Bài giảng Tiền tệ - Chương 4: Thị trường tài chính

pdf 28 trang ngocly 310
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Tiền tệ - Chương 4: Thị trường tài chính", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_tien_te_chuong_4_thi_truong_tai_chinh.pdf

Nội dung text: Bài giảng Tiền tệ - Chương 4: Thị trường tài chính

  1. CHƯƠNG 4 – THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Mục tiêu học tập của chương: 1. Về mặt kiến thức: 2. Về mặt kỹ năng:
  2. Nội dung Mục tiêu học tập của chương: 1 I. Quá trình hình thành và phát triển thị trường tài chính 4 1. Sự cần thiết của quá trình điều tiết vốn 4 2. Cơ sở hình thành thị trường tài chính 4 II. Bản chất và chức năng thị trường tài chính 6 1. Khái niệm thị trường tài chính 6 2. Bản chất của thị trường tài chính 6 3. Chức năng của thị trường tài chính 6 III. Phân loại thị trường tài chính 7 1. Phân loại căn cứ vào người phát hành 7 2. Phân loại căn cứ vào thời gian đáo hạn 8 3. Phân loại căn cứ vào công cụ tài chính 8 4. Phân loại căn cứ vào nguồn gốc quốc gia phát hành 9 IV. Các công cụ của thị trường tài chính 9 1. Công cụ nợ 9 1.1. Trái phiếu 9 1.1.1. Trái phiếu chính phủ. 10 1.1.2. Trái phiếu chính quyền địa phương 11 1.1.3. Trái phiếu doanh nghiệp 11 1.2. Tín phiếu kho bạc 16 1.3. Thương phiếu 16 1.4. Ngoại hối 17 1.5. Chứng chỉ tiền gửi 17 1.6. Các khoản vay được chứng khoán hóa 17 1.7. Tiền tệ 17 2. Công cụ vốn 17 2.1. Phân loại cổ phiếu dựa vào đặc tính lưu hành 19 2.2. Phân loại cổ phiếu theo hình thức. 20 2.3. Phân loại cổ phiếu dựa vào quyền lợi nắm giữ 20 3. Công cụ phái sinh 25 V. Các chủ thể tham gia thị trường tài chính 26
  3. 1. Phát hành 26 2. Đầu tư 27 3. Trung gian 28 4. Quản lý Nhà nước 28
  4. I. Quá trình hình thành và phát triển thị trường tài chính 1. Sự cần thiết của quá trình điều tiết vốn Xét ở khía cạnh doanh nghiệp. Do sự phát triển của tài chính đã khiến cho hoạt động sản xuất kinh doanh được phát triển và mở rộng theo quy mô trên phạm vi lớn. Thêm vào đó các yếu tố khác như sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phát triển về nhu cầu của con người hay mong muốn tích lũy tài sản ngày càng tăng của con người cũng là những lý do góp phần thúc đẩy hoạt động động mở rộng quy mô sản xuất liên tục. Việc mở rộng liên tục này đã dẫn tới nhu cầu cần vốn vay ngày càng tăng và từ đó tự nhiên cần phải hình thành mối quan hệ cung ứng vốn giữa những người cần vốn và những người thừa vốn. Xét ở khía cạnh nhà nước, các hoạt động của nhà nước cũng ngày càng mở rộng về quy mô dẫn tới việc thu ngân sách thông qua thuế là không đủ bù đắp các chi tiêu của chính phủ dẫn tới nhu cầu vay vốn của nhà nước. Và nhà nước, bằng quyền lực tuyệt đối của mình, đã thực hiện quá trình điều tiết vốn trong nền kinh tế thông qua hoạt động vay mượn. 2. Cơ sở hình thành thị trường tài chính Thị trường tài chính xuất hiện và tồn tại xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc giải quyết mẫu thuẫn giữa nhu cầu và khả năng cung ứng vốn trong nền kinh tế. Không phải lúc nào người có nhu cầu lượng vốn nhỏ cũng tìm gặp được người cho vay phù hợp, điều này cũng tương tự với người có nhu cầu lượng vốn lớn. Thực tế đó đòi hỏi phải xuất hiện một loại thị trường mà ở đó lượng vốn dư thừa được tập hợp lại và có thể phân chia thành các quy mô khác nhau để đáp ứng các nhu cầu đa dạng về vốn. Đồng thời thị trường này cũng thúc đẩy sự gặp gỡ giao lưu giữa chủ thể kinh tế để giải quyết các vấn đề cung cầu vốn cũng như là mua bán trao đổi những giấy tờ có giá. Sự kết nối giữa cung và cầu về vốn được thực hiện dưới một số hình thức sau: Hình thức thứ nhất và đơn giản nhất là quan hệ cho mượn trực tiếp giữa các tầng lớp dân cư và quan hệ tín dụng thương mại giữa các doanh nghiệp. Tuy nhiên hình thức này có quy mô giao dịch không lớn, phạm vi điều tiết vốn không rộng vì chủ yếu diễn ra trong cơ sở quen biết và tín nhiệm lẫn nhau.
  5. Hình thức thứ hai xuất hiện để giải quyết những hạn chế ở hình thứ nhất bằng cách hình thành nên những định chế tài chính trung gian như các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính. Hình thức này đã giải quyết hạn chế về việc đáp ứng các nhu cầu đa dạng về vốn, đặc biệt là nhu cầu vốn lớn. Tuy nhiên đứng trên góc độ đầu tư thì việc bỏ vốn vào ngân hàng để hưởng mức lãi cố định chỉ phù hợp với những nhà đầu tư không ưu thích rủi ro, họ chỉ muốn tìm kiếm chỗ chú ẩn an toàn cho số vốn của họ. Và điều này lại không phù hợp với những nhà đầu tư năng động hơn, dám chấp nhận rủi ro hơn để đạt được những khoản lợi nhuận lớn hơn. Ngoài ra xét ở góc độ tín dụng doanh nghiệp, việc các doanh nghiệp nhận được các khoản tín dụng từ ngân hàng cũng có một số điểm hạn chế như khả năng tiếp cận tín dụng, các chi phí ẩn, bị chi phối quản lý từ ngân hàng, hay phải ưu tiên nghĩa vụ trả nợ. Trong nhiều trường hợp ngân hàng được coi thuần túy là chủ nợ chứ không phải người đồng hành với doanh nghiệp. Hình thức thứ ba xuất hiện để giải quyết những khiếm khuyết trên, nó hình thành nên thị trường sơ cấp. Những chủ thể đại diện cho nhu cầu vốn đầu tư sẽ chủ động thu xếp vốn bằng cách phát hành các chứng từ có giá (ví dụ cổ phiếu, trái phiếu công ty ). Sự có mặt những chứng từ có giá này thu hút giới đầu tư ở thị trường sơ cấp (phát hành lần đầu) vì nó đa dạng và phong phú phù hợp với từng sự lựa chọn của họ. Tuy nhiên hình thức này cũng có điểm hạn chế là những chứng từ có giá không thể trao đổi được nếu như một nhà đầu tư bất ngờ có nhu cầu về vốn trong khi họ đang nắm giữ những giấy tờ có giá. Hình thức thứ tư nhằm giải quyết tính thanh khoản của các giấy tờ có giá bằng cho phép các giấy tờ có giá được giao dịch giữa các nhà đầu tư ở thị trường thứ cấp. Việc giải quyết tính thanh khoản này ngoài việc xử lý việc kết nối giữa cung cầu về vốn giữa những nhà đầu tư thứ cấp, nó còn thúc đẩy cho các hoạt động cung cấp vốn ở thị trường sơ cấp trở nên hiệu quả hơn. Khi nhà đầu tư biết được những giấy tờ có giá này có khả năng giao dịch bất kể thời điểm nào trước khi nó đáo hạn, họ sẽ càng sẵn sàng trở thành người cung ứng vốn ở thị trường sơ cấp.
  6. Như vậy sự ra đời và phát triển của các loại chứng từ có giá và quá trình giao lưu chuyển nhượng chúng trong nền kinh tế nhằm giải quyết nhu cầu về vốn chính là cơ sở hình thành nên thị trường tài chính. II. Bản chất và chức năng thị trường tài chính 1. Khái niệm thị trường tài chính Minskin trong cuốn sách kinh điển “The economics of money, banking & financial markets” đã mô tả một cách cô đọng: “Thị trường tài chính là thị trường giao dịch các loại tài sản tài chính”. Tuy nhiên chúng ta có thể sâu hơn về khái niệm này như sau: “Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi tài sản tài chính giữa các chủ thể tham gia thị trường trên cơ sở cung cầu về các loại tài sản tài chính”. Các chủ thể tham gia trên thị trường tài chính như nhà phát hành, nhà đầu tư, trung gian tài chính, nhà nước. Các loại tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu hay các cụ tài chính phái sinh như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng giao sau, hợp đồng quyền chọn và hợp đồng hoán đổi. Cần lưu ý phân biệt giữa tài sản tài chính và tài sản thực. Các tài sản thực có giá trị phụ thuộc vào các tính chất vật chất đặc trưng của nó (ví dụ: đất đai, máy móc, ) những tài sản này thể hiện của cải hay mức độ giàu có của xã hội. Nó tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh và tạo ra lợi tức thuần cho nền kinh tế. Trong khi đó tài sản tài chính chứng thực quyền lợi của người nắm giữ được sở hữu các nguồn thu nhập trong tương lai nào đó. Nó đóng góp gián tiếp vào khả năng sản xuất của xã hội và định ra sự phân phối lợi tức hoặc của cải giữa các nhà đầu tư. 2. Bản chất của thị trường tài chính Thị trường tài chính vốn mang tính trừu tượng, nó không phải là một thực thể hữu hình. Nó được hình thành do một hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức phân phối giá trị giữa các chủ thể kinh tế trong quá trình tạo lập và sử dụng nguồn vốn. 3. Chức năng của thị trường tài chính Thị trường tài chính có sáu chức năng cơ bản:
  7. (i). Thị trường tài chính cung cấp sự giao dịch về vốn giữa những chủ thể kinh tế nhằm phục vụ những mục đích đa dạng của họ; (ii). Thị trường tài chính hình nên mức giá mua bán các tài sản tài chính và chi phí sử dụng vốn; (iii). Giảm thiểu tình trạng bất cân xứng thông tin. Các trung gian tài chính thực hiện việc thu thập, đánh giá thông tin để phân loại các loại tài sản và tình trạng của người cần vốn. (iv). Thị trường tài chính cho phép chia sẻ rủi ro giữa các bên giao dịch (v). Thị trường cung cấp cho nhà đầu tư khả năng giải quyết vấn đề thanh khoản trong trường hợp nhà đầu tư muốn bán lại tài sản tài chính. (vi) Thị trường giúp làm giảm các chi phí giao dịch và chi phí thông tin. III. Phân loại thị trường tài chính Thị trường tài chính được phân chía theo những tiêu chí khác nhau. Nếu căn cứ vào thời gian đáo hạn của giấy tờ có giá, thị trường được chia thành thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Nếu căn cứ vào thời điểm phát hành lần đầu cửa chứng khoán, có thể chia thị trường tài chính thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Nếu căn cứ vào tình hình niêm yết của chứng khoán, có thể chia ra thành thị trường tập trung và thị trường phi tập trung. Ngoài ra nếu căn cứ vào cách thức huy động vốn, thị trường được chia ra thành thị trường các công cụ nợ và thị trường vốn cổ phiếu. 1. Phân loại căn cứ vào người phát hành Gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp Thị trường sơ cấp: Là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trong thị trường sơ cấp, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành. Các phương thức phát hành lần đầu: IPO (Initial Public Offering): Phát hành lần đầu ra công chúng, FPO (Follow-on Public Offer): Phát hành bổ sung, Rights Issue: Quyền mua chứng khoán.
  8. Thị trường thứ cấp: Là thị trường giao dịch các tài sản tài chính đã được phát hành lần đầu qua thị trường sơ cấp. Nói cách khác, thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các tài sản tài chính đang tồn tại. Các hình thức giao dịch chính: ETC (Exchange Traded Contract): Giao dịch tập trung, Over the Counter (OTC): Giao dịch phi tập trung 2. Phân loại căn cứ vào thời gian đáo hạn Căn cứ vào thời gian đáo hạn của các tài sản tài chính, có thể chia ra: Thị trường tiền tệ: Là thị trường giao dịch các loại giấy tờ có giá ngắn hạn có kỳ hạn không quá một năm. Thị trường này đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn của nền kinh tế. Các loại thị trường tiền tệ được phân nhỏ hơn như sau: Thị trường liên ngân hàng, Thị trường các công cụ nợ ngắn hạn, Thị trường ngoại hối. Thị trường vốn là thị trường giao dịch các công cụ tài chính có kỳ hạn trên một năm. Thị trường vốn cung cấp nợ dài hạn hoặc tài trợ làm tăng vốn chủ sở hữu. Gồm các thị trường sau: Thị trường tín dụng dài hạn, Thị trường chứng khoán nợ dài hạn, Thị trường chứng khoán vốn. 3. Phân loại căn cứ vào công cụ tài chính Gồm các loại thị trường như sau: Thị trường công cụ vốn: Là nơi giao dịch các tài sản vốn, chủ yếu là các cổ phiếu. Thị trường này cung cấp nguồn vốn đầu tư dưới dạng góp vốn cho doanh nghiệp. Thị trường các công cụ nợ: Là nơi giao dịch các tài sản nợ, chủ yếu là các loại trái phiếu, thương phiếu, Thị trường ngoại hối: Là nơi giao dịch các loại ngoại hối (ngoại tệ, thư tín dụng ngân hàng ) Thị trường phái sinh: Là nơi giao dịch các tài sản tài chính phái sinh (hợp đồng quyền chọn, hợp đồng hoán đổi, ).
  9. 4. Phân loại căn cứ vào nguồn gốc quốc gia phát hành TT các công cụ trong nước phát hành: Đây là nơi các tài sản tài chính do các chủ thể trong một quốc gia phát hành được giao dịch trong và ngoài nước. Nó bao gồm hai loại thị trường: Thị trường nội địa (domestic market) và thị trường nước ngoài (foreign market) TT các công cụ ngoài nước phát hành: Đây là nơi các tài sản tài chính do các chủ thể ngoài quốc gia phát hành được giao dịch trong và ngoài nước. Nó bao gồm các loại thị trường: Thị trường quốc tế (international market), thị trường nước ngoài (foreign market), offshore market, và thị trường châu âu (Euromarket) IV. Các công cụ của thị trường tài chính Các công cụ của thị trường tài chính hay còn gọi là các tài sản tài chính. là những tài sản chứng thực quyền lợi của người nắm giữ được sở hữu các nguồn thu nhập trong tương lai nào đó. Những tài sản này là những tài sản có giá trị không dựa vào nội dung vật chất của nó và được gọi là hàng hóa trên thị trường tài chính. Các loại tài sản tài chính có thể được phân làm ba loại: Công cụ nợ, Công cụ vốn, Công cụ phái sinh 1. Công cụ nợ Công cụ nợ là loại công cụ mang lại cho người nắm giữ nó quyền được hưởng dòng tiền cố định được ấn định trước. 1.1. Trái phiếu Là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định, từ một năm trở lên, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn. Bao gồm trái phiếu chính phủ, trái phiếu địa phương, trái phiếu công ty. Những yếu tố đặc trưng của trái phiếu bao gồm: (i) Mệnh giá (par value): là giá trị danh nghĩa của trái phiếu được in ngay trên tờ phiếu, đại diện cho số vốn gốc được hoàn trả cho trái chủ tại thời điểm hiện tại.
  10. (ii) Lãi suất trái phiếu: Là lãi suất danh nghĩa của trái phiếu quy định mức lãi mà nhà đầu tư được hưởng hàng năm. Thông thường có hai phương thức trả lãi: trả hàng năm và trả 6 tháng một lần. Số tiền nhà đầu tư nhận được hàng năm thường bằng lãi suất nhân với mệnh giá. (iii). Giá mua trái phiếu: Là khoản tiền thực tế mà người mua bỏ ra để mua trái phiếu. Giá mua có thể thấp hơn, bằng hoặc cao hơn mệnh giá. Nhưng dù mua với giá nào thì tiền lãi luôn được xác định theo mệnh giá trái phiếu và tới ngày đáo hạn, người mua được thanh toán lại số vốn bằng với số tiền ghi trên mệnh giá. (iv). Thời hạn của trái phiếu. Là số năm mà người phát hành trái phiếu phải thực hiện nghĩa vụ trả lãi đồng thời nó cũng là khoản thời gian mà trái phiếu có thể mua bán trên thị trường thứ cấp. Khi thời hạn kết thúc, người phát hành trái phiếu sẽ thu hồi trái phiếu bằng cách hoàn trả khoản vay gốc theo mệnh giá. Tại Việt Nam, trái phiếu từ 1 – 5 năm được gọi là trái phiếu ngắn hạn, từ 5 – 10 năm là trái phiếu trung hạn, trên 10 năm là trái phiếu dài hạn. (v) Quyền mua lại. Là quyền cho phép tổ chức phát hành trái phiếu thu hồi trái phiếu và hoàn lại vốn gốc. Tổ chức phát hành sử dụng quyền này để bảo vệ họ không phải trả lãi suất cao đối với số tiền mà họ vay. Thông thường, nếu lãi suất trên thị trường thấp hơn lãi suất của trái phiếu thì tổ chức phát hành sẽ thực hiện quyền mua lại. Những rủi ro gắn liền với trái phiếu: Đây là những nguy cơ làm thay đổi dòng thu nhập do trái phiếu mang lại. Những nguy này thương là: rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro lạm phát, rủi ro tái đầu tư, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro thanh khoản, rủi ro đường cong lợi suất, rủi ro chuộc lại, rủi ro thanh toán trước, rủi ro sự kiện, và rủi ro chính phủ. Các loại trái phiếu phổ biến như sau: 1.1.1. Trái phiếu chính phủ. Trái phiếu chính phủ là trái phiếu được phát hành bởi chính phủ một quốc gia nhằm mục đích bù đắp các khoản chi ngân sách nhà nước, điều hành chính sách tiền tệ, hoăc tài trợ thực hiện các đầu tư công của chính phủ. Trái phiếu chính phủ có thể được phát hành bằng
  11. đồng tiền nước đó hoặc ngoại tệ (trường hợp sau gọi là sovereign bond). Trái phiếu chính phủ thường được coi là không có rủi ro bởi chính phủ có thể tăng thuế hoặc in thêm tiền mặt để chi trả trái phiếu đáo hạn. 1.1.2. Trái phiếu chính quyền địa phương Trái phiếu chính quyền địa phương là loại trái phiếu do chính quyền địa phương phát hành (tại Việt Nam chính quyền địa phương thường ủy quyền cho Kho bạc Nhà nước phát hành) với mục đích huy động vốn để đầu tư các dự án công. Ở những nước mà ngân sách cấp tỉnh/thành phố độc lập với ngân sách trung ương (ví dụ ngân sách từng bang của Mỹ) thì việc phát hành trái phiếu chính quyền địa phương có thể là một biện pháp nhằm tài trợ cho ngân sách đang thiếu hụt. Trái phiếu chính quyền địa phương có mức độ rủi ro cao hơn trái phiếu chính phủ. 1.1.3. Trái phiếu doanh nghiệp Đây là loại trái phiếu do doanh nghiệp phát hành. là một loại chứng khoán nợ do doanh nghiệp phát hành, xác nhận nghĩa vụ trả cả gốc và lãi của doanh nghiệp phát hành đối với người sở hữu trái phiếu. Trái phiếu doanh nghiệp được phát hành dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, với mệnh giá tối thiểu là 100.000 đồng. Các mệnh giá khác là bội số của 100.000 đồng. Tiền thu từ phát hành trái phiếu, doanh nghiệp chỉ được sử dụng cho mục đích thực hiện các khoản đầu tư, cơ cấu lại khoản vay trung và dài hạn hoặc tăng quy mô vốn hoạt động. Căn cứ mức độ uy tín của doanh nghiệp, hiệu quả của dự án đầu tư và tình hình thị trường tài chính - tiền tệ, doanh nghiệp phát hành trái phiếu quyết định lãi suất trái phiếu cho từng đợt phát hành. Lãi suất trái phiếu có thể xác định cố định cho cả kỳ hạn hoặc thả nổi trên thị trường. Trường hợp phát hành trái phiếu với lãi suất thả nổi, tổ chức phát hành công bố mức lãi suất tham chiếu để làm căn cứ xác định lãi suất phải trả cho người sở hữu trái phiếu. Trái phiếu chủ yếu của một doanh nghiệp cổ phần bao gồm: Trái phiếu thu nhập, trái phiếu chuyển đổi (loại trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông của cùng một tổ
  12. chức phát hành theo các điều kiện đã được xác định trong phương án phát hành), trái phiếu không chuyển đổi (loại trái phiếu không có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu), trái phiếu có thể chuộc lại, trái phiếu có lãi suất ổn định, trái phiếu có lãi suất thả nổi. Tuy nhiên, chỉ có công ty cổ phần mới được quyền phát hành trái phiếu chuyển đổi. (i) Trái phiếu thu nhập: Hầu hết trái chủ nắm giữ trái phiếu doanh nghiệp được trả lãi không phụ thuộc vào mức lợi nhuận của công ty mà căn cứ vào mức lãi suất và mệnh giá ngoại trừ trái phiếu thu nhập. Đây là loại trái phiếu mà trái chủ được thanh toán lãi phụ thuộc vào mức thu lợi hàng năm tuy nhiên tỷ lệ lãi không lớn hơn lãi suất quy định trên trái phiếu. Về mặt này loại trái phiếu thu nhập giống cổ phiếu ưu đãi nhưng khác ở chỗ tiền trả lãi cho trái phiếu thu nhập được khấu trừ trước thuế, còn đối với cổ phiếu ưu đãi thì không được khấu trừ (trả sau thuế). (ii) Trái phiếu có thể chuyển đổi: Trái phiếu chuyển đổi là trái phiếu có thể chuyển thành cổ phiếu thường vào một thời điểm được xác định trước trong tương lai. Loại trái phiếu này có đặc điểm là lãi suất cố định và tương đối thấp so với các loại trái phiếu khác, song trái phiếu chuyển đổi hứa hẹn đem lại cho nhà đầu tư lợi nhuận lớn hơn khi chuyển đổi thành loại cổ phiếu thường của công ty và đây cũng chính là điểm hấp dẫn của trái phiếu chuyển đổi. Về bản chất kinh tế, trái phiếu chuyển đổi được coi là một sản phẩm lồng ghép giữa trái phiếu DN và quyền mua cổ phiếu do chính DN phát hành. Quyền mua cổ phiếu cho phép người nắm giữ có quyền, mà không có nghĩa vụ mua cổ phiếu tại một thời điểm trong tương lai với một mức giá xác định trước. Sự khác biệt của trái phiếu chuyển đổi so với trái phiếu thường đó là quyền chuyển đổi sang cổ phiếu theo một tỷ lệ cố định trong tương lai của trái chủ. Do đó, trái phiếu chuyển đổi thường có giá trị hơn trái phiếu thông thường. Giá trị trái phiếu chuyển đổi: Giá trị của trái phiếu chuyển đổi = Giá trị của trái phiếu + Giá trị của quyền chuyển đổi (quyền mua CP). Giá trị của trái phiếu được hiểu là giá trị hiện tại của các dòng tiền thanh toán gốc và lãi
  13. trái phiếu trong suốt kỳ hạn của trái phiếu, thông qua một lãi suất chiết khấu. Lãi suất chiết khấu này được quyết định dựa vào lãi suất chung trên thị trường và biên độ rủi ro tín dụng của chủ thể phát hành cũng như các tài sản đảm bảo của trái phiếu (nếu có). Lãi suất thị trường hay biên độ rủi ro tín dụng tăng đều làm tăng tỷ lệ chiết khấu và do đó làm giảm giá trị của trái phiếu, và ngược lại. Do đó, trên thị trường thứ cấp, giá trị của trái phiếu biến động phụ thuộc vào các nhân tố này cũng như quan hệ cung cầu. Giá trị quyền mua cổ phiếu phụ thuộc trước hết vào giá cổ phiếu. Khi giá cổ phiếu tăng thì quyền mua càng có giá trị và ngược lại. Phần chênh lệch giữa giá cổ phiếu hiện hành và giá chuyển đổi được gọi là giá trị nội tại của quyền mua. Khi giá trị nội tại này > 0 thì lúc đó quyền mua đang có lãi và ngược lại, giá trị nội tại < 0 thì lúc đó quyền mua không có giá trị. Giá trị của quyền mua còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác như: . Thời hạn thực hiện quyền: Thời hạn này càng dài thì quyền càng có giá trị và ngược lại. Điều này là do khi thời hạn còn dài thì cơ hội tăng giá cổ phiếu cao hơn, làm tăng giá trị nội tại của quyền mua. . Mức độ biến động thường xuyên của giá cổ phiếu: Giá cổ phiếu có mức độ biến động mạnh thì cơ hội tăng giá (và giảm giá) càng cao, do đó giá trị quyền mua càng cao và ngược lại. . Lãi suất trên thị trường: Lãi suất càng giảm thì giá trị quyền mua càng cao và ngược lại, do tỷ lệ chiết khấu để tính giá trị hiện tại của giá trị nội tại sẽ tăng. Ưu, nhược điểm của trái phiếu chuyển đổi Đối với công ty phát hành Ưu điểm: . Chi phí phát hành và lãi suất phải trả thấp hơn so với phát hành trái phiếu thông thường cũng như so với lãi suất ngân hàng và điều này đồng nghĩa với việc giảm rủi ro đối với tổ chức phát hành. . Tăng vốn cổ phần trong tương lai khi chuyển từ trái phiếu nợ thành vốn cổ phần.
  14. . Giá cổ phiếu thường không bị sụt giảm do tránh được tình trạng tăng số lượng cổ phiếu một cách nhanh chóng trên thị trường. . Trước khi trái phiếu được chuyển đổi sẽ không làm giảm thu nhập của các cổ đông hiện hữu so với phát hành cổ phiếu. . Dễ dàng hơn trong việc huy động vốn do tính hấp dẫn của việc có thể chuyển đổi từ trái phiếu sang cổ phiếu. Nhược điểm: . Do cổ đông thường tham gia vào việc quản lý công ty nên khi chuyển đổi có thể gây ra một sự thay đổi trong việc kiểm soát công ty. . Khi trái phiếu được chuyển đổi, vốn chủ sở hữu bị "pha loãng" do tăng số cổ phiếu lưu hành nên mỗi cổ phần khi đó đại diện cho một tỷ lệ thấp hơn của quyền sở hữu trong công ty. . Kết quả chuyển đổi sẽ làm giảm chi phí trả lãi, tức là làm tăng thu nhập chịu thuế của công ty. Do đó, công ty phải trả thuế nhiều hơn khi chuyển đổi. Đối với nhà đầu tư Ưu điểm: . Trái phiếu chuyển đổi cũng giống trái phiếu thường, tức là cũng được thanh toán tiền lãi với một lãi suất cố định và sẽ được mua lại với giá bằng mệnh giá vào lúc đáo hạn. Thu nhập từ lãi suất trái phiếu thường cao hơn và chắc chắn hơn thu nhập từ cổ tức trên cổ phiếu. . Người nắm giữ trái phiếu chuyển đổi có quyền ưu tiên hơn các cổ đông nắm giữ cổ phiếu khi công ty phá sản và bị thanh lý. . Giá thị trường của trái phiếu chuyển đổi có chiều hướng ổn định hơn giá cổ phiếu trong thời kỳ thị trường sa sút. Giá trị của trái phiếu chuyển đổi trên thị trường sẽ được hỗ trợ bởi các lãi suất hiện hành của những trái phiếu cạnh tranh khác.
  15. . Vì trái phiếu chuyển đổi có thể được chuyển thành cổ phiếu nên giá trị thị trường của chúng sẽ có chiều hướng tăng nếu giá cổ phiếu tăng. . Nhà đầu tư có quyền lựa chọn. Họ sẽ không bị lỗ nặng khi giá cổ phiếu sụt giảm xuống dưới giá chuyển đổi (họ sẽ không thực hiện quyền chuyển đổi) mà vẫn có lợi khi giá cổ phiếu tăng mạnh (họ sẽ thực hiện quyền chuyển đổi rồi bán cổ phiếu sau khi chuyển đổi). Nhược điểm: . Nhà đầu tư được hưởng mức lãi suất thấp hơn so với các loại trái phiếu khác. . Thời gian chuyển đổi thường dài nên tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro. . Nếu công ty phải ngưng hoạt động bởi những tình huống như sáp nhập, hợp nhất hay giải thể thì những người nắm giữ trái phiếu chuyển đổi sẽ bị mất đặc quyền chuyển đổi. (iii) Trái phiếu có thể chuộc lại: trái phiếu này có kèm theo điều khoản được công ty chuộc lại sau một thời gian với giá chuộc lại thường cao hơn mệnh giá. Nhà đầu tư có thể chấp nhận sự chuộc lại của công ty hay không. Trái phiếu này được phát hành bởi một số lý do như sau: . Khi công ty gặp khó khăn về tài chính hoặc cần huy động vốn nhanh cho dự án, công ty có thể phát hành trái phiếu với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất phù hợp với mức độ tín nhiệm của công ty. Trong trường hợp này công ty sẽ dự trù thu hồi vốn và lãi phát sinh sau một thời gian vì vậy đưa ra khoản chuộc lại trái phiếu trước kỳ đáo hạn để tránh cho công ty gánh nặng phải trả lãi quá cao. . Với tình chu kỳ của kinh tế, công ty có thể dự đoán trước được lãi suất thị trường sẽ giảm đi trong tương lai. Vì thế công ty phát hành trái phiếu với lãi suất tương đối cao ở hiện tại và kèm theo điều khoản chuộc lại trái phiếu trong tương lai. Lúc đó lãi suất thị trường đã giảm đi làm cho công ty tránh thiệt hại về chi phí trả lãi quá cao.
  16. (iv) Trái phiếu có lãi suất ổn định: Là loại trái phiếu truyền thống mà doanh nghiệp phát hành nó phải trả lãi suất ổn định kỳ, thông thường là 6 tháng hay 1 năm một lần. Doanh nghiệp phải trả lãi trong suốt thời gian lưu hành trái phiếu. (v) Trái phiếu có lãi suất thả nổi: Là loại trái phiếu mà lãi suất của nó được điều chỉnh theo sự thay đổi của lãi suất thị trường. Đặc điểm này đảm bảo được quyền lợi của nhà đầu tư cũng như của doanh nghiệp khi thị trường tài chính tiền tệ không ổn định. Thông thường cứ 6 tháng một lần, căn cứ vào lãi suất tiền gửi ngắn hạn của ngân hàng, doanh nghiệp phát hành lại điều chỉnh lãi suất một lần cho phù hợp. 1.2. Tín phiếu kho bạc Tín phiếu kho bạc là loại giấy nợ do chính phủ phát hành có kỳ hạn dưới một năm để bù đắp thiếu hụt tạm thời của Ngân sách Nhà nước và là một công cụ trong những công cụ quan trọng để Ngân hàng Trung ương điều hành chính sách tiền tệ. Tại Việt Nam tín phiếu kho bạc thường có kỳ hạn 91 ngày (3 tháng), 182 (6 tháng), 273 ngày (9 tháng) hoặc 364 ngày (1 năm) – không quá 52 tuần - với một hay nhiều mức mệnh giá. 1.3. Thương phiếu Là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định. Thương phiếu gồm hối phiếu và lệnh phiếu. Hối phiếu là mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện dưới dạng văn bản do một người ký phát (gọi là người ký phát hối phiếu) cho một người khác (gọi là người thụ tạo), yêu cầu người này ngay khi nhìn thấy hối phiếu hoặc vào một ngày cụ thể nhất định hoặc vào một ngày có thể xác định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho người đó hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác hoặc trả cho người cầm phiếu (gọi chung là người được trả tiền). Lệnh phiếu là chứng chỉ có giá do người phát hành lập, camkết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào mộtthời gian nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.
  17. 1.4. Ngoại hối Ngoại hối là các phương tiện có giá trị dùng để thanh toán giữa các quốc gia. Ngoại hối gồm: Ngoại tệ và các phương tiện thanh toán quốc tế được ghi bằng ngoại tệ: hối phiếu, lệnh phiếu, séc, thư chuyển tiền (mail transfer), điện chuyển tiền, thư tín dụng ngân hàng (bank letter of credit) 1.5. Chứng chỉ tiền gửi Là một loại Giấy tờ có giá do ngân hàng phát hành để huy động vốn từ các tổ chức và cá nhân khác. Nó là văn bản do ngân hàng phát hành để chứng nhận rằng người sở hữu văn bản đã gửi tiền vào ngân hàng. 1.6. Các khoản vay được chứng khoán hóa Chứng khoán hóa là quá trình phát hành chứng khoán nợ trên cơ sở đảm bảo bởi dòng tiền mặt tương lai sẽ thu được từ một nhóm tài sản tài chính sẵn có. Các tài sản tài chính có thể dùng để chứng khoán hóa rất đa dạng bao gồm các khoản cho vay thế chấp mua nhà, các khoản cho vay thương mại, các khoản phải thu thương mại, danh mục các khoản cho vay thẻ tín dụng, danh mục nợ dưới chuẩn, 1.7. Tiền tệ Tiền tệ là một phương tiện trung gian trao đổi và thanh toán theo quy định của pháp luật và được người dân tin tưởng chấp nhận. Khi sở hữu tiền tệ, người sở hữu đang là chủ nợ của người phát hành ra nó. 2. Công cụ vốn Công cụ vốn là loại công cụ buộc người phát hành trả cho người nắm giữ nó một số tiền dựa vào kết quả đầu tư. Thông thường công cụ vốn ở đây là các loại cổ phiếu. Cổ phiếu là giấy chứng nhận số tiền nhà đầu tư đóng góp vào công ty phát hành. Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Nguời nắm giữ cổ phiếu trở thành cổ đông và đồng thời là chủ sở hữu của công ty phát hành. Cổ phiếu có những đặc điểm sau:
  18. (i) Không có kỳ hạn và không hoàn vốn: Cổ phiếu là chứng nhận góp vốn của các cổ đông vào công ty cổ phần. Chỉ có chiều góp vào, không thể hiện thời hạn hoàn vốn; không có kỳ hạn. (Khi công ty phá sản hoặc giải thể, thì sẽ không còn tồn tại cổ phiếu). (ii) Cổ tức không ổn định và phụ thuộc vào kết quả SXKD của doanh nghiệp: Cổ tức cổ phiếu thường tùy thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, và vì kết quả kinh doanh không ổn định nên cổ tức cũng không thể cố định. Khi doanh nghiệp làm ăn phát đạt thì cổ đông được hưởng lợi nhuận nhiều hơn so với các loại chứng khoán khác có lãi suất cố định. Ngược lại, khi làm ăn khó khăn hoặc thua lỗ, cổ tức có thể rất thấp hoặc không có cổ tức. (iii) Khi phá sản, cổ đông là người cuối cùng nhận được giá trị còn lại của tài sản thanh lý: Khi phá sản, công ty sẽ phải ưu tiên trả cho các chủ nợ trước sau đó mới tới chủ sở hữu. (iv) Giá cổ phiếu biến động rất mạnh: Giá biến động nhiều nhất là trên thị trường thứ cấp, do giá chịu sự tác động của nhiều nhân tố, và nhân tố quan trọng đó là kết quả kinh doanh của công ty. (v) Tính thanh khoản cao: Cổ phiếu có khả năng chuyển hóa thành tiền mặt dễ dàng. Tuy nhiên tính thanh khoản của cổ phiếu phụ thuộc vào các yếu tố sau: . Thứ nhất, kết quả kinh doanh của tổ chức phát hành (công ty có cổ phiếu niêm yết). Nếu tổ chức phát hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả, trả cổ tức cao, cổ phiếu của công ty sẽ thu hút nhà đầu tư và cổ phiếu thực sự dễ mua bán trên thị trường. Ngược lại nếu công ty làm ăn kém hiệu quả không trả cổ tức hoặc cổ tức thấp, cổ phiếu của công ty sẽ giảm giá và khó bán. . Thứ hai, là mối quan hệ cung - cầu trên thị trường chứng khoán: Thị trường cổ phiếu cũng như các loại thị trường khác đều chịu sự chi phối của qui luật cung cầu. Giá cổ phiếu trên thị trường không chỉ phụ thuộc vào chất lượng công ty mà còn phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu của nhà đầu tư. Tuy một loại cổ phiếu rất tốt nhưng thị trường đang bão hòa nguồn cung (nhiều hàng bán) thì cổ phiếu đó cũng khó tăng
  19. giá. Ngược lại khi thị trường khan hiếm hàng hóa thì ngay cả những cổ phiếu chất lượng kém hơn cũng có thể bán dễ dàng. Tuy nhiên cũng cần chú ý đến sự đầu cơ trong thị trưòng, một số nhà đầu tư sở hữu một phần lớn lượng cổ phiếu trong thị trường, đẩy giá lên xuống theo ý mình để trục lợi. (vi) Có tính Lưu thông: Tính lưu thông khiến cổ phiếu có giá trị như một loại tài sản thực sư, nếu như tính thanh khoản giúp cho chủ sở hữu cổ phiếu chuyển cổ phiếu thành tiền mặt khi cần thiết thì tính lưu thông giúp chủ sở hữu cổ phiếu thực hiện được nhiều hoạt động như thừa kế tặng cho để thục hiện nghĩa vụ tài sản của mình. (vii) Tính Tư bản giả: Cổ phiếu có tính tư bản giả tức là cổ phiếu có giá trị như tiền. Tuy nhiên cổ phiếu không phải là tiền và nó chỉ có giá trị khi được đảm bảo bằng tiền. Mệnh giá của cổ phiếu không phản ánh đúng giá trị của cổ phiếu. (viii) Tính Rủi ro cao: Tính Rủi ro phụ thuộc vào thông tin và tình hình phát triển, chính trị. Giá trị cổ phiếu luôn biến động theo các yếu tố này. 2.1. Phân loại cổ phiếu dựa vào đặc tính lưu hành Khi xem xét Cổ phiếu của Công ty cổ phần, thường có sự phân biệt cổ phiếu được phép phát hành, cổ phiếu đã phát hành, cổ phiếu quỹ, cổ phiếu đang lưu hành. . Cổ phiếu được phép phát hành: Khi công ty cổ phần được thành lập, thì được phép phát hành cổ phiếu để huy động vốn. Nhưng luật pháp các nước quy định công ty phải đăng ký tổng số cổ phiếu của công ty và phải ghi trong điều lệ công ty và được gọi là cổ phiếu được phép phát hành' hay cổ phiếu đăng ký. Cổ phiếu được phép phát hành là số lượng cổ phiếu tối đa của một công ty có thể phát hành từ lúc bắt đầu thành lập cũng như trong suốt quá trình hoạt động. Khi cần có sự thay đổi số lượng cổ phiếu được phép phát hành thì phải được đa số cổ đông bỏ phiếu tán thành và phải sửa đổi điều lệ công ty. . Cổ phiếu đã phát hành: là cổ phiếu mà công ty được bán ra cho các nhà đầu tư trên thị trường và công ty đã thu về được toàn bộ tiền bán số cổ phiếu đó, nó nhỏ hơn hoặc tối đa là bằng với số cổ phiếu được phép phát hành.
  20. . Cổ phiếu quỹ: là cổ phiếu đã được giao dịch trên thị trường và được chính tổ chức phát hành mua lại bằng nguồn vốn của mình. Số cổ phiếu này có thể được công ty lưu giữ một thời gian sau đó lại được bán ra; luật pháp một số nước quy định số cổ phiếu này không được bán ra mà phải hủy bỏ. Cổ phiếu quỹ không phải là cổ phiếu đang lưu hành, không có vốn đằng sau nó; do đó không được tham gia vào việc chia lợi tức cổ phần và không có quyền tham gia bỏ phiếu. . Cổ phiếu đang lưu hành: là cổ phiếu đã phát hành, hiện đang lưu hành trên thị trường và do các cổ đông đang nắm giữ. Số cổ phiếu đang lưu hành được xác định như sau: Số cổ phiếu đang lưu hành = Số cổ phiếu đã phát hành - Số cổ phiếu quỹ Trong trường hợp công ty có cả hai loại cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi, người ta sẽ xác định cụ thể cho từng loại một. Số cổ phiếu thường đang lưu hành là căn cứ quan trọng để phân chia lợi tức cổ phần trong công ty. 2.2. Phân loại cổ phiếu theo hình thức. Dựa vào hình thức cổ phiếu, có thể phân biệt cổ phiếu ghi danh và cổ phiếu vô danh. . Cổ phiếu ghi danh: là cổ phiếu có ghi tên người sở hữu trên tờ cổ phiếu. Cổ phiếu này có nhược điểm là việc chuyển nhượng phức tạp, phải đăng ký tại cơ quan phát hành và phải được Hội đồng Quản trị của công ty cho phép. . Cổ phiếu vô danh: là cổ phiếu không ghi tên người sở hữu. Cổ phiếu này được tự do chuyển nhượng mà không cần thủ tục pháp lý. 2.3. Phân loại cổ phiếu dựa vào quyền lợi nắm giữ Dựa vào quyền lợi mà cổ phiếu đưa lại cho người nắm giữ, có thể phân biệt cổ phiếu phổ thông (cổ phiếu thường) và cổ phiếu ưu đãi - Đây là cách phân loại phổ biến nhất. Khi nói đến cổ phiếu của một công ty, người ta thường nói đến cổ phiếu phổ thông (cổ phiếu thường) và cổ phiếu ưu đãi. (i) Cổ phiếu thường:
  21. . Là loại cổ phiếu có thu nhập phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh của công ty. Người sở hữu cổ phiếu phổ thông được tham gia họp Đại hội đồng cổ đông và được bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng nhất của công ty, được quyền bầu cử và ứng cử vào Hội đồng Quản trị của công ty. . Cổ phiếu của công ty không có thời hạn hoàn trả, vì đây không phải là khoản nợ đối với công ty. . Cổ đông được chia phần giá trị tài sản còn lại khi thanh lý công ty sau khi công ty đã thanh toán các khoản nợ và thanh toán cho các cổ đông ưu đãi. . Người góp vốn vào công ty không được quyền trực tiếp rút vốn ra khỏi công ty, nhưng được quyền chuyển nhượng sở hữu cổ phần dưới hình thức bán lại cổ phiếu hay dưới hình thức quà tặng hay để lại cho người thừa kế. Chính điều này đã tạo ra tính thanh khoản cho cổ phiếu công ty, đồng thời cũng hấp dẫn nhà đầu tư. . Được quyền ưu tiên mua cổ phiếu khi công ty phát hành cổ phiếu mới để tăng vốn. . Được quyền triệu tập đại hội đồng cổ đông bất thường theo luật định. . Cổ đông thường cũng phải gánh chịu những rủi ro mà công ty gặp phải, tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm giới hạn trong phạm vi số lượng vốn góp vào công ty. Các hình thức giá trị của Cổ phiếu thường . Mệnh giá của cổ phiếu thường: Mệnh giá hay còn gọi là giá trị danh nghĩa là giá trị mà công ty cổ phần ấn định cho một cổ phiếu và được ghi trên cổ phiếu. Mệnh giá cổ phiếu thường được sử dụng để ghi sổ sách kế toán của công ty. Mệnh giá cổ phiếu không có giá trị thực tế đối với nhà đầu tư khi đã đầu tư, nên nó không liên quan đến giá thị trường của cổ phiếu đó. Mệnh giá cổ phiếu chỉ có ý nghĩa quan trọng vào thời điểm công ty phát hành cổ phiếu thường lần đầu huy động vốn thành lập công ty. Mệnh giá thể hiện số tiền tối thiểu Công ty phải nhận được trên mỗi cổ phiếu mà Công ty phát hành ra.
  22. Một số nước luật pháp cho phép Công ty cổ phần có thể phát hành cổ phiếu thường không có mệnh giá. Giá trị sổ sách: của cổ phiếu thường là giá trị của cổ phiếu được xác định dựa trên cơ sở số liệu sổ sách kế toán của công ty. Trường hợp công ty chỉ phát hành cổ phiếu thường thì giá trị sổ sách của một cổ phiếu thường được xác định bằng cách lấy vốn chủ sở hữu hoặc tổng giá trị tài sản thuần (phần giá trị chênh lệch giữa giá trị tổng tài sản với tổng số nợ) của công ty chia cho tổng số cổ phiếu thường đang lưu hành. Trường hợp công ty phát hành cả cổ phiếu ưu đãi, thì phải lấy tổng giá trị tài sản thuần trừ đi phần giá trị thuộc cổ phiếu ưu đãi rồi mới chia cho số cổ phiếu thường đang lưu hành. Phần giá trị của cổ phiếu ưu đãi được tính theo mệnh giá hoặc giá mua lại tùy thuộc loại cổ phiếu ưu đãi công ty phát hành và cộng với phần cổ tức công ty còn khất lại chưa trả cho cổ đông ưu đãi trong các kỳ trước đó (nếu có). Việc xem xét giá trị sổ sách, cho phép Cổ đông thấy được số giá trị tăng thêm của cổ phiếu thường sau một thời gian công ty hoạt động so với số vốn góp ban đầu. . Giá trị thị trường: là giá trị thị trường hiện tại của cổ phiếu thường, được thể hiện trong giao dịch cuối cùng đã được ghi nhận. Giá trị thị trường hay còn được gọi là giá thị trường. Thực tế, giá thị trường của cổ phiếu không phải do công ty ấn định và cũng không do người nào khác quyết định, mà giá thị trường của cổ phiếu được xác định bởi giá thống nhất mà người bán sẵn sàng bán nó và giá cao nhất mà người mua sẵn sàng trả để mua nó. Giá thị trường của cổ phiếu được xác định bởi quan hệ cung - cầu trên thị trường. Giá trị thị trường cổ phiếu của một công ty phụ thuộc rất nhiều yếu tố, do vậy nóthường xuyên biến động. (ii) Cổ phiếu ưu đãi
  23. Cổ phiếu ưu đãi là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong một công ty, đồng thời cho phép người nắm giữ loại cổ phiếu này được hưởng một số quyền lợi ưu tiên hơn so với cổ đông phổ thông. Người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi được gọi là cổ đông ưu đãi của công ty. Cổ đông nắm giữ cổ phiếu ưu đãi có các quyền lợi sau: . Quyền được nhận cổ tức trước các cổ đông thường, mặc dù người có cổ phiếu ưu đãi chỉ được quyền hưởng lợi tức cổ phần giới hạn nhưng họ được trả cổ tức trước khi chia lợi tức cho cổ đông thường. Khác với cổ tức của cổ phiếu phổ thông, cổ tức của cổ phiếu ưu đãi được xác định trước và thường được xác định bằng tỷ lệ phần trăm cố định so với mệnh giá của cổ phiếu hoặc bằng số tiền nhất định in trên mỗi cổ phiếu. . Quyền ưu tiên được thanh toán trước, khi giải thể hay thanh lý công ty, nhưng sau người có trái phiếu. . Tương tự như cổ phiếu phổ thông, nhưng cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi không được tham gia bầu cử, ứng cử vào Hội đồng Quản trị và quyết định những vấn đề quan trọng của công ty. . Cổ phiếu ưu đãi có thể có mệnh giá hoặc không có mệnh giá và mệnh giá của nó cũng không ảnh hưởng tới giá thị trường của cổ phiếu ưu đãi. Mệnh giá của cổ phiếu ưu đãi có ý nghĩa hơn đối với mệnh giá của cổ phiếu phổ thông, vì nó là căn cứ để trả cổ tức và là căn cứ để hoàn vốn khi thanh lý hay giải thể công ty. . Cổ tức của cổ phiếu ưu đãi là cố định,và cổ đông ưu đãi cũng vẫn được nhận cổ tức khi công ty làm ăn không có lợi nhuận (thua lỗ). Một đặc điểm nữa của cổ phiểu ưu đãi được thể hiện ở “lịch sự kiện”. Lịch sự kiện được chia thành các loại như sau: Sự kiện nhận cổ tức, chia tách, cổ phiếu thưởng, mua cổ phiếu ưu đãi đều được thực hiện tại "Ngày giao dịch không hưởng quyền". Ngày giao dịch không hưởng quyền là ngày thực hiện quyền của 1 cổ phiếu đã được công ty thông báo
  24. trước đó. Nếu như cổ đông nắm giữ cổ phiếu trước ngày giao dịch không hưởng quyền cổ đông đó sẽ nhận được cổ tức hoặc quyền mua cổ phiếu đó. Quyền được chia làm 3 loại: Quyền nhận cổ tức bằng tiền: cổ tức sẽ được trả bằng tiền trên mỗi cổ phiếu. Tỉ lệ cổ tức sẽ được quy ra trên mệnh giá, mỗi cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán việt nam đều có mệnh giá là 10,000. Ví dụ công ty chia cổ tức bằng tiền 10% bạn sẽ được nhận 1,000 đồng trên mỗi cổ phiếu. Cổ phiếu thưởng, cổ phiếu chia tách: cổ phiếu sẽ được chia nhỏ theo tỉ lệ công ty đã công bố. Ví dụ công ty công bố tỉ lệ thưởng hoặc chia tách là 10:2 => nghĩa là 10 cổ phiếu sẽ thành 12 cổ phiếu, nếu bạn đang có 10 cổ phiếu bạn sẽ được nhận thêm 2 cổ phiếu. Các loại Cổ phiếu ưu đãi . Cổ phiếu ưu đãi tích lũy: là loại cổ phiếu ưu đãi có tính chất đảm bảo thanh toán cổ tức. Khi công ty gặp khó khăn, không thanh toán được hoặc chỉ thanh toán một phần cổ tức, thì số chưa thanh toán đó được tích lũy hay cộng dồn và công ty phải trả số cổ tức này trước khi công bố trả cổ tức cho cổ đông thường. Hầu hết cổ phiếu ưu đãi của các công ty là loại cổ phiếu ưu đãi tích lũy và không tham dự. Cổ phiếu ưu đãi không tích lũy: là loại cổ phiếu ưu đãi mà khi công ty gặp khó khăn không trả được cổ tức trong năm tài chính, thì cổ đông ưu đãi đó cũng mất quyền nhận số cổ tức trong năm đó. Cổ phiếu ưu đãi tham dự: là loại cổ phiếu ưu đãi mà cổ đông nắm giữ chúng, ngoài việc hưởng cổ tức ưu đãi theo quy định còn được hưởng thêm phần lợi tức phụ trội theo quy định khi công ty kinh doanh có lợi nhuận cao. Cổ phiếu ưu đãi không tham dự: là loại cổ phiếu ưu đãi mà cổ đông nắm giữ chúng chỉ được hưởng cổ tức ưu đãi cố định theo quy định, ngoài ra không được hưởng thêm bất cứ phần lợi nhuận nào. Cổ phiếu ưu đãi có thể mua lại: là loại cổ phiếu ưu đãi mà công ty có quyền thu hồi lại. Công ty phát hành có quyền yêu cầu mua lại cổ phiếu này vào bất cứ lúc nào,
  25. khi công ty có khả năng tài chính. Giá mua lại được xác định từ thời điểm phát hành, giá này thường tính bằng mệnh giá của cổ phiếu ưu đãi cộng thêm phần có tính chất đền bù cho các nhà đầu tư khi công ty mua lại loại cổ phiếu ưu đãi này. Cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi: là loại cổ phiếu ưu đãi cho phép người mua có quyền chuyển đổi cổ phiếu ưu đãi này sang các loại chứng khoán khác. 3. Công cụ phái sinh Công cụ phái sinh là công cụ được phát hành dựa trên tài sản cơ sở nhằm mục tiêu phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận Chứng khoán phái sinh (derivatives) là loại hợp đồng được phát hành trên cơ sở những tài sản tham chiếu. Giá trị của chứng khoán này thay đổi khi giá trị tài sản tham chiếu thay đổi. Chứng khoán phái sinh được phát hành nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Các công cụ phái sinh rất phong phú và đa dạng, nhưng nhìn chung có thể liệt kê các loại chứng khoán phái sinh chủ yếu sau: quyền mua cổ phần, chứng quyền, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn, và hợp đồng hoán đổi: . Quyền mua cổ phần (hay quyền mua trước) là quyền ưu tiên mua trước dành cho các cổ đông hiện hữu của một công ty cổ phần được mua một số lượng cổ phần trong một đợt phát hành CP phổ thông mới tương ứng với tỷ lệ cổ phần hiện có của họ trong công ty, tại mức giá xác định, thấp hơn mức giá chào mời ra công chúng và trong một thời hạn nhất định. . Chứng quyền là một loại chứng khoán trao cho người nắm giữ nó quyền được mua một số lượng xác định một loại chứng khoán khác, thường là cổ phiếu thường, với một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định. Quyền này được phát hành khi tổ chức lại các công ty hoặc khi công ty nhằm mục tiêu khuyến khích các nhà đầu tư tiềm năng mua các trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi có những điều kiện kém thuận lợi. Để chấp nhận những điều kiện đó, nhà đầu tư có được một lựa chọn đối với sự lên giá có thể xảy ra của cổ phiếu thường.
  26. . Hợp đồng kỳ hạn là một thoả thuận trong đó một người mua và một người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá ấn định vào ngày hôm nay. . Hợp đồng tương lai là một thoả thuận đòi hỏi một bên của hợp đồng sẽ mua hoặc bán một hàng hoá nào đó tại một thời hạn xác định trong tương lai theo một mức giá đã định trước. Chức năng kinh tế cơ bản của các thị trường hợp đồng tương lai là cung cấp một cơ hội cho những người tham gia thị trường để phòng ngừa rủi ro về những biến động giá bất lợi. . Hợp đồng quyền chọn: Một quyền chọn là một hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc được bán (nếu là quyền chọn bán) một khối lượng nhất định hàng hoá tại một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định. Các hàng hoá cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, thương phẩm . Hợp đồng hoán đổi: là một công cụ tài chính phái sinh (derivative) trong đó hai bên đối tác trao đổi một dòng tiền (cash flow) này lấy một dòng tiền khác của bên kia. Những dòng tiền này gọi là các nhánh của swap (legs), các dòng tiền được tính toán dựa trên một con số ước tính nhất định. Các hợp đồng hoán đổi thường được dùng để phòng ngừa các loại rủi ro tài chính (như rủi ro về lãi suất thay đổi, rủi ro về tỉ giá, rủi ro về giá cổ phiếu), để hưởng các ưu đãi dành cho các công ty trong nước, hoặc để nhằm mục đích đầu cơ. V. Các chủ thể tham gia thị trường tài chính 1. Phát hành Nhà phát hành là tổ chức huy động vốn bằng cách bán chứng khoán do mình phát hành cho nhà đầu tư. Chủ thể phát hành bao gồm: Nhà nước, các doanh nghiệp và các trung gian tài chính. Nhà nước: Được coi là chủ thể phát hành lớn nhất trong nền kinh tế nhằm bù đắp các thiếu hụt về ngân sách hoặc thực hiện các mục tiêu tài chính quốc gia. Nhà nước thường phát
  27. hành hai loại công cụ là tín phiếu kho bạc và trái phiếu. Trong đó trái phiếu có thể là trái phiếu của chính phủ hoặc trái phiếu của chính quyền địa phương Doanh nghiệp: Doanh nghiệp vì mục đích là tài trợ vốn cho hoạt động kinh doanh đã thực hiện hoạt động phát hành trên thị trường tài chính thông qua các công cụ như trái phiếu và cổ phiếu Trung gian tài chính: Các trung gian tài chính như Ngân hàng thương mại, công ty tài chính, quỹ đầu tư, doanh nghiệp bảo hiểm cũng thực hiện hoạt động phát hành để tăng vốn hoạt động theo các hình thức phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu. 2. Đầu tư Là những chủ thể thực hiện các hoạt động mua chứng khoán từ các chủ thể phát hành để phục vụ các mục đích đa dạng của mình. Các nhà đầu tư trong nền kinh tế rất đa dạng nhưng có thể khái quát thành các chủ thể: Nhà nước, doanh nghiệp, trung gian tài chính, và hộ gia đình. Nhà nước: Thực hiện các hoạt động kinh tế để tăng nguồn thu ngân sách thông qua việc đầu tư góp vốn vào các tổ chức khác hoặc thực hiện việc kinh doanh các tài sản tài chính khác. Doanh nghiệp: Một trong các nghiệp vụ mà các doanh nghiệp có thể thực hiện khi có nguồn vốn nhàn rỗi là nghiệp vụ đầu tư tài chính (ngắn hạn và dài hạn) theo các hình thức đầu tư và trái phiếu hoặc cổ phiếu. Các trung gian tài chính: Các trung gian tài chính ngoài chức năng là trung gian điều tiết vốn, họ còn có thể thực hiện các hoạt động đầu tư tài chính vào các tài sản tài chính như cổ phiếu và trái phiếu. Các cá nhân:
  28. Các cá nhân khi có nguồn tiền nhàn rỗi họ có thể thực hiện các hoạt động đầu tư để đạt được các mục đích đa dạng của mình. Họ có thể thực hiện các hoạt động như gửi tiền ngân hàng, mua cổ phiếu hoặc trái phiếu. 3. Trung gian Là các tổ chức có tư cách pháp nhân kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ với hoạt động chủ yếu và thường xuyên là huy động vốn nhàn rỗi từ những người thừa vốn rồi đến lượt cho vay đối với những người cần vốn. Có thể phân loại các trung gian này thành: Các tổ chức nhận tiền gửi: Ngân hàng thương mại, quỹ tín dụng Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng: Công ty bảo hiểm, quỹ trợ cấp hưu trí Các trung gian đầu tư: Ngân hàng đầu tư, quỹ đầu tư tương hỗ, Các công ty tài chính 4. Quản lý Nhà nước Nhà nước ngoài vai trò là người phát hành hay là người đầu tư còn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt đông quản lý thị trường tài chính để đảm bảo thị trường này được vận hành hiệu quả. Nhà nước có thể quản lý thị trường này bằng các công cụ sau: Công cụ hành chính: hệ thống các luật và các văn bản quy định về hoạt động của thị trường; Công cụ tài chính: thông qua các chính sách tiền tệ và tài chính để điều tiết thị trường.