ và cho lai tạo với các giống lợn ở Mỹ như các giống Landrace, Hampshire, Duroc để tạo ra các con lai có khả năng sản xuất tốt. Nước ta không lựa chọn giống lợn Meishan trong chương trình nạc hóa đàn lợn nhưng giống lợn này được đưa vào Việt Nam thông qua công ty chăn nuôi PIC (Anh Quốc) từ năm 1995 theo các giống lợn ngoại khác để tạo ra một giống lợn có máu của 5 giống lợn khác nhau (Landrace, Yorkshire, Duroc, Peitrain, Meishan) có năng suất cao và chất lượng thịt tốt. IV. CÔNG TÁC GIỐNG LỢN 1. Phương hướng công tác giống lợn Việt Nam Trong phương hướng công tác giống lợn ở Việt Nam quan điểm chung là: “Tiếp tục nhập các giống lợn ngoại, đực và cái cần thiết và thích hợp vào Việt Nam, nhân thuần chủng để tạo ra các dòng của các giống lợn khác nhau phù hợp với thị trường và điều kiện chăn nuôi nước ta. Tiến hành cho các giống lợn ngoại lai tạo với các giống lợn địa phương để nâng cao sức sản xuất và sức đề kháng bệnh, chọn các công thức lai phù hợp cho các vùng sinh thái khác nhau. Đồng thời, tích cực bảo tồn các giống lợn bản địa dưới các hình thức nguyên vị (In-situ) và chuyển vị (Ex-situ) ở các vùng trong cả nước. Phấn đấu đến năm 2010, đàn lợn nước ta có số lượng khoảng 31 triệu con và lợn thịt có tỷ lệ nạc trong thân thịt từ 52-55%”. Phương hướng công tác giống lợn được cụ thể hóa bằng các bước như sau: - Tiến hành điều tra cơ bản về con giống ở các vùng, đồng thời phối hợp với các trường kỹ thuật nông nghiệp tiếp tục chọn điểm điều tra và sau tiến hành điều tra trên diện rộng. Qua các đợt điều tra cần phải nắm được tình hình chăn nuôi lợn của các vùng về con giống, thức ăn, kỹ thuật, phòng trừ dịch bệnh và chuồng trại, đầu tư chăn nuôi lợn. Cụ thể phải tính được tỷ lệ các loại giống trong tổng đàn, cơ cấu đàn lợn - Tiến hành bình tuyển và giám định, chọn những con lợn giống tốt (đực và cái), tiến hành chọn lọc loại thải theo đúng theo tiêu chuẩn của phẩm giống quốc gia đã ban hành (2001-2002). - Nhập các giống lợn ngoại tốt cần thiết vào nuôi thích nghi, nhân thuần chủng và cho lai tạo với các giống lợn địa phương. - Củng cố các cơ sở giống lợn tốt nhằm cung cấp con giống cho toàn vùng. Đặc biệt xây dụng các mô hình chăn nuôi lợn giống có chất lượng cao. Phát triển hình thức "vùng giống lợn nhân dân", có sự điều hành và đầu tư của nhà nước và các tổ chức dưới nhiều hình thức như tư nhân, gia công - Cũng cố và thành lập các cơ sở thụ tinh nhân tạo cho lợn có chất lượng cao, có kiểm tra chất lượng tinh dịch theo định kỳ, chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của thực tiễn sản xuất.
  36. 24 - Tiến hành tạo ra các dòng giống lợn tốt, cho giao dòng tăng ưu thế trong cùng một giống. - Thiết lập một hệ thống quản lý công tác giống lợn dưới nhiều hình thức và theo các cấp quản lý từ Trung ương đến địa phương. Thiết lập hệ thống các trạm kiểm tra chất lượng con giống lợn và kiểm dịch động vật nghiêm ngặt. Bên cạnh đó xây dựng các cơ sở giống và các trung tâm giống lợn của nhà nước. 2. Hệ thống công tác giống lợn Việt Nam Ở nước ta, hệ thống công tác giống lợn vẫn tồn tại theo các hình thức chăn nuôi lợn khác nhau: 2.1. Chăn nuôi lợn theo nông hộ Đây là hình thức chăn nuôi cá thể mang tính truyền thống từ lâu đời ở Việt Nam, người nông dân chăn nuôi và sản xuất con giống tự phát và cung cấp cho nhau trong cộng đồng nông thôn thông qua các thị trường giống lợn ở địa phương. Hệ thống giống lợn này không có kế hoạch con giống, không được kiểm tra chất lượng con giống và thả nổi theo thị trường các địa phương. 2.2. Chăn nuôi lợn theo nông hộ bán thâm canh Chăn nuôi lợn cá thể là một hình thức chăn nuôi đã có đầu tư chăn nuôi cao và có trình độ thâm canh tương đối tốt. Tuy nhiên, hình thức này vẫn chưa có sự điều hành và quản lý của nhà nước hay các tổ chức chăn nuôi nào cả. Giống lợn được sản xuất ra theo hệ thống chăn nuôi này có chất lượng tương đối tốt nhưng vẫn mang tính tự phát, không có chiến lược hay kế hoạch chương trình con giống. Từ đó, hệ thống này vẫn xẩy ra tình trạng thiếu hay thừa con giống bất thường. 2.3. Chăn nuôi lợn công nghiệp có thâm canh cao Đây là hình thức chăn nuôi có đầu tư lớn, hiện nay hình thức này tồn tại dưới dạng sở hữu của nhà nước hay của tư nhân có đầu tư lớn. Hiện nay, hình thức này đang được phát triển ở miền số tỉnh như Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Tây, Đồng Nai Tuy nhiên, khi phát triển hình thức chăn nuôi này người chăn nuôi cần phải chú ý đến phòng bệnh cho đàn lợn và giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường. V. CHỌN LỌC GIỐNG LỢN 1.Chọn lọc Chọn giống lợn cũng như các giống lợn, chọn những cá thể đực và cái tốt, cho giao phối với nhau để tạo ra đời con tốt hơn và loại thải các cá thể xấu ra khỏi quần thể. Trong trường hợp lai giống, chúng ta sử dụng con đực có năng suất cao và con cái có khả năng chống chịu bệnh tốt nhưng đòi hỏi chúng phải thuần về giống để có ưu thế lai cao trong quá trình lai tạo. Ví dụ dùng đực Yorkshire lai với nái Móng Cái, ta được con lai F1 có ưu thế cao nhất. Thông thường ưu thế lai cao nhất ở đời lai F1 và giảm dần, cứ giảm 50% sau một đời lai. Mục đích của chọn giống lợn cho đáp ứng cho các đối tượng: 1Người chăn nuôi: Lợn nái đẻ nhiều con, lợn chóng lớn và có sức khỏe tốt 2Các lò mổ: Tỷ lệ thịt xẻ và tỷ lệ nạc cao, tỷ lệ nước thấp 3Người phân phối: Màu thịt đẹp, mềm, ngon và ít hao hụt 2. Phương pháp chọn lọc