Bài giảng Phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng

doc 83 trang ngocly 4010
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docbai_giang_phan_tich_hoat_dong_kinh_doanh_ngan_hang.doc

Nội dung text: Bài giảng Phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng

  1. Chương 1 TỔNG QUAN VỀ PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Mục tiêu, chức năng, vai trò phân tích hoạt động kinh doanh NHTM 1.1.1. Mục tiêu Hoạt động kinh doanh ngân hàng là hoạt động gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế, đồng thời gắn liền với việc tìm kiếm lợi nhuận của ngân hàng. Do đó, để đạt được mục tiêu trên, ngân hàng cần phải thỏa mãn cao nhất các nhu cầu của khách hàng, vì khách hàng là một trong những nhân tố quyết định đến sự thành bại bại của ngân hàng. Để tiến hành điều đó, các ngân hàng phải tiến hành phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng, phải có bộ máy hoạt động hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động ngân hàng rất nhạy cảm đối với xã hội, là đầu mối của nhiều mối quan hệ liên quan liên quan đến kinh tế vĩ mô và vi mô. Do vậy, để đánh giá đầy đủ chính xác hoạt động của một ngân hàng thương mại rất phức tạp và khó khăn. Phân tích hoạt động kinh doanh là tổng thể các phương pháp sử dụng để đánh giá tình hình tài chính đã qua và hiện nay, giúp cho nhà quản lý đưa ra được quản lý quyết định chuẩn xác và đánh giá được ngân hàng, từ đó giúp những đối tượng quan tâm và sử dụng thông tin kinh tế tài chính của ngân hàng, mỗi đối tượng lại quan tâm theo góc độ và mục tiêu khác nhau. Do nhu cầu về thông tin tài chính rất đa dạng, đòi hỏi phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng phải được tiến hành bằng nhiều phương pháp khác nhau để từ đó đáp ứng nhu cầu của các đối tương quan tâm. Các đối tượng quan tâm, đến tình hình tài chính của ngân hàng có thể tập hợp thành các nhóm sau: - Các nhà quản lý ngân hàng. - Các cổ đông hiện tại và những người đang mong muốn thành cổ đông của ngân hàng.
  2. - Những người tham gia vào đời sống của ngân hàng như: + Khách hàng. + Ngân hàng nhà nước. + Nhà phân tích tài chính + Đối thủ cạnh tranh v v Các đối tượng sử dụng thông tin tài chính khác nhau sẽ đưa ra quyết định với mục đích khác nhau. Vì vậy, phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng đối với mỗi đối tượng khác nhau sẽ đáp ứng các vấn đề chuyên môn khác nhau. a. Phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng đối với nhà quản lý Nhà quản lý là người quản lý trực tiếp ngân hàng, nhà quản lý phải hiểu rõ tài chính của ngân hàng, do đó họ có nhiều thông tin phục vụ cho việc phân tích. Phân tích tài chính đối với nhà quản lý ngân hàng nhằm đáp ứng những mục tiêu sau: - Tạo ra những nhu cầu đều đặn đánh giá hoạt động quản lý trong giai đoạn đã qua, việc thực hiện cân bằng tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh khoản và rủi ro trong ngân hàng. - Định hướng ban giám đốc theo chiều hướng phù hợp với tình hình thực tế của ngân hàng, như quyết định về đầu tư tài trợ, phân phối lợi nhuận, - Phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng là một công cụ để kiểm tra, kiểm soát hoạt động, quản lý trong ngân hàng làm nổi bật điều quan trọng của dự đoán tài chính, mà dự đoán là nền tảng của hoạt động quản lý, làm sáng tỏ không chỉ chính sách tài chính mà còn làm rõ các chính sách chung trong ngân hàng. b. Phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng đối với các nhà đầu tư Các nhà đầu tư là những người giao vốn của mình cho các ngân hàng quản lý và như vậy có thể có rủi ro. Đó là những cổ đông, các cá nhân, các đơn vị, doanh nghiệp. Các đối tượng này quan tâm trực tiếp đến những tính toán về giá trị của ngân hàng. Thu nhập của các nhà đầu tư là tiền lời được chia và thặng
  3. dư giá trị của vốn. Hai yếu tố này phần lớn chịu ảnh hưởng của lợi nhuận thu được của ngân hàng. Trong thực tế, các nhà đầu tư tiến hành đánh giá khả năng sinh lời của ngân hàng. Câu hỏi chủ yếu đòi hỏi phải làm rõ ràng là: “tiền lời bình quân cổ phiếu của ngân hàng sẽ là bao nhiêu?’’. Cũng cần thấy rằng: các nhà đầu tư không hài lòng trước món lời tính toán kế toán và cho thấy rằng món lời này có quan hệ rất xa so với tiền lời thật sự. Tính trước các khoản lời sẽ được nghiên cứu đầy đủ trong chính sách phân phối lợi nhuận của ngân hàng và trong nghiên cứu rủi ro, hướng các lựa chọn vào những chứng khoán phù hợp nhất. Các nhà đầu tư phải dựa vào những nhà chuyên môn trung gian ( chuyên gia phân tích tài chính) nghiên cứu các thông tin kế toán tài chính, có những cuộc tiếp xúc trực tiếp với ban quản lý ngân hàng, làm rõ triển vọng phát triển của ngân hàng và đánh giá các cổ phiếu trên thị trường tài chính. Phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng đối với nhà đầu tư để đánh giá doanh nghiệp và ước đoán giá trị cổ phiếu, dựa vào việc nghiên cứu các báo biểu tài chính, khả năng sinh lời, phân tích rủi ro trong kinh doanh, c. Phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng đối với các chủ thể vay vốn và huy động vốn Đây là chủ thể gởi tiền vào ngân hàng dưới các hình thức huy động vốn của ngân hàng và cho vay vốn để đảm bảo nhu cầu hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Khi gởi tiền hoặc cho vay họ phải biết chắc được khả năng hoàn trả tiền vay của ngân hàng. Thu nhập của họ là lãi suất tiền gởi. Do đó, phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng đối với các chủ thể này là xác định khả năng hoàn trả nợ của ngân hàng cho khách hàng. Tuy nhiên, phân tích với những tiền gởi, cho vay ngắn hạn và dài hạn có những nét khác nhau. - Đối với những khoản nợ ngắn hạn: Khách hàng đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán ngay của ngân hàng. Nói cách khác là khả năng thanh toán của ngân hàng khi khách hàng có nhu cầu rút tiền hoặc nợ vay đến hạn. - Đối với những khoản nợ dài hạn:
  4. Khách hàng phải tin chắc khả năng hoàn trả và khả năng sinh lời của ngân hàng mà việc hoàn trả vốn và lãi lại tùy thuộc vào khả năng sinh lời này. d. Phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng đối với những người hưởng lương trong ngân hàng: Đây là những người có nguồn thu nhập được ngân hàng chi trả, như tiền lương, thưởng, Tuy nhiên, cũng có những ngân hàng, người hưởng lương có một số cổ phần nhất định trong ngân hàng. Đối với những ngân hàng này, người hưởng lương có thu nhập từ tiền lương được trả và tiền lời được chia. Cả 2 khoản thu nhập này phụ thuộc kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do vậy, phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng giúp họ định hướng việc làm ổn định của mình, trên cơ sở đó yên tâm phục vụ vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng tùy theo công việc được phân công và đảm nhiệm. Từ những vấn đề đã nêu ở trên cho thấy: phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng là công dụng hữu ích được dùng để xác định giá trị kinh tế, để đánh giá các mặt mạnh, yếu của ngân hàng, tìm ra nguyên nhân khách quan và chủ quan, giúp cho từng đối tượng lựa chọn và đưa ra những quyết định phù hợp với mục đích mà họ quan tâm. 1.1.2. Chức năng Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức. Vì vậy, khi tiến hành bất cứ hoạt động nào dù đơn giản hay phức tạp, dù các nhân tiếng hành hay đó là hành vi của một tổ chức thì xuất phát điểm của việc đưa ra các quyết định và tổ chức thực hiện quyết định bao giờ cũng từ nhận thức về mục tiêu,tính chất, xu hướng và hình thức phát triển của các sự vật hiện tượng. Trong quản lý kinh tế, nhận thức,quyết định va hành động là bộ ba biện chứng của sự quản lý có khoa học, trong dó nhận thức là sở, là tiền đề của việt đưa ra các quyết định và tổ chức thực hiện các quyết định. Nhận thức thế nào thì đưa ra quết định như thế đó. Nhận thức đúng sẽ đưa ra những quyết định đúng và tổ chức thực hiện các quyết định đúng đắn xuất phát từ nhận thức đúng bằng phương pháp khoa học sẽ đạt được mục tiêu mong muốn. Nhận thức sai, sẽ đưa ra các quyết định sai lầm
  5. và tổ chức thực hiện những quyết định sai lầm này thì hậu quả không thể lường hết. Tùy thuộc vào mức độ có thẩm quyền của ngưới đưa ra các quyết định và phạm vi thực hiện quyết định. Để đưa ra các quyết định đúng đắng và tổ chức thực hiện các quyết định đúng đắn đó một cách khoa học cần có nhận thức đúng đăn đầy đủ về các hiện tượng và các sự kiện kinh tế. Nhận thức đúng đắn về kinh tế là nhận thức được bản chất, tính chất, quy luật khách quan về sự vận động và phát triển của các hiện tượng và sự kiện kinh tế. Nhận thức đầy đủ các hiện tượng và sự kiện kinh tế là nhận thức được diễn biến vận động của các hiện tượng và sự kiện, sự tác động của các hoạt động kinh tế và ảnh hưởng của các quyết định kinh tế và ảnh hưởng của các quyết định kinh tế đến mục tiêu quan tâm. Để có nhận thức đầy đủ và đúng đắn, các đối tượng tùy mục tiêu quan tâm mà lựa chọn những nội dung phân tích phù hợp. Phân tích hoạt động kinh doanh với vị trí là công cụ của nhận thức các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh và tài chính, trong qúa trình tiến hành, phân tích sẽ thực hiện các chức năng: đánh giá, dự đoán và điều chỉnh tài chính. a. Chức năng đánh giá Tài chính ngân hàng là hệ thống các luồng dịch chuyển giá trị, các luồng vận động của các nguồn tài chính trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ hoặc vốn hoạt động của ngân hàng nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Các luồng dịch chuyển giá trị, sự vận động của các nguồn tài chính nảy sinh và diễn ra như thế nào, nó tác động ra sao đến quá trình kinh doanh, chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau, có yếu tố mang tính môi trường, có yếu tố bên trong, yếu tố bên ngoài nhưng cụ thể là những yếu tố nào, tác động đến sự vận chuyển và dịch chuyển ra sao, gần với mục tiêu hay ngày càng ngày càng xa rời mục tiêu kinh doanh của ngân hàng, có phù hợp với cơ chế và chính sách pháp luật hay là những vấn đề mà phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng phải đưa ra câu hỏi. Quá trình tạo lập, phân phối, sử dụng vốn hoạt động và các quỹ tiền lệ ở ngân hàng diễn ra như thế nào,
  6. tác động ra sao đến kết quả kinh doanh, là những vấn đề phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng phải làm rõ. Thực hiện trả lời và làm rõ những vấn đề nêu trên là thực hiện chức năng đánh giá tài chính ngân hàng. b. Chức năng dự đoán Mọi quyết định của con người đều hướng vào thực hiện những mục tiêu nhất định. Mục tiêu là đích hướng tới bằng những hành động cụ thể trong tương lai. Những mục tiêu này có thể là ngắn hạn hoặc dài hạn. Nhưng nếu liên quan đến đời sống kinh tế của ngân hàng thì cần nhận thấy tiềm lực tài chính, diễn biến luồng chuyển dịch giá trị, sự vận động của vốn hoạt động trong tương lai của ngân hàng. Những quyết định và hành động trong tương lai phụ thuộc vào diễn biến kinh tế xã hội và hoạt động ngân hàng sẽ diễn ra trong tương lai. Bản thân ngân hàng cho dù ở trong giai đoạn nào của sự phát triển thì các hoạt động cũng đều hướng tới những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này được hình thành từ nhận thức về điều kiện, năng lực của bản thân, cùng những diễn biến của tình hình kinh tế trong nước và quốc tế, sự tác động của các yếu tố kinh tế xã hội trong tương lai. Vì vậy, để có những quyết định phù hợp và tổ chức thực hiện hợp lý, đáp ứng được mục tiêu mong muốn của các đối tượng quan tâm thì cần thấy hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong tương lai. c. Chức năng điều chỉnh Tài chính ngân hàng là hệ thống các quan hệ kinh tế tài chính dưới hình thái giá trị phát sinh trong quá trình tiến hành các hoạt động. Hệ thống các quan hệ đó bao gồm nhiều loại khác nhau, rất đa dạng phong phú và phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân và nhân tố cả bên trong lẫn bên ngoài ngân hàng. Hệ thống các quan hệ kinh tế tài chính đó sẽ là bình thường nếu tất cả các mắt xích trong hệ thống điều diễn ra bình thường đó là sự kết hợp hài hòa các mối quan hệ. Tuy nhiên, những mối quan hệ kinh tế ngoại sinh, bản thân ngân hàng cũng như các đối tượng quan tâm không thể kiểm soát và chi phối toàn bộ. Vì thế, kết hợp hài hòa các mối quan hệ, các đối tượng có liên quan phải điều chỉnh có quan hệ và nghiệp vụ kinh tế nội sinh. Muốn vậy, cần nhận thức rõ nội dung, hình thức, tính chất và xu hướng phát triển của các quan hệ tài chính có
  7. liên quan. Phân tích hoạt động kinh doanh giúp ngân hàng và các đối tượng quan tâm nhận thức được điều này. 1.1.3. Vai trò Phân tích hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại là sử dụng các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật để đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại đó trong một kỳ kinh doanh nhất định, thông thường là một năm. Qua đó để tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến hoạt động có hiệu quả hay không có hiệu quả của Ngân hàng, nhằm tìm ta các giải pháp hoàn thiện các hoạt động của NHTM được ngày càng hiểu quả hơn. Như vậy phân tích hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại có vai trò sau đây: a. Phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng là một công cụ để đánh giá hoạt động của ngân hàng thương mại. Thông qua quá trình Phân tích hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại có thể đánh giá được sự thành công hay thất bại của NHTM trong thời gian qua. Bằng các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật như lợi nhuận, doanh thu, năng suất lao động, của thời kỳ phân tích các hoạt động quản trị có thể thấy được quy mô hoạt động, thấy được hoạt động của ngân hàng, thấy được trình độ phát triển và tính chất bền vững ổn định của các lĩnh vực hoạt động của ngân hàng trong thời gian qua. Mục tiêu của kinh doanh ngân hàng thương mại là lợi nhuận. Sự gia tăng lợi nhuận này càng cao và bền vững thể hiện hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên hiệu quả hoạt động của ngân hàng cũng có thể được đánh giá tùy theo từng thời kỳ chiến lược. Do vậy qua phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng chúng ta cũng có thể thấy được ý đồ chiến lượt của ngân hàng có thể thực hiện được hay không. Ví dụ: Sự gia tăng doanh thu một cách đều đặn gắn liền với chiến lược mở rộng thị trường của ngân hàng, cũng cố chất lượng khách hàng, hoặc mở rộng lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng,
  8. b. Phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng là một công cụ của ngân hàng đánh giá lại chiến lược kinh doanh của mình và chiến lược kinh doanh mới. Một chiến lược kinh doanh được hoạt định có thể là hoàn toàn đúng đắn, có thể vẫn còn sự thiếu sót. Thông qua phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng các ngân hàng thương mại sẽ xem xét chiến lược kinh doanh của mình đề ra có được đúng đắn phù hợp với thực tiễn nên kinh tế hay không, có điểm nào sai thiếu sót, cần điều chỉnh lại. Ví dụ: thông qua các chỉ tiêu lợi nhuận, hoặc cơ cấu doanh thu của hệ thống ngân hàng , các ngân hàng sẽ so sánh các chỉ tiêu hoạch định và chi tiêu thực tế để thấy được sự sai biệt. Từ sự sai biệt này các ngân hàng thương mại sẽ tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự sai biệt đó, thông qua đó mà xem xét lại việc hoạch định chiến lược kinh doanh có sai sót hay do quá trình thực hiện chưa đảm bảo. Qua phân tích hoạt động kinh doanh các ngân hàng thương mại sẽ còn nhận biết được các lĩnh vực đầu tư của ngân hàng lựa chọn có thích hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế không, ngân hàng có cần thay đổi định hướng đầu tư hay không hay phải tiếp tục phát triển theo định hướng đã chọn, c. Phân tích hoạt động kinh doanh là tổng hợp sự kết hợp nhiều yếu tố khác nhau trong quản trị kinh doanh. Thông qua phân tích hoạt động kinh doanh kết hoạt động kinh doanh chúng ta có thể đánh giá được khả năng quản trị của ngân hàng, trình độ của cán bộ, trình độ cơ sở vật chất công nghệ còn có thích hợp cho sự phát triển của ngân hàng hay không, những mặt nào đang phát huy được tác dụng và mặt nào đang bất cập. Nói tóm lại để có thể rút ra những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn và có những sách lược, chiến lược phù hợp với thực tiễn mọi ngân hàng đều phải tiến hành đánh giá kết quả kinh doanh của mình, qua đó tìm các biện phát để nâng cao chất lượng kinh doanh phù hợp với thực lực chủ quan và môi trường khách quan.
  9. d. Phân tích hoạt động kinh doanh là công cụ để kiểm soát sự đúng đắn của các hoạt động kế toán, thống kê của ngân hàng thương mại. Các chỉ tiêu tài chính, cung cấp số liệu thể hiện trên bảng cân đối kế toán, trên cac báo cáo tài chính cho Hội đồng quản trị, cho Ban giám đốc của một ngân hàng thương mại và các ban ngành của Chính phủ có thể sẽ có sự sai biệt thực tế. Như vậy để đảm bảo cho những con số đó thực sự phản ánh đúng tình trạng tài chính của 1 ngân hàng thương mại. Số liệu phản ánh có đúng đắn thì việc sử dụng số liệu đó mới có hiệu quả, mang ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Thông qua phân tích hoạt động kinh doanh, bộ phận phân tích có thể phát hiện các sai sót của quá trình phản ánh của hệ thống kế toán, thống kê và biện phát phát triển cho phù hợp. Các cơ quan Nhà nước có thể phân tích hoạt động kinh doanh để phát hiện sai sót, gian dối trong hạch toán kế toán, thống kê của đơn vị báo cáo. e. Phân tích hoạt động kinh doanh là công cụ để đánh giá tính chất lành mạnh hoặc yếu kém của một ngân hàng thương mại. Mục tiêu cao nhất vừa là vai trò của phân tích hoạt động kinh doanh làm sao vạch ra được tình hình tài chính của ngân hàng thương mại hiện tại có lành mạnh hay không, có gây hậu quả xấu gì cho tương lai hay không, có đảm bảo khả năng thanh toán hay không, có gì vi phạm pháp luật hay không, 1.2. Đối tượng phân tích hoạt động kinh doanh NHTM Cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế, sự phong phú đa dạng của các ngân hàng thương mại trong nên kinh tế, phân tích hoạt động kinh doanh đã phát triển và trở thành một môn khoa học kinh tế độc lập, có đối tượng nghiên cứu riêng. Đối tượng phân tích là các mặt hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Tùy thuộc vào mục đích cụ thể của yêu cầu phân tích, việc phân tích có thể đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy vậy, phân tích bất kỳ một khía cạnh nào của hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng không hạn chế phạm vi các vấn đề được quan tâm.
  10. Các phương tiện chủ yếu có thể được đề cập đến trong việc phân tích hoạt động kinh doanh của ngân hàng là: các nghiệp vụ kinh doanh sinh lời trực tiếp; các biện pháp đảm bảo an toàn kinh doanh; việc tổ chức và hiệu quả quản lý hoạt động ngân hàng ( bộ máy, nhân sự, phương pháp quản lý, ) ; chiến lược kinh doanh của ngân hàng; sự tôn trọng; chấp hành các quy định của phát luật ( quản lý và kinh doanh ngoại hối, chấp hành các hạn chế của Ngân hàng Trung Ương, thực hiện nghĩa vụ với ngân sách, ); kết quả kinh doanh, 1.3. Phương pháp phân tích 1.3.1. Phương pháp so sánh Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi phổ biến trong phân tích kinh tế nói chung, phân tích hoạt động kinh doanh nói riêng. Khi sử dụng phương pháp so sánh cần chú ý những vấn đề sau: - Thứ nhất: điều kiện so sánh + Phải tồn tại ít nhất 2 đại lượng ( chỉ tiêu) + Các đại lượng phải đảm bảo tính chất so sánh được. Đó là sự thống nhất về nội dung kinh tế, thống nhất về phương pháp tính toán, thống nhất về thời gian và đơn vị đo lường. - Thứ hai: xác định gốc để so sánh Kỳ gốc so sánh tùy thuộc vào mục đích của phân tích. Cụ thể: + Khi xác định cu hướng và tốc độ phát triển của chi tiêu phân tích thì gốc so sánh được xác định là trị số của chỉ tiêu phân tích ở kỳ trước hoặc hàng loạt kỳ trước (năm trước). Lúc này sẽ so sánh chỉ tiêu giữa kỳ này với kỳ trước, năm nay với năm trước hoặc hàng loạt kỳ trước. + Khi đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra thì gôc so sánh là trị số kế hoạch của chỉ tiêu phân tích. Khi đó, tiến hành so sánh giữa thực tế với kế hoạch của chỉ tiêu + Khi xác định vị trí của doanh nghiệp thì gốc so sánh là giá trị trung bình của ngành hay chỉ tiêu phân tích của đối thủ cạnh tranh. - Thứ ba: kỹ thuật so sánh
  11. Kỹ thuật so sánh thường được sử dụng là so sánh bằng số tuyệt đối, so sánh bằng số tương đối. + So sánh bằng số tuyệt đối để thấy được sự biến động về số tuyệt đối của chỉ tiêu phân tích. + So sánh bằng số tương đối để thấy thực tế so với kỳ gốc chỉ tiêu tăng hay giảm bao nhiêu %. 1.3.2. Phương pháp phân chia ( chi tiết): Đây là phương pháp được sử dụng để chia nhỏ quá trình và kết quả kinh tế thành những bộ phận khác nhau phục vụ cho những mục tiêu nhận thức quá trình và kết quả đó dưới những khía cạnh khác nhau phù hợp với mục tiêu quan tâm của từng đối tượng trong từng thời kỳ. Thông thường trong phân tích người ta thường chi tiết quá trình phát sinh và kết quả đạt được thể hiện qua những chỉ tiêu kinh tế theo những tiêu thức sau: - Chi tiết theo yếu tố cấu thành của chỉ tiêu nghiên cứu, là việc chia nhỏ chỉ tiêu nghiên cứu thành các bộ phận cấu thành nên bản thân chỉ tiêu đó. - Chi tiết theo thời gian phát sinh quá trình và kết quả kinh tế: là việc chia nhỏ quá trình và kết quả theo trình tự thời gian phát sinh và phát triển. - Chi tiết theo không gian phát sinh của hiện tượng và kết quả kinh tế là việc chia nhỏ quá trình và kết quả theo địa điểm phát sinh và phát triển của chỉ tiêu nghiên cứu . 1.3.3. Phương pháp liên hệ đối chiếu: Là phương pháp phân tích sử dụng để nghiên cứu xem xét mối liên hệ kinh tế giữa các sự kiện và hiện tượng kinh tế, đồng thời xem xét tính cân đối của các chỉ tiêu kinh tế trong quá trình thực hiện các hoạt động. Sử dụng phương pháp này cần chú ý đến các mối liên hệ mang tính nội tại, ổn định, chung nhất và được lặp đi lặp lại, các liên hệ ngược, liên hệ xuôi, tính cân đối tổng thể, cân đối từng phần. Vì vậy, cần thu thập được thông tin đầy đủ và thích hợp về các khía cạnh liên quan đến các luồng dịch chuyển giá trị và sự vận động của các nguồn lực trong ngân hàng. 1.3.4. Phương pháp phân tích nhân tố
  12. Là phương pháp được sử dụng để lập công thức tính toán các chỉ tiêu kinh tế tài chính trong mối quan hệ với các nhân tố ảnh hưởng. Trên cơ sở mối quan hệ giữa các chỉ tiêu được sử dụng để phân tích và các nhân tố ảnh hưởng mà sử dụng hệ thống các phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố và phân tích tính chất ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ tiêu phân tích. a. Phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố: Là phương pháp được sử dụng để xác định mức độ ảnh hưởng cụ thể của từng nhân tố đến chỉ tiêu nghiên cứu. Có nhiều phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố, sử dụng phương pháp nào tùy thuộc vào mối quan hệ giữa chỉ tiêu phân tích với các nhân tố ảnh hưởng. Các phương pháp thường được sử dụng như sau: - Phương pháp thay thế liên hoàn: Được sử dụng khi chỉ tiêu phân tích có quan hệ với nhân tố ảnh hưởng thể hiện dưới dạng phương trình tích hoặc phương trình thương. Nếu là phương trình tích thì các nhân tố được sắp xếp theo trình tự: nhân tố số lượng đứng trước nhân tố chất lượng, trường hợp có nhiều nhân tố số lượng hay nhiều nhân tố chất lượng thì nhân tố chủ yếu đứng trước nhân tố thứ yếu. Khi đó để xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố, ta tiến hành lần lượt thay thế số kỳ gốc của mỗi nhân tố bằng số thực tế của nhân tố đó (nhân tố đã được thay thế mang lại giái trị thực tế từ đó còn những nhân tố khác giữa nguyên ở kỳ gốc); sau mỗi lần thay thế phải xác định được kết quả của lần thay thế ấy; chênh lệch giữa kết quả đó với kết quả của lần thay thế ngay trước là ảnh hưởng của nhân tố vừa thay thế. Chú ý: Trong cả quá trình thay thế liên hoàn, trình tự sắp xếp của các nhân tố không được thay đổi được trật tự. Tổng đại số mức độ ảnh hưởng của các nhân tố phải đúng bằng đối tượng phân tích. Ví dụ 1: Giả sử chỉ tiêu phân tích Q có mối quan hệ với các nhân tố ảnh hưởng a,b,c thể hiện qua công thức: Q= a x b x c
  13. Trong đó: a: nhân tố số lượng chủ yếu b: nhân tố số lượng thứ yếu c: nhân tố chất lượng Như vậy, các nhân tố đã được sắp xếp từ số lượng đến chất lượng, từ chủ yếu đến thứ yếu. Nếu ký hiệu chỉ số 0;1 thể hiện số kỳ gốc và số thực tế thì: Số kỳ gốc của chỉ tiêu phân tích được xác định là: Q 0 = a0 x b0 x c0 Số thực tế được xác định là: Q 1 = a1 x b1 x c1 Đối tượng phân tích được xác định: Q1 - Q0 = ∆Q = (a1 x b1 x c1) – (a0 x b0 x c0 ) Dùng phương pháp thay thế liên hoàn để xác định các mức độ ảnh hưởng của các nhân tố a, b, c đến các chỉ tiêu phân tích. Cụ thể: - Thay thế lần 1: thay thế nhân tố a được kết quả là: a1 x b0 x c0 Ảnh hưởng của nhân tố a được xác định theo công thức: ∆a = (a1 x b0 x c0) – (a0 x b0 x c0 ) - Thay thế lần 2: thay thế nhân tố b được kết quả là: a1 x b1 x c0 Ảnh hưởng của nhân tố b được xác định theo công thức: ∆b = (a1 x b1 x c0) – (a1 x b0 x c0 ) - Thay thế lần 3: thay thế nhân tố b được kết quả là: a1 x b1 x c1 Ảnh hưởng của nhân tố c được xác định theo công thức: ∆c = (a1 x b1 x c1) – (a1 x b1 x c0 ) Tổng hợp lại: tổng đại số mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đúng bằng đối tượng phân tích: ∆Q = ∆a + ∆b + ∆c Ví dụ: Giả sử chỉ tiêu phân tích có mối quan hệ với các nhân tố ảnh hưởng a, b, c thể hiện qua công thức: a P = x c b Trong đó: a: nhân tố số lượng chủ yếu b: nhân tố số lượng thứ yếu c: nhân tố chất lượng
  14. Số kỳ gốc của chỉ tiêu phân tích được xác định là: P0 = a0 / b0 x c0 Số thực tế được xác định là: P 1 = a1 / b1 x c1 Đối tượng phân tích được xác định: Q1 - Q0 = ∆Q = a1 / b1 x c1 – a0 / b0 x c0 Dùng phương pháp thay thế liên hoàn để xác định các mức độ ảnh hưởng của các nhân tố a, b, c đến các chỉ tiêu phân tích. Cụ thể: - Thay thế lần 1: thay thế nhân tố a được kết quả là: a1 / b0 x c0 Ảnh hưởng của nhân tố a được xác định theo công thức: ∆a = a1 /b0 x c0 – a0 / b0 x c0 - Thay thế lần 2: thay thế nhân tố b được kết quả là: a1 / b1 x c0 Ảnh hưởng của nhân tố b được xác định theo công thức: ∆b = a1 / b1 x c0 – a1 / b0 x c0 - Thay thế lần 3: thay thế nhân tố b được kết quả là: a1 / b1 x c1 Ảnh hưởng của nhân tố c được xác định theo công thức: ∆c = a1 / b1 x c1 – a1 / b1 x c0 Tổng hợp lại: tổng đại số mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đúng bằng đối tượng phân tích: ∆Q = ∆a + ∆b + ∆c - Phương pháp số chênh lệch: Đây là hệ quả của phương pháp thay thế liên hoàn áp dụng khi nhân tố ảnh hưởng có quan hệ với chỉ tiêu phân tích. Sử dụng phương pháp này, muốn xác định ảnh hưởng của nhân tố nào đó, người ta lấy thực tế và kỳ gốc của nhân tố ấy nhân với nhân tố đứng trước ở thực tế, nhân tố đứng sau ở kỳ gốc trên cơ sở tuân thủ trình tự sắp xếp các nhân tố. Ví dụ: Cũng chỉ tiêu Q phân tích ở ví dụ 1 dùng phương pháp số chênh lệch xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố như sau: Ảnh hưởng của nhân tố a được xác định theo công thức: ∆a = (a1 - a0) x b0 x c0 Ảnh hưởng của nhân tố b được xác định theo công thức: ∆b = a1 x (b1 x b0) x c0 Ảnh hưởng của nhân tố c được xác định theo công thức:
  15. ∆c = a1 x b1 x (c1 – c0 ) Tổng hợp lại: ∆Q = ∆a + ∆b + ∆c - Phương pháp cân đối: Đây là phương pháp được sử dụng để xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố nếu chỉ tiêu phân tích có quan hệ với nhân tố ảnh hưởng dưới dạng tổng và hiệu. Xác định mức độ ảnh hưởng nhân tố nào đó đến chỉ tiêu phân tích bằng phương pháp cân đối người ta xác định chênh lệch giữa thực tế và kỳ gốc nhân tố ấy. Tuy nhiên, cần để ý đến quan hệ thuận, nghịch giữa nhân tố ảnh hưởng với chỉ tiêu phân tích. Ví dụ: Mối quan hệ giữa chỉ tiêu phát triển M với các nhân tố ảnh hưởng a, b, c thể hiện qua công thức: M = a+ b + c Chênh lệch M1 – M0 = ∆M là đối tượng phân tích Mức độ ảnh hưởng các nhân tố đến chỉ tiêu phát triển được xác định như sau: Mức độ ảnh hưởng của nhân tố a: ∆a = a1 – a0 Mức độ ảnh hưởng của nhân tố b: ∆b = b1 – b0 Mức độ ảnh hưởng của nhân tố c: ∆c = c1 – c0 Tổng hợp lại: ∆Q = ∆a + ∆b + ∆c Phương pháp phân tích tính chất của các nhân tố: Sau khi xác định được mức độ ảnh hưởng, để có đánh giá và dự đoán hợp lý, trên cơ sở đó đưa ra quyết định và cách thức thực hiện các quyết định cần tiến hành phân tích tính chất ảnh hưởng của các nhân tố. Việc phân tích được thực hiện thông qua chỉ rõ và giải quyết các vấn đề như sau: chỉ rõ mức độ ảnh hưởng, xác định tính chất chủ quan, khách quan của từng nhân tố ảnh hưởng, phương pháp đánh giá và dự đoán cụ thể, đồng thời xác định ý nghĩa của các nhân tố tác động đến chỉ tiêu đang nghiên cứu, xem xét. 1.3.5. Phương pháp dự đoán:
  16. Là phương pháp phân tích sử dụng để dự báo tài chính. Có nhiều phương pháp khác nhau để dự báo tài chính trong tương lai. Song, người ta thường sử dụng các phương pháp: a. Phương pháp hồi quy Là phương pháp sử dụng số liệu quá khứ, dữ liệu đã diễn ra theo thời gian hoặc diễn ra theo cùng một thời điểm để thiết lập mối quan hệ giữa các hiện tượng và sự kiện có liên quan. Theo thuật ngữ toán thì đây gọi là sự nghiên cứu các mức độ tác động của 1 hay nhiều biến độc lập ( biến giải thích) đến một biến số gọi là biến phụ thuộc (biến kết quả). Mối quan hệ này được biểu diễn dưới dạng phương trình gọi là phương trình hồi quy. Dựa vào phương trình hồi quy người ta có thể giải thích các kết quả đã diễn ra, ước tính và dự đoán những sự kiện xảy ra trong tương lai. Phân tích hoạt động kinh doanh NHTM có thể sử dụng phương pháp hồi quy đơn, hồi quy bội để đánh giá và dự báo kết quả tài chính. - Phương pháp hồi quy đơn (hồi quy đơn biến): Được dùng để xem xét mối quan hệ giữa một chỉ tiêu là kết quả vận động của một hiện tượng kinh tế ( trong phương pháp hồi quy chỉ tiêu kết quả được gọi là biến phụ thuộc, chỉ tiêu nguyên nhân được gọi là biến độc lập). Phương trình hồi quy đơn biến có dạng: Y = a+ bx Trong đó: Y: biến phụ thuộc x: biến độc lập a: tung độ gốc (nút chặn trên của đồ thị ) b: hệ số gốc (độ dốc hay độ nghiên của đường biểu diễn Y trên đồ thị) Trong phương pháp hồi quy đơn, với mục đích là giải thích hoặc dự báo một chỉ tiêu cần nghiên cứu, nên việc quan trọng nhất là tìm ra giá trị của a, b. Trên cơ sở đó, xây dựng phương trình hồi quy tuyến tính để ước lượng các giá trị của Y tương ứng với mỗi giá trị của x.
  17. Để xác định giá trị thông số a, b người ta sử dụng các phương pháp như phương pháp cực đại, cực tiểu, phương pháp bình quân tối thiểu hoặc phần mềm Excel. Với phương pháp cực đại: Ymax - Ymin b = Xmax - Xmin A = Y – bx hoặc a = Y – bX Với phương pháp bình phương bé nhất: n (X i X )(Yi Y) i 1 b n 2 (X i X ) i 1 Hay: n (X iYi nXY) i 1 b n 2  X i nX i 1 a = Y – bX - Phương pháp hồi quy bội ( hồi quy đa biến): Là phương pháp sử dụng để phân tích mối quan hệ giữa nhiều biến độc lập với 1 biến phụ thuộc (một chỉ tiêu kết quả với nhiều chỉ tiêu nguyên nhân) Trong thực tế, có nhiều mô hình phân tích sử dụng hồi quy đa biến. Một chỉ tiêu kinh tế chịu sự tác động cùng lúc của nhiều nhân tố thuận chiều, ngược chiều. Mặt khác, giữa các nhân tố có mối quan hệ nội tại. Vì vậy phân tích hồi quy vừa kiểm định giả thiết về nhân tố tác động và mức độ ảnh hưởng, vừa định lượng các quan hệ kinh tế giữa chúng. Từ đó có cơ sở cho phân tích dự báo và có quyết định phù hợp, có hiệu quả trong việc thực hiện mục tiêu mong muốn của các đối tượng. Phương trình hồi quy đa biến tổng quát dưới dạng tuyến tính là: Y = b0 + b1x1 + b2x2 + + bixi + + bnxn + e Trong đó: Y: biến phụ thuộc
  18. xi: biến độc lập (nhân tố ảnh hưởng ) b0: tung độ gốc bi: là các độ dốc hay độ nghiên của phương trình theo các biến xi. e: sai số Mục tiêu của phương pháp hồi quy đa biến là dựa vào các dự liệu lịch sử về các biến X i, Yi dùng thuật toán để tìm các thông số b o và bi xây dựng phát triển hồi quy để dự báo cho các ước lượng trung bình của biến Y. b. Phương pháp quy hoạch tuyến tính: Là phương pháp sử dụng bài toán quy hoạch để tìm ra phương án tối ưu cho các quyết định kinh tế. c. Phương pháp sử dụng mô hình kinh tế lượng: Là phương pháp thiết lập mối quan hệ giữa các hiện tượng và sự kiện kinh tế, sau đó sử dụng mô hình kinh tế lượng để dự báo kết quả kinh tế trong tương lai. 1.4. Kỹ thuật phân tích hoạt động kinh doanh ngân hàng thương mại Thực hiện các phương pháp phân tích nêu trên, sau khi thu thập được thông tin, phân tích hoạt động kinh doanh có thể sử dụng một số kỹ thuật phân tích cơ bản như: phân tích dọc, phân tích ngang, - Kỹ thuật phân tích dọc: là kỹ năng phân tích sử dụng để xem xét tỷ trọng của từng bộ phận trong tổng thể quy mô chung. Điều quan trọng khi sử dụng kỹ thuật phân tích này là xác định quy mô chung được làm tổng thể để xác định tỷ trọng của từng thành phần. - Kỹ thuật phân tích ngang: là sự so sánh về lượng trên cùng 1 chỉ tiêu, thực chất là áp dụng phương pháp so sánh về cả số tuyệt đối với những thông tin thu nhập được sau khi xử lý và thiết kế dưới dạng bảng. 1.5. Tổ chức phân tích hoạt động kinh doanh NHTM Công tác phân tích hoạt động kinh doanh có thể nằm ở năm 1 bộ phận riêng biệt đặt dưới kiểm soát trực tiếp của Ban giám đốc và làm tham mưu cho giám đốc. Theo hình thức này thì quá trình phân tích được thực hiện trên toàn bộ nội dung của toàn bộ hoạt động kinh doanh. Kết quả phân tích sẽ cung cấp thông
  19. tin thường xuyên được truyền thông từ trên xuống dưới theo các kênh, căn cứ theo chức năng quản lý và quá trình đánh giá, kiểm tra, kiểm soát điều chỉnh, chấn chỉnh, đối với từng bộ phận của doanh nghiệp, từ ban giám đốc tới các phòng, ban. - Công tác phân tích hoạt động kinh doanh được thực hiện ở nhiều bộ phận riêng biệt căn cứ theo chức năng của quản lý nhằm cung cấp và thỏa mãn thông tin cho các bộ phận quản lý được phân quyền, trách nhiệm trong lĩnh vực kiểm tra, kiểm soát và ra quyết định đối với chi phí, doanh thu, trong phạm vi được giao quyền đó. Nói chung, phân tích hoạt động kinh doanh trong ngân hàng thường được tiến hành các bước sau: 1.5.1. Lập kế hoạch phân tích Lập kế hoạch phân tích là giai đoạn đầu tiên, là một khâu quan trọng ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng, thời hạn và tác dụng của phân tích hoạt động kinh doanh. Giai đoạn lập kế hoạch được tiến hành chu đáo, chuẩn xác sẽ giúp cho các giai đoạn sau tiến hành có kết quả tốt. Vì vậy, giai đoạn này được coi là giai đoạn chuẩn bị. Lập kế hoạch phân tích, bao gồm việc xác định mục tiêu, xây dựng chương trình phân tích, thời gian tiến hành, những thông tin cần thu thập tìm hiều. 1.5.2. Tiến hành phân tích: Tiến hành phân tích: là giai đoạn triển khai thực hiện các kế hoạch đã ghi trong kế hoạch. Tiến hành phân tích, bao gồm các công việc cụ thể sau: + Sưu tầm tài liệu, xử lý số liệu. + Tính toán các chỉ tiêu phân tích. + Xác định nguyên nhân và tính toán mức độ ảnh hưởng của các nhân tố ảnh hưởng đến các chỉ tiêu phân tích. + Xác định và dự đoán những nhân tố kinh tế xã hội tác động đến tình hình kinh doanh của ngân hàng. + Tổng hợp kết quả, rút ra nhận xét, kết luận về tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
  20. 1.5.3. Kết thúc phân tích: Giai đoạn kết thúc: là giai đoạn cuối cùng về việc phân tích. Trong giai đoạn này cần tiến hành những công việc cụ thể như: viết báo cáo phân tích, hoàn chỉnh hồ sơ phân tích.
  21. Chương 2 PHÂN TÍCH NGUỒN VỐN – TÀI SẢN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 2.1. Phân tích nguồn vốn ngân hàng thương mại 2.1.1. Phân tích hoạt động huy động vốn Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu sử dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng , nó chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh ngân hàng thương mại. Vốn huy động là những phương tiện tiền tệ do ngân hàng huy động từ nền kinh tế, thông qua cac nghiệp vụ ký thác và nghiệp vụ khác để làm vốn kinh doanh. Đặc điểm cơ bản của nguồn vốn này là ngân hàng chỉ được quyền sử dụng nó trong thời gian nhất định còn quyền sở hữu nó thuộc về những quyền ký thác. Do đó, khi sử dụng ngân hàng phải luôn dự trữ tiền ở một tỷ lệ nhất định để đảm bảo chi trả cho các nhu cầu tiền tệ của khách hàng. Chỉ số 1 VỐN TỰ CÓ H1 = Ʃ NGUỒN VỒN HUY ĐỘNG Trong đó: - Vốn tự có là vốn cấp 1 - Tổng nguồn vốn huy động: Các loại tiền gởi và giấy tờ có giá ngân hàng dùng để huy động. Chỉ số này đưa ra nhằm mục đích giới hạn mức huy động vốn của ngân hàng để tránh tình trạng khi ngân hàng huy động vốn nhiều quá mức bảo vệ của vốn tự có làm cho ngân hàng có thể mất khả năng chi trả. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước quy định, tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng thương mại phải = = 5% Chỉ số 2 TỶ TRỌNG SỐ DƯ TỪNG LOẠI TIỀN GỞI x 100% TỪNG LOẠI Ʃ VỒN HUY ĐỘNG TIỀN GỞI
  22. Đây là chỉ số có cơ cấu vốn huy động do đó việc xác định rõ cơ cấu vốn huy động sẽ giúp ngân hàng hạn chế những rủi ro có thể gặp phải và tối thiểu hóa chi phí đầu vào. Dựa vào tính chất khả dụng của vốn huy động người ta có thể chia nó thành các loại sau: a. Vốn huy động từ tiền gởi: Vốn tiền gởi bao gồm tiền gởi của các tổ chức kinh tế, tiền gởi của dân cư và tiền gởi khác. + Tiền gởi của tổ chức kinh tế: Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các tổ chức kinh tế thường có một bộ phận vốn tạm thời như khấu hao đã trích nhưng chưa sử dụng, tiền thu bán hàng chưa phải mua nguyên liệu, trả lương hay các quỹ đầu tư phát triển, phúc lợi, khen thưởng đã trích nhưng chưa sử dụng đến. Để đảm bảo an toàn tài sản và đồng vốn vẫn sinh lời các tổ chức kinh tế có thể gởi số vốn đó vào ngân hàng . Tổ chức kinh tế có thề gởi vốn vào ngân hàng dưới các hình thức tiền gởi không kỳ hạn và tiền gởi có kỳ hạn với các kỳ hạn khác nhau, đồng thời ngân hàng sẽ mở cho đơn vị tài khoản tương ứng để thuận tiện việc sử dụng. - Tiền gởi không kỳ hạn: Là loại tiền gởi mà người gởi có thể rút tiền ra bất kỳ lúc nào và ngân hàng luôn luôn có nghĩa vụ phải thỏa mãn các nhu cầu đó. Loại tiền gởi này có mục đích chính là để thanh toán và sử dụng các tiện ích của ngân hàng . Đối với tiền gởi không kỳ hạn mặc dù việc gởi và rút tiền có thể thực hiện bất kỳ lúc nào, ngân hàng khó xác định trước, nhưng trên thực tế luôn có sự chênh lệch giữa thời gian và số lượng giữa việc gởi và việc rút tiền, cho nên tại mỗi ngân hàng luôn tồn tại một số dư tiền gởi không kỳ hạn và ngân hàng có thể sử dụng để cho vay. Lãi suất của loại tiền gởi này là thấp nhất, cho nên nguồn vốn này giúp ngân hàng hạ thấp giá mua vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh trong cho vay và đầu tư. Do người ký thác có thể rút tiền ra bất kỳ lúc nào và ngân hàng luôn luôn phải thỏa mãn các nhu cầu của họ.
  23. Khách hàng gởi tiền vào ngân hàng không nhằm mục đích hưởng lãi mà vì nhu cầu giao dịch, thanh toán. Chính vì vậy lãi suất không phải là công cụ để thu hút nguồn vốn này mà công cụ chính là các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp kèm theo phải là dịch vụ có nhiều tiện ích, an toàn, nhanh chóng và chính xác. - Tiền gởi có kỳ hạn Đây là loại tiền gởi có sự thỏa thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Về nguyên tắc, người gởi chỉ có thể rút tiền theo thời gian đã thỏa thuận, nhưng trên thực tế để thu hút loại tiền gởi này với kỳ hạn dài, các ngân hàng vẫn phải cho phép rút tiền trước hạn nhưng khách hàng chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn hoặc với mức lãi suất tương ứng theo loại kỳ hạn nhất định do ngân hàng quy định. Nguồn vốn này có mức độ ổn định cao, ngân hàng chủ động trong quá trình sử dụng. Vì vậy, để thu hút nhiều hơn loại tiền gởi này, các ngân hàng hàng thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau phù hợp với thời gian vốn nhàn rỗi ở các đơn vị, mỗi kỳ hạn có một mức lãi suất tương ứng theo nguyên tắc kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao. + Tiền gởi của dân cư Tiền gởi dân cư là một bộ phận thu nhập bằng tiền của các tầng lớp dân cư trong xã hội gởi vào ngân hàng nhằm mục đích kiếm lời và để thanh toán. Tiền gởi của dân cư bao gồm 2 loại: Tiền gởi tiết kiệm và tiền gởi thanh toán - Tiền gởi tiết kiệm: Đây là hình thức huy động vốn truyền thống của ngân hàng. Với loại hình tiền gởi này người gởi được ngân hàng giao cho một sổ tiết kiệm, trong thời gian gởi tiền, sổ tiết kiệm có thể dùng làm vật cầm cố hoặc được chiết khấu để vay vốn ngân hàng. Tiền gởi tiết kiệm bao gồm tiền gởi tiết kiệm có kỳ hạn, tiền gởi tiết kiệm không kỳ hạn, tiết kiệm mua nhà, Đây là một bộ phận thu nhập bằng tiền của các cá nhân tạm thời nhàn rỗi được ký gởi vào ngân hàng, nhằm mục đích để dành và thu lợi. Vì vậy, lãi suất và độ an toàn cao chính là công cụ chính để thu hút nguồn vốn này.
  24. - Tiền gởi thanh toán: Các cá nhân trong xã hội cũng có nhu cầu và được pháp luật cho phép thực hiện qua ngân hàng. Khi đó họ cũng mở tiền gởi thanh toán tại ngân hàng và gởi tiền vào tài khoản để chi tiêu. Trên thực tế tiền gởi của dân cư luôn chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng. Để khai thác nguồn vốn này các ngân hàng luôn chú trọng đến đa dạng các hình thức huy động như: huy động bằng vàng, huy động tiền gởi có đảm bảo bằng vàng, tiết kiệm xây dựng nhà, tiết kiệm một nơi lĩnh nhiều nơi, với lãi suất hợp lý. - Nguồn vốn huy động khác Ngoài việc huy động vốn thông qua các loại tiền gởi trên, ngân hàng còn thu hút tiền gởi dưới nhiều hình thức khác như: phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gởi, tiền gởi của tổ chức tín dụng khác, tiền gởi của Kho bạc Nhà nước, tiền gởi của các tổ chức đoàn thể, xã hội, 2.1.2. Phân tích vốn vay Trong quá trình kinh doanh của các NHTM luôn có tình trạng tạm thời thừa, thiếu vốn, đó là khi huy động vốn nhưng chưa cho vay hết, hay khi khách hàng có nhu cầu vay lớn nhưng nguồn vốn lại không đủ, hoặc người gởi rút tiền trước thời gian trong khi đó vốn vay chưa đến lúc thu hồi. Khi đó các ngân hàng thương mại có thể gởi vào các tổ chức tín dụng khác để hưởng lãi, hay đi vay vốn để tận dụng cơ hội kinh doanh hoặc đảm bảo khả năng thanh toán. Các ngân hàng thương mại có thể vay mượn lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng hoặc tại ngân hàng Nhà nước. Đặc biệt một số ngân hàng thương mại có uy tín mạnh có thể cho vay các tổ chức tài chính nước ngoài. + Vốn vay từ tổ chức tín dụng khác Hầu hết các ngân hàng thương mại được tổ chức thành nhiều chi nhánh và hạch toán kinh doanh ngoài ngành, thực hiện điều chuyển vốn giữ các chi nhánh qua Hộ sở chính đến, khi thừa vốn các chi nhánh đề chuyển về cơ sở chính, khi thiếu vốn các chi nhánh được nhận vốn điều chuyển từ Hội sở chính. Vì vậy việc
  25. vay vốn của tổ chức tín dụng trong và ngoài nước thường được thực hiện ở Ngân hàng Trung ương của từng hệ thống. + Vốn vay từ Ngân hàng Trung ương Ngân hàng Trung ương là ngân hàng của các ngân hàng , là ngân hàng cho vay cuối cùng của nền kinh tế, vì vậy các ngân hàng thương mại có thể được Ngân hàng Trung ương cho vay vốn khi cần thiết. Ở Việt Nam, hiện nay Ngân hàng Nhà nước cho các tổ chức tín dụng là ngân hàng vay ngắn hạn dưới hình thức tái cấp vốn theo các loại sau: - Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng - Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. - Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Ngoài ra, Ngân hàng Trung ương còn cho ngân hàng thương mại vay bổ sung thiếu hụt trong thanh toán bù trừ và trong trường hợp đặc biệt khi được chấp thuận. Ngân hàng Trung ương cho vay đối với tổ chức tín dụng tạm thời mất khả năng chi trả có nguy cơ gây mất an toàn cho toàn hệ thống. Vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác và Ngân hàng Trung ương thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại, cho nên ngoài tác dụng gia tăng nguồn vốn, mở rộng kinh doanh của ngân hàng , nó còn có ý nghĩa trong việc đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng thương mại. 2.1.3. Phân tích vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu còn gọi là vốn tự có là số vốn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng thương mại nó bao gồm: Vốn điều lệ, quỹ dự trữ và các tài sản khác theo quy định. a. Vốn điều lệ: Vốn điều lệ là số vốn được ghi trong điều lệ của ngân hàng thương mại. Tùy hình thức sở hữu mà vốn điều lệ của ngân hàng thương mại được hình thành từ các nguồn khác nhau. Vốn điều lệ nhiều hay ít phụ thuộc vào khả năng
  26. tài chính của các chủ sở hữu và quy mô hoạt động của từng ngân hàng , nhưng không được thấp hơn mức vốn pháp định mà luật pháp quy định cho từng loại ngân hàng . Trong đó quá trình hoạt động các ngân hàng có thể tăng thêm vốn điều lệ nhưng phải được sự đồng ý của NHTW và phải được công bố công khai vốn điều lệ mới. b. Các quỹ dự trữ Để đảm bảo và duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh của mình, trong quá trình hoạt động các ngân hàng thương mại được trích lập các quỹ dự trữ. Các quỹ dự trữ này được thực hiện theo quy định của từng quốc gia về mức độ trích lập, quy mô của quỹ và mục đích sử dụng. Ở Việt Nam căn cứ vào Nghị định 146/2005/NĐ-CP ngày 23/11/2005, mỗi loại quỹ có một tỷ lệ trích lập khác nhau từ lợi nhuận sau thuế. - Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ Quỹ này được trích hàng năm theo tỷ lệ nhất định từ lợi nhuận sau thuế. Trích lập quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ 5%, mức tối đa của quỹ này không vượt quá mức vốn điều lệ của tổ chức tín dụng. Phần chênh lệch giữa giá bán cổ phiếu với mệnh giá, theo quy định hiện hành được hạch toán vào quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. - Quỹ dự phòng tài chính Khoản dự phòng tổn thất tín dụng được xem như 1 bộ phận của vốn tự có bởi nó được dùng để bù đăp sự thua lỗ. Ở Việt Nam, theo văn bản hiện hành, hàng năm ngân hàng thương mại được trích lập 10% lợi nhuận sau thuế. Số dư quỹ này không được vượt quá 25% vốn điều lệ của ngân hàng thương mại. - Các quỹ khác Quỹ phúc lợi, quỹ phát triển nghiệp vụ, các quỹ này cũng được trích lập và sử dụng theo quy định của phát luật. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn nhưng lại có ý nghĩa rất lớn. Trước hết đây là điều kiện phát lý cho sự ra đời và hoạt động của ngân hàng thương mại, là căn cứ để tính toán các tỷ lệ an toàn trong kinh doanh ngân hàng.
  27. Vốn chủ sở hữu trong ngân hàng thương mại bao gồm 2 phần: + Vốn cấp 1( vốn cơ bản): đây là bộ phận chủ yếu của vốn chủ sở hữu – vốn cấp 1 mang tính ổn định lâu dài và là cơ sở để tạo tập nguồn vốn chủ sở hữu khác. Vốn cấp 1 bao gồm vốn điều lệ và các quỹ. + Vốn cấp 2( vốn bổ sung): đây là bộ phận của nguồn vốn nhưng có tính chất ổn định và có khả năng chuyển thành vốn. Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, vốn chủ sở hữu của một ngân hàng mặt dù chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng nguồn vốn ngân hàng ( <10%) nhưng nó giữ vị trí rất quan trọng, quyết định quy mô và phạm vi kinh doanh. Nó là cơ sở quyết định huy động bao nhiêu vốn trên thị trường và sử dụng vào mục đích gì. Mặt khác, vốn của ngân hàng là cái đệm chống đỡ sự sụt giảm giá trị tài sản của ngân hàng ( sự sụt giảm tài sản là nguyên nhân có thể dẫn đến ngân hàng bị phá sản). Đối với kinh doanh tiền tệ, ngân hàng có đủ vốn chủ sở hữu, có vốn chủ sở hữu lớn và duy trì vốn chủ sở hữu là biểu hiện của một ngân hàng bền vững. Chỉ số 3 VỐN CHỦ SỞ HỮU x 100% H3 = TỔNG TÀI SẢN Trong đó: - Vốn chủ sở hữu: vốn cấp 1 - Tổng tài sản gồm: + Tài sản không sinh lời: tiền mặt tại quỹ, tiền gởi tại ngân hàng khác, tài sản cố định, chi phí, các khoản phải thu, + Tài sản sinh lời như tín dụng, khoản mục đầu tư, Chỉ số này được đưa ra để đánh giá mức độ rủi ro của tổng tài sản của một ngân hàng , cho phép tài sản của ngân hàng sụt giảm ở một mức độ nhất định so với vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Ở Việt Nam, quy chế đảm bảo an toàn kinh doanh đối với các tổ chức tín dụng được NHNN đưa ra thông qua quyết định 107/QĐ/NH5( ngày 9/6/1992) buộc các tổ chức tín dụng phải thường xuyên duy trì tỷ lệ tối thiểu giữa vốn chủ sở hữu so vơi tổng giá trị tài sản ở mức 5%.
  28. Ở Việt Nam, theo quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 và quyết định số 03/2007 sửa đổi bổ sung quyết định 457/2005 và thông tư 13/2010/TT- NHNN thì vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại bao gồm: - Vốn cơ bản(vốn cấp 1): Vốn điều lệ thực có ( vốn đã được cấp, vốn đã góp), quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia, thặng dư cổ phần được tính vào vốn theo quy định của pháp luật, trừ đi phần dùng để mua cổ phiếu quỹ( nếu có).  Các khoản phải trừ khỏi vốn cấp 1: - Lợi thế thương mại. - Khoản lỗ kinh doanh, bao gồm các khoản lỗ lũy kế. - Các khoản góp vốn, mua cổ phần của các tổ chức tín dụng khác. - Các khoản góp vốn, mua cổ phần của công ty con. - Phần vượt mức 10%/vốn chủ sở hữu của tổ chức tín dụng đối với khoản góp vốn, mua cổ phần của một tổ chức tín dụng vào một doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư. - Phần vượt mức 40%/vốn chủ sở hữu của tổ chức tín dụng đối với khoản góp vốn, mua cổ phần của một tổ chức tín dụng vào một doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư, ngoại trừ phần vượt mức 10% đã trừ khỏi vốn chủ sở hữu nêu trên. - Vốn bổ sung( vốn cấp 2): phần giá trị tăng thêm của tài sản cố định và các loại chứng khoán đầu tư được định giá lại, trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do các tổ chức tín dụng phát hành có thời hạn dài. Bao gồm: + 50% phần giá trị tăng thêm của tài sản cố định được định giá lại theo quy định của pháp luật. + 40% phần giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu tư, vốn góp) được định giá lại theo quy định của pháp luật. + Quỹ dự phòng tài chính. + Trái phiếu chuyển đổi do tổ chức tín dụng phát hành có thời hạn ban đầu tối thiểu là 5 năm.
  29. + Các công cụ khác là khoản nợ mà chủ nợ là thứ cấp so với các chủ nợ khác (chủ nợ được chỉ được thanh toán sau khi tổ chức tín dụng đã thanh toán cho tất cả các chủ nợ có bảo đảm và không có bảo đảm khác); có kỳ hạn ban đầu tối thiểu trên 10 năm.  Giới hạn khi xác định vốn cấp 2: + Tổng giá trị các trái phiếu chuyên đổi, các công cụ nợ khác do tổ chức tín dụng phát hành tối đa bằng 50% giá trị góp vốn cấp 1. + Quỹ dự phòng tài chính tối đa bằng 1,25% tổng tài sản có rủi ro. + Trong thời gian 5 năm cuối cùng trước khi đến hạn thanh toán, chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông giá trị các công cụ nợ khác và tráo phiếu chuyển đổi phải khấu trừ mỗi năm 20% giá trị ban đầu. + Tổng giá trị vốn cấp 2 bằng 100% giá trị vốn cấp1.  Vốn chủ sở hữu xác định khả năng thanh toán cuối cùng (tỷ lệ an toàn tối thiểu) là khả năng đáp ứng toàn bộ các cam kết của một ngân hàng . Khả năng thanh toán có tính chất cơ cấu và lâu dài hơn khả năng chi trả. Một ngân hàng có thể thiếu tạm thời khả năng chi trả, nhưng về cơ bản lại có khả năng thanh toán và ngược lại. Chỉ số 4 VỐN CHỦ SỞ HỮU x 100% H4 = Ʃ TÀI SẢN RỦI RO QUY ĐỔI Trong đó: - Vốn chủ sở hữu bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2 trừ các khoản giảm trừ. Tổng tài sản Ʃ (Tài sản rủi ro nội Ʃ (Tài sản rủi ro ngoại bảng = + rủi ro quy đổi bảng x Hệ số rủi ro) x Hệ số rủi ro)  Tài sản nội bảng và tỷ lệ rủi ro + Nhóm tài sản có hệ số rủi ro bằng 0% - Tiền mặt - Vàng - Tiền gởi bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng Nhà nước đã duy trì tại Ngân hàng chính sách xã hội.
  30. - Các khoản cho vay bằng vốn tài trợ, ủy thác đầu tư theo các hợp đồng ủy thác trong đó tổ chức tín dụng chỉ hưởng phí ủy thác và không chịu rủi ro. - Các khoản phải đòi bằng đồng Việt Nam đối với Chính phủ Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. - Các khoản chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành. - Các khoản phải đòi bằng đồng Việt Nam được đảm bảo bằng giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành; các khoản phải đòi được bảo đảm hoàn toàn bằng tiền mặt, sổ tiết kiệm, tiền ký quỹ, giấy tờ có giá do Chính Phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành. - Các khoản phải đòi đối với Chính Phủ, Ngân hàng Trung Ương và các khối OECD (Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển) - Các khoản phải đòi được đảm bảo bằng chứng khoán của Chính Phủ các nước thuộc khối OECD hoặc được bảo lãnh bời Chính phủ các nước thuộc khối OECD. + Nhóm tài sản có rủi ro 20%. - Các khoản phải đòi hỏi đối với tổ chức tín dụng khác ở trong nước và nước ngoài, đối với từng loại đồng tiền. - Các khoản phải đòi đối với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các khoản phải đòi bằng ngoại tệ đối với Chính phủ Việt Nam. - Các khoản phải đòi được đảm bảo bằng giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng khác thành lập tại Việt Nam phát hành. - Các khoản phải đòi đối với tổ chức tài chính nhà nước; các khoản phải đòi được đảm bảo bằng giấy tờ có giá do các tổ chức tài chính nhà nước phát hành. - Kim loại quý (trừ vàng), đá quý. - Tiền mặt đang trong quá trình thu. - Các khoản phải đòi đối với các ngân hàng IBRD (NH tái thiết và phát triển quốc tế), IADB (NH phát triển liên bang Mỹ), ADB( Ngân hàng phát triển Châu Á), AFDB(NH phát triển Châu Phi), EBRD(NH tái thiết và phát triển
  31. Châu Âu) và các khoản phải đòi được các ngân hàng này bảo lãnh hoặc được bảo đảm bằng chứng khoán di các ngân hàng phát hành. - Các khoản phải đòi đối với các ngân hàng được thành lập ở các nước thuộc khối OECD và các khoản phải đòi được bảo lãnh bởi các ngân hàng này. - Các khoản phải đòi đối với các công ty chứng khoán được thành lập ở các nước thuộc khối OECD có tuân thủ những thỏa thuận quản lý và giám sát về vốn trên cơ sở rủi ro và những khoản phải đòi được các công ty này bảo lãnh. - Các khoản phải đòi đối với các ngân hàng được thành lập ngoài các nước thuộc khối OECD, có thời hạn còn lại là dưới 1 năm và các khoản phải đòi có thời hạn còn lại dưới 1 năm được các ngân hàng này bảo lãnh. + Nhóm tài sản có hệ số rủi ro 50% gồm: - Các khoản đầu tư cho dự án theo hợp động, quy định Nghị định số 79/2002/NĐ – CP ngày 25/10/2002 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính. - Các khoản phải đòi có đảm bảo bằng bất động sản của bên vay. + Nhóm tài sản có hệ số rủi ro 100%: - Các khoản cấp vốn điều lệ cho các công ty trực thuộc không phải là tổ chức tín dụng, có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập. - Các khoản phải đòi đối với các ngân hàng được thành lập ở các nước thuộc khối OECD, có thời hạn còn lại từ 1 năm trở lên, các các khoản phải đòi có thời hạn còn lại 1 năm trở lên được các ngân hàng bảo lãnh. - Các khoản phải đòi đối với các ngân hàng Trung ương của các nước không thuộc khối OECD, trừ trường hợp cho vay bằng đồng bản tệ và nguồn cho vay cũng bằng đồng bản tệ của các nước đó. - Bất động sản, máy móc, thiết bị và tài sản cố định khác. - Các khoản phải đòi khác. + Nhóm tài sản có hệ số rủi ro 150% bao gồm: - Các khoản phải vay để đầu tư chứng khoán. - Các khoản cho vay các công ty chứng khoán. - Các khoản cho vay nhằm mục đích kinh doanh bất động sản.
  32.  Tài sản rủi ro của các cam kết ngoại bảng. ∆. Các cam kết bảo lãnh, tài trợ cho khách hàng. - Hệ số chuyển đổi 100%: các cam kết không thể hủy ngang, thay thế hình thức cấp tín dụng trực tiếp, nhưng có mức độ rủi ro như cấp tín dụng trực tiếp, bao gồm:  Bảo lãnh vay.  Bảo lãnh thanh toán.  Các khoản xác nhận thư tín dung; thư tín dụng dự phòng bảo lãnh tài chính cho các khoản cho vay, phát hành chứng khoán; các khoản chấp nhận thanh toán bao gồm các khoản chấp nhận thanh toán dưới hình thức ký hậu, trừ các khoản chấp nhận thanh toán hối phiếu nêu trên. - Hệ số chuyển đổi 50%: các cam kết không thể hủy ngang đối với trách nhiệm trả thay tổ chức tín dụng, gồm:  Bảo lãnh thực hiện hợp đồng.  Bảo lãnh dự thầu.  Bảo lãnh khác.  Thư tín dụng dự phòng ngoài thư tín dụng nêu trên.\  Các cam kết khác có thời hạn ban đầu từ 1 năm trở lên. - Hệ số chuyển đổi 20%: Các cam kết không thể hủy ngang đối với trách nhiệm trả thay của tổ chức tín dụng, gồm:  Thư tín dụng không thể hủy ngang Chấp nhận thanh toán hối phiếu thương mại ngắn hạn, có đảm bảo bằng hàng hóa.  Bảo lãnh giao hàng.  Các cam kết khác liên quan đến thương mại. - Hệ số chuyển đổi 0%  Thư tín dụng có thể hủy ngang  Các cam kết có thể hủy ngang vô điều kiện khác. ∆. Hệ số rủi ro
  33. - Được Chính phủ Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước bảo lãnh hoặc được bảo đảm hoàn toàn bằng tiền mặt, sổ tiết kiệm, tiền ký quỹ, giấy tờ có giá do Chính Phủ, Ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hàng, hệ số rủi ro là 0%. - Có tài sản đảm bảo bằng bất động sản của bên cho vay, hệ số rủi ro 50% - Trường hợp khác: hệ số rủi ro 100%.  Các hợp đồng giao dịch lãi suất và hợp đồng giao dịch ngoại tệ ∆. Hợp đồng giao dịch lãi suất - Có kỳ hạn ban đầu dưới 1 năm: 0,5% - Có kỳ hạn ban đầu từ 1 năm đến dưới 2 năm: 1% - Có kỳ hạn ban đầu từ 2 năm trở lên: 1% trong phần kỳ hạn dưới 2 năm cộng thêm 1% cho mỗi năm tiếp theo. ∆. Hợp đồng giao dịch ngoại tệ - Có kỳ hạn ban đầu dưới 1 năm: 2% - Có kỳ hạn ban đầu từ 1 năm đến dưới 2 năm: 5% - Có kỳ hạn ban đầu từ 2 năm trở lên: 5% trong phần kỳ hạn dưới 2 năm cộng thêm 3% cho mỗi năm tiếp theo. Hệ số rủi ro đối với giá trị các hợp đồng giao dịch lãi suất và hợp đồng giao dịch ngoại tệ sau khi chuyển đổi là 100%.  Ý nghĩa của chỉ số 4: Mức độ rủi ro mà các ngân hàng được phép mạo hiểm trong sử dụng vốn cao hay thấp tùy thuộc vào độ lớn vốn chủ sở hữu của ngân hàng, cụ thể: đối với những ngân hàng có vốn chủ sở hữu lớn hơn thì nó được sử dụng vốn với mưc độ liều lĩnh lớn và hy vọng đạt được lợi nhuận cao nhất, nhưng rủi ro cũng sẽ cao hơn và ngược lại. Khi xác định các chỉ số này có thể xảy ra các trường hợp sau: - Nếu chỉ số này bằng 9% ngân hàng này đã có 1 tỷ lệ hợp lý giữa vốn chủ sở hữu với mức độ rủi ro trong sử dụng tài sản. - Nếu chỉ số này lớn hơn 9%, thì mức độ rủi ro thấp, ngân hàng sử dụng vốn an toàn, nhưng kém hiệu quả, có thể bị giảm sút lợi nhuận. Nguyên nhân: + Ngân hàng sử dụng vốn cho dự trữ quá nhiều so với vốn sử dụng kinh doanh.
  34. + Trong sử dụng vốn sinh lời thì ngân hàng lại quá chú trọng vào những tài sản mức độ rủi ro thấp, nên lợi nhuận mang lại không cao. + Do ngân hàng tăng vốn chủ sở hữu quá nhanh trong khi tốc độ đầu tư và cho vay tăng chậm. - Nếu chỉ số này thấp hơn 9%, thì mức độ rủi ro lớn, vốn tự có của ngân hàng không đủ sức bảo vệ cho ngân hàng một khi xảy ra. Nguyên nhân: + Vốn chủ sở hữu của ngân hàng quá thấp so với quy mô sử dụng vốn của ngân hàng . + Do ngân hàng dành vốn cho dự trữ quá ít còn vốn đưa vào kinh doanh lại chiếm tỷ trọng lớn. + Trong tài sản sinh lời thì lại chú trọng đến khoản vay không có đảm bảo. Bên cạnh đó, ngân hàng lại đầu tư vào chứng khoán công ty, thay vì đầu tư vào chứng khoán do Chính phủ phát hành.  Vốn tự có là căn cứ để xác định giới hạn cho vay đối với một khách hàng: Đánh giá khả năng hạn chế rủi ro từ phía khách hàng, tức là đánh giá khả năng phân tán rủi ro, không tập trung vốn cho một khách hàng hoặc một số khách hàng quá lớn. Người ta thường đánh giá khả năng này của một ngân hàng theo chỉ tiêu gọi là hệ số phân tán rủi ro. Hệ số này được sử dụng ở các nước có khác nhau. Như ở Pháp, quy định mức cho vay nhiều nhất đối với 1 khách hàng không quá 40%/vốn chủ sở hữu của ngân hàng ; tổng dư nợ với những khách hàng lớn có dư nợ từ 15% đến 40%/ vốn chủ sở hữu của ngân hàng không vượt quá 8 lần vốn chủ sở hữu của ngân hàng đó.  Các khoản phải trừ vốn tự có + Toàn bộ phần giá trị giảm đi của tài sản cố định do định giá lại theo quy định của pháp luật. + Toàn bộ phần giá trị giảm đi của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu tư, vốn góp) được định giá lại theo quy định của pháp luật. 2.2. Phân tích sử dụng vốn (Tài sản) ngân hàng thương mại 2.2.1. Phân tích các khoản dự trữ
  35. Các ngân hàng thương mại không sử dụng toàn bộ nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh, mà phải dành một phần dự trữ thích hợp nhằm đáp ứng nhữn nhu cầu sau: - Duy trì dự trưc bắt buộc theo quy định của ngân hàng Nhà nước. - Thực hiện các lệnh rút tiền và thanh toán chuyển khoản của khách hàng. - Chi trả các khoản tiền gởi đến hạn, chi trả lãi. - Đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý trong ngày của khách hàng. - Thực hiện các khoản chỉ tiêu hàng ngày tại Ngân hàng, Nhìn toàn diện cách quản trị tài sản, có thể thấy các ngân hàng thương mại theo truyền thống đã đáp ứng các đòi hỏi về thanh khoản dựa trên việc năm giữ dự trữ sơ cấp và thứ cấp. + Dự trữ sơ cấp: Phản ánh Tài sản dạng ngân quỹ được ngân hàng sở hữu nhằm đáp ứng các yêu cầu dự trữ pháp định và các mục đích hoạt động khác. Tuy không phải tất cả các tài sản này đều có thể sử dụng để thỏa mãn nhu cầu thanh khoản (một lượng lớn phải được dùng làm dự trữ pháp định và số dư trong tài khoản quan hệ với ngân hàng đại lý) dự trữ sơ cấp vẫn là phòng tuyến đầu tiên đối với ngân hàng về cầu thanh khoản hàng ngày. Quỹ tài sản sơ cấp thuộc loại tài sản chức năng, thường không được thấy trong bảng tổng cân đối kế toán của một ngân hàng thương mại. Trong hầu hế các trường hợp, dự trữ sơ cấp được gộp lại dưới tiêu đề “tiền mặt và các khoản phải thu từ ngân hàng”. Các tài sản được xem như dự trữ sơ cấp bao gồm kết số dư tại ngân hàng Trung Ương, kết số dư (tiền gởi) tại ngân hàng đại lý và tại các ngân hàng thương mại khác, tiền mặt trong kho và các khoản ngân quỹ trong quá trình thu nhận ( chú ý rằng gồm có cả kết số dư dự trữ pháp định). Đây là tài sản không sinh lời nên các ngân hàng chi dự trữ vừa đủ. + Dữ trữ thứ cấp Là tuyến phòng thủ thứ 2 của ngân hàng được sử dụng đến khi dự trữ sơ cấp bị cạn kiệt. Phần lớn khả năng thanh toán thanh toán bắt nguồn từ các tài sản của ngân hàng thương mại được đáp ứng bởi dự trữ thứ cấp. Dữ trữ thứ cấp gắn
  36. liền với các tài sản được nắm giữ chủ yếu với mục đích thanh khoản, nghĩa là chúng có thể nhanh chóng chuyển thành ngân quỹ mà rủi ro thiệt hại về giá trị không đáng kể. Hầu hết dự trữ thứ cấp là các chứng khoán khả nhượng, ngăn hạn không có bảo đảm. Những chứng khoán này phải thỏa mãn đồng thời 3 điều kiện: - An toàn: chứng khoán phải chắc chắn được thanh toán khi hết hạn(như chứng khoán Chính phủ) - Thời gian đáo hạn ngắn: dưới 1 năm - Có tính thanh khoản cao, dễ mua bán trên thị trường, dễ chuyển đổi ra tiền( chiết khấu, tái chiết khấu, bán trên thị trường, ) DỮ TRỮ THỨ GIÁ TRỊ CỦA CÁC TỶ LỆ DỰ TRỮ = x CẤP KHOẢN MỤC ĐẦU TƯ THỨ CẤP Hoặc: TỶ LỆ DỰ DỮ TRỮ (TỶ LỆ THANH KHOẢN CỦA = Ʃ x TRỮ THỨ THỨ CẤP NGUỒN VỐN THỨ i CẤP) Dự trữ thứ cấp cũng là một tài sản chức năng và nằm trong khoản mục đầu tư. + Dự trữ bắt buộc: là một trong các công cụ quản lý và điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, là khoản tiền ngân hàng Nhà nước yêu cầu các ngân hàng thương mại phải thường xuyên duy trì theo 1 tỷ lệ nhất định trên tổng số tiền huy động được. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định. Khoản dự trữ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán cũng như chi phí của ngân hàng thương mại. Về nguyên tắc dự trữ là loại tài sản không sinh lời. Vì vậy, khi phải dự trữ bắt buộc các ngân hàng thương mại buộc phải trả thêm 1 khoản phí trong kinh doanh – phí dự trữ bắt buộc. Số tiền dự trữ bắt buộc của ngân hàng thương mại trong kỳ được tính như sau:
  37. Tổng số tiền gởi NH Số tiền phải DTBB = x Tỷ lệ DTBB nhận được Các loại tiển gời phải tính dự trữ bắt buộc bao gồm tiền gởi bằng VND và ngoại tệ, cụ thể gồm có: - Tiền gởi của Kho bạc nhà nước thuộc loại phải dự trữ bắt buộc. - Tiền gởi của khách hàng trong và ngoài nước: tiền gởi không kỳ hạn, tiền gởi có kỳ hạn thuộc loại phải dự trữ bắt buộc, tiền gởi vốn chuyên dùng, tiền gởi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn thuộc loại phải dự trữ bắt buộc; tiết kiệm khác thuộc loại phải dự trữ bắt buộc. - Tiền thu được từ việc phát hành giấy tờ có giá có kỳ hạn thuộc loại phải dự trữ bắt buộc. Ở Việt Nam, theo quyết định 541/2003/QĐ-NHNN ngày 9/6/2003 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, dự trữ bắt buộc được tính như sau: Số dư bình quân các loại Tỷ lệ dự trữ Dự trữ thứ cấp = tiền gởi phải dự trữ bắt x bắt buộc buộc trong kỳ xác định Trong đó: - Kỳ xác định dự trữ bắt buộc là khoản thời gian của tháng trước kể từ ngày 01 đầu tháng đến hết ngày cuối cùng của tháng. - Kỳ duy trì dự trữ bắt buộc là khoản thời gian của tháng trước kể từ ngày 01 đầu tháng đến hết ngày cuối cùng của tháng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Nhà nước quy định đối với từng loại hình tổ chức tín dụng, từng loại tiền gởi phụ thuộc chính sách tiền tệ của từng thời kỳ. Tổng số dư tiền gởi huy động phải tính Số dư bình quân các loại DTBB cuối mỗi ngày trong kỳ tiền gởi phải tính DTBB = trong kỳ xác định Tổng số ngày trong kỳ Dữ trữ bắt buộc là tiền gởi dự trữ theo Luật, vì vậy các Ngân hàng thương mại phải duy trì đầy đủ khoản tiền gởi này, nếu thiếu sẽ bị phạt theo quy định.
  38. Trong đó theo Luật Ngân hàng, tỷ lệ dữ trữ bắt buộc nằm trong khoản từ 0-20%, Ngân hàng Nhà nước được phép ấn định một tỷ lệ dữ trữ bắt buộc cụ thể trong từng thời kỳ để thực thi chính sách tiền tệ của mình. Ngân hàng thương mại sẽ bị phạt theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Thiếu dữ trữ bắt buộc lần đầu trong năm sẽ chịu hình thức xử phạt cảnh cáo. Thiếu dữ trữ bắt buộc lần thứ 2 trong rở đi trong năm, Ngân hàng Nhà nước xử phạt bằng tiền đối với phần thiếu đối với Hội sở chính của tổ chức tín dụng. Bên cạnh dữ trữ bắt buộc, Ngân hàng thương mại còn phải có các khoản dự trữ để đáp ứng nhu cầu thanh toán hàng ngày. + Dữ trữ thặng dư: bên cạnh việc thực hiện dữ trữ bắt buộc theo quy định của Ngân hàng Nhà nước các ngân hàng thương mại còn phải đảm bảo 1 khoản dự trữ thặng dư để đảm bảo nhu cầu thanh khoản và giảm rủi ro thanh khoản, các ngân hàng thương mại luôn sẵn có một khoản dự trữ nhất định để thỏa mãn nhu cầu rút tiền của khách hàng và cho vay trong kỳ. Đây là các tài sản không có khả năng sinh lời hoặc khả năng sinh lời thấp. Ngân hàng thương mại luôn gặp phải những mâu thuẩn giữa ý muốn làm giảm khoản dự trữ để tăng khả năng sinh lời cho tài sản có nhưng lại sợ rủi ro về thanh khoản. Khoản dự trữ thặng dư là số tiền vượt quá nhu cầu dự trữ pháp định và bất cứ số vốn bổ sung nào mà các ngân hàng thương mại xem là cần thiết để cung ứng thêm nguồn thanh khoản cho các tài sản Nợ. Ví dụ: Nếu tiền gởi của một ngân hàng thương mại là 100tr đồng và dự trữ (bao gồm dữ trữ bắt buộc và dự trữ thanh khoản) để chi trả tiền gởi là 25tr đồng, Ngân hàng sẽ có thể vay từ quỹ thặng dư của nó là 75tr đồng. Nếu điều này được thực hiện thì 75tr đồng sẽ được rút khỏi ngân hàng và gởi ở một ngân hàng khác. 2.2.2. Phân tích hoạt động tín dụng Tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của ngân hàng thương mại. Nguồn thu từ hoạt động cho vay chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên, tín dụng là lĩnh vực có nhiều rủi ro phức tạp nhất. Rủi ro tín dụng có thể do ý muốn chủ quan của ngân hàng như: xây dựng chiến lược sai,
  39. thẩm định hồ sơ không chính xác, cho vay không đúng nguyên tắc tín dụng, cũng có thể do các nguyên tắc khách quan như: hỏa hạn, thiên tai, khách hàng bị phá sản, Tín dụng liên quan chặt chẽ với tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế từ tiêu dùng đến sản xuất kinh doanh. Do vậy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế , nghiệp vụ tín dụng ngày càng đa dạng thỏa mãn nhu cầu về vốn cho nên kinh tế, thu hút nhiều khách hàng vào tạo điều kiện tăng lợi nhuận cho ngân hàng thương mại Phân tích tín dụng là một việc làm phức tạp và đòi hỏi nhiều nguồn thông tin chính xác trong phạm vi bảng cân đối tài sản các nhà kinh tế có thể áp dụng các chỉ số sau để đánh giá tình hình cho vay của ngân hàng thương mại. - Chỉ số 1: Tỷ lệ dư nợ/ Nguồn vốn huy Ʃ Dư nợ x 100% = động Nguồn vốn huy động Chỉ tiêu này phản ánh NH cho vay được bao nhiêu so với nguồn vốn huy động, nó còn nói lên hiệu quả sử dụng vốn huy động của ngân hàng, thể hiện ngân hàng đã chủ động trong việc tích cực tạo lợi nhuận từ nguồn vốn huy đông hay chưa. Chỉ tiêu này lớn thể hiện khả năng tranh thủ vốn huy động, nếu chỉ tiêu này lớn hơn 1 thì ngân hàng chưa thực hiện tốt việc huy động vốn, vốn huy động tham gia vào cho vay ít, khả năng huy động vốn của NH chưa tốt, nếu chỉ tiêu này nhỏ hơn 1 thì ngân hàng chưa sử dụng hiệu quả toàn bộ nguồn vốn huy động, gây lãng phí. - Chỉ số 2: Ʃ Dư nợ x 100% Tỷ số dư nợ/ Tài sản = Tài sản Tỷ số này cho biết có bao nhiêu phần trăm tài sản của doanh nghiệp là từ đi vay. Qua đây biết được khả năng tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Tỷ số này mà quá nhỏ, chứng tỏ doanh nghiệp vay ít. Điều này có thể hàm ý doanh nghiệp có khả năng tự chủ tài chính cao. Song nó cũng có thể hàm ý là doanh nghiệp chưa biết khai thác đòn bẩy tài chính, tức là chưa biết cách huy động vốn
  40. bằng hình thức đi vay. Ngược lại, tỷ số này mà cao quá hàm ý doanh nghiệp không có thực lực tài chính mà chủ yếu đi vay để có vốn kinh doanh. Điều này cũng hàm ý là mức độ rủi ro của doanh nghiệp cao hơn. Khi dùng tỷ số này để đánh giá cần so sánh tỷ số của một doanh nghiệp cá biệt nào đó với tỷ số bình quân của toàn ngành. - Chỉ số 3: Nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn ( % ) = Tổng dư nợ Chỉ tiêu này cho thấy tình hình nợ quá hạn tại ngân hàng, đồng thời phản ánh khả năng quản lý tín dụng của ngân hàng trong khâu cho vay, đôn đốc thu hồi nợ của ngân hàng đối với các khoản vay. Đây là chỉ tiêu được dùng để đánh giá chất lượng tín dụng cũng như rủi ro tín dụng tại ngân hàng Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thể hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng càng kém , và ngược lại. - Chỉ số 4: Cho vay ngắn hạn (trung, dài Tỷ trọng cho vay ngắn = hạn) hạn (trung, dài hạn) Tổng dư nợ Chỉ số xác định cơ cấu tín dụng trong trường hợp tổng dư nợ được phân theo thời hạn cho vay (ngắn, trung, dài hạn) 2.2.3. Phân tích hoạt động đầu tư và góp vốn liên doanh Ngân hàng thương mại sử dụng các nguồn vốn ổn định để thực hiện các hình thức đầu tư nhằm kiếm lời và phân tán rủi ro tín dụng. Chức năng của các khoản mục đầu tư là mang lại thu nhập cho ngân hàng, đa dạng hóa nghiệp vụ kinh doanh, lợi nhuận trước thuế và bổ sung cho các tài sản dự trữ thứ cấp khi các chứng khoán dài hạn đến hạn thanh toán. Các hình thức đầu tư tài chính gồm: - Góp vốn, liên doanh, mua cổ phần của các công ty, xí nghiệp và các tổ chức tín dụng khác.
  41. - Mua chứng khoán và các giấy tờ có giá trị để hưởng cổ tức và chênh lệch giá. Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán mang lại cho các ngân hàng thương mại một khoản lợi nhuận tương đối lớn. Trong trường hợp chưa tìm ra khách hàng đáng tin cậy để cho vay thì đầu tư chứng khoán là nơi giải quyết một cách hữu hiệu nhất cho ngân hàng. Do đó, ngân hàng cần phải phân tích kỹ trước khi lựa chọn chứng khoán để đầu tư. 2.2.4. Phân tích các Tài sản khác (N2) Tài sản khác của ngân hàng hầu hết là các tài sản có sinh lời, nhưng để tồn tại và phát triển ngân hàng cần phải duy trì ở một mức độ nhất định trong phạm vi cho phép của Pháp luật. Những khoản muc đáng quan tâm trong tài sản khác của ngân hàng là các khoản phải thu, chờ phân bổ, vốn trong thanh toán, Đây là những khoản vốn phức tạp, nhập nhằng mà các nhà phân tích không dễ dàng phát hiện ra những sai sót trong hạch toán nếu không xem xét từng hồ sơ, từng chứng từ. 2.3. Phân tích các khoản mục ngoại bảng cân đối kế toán 2.3.1. Phân tích nghiệp vụ bảo lãnh (N1) Bảo lãnh là nghiệp vụ sinh lời của ngân hàng thương mại. Trong nghiệp vụ này ngân hàng cam kết với người thứ 3 và chịu trách nhiệm về tài chính với họ nếu khách hàng của mình (người được bảo lãnh) không thực hiện đúng các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng. Đây là nghiệp vụ cho vay uy tín của ngân hàng. Bởi vì, trong thời gian bảo lãnh ngân hàng thương mại đã thu được một khoản phí từ người được bảo lãnh- ngân hàng chỉ bị rủi ro, khi đáo hạn thanh toán, người được bảo lãnh không thực hiện đúng các điều khoản đã được thỏa thuận trong hợp đồng. Chính vì đặc điểm này mà một số ngân hàng không đủ vốn để thỏa mãn nhu cầu tín dụng trực tiếp hoặc do trình độ nghiệp vụ yếu kém hoặc vì mục đích lợi nhuận, đã thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tràn lan dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán. Để kiếm soát hoạt động bảo lãnh, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản yêu cầu các ngân hàng thương mại phải đảm bảo các yêu cầu sau khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh:
  42. 1. Ngân hàng thương mại phải trích lập quỹ bảo lãnh từ vốn chủ sở hữu của mình. 2. Tổng mức bảo lãnh của ngân hàng thương mại không vượt quá 20 lần quỹ bảo lãnh. 3. Bảo lãnh một khách hàng không vượt quá 10% tổng mức bảo lãnh. 4. Bảo lãnh 10 khách hàng không vượt quá 30% tổng mức bảo lãnh. Các yêu cầu (1), (2) nhằm kiểm soát và hạn chế rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh. Yêu cầu (3), (4) để phân tán rủi ro, tránh trường hợp ngân hàng bảo lãnh, về việc cam kết trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả nợ hoặc không trả nợ đầy đủ, đúng hạn. Bảo lãnh vốn vay bao gồm: - Bảo lãnh vay vốn trong nước; - Bảo lãnh vay vốn nước ngoài: chủ yếu dưới các hình thức mở L/C trả chậm. + Bảo lãnh thanh toán: là một bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh cam kết sẽ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình khi đến hạn. + Bảo lãnh dự thầu: là một bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng phát hành cho nên mời thầu không bảo đảm nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. + Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là bảo lãnh do ngân hàng phát hàng cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm khách hàng thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng với bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng đã ký kết. Trường hợp khách hàng không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. + Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm: là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh đảm bảo khách hàng thực hiện đúng các thỏa thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết
  43. với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng không thực hiện đúng các thỏa thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với bên bảo lãnh, tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. + Bảo lãnh hoàn thanh toán: là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc đảm bảo nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh và phải hoàn trả tiền ứng trước nhưng không hoàn trả hoặc hoàn trả không đủ số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh thì tổ chức tín dụng sẽ hoàn trả số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh. Tuy nhiên, trong thời gian qua các ngân hàng thương mại không quan tâm nhiều đến việc trích lập quỹ bảo lãnh dẫn đến tình trạng bảo lãnh vượt quá khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại. Khi bảo lãnh không theo đúng các trình tự bảo lãnh như: thẩm định khách hàng, kiểm tra mục đích bảo lãnh, đánh giá các rủi ro có thể xảy ra trong nghiệp vụ bảo lãnh, tài sản thế chấp, kiểm soát quá trình tiêu thụ hàng hóa bảo lãnh hoặc quá trình thực hiện hợp đồng của khách hàng, được như vậy ngân hàng sẽ giảm được nhiều rủi ro trên con đường tìm kiếm lợi nhuận. 2.3.2. Phân tích nghiệp vụ cam kết giao dịch ngoại hối (N2) Sự phát triển của ngoại thương và thanh toán quốc tế đã thúc đẩy sự tham gia ngày càng nhiều của các doanh nghiệp, cá nhân vào thị trường ngoại hối. Vì vậy, các giao dịch ngoại hối của ngân hàng thương mại ngày càng có vị trí quan trọng hơn. Với một thị trường liên lục và mang tính quốc tế như thị trường ngoại hối để đảm bảo sự thống ngoại hối và nhanh chóng trong các giao dịch, ngân hàng cũng như bất kỳ ngân hàng thương mại tham gia thị trường này đều cần hiểu quy ước của thị trường theo thông lệ quốc tế. Các ngân hàng được phép hoạt động ngoại hối phải tuân thủ quy định về trạng thái ngoại tệ do Ngân hàng Nhà nước ban hàng. Trạng thái nguyên tệ là chênh lệch giữa tổng tài sản và tổng nguồn vốn bằng ngoại tệ này, bao gồm cả các tài khoản mua, bán ngoại tệ ngoại bảng
  44. tương ứng (tài khoản mua, bán ngoại tệ kinh doanh, tài khoản ngoại tệ bán ra từ các nguồn khác, tài khoản cam kết mua, bán ngoại tệ giao ngay, tài khoản cam kết mua, bán ngoại tệ có kỳ hạn). Trạng thái nguyên tệ dương: khi tổng tài sản lớn hơn tổng nguồn vốn. Trạng thái nguyên tệ âm: khi tổng tài sản nhỏ hơn tổng nguồn vốn. Trạng thái nguyêm tệ cân bằng: khi tổng tài sản bằng tổng nguồn vốn. Khi chấp hành trạng thái ngoại tệ, trạng thái nguyên tệ của mỗi loại ngoại tệ được quy đổi sang đồng bản tệ theo tỷ giá bán giao ngay chuyển khoản của ngân hàng vào cuối ngày làm việc. Tổng trạng thái ngoại tệ dương ( hoặc âm) cuối ngày không vượt quá 30%/vốn chủ sở hữu của ngân hàng tại thời điểm đó, trong đó tổng trạng thái ngoại tệ dương là tổng trạng thái các loại ngoại tệ có trạng thái dương hay trong đó tổng trạng thái ngoại tệ âm là tổng trạng thái các loại ngoại tệ có trạng thái âm. 2.3.3. Phân tích nghiệp vụ cam kết tài trợ khách hàng Nghiệp vụ tài trợ khách hàng là các hình thức tín dụng giúp cho khách hàng có đủ vốn hoàn tất nghĩa vụ thanh toán và sản xuất trong quan hệ kinh tế. Nghiệp vụ tài trợ cho khách hàng gồm: a. Cho vay trong khuôn khổ của tín dụng chứng từ: Tín dụng chứng từ phục vụ đặc biệt cho việc đảm bảo nghĩa vụ cung ứng và thanh toán trong quan hệ ngoại thương, nhưng nó cũng bao hàm các nhân tố tín dụng. L/C là một bản cam kết trả tiền do Ngân hàng phát hành (ngân hàng mở L/C) mở theo chỉ thị của người nhập khẩu (người yêu cầu mở L/C), để trả một số tiền nhất định cho người xuất khẩu (người thụ hưởng) với điều kiện người đó phải thực hiện đầy đủ những quy định trong L/C. L/C được mở dựa trên những điều kiện do người nhập khẩu đưa ra xuất phát từ hợp đồng ngoại thương được ký kết giữ người xuất khẩu và người nhập khẩu. Nhưng khi nó đã được mở thì nó là một giao dịch riêng biệt, độc lập với hợp đồng ngoại thương, trở thành bản cam kết trả tiền của ngân hàng .
  45. b. Cho vay trên cơ sở hối phiếu - Chiết khấu hối phiếu là một tín dụng của ngân hàng cấp cho khách hàng dưới hình thức mua lại hối phiếu trước khi đến hạn thanh toán, tức là việc ngân hàng mua lại các khoản nợ phải đòi hoặc khoản nợ phải trả. Chiết khấu hối phiếu tạo điều kiện thuận lợi cho người xuất khẩu nhận được tiền sớm hơn nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn với khoản tín dụng cung ứng đã cung cấp cho người nhập khẩu. Cơ sở để xác định khối lượng tín dụng này là giá trị của hối phiếu sau khi đã trừ đi giá trị chiết khấu và lệ phí nhờ thu mà ngân hàng chiết khấu hưởng. Các ngân hàng sẽ xác định khối lượng tín dụng cấp ra (giá trị chiết khấu) theo công thức: t T = M ( 1- LCK x ) - P 360 Trong đó: Tck : Giá trị chiết khấu; M : Mệnh giá LCK: lãi suất chiết khấu (theo năm) t: thời hạn chiết khấu (theo ngày); P: lệ phí - Chấp nhận hối phiếu Tín dụng này đảm bảo cho người thụ hưởng sử dụng để thanh toán hối phiếu khi tới hạn. Người vay khoản tín dụng này chính là người nhập khẩu chứ không phải người xuất khẩu Hối phiếu có sự chấp nhận thanh toán của ngân hàng thể hiện sự đảm bảo chắc chắn về khả năng thanh toán. c. Tín dụng bao thanh toán Đây là hình thức tài trợ danh cho nhà xuất khẩu. Ngân hàng sẽ mua lại các chứng từ thanh toán, các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán từ hoạt động xuất khẩu, cung ứng hàng hóa và dịch vụ để thành chủ nợ trực tiếp đứng ra đòi nợ nhà nhập khẩu ở nước ngoài. Hoạt động bao thanh toán không sử dụng tín dụng thư cũng như các hối phiếu ngoại thương, vì hoạt động bao thanh toán chỉ được sử dụng cho những hoạt động xuất khẩu thường xuyên, định kỳ, theo hợp đồng
  46. dài hạn và cho nhiều nhà xuất khẩu khác nhau trong cùng một nước hoặc do nhiều nước trong cùng 1 thời điểm. d. Tín dụng thuê mua Là hình thức cam kết giữa người cho thuê và người đi thuê một tài sản nhất định do người thuê chọn lựa từ nhà sản xuất hay người bán, người thuê được quyền sử dụng tài sản này trong các khoản thời gian nhất định và phải trả dần tiền từng kỳ hạn theo hợp đồng thuê – mua. Khi kết thúc hợp đồng người đi thuê được chọn quyền mua tài sản cho thuê theo giá ấn định. Người cho thuê thường là ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty thuê- mua, Đây là hình thức tín dụng trung, dài hạn; mặt dù mua hàng theo phương thức này sẽ đắt hơn so với trả tiền ngay, nhưng tạo điều kiện để doanh nghiệp đổi mới công nghệ, máy móc, thiết bị mà không trả tiền ngay.
  47. CHƯƠNG 3 PHÂN TÍCH THU NHẬP – CHI PHÍ VÀ KẾT QUẢ KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. Vì nguồn hình thành vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại chủ yếu là do huy động vốn từ thị trường nên cơ câu thu nhập và chi phí của ngân hàng thương mại không giống các tổ chức kinh tế khác. 3.1. Phân tích các khoản thu nhập của ngân hàng thương mại. Đánh giá thu nhập là khâu then chốt trong phân tích vì thu nhập tạo ra tăng trưởng nội tại các tác động đến khả năng huy động vốn bên ngoài và tạo hình ảnh tốt cho ngân hàng trong thị trường tiền tệ. Thu nhập của NHTM gồm nhiều loại khác nhau, mỗi loại có nội dung, tính chất riêng. Nêu xét trong mối quan hệ với chinh sách thuế của Nhà nước thì có những khoản thu nhập phải chịu thuế GTGT theo phương pháp tính thuế trực tiếp khoặc khấu trừ, có những loại thu không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT. Nếu xét theo tính chất phát sinh và mối quan hệ với lãi xuất thì trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có những khoản thu nhập mang tính chất thường xuyên, có khoan thu mang tính chất bất thường, có những khoản thu theo lãi suất và những khoản thu không dựa trên cơ sỡ lãi suất. 3.1.1. Các khoản thu nhập của ngân hàng Thu nhập của ngân hàng bao gồm các nội dung sau: a. Thu về hoạt động kinh doanh - Thu lãi suất cho vay - Thu lãi tiền gửi. - Thu từ nghiệp vụ cho thuê tài chính - Thu nhập khấc từ hoạt động tín dụng - Thu dịch vụ thanh toán - Thu phí bão lãnh - Thu phí dịch vụ ngân quỹ - Thu phí nghiệp vụ chiết khấu - Thu các dịch vụ khác liên quan đến hoạt động ngân hàng.
  48. b. Thu từ các hoạt động khác. - Thu lãi góp vốn, mua cổ phần. - Thu từ tham gia thị trường tiền tệ. - Thu về kinh doanh vàng bạc đá quý - Thu từ nghiệp vụ ủy thác, đại lý. - Thu mua thêm bảo hiểm - Thu từ dịch vụ tư vấn. - Thu từ nghiệp vụ mua, bán nợ giữa các TCTD. - Thu từ cho thuê tài sản - Thu từ các dịch vụ khác. c. Thu hoàn toàn nhập Là việc thu các khoản dự phòng đã trích từ các chi phí theo quy định hiện hành, thu về các khoản vốn đã được xử lý bằng dự phòng rủi ro, thu về chênh lệch tỷ giá nghiệp vụ ngoại hối theo quy định. d. Thu khác Gồm những khoản thu mà ngân hàng không dự tính trước hoặc có dự tính mang đến nhưng ít có khả năng hiện thực hoặc những khoản thu không mang tính chất thường xuyên. Thu nhập khác như thu từ thừa quỹ, thừa tài sản, thu thanh lý tài sản, 3.1.2. Chỉ số phân tích Tỷ trọng từng khoản Số thu của từng khoản mục mục thu nhập = Tổng thu nhập * 100 Chỉ số này giúp nhà phân tích xác định được cơ cấu của thu nhập để từ đó có những biện pháp phù hợp để tăng lợi nhuận của ngân hàng đồng thời có thể kiểm soát được rủi ro trong kinh doanh.
  49. Ví dụ: phân tích khoản thu nhập cuat NHTM CP Miền Tây năm 2005 Đơn vị tính: Đồng. CHỈ TIÊU SỐ TIỀN TỶ TRỌNG 1. Thu về hoạt động kinh doanh 25.710.748.621 99,162 - Thu lãi cho vay 24.794.185.527 95,627 - Thu lãi tiền gửi 607.099.549 2,341 - Thu từ tham gian thị trường tiền tệ 162.200.000 0,626 - Thu lãi khác 3.335.000 0,013 - Thu từ nghiệp vụ bảo lãnh 40.232.772 0,155 - Thu từ dịch vụ thanh toán 10.216.898 0,039 - Thu từ dịch vụ ngân quỹ 914.931 0,004 - Thu từ nghiệp vụ ủy thác& đại lý 40.876.599 0,156 - Th khác từ hoạt động tín dụng 51.687.345 0,199 2. Thu khác 217.357.201 0,838 3. Tổng thu nhập 25.928.105.822 100 3.2 Phân tích các khoản chi phí của NHTM. Các khoản chi phí của ngân hàng rất phong phú và đa dạng. 3.2.1. Các khoản chi phí của ngân hàng Các khoản chi phí hiện nay của ngân hàng bao gồm các khoản sau a. Chi phí về hoạt động kinh doanh Bao gồm các khoản chi phí phát sinh trong nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ của ngân hàng cụ thể: - Chi trả tiền gửi và giấy tờ có giá là khoản chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số chi phí của ngân hàng. Khoản chi này tùy thuộc vào quy mô, cơ cấu vốn huy động và mức lãi suất phải trả. - Chi trả tiền vay là số lãi suất phải trả cho các khoản vay của NHNN hoặc các tổ chức tín dụng khác trong nước và ngoài nước
  50. - Chi phí cho hoạt động dịch vụ như dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, cước phí tham gia mạng viễn thông, chi ủy thác, đại lý, cho các dịch vụ tư vấn mô giới . Chi phí về hoạt động kinh doanh ngoại hối bao gồm các khoản chi phí trực tiếp cho hoạt động kinh doanh vàng, ngoại tệ, phí nhờ tiêu thụ ngoại tệ, mua bán các bản tin phục vụ cho kinh doanh ngoại tệ, chi phí vận chuyển đóng gói, bảo quản, chế tác vàng, bạc Chi phí hoạt động kinh doanh khác như kinh doanh chứng khoán, cho thuê tài chính, b. Chi phí cho nhân viên và chi phí quản lý Bao gồm các khoản chi cho các hoạt động của bộ máy ngân hàng. Nội dung các khoản chi như sau: - Chi lương và phụ cấp cho cán bộ công nhân viên ngân hàng theo chế đạo quy định. - Các khoản chi phí đóng góp theo lương như chi nộp bảo hiểm xã hội, đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm lao động, nộp kinh phí công đoàn và các khoản chi đóng góp khác theo chế độ. - Chi trợ cấp như trợ cấp khó khăn, trọa cấp thôi việc và trợ cấp khác theo chế độ quy định. - Chi trang phục giao dịch và phương tiện bảo hộ lao động. - Chi hoạt động quản lý và công vụ như chi về vật liệu giấy tờ in, chi công tác phí, chi đào tạo huấn luyện nghiệp vụ, chi nguyên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, chi bưu phí và điện thoại, chi phí bán tài liệu tuyên truyền quảng cáo, chi phí quản lý khác. c. Chi về tài sản Bao gồm chi khấu hao cơ bản tài sản cố định, bảo dưỡng và sữa chữa tài sản, xây dựng nhỏ, mua sắm công cụ lao động, bảo hiểm tài sản, thuế tài sản. d. Chi phí thuế và các khoản phí lệ phí. Chi phí dự phòng bảo toàn bảo hiểm tiền gửi: bao gồm các khoản chi dự phòng giảm giá vàng, ngoại tệ, giám chứng khoán, giám giá hàng tồn kho, dự
  51. phòng nợ khó đòi, dự phòng cho dịch vụ thanh toán, cho nộp bảo hiểm tiền gửi cho khách hàng. e. Chi phí khác Là khoản chi không chủ yếu và không thường xuyên của ngân hàng như chi thanh lý tài sản, các khoản lỗ do các sự kiện hay nghiệp vụ riêng biệt của đơn vị, các khoản chi bị bỏ sót từ năm trước  Tổ chức tín dụng không được tính vào chi phí các khoản sau đây - Các khoản tiền phạt vi phạm pháp luật như: Luật giao thông, luật thuế, luật môi trường, luật lao động, vi phạm chế độ báo cáo thống kê, tài chính kế toán và các luật khác. Nếu do tập thể hoặc cá nhân vi phạm pháp luật, thì đối tượng vi phạm phải nộp phạt. Ngoài khoản tiền đền bù nói trên, phần nộp phạt còn lại lấy từ lợi nhuận sau thuế - Các khoản tiền mất mát, thiếu hụt tài sản do tập thể, cá nhân ngân hàng gây ra. - Các khoản đầu tư xây dựng cơ bản, chi mua sắm tài sản cố định hữu hình và vô hình, chi ủng hộ cho các tổ chức, cá nhân. - Chi phí đi công tác nước ngoài vượt định mức nhà nước quy định áp dụng cho cán bộ công chức Nhà nước và cán bộ doanh nghiệp Nhà nước khi đi công tác nước ngoài. - Các khoản thuộc nguồn kinh phí khác đài thọ như khoản chi sự nghiệp đã được ngân sách Nhà nước, cơ quan cấp trên hoặc các tổ chức khác tài trợ, chi trả lãi vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong thời kỳ công trình chưa hoàn thành (số lãi này được hạch toán vào chi đầu tư xây dựng cơ bản - Các khoản chi phí không hợp lý khác 3.2.2. Chỉ số phân tích Tỷ trọng từng khoản mục Số chi cho từng khoản mục = * 100 chi phí Tổng chi phí Qua chỉ số này nhà phân tích có thể biết được kết cấu các khoản chi để có thể hạn chế các khoản chi bất hợp lý, tăng cường các chi phí có lợi cho hoạt
  52. động kinh doanh nhằm thực hiện tốt chiến lược mà ban lãnh đạo ngân hàng đã hoạch định. Tổng chi phí trả lãi tiền gửi Lãi suất bình quân đầu vào = x 100 Tổng số vốn huy động Trả lãi tiền gửi là các khoản chi phí chiếm tỷ trong lớn nhất, nó là yếu tố quyết định để hoạch định lãi suất cho vay, vì vậy ta cần phải phân tích cụ thể chỉ tiêu lãi suất bình quân đầu vào. Vd: Phân tích khoản chi phí của NHTMCP Miền Tây năm 2006 ĐVT: đồng CHỈ TIÊU Số tiền Tỷ trọng 1. Chi phí về hoạt động kinh doanh 16.583.000.000 62,48 - Chi trả lãi tiền gửi của các TCKT và cá nhân 13.082.000.000 49,29 - Chi trả lãi tiền đi vay 3.090.000.000 11,64 - Chi trả lãi phát hành giấy tờ có giá - - - Chi trả lãi tiền gửi của các TCTD - - - Chi khác về hoạt động kinh doanh 411.000.000 1,55 2. Chi nộp thuế 25.000.000 0,09 3. Chi nộp các khoản phí, lệ phí 18.000.000 0,07 4. Chi cho nhân viên 3.492.000.000 13,16 5. Chi khác 6.423.000.000 24,20 Tổng chi phí 26.541.000.000 100 3.3. Phân tích lợi nhuận Ngân hàng thương mại Lợi nhuận phản ánh kết quả do hoạt động do chức năng kinh doanh đem lại, trong từng kỳ hạch toán của ngân hàng, làm cơ sở chủ yếu để đánh giá, phân tích hiệu quả các mặt, các lĩnh vực hoạt động, phân tích nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của các nguyên nhân cơ bản đến kết quả chung của ngân hàng. Đồng thời là số liệu quan trọng để tính và kiểm tra số thuế thu nhập mà ngân hàng phải nộp và sự kiểm tra, đánh giá của các cơ quan quản lý về chất lượng hoạt động của ngân hàng.
  53. Khả năng sinh lời là kết quả cụ thể nhất của quá trình kinh doanh, mọi doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng trong cơ chế thị trường chỉ có thể tồn tại và đứng vững được bằng cách kinh doanh có lãi. Lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp đánh giá chất lượng kinh doanh của ngân hàng thương mại. Lợi nhuận biểu hiện hữu hình như tiền, tài sản và vô hình như uy tín của ngân hàng đối với khách hàng, hoặc phần trăm thị phần ngân hàng chiếm lĩnh được v.v Để đánh giá chung khả năng sinh lời của ngân hàng, khi phân tích tập hợp đúng các khoản thu nhập và chi phí trong kỳ, loại bỏ các khoản thu không đúng chế độ và các khoản thu bất hợp lý ra khỏi công thức xác định lợi nhuận. Lợi nhuận của tổ chức tín dụng là khoản chênh lệch được xác định gữa tổng doanh thu phải trừ đi tổng các khoản chi phí phải trả hợp lý hợp lệ Lợi nhuận thực hiện trong năm là kết quả kinh doanh của tổ chức tín dụng, bao gồm lợi nhuận hoạt động nghiệp vụ và lợi nhuận các hoạt động khác. Lợi nhuận gộp = tổng doanh thu – tổng chi phí Lợi nhuận ròng = lợi nhuận gộp – thuế thu nhập Thuế suất thuế thu nhập đối với các ngân hàng thương mại hiện nay là 25%. Trong kinh doanh tiền tệ, các nhà quản trị ngân hàng luôn phải đương đầu với những khó khăn trầm trọng về mặt tài chính. Một mặt, họ phải đáp ứng những yêu cầu về lợi nhuận của Hội đồng quản trị, của các cổ đông, của khách hàng ký thác lẫn khách hàng đi vay Mặt khác, họ phải đối phó với những quy định, chính sách của NHNN về tiền tệ ngân hàng Các ngân hàng luôn đặt câu hỏi làm thế nào để có thể đạt được lợi nhuận cao nhất, rủi ro thấp nhất mà vẫn đảm bảo chấp hành đúng các chế độ của NHNN và thực hiện được kế hoạch kinh doanh của Ngân hàng. Để trả lời câu hỏi này, các nhà quản trị buộc phải phân tích lợi nhuận một cách chặt chẽ và khoa học. Thông qua phân tích tỷ suất lợi nhuận và rủi ro, các nhà quản trị có thể theo dõi, kiểm soát, đánh giá lại các chính sách về tiền gửi và cho vay của mình, xem xét các kế hoạch mở rộng và tăng trưởng trong tương lai. Đồng thời, qua phân tích lợi nhuận, nhà quản trị có
  54. thể đưa ra những nhận xét, đánh giá đúng hơn về kết quả đạt được, xu hướng tăng trưởng và các nhân tố tác động đến tình hình lợi nhuận của ngân hàng. Lợi nhuận của NHTM là cơ sở để xác định thu nhập của chủ sở hữu, tiền lương kinh doanh cho cán bộ công nhân viên là nguồn bổ sung vốn từ nội bộ của mỗi ngân hàng. Cũng như các loại hình kinh doanh khác, số lợi nhuận thu được của các ngân hàng phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho ngân sách nhà nước theo quy định. Số lợi nhuận sau khi là nghĩa vụ với Ngân sách, trích lập quỹ bổ sung nguồn vốn sẽ được phân phối theo chế độ tài chính của Nhà nước hoặc theo quyết định của Đại hội cổ đông. Việc phân phối lợi nhuận Ngân hàng thương mại cần tuân thủ một số nguyên tắc sau: - Việc phân phối lợi nhuận chỉ được thực hiện sau khi cơ quan tài chính duyệt quyết toán. - Số lợi nhuận sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho NSNN sẽ được phân phối như sau:  Phân phối lợi nhuận đối với các tổ chức tín dụng 100% vốn Nhà nước Lợi nhuận của các tổ chức tín dụng sau khi bù đắp lỗ năm trước theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật được phân phối như sau: - Trích lập quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ 5% mức tối đa của quỹ này không vượt quá mức điều lệ của các tổ chức tín dụng - Chia lãi cho các thành viên góp vốn liên kết theo quy định của hợp đồng (nếu có) - Bù đắp khoản lỗ của các năm trước đã hết thời hạn được trừ vào lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp - Lợi nhuận sau khi trừ các khoản trên được phân phối theo quy định dưới đây: + Trích quỹ dự phòng tài chính 10%; mức tối đa của quỹ này không vượt quá 25% vốn điều lệ của các tổ chức tín dụng + Quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ 50% + Lợi nhuận còn lại được phân phối tiếp như sau:
  55.  Trích quỹ thưởng Ban quản lý điều hành tổ chức tín dụng theo quy định chung đối với doanh nghiệp nhà nước.  Trích lập 2 quỹ khen thưởng, phúc lợi. Mức trích tối đa không quá ba tháng lương thực hiện.  Số lợi nhuận còn lại sau khi trích 2 quỹ khen thưởng, phúc lợi được bổ sung vào quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ  Phân phối lợi nhuận đối với các tổ chức tín dụng khác. Lợi nhuận của các tổ chức tín dụng sau khi bù đắp lỗ năm trước theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật, được phân phối như sau: - Trích lập quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, chia lãi cho các thành viên liên kết theo quy định của hợp đồng (nếu có), bù đắp khoản lỗ của các năm trước đã hết hạn được trừ vào lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp - Trích 10% vào quỹ dự phòng tài chính; số dư tối đa của quỹ này không vượt quá 25% vốn điều lệ của các tổ chức tín dụng - Việc phân chia phần lợi nhuận còn lại do tổ chức tín dụng tự quyết định Các quỹ của ngân hàng được sử dụng theo nguyên tắc sau + Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ dùng để bổ sung vốn điều lệ + Quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ dùng để đầu tư mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh và đổi mới công nghệ trang thiết bị, điều kiện làm việc của tổ chức tín dụng. + Căn cứ vào nhu cầu đầu từ và khả năng của quỹ, Hội đồng quản trị của tổ chức tín dụng quyết định hình thức và biện pháp đầu tư theo nguyên tắc có hiệu quả, an toàn và phát triển vốn. + Quỹ dự phòng tài chính dùng để bù đắp phần còn lại của những tổn thất, thiệt hại về tài sản xảy ra trong quá trình kinh doanh sau khi đã bù đắp bằng tiền bồi thường của các tổ chức, cá nhân gây ra tổn thất, của tổ chức bảo hiểm và sử dụng dự phòng trích lập trong chi phí + Quỹ thưởng Ban điều hành tổ chức tín dụng được sử dụng để thưởng cho Hội đồng quản trị, Ban giám đốc tổ chức tín dụng. Mức thưởng do đại diện
  56. chủ sở hữu quyết định gắn với hiệu quả hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng, trên cơ sở để nghị của Chủ tích Hội đồng quản trị tổ chức tín dụng + Quỹ khen thưởng dùng để: Thưởng cuối năm hoặc thường thưởng kỳ cho cán bộ, nhân viên trong tổ chức tín dụng. Mức thưởng do Hội đồng quản trị của tổ chức tín dụng quyết định theo đề nghị của Tổng giám đóc (hoặc giám đốc) và công đoàn của tổ chức tín dụng trên cơ sở năng suất lao động, thành tích công tác của mỗi cán bộ, nhân viên trong tổ chức tín dụng. Thường đột xuất cho những cá nhân, tập thể trong tổ chức tín dụng có sáng kiến cải tiến kỹ thuật, quy trình nghiệp vụ mang lại hiệu quả trong kinh doanh. Mức thưởng do Hội đồng quản trị của tổ chức tín dụng quyết định + Quỹ phúc lợi dùng để: Đầu tư xây dựng hoặc sửa chữa, bổ sung vốn xây dựng các công trình phúc lợi của tổ chức tín dụng, góp vốn đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi chung trong ngành, hoặc với các đơn vị khác theo hợp đồng thỏa thuận Chi cho các hoạt động thể theo, văn hóa, phúc lợi công cộng của tập thể cán bộ, nhân viên của tổ chức tín dụng. Chi trợ cấp khó khăn thường xuyên, đột xuất cho cán bộ, nhân viên kể cả các các bộ, nhân viên đã về hưu, mất sức của tổ chức tín dụng: Chi cho các hoạt động phúc lợi khác: Hội đồng quản trị, tổng giám đốc (hoặc giám đốc) của tổ chức tín dụng phối hợp với ban chấp hành công đoàn của tổ chức tín dụng quản lý, sử dụng quỹ này. Trong phân tích lợi nhuận các nhà quản trị thường áp dụng các chỉ số: Chỉ số 1: ROA Lợi nhuận ròng = x 100 (Return on Assets) Tổng tài sản Chỉ số ROA cho nhà phân tích thấy được khả năng bao quát của ngân hàng trong việc tao ra thu nhập từ tài sản, được dùng đê đo lường khả năng sinh lời tích sản (số lợi nhuận ròng thu được trên một đơn vị tài sản).
  57. ROA lớn chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của ngân hàng tốt, ngân hàng có cơ cấu tài sản hợp lý, ngân hàng có sự điều động linh hoạt giữa các hạng mục trên tài sản trước những biến động của nền kinh tế. Nếu ROA quá lớn nhà phân tích sẽ lo lắng vì rủi ro luôn song hành với lợi nhuận. Vì vậy, việc so sánh ROA giữa các kỳ hoạch toán đối chiếu với sự di chuyển các loại tài sản, nhà phân tích có thể rút ra nguyên nhân thành công hoặc thất bại của ngân hàng. Hệ số ROA càng cao chứng tỏ: (+) Kết quả của các hoạt động hữu hiệu, (+) Tỷ trọng thấp giữa tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn so với tổng ký thác, (+) Kết quả của các lợi tức cao kiểm được từ tích sản. - Chỉ số 2: ROE Lợi nhuận ròng = x 100 (Return on Equity) Vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu này đo lường tính lành mạnh trong hoạt động của một ngân hàng. Hệ số ROE phản ánh lợi nhuận kiếm được từ đơn vị vốn đầu tư. Vốn của một NHTM cổ phần hình thành từ vốn cổ phần hoàn toàn hoặc gồm một phần từ vốn cổ phần và một phần từ các tín phiếu và giấy nợ. ROE là chỉ số đo lường hiệu quả sử dụng của một đồng vốn chủ sở hữu. Hệ số ROE quy định giá trị chứng khoán, nó cho biết số lợi nhuận ròng mà các cổ đông có thể nhận từ việc đầu tư vốn của mình. Tuy nhiên, đối với một ngân hàng cụ thể, lợi nhuận trên toàn bộ các tích sản có tương đối thấp, tuy nhiên mức lợi trên vốn cổ phần có thể rất cao. Trong trường hợp này, vốn cổ phần của ngân hàng sẽ nhỏ so với tích sản của nó, tức là ngân hàng sẽ mất nhiều khả năng độc lập nên có thể đang có các rủi ro về ký thác, mặc dù mức lợi nhuận trên vốn cổ phần cao tạo ra hình ảnh ngân hàng đang hoạt động tương đối tốt. Chính sự sắp xếp tài chính trên cho thấy sự thiếu sót của chỉ tiêu ROE khi dùng để đo lường khả năng sinh lời của ngân hàng bằng lợi tức trên vốn cổ phần.
  58. Nếu ROE quá lớn so với ROA chứng tỏ vốn chủ sở hữu của ngân hàng chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng nguồn vốn. Việc huy động vốn quá nhiều có thể ảnh hưởng đến độ lành mạnh trong kinh doanh của ngân hàng. - Chỉ số 3: Lợi nhuận ròng x 100 Tổng thu nhập Chỉ số này cho biết hiệu quả của một đồng thu nhập đồng thời đánh giá hiệu quả quản lý thu nhập của ngân hàng. Cụ thể, chỉ số này cao chứng tỏ ngân hàng đã có những biện pháp tích cực trong việc giảm chi phí và tăng thu nhập của ngân hàng. - Chỉ số 4: Tổng thu nhập x 100 Tổng tài sản Chỉ số này đo lường hiệu quả sử dụng tài sản có của ngân hàng. Chỉ số này càng cao chứng tỏ ngân hàng đã phân bố tài sản một cách hiệu quả tạo nền tảng cho việc tăng lợi nhuận của ngân hàng thương mại. - Chỉ số 5: Tổng chi phí x 100 Tổng thu nhập Đây là chỉ số xác định chi phí bỏ ra cho việc sử dụng tài sản. Chỉ số này cao chứng tỏ ngân hàng quản lý chi phí kém hiệu quả ngân hàng nên có những thay đổi thích hợp để có thể nâng cao lợi nhuận ngân hàng trong kỳ hạch tóa kế tiếp - Chỉ số 6: Tổng chi phí x 100 Tổng thu nhập Chỉ số này tính toán khả năng bù trừ chi phí của một đồng thu nhập. Đây cũng là chỉ số đo lường hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Thông thường chỉ số này phải nhỏ hơn 1, nếu lớn hơn 1 chứng tỏ ngân hàng hoạt động kém hiệu quả, đang có nguy cơ phá sản trong tương lai.
  59.  Mối quan hệ giữa chỉ số ROA và ROE: Trong phân tích lợi nhuận, các nhà NH thường quan tâm đến hai chỉ số ROA và ROE. Hai chỉ số này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau thông qua công thức sau: Lợi nhuận ròng ROE = x 100 Vốn chủ sở hữu Lợi nhuận ròng Tổng tài sản  ROE = x x 100 Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu Tổng tài sản  ROE = ROA x x 100 Vốn chủ sở hữu Trong đó: Vốn chủ sở hữu Tỷ lệ đòn bẩy tài chính = Tổng tài sản Mối quan hệ trên cho thấy thu nhập của một ngân hàng rất nhạy cảm với phương thức tài trợ tài sản (sử dụng nhiều nợ hơn hay nhiều vốn chủ sở hữu hơn). Một ngân hàng có ROA thấp vẫn có thể đạt ROE ở mức cao nếu như sử dụng nhiều nợ (gồm cả tiền gửi của khách hàng) và sử dụng tối thiểu vốn chủ sở hữu trong quá trình tài trợ tài sản. Công thức này chứng minh rằng chỉ số ROE rất dễ biến động. Do tỷ số tổng tài sản trên vốn chủ sở hữu luôn lớn hơn một nhiều lần nên chỉ số ROE có độ nhạy cao hơn chỉ số ROA gấp nhiều lần. Chỉ cần một sự biến đổi nhỏ của ROA cũng có thể làm ROE thay đổi lớn. Công thức này còn tính toán khả năng sử dụng vốn so với vốn chủ sở hữu của ngân hàng thông qua chỉ số tài sản trên vốn chủ sở hữu. Một ngân hàng cps ROA thấp nhưng vẫn có thể đạt ROE cao với điều kiện nâng cao tỷ trọng vốn huy động. Tóm lại: Công thức trên chứng minh lợi nhuận và rủi ro là 2 yếu tố song hành. Ở đau có lợi nhuận cao thì ở đó rủi ro có thể gặp phải lớn. Chính điều này mà các nhà quản trị thường sử dụng nó trong phân tích nhằm đánh giá chính xác
  60. lợi nhuận và khả năng gánh chịu rủi ro của ngân hàng đồng thời thiết lập kế hoạch về lợi nhuận cho tương lai  Mở rộng hệ số ROE: Để có thể có những nhận xét chính xác hơn về tình hình biến động lợi nhuận của NHTM, các nhà phân tích còn chia hệ số ROE thành nhiều phần chi tiết sau: Lợi nhuận ròng ROE = Vốn chủ sở hữu Lợi nhuận ròng Tổng thu nhập Tổng tài sản ROE = x x Tổng thu nhập Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu  Chỉ số lợi nhuận biên tế Ngoài các chỉ số trên các nhà phân tích còn áp dụng chỉ số lợi nhuận biên tế để đánh giá tình hình tài chính của ngân hàng thương mại. Chỉ số này dùng để đo lường độ tăng giảm lợi nhuận khi thay đổi một đối tượng đơn vị quan sát. Đối tượng cần nghiên cứu có thể là quy mô Tài sản, vốn chủ sở hữu, chi phí của ngân hàng. Ví dụ: nếu ngân hàng muốn đo lường chỉ số lợi nhuận biên tế trên tài sản có của ngân hàng thì có thể áp dụng công thức sau: Chỉ số lợi nhuận biên tế Lợi nhuân 2- Lợi nhuận 1 = của tài sản Tài sản 2 – tài sản 1 Trong đó: - Tài sản 1: Giá trị tài sản của ngân hàng tại thời điểm gốc - Tài sản 2: Giá trị tài sản của ngân hàng kỳ nghiên cứu - Lợi nhuận 1: Lợi nhuận được tạo ra từ tài sản 1 - Lợi nhuận 2: Lợi nhuận được tạo ra từ tài sản 2 Có 3 tình huống xảy ra đối với chỉ số lợi nhuận biên tế - Chỉ số = 0: Nghĩa là dù tăng hoặc giảm đối tượng nghiên cứu thì lợi nhuận của ngân hàng không thay đổi.