Giản yếu về từ vựng và ngữ nghĩa Tiếng Việt (Phần 2) - Nguyễn Hữu Châu

pdf 36 trang ngocly 2600
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giản yếu về từ vựng và ngữ nghĩa Tiếng Việt (Phần 2) - Nguyễn Hữu Châu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgian_yeu_ve_tu_vung_va_ngu_nghia_tieng_viet_phan_2_nguyen_hu.pdf

Nội dung text: Giản yếu về từ vựng và ngữ nghĩa Tiếng Việt (Phần 2) - Nguyễn Hữu Châu

  1. Chương IV Hiện tượng đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm I Khái quát về hiện tượng đồng nghĩa Dưới đây, chúng ta chỉ tóm tắt một số tri thức về hiện tượng đồng nghĩa nói chung trong tất cả các ngôn ngữ để có điều kiện chuyển nhanh sang hiện tượng này trong tiếng Việt. 1. Định nghĩa Nói một cách đơn giản, từ đồng nghĩa là những từ ngữ giống nhau về nghĩa, hoặc nghĩa biểu vật, hoặc nghĩa biểu niệm. Trong từ vựng của một ngôn ngữ, thường có nhiều từ ngữ đồng nghĩa với nhau, lập thành những loạt (nhóm, dãy) từ ngữ đồng nghĩa. Các loạt từ đồng nghĩa thường nằm trong những trường nghĩa nhất định. Trong một trường nghĩa lại có những "miền" khác nhau; nghĩa về "con người" miền của "tay" nhiều từ ngữ hơn miền của "chân" (ví dụ số lượng từ ngữ chỉ hình dáng của tay : búp măng, dùi đục, chuối mắn, nhiều, trong khi những ngữ riêng cho hình dáng của "chân" hầu như không có). Trong những miền khác nhau về "mật độ" từ ngữ đó, có những miền nhiều từ đồng nghĩa hơn miền kia. 2. Phân loại Để cho tiện dùng, có thể phân các từ đồng nghĩa thành hai loại : a) Đồng nghĩa tuyệt đối Những từ đồng nghĩa không khác nhau về sắc thái ý nghĩa biểu cảm hay biểu niệm, có thể khác nhau về tính địa phương, về phong cách. Ví dụ có mang và có bầu ; sốt rét và ngã nước. b) Đồng nghĩa khác nhau về sắc thái ý nghĩa. Bao gồm: 72
  2. Đồng nghĩa khác nhau về sắc thái biểu cảm Đồng nghĩa khác nhau về sắc thái ý nghĩa Dưới đây, qua phân tích các từ ngữ đồng nghĩa trong tiếng Việt chúng ta sẽ hiểu rõ sự phân loại này hơn. II Hiện tượng đồng nghĩa trong tiếng Việt Tiếng Việt rất phong phú về hiện tượng đồng nghĩa. Dưới đây là các ví dụ. Từ đồng nghĩa ở một vài miền trong trường biểu vật về con người. 1. Trí tuệ, hoạt động, tính chất của trí tuệ a) Cơ quan hoạt động nhận thức của con người: đầu, não, óc, đầu não, trí óc, trí não, trí tuệ, trí lực, lí trí, cân não, b) Hoạt động nhận thức của trí tuệ : nghĩ, nghĩ ngợi, suy nghĩ, nghiền ngẫm, ngẫm, gẫm, tư duy, suy, suy xét, suy tư, xét, xét đoán, phán xét, phán đoán, đoán, đoán định, tiên đoán, nghiệm, c) Hoạt động của trí tuệ để khôi phục lại kí ức : nhớ, ghi nhớ, hồi tưởng, 2. Tính chất của trí tuệ a) Tính chất tích cực, lành mạnh : thông minh, minh mẫn, mưu trí, nhanh trí, sáng, sáng dạ, sáng suốt, khôn, khôn khéo, b) Tính chất tiêu cực : ngu, dốt, đần, ngốc, ngốc ngếch, dại, dại dột, đần độn, ngu tối, dốt nát, mất trí, dại, cuồng, điên, ngộ, điên dại, cuồng trí, cuồng chữ, ngộ chữ, dở người, ngớ ngẩn, gàn, bướng, ương, dở, ương gàn, ương bướng, lẫn, lẩm cẩm, lẩn thẩn, lẫn cẫn, hấp, hâm, 3. Trạng thái trí tuệ a) Trạng thái tích cực : sáng sủa, tỉnh táo, sáng láng, b) Trạng thái tiêu cực : tối tăm, mù mờ, choáng váng, sững sờ, thảng thốt, hôn mê, mê muội, c) Trạng thái của tư tưởng : băn khoăn, do dự, lưỡng lự, phân 73
  3. vân, rối, bối rối, rối ruột, rối dạ, rối trí, hoang mang, 4. Tính cách con người a) Tính cách tích cực : thật thà, thật, thẳng, thẳng thắn, ngay, ngay thật, ngay thẳng, trung thực, trung trực, b) Tính cách tiêu cực : gian, gian dối, gian trá, gian xảo, xảo trá, gian hiểm, gian ngoan, trí trá, cong queo, quanh co, lắt léo, c) Tính cách tiếp vật tích cực : ôn hoà, điềm đạm, đằm tính, điềm tĩnh, trầm tĩnh, kiên trì, kiên nhẫn, nhẫn nại, nhẫn nhục, d) Tính cách tích cực tiêu cực : nóng, nóng nảy, nóng vội, lanh chanh, 5. Trạng thái tình cảm của con người a) vui, vui vẻ, vui lòng, hồ hởi, hởi lòng hởi dạ, mát lòng, mát dạ, thoả lòng, thoả dạ, sướng, sung sướng, sướng dạ, sướng vui, khoái, khoái trá, b) buồn, rầu, sầu, buồn bã, buồn rầu, rầu rĩ, âu sầu, u buồn, u sầu, rầu lòng, sầu não, não nuột, não lòng, bi ai, sầu oán, c) bốc, bốc đồng, hăng, hăng hái, hăng say, sôi nổi, say sưa, nồng nhiệt, hào hứng, phấn khởi, d) chán, ngán, nản, chán ngán, ngán ngẩm, nản lòng, nản trí, ngao ngán, tiêu cực, bi quan, ê chề, e) tức, bực, giận, giận dữ, nóng giận, nổi nóng, cáu, cáu gắt, gắt gỏng, bực mình, bực tức, tức tối, tức giận, tím ruột, g) đau, xót, đau lòng, đau ruột, xót ruột, xót xa, đau đớn, h) khổ, khổ não, khổ đau, khốn khổ, đau khổ, khổ sở, 6. Vẻ mặt biểu hiện của trạng thái tình cảm a) vẻ mặt, sắc diện, sắc mặt, nét mặt, b) tươi, tươi cười, tươi tỉnh, tươi vui, hớn hở, hí hửng, hơn hớn, phởn, phởn phơ, phớn phở, c) ủ rũ, rũ ruợi, ủ ê, u ám, u tối, nhăn nhó, nặng nề, nặng mặt, mặt sưng mày xỉa, 74
  4. 7. Cách đối xử giữa người với người a) đối xử, ăn ở, cư xử, xử sự, xử thế, b) trìu mến, quý mến, mến thương, âu yếm, nâng niu, chăm nom, chăm bẵm, quý trọng, tôn trọng, kính trọng, trọng vọng, trọng thị, c) khinh, khinh bỉ, khinh miệt, miệt thị, bỉ báng, coi thường d) hành, hành hạ, dày vò, chà đạp, dày xéo, đầy ải. Dưới đây là các ví dụ khác, lựa chọn ít nhiều tuỳ tiện, không tập trung như các ví dụ về nội tâm của con người. 8. a) cháy, loé, sáng, rực, loè, bùng, loáng, b) lấp loé, lấp loáng, lập loè, nhấp nháy, c) long lanh, lung linh, lóng lánh, lấp lánh, d) sáng, sáng rực, sáng ngời, sáng chói, sáng loáng, rực rỡ, chói chang, chói ngời, ngời ngời, e) nhen, châm, đốt, nổi lửa, g) thiêu, đốt, 9. a) rung, lay, lắc, đưa, đu, động, b) rung rinh, rung động, động đậy, đu đưa, dao động, rập rờn, bập bềnh, nhấp nhô, 10. a) đông, náo nhiệt, rộn rịp, đông đúc, đông đảo, đông vui, b) vắng, vắng vẻ, hiu quạnh, cô liêu, cô tịch, hoang vắng, quạnh quẽ, quạnh hiu, cô quạnh, quạnh vắng, c) cô đơn, đơn độc, cô liêu, cô quạnh, 11. a) phát triển, bành trướng, lan, lan tràn, sinh trưởng, sinh sôi, nảy nở, b) tàn, cằn, cằn cỗi, héo, héo hon, điêu tàn, suy tàn, suy sụp, tàn tạ, tàn héo, mòn mỏi, Sự phong phú về hiện tượng đồng nghĩa chứng tỏ năng lực 75
  5. vừa khái quát rộng, vừa phân tích sâu của người Việt Nam trong sự chiếm lĩnh thực tế khách quan và trong sự thể nghiệm tâm hồn. Sự khác nhau về ý nghĩa biểu niệm của các từ đồng nghĩa (và cả các ý nghĩa biểu thái) giúp chúng ta phát hiện ra những nét rất tinh tế của các sự vật, hiện tượng bên ngoài và bên trong. Khái quát hoá các từ chỉ tâm trạng, chúng ta có ba nhóm với những từ khái quát: vui buồn sướng khổ hăng chán Các tâm trạng này được đối lập theo hai tiêu chí "tích cực tiêu cực" và sẽ được phân hoá bằng hàng loạt từ đồng nghĩa. Mỗi từ đồng nghĩa nêu bật được một biểu hiện nào đó, một tác động như thế nào đó đối với con người. Vui chỉ tâm trạng tích cực khi thấy sự vật, sự việc bên ngoài diễn ra phù hợp với mong muốn của mình, dù mong muốn đúng đắn hay xấu xa. Cái tâm trạng này còn được gọi tên bằng mát lòng, mát dạ khi những cái xảy ra dường như làm vợi đi những lo âu, phiền muộn, những nỗi niềm làm đau đớn, khi chúng chưa đến, chưa xảy ra, mà người ta phải lo lắng, chuẩn bị cho chúng xảy ra. Chúng ta hởi lòng, hởi dạ khi cái xảy ra chẳng những làm dịu đi những lo âu, phiền muộn mà còn khơi dậy nhiệt tình, lòng ham muốn, trước kia dường như bị dồn ép xuống. Chúng ta hồ hởi khi niềm vui khác khiến cho chúng ta sẵn sàng cởi mở, giúp đỡ, ân cần với người khác. Và chúng ta thoả lòng khi những cái xảy ra phù hợp với những ước mơ tha thiết, trở thành những đòi hỏi có tính máu thịt của chúng ta. Đó là sự phân hoá một tâm trạng. Không có kinh lịch, từng trải và suy ngẫm về lòng mình, lòng người, không có cả một chiều dày của lịch sử nhân văn, làm sao có được cái nhìn như vậy đối với con người ? Chuyển qua một vận động của thế giới bên ngoài. Ngọn lửa hay một nguồn sáng có thể phát sáng theo cách sáng, rực, loé, bùng, 76
  6. hồng, đỏ, loè, loáng. Khi phát sáng, nó có thể đứng yên hay rung động. Để chỉ sự rung động, tiếng Việt lại có hàng loạt từ. Nguồn sáng nháy khi ánh sáng loé ra rồi lại tắt ngay nhiều lần liên tiếp. Nó nhấp nháy khi khoảng cách giữa hai lần loé sáng ngắn hơn, dường như lần sáng trước chưa kịp tắt hẳn thì lần sáng sau đã lại loé lên. Nguồn sáng lấp loé khi nó cùng lúc tắt, lúc sáng nhưng luồng sáng mạnh, sắc, nhanh còn nếu như ánh sáng phát ra chậm hơn, yếu hơn không thành tia màng loang ra thành một diện tích nhỏ thì nó lập loè. Các từ trên đều chỉ cách phát sáng của bản thân nguồn sáng, những ánh sáng nhảy, lấp loé, là những ánh sáng do tự nguồn sáng phát ra. Khi chỉ cách phát sáng của những ánh sáng phản chiếu, chúng ta có các từ lấp lánh, lấp loáng, long lanh, lung linh. ánh sáng lấp lánh khi được phản chiếu từ một mặt phẳng hẹp, lúc hiện ra, lúc mất đi, khuất đi, cho nên nó nhỏ và ngắn. Nó lấp loáng khi được phản chiếu từ một mặt phẳng lớn hơn, thành những luồng sáng lúc mất, lúc hiện ra, quét những góc lớn. Nó lóng lánh, long lanh khi vật phản chiếu có hình cầu. ánh sáng phản chiếu thành tia mạnh , lúc tắt, lúc sáng với cường độ lớn thì nó lóng lánh. Khi vật phản chiếu cũng hình cầu nhưng trong suốt, sáng hẳn lên khi nhận ánh sáng từ ngoài chiếu vào, do đó dường như tự mình phát ra những tia sáng lúc rực lên, lúc yếu đi thì nó được gọi là long lanh. ánh sáng lung linh là ánh sáng hoặc phản chiếu, hoặc được phát ra từ nguồn sáng, nhưng vật phát sáng cũng hình cầu. Nó cũng rung rinh nhưng không thành tia và không phải do vật phản chiếu hay vật phát sáng tự nó rung động mà là do chúng được nhìn qua một môi trường lỏng, trong và rung động đều đều. Chính vì được nhìn qua một môi trường cho nên ánh sáng lung linh bao giờ cũng có vẻ huyền ảo, mơ hồ. Đó là sự phân hoá của một vận động : vận động của ánh sáng. Không có sự dày công chiêm nghiệm, suy ngẫm thực tế, không có cặp mắt của những nghệ sĩ bậc thầy, làm sao có thể "bắt" được những tia "một đi không trở lại" đó của ánh sáng để 77
  7. cố định chúng bằng những từ rất đẹp ? Cùng với rất nhiều những ví dụ khác, những ví dụ vừa phân tích trên đây chứng tỏ rằng hiện tượng đồng nghĩa là bằng chứng rất thuyết phục về cái giàu, cái đẹp và cái trong sáng trong ngôn ngữ Việt Nam. Nó cũng là bằng chứng của cả một dân tộc, một dân tộc có văn hoá, có lịch sử, có một tâm hồn biết yêu và biết ghét rất tế nhị, vô cùng tế nhị trong sự quan sát, thể nghiệm thiên nhiên, xã hội và con người, biết trân trọng kinh nghiệm của các thế hệ cha anh, biết đúc kết chúng thành những từ, những viên ngọc báu trong ngôn ngữ. Ngôn ngữ của các tác phẩm văn học phải thực hiện cùng một lúc hàng loạt chức năng. Nó phải chính xác, gợi hình ảnh, có khả năng bộc lộ tình cảm, tâm trạng của con người. Nhưng lại phải hàm súc. Các từ đồng nghĩa của tiếng Việt là những đơn vị thoả mãn được những đòi hỏi nói trên. Mỗi từ đồng nghĩa là một bức tranh, một mảnh nhỏ của một tác phẩm văn học cô gọn lại trong một từ. Cho nên, các từ đồng nghĩa là những phương tiện quý báu của nghệ thuật văn học, nhất là nghệ thuật thơ ca. ở trên, chủ yếu là các ví dụ và hiện tượng đồng nghĩa đã có từ trước, từ lâu trong tiếng Việt. Hiện nay, các từ đồng nghĩa mới đang tiếp tục xuất hiện. Có thể nói, một trong những quy luật phát triển của từ vựng tiếng Việt là đồng nghĩa hoá các khái niệm, các từ. Dường như một khái niệm mới, một sự kiện mới, một tính chất mới, mới được phát hiện và đi vào tiếng Việt thì nó đều có khả năng làm nảy sinh một số từ đồng nghĩa sắc thái hoá. Ví dụ : lãnh đạo, chỉ đạo, cầm đầu, hướng dẫn, điều khiển, điều hành, quản đốc, quản lí, quản trị, phương hướng, đường lối, cương lĩnh, chính cương, kế hoạch, chương trình, sách lược, phương án, chính, chủ yếu, cốt yếu, trọng yếu, chính yếu, then chốt, mấu chốt, cơ bản, căn bản, thi hành, thực hiện, thực hành, tiến hành, chấp hành, thi 78
  8. công, nhận, thừa nhận, công nhận, chấp nhận, ghi nhận, mặt trận, tiền tuyến, hoả tuyến, tiền phương, tiền duyên, tuyến lửa, căn cứ, hậu cứ, bàn đạp, Hiện tượng đồng nghĩa như thế vừa là biểu hiện tập trung của một loại quan hệ ngữ nghĩa trong từ vựng : quan hệ đồng nghĩa, vừa là một hiện tượng có tính chất xã hội, phản ánh những kết quả nhận thức, chiếm lĩnh thực tế của một dân tộc nào đó. Nó cũng đồng thời vừa là hệ quả, vừa là phương tiện của những yêu cầu của sự diễn đạt, giao tiếp bằng ngôn ngữ. Tất cả các ngôn ngữ đều phong phú về hiện tượng đồng nghĩa. Nhưng hiện tượng đồng nghĩa trong tiếng Việt có những vẻ riêng, nó là một trong những bản sắc giàu, đẹp, trong sáng và cũng là một trong những quy luật chi phối sự phát triển của tiếng Việt. Cần phải tôn trọng, nghĩa là phải có ý thức lựa chọn, sử dụng đúng đắn các từ trong nhóm đồng nghĩa sao cho tốt nhất đối với một nội dung nào đấy của văn bản, và phải rút ra trong các từ đồng nghĩa những bài học lớn về cách quan sát, thể nghiệm tự nhiên và xã hội. Tuy bản chất là tích cực nhưng cũng có khi hiện tượng này bị đẩy lên thái quá, gây cồng kềnh cho ngôn ngữ, làm trở ngại cho tư duy và cho diễn đạt, giao tiếp. Cần biết tránh không tạo thêm những từ đồng nghĩa mà sự đối lập sắc thái quá chi tiết, khó phân biệt, do đó khiến cho chúng gần trở thành những từ đồng nghĩa tuyệt đối. III Hiện tượng đồng nghĩa trong văn bản Trong giao tiếp, người nói hoặc viết có thể dùng những đơn vị ngôn ngữ khác nhau để diễn đạt cùng một sự vật, sự kiện hay một tư tưởng, tạo nên những hiện tượng đồng nghĩa trong văn bản. Những đơn vị đồng nghĩa trong văn bản có thể là từ đồng nghĩa đã sẵn có trong từ vựng, cũng có thể là những đơn vị mới được người nói tạo ra. Mong muốn tạo ra những văn bản đạt những yêu 79
  9. cầu về đặc trưng của ngôn ngữ văn chương, tránh được những cái dở trong việc dùng từ, thể hiện cho thật đúng, chính xác tư tưởng, tình cảm người viết, đó là lí do của việc tạo ra hiện tượng đồng nghĩa trong văn bản. Trong văn bản có thể có những câu đồng nghĩa hay những từ đồng nghĩa. 1. Có những trường hợp câu đồng nghĩa như sau: a) Câu đồng nghĩa khác nhau về cấu trúc và khác nhau cả về từ ngữ. Ví dụ : B.52, F.111 và 10 vạn tấn bom đạn trong 12 ngày cuối tháng chạp vừa qua không lung lay nổi ý chí và quyết tâm chống Mĩ của nhân dân ta. Cuộc tập kích chiến lược tàn bạo nhất trong lịch sử chiến tranh của Mĩ đè bẹp sao nổi khát vọng thống nhất, độc lập của dân tộc ta. b) Câu đồng nghĩa khác nhau về cấu trúc nhưng từ ngữ không thay đổi về cơ bản. Ví dụ : Nhân dân ta đã đánh bại cuộc tập kích chiến lược của Mĩ. Cuộc tập kích chiến lược của Mĩ đã bị nhân dân ta đánh bại. c) Có những biểu thức cú pháp hoặc khác nhau về trật tự từ hoặc chứa một từ trái nghĩa nhưng vẫn đồng nghĩa. Ví dụ : c.1 Tôi cao hơn anh. Anh thấp hơn tôi. c.2 Tôi trước anh. Anh sau tôi. c.3 Tôi gần anh. Anh gần tôi. c.4 Tôi có cuốn sách này. Cuốn sách này thuộc về tôi. c.5 Con cái làm cha mẹ hài lòng. Cha mẹ hài lòng vì con cái., 2. Trong văn bản có thể có những trường hợp đồng nghĩa về 80
  10. từ ngữ như sau: a) Sự vật, sự kiện, tư tưởng, chưa có tên gọi cố định, các văn bản khác nhau tạo ra những đơn vị khác nhau để diễn đạt. Như : Cuộc tập kích chiến lược tháng 12/ 1972 của Mĩ. Nấc thang tột cùng của tội ác, Chiến dịch ném bom khủng bố chưa từng có, Hành động tàn ác nhất và điên rồ nhất, Cuộc tiến công ăn cướp chớp nhoáng, Sự đồi trụy của kĩ thuật, b) Sự vật, sự kiện, tư tưởng, đã có tên gọi cố định, thông thường, nhưng người nói, người viết muốn đối tên gọi để đạt các hiệu quả nghệ thuật: Người viết có thể dùng những từ đồng nghĩa để thay thế các từ cho nhau. Dùng những từ vốn không đồng nghĩa nhưng có nét nghĩa đồng nhất nào đấy phù hợp với ý nghĩa của cả câu thay thế cho nhau. Sự thay thế đó làm nổi lên cái sắc thái tư tưởng, tình cảm mà các tác giả muốn thể hiện. + Máy bay ném vội mấy quả bom rồi bay thẳng. Con quạ sắt trút vội mấy quả bom rồi chuồn thẳng. + Tên đại ca vừa bước ra khỏi nhà thì bị bắt. Tên đại ca vừa mò ra khỏi sào huyệt thì 3. Khi phân tích giá trị nghệ thuật của các từ ngữ, chúng ta cần phát hiện ra ý đồ nghệ thuật mà người viết muốn thể hiện trong biểu thức hay từ ngữ đã được chọn dùng. Tất nhiên, trong một câu văn, câu thơ, chúng ta chỉ gặp có một biểu thức, một từ ngữ. Nhưng, để làm rõ giá trị của từ ngữ đó, người phân tích phải đưa ra những đơn vị đồng nghĩa giả định, so sánh những đơn vị giả định đó với đơn vị mà người viết đã chọn dùng, từ đó tìm ra giá trị của nó. Nếu biết được bản thảo của các tác giả thì chúng ta dễ thấy được giá trị nghệ thuật của đơn vị mà tác giả đã chọn hơn. Ví dụ, Hoài Thanh kể hai câu thơ của Huy Cận : 81
  11. Ngàn năm sực tỉnh lê thê Trên thành son nhạt chiều tê tái sầu. đã được Xuân Diệu chữa thành : Trên thành son nhạt chiều tê cúi đầu bởi vì theo Xuân Diệu nói như vậy kín đáo hơn, lắng đọng hơn. Và hai câu mở đầu của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá trong bản thảo được Huy Cận viết : Mặt trời xuống biển như cục lửa Sóng đẩy then cài, đêm sập cửa. rồi sau mới thành : Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then, đêm sập cửa. Công phu chọn lựa từ ngữ, chọn lựa cách diễn đạt của các tác giả chỉ nhờ sự đối chiếu với các đơn vị đồng nghĩa giả định mới được phát hiện ra. IV Hiện tượng trái nghĩa 1. Trái nghĩa là gì ? Đối lập với hiện tượng đồng nghĩa, trái nghĩa là hiện tượng giữa các từ (hay ngữ cố định) có nghĩa trái ngược nhau. Để xác định được các từ trái nghĩa, cần phải đặt chúng trên một nét nghĩa đồng nhất nào đó. Ví dụ, ta nói bé và to trái nghĩa với nhau vì chúng đều có sự đồng nhất về một nét nghĩa khái quát chung : "xét về kích thước của khối lượng". Có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau : Bé kích thước về khối lượng To Không thể nói, ví dụ, bé trái nghĩa với dài hoặc rộng vì dài là xét về trường độ, còn rộng là xét về diện tích. Bây giờ, nếu lấy từ bé và to làm trung tâm, ta có thể tìm ra hàng loạt từ đồng nghĩa với mỗi từ trung tâm đó. Ví dụ, đồng nghĩa với bé là nhỏ, tí xíu, tí hon, nhỏ nhoi, ; đồng nghĩa với to là lớn, vĩ đại, đồ sộ, to tát, lớn lao, (nên chú ý các từ đồng nghĩa này là khác nhau về sắc thái ý nghĩa). 82
  12. Nếu đối chiếu hai nhóm đồng nghĩa này với nhau, chúng ta có thể nói các từ của nhóm này trái nghĩa với nhóm kia. Vì nét nghĩa đồng nghĩa đồng nhất làm cơ sở là một nét nghĩa trong một trường nghĩa cho nên, có thể nói, hiện tượng trái nghĩa là hiện tượng trong các trường nghĩa. Cũng như các từ đồng nghĩa, phải đặt các từ trong các trường nghĩa biểu niệm thích hợp thì mới xác định được các từ trái nghĩa (cũng như đồng nghĩa) đích thực. Nếu không, chúng ta có các trường hợp giả trái nghĩa (và giả đồng nghĩa) tức là những trường hợp trái nghĩa do ngôn cảnh mà có. Ví dụ, trong ngôn bản, chúng ta có thể gặp hai từ vang dội (chiến thắng vang dội) và bé nhỏ (thắng lợi bé nhỏ) chúng trái ngược theo độ "lớn", "bé" nhưng là giả trái nghĩa vì vang dội là nói về âm thanh, còn bé nhỏ không bắt buộc phải có nét nghĩa này. Cũng tương tự, yếu ớt và khoẻ khoắn là giả trái nghĩa, vì từ thứ nhất là nói về trạng thái đặc tính sinh lí, còn khoẻ khoắn là nói đến cảm giác tự cảm về sinh lực. Vì từ có nhiều nghĩa cho nên hiện tượng trái nghĩa là hiện tượng xảy ra trong quan hệ giữa các nghĩa của một từ nhiều nghĩa, do đó một từ có thể có nhiều từ trái nghĩa với nó mà những từ này có nét nghĩa chung, làm cơ sở khác nhau. Ví dụ : lành trái nghĩa với độc (vị thuốc độc) dữ (điềm dữ) dữ (tính lành, tính dữ) mẻ, vỡ (bát lành, bát vỡ) rách (áo lành, áo rách) chín xanh (quả xanh, quả chín) non (nhọt non, nhọt chín) giả thật (hàng giả, hàng thật) dối (nói thật, nói dối) sâu cạn nông dày thưa mỏng 83
  13. rộng hẹp chật ở trường nghĩa, chúng ta đã nói đến sự quy định lẫn nhau về ngữ nghĩa giữa các từ trong một trường. Quan hệ đồng nghĩa và trái nghĩa là biểu hiện rõ rệt nhất của sự quy định lẫn nhau này. Nắm được nhiều từ đồng nghĩa và trái nghĩa với từ đang xem xét, nhanh chóng nghĩ tới các từ đồng nghĩa và trái nghĩa với một từ mà chúng ta gặp trong ngôn bản, đặc biệt là trong các tác phẩm chứng tỏ sự phong phú, độ nhạy bén và tinh tế của chúng ta về từ ngữ. Đối chiếu từ đang xem xét đối với từ đồng nghĩa và trái nghĩa của nó là điều kiện không thể thiếu khi giảng nghĩa và phân tích giá trị nghệ thuật của các từ trong ngôn ngữ văn chương. V Hiện tượng đồng âm Đồng âm là hiện tượng xảy ra khi hai từ khác nhau hoàn toàn về ý nghĩa nhưng vỏ âm thanh của chúng hoàn toàn giống nhau (đây là nói vỏ ngữ âm chuẩn, không nói đến những cách phát âm địa phương). Dưới đây là một số ví dụ về hiện tượng đồng âm: la (nốt nhạc) là (ủi) (quần áo) la (bay la) là (từ nối) la (con la) là (khăn là) la (hét, mắng) là (chim là xuống mặt đất) bà mụ (nữ hộ sinh) bà mụ (loại côn trùng) bàn tính (bàn bạc, tính bàn tính (dụng cụ để tính) toán) nữ công (công nhân, nữ công (công việc trong gia đình viên chức nữ ) của người phụ nữ) nội thương (những thương nội thương (thương mại trong tổn bên trong người) nước) Đồng âm là hiện tượng tất yếu của các ngôn ngữ vì số lượng các đơn vị ngữ âm là có hạn trong khi số lượng các sự vật cần 84
  14. biểu thị thì nhiều vô cùng. Hiện tượng đồng âm không gây trở ngại cho việc hiểu các ngôn bản. Nó được văn học lợi dụng làm một phương tiện tu từ rất có hiệu lực (xem lại đoạn trích thơ Tú Mỡ). Câu hỏi hướng dẫn học tập chương IV 1. Hiện tượng đồng nghĩa là gì ? Hãy dẫn một số ví dụ về từ đồng nghĩa .Vì sao muốn xác định các từ đồng nghĩa lại phải đặt chúng trong các trường nghĩa ? 2. Hãy nêu một số đặc điểm của các từ đồng nghĩa trong tiếng Việt. 3. Thế nào là hiện tượng trái nghĩa ? Vì sao lại nói muốn xác định được các từ trái nghĩa cũng phải đặt chúng trong các trường nghĩa ? 4. Những hiểu biết về hiện tượng đồng nghĩa và trái nghĩa giúp chúng ta phân tích giá trị thẩm mĩ của các từ ngữ trong tác phẩm văn học như thế nào ? 85
  15. Chương V Các lớp từ vựng Chương này dành cho việc phân loại các từ trong từ vựng không theo tiêu chí phạm vi hay cộng đồng xã hội sử dụng ngôn ngữ. I - Thuật ngữ khoa học và từ vựng nghề nghiệp 1. Thuật ngữ khoa học, kĩ thuật Thuật ngữ khoa học, kĩ thuật là những từ ngữ được dùng để biểu thị những sự vật, hiện tượng, hoạt động, đặc điểm, trong những ngành khoa học tự nhiên, nhân văn và xã hội. Về ngữ nghĩa, ý nghĩa biểu vật của thuật ngữ trùng hoàn toàn với các sự vật có thực và ý nghĩa biểu niệm của chúng đồng nhất với các khái niệm về các sự vật đó trong ngành khoa học và kĩ thuật tương ứng. Về hình thức, thuật ngữ vẫn tuân theo các phương thức cấu tạo của tiếng Việt, tuy nhiên phương thức láy được dùng rất hạn chế. Về từ tố, thuật ngữ khoa học, do yêu cầu diễn đạt sự vật và khái niệm thật chính xác cho nên có thể mượn rộng rãi các yếu tố nước ngoài và có thể dùng các từ tố tiếng Việt với nghĩa khác với nghĩa thông thường của chúng (như nghĩa của từ tố lão trong từ lão hoá, ôm cơ, hàm chân trị, điểm uốn, ) Thuật ngữ có tính chính xác, một nghĩa đối với một ngành khoa học, không có sắc thái biểu cảm. Chúng có tính quốc tế chủ yếu về ý nghĩa bởi vì ý nghĩa của chúng là các khái niệm khoa học, mà khái niệm khoa học là chung cho toàn thế giới (không kể những ngành khoa học riêng trong mỗi dân tộc). Chúng cũng có tính hệ thống cả về ý nghĩa, cả về hình thức bởi vì tri thức khoa học là có hệ thống. Tính hệ thống của thuật ngữ là do tính hệ thống của từng ngành khoa học quyết định. Dưới đây là một số ví dụ : Thuật ngữ kĩ thuật luyện kim đen : lò nung buồng lửa khuôn tơi van gió 86
  16. lò chõ buồng sinh khí khuôn khô van phễu thép gió quặng thiêu kết liệu chịu lửa phôi dao cắt thép hợp kim quặng phản liệu sống phôi bánh hồi răng Thuật ngữ ngành sinh học : giới tế bào di truyền tính trội ngành mô đột biến tính lặn lớp chất nguyên sinh biến dị tập tính hệ thể nhiễm sắc phân bào kháng thể họ thể tơ tập nhiễm kháng nguyên giống gien miễn dịch bổ thể loài nhân kháng bệnh mật mã di truyền 2. Từ vựng nghề nghiệp Từ vựng nghề nghiệp bao gồm những đơn vị từ vựng được dùng trong các hoạt động và sản xuất của các ngành tiểu thủ công nghiệp và các ngành văn hoá có tính dân tộc, truyền thống. Về ngữ nghĩa, từ vựng nghề nghiệp cũng giống như các thuật ngữ khoa học kĩ thuật, nghĩa là nghĩa biểu vật trùng với sự vật và nghĩa biểu niệm trùng với khái niệm. Có thể nói, từ vựng nghề nghiệp là một thứ thuật ngữ kĩ thuật dân dã. Cũng vì có tính dân dã nên chúng không có tính hệ thống cao, không thật chính xác và ít nhiều mỗi từ có tính biểu cảm nhất định, chúng thường gợi ra một cái gì đấy thân quen, đôi khi cổ kính và gợi ra cả những hình ảnh về một cuộc sống lam lũ nhưng đầy tài hoa với những nghi lễ của các phường hội xa xưa. Chúng không có tính quốc tế, thậm chí tính thống nhất trong một quốc gia cũng rất mờ nhạt. Có thể cùng một ngành nghề nhưng từng địa phương một vẫn có những từ nghề nghiệp riêng. Dưới đây là một số ví dụ về từ vựng nghề nghiệp ở phương ngữ phía Bắc : Nghề gốm : gốm, sành, sứ, xương gốm, men ngọc, gốm hoa nâu, gốm hoa 87
  17. lam, bàn xoay, náu (trục gỗ ở bàn xoay), bao thơi, hòn kê, luyện (đất) vỗ, chải, rạch, dập, in, dồi, nạo, vần ve, xeo, sửa, Nghề đúc đồng : khuôn, đậu rót, đậu ngót, đậu hơi, lư, đỉnh, đế, đèn, Nghề mộc (làm nhà) thước tầm, rui mực, khoảng ngang, khoảng giữa, khoảng chảy, gáy , rui, mè, cột cái, cột con, thượng lương, đấu, réo, thượng thu hạ thách, thức , (kiến trúc) II Biệt ngữ 1. Biệt ngữ là gì ? Biệt ngữ (còn gọi là các tiếng xã hội) bao gồm các đơn vị từ vựng được dùng trong một tập thể xã hội. Có những biệt ngữ của các giai cấp thống trị trong xã hội cũ, các giới xã hội như công chức, học sinh, những người buôn bán, những người lái xe, quân đội, Cũng có những biệt ngữ của những người thường xuyên tham dự một trò chơi, một môn thể dục thể thao nào đó. Giữa biệt ngữ và từ vựng nghề nghiệp có sự nhập nhằng. Chúng ta tạm thời quy định như sau : biệt ngữ là những đơn vị từ vựng không thuộc về các sự vật, hành động, đặc điểm vốn là những bộ phận hợp thành của một nghề nghiệp, một môn thể dục thể thao, nhất định. Những từ biểu thị các sự vật, hoạt động này là các từ nghề nghiệp hay thuật ngữ. Biệt ngữ chỉ là những đơn vị từ vựng "chồng" lên những đơn vị từ vựng mà ngôn ngữ toàn dân đã có, góp phần tạo nên cái vẻ riêng của những người tham gia vào ngành nghề hay trò chơi đó. Nói rõ hơn, những người ngoài tập thể xã hội có biệt ngữ, trước một sự vật, sự việc xảy ra trong hoạt động của tập thể, thường dùng một từ ngữ toàn dân để biểu thị, còn những người trong tập thể sẽ dùng một từ biệt ngữ riêng. 88
  18. Do đó biệt ngữ thường có vẻ "lạ tai" đối với người ngoài. Ví dụ, trong môn bóng đá, các từ hiệp một, hiệp hai, trọng tài, hậu vệ thòng, thua là những thuật ngữ. Trái lại đốn ngã, bị thủng lưới, vào lưới nhặt bóng, là những biệt ngữ. Cũng như vậy, trong ngành tư pháp, các từ trại giam, nhà lao, nhà tù thuộc thuật ngữ nhưng nhà đá, bóc lịch là biệt ngữ. Chúng ta tách riêng các biệt ngữ tôn giáo, các biệt ngữ triều đình phong kiến thành một nhóm riêng vì tính chất trang trọng nghiêm chỉnh của chúng. Các biệt ngữ khác được gọi chung là tiếng lóng. 2. Tiếng lóng Tiếng lóng bao gồm các từ ngữ mà các tập thể xã hội sáng tạo ra chúng muốn qua chúng mà "nói riêng" với nhau hoặc bộc lộ cái vẻ riêng của tập thể mình, để đùa vui với nhau hoặc để giữ những bí mật của tập thể mình, không cho những người ngoài tập thể biết. Dưới đây là ví dụ : Tiếng lóng của học sinh sinh viên thời thuộc Pháp : công tử bột, tiểu thư vôi, úm, cừ, hộp, kền, kẻng, gộc ca chìa (grossier, nay nói tắt thành gộc), Hiện nay trong giới học sinh, sinh viên có các tiếng lóng : gậy (một điểm), ngỗng (điểm hai), trứng (điểm không), mồ côi vợ (chưa có vợ), tặc tè (keo kiệt), ghi đông xe đạp (điểm ba), cưa (tán gái), Tiếng lóng của hạng lưu manh thời thuộc Pháp : báy (sờ túi), giấng (túi bạc), so (sợ), cớm (mật thám, công an), cá chìm (công an mật), trách chợp (một chục đồng), bỉ (con đĩ), vỏ (người ăn cắp), Tiếng lóng của hàng cá : dàng (cá), dàng bế (cá trắm), dàng dình (cá rô), dàng chích (cá trôi), dàng lí (cá chép), tưởi (tôm), hàng ộp (ếch), guộc (gầy), nách (nhỏ), bo (xấu, thối), heo (tươi), vỏ (ươn), nhất, chách (một), lái (hai), thâm (ba), chớ (bốn), kẹo (năm), mục (sáu), hắp (bảy), bẹt (tám), khươm (chín), nạp (mười), 89
  19. Tiếng lóng của lái trâu lái lợn : sáng cọn (con), sáng nại (nái), sáng bẹ (bé), sáng nại (lãi), sáng nộ (lỗ), sáng bộn (lợn bột), sáng tộn (tốt), sáng chận (lợn chết), sáng nạng (lợn lang) chách (một), lái, bảo (hai), thâm, thậm lòi (ba), chớ (bốn), kẹo (năm), mục (sáu), hắp (bảy), bết (tám), khươm, khươm lòi (chín), lạp, nạp (mười), đại ngưu (trâu lớn), hoang leo (bò đực), tẫn (trâu cái), tẫn leo (bò cái), tiểu leo (bò con), Giới buôn bán hiện nay có các tiếng lóng : phe (buôn bán), bắt (gặp, lấy), đẩy (bán đi), ngã (bằng lòng), dính (mua), hát (đặt giá), mở bài (nói giá), hét (đòi giá), thơm (khá, tốt, hời), luộc (lừa cho người khác bị thiệt hại lớn một cách dễ dàng), ế vở (nhỡ), trúng quả (được món hàng có lời lớn), Dưới đây là một số tiếng lóng được dùng khá phổ biến : tẩn (đánh), đốn (giết, hạ được đối phương), chọi (chống đỡ), lao (tham gia vào vụ làm ăn), biến (phải bị thủ tiêu để xoá dấu vết), ngồi (ngồi tù), vết (có tiền án, tiền sự), III Từ vựng địa phương 1. Sơ lược về tiếng địa phương ở Việt Nam Đối với tiếng Việt, tiếng địa phương là những biến thể địa lí của nó. Trong lòng mỗi địa phương lại có những thổ ngữ tức là những biến thể của tiếng địa phương ở những khu vực địa lí hẹp hơn như ở một tỉnh, một huyện, thậm chí một làng. Các tiếng địa phương Việt Nam khác nhau chủ yếu về ngữ âm và về từ vựng. Những sai dị về ngữ pháp cũng có, nhưng không đáng kể. Nên phân biệt những sai dị ngữ âm có tính chất đều đặn và những sai dị đồng loạt xảy ra đối với một âm vị nào đấy trong toàn địa phương. Ví dụ : sự phát âm phụ âm / tr/ và / ch/ nhất loạt thành / ch/ ở tiếng địa phương Bắc Bộ là sự sai dị đều đặn so với sự phát âm 90
  20. phân biệt / tr/ và / ch/ ở tiếng địa phương Bắc Trung Bộ. Sự sai dị không đều đặn là sự sai dị ở một âm vị nào đó nhưng không đồng loạt đối với toàn địa phương. Ví dụ : sự lẫn lộn / l/ và / n/ ở một số tỉnh Bắc Bộ. Nếu so với hệ thống ngữ âm được miêu tả trong các công trình nghiên cứu về tiếng Việt và được sử dụng làm căn cứ cho các chữ cái quốc ngữ thì không một tiếng địa phương nào thậm chí không có một tỉnh, một làng nào phát âm đúng hoàn toàn cả. Có thể nói, hệ thống ngữ âm làm căn cứ cho hệ thống chữ viết (mà nhiều tác giả vẫn xem là hệ thống ngữ âm chuẩn, hệ thống ngữ âm của tiếng Việt văn hoá) là sự tập hợp những âm tố có giá trị khu biệt nghĩa ở tất cả các tiếng địa phương chứ không phải là một hệ thống sẵn có lấy thẳng từ một tiếng địa phương nào. So với hệ thống này thì cách phát âm của từng địa phương chỉ phù hợp với chuẩn từng mặt một. Không có một hệ thống địa phương nào hợp chuẩn toàn bộ. Và mỗi người dân trong từng địa phương đều ý thức được những chỗ không hợp chuẩn đó và đều có những cố gắng để điều chỉnh cách phát âm của mình (1) cho hợp chuẩn. Đáng chú ý là, ở các tiếng địa phương có những sai dị ngữ âm không đều đặn, nhưng những sai dị này lại lặp lại sự sai dị đều đặn hay không đều đặn ở các địa phương khác. Ví dụ : ở đồng bằng Bắc Bộ, sự nhập làm một phụ âm đầu / nh/ và / d/ (những và dững, nhuộm và duộm, nhô và giô, ) lặp lại sự sai dị đều đặn từ Huế trở vào ; sự lẫn lộn về thanh điệu của thổ ngữ vùng Sơn Tây cũ lặp lại sự sai dị đều đặn về thanh điệu của tiếng địa phương Bắc Trung Bộ, 2. Từ vựng địa phương a) Thuộc phạm vi từ vựng địa phương những trường hợp như sau: a.1. Những đơn vị từ vựng chỉ những hiện tượng, những sự (1) Trước hết là để viết cho đúng chính tả, phù hợp với hệ thống ngữ âm chuẩn. 91
  21. vật, trong đời sống bình thường. Trước đây, do tình trạng đất nước bị tạm thời chia cắt, ở những lĩnh vực hoạt động trên của xã hội miền Nam cũ có những từ như điều hành, thực thi, chiến hữu, những từ này không phải là những từ địa phương thực sự. a.2. Những đơn vị từ vựng địa phương là những đơn vị từ vựng có ý nghĩa khác nhau nhiều hay ít kèm theo sự khác nhau về ngữ âm nhiều hay ít nhưng không nằm trong những sai dị ngữ âm đều đặn hay không đều đặn đã nói trên. Ví dụ : từ vườn ở Nam Bộ ngoài ý nghĩa "vườn" còn có ý nghĩa "nông thôn", "vùng thôn quê" (dân miệt vườn), đó là một hiện tượng từ vựng địa phương. Nhưng trường hợp nhà được phát âm thành dà, đánh được phát âm thành oánh lại không phải là hiện tượng từ vựng địa phương vì ý nghĩa của chúng không thay đổi. Dĩ nhiên, trường hợp ý nghĩa hoàn toàn giống nhau, nhưng hình thức ngữ âm khác hẳn nhau như heo (lợn), thơm (dứa) là những từ địa phương thực sự. b) Nghiên cứu từ vựng địa phương, trước hết phải chú ý đến những sai dị về cấu tạo từ. Về phương thức cấu tạo, các tiếng địa phương đều dùng những phương thức khác nhau. Các kiểu nhỏ trong từng phương thức vẫn là một. Chỉ trong khu vực từ láy, ở vùng Bình Trị Thiên có các từ láy ba như tay lày lay, toe loè loe, tênh lềnh lênh, tiến lền liện hoặc các từ láy tư trầm trầy trầm trật, toà loe toà loa, ba láp ba lúa, thò le thóc lá (1), không gặp ở tiếng địa phương Bắc Bộ. Các tiếng địa phương cũng dùng những từ tố có đặc trưng tổng quát giống nhau. Các từ tố cụ thể về đại thể cũng là một. Tuy nhiên cũng có những từ phức ở tiếng địa phương này thì dùng từ tố này, ở tiếng địa phương khác thì dùng từ tố khác. Đáng chú ý là những từ phức ở các tiếng địa phương có ý nghĩa đồng nhất nhưng từ tố thì khác, song những từ tố khác đó (1 ) Luận văn tốt nghiệp sau đại học khóa II khoa Ngữ văn ĐHSP Hà Nội I của Trương Thu Hương. 92
  22. lại là những từ đồng nghĩa trong ngôn ngữ chung. Như hàng xóm và lối xóm (hàng và lối là hai từ tố đồng nghĩa) ; áo hoa và áo bông ở Nam Bộ cũng vậy. Có khá nhiều từ tố được từ hoá trong tiếng địa phương này nhưng chỉ là từ tố cấu tạo trong tiếng địa phương kia. Như trường hợp từ háy ở Nam Trung Bộ dùng độc lập như từ liếc, nguýt, ở tiếng Bắc Bộ chỉ là từ tố cơ sở trong từ láy hấp háy. Từ chang với nghĩa là "to, lớn" ở Bắc Bộ chỉ nằm trong từ láy : chang chang Từ trái với nghĩa "quả" ở Nam Bộ không phổ biến ở Bắc Bộ nhưng lại có trong từ ghép hợp nghĩa bánh trái, c) Có các từ địa phương như nhau : c.1. Những từ địa phương chỉ những đặc sản của địa phương do đó không có từ tương đương ở các tiếng địa phương khác. Như sầu riêng, mù u, bánh xu xê, Cũng thuộc loại này, những từ ghép phân nghĩa riêng của từng địa phương tương ứng với các chủng loại phong phú ở địa phương của những sự vật, hiện tượng chung, như xoài, xoài tượng, xoài thanh ca, xoài mật, c.2. Rất đáng chú ý là từ địa phương cũng không có từ tương đương trong các tiếng địa phương khác nhưng chúng không chỉ những đặc sản mà chỉ những sự vật, hiện tượng khắp nơi đều biết, đều ý thức được. Để chỉ những sự vật, hiện tượng đó, những tiếng địa phương không có từ phải dùng các cụm từ hay câu. Như : sạ = "gieo thẳng ở các ruộng nước" ; ém = "giấu kín bằng cách ấn, vùi xuống bùn, xuống cát cho khuất" ; rộng = "thả cá trong vại để giữ cho sống" ; hờm = "cầm súng ở thế sẵn sàng bắn" ; nhà trệt = "nhà một tầng", tầng trệt = "tầng dưới cùng trong một nhà nhiều tầng", c.3. Các từ địa phương có ý nghĩa hoàn toàn giống nhau nhưng hình thức ngữ âm hoàn toàn khác nhau : heo (lợn), mè (vừng), sương (Thừa Thiên : gánh), bông điệp (hoa phượng), vịm (liễn), khạp (vại), chộ (Nghệ Tĩnh : thấy), ngái (Nghệ Tĩnh : xa). c.4. Các từ ngữ địa phương có hình thức giống nhau nhưng ý 93
  23. nghĩa hoàn toàn khác nhau : mận (Nam Bộ : quả roi), đào (Thừa Thiên : quả roi), nón (mũ), té (ngã), bọc (Thừa Thiên, Nghệ Tĩnh : cái túi áo). c.5. Các từ địa phương có hình thức ngữ âm giống nhau (hay khác nhau do sự sai dị về ngữ âm), ý nghĩa có bộ phận giống nhau, có bộ phận khác nhau. Như từ ngon Nam Bộ vừa có ý nghĩa là "ngon" vừa có nghĩa là "tốt, tiện lợi, không gặp vấp váp, không hay hỏng hóc". Các ví dụ khác là phóng (chạy lao ra), kiếm (tìm), ham, khoái (thích), ghé (ưa thích, hợp), tính (định), liệng (ném, vứt bỏ), Có thể xem đây là một từ được phân hoá thành hai từ đồng nghĩa khác nhau về sắc thái ở những tiếng địa phương khác nhau. g) Các từ địa phương có hình thức ngữ âm khác nhau nhưng nghĩa có bộ phận giống nhau, có bộ phận khác nhau. Như từ om có nghĩa như từ vỗ béo Bắc Bộ nhưng khác với từ sau ở chỗ nó có thể dùng cho người như trong các câu : "Thằng nớ được ông già om kĩ lắm.", "Hắn om thế nớ biểu răng o nớ không xiêu."(1). Trên đây là những loại từ địa phương chính do đối chiếu từng từ một riêng rẽ mà thấy. Sự thực, nếu vận dụng những hiểu biết về từ vựng ngữ nghĩa học một cách toàn diện, có hệ thống thì phải đối chiếu các từ trong các trường nghĩa với nhau, phải nghiên cứu cả những hiện tượng ngữ nghĩa khác như nhiều nghĩa, đồng nghĩa, trái nghĩa, trong các tiếng địa phương. 3. Từ vựng toàn dân và sự chuẩn hoá tiếng Việt Nếu so sánh các từ trong các trường nghĩa với nhau thì sẽ thấy, những sai dị về từ vựng ngữ nghĩa giữa các tiếng địa phương không lớn lắm. Đại bộ phận các từ chỉ những sự kiện, sự vật cơ bản phổ biến là những từ thống nhất đối với cả nước. Ngoài ra còn có sự chuyên dùng ở địa phương một hay một số từ nào đó trong một nhóm đồng nghĩa chung cho cả tiếng Việt (như hai từ hoa và bông vốn là đồng nghĩa ; ở Bắc Bộ cả hai từ đều (1) Luận văn nói trên. 94
  24. được dùng, còn ở Nam Bộ thì chuyên dùng từ bông). Những từ thống nhất và những từ đồng nghĩa được chuyên dùng như trên họp thành từ vựng toàn dân của tiếng Việt. Ngoài ra, trong từ vựng toàn dân còn có những từ mà chủ yếu là những từ thuộc tiếng địa phương Bắc Bộ (như lợn, vừng, sắn, ) được sử dụng trong nhiều địa bàn hơn và do đó được tất cả mọi người Việt Nam hiểu. Khá nhiều từ của địa phương này được dùng trong tiếng địa phương kia, mặc dầu chúng không thuộc từ vựng toàn dân. Trong tiếng địa phương Nam Bộ có các từ của tiếng địa phương Bắc Trung Bộ như mần (làm), chụm (nhóm bếp), con trùn (con giun). Lẻ tẻ trong từ địa phương Nam Bộ còn giữ dạng ngữ âm cổ của vùng Thanh Hoá như chun ( chui), Đồng thời, có những từ cổ trước kia phổ biến ở Bắc Bộ, nay không dùng nữa, nhưng vẫn phổ biến ở tiếng địa phương Nam Bộ như đặng (để, được), nhái (bắt trước, phỏng theo). Rất lí thú là các từ như đâu, sao, thế nào, vậy, kia, đặc trưng cho tiếng địa phương Bắc Bộ được thay thế ở tiếng địa phương Bắc Trung Bộ bởi các từ cổ hơn : mô, răng, rứa, tê, thì lại xuất hiện lại trong tiếng địa phương Nam Bộ, từ Nam Bình Định cũ trở vào. Những sự kiện ngữ âm từ vựng trên chứng tỏ tiếng Việt là một tiếng thống nhất, thống nhất từ trong hàng nghìn năm lịch sử. Chính sự thống nhất này là cơ sở cho ý thức và tình cảm của toàn thể nhân dân Việt Nam đối với việc giữ gìn và phát huy tính thống nhất của tiếng nói dân tộc. Do ý thức và tình cảm đó, hầu như mỗi người dân Việt Nam ở Bắc,Trung, Nam đều hết sức chú ý học tập và sử dụng những yếu tố tích cực về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp của các tiếng địa phương. Sự thâm nhập vào nhau là điều thường thấy. Hiện nay, không ít những từ của tiếng địa phương Nam Bộ đã trở nên quen thuộc ở thủ đô : bánh mì, rệu rã, ém quân, sạ lúa, Tất nhiên, do 95
  25. vị trí trung tâm chính trị, văn hoá, do địa vị từ lịch sử xa xưa và địa vị căn cứ địa của cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước vừa qua, các yếu tố của tiếng địa phương Bắc Bộ, đặc biệt là của Hà Nội đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến các tiếng địa phương khác. Tuy nhiên điều này không hề thay đổi về cơ bản xu hướng tích cực nói trên. Nhưng, vì những sai dị địa phương là có thật, cho nên cần phải bảo đảm hơn nữa tính thống nhất của tiếng Việt, tức cũng là tính chuẩn mực của nó, một cách có ý thức, có chỉ đạo hơn, ít nhất là trong những văn kiện chính thức, chung cho cả nước. Về ngữ âm, ở đài phát thanh và trong nhà trường, cần chú ý phát âm đúng hệ thống ngữ âm chuẩn. Các trường sư phạm nên huấn luyện riêng cho các thầy giáo, cô giáo về sự phát âm này. Trong các văn kiện chính thức, trên báo chí, trong nhà trường nên dùng những từ thuộc từ vựng toàn dân. Trong các tác phẩm văn học, nên hạn chế việc dùng các từ địa phương. Chỉ nên dùng chúng khi cần thiết "tái hiện" tính địa phương của câu chuyện, của nhân vật, Nên khai thác triệt để những yếu tố tích cực về từ và về nghĩa của các tiếng địa phương. Điều này chỉ có lợi cho tiếng nói dân tộc. Đặc biệt nên chú ý đến từ thuộc loại c.2. 96
  26. Câu hỏi hướng dẫn học tập chương V 1. Thuật ngữ khoa học kĩ thuật là gì ? Các đặc điểm của thuật ngữ là gì ? Hãy nêu các thuật ngữ về các ngành toán, vật lí, sinh học, hoá học, văn học, giáo dục mà anh (chị) biết . 2. Từ nghề nghiệp khác với thuật ngữ khoa học như thế nào ? Hãy nêu những từ nghề nghiệp về các ngành nghề thủ công của địa phương anh (chị). 3. Hãy nêu một số biệt ngữ tôn giáo mà anh (chị) biết. 4. Hãy nêu các từ địa phương và các từ thổ ngữ ở địa phương của anh (chị )và đối chiếu chúng với từ ngữ toàn dân. 5. Nên sử dụng từ địa phương như thế nào trong văn bản, trong nhà trường ? 97
  27. Chương VI Hệ thống Hán Việt và các từ vay mượn I Hệ thống Hán Việt 1. Thoạt đầu, trên địa bàn của nước Văn Lang cổ đại có một ngôn ngữ bản địa. Từ vựng của ngôn ngữ này có nhiều đặc tính chung với từ vựng của nhiều ngôn ngữ Đông Nam á lân cận như tiếng Thái, tiếng Môn Khmer, Đó là vốn từ vựng thuần Việt cho đến nay vẫn còn được sử dụng. Tiếp đó, do cuộc xâm lược của các triều đại phong kiến Trung Quốc kéo dài hàng nghìn năm, một khối lượng lớn các từ Hán du nhập vào, được dân tộc Việt Nam tiếp thu, làm phong phú thêm nhưng không làm mất đi bản sắc ngôn ngữ của mình. Có thể chia quá trình thâm nhập của tiếng Hán thành hai thời kì : thời kì trước và thời kì sau cuộc đô hộ của triều đại Đường. Các từ Hán thâm nhập vào tiếng Việt vào thời kì trước được phát âm theo hệ thống ngữ âm Hán cổ khác với hệ thống ngữ âm Hán Việt thâm nhập vào thời kì sau. Chúng đã hoà lẫn vào các từ thuần Việt, chỉ có sự nghiên cứu ngữ âm lịch sử mới nhận ra được. Đó là các từ như : cải (rau cải), cả (giá cả), ngà, hẹn, chén, chém, hẹp, lừa (con lừa), chúa, vua, đục (nước đục), đủ, đũa, buồng, buồm, bụa (goá bụa), Những từ Hán thâm nhập vào tiếng Việt từ cuộc đô hộ của nhà Đường thì được phát âm căn bản như âm Hán Việt hiện nay. Trong lúc ở chính Trung Quốc, diện mạo ngữ âm đã thay đổi thì ở Việt Nam hệ thống Hán Việt vẫn giữ cách phát âm của thời kì đó. Trong số những từ Hán Việt vào từ đời Đường, một số không ít đã bị Việt hoá về ngữ âm và cả về ngữ nghĩa. Đó là các từ như : 98
  28. Âm Việt Âm Hán Âm Việt Âm Hán gương kính vạch hoạch gan can vốn bốn gang cang ván bản ghi kí sức lực vạ họa dừng đình gường sàng buồng phòng dao đao giấy chỉ sen liên giêng chinh Nói các từ Hán đã Việt hoá có nghĩa là nó đã mang những đặc điểm ngữ pháp như đặc điểm ngữ pháp của các từ gốc Việt cùng loại và đã biến đổi về ngữ nghĩa theo hệ thống ngữ nghĩa của tiếng Việt. Các từ Hán thâm nhập vào tiếng Việt thời kì thứ hai được Việt hoá thì hoặc có biến đổi ngữ âm theo quy luật hoặc được giữ nguyên dạng ngữ âm Hán (như phòng, kiếm, bàn, ). Cũng như các từ Hán cổ thời kì đầu, những từ này đã hoà với vốn từ thuần Việt, không còn dáng dấp ngoại lai nữa. Đáng chú ý là có các từ gốc Hán, Việt hoá thời kì đầu hay thời kì thứ hai, trở thành những từ đồng nghĩa khác nhau về sắc thái với chính mình. Như buồng và phòng (buồng và phòng là một từ Hán nhưng buồng là âm Hán cổ, thâm nhập vào thời kì đầu, phòng là âm Hán thời kì thứ hai), kính và gương (kính là âm Hán thời Đường, gương là âm Việt hoá của nó). Ngoài những từ thâm nhập thời kì thứ hai đã Việt hoá, đại bộ phận những yếu tố Hán còn lại vẫn giữ cách phát âm cũ, vẫn giữ ý nghĩa cũ (tuy đã bị thu hẹp trong tiếng Việt), chưa được Việt hoá, còn mang đậm màu sắc ngoại lai. Những yếu tố này mới thực sự là những yếu tố Hán Việt. Như vậy, được xem là thuộc hệ thống Hán Việt những yếu tố gốc Hán thâm nhập thời kì thứ hai chưa được Việt hoá. 99
  29. Chính vì chưa được Việt hoá cho nên chúng chưa được định hình về từ loại, chưa mang những đặc điểm ngữ pháp (đặc điểm tạo câu) như các từ Việt, do đó ý nghĩa của chúng chưa định hình, còn rất khái quát. Nói cách khác, chúng chỉ là những từ tố để tạo từ trong tiếng Việt. Đó là những yếu tố như : ái (yêu), ám (không lộ rõ), ấu (trẻ nhỏ), bản (vốn, gốc), bán (nửa), bảo (giữ gìn), bảo (quý giá), dị (khác), di (dời đi), hoả (lửa), sơn (núi), thuỷ (nước), Trong những yếu tố Hán Việt thực sự này, đáng chú ý có những yếu tố vừa bị Việt hoá thành từ tiếng Việt (như ám, chính, ) vừa chưa bị Việt hoá vẫn mang tư cách là từ tố cấu tạo từ. Khi chúng là từ tố, chúng giữ nguyên cái ý nghĩa Hán Việt (như nghĩa "không lộ rõ" của từ ám, như nghĩa "phải, thẳng ngay, thuộc việc của quốc gia" của yếu tố chính). Thậm chí có nghĩa Việt hoá khác hẳn với nghĩa Hán Việt gốc (như nghĩa "bám lấy mà quấy nhiễu" của ám). Với các yếu tố Hán Việt kiểu như trên, tiếng Việt tạo ra các từ phức bằng cách ghép với những từ tố thuần Việt (hay những từ tố đã Việt hoá) hoặc với những yếu tố Hán Việt khác. Những từ phức thứ hai là những từ phức Hán Việt thực sự trong tiếng Việt, do tiếng Việt tạo ra. Đó là các từ như : y sĩ, thể công, phi công, ám ảnh, an trí, tiểu đoàn, đại đội, trung đội đại tá, thiếu tá, Các yếu tố Hán Việt là một kho dự trữ lớn để tiếng Việt lựa chọn những "nguyên liệu" cần thiết đi vào vận động cấu tạo từ, tạo ra những từ mới đáp ứng kịp thời những đòi hỏi mới của xã hội. Tất cả các chữ Hán hiện nay đều có thể được phát âm theo lối Hán Việt. Nhưng không phải tất cả các chữ đó đều thuộc kho Hán Việt dự trữ của tiếng Việt. Cần học tập thật chính xác các ý nghĩa và khả năng cấu tạo từ của các đơn vị này để hiểu và sử dụng từ một cách đúng đắn. II Từ vay mượn 1. Do sự tiếp xúc giữa các quốc gia và do nhu cầu của từng 100
  30. ngôn ngữ một, trên thế giới không một ngôn ngữ nào không vay mượn những đơn vị từ vựng từ một ngôn ngữ khác. Trong tiếng Việt, các đơn vị từ vựng vay mượn phần lớn là các từ. Ngoài ra có một số ngữ nhất định và quán ngữ có nguồn gốc nước ngoài. Không phải bất cứ sự thâm nhập từ nước ngoài nào vào ngôn ngữ cũng là từ vay mượn. Những từ vay mượn phải được cải tạo lại để có hình thức ngữ âm, đặc điểm ngữ pháp phù hợp với hệ thống ngữ âm và ngữ pháp của ngôn ngữ "đi vay". Sự biến đổi ngữ nghĩa của các từ vay mượn cũng là điều thường thấy. Ví dụ, từ tét trong biệt ngữ của những người ưa thích môn bóng đá vốn là danh từ tête với nghĩa "cái đầu" của tiếng Pháp. Vào tiếng Việt, nó đã được phát âm theo kiểu Việt Nam và có ý nghĩa của động từ (đánh đầu, đỡ bóng, chuyền bóng bằng đầu). Hoặc như từ tử tế. Đây là một từ phức Hán với nghĩa "tỉ mỉ, kĩ càng". Sang tiếng Việt nó chỉ "cách đối xử giữa người với người đúng mức, không khinh rẻ, không hắt hủi", Việc những người biết ngoại ngữ chen vào trong lời nói bằng tiếng bản ngữ những từ giữ nguyên cách phát âm và ý nghĩa nước ngoài thì không phải là sự vay mượn. 2. Tiếng Việt có những cách thức vay mượn như sau : a) Giữ về cơ bản dạng âm thanh của từ nước ngoài chỉ âm tiết hoá hay rút gọn chúng. Như xà phòng, len, dạ, b) Dịch ý : Đây là cách dùng các từ tố thuần Việt hay Hán Việt để dịch nghĩa của các từ tố trong các từ nước ngoài. Như ngôi sao chỉ "người đẹp, diễn viên xuất sắc" là dịch ý từ star của tiếng Anh, Từ máy kéo là dịch ý từ tracteur tiếng Pháp (tract gốc tiếng Anh có nghĩa là "kéo lôi", eur là từ tố chỉ người, vật tạo ra hoạt động). Nên chú ý đến hiện tượng từ tiếng Việt mượn nghĩa theo lối dịch ý từ nước ngoài. Ví dụ nghĩa "hiểu, tiếp nhận được nội dung tinh thần" của từ nắm tiếng Việt là dịch ý một nghĩa phụ của từ saisir tiếng Pháp. c) Sao phỏng : là cách vay mượn nghĩa của từ tố và quan hệ 101
  31. ngữ nghĩa giữa các từ tố của từ nước ngoài, nhưng từ tố không phải là từ tố nước ngoài mà là từ tố Việt hay Hán Việt. Đây là cách vay mượn cái "hình thái bên trong" của từ nước ngoài. Ví dụ : từ chắn bùn của tiếng Việt là sao phỏng từ garde boue của tiếng Pháp (garde : giữ để chống lại, boue : bùn) ; siêu âm là sao phỏng từ ultrason (ultra : siêu, vượt lên trên, vượt ra khỏi ; son : âm thanh). Hai cách vay mượn sau là vay mượn không hoàn toàn. 3. Trong tiếng Việt có những từ vay mượn từ tiếng Hán hay từ tiếng Nhật, tiếng Pháp, qua tiếng Hán. Cần phân biệt những từ này với những từ Hán Việt do tiếng Việt tạo ra. Ví dụ về những từ Hán thật sự : chế độ, chính thống, triều đình, tiến sĩ, xung đột, cảnh giới, ân xá, Những từ mượn từ tiếng Nhật qua tiếng Hán : trường hợp, điều chế, đại bản doanh, phục tòng, phục vụ, thủ tục, kinh tế, biện chứng pháp, mĩ thuật, cộng hoà, cá biệt, khái quát, nghĩa vụ, cán bộ, (1) Những từ gốc Phạn qua tiếng Hán : Phật, nát bàn, Thích Ca, Di Lặc, Ngoài những từ vay mượn tiếng Hán, còn khá nhiều từ vay mượn tiếng Pháp. Những từ này nếu còn giữ dạng đa âm thì tính ngoại lai còn khá rõ như xà phòng, bù loong, ki lô, xăng ti mét, đăng ten, Nếu chúng đã bị rút gọn còn một âm tiết thì dễ lẫn vào những từ thuần Việt hay Hán Việt đã bị Việt hoá. Như lốp, săm, phanh, len, dạ, ghi (bẻ ghi), ga, đui (đui đèn), xô, tôn, Có một số từ vay mượn từ tiếng Anh qua tiếng Pháp : mít tinh, tiu, bốc (đánh bốc), bồi, Các từ vay mượn từ tiếng Nga theo hình thức nguyên âm thì ít. Chủ yếu tiếng Việt mượn theo lối dịch ý hay sao phỏng, như : xô viết, kế hoạch năm năm, sự thật (Báo Sự thật), (1) Cao Danh Khải, Hán ngữ ngoại lai từ đích nghiên cứu, NXB Cải cách văn tự, 1958. 102
  32. Các ngữ cố định sau đây cũng vay mượn từ tiếng Hán hay tiếng ấn Âu theo cách phát âm Hán Việt hoặc dịch ý, sao phỏng, lấy máu trả máu  dĩ huyết hoàn huyết nhịn ăn nhịn mặc tiết y súc thực tự lực cánh sinh  tự lực cánh sinh đồng cam cộng khổ đồng cam cộng khổ chiến tranh lạnh  guerre froide chiến tranh leo thang  guerre d'escalade vũ trang tận răng  armé jusqu'aux dents 4. Vay mượn vừa là một hiện tượng không tránh khỏi vừa là một biện pháp tích cực làm phong phú thêm tiếng nói dân tộc. Thái độ "thuần tuý chủ nghĩa" tức là thái độ từ chối mọi yếu tố ngoại lai chẳng những làm nghèo nàn mà còn làm méo mó và tạo ra những sự quái lạ trong tiếng nói dân tộc (như sự thay thế độc lập bằng đứng một mà Bác Hồ đã đưa ra làm ví dụ để phê phán). Nhưng sự lạm dụng từ vay mượn còn đáng phê phán hơn nữa. Hiện nay, sự lạm dụng tiếng nước ngoài có hai biểu hiện chính. Thứ nhất, trong việc tạo các từ mới. Gặp một sự vật, hiện tượng, khái niệm mới, không chịu suy nghĩ thật kĩ càng để tận dụng khả năng các từ tố và phương thức tạo từ tiếng Việt (dù rằng có khi các từ mới tạo ra theo lối Việt Nam chưa thật thoả đáng) để tạo từ mới mà đã vội dùng ngay các từ nước ngoài mà mình biết để biểu thị. Thứ hai là, trong lời nói, trong khi viết lách, không chịu suy nghĩ kĩ để dùng các phương tiện đồng nghĩa Việt Nam mà dùng ngay các từ vay mượn đã có trong tiếng Việt, mặc dầu việc dùng từ vay mượn ở chỗ đó là không cần thiết. Ví dụ, không phải lúc nào cũng cứ phải dùng : phương diện, phong trào, quan sát, tham quan mà có thể dùng mặt, phía, làn sóng, xem xét, đi thăm, 103
  33. Như đã nói ở phần cấu tạo từ và ở chương thuật ngữ và từ nghề nghiệp, hiện nay trong tiếng Việt đang có xu hướng thay thế các từ vay mượn chỉ những sự vật, hiện tượng thông thường trong cuộc sống bằng những từ Việt hoặc đã Việt hoá. Sự thay thế này có khi rất tự nhiên, rất chính xác như sự thay thế pittông bằng quả nén, xilanh bằng hộp nén hay sự thay thế mì chính bằng bột ngọt, xà phòng bột bằng bột giặt. Những sự thay thế như vậy ngoài việc đem lại những từ ngữ dễ hiểu, chính xác còn có tác dụng sâu xa, lâu dài là luyện cho tiếng Việt (trước hết là luyện cho các từ tố Việt hoặc đã Việt hoá) những năng lực tạo từ mới. Câu hỏi hướng dẫn học tập chương VI 1. Nên hiểu khái niệm Hán Việt như thế nào ? Vốn Hán Việt có vị trí như thế nào đối với từ vựng tiếng Việt ? 2. Ngoài vốn Hán Việt, tiếng Việt còn mượn những từ ngữ ở những ngoại ngữ nào ? Có những phương thức vay mượn nào ? Minh hoạ các phương thức đó bằng các ví dụ. 104
  34. Hướng dẫn học tập Cuốn sách này trình bày những tri thức về từ vựng tiếng Việt. Hiểu biết về từ vựng là một bộ phận cấu thành hệ thống tri thức về tiếng Việt như một thể thống nhất. Khi học người học cần chú ý những yêu cầu sau đây : 1. Nắm được những thuật ngữ và những khái niệm về từ vựng học nói chung và sự thể hiện chúng trong tiếng Việt. Đó là những khái niệm được nêu thành tiêu đề của từng chương, từng mục và được nêu ra và lí giải trong từng chương, từng mục. Sau khi học xong, cần hướng dẫn cho người học lập được bản thống kê các thuật ngữ đó. 2. Nắm được phương pháp nghiên cứu vận dụng trong cuốn sách này, đó là phương pháp hệ thống động như đã nêu trong sách. Kết quả học tập ở đại học chưa phải là tổng những tri thức cụ thể mà là ở chỗ người học có nắm ở một mức thành thạo đáng kể cái phương pháp mà giảng viên cũng như sách đã sử dụng hay không. Toàn bộ cuốn sách này, dù ở những vấn đề lớn hay chi tiết đều vận dụng phương pháp hệ thống để xử lí. Không một đặc điểm nào về từ vựng được nêu ra trong cuốn sách mà không được đặt trong hệ thống của nó. Bởi vậy, người học luôn luôn phải tìm hiểu xem cái phương pháp hệ thống đó đã thể hiện như thế nào ở những chi tiết cụ thể trong cuốn sách. 3. Cuốn sách, như đã nói trên, trình bày những vấn đề cụ thể về từ và từ vựng tiếng Việt. Nhưng cần chú ý cái linh hồn của các sự kiện từ vựng là ngữ nghĩa, là nghĩa của các đơn vị từ vựng trong hệ thống và trong sử dụng, tức trong ngôn bản. Quan điểm hệ thống động ở đây có thể tóm tắt như sau : đơn vị từ vựng trong hệ thống có ý nghĩa ; ý nghĩa của các đơn vị từ vựng trong hệ thống tuân theo những quy luật nhất định. Cũng dựa trên những quy luật đó (và những quy luật khác) nghĩa của từ chuyển hoá thành nghĩa trong ngôn bản để thực hiện chức năng giao tiếp. Nhưng sau khi hoạt động trong ngôn bản, nghĩa của các đơn vị từ vựng lại trở về trạng thái vốn có của nó trong hệ thống. Con đường đi của ngữ nghĩa của từ là từ hệ thống sang nghĩa trong ngôn bản rồi từ nghĩa trong ngôn bản lại trở về với nghĩa trong 105
  35. hệ thống. Nói khác đi phải dựa hẳn vào nghĩa hệ thống để lí giải nghĩa trong ngôn bản. 4. Nói đến nghĩa là nói đến những nét tinh tế của nghĩa. Cuốn sách đã cố gắng nêu ra những nét tinh tế đó của nghĩa của đơn vị từ vựng tiếng Việt. Nói vắn tắt, để phát hiện ra các nét tinh tế của nghĩa, trước hết, xem cái từ đang nghiên cứu thuộc kiểu cấu tạo nào (mà nói đến kiểu cấu tạo là nói đến nghĩa của kiểu cấu tạo), đối chiếu nó với các từ cùng trường, các từ đồng nghĩa, trái nghĩa và lựa chọn lấy một số ngôn bản tiêu biểu để kiểm tra lại các kết luận về nghĩa mà mình đã dựng nên. Người dạy cũng như người học cần đi sâu vào các nét tinh tế đó, không nên chỉ dừng lại ở những hiểu biết khái quát về nghĩa. 5. Hiểu biết một ngôn ngữ không chỉ hiểu biết nó trong trạng thái tĩnh mà còn là hiểu biết nó trong hoạt động, trong ngôn bản. Bởi vậy cuốn sách này có những mục viết về các nguyên tắc lí giải các hiện tượng ngữ nghĩa trong ngôn bản, trước hết là trong các tác phẩm văn học. Nếu người học nghiên cứu kĩ những mục đó, chắc chắn sẽ hiểu thêm những giá trị thẩm mĩ của từ ngữ trong văn học, đồng thời cũng có được những cơ sở để bình giá tác phẩm văn học về nghệ thuật ngôn từ. 6. Cuốn sách này rất hữu ích cho các sinh viên sau này sẽ trở thành thầy giáo, cô giáo bậc Trung học phổ thông cải cách. Khi học tập, người học nên vận dụng những tri thức về từ vựng đã học ở bậc Trung học phổ thông, đặc biệt là bậc Trung học phổ thông phân ban để hiểu thêm những vấn đề viết trong sách này. Các giảng viên có thể sử dụng những bài tập trong sách Ngữ văn Trung học phổ thông phân ban làm bài tập cho các chương mục của cuốn sách này. 7. Về phương pháp tự học có thể nêu vắn tắt như sau : Sinh viên nắm thật chắc khái niệm hệ thống. Khi học, nên đọc một lượt toàn bộ một chương rồi đọc kĩ lại từng mục lớn và nhỏ. Đầu tiên là đọc một lần, đối chiếu với những tri thức mình đã biết, xem có những khái niệm, những đoạn nào mới khó hiểu để ghi nhận lại, nghiên cứu thêm hoặc để hỏi giảng viên. 106
  36. Tìm hiểu thật kĩ, đặc biệt là cách phân tích các ví dụ mà cuốn sách đã đưa ra. Tiếp đó vận dụng những hiểu biết đã nắm được, giải thích các trường hợp khác thường gặp trong lời ăn tiếng nói hằng ngày. Đối chiếu lí thuyết đã học với thực tế ngôn ngữ là cách học chủ động và có hiệu quả nhất của việc học tập ở bậc Đại học. Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Tài Cẩn, Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1975. 2. Đỗ Hữu Châu, Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1981. 3. Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng học tiếng Việt, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985. 4. Nguyễn Văn Tu, Từ và vốn từ vựng tiếng Việt hiện đại, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1976. 107