Bài giảng môn Xã hội học

pdf 106 trang ngocly 1670
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng môn Xã hội học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_mon_xa_hoi_hoc.pdf

Nội dung text: Bài giảng môn Xã hội học

  1. THAY LỜI NÓI ĐẦU   Xã hội học là một bộ môn khoa học độc lập trong hệ thống các khoa học xã hội. Xã hội học đã được nghiên cứu, giảng dạy trong nhiều trường đại học trên thế giới từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đây l à môn học không thể thiếu của các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Ở Việt Nam, xã hội học đã được đưa vào giảng dạy trong các trường đại học và cao đẳng trong cả nước. Môn học này còn nhận được sự quan tâm rất lớn từ phía các c ơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức xã hội, các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý và các doanh nhân. Đời sống xã hội hiện đại đang đặt ra nhiều vấn đề x ã hội hết sức phức tạp, đòi hỏi phải có nhận thức xã hội đúng đắn và phương pháp tiếp cận, giải quyết những vấn đề x ã hội một cách khoa học và hiệu quả. Ở đây nổi bật vai trò của những tri thức xã hội học. Những tri thức trong lĩnh vực khoa học x ã hội mà xã hội học đã đúc kết được góp phần quan trọng vào việc đào tạo nguồn nhân lực, hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của địa phương và khu vực. Trên cơ sở Khung chương trình và Đề cương môn học đã được Hội đồng Khoa học Trường Đại học Kinh tế thuộc Đại học Đ à Nẵng thông qua, tập đề cương bài giảng môn xã hội học được biên soạn nhằm phục vụ mục đích học tập, nghi ên cứu của sinh viên các khối ngành kinh tế thuộc các hệ đào tạo khác nhau. Do kinh nghiệm nghiên cứu còn những hạn chế, nên đề cương bài giảng này còn có thể có một số khiếm khuyết nhất định. Ng ười biên soạn xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến chuyên môn thiết thực và quý báu của các đồng nghiệp trong và ngoài Trường cũng như của những người quan tâm đến xã hội học cho việc hoàn thiện hơn nữa nội dung khoa học của đề cương bài giảng.
  2. Chương I XÃ HỘI HỌC NHƯ MỘT KHOA HỌC I. XÃ HỘI HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC 1. Khái quát về xã hội học Xã hội học là khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống quá trình hình thành, phát triển, cấu trúc, mối quan hệ tương tác và các hành vi chung của các cá nhân, nhóm, tổ chức xã hội cùng các cách tiếp cận tới những phương diện khác nhau của đời sống xã hội. Cũng có thể định nghĩa xã hội học một cách vắn tắt như là một khoa học nghiên cứu các tương tác xã hội. Xã hội học liên quan tới các cách thức trong đó diễn ra các mối quan hệ t ương tác giữa các cá nhân với tư cách là thành viên của các nhóm và các tổ chức xã hội. Mối quan hệ tương tác này liên hệ đến tất cả các yếu tố cấu thành xã hội như cấu trúc xã hội hay văn hoá chẳng hạn. Xã hội là một hệ thống các hoạt động và các quan hệ của con người có đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá chung c ùng cư trú trên một lãnh thổ ở một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Trong lịch sử phát triển tri thức xã hội của nhân loại có rất nhiều quan niệm khác nhau về xã hội tuỳ theo góc độ nghiên cứu của các nhà xã hội học. Xã hội học hiện đại có thể giới thiệu một số quan niệm về xã hội như sau: - Xã hội thượng lưu, xã hội bình dân; - Xã hội nguyên thuỷ, xã hội truyền thống, xã hội hiện đại; - Xã hội nông nghiệp, xã hội công nghiệp, xã hội hậu công nghiệp; - Xã hội hoang dã, xã hội dã man, xã hội văn minh (Lewis Morgan); - Xã hội bầy đàn, thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc ( Emile Durkheim); - Xã hội Kitô giáo, xã hội Hồi giáo, xã hội Khổng giáo Đề cập đến xã hội tức là đề cập đến những hoạt động và những quan hệ xã hội. Các hoạt động xã hội bao gồm hoạt động lao động như hoạt động sản xuất, hoạt động tái sản xuất xã hội, hoạt động quản lý xã hội và các hoạt động giao tiếp; hoạt động an ninh trong môi trường đối 2
  3. ngoại gồm các quan hệ giữa cộng đồng xã hội này với cộng đồng xã hội khác. 2. Lịch sử phát triển của xã hội học Con người có nguyện vọng tự nhiên là muốn tìm hiểu, nhận thức và giải thích bản chất của sự vận động và phát triển của xã hội. Đây là điều kiện thiết yếu cho sự ra đời của nhiều khoa học xã hội, trong đó có xã hội học. Xã hội học, lúc mới hình thành và phát triển không tách rời khỏi triết học. Điều này được thể hiện trong quan điểm của các nhà tư tưởng, các triết gia cổ đại và cận đại. Các đại biểu tiêu biểu là Quản Trọng, Khổng tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Lão Tử, Trang Tử, Hàn Phi Tử (Trung Quốc); Platon, Aristote (Hy Lạp); thời kỳ Phục h ưng có Thomas Hobbes, John Locke (Anh). Từ thời kỳ cổ đại đến thời kỳ Phục hưng có thể được xem là thời kỳ tiền xã hội học. Các nhà tư tưởng mới chỉ đưa ra những ý tưởng dưới hònh thức tư duy xã hội. Cá tri thức của con người về xã hội được bồi đắp qua thời gian, qua sự phát triển của lịch sử nhân loại đặt nền móng cho xã hội học. Lúc này xã hội học phát triển chủ yếu dưới hình thức của triết học về xã hội. Đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, xuất hiện nhu cầ u nhận thức mới mẻ, khoa học về xã hội. Đây là tiền đề quan trọng cho sự ra đời của xã hội học như một khoa học. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XIX, xã hội học mới được thừa nhận là một khoa học độc lập. Người được xem là thuỷ tổ của xã hội học là nhà xã hội học người Pháp Auguste Comte (1798-1857). Ông là người đầu tiên đề xướng thuật ngữ “sociology” (dịch là “xã hội học”) vào năm 1838 trong tác phẩm “Course of the positive philosophy” v ới ý nghĩa là nghiên cứu thực chứng toàn bộ các quy luật cơ bản của các hiện tượng xã hội, qua đó sáng lập nền triết học thực chứng và trào lưu xã hội học thực chứng. Nhà xã hội học người Pháp Emile Durkheim (1858-1917) đã đề ra khái niệm “sự kiện xã hội” thay cho phạm trù tâm sinh lý cá nhân trong nghiên cứu xã hội học. Năm 1897 ông công bố tác phẩm “Các quy tắc của phương pháp xã hội học” và góp phần đưa xã hội học phát triển thành một ngành khoa học độc lập. Ngoài ra, còn có các đại biểu khác như Frederic Le Play, Karl Marx, Maximilian Weber 3
  4. Xã hội học phát triển mạnh ở châu Âu thành một ngành khoa học độc lập nghiên cứu cấu trúc xã hội như một thực thể khoa học và đến đầu thế kỷ XX phát triển thành trào lưu xã hội học cấu trúc. Dưới tác động mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật v à quá trình công nghiệp hoá ở Mỹ, hàng loạt các vấn đề xã hội có liên quan đến hành vi cá nhân, nhóm xã hội xuất hiện dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của x ã hội học theo hướng tiếp cận từ phía hành vi và phát triển thành trào lưu xã hội học hành vi. Xã hội học phát triển nhanh chóng v à mạnh mẽ ở châu Âu và Mỹ với hai cách tiếp cận khác nhau l à cấu trúc xã hội và hành vi xã hội. Nhưng hiện nay, xã hội học thế giới phát triển theo h ướng xâm nhập vào nhau giữa xã hội học Mỹ và xã hội học châu Âu. Ở các nước XHCN, xã hội học phát triển theo hướng lấy triết học Mác - Lênin làm cơ sở nhận thức và kết hợp cả cấu trúc xã hội với hành vi xã hội trong một thể thống nhất là cộng đồng xã hội. Ở Việt Nam, xã hội học trở thành khoa học hoàn chỉnh cả trên phương diện nghiên cứu và giảng dạy từ thập niên 1970. Về mặt lý luận, xã hội học ở Việt Nam đã đạt được một số thành tựu đáng kể. 3. Một số lý thuyết xã hội học a) Lý thuyết xã hội học thực chứng Xã hội học thực chứng được xây dựng trên cơ sở lý thuyết cấu trúc xã hội và triết học thực chứng. Những đại biểu điển hình của trào lưu này là Auguste Comte, Emile Durkheim, Talcott Parsons Xã hội học thực chứng xem xét cấu trúc x ã hội như một chỉnh thể tổng hợp hữu cơ, trong đó, các bộ phận, yếu tố hợp thành liên kết với nhau theo quy luật nhân quả. Các hiện tượng xã hội là hiện hữu thực và hoàn toàn có thể được kiểm chứng bằng thực nghiệm. Các h ành vi xã hội của cá nhân và các thiết chế xã hội quan hệ với nhau cũng tuân theo quy luật này. Xã hội học thực chứng cho rằng đối tượng nghiên cứu của xã hội học là những thực thể và do đó, chúng được biểu hiện thông qua các sự kiện có thể quan sát được và nhiệm vụ của nhà xã hội học là xây dựng các giả thuyết bằng các sự kiện đã được quan sát hoặc bằng thực nghiệm khoa học. 4
  5. b) Thuyết đồng cảm xã hội Đại biểu xuất sắc của thuyết đồng cảm xã hội là Emile Durkheim, nhà xã hội học cấu trúc - đồng cảm - chức năng. Theo thuyết này, thì các đặc tính của xã hội không thể được quy về các đặc điểm tâm sinh lý riêng của từng cá nhân mà phải là hoạt động của các thể chế xã hội trong sự tác động tương hỗ giữa các yếu tố hợp thành chỉnh thể xã hội. Thuyết đồng cảm xã hội chủ trương rằng các giá trị xã hội, chuẩn mực, vai trò, địa vị cũng như các yếu tố tinh thần khác tạo nên nền văn hoá xã hội và đạo lý xã hội. Đây là động lực của tiến hoá xã hội. Cơ sở của trật tự và phục tùng xã hội là sự đồng cảm về các giá trị và chuẩn mực. Hành vi xã hội của cá nhân cũng như các trật tự xã hội chuyển đổi thành các quy luật văn hoá thông qua quá trình xã hội hoá. Như vậy, xã hội hoá là điểm mấu chốt trong thuyết đồng cảm xã hội. Xã hội hoá là điều kiện, phương tiện và là con đường duy nhất để cá nhân hội nhập với xã hội. Thuyết đồng cảm xã hội dựa trên luận điểm “sự kiện xã hội”, đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu các “sự kiện xã hội”. c) Thuyết cấu trúc chức năng Hai đại biểu lớn nhất của thuyết cấu trúc chức năng là Emile Durkheim (ông đồng thời là nhà xã hội học theo thuyết đồng cảm) và Talcott Parsons, nhà xã hội học người Mỹ (1902-1979). Thuyết cấu trúc chức năng giải thích sự tồn tại và phát triển của các thể chế xã hội là do chức năng duy trì trật tự xã hội của chúng. Thuyết cấu trúc chức năng quan niệm xã hội bình thường như một cơ thể lành mạnh, trong đó, các thể chế có chức năng riêng và quan hệ hữu cơ với nhau; cùng hướng vào việc duy trì tính hợp lý xã hội. Các chức năng có vị trí, vai trò bình đẳng với nhau. Xã hội là một hệ thống các thiết chế phụ thuộc lẫn nhau v à tham gia tạo nên sự ổn định bền vững của chỉnh thể xã hội. Để giải thích các thiết chế xã hội, không được tìm hiểu mục đích của cá nhân mà phải tìm hiểu hệ thống xã hội như một tổng thể, đòi hỏi phải thoả mãn các nhu cầu của nó. 5
  6. d) Thuyết hành động xã hội Đại biểu lớn nhất là Max Weber (1864-1920), nhà xã hội học cấu trúc người Đức. Các thể chế xã hội, cuối cùng đều được quy về hành động cá nhân có những động cơ và mục tiêu đặc trưng. Theo M. Weber, có bốn loại động cơ chi phối hành động, đó là: - Cảm xúc; - Truyền thống; - Giá trị; - Mục đích. Tương ứng với bốn loại động cơ nêu trên là bốn loại hành động xã hội, cụ thể: - Hành động theo cảm xúc; - Hành động theo truyền thống; - Hành động theo giá trị; - Hành động có mục đích. Bốn loại hành động trên là phương tiện để phân tích và giải thích mọi hành động của cá nhân. Bốn loại h ành động này không tách rời nhau mà luôn luôn thâm nhập vào nhau. Trong nghiên cứu cần chú ý đến sự khác biệt cũng như quan hệ giữa các loại hành động trong từng trường hợp cụ thể và trong từng nền văn hoá riêng biệt. Nhà xã hội học phải phân tích, diễn giải, li ên kết các vấn đề để hiểu và xác định được hành động của chủ thể chịu sự tác động, chi phối của một loại hay các loại động cơ nào thúc đẩy hành động đó. e) Các nguyên lý cơ bản của xã hội học mác xít Nguyên lý quyết định luận xã hội của xã hội học mác xít vận dụng những nguyên lý của triết học duy vật biện chứng v ào lĩnh vực xã hội với những nguyên tắc cụ thể như sau: - Nguyên tắc vật chất quyết định ý thức; - Nguyên tắc tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; 6
  7. - Nguyên tắc cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng xã hội; - Nguyên tắc hoạt động vật chất quyết định hoạt động tinh thần của các chủ thể xã hội. Thứ nhất, xã hội học mác xít làm sáng tỏ sự tác động qua lại giữa con người với xã hội, khẳng định vai trò của xã hội cũng như của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử. Xã hội học mác xít xem xét hoạt động của con người trong tính toàn thể, bắt đầu từ hoạt động vật chất, thứ đến là hoạt động tinh thần khi phân tích hoạt động của cá nhân. Nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng xã hội bắt nguồn từ hoạt động vật chất và thực tiễn xã hội. Thứ hai, xã hội học mác xít khẳng định rằng, hoạt động của con người dù dưới bất kỳ hình thức nào đều có tính sáng tạo, thể hiện trí tuệ và năng lực sáng tạo không ngừng. Tuy nhi ên, trong xã hội có giai cấp, lao động bị tha hoá và trở thành hàng hoá, là nguyên nhân và c ũng chính là nạn nhân của bất bình đẳng xã hội. Nguyên lý phát triển của xã hội học mác xít khẳng định quá trình biến đổi và phát triển của xã hội có nguyên nhân sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự thay đổi và phát triển của quan hệ sản xuất một cách thích ứng. Đó là quá trình vừa mang tính tiến hoá, vừa mang tính cách mạng phù hợp với các quy luật khách quan. Nguyên lý tính hệ thống của xã hội học mác xít đặt ra yêu cầu khi phân tích xã hội phải xem xã hội như là một hệ thống hoàn chỉnh, có khả năng tự vận hành và phát triển. Xã hội có một cơ cấu cụ thể, trong đó, các yếu tố cấu thành xã hội có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Xã hội là phức hợp những hình thức hoạt động khác nhau của con người, các quan hệ xã hội, các hình thức cộng đồng của con người với tính ổn định, tính hoàn chỉnh và tính quy luật. Xã hội học mác xít chỉ ra nguyên tắc tiếp cận việc phân tích hệ thống xã hội đi từ trừu tượng đến cụ thể, từ cái chung đến cái riêng và cuối cùng đến cái cốt lõi của xã hội đó là quan hệ sản xuất và suy cho cùng, phương thức sản xuất quyết định mọi mặt và mọi quá trình của đời sống xã hội. 7
  8. II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC 1. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học Cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu xã hội học thiên về con người cho rằng đối tượng nghiên cứu xã hội học là hành vi xã hội hay hành động xã hội của con người, tức là các hành vi cá nhân, các cơ chế hình thành các hành vi đó bao gồm các tương tác giữa các cá nhân, sự hình thành động cơ và các tác nhân hành động của nhóm. Loại hình xã hội học này phát triển mạnh ở Mỹ, còn gọi là trường phái xã hội học “vi mô”, khoa học về hành vi xã hội của cá nhân và nhóm, chịu ảnh hưởng của thuyết hành vi và chủ nghĩa thực dụng theo hiện tượng luận. Cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu xã hội học thiên về xã hội lại quan tâm đến cả xã hội nhân loại, đó là tính chỉnh thể của tổ chức xã hội, tính hệ thống của xã hội trong mối quan hệ chi phối cá nhân. Những khái niệm chính của cách tiếp cận n ày là văn hoá, thiết chế xã hội, hệ thống và cấu trúc xã hội, các quá trình xã hội rộng lớn. Loại hình xã hội học này phát triển mạnh ở châu Âu, còn gọi là trường phái xã hội học “vĩ mô” do sự ảnh hưởng mạnh mẽ của triết học thực chứng và thuyết tiến hoá của Charles Darwin (1809 -1882). Cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu xã hội học tổng hợp, tức là vừa nghiên cứu hành vi của con người, vừa nghiên cứu hệ thống xã hội. Xã hội học hiện đại có xu hướng tiếp cận đối tượng nghiên cứu theo cách tích hợp. Trong trường hợp này, đối tượng nghiên cứu của xã hội học là mối quan hệ hữu cơ, biện chứng, ảnh hưởng và tác động tương hỗ giữa một bên là con người với tư cách là cá nhân, nhóm và một bên là xã hội với tư cách là hệ thống xã hội, là cơ cấu hay cấu trúc xã hội. Từ những phân tích trên đây, có thể đi đến định nghĩa đối tượng nghiên cứu của xã hội học là các quy luật và xu hướng của sự phát sinh, phát triển và biến đổi của các hoạt động xã hội, các quan hệ xã hội, tương tác giữa các chủ thể xã hội cùng các hình thái biểu hiện của chúng. 2. Các phạm trù cơ bản của xã hội học 8
  9. - Hành động xã hội: Hành động xã hội là tất cả những hành vi và hoạt động của con người diễn ra trong bối cảnh lịch sử x ã hội nhất định, là hành vi có động cơ, mục đích, đối tượng, là hành động hướng tới người khác hay ngược lại, chịu sự tác động của người khác. Người đề xuất phạm trù này là Max Weber với quan niệm xã hội học là khoa học lý giải hành động xã hội. - Hoạt động xã hội: Hoạt động xã hội là toàn thể hoạt động của nhóm xã hội nhằm đạt được mục đích nhu cầu và quyền lợi xã hội. Hoạt động xã hội bao gồm sáu phương diện cơ bản sau: + Sản xuất của cải vật chất; + Sản xuất của cải phi vật chất (các giá trị văn hoá tinh thần); + Tái sản sinh con người; + Các hoạt động quản lý; + Các hoạt động giao tiếp; + Các hoạt động đối ngoại. - Cấu trúc xã hội: Cấu trúc xã hội là tổng hợp các yếu tố cấu thành xã hội trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, là một hệ thống lớn, bao gồm nhiều hệ thống nhỏ và nhỏ dần đến đơn vị cơ bản là con người. Cơ cấu xã hội là khuôn mẫu, thuộc tính của các mối quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội, các điều kiện, hoàn cảnh và các sản phẩm do con người tạo ra. Những người đề xướng phạm trù này là Auguste Comte và Emile Durkheim. - Quan hệ xã hội: Quan hệ xã hội là quan hệ được xác lập giữa các cộng đồng xã hội và các cá nhân với tư cách là chủ thể của hoạt động xã hội khác nhau ở vị trí, chức năng đời sống xã hội. Quan hệ xã hội bao gồm bốn phương diện chính như sau: + Quan hệ trong sản xuất trực tiếp; + Quan hệ trong phân phối; + Quan hệ trong tiêu dùng; + Quan hệ trong trao đổi. 9
  10. - Chủ thể xã hội: Chủ thể xã hội là các thực thể xã hội tạo ra các hoạt động xã hội. Chủ thể xã hội có thể là cá nhân, có thể là nhóm xã hội hay cộng đồng xã hội. - Thiết chế xã hội: Thiết chế xã hội là các hình thức cộng đồng và hình thức tổ chức của con người trong quá trình tiến hành các hoạt động xã hội. Thiết chế xã hội chính là các ràng buộc được xã hội chấp nhận và mọi cá nhân, nhóm cộng đồng và toàn thể xã hội phải chấp nhận và tuân thủ. - Tương tác xã hội: Tương tác xã hội là tổ hợp các hoạt động xã hội, các quan hệ xã hội, các chủ thể xã hội cùng các mối quan hệ ràng buộc giữa chúng và ngay trong nội tại bản thân chúng. III. CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA XÃ HỘI HỌC 1. Chức năng của xã hội học a) Chức năng nhận thức Xã hội học trang bị những tri thức khoa học về sự phát triển của x ã hội theo những quy luật vốn có của nó, chỉ ra nguồn gốc, ph ương thức diễn biến và cơ chế của các quá trình phát triển xã hội, của các mối quan hệ giữa con người và xã hội. Xã hội học xây dựng và phát triển hệ thống lý luận, phương pháp luận nghiên cứu, kỹ thuật và thao tác nghiên cứu khoa học để tìm ra quy luật, lý thuyết và các vấn đề lý luận nhờ tư duy khoa học và bằng việc kiểm chứng các sự kiện đã quan sát được. Xã hội học mác xít chủ trương chức năng nhận thức của xã hội học phải dựa vào lập trường tư tưởng và thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và phải giúp nhận thức được đúng - sai, phải - trái để từ đó có hành động hữu ích thích hợp. b) Chức năng thực tiễn Chức năng này hướng tới sự cải thiện xã hội và cuộc sống của nhân loại. Thực tiễn chính là cơ sở của lý luận; còn lý luận phục vụ thực tiễn. Không chỉ đơn thuần vận dụng các quy luật xã hội học vào hiện thực, mà chức năng thực tiễn còn chú trọng nắm bắt, giải quyết đúng đắn, kịp thời những vấn đề xã hội nảy sinh để cải thiện tình hình xã hội. 10
  11. Xã hội học dự báo những xu hướng vận động của các hiện tượng và quá trình xã hội, dự báo những gì có thể sẽ xảy ra, đồng thời đề xuất các giải pháp kiểm soát chúng. c) Chức năng tư tưởng Chức năng này xuất hiện từ bản chất và vai trò của hệ tư tưởng trong hệ thống xã hội, biểu hiện ở vai trò cung cấp nội dung khoa học của hệ tư tưởng, là cơ sở cho nhân sinh quan xã hội đúng đắn. Chức năng tư tưởng của xã hội học thể hiện trên hai khía cạnh sau: - Trang bị cho nhà xã hội học thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu độc lập, tự do, về vai trò, trách nhiệm của công dân trong sự nghiệp phát triển x ã hội. - Giúp nhà xã hội học hình thành và phát triển phương pháp tư duy, nghiên cứu khoa học và năng lực phê phán các quan điểm phi mác xít, việc lợi dụng xã hội học để phủ định vai trò của học thuyết Mác - Lênin; chống lại những tư tưởng sai lầm, bảo thủ, lạc hậu trong nhận thức lý luận và trong hoạt động thực tiễn. 2. Nhiệm vụ của xã hội học a) Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận Xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống lý luận xã hội học, bao gồm các khái niệm, phạm trù, lý thuyết khoa học riêng, đặc thù. Xã hội học kế thừa một cách chọn lọc các kh ái niệm cũng như thuật ngữ của các ngành khoa học khác. Hình thành và phát triển hệ thống lý luận, phương pháp luận nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội. b) Nhiệm vụ nghiên cứu thực nghiệm Thông qua nghiên cứu thực nghiệm, xã hội học kiểm nghiệm, chứng minh các giả thuyết khoa học. Phát hiện những vấn đề mới nảy sinh, làm cơ sở cho việc sửa đổi, phát triển và hoàn thiện hệ thống khái niệm, đồng thời thúc đẩy tư duy xã hội học. c) Nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng 11
  12. Xã hội học nghiên cứu ứng dụng tri thức khoa học v ào đời sống. Nghiên cứu ứng dụng hướng tới việc đề ra các giải pháp vận dụng những phát hiện của nghiên cứu lý luận và nghiên cứu thực nghiệm trong hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở nghiên cứu quá trình hình thành, vận hành và phát triển của các cộng đồng xã hội, các quan hệ xã hội cũng như các hành vi xã hội; bằng các phương pháp khoa học chuyên ngành, xã hội học đưa ra những kết luận chính xác về bản chất của sự kiện, hiện t ượng hay quá trình đó, từ đó đề xuất các giải pháp để kiểm soát, tức là đề ra các quyết sách hay quyết định quản lý xã hội một cách thích hợp. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC 1. Cơ sở phương pháp luận Phương pháp nghiên cứu xã hội học là tổng hợp các phương pháp, kỹ thuật và cách thức nghiên cứu xã hội học nhằm làm sáng tỏ bản chất, các đặc trưng, cơ cấu, xu hướng và tính quy luật của các hiện tượng và quá trình xã hội. Trước khi đi sâu vào một số phương pháp nghiên cứu xã hội học, cần phải xem xét phương pháp luận chung nghiên cứu xã hội học. Nhận thức xã hội học là một quá trình đặc biệt phức tạp, vì bản thân xã hội đã là một hệ thống cực kỳ phức tạp, trong đó con ng ười, một trong những chủ thể cấu thành xã hội, cũng đồng thời là lực lượng tạo ra các mặt của đời sống xã hội, là những thế giới thu nhỏ vô cùng phong phú và sinh động. Vì vậy, nghiên cứu xã hội cần chú ý các quan điểm sau: a) Quan điểm toàn bộ Khi nghiên cứu một vấn đề xã hội nào đó, phải đặt vấn đề đó vào trong mối tương quan. Cơ sở của quan điểm này là mối liên hệ chằng chịt, qua lại giữa các mặt của đời sống x ã hội. Thí dụ: Nghiên cứu vấn đề tạo việc làm cho thanh niên nông thôn, ngoài ra nội dung chính là số thanh niên thất nghiệp, trình độ học vấn, tuổi, giới, còn phải xem xét ruộng đất, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống của địa phương. 12
  13. Việc nghiên cứu một số vấn đề nào đó tách rời với toàn bộ các vấn đề khác có liên quan thường dẫn đến các kết luận hời hợt, thiếu sót v à dĩ nhiên có độ chính xác thấp. b) Quan điểm hệ thống Các vấn đề xã hội thường là các mắt xích trong một hệ thống phức tạp cả về chiều dọc và chiều ngang. Xét theo chiều dọc, một vấn đề nào đó thường là một bộ phận của một vấn đề lớn hơn, bao quát hơn. Bản thân vấn đề nghiên cứu lại là một hệ thống bao gồm nhiều vấn đề chi tiết, nhỏ hơn, cụ thể hơn. Xét theo chiều ngang, vấn đề nghiên cứu thường là kết quả của vô số nguyên nhân, đồng thời nó lại là nguyên nhân (hoặc một trong các nguyên nhân) của một kết quả xã hội khác. Vì vậy, nghiên cứu một vấn đề xã hội nào đó, phải đặt vấn đề đó trong hệ thống mà nó đang tồn tại. Từ đó, xã hội học sẽ có nhiều nội dung súc tích để xem xét, khảo sát, lý giải và kết luận một cách đầy đủ, có hệ thống chặt chẽ. c) Quan điểm thực tiễn Xét cho cùng, phương pháp nghiên c ứu xã hội học đều dựa trên cơ sở thực nghiệm, tức là xuất phát từ nhu cầu thực tế, quan sát hiện t ượng hoặc quá trình thực tế, tìm ra cách lý giải vấn đề dựa trên các luận chứng thực tế và khi kết luận vấn đề cũng có sự đối chiếu, so sánh với thực tế bằng phương pháp kiểm định thực tế. Sở dĩ như vậy là vì hiện tượng và quá trình xã hội thường trừu tượng, nếu không bám sát thực tế, sẽ có nhiều cách lý giải khác nhau, mà cách nào cũng có lý của nó nếu đứng tr ên phương diện lý thuyết. Chỉ có qua cọ xát, thử thách với thực tế, mới có thể chứng minh đ ược cách lý giải hợp lý nhất, tức là gần với chân lý nhất. 2. Các phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu xã hội học có rất nhiều phương pháp. Xã hội học đề xuất các nhóm phương pháp chủ yếu sau: a) Các phương pháp quan sát Quan sát là phương pháp nghiên c ứu những biểu hiện bên ngoài của tâm lý con người (hành động, cử chỉ, ngôn ngữ, vẻ mặt, dáng điệu, 13
  14. cách ứng xử ) diễn ra trong sinh hoạt của con ng ười. Qua đó có thể suy ra những quá trình tâm lý bên trong. Có nhiều cách quan sát, cụ thể như sau: - Quan sát tổng hợp (quan sát chung, phục vụ mục tiêu nghiên cứu chung, rộng, nhiều vấn đề), quan sát lựa chọn (chỉ tập trung v ào một vấn đề nào đó). - Quan sát có chuẩn mực (đi vào các yếu tố có ý nghĩa nhất của đối tượng nghiên cứu để tập trung chú ý. Thường dùng để kiểm tra kết quả nhận được của phương pháp khác hoặc để nhận thức sâu sắc vào đối tượng), quan sát không chuẩn mực (ch ưa xác định các yếu tố có ý nghĩa. Thường được dùng lúc khởi đầu của một nghiên cứu). - Quan sát có tham gia (quan sát gia nhập vào hoạt động của nhóm người được quan sát. Có kết quả cao hơn, nhưng nếu bị phát hiện việc quan sát thì hỏng việc), quan sát không tham gia (kết quả ít h ơn nhưng dễ giữ bí mật). - Quan sát một lần và quan sát nhiều lần. Quan sát nhiều lần có độ chính xác cao hơn. Ngoài việc sử dụng các giác quan để thu thập t ài liệu, người quan sát còn có thể dùng máy ảnh, máy ghi âm, camera. Quan sát muốn có kết quả thường phải tổ chức từ hai đến ba ng ười cùng làm, sau đó đối chiếu, tổng hợp. Ngoài ra cũng nên quan sát bí mật, vì nếu người ta biết mình đang bị quan sát sẽ không tự nhiên, các cử chỉ sẽ trở nên gò bó, không phản ánh sự thực nữa. Quan sát còn có một nhược điểm là số đối tượng được quan sát thường không dược nhiều, do phải tốn người, tốn công quan sát. Vì vậy, kết quả quan sát chỉ đúng nếu phạm vi nghi ên cứu hẹp, số đối tượng hạn chế. b) Các phương pháp đàm thoại, phỏng vấn - Phương pháp đàm thoại: Phương pháp đàm thoại là nói chuyện giữa người nghiên cứu và đối tượng. Đây là phương pháp hay được dùng vì nó có hiệu quả. Nếu trò chuyện trong một không khí thân mật, chân th ành, tin cậy, thoải mái có thể khiến người ta bộc lộ tâm tình, từ đó có thể hiểu được tâm trạng, 14
  15. cảm xúc, thái độ với vấn đề cần t ìm hiểu. Có thể đàm thoại trực tiếp vào nội dung cần tìm hiểu, nếu vấn đề dễ bàn luận, nhưng cũng có thể phải đi vòng, nếu vấn đề tế nhị, dễ đụng chạm. Để đàm thoại có kết quả cần phải: + Xác định rõ mục tiêu để lái câu chuyện sang hướng nghiên cứu. + Trước khi đàm thoại, phải tìm hiểu đặc điểm tâm lý của đối tượng. + Chủ động dắt dẫn câu chuyện, vì dễ đi lan man. + Có thể tranh luận nếu cần, để hiểu r õ thực chất suy nghĩ của đối tượng. Nếu đàm thoại tốt, có thể làm cho việc nghiên cứu đạt kết quả. Tuy vậy, đàm thoại cũng tốn người, tốn công nên cũng chỉ tiến hành được ở phạm vi hẹp. - Phương pháp phỏng vấn: Phương pháp phỏng vấn cũng là trao đổi giữa người nghiên cứu và đối tượng, nhưng khác với đàm thoại ở chỗ người nghiên cứu hỏi để đối tượng trả lời, theo một dàn câu hỏi đã chuẩn bị sẵn (tức là bảng hỏi). Có nhiều phương pháp phỏng vấn: + Phỏng vấn tự do (ngoài bảng hỏi, có thể có các câu hỏi th êm để việc tìm hiểu được sâu sắc hơn), phỏng vấn theo bảng hỏi (không hỏi thêm). + Phỏng vấn trực tiếp: Người nghiên cứu gặp trực tiếp và hỏi đối tượng; + Phỏng vấn qua điện thoại: Người nghiên cứu không tiếp xúc trực tiếp với đối tượng nghiên cứu. + Phỏng vấn cá nhân và phỏng vấn nhóm (phỏng vấn nhiều người một lúc. Nhóm có thể gồm những ng ười cùng gia đình, cùng làm việc hoặc cùng quan tâm đến vấn đề nghiên cứu). Phỏng vấn là phương pháp có nhiều ưu điểm: + Do có dàn câu hỏi (bảng hỏi) nên hiệu quả thông tin rất cao, tránh đi lan man như khi đàm tho ại. 15
  16. + Cũng do vậy mà tiết kiệm thời gian, có thể làm được với nhiều đối tượng. Qua phỏng vấn còn nắm được thái độ, hành vi của đối tượng. Tuy vậy, phỏng vấn cũng hạn chế: + Do bị phỏng vấn, đối tượng có thể chọn cách trả lời dung ho à hoặc chung chung, có thể trả lời thiếu trung thực (nếu đụng chạm đến quyền lợi , tình cảm riêng tư). Vì vậy, trước khi hỏi phải làm công tác tư tưởng và trong bảng hỏi nên có xen kẽ các câu hỏi kiểm tra. + Phỏng vấn bằng điện thoại tuy thuận tiện v à thực hiện được trên diện rộng, nhưng bị hạn chế về thời gian và không có tính đại diện (chỉ hỏi được những người có điện thoại). Ngoài ra, cũng có hạn chế như trên đã nói. Dù có hạn chế như vậy, nhưng phỏng vấn là phương pháp được dùng khá rộng rãi trong nghiên cứu xã hội vì các ưu điểm của nó. c) Phương pháp thăm dò ý kiến Phương pháp thăm dò ý kiến cũng là một dạng tương tự như hai phương pháp trên, nhưng thường thiên về hỏi gián tiếp qua phiếu thăm dò, qua đường gửi thư, qua hỏi ý kiến bạn đọc (báo viết), qua hỏi ý kiến bạn xem (báo hình). Nội dung thăm dò thường không quá phức tạp, đối tượng sẽ không xác định được trước (báo viết, báo hình) hoặc có xác định (đối tượng nhận phiếu, thư thăm dò). Thăm dò ý kiến có ưu điểm là có thể tiến hành với nhiều người (đủ mọi tầng lớp, giới, lứa tuổi v à phạm vi rộng cả nơi xa, nơi gần), nhưng cũng có hạn chế là thông tin phản hồi không nhiều. Như vậy, phải tăng số lượng đối tượng thăm dò để trừ hao. Thăm dò ý kiến thường được dùng trong điều tra dư luận xã hội. d) Phương pháp thực nghiệm Thực nghiệm xã hội là đưa những vấn đề xã hội được xem xét, nghiên cứu về lý thuyết ra thực tiễn để x ác minh xem trong các giải thuyết, lý thuyết, cái nào đúng, cái nào không đúng với thực tế xã hội (thực nghiệm xác định đúng, sai). Ngoài ra thực nghiệm xã hội cũng còn là dựa vào thực tế để bổ sung các chi tiết, các xu hướng, các tình huống chưa được dự kiến, từ 16
  17. đó có thể hoàn chỉnh các biện pháp, chính sách x ã hội (thực nghiệm bổ sung). Thực nghiệm xã hội còn dùng để xem xét độ chính xác của một kế hoạch, một dự án (thực nghiệm thí điểm). Để thực nghiệm đạt kết quả tốt, phải chú ý: - Lập quy trình nghiên cứu cẩn thận. - Xem xét kỹ các chuẩn bị lý thuyết và thực tế. - Chuẩn bị tốt địa bàn thực nghiệm có tính đại biểu cao, có sự phối hợp tích cực của các cơ quan, đoàn thể, nhân dân địa phương. Khi xác định nội dung thực nghiệm phải chú ý gọn, tập trung không tham lam dàn trải ra quá nhiều nội dung khác nhau, đồng thời cũng chú ý kết hợp các nội dung gần nhau để các kết quả hỗ trợ cho nhau, giảm được chi phí. Khâu tổng hợp và phân tích kết quả rất quan trọng, quyết định sự thành bại của thực nghiệm. Ở khâu n ày phải quán triệt phương pháp nghiên cứu xã hội học đã trình bày ở mục I chương này. e) Phương pháp chuyên gia Đối với những hiện tượng xã hội không dùng phương pháp thực nghiệm được thì phải áp dụng phương pháp chuyên gia. Phương pháp này chủ yếu là lấy ý kiến của các chuyên gia về một vấn đề xã hội nào đó. Chuyên gia là những người có chuyên môn giỏi và kinh nghiệm phong phú về lĩnh vực xã hội đang cần nghiên cứu. Vì vậy các ý kiến của họ thường có hàm lượng chất xám cao và rất giàu tính thực tiễn. Cũng vì thế nên có thể coi là vẫn bảo đảm tính thực tiễn của quá tr ình nghiên cứu. Khâu cơ bản của phương pháp này là phải lựa chọn được các chuyên gia am hiểu thực sự vấn đề đang nghiên cứu và có trình độ cao. Người ta thường chọn chuyên gia theo các cách sau đây: - Xâu chuỗi tức là chọn người đứng đầu về vấn đề nghiên cứu, sau đó nhờ người đó giới thiệu cho người khác (hoặc nhiều người khác) 17
  18. - Dự kiến một số người rồi đề nghị từng người nhận xét (chỉ cho người lập nhóm chuyên gia biết) về chuyên môn những người kia. Sau đó, lựa chọn lựa những người được đa số nhận xét tốt. - Dự kiến một số người và qua các ý kiến của họ về vấn đề nghiên cứu để đánh giá trình độ của từng người. - Sau khi đã tập hợp được nhóm chuyên gia phải nêu các vấn đề cần xem xét để các chuyên gia có thời gian chuẩn bị, sau đó mới lấy ý kiến. Thông thường khi lấy ý kiến, có thể họp to àn nhóm theo các cách sau đây: - So sánh (họp và có tranh luận giữa các chuyên gia). - Tấn công não (khuyến khích tự do phát biểu, không tranh luận v à đánh giá sai đúng). - Delfi (không tranh luận nhưng mỗi người đều được biết ý kiến của những người khác để chỉnh lý lại ý kiến của m ình). Khâu tổng hợp rất khó ví có những nội dung các ý kiến của chuyên gia rất khác nhau. Trong nhiều hợp phải d ùng mốt (mod), trung vị, thậm chí phải dùng hệ số phân tán ý kiến trong các kết luận nghi ên cứu. f) Phương pháp phân tích tư liệu Phân tích tư liệu là xem xét các tài liệu có sẵn trong kho thông tin lưu trữ và các nguồn khác để nghiên cứu đề tài cần thiết, không phải làm các cuộc phỏng vấn điều tra. Điều cốt lõi trong phương pháp này là cần sưu tầm được đúng và đầy đủ các tài liệu cần thiết cho nội dung nghiên cứu. Trước đây, công việc này rất khó khăn và mất rất nhiều thời gian, nhưng hiện nay do đã có mạng internet và cách mạng chuyên ngành khác, lượng tài liệu cần thiết đã tìm kiếm khá dễ dàng. Và từ đây lại có khó khăn mới là phải chọn lọc từ một biển tư liệu ra những thứ đang cần. Phân tích tư liệu là phương pháp được dùng rất phổ biến vì không tốn chi phí và công sức điều tra, hơn nữa có những vấn đề không có điều kiện thuận lợi để điều tra, th ì đây là phương pháp thích hợp. 1. Tổ chức và quy trình nghiên cứu 18
  19. a) Tổ chức trình nghiên cứu - Chọn vấn đề nghiên cứu: Các vấn đề nghiên cứu được chọn trong thực tế xuất phát từ những nhu cầu nhận thức về quản lý xã hội đang bức xúc hoặc cần thiết. Những nhu cầu này thường xuyên xuất hiện, đòi hỏi phải được giải quyết. Tuy nhiên, thông thường người ta hay chọn đề tài được giao nghiên cứu (hoặc ký hợp đồng nghiên cứu), vì bảo đảm kết quả nghiên cứu được sử dụng và có kinh phí tiến hành. Vấn đề nghiên cứu cần phải tập trung, không phân tán d àn trải nhưng phải bao gồm đầy đủ các nội dung cần thiết của đề t ài. - Chọn cán bộ nghiên cứu: Nhóm nghiên cứu thường gồm một cán bộ chủ chốt, có trình độ khoa học cao, giàu kinh nghiệm thực tế và một số cán bộ chuyên sâu về từng vấn đề trong nội dung đề tài nghiên cứu. Cán bộ nghiên cứu phải có tác phong sâu sát, nhanh nhạy, biết cách thâm nhập vào các tầng lớp xã hội khác nhau. Đức tính này rất quý báu trong các nghiên cứu xã hội học. - Lập kế hoạch nghiên cứu: Quá trình nghiên cứu gồm các giai đoạn: + Điều tra và thu thập tài liệu thực tế; + Đọc các tài liệu tham khảo; + Phân tích tài liệu và trình bày kết quả. Trong kế hoạch cũng có phần ghi tên cán bộ nghiên cứu, nhiệm vụ của từng người, thời gian hoàn thành các giai đoạn, cách thức nghiệm thu kết quả nghiên cứu, kinh phí thực hiện đề tài. b) Quy trình nghiên cứu - Giai đoạn chuẩn bị: Xác định đối tượng, mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu: 19
  20. + Đối tượng nghiên cứu chính là hiện tượng hoặc quá trình xã hội mà đề tài nghiên cứu đã lựa chọn. Trong đó có các chủ thể x ã hội đã tạo ra hiện tượng và quá trình đó. + Mục đích nghiên cứu là các vấn đề, cái đích mà việc nghiên cứu phải đạt đến, tức là nghiên cứu giải quyết được những gì có ích cho quá trình nhận thức và cải tạo xã hội theo đề tài đã lựa chọn. + Nhiệm vụ nghiên cứu là chi tiết hoá mục đích nghiên cứu, nêu ra những bộ phận của mục đích phải ho àn thành. Xây dựng giả thuyết: + Xây dựng giả thuyết và kiểm định giả thuyết là công việc quan trọng xuyên suốt quá trình nghiên cứu. + Giả thuyết là dự đoán trước của chúng ta về các kết quả của nghiên cứu. Đó là các dự đoán khoa học về cơ cấu của đối tượng nghiên cứu, về đặc tính, bản chất của các yếu tố, các mối liên hệ tạo nên đối tượng đó và về cơ chế hoạt động, sự phát triển của chúng. + Giả thuyết là cụ thể hoá mục tiêu nghiên cứu và là công cụ phương pháp luận chủ yếu để tổ chức quá trình nghiên cứu, vì giả thuyết là mắt xích giữa quan điểm lý luận với cơ sở thực nghiệm của nghiên cứu. + Việc xây dựng giả thuyết là một quá trình nhận thức đặc biệt, vì rằng: • Thứ nhất, nó phải tuân theo các nguyên lý đã biết đồng thời chứa đựng khả năng phát hiện cái mới, hiệu chỉnh cái đ ã biết; • Thứ hai, phải có khả năng được kiểm định bằng thực nghiệm; • Thứ ba, phải có tính mâu thuẫn. + Xây dựng mô hình lý luận thao tác hoá khái niệm và xác định chỉ tiêu, chỉ báo. Có ba cấp độ khái niệm để xây dựng mô h ình lý luận: • Các khái niệm lý luận; • Các khái niệm thực nghiệm; • Các chỉ báo thực nghiệm (chỉ tiêu). + Trong nghiên cứu xã hội học, người ta thường gặp các khái niệm trong đề tài nghiên cứu, có các mức độ trừu tượng khác nhau. Các khái 20
  21. niệm này không thể trực tiếp sử dụng để thu thập thông tin đ ược, vì rất khó hiểu, không cụ thể. + Chính vì vậy phải thao tác hoá khái niệm, tức l à chuyển các khái niệm lý luận trừu tượng và phức tạp thành các khái niệm thực nghiệm cụ thể hơn, xác định hơn, sau đó lại chuyển các khái niệm thực nghiệm thành các chỉ báo thực nghiệm hoặc chỉ tiêu rất cụ thể có thể đo lường được dùng vào việc thu thập số liệu và phân tích xã hội. + Tuỳ theo mức độ trừu tượng và phức tạp của các khái niệm lý luận, người ta có một hoặc nhiều lớp khái niệm thực nghiệm, c àng đến lớp sau càng cụ thể cho đến lúc có thể định l ượng được, tức là đến các chỉ báo thực nghiệm hoặc chỉ tiêu. Lựa chọn phương pháp nghiên cứu: + Có thể chọn phương pháp diễn dịch tức là xuất phát từ một kết luận đã được thừa nhận, đi sâu vào các chi tiết để làm rõ tính đúng đắn của kết luận đó. Phương pháp này hay được dùng cho các đề tài đã biết nhưng cần chi tiết cụ thể hoá. + Cũng có thể chọn phương pháp quy nạp, tức là đi từ các đề tài còn gây tranh cãi, chưa có kết luận được chấp nhận. - Giai đoạn thu thập thông tin: + Thiết kế mẫu biểu cần thiết cho thu nhập thông tin: Ở đây chủ yếu là thiết kế bảng hỏi (sẽ đề cập ở mục IV) v à các biểu mẫu phụ trợ nếu cần. + Chọn đối tượng cung cấp thông tin: Thường là chọn mẫu hoặc chọn điển hình để lấy tài liệu (xem mục IV). + Kiểm tra thông tin đã thu thập bằng hai cách như sau: + Kiểm tra sai số, tức là soát xét lại các số liệu cộng, trừ, nhân, chia, xem có sai chỗ nào không. + Kiểm tra logic, tức là xem các trả lời có mâu thuẫn, sai lệch nhau không. Kiểm tra logic được dùng phổ biến trong điều tra xã hội học, vì ở lĩnh vực này ít có điều kiện kiểm tra được sai số. - Giai đoạn xử lý thông tin, phân tích và trình bày kết quả: Tổng hợp các thông tin điều tra đ ược vào các bảng biểu tổng hợp. Các bảng biểu này phải phù hợp với phương pháp phân tích đã lựa 21
  22. chọn. Mỗi phương pháp thường cung cấp các kết luận ở những khía cạnh khác nhau nên cần phối hợp chúng để việc nghi ên cứu đạt hiệu quả cao nhất. Kiểm định các giả thuyết là xác định xem các giả thuyết nêu ra ban đầu có được thực tế xác nhận hay bị bác bỏ. Việc kiểm định c òn có tác dụng kiểm tra lại kết quả phân tích l à có tính quy luật hay chỉ là ngẫu nhiên. Vì vậy, đây mới là kết luận cuối cùng. Trình bày kết quả nghiên cứu là tổ chức hội thảo để công bố, trao đổi kết quả nghiên cứu, nghe các ý kiến đóng góp và hoàn thiện kết quả nghiên cứu. Sau đó tổ chức nghiệm thu đề t ài, viết các bài báo, sách để phổ biến kết quả nghiên cứu. 4. Kỹ thuật thu thập và xử lý thông tin xã hội a) Thu thập thông tin xã hội - Điều tra xã hội học: Điều tra xã hội học là phương pháp thu thập thông tin về các hiện tượng và quá trình xã hội trong phạm vi không gian và thời gian cụ thể nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu đã đề ra. + Điều tra xã hội học có thể dùng các phương pháp quan sát, phỏng vấn, thực nghiệm, chuyên gia và phân tích tư liệu. + Điều tra xã hội học có thể tiến hành toàn diện (toàn bộ đối tượng trong diện nghiên cứu) hoặc điều tra chọn mẫu (chỉ điều tra trong các đối tượng được chọn một mẫu khoa học). + Thực tế, người ta hay dùng cách chọn mẫu vì ít tốn thời gian và chi phí, kết quả có thể suy rộng ra toàn diện. - Các bước của một cuộc điều tra: + Xác định mục đích của cuộc điều tra: Nhằm thực hiện mục đích của đề tài nghiên cứu (đã nêu ở phần trên). + Xây dựng mô hình lý luận, thao tác hoá khái niệm, xác định chỉ báo, chỉ tiêu, thang đo. + Lựa chọn phương pháp điều tra chọn mẫu hay toàn diện, quan sát hay phỏng vấn + Lên phương án điều tra, xây dựng bảng hỏi. 22
  23. + Tập hợp điều tra viên, tổ chức tập huấn cách thức điều tra, nội dung các chỉ báo, chỉ tiêu và cách điền số liệu vào bảng hỏi. + Phân công điều tra viên xuống các địa bàn điều tra. + Thu nhận, tập hợp các phiếu điều tra, kiểm tra các ghi chép theo các tiêu chuẩn: Đầy đủ, chính xác, kịp thời. + Tổng kết điều tra, đánh giá kết quả, t ồn tại. - Chỉ tiêu, chỉ báo, thang đo trong nghiên cứu xã hội học: Từ các khái niệm thực nghiệm, cụ thể hoá dần từng b ước, người ta có các chỉ tiêu hoặc chỉ báo thực nghiệm, được cụ thể hoá tới mức có thể phản ánh bằng số lượng. Chỉ có qua các chỉ tiêu, chỉ báo, người ta mới có thể tiến hành điều tra, phân tích xã hội học, mới có thể phản ánh được các hiện tượng vào quá trình xã hội, vốn rất phức tạp và trừu tượng. Hệ thống các chỉ tiêu, chỉ báo thực nghiệm để nghiên cứu một vấn đề xã hội nào đó, thường được đưa vào các bảng hỏi và các biểu, bảng dùng cho điều tra và phân tích xã hội. Thang đo là một công cụ để lượng hoá các hiện tượng và quá trình xã hội theo các chỉ tiêu, chỉ báo đã được chọn. Do tính chất phức tạp của đối tượng nghiên cứu, có thể có có nhiều loại thang đo: + Thang định danh: Đây là loại thang đo đơn giản nhất dùng để liệt kê các biểu hiện cùng loại của một đặc điểm, đặc tính của đối t ượng. Thí dụ: nam, nữ (giới tính), được dùng phổ biến trong nghiên cứu xã hội học + Thang thứ bậc: Đã có sự sắp xếp hơn kém theo một tiêu chuẩn nào đó; không thích, thích, rất thích. Thang thứ bậc chỉ có tác dụng phân chia tổng thể thành các tổ có cường độ biểu hiện khác nhau, không d ùng để tính toán được sự hơn kém của cường độ đó. Tuy nhiên, trong xã hội học, loại thang này được dùng phổ biến. + Thang đo khoảng: Nếu thang thức bậc có thể sắp xếp cho các c ường độ có khoảng cách đều nhau, người ta có thang đo khoảng. Thí dụ: Thứ tự quan trọng 23
  24. của các biện pháp tạo việc làm cho thanh niên: 1, 2, 3, 4 thang đo này có thể dùng để tính toán sự hơn kém của cường độ, nhưng chỉ đối với một hiện tượng, không so sánh rộng theo thời gian v à không gian được, vì phụ thuộc vào các giá trị tuyệt đối của số đo. Tuy vậy, trong x ã hội học, loại thang này cũng hay được dùng. - Thang đo tỷ lệ: Nếu các giá trị tuyệt đối của thang đo khoảng đ ược so sánh với một điểm gốc và không bị ràng buộc vào các khoảng đều nhau, người ta dùng thang đo tỷ lệ. Thí dụ: Thu nhập bình quân đầu người của dân cư, số con trong một gia đình Loại thang đo này được dùng nhiều trong tự nhiên, kỹ thuật, kinh tế ở các hiện tượng có thể lượng hoá được. Chúng có thể được dùng để tính toán theo bất kỳ mục tiêu nghiên cứu nào. Tuy vậy, trong xã hội học, loại thang đo này có phạm vi sử dụng không rộng. - Kỹ thuật xây dựng bảng hỏi và thu thập thông tin bằng bảng hỏi: Bảng hỏi là công cụ cơ bản trong công việc thu thập thông tin x ã hội, là một tập hợp các câu hỏi được sắp xếp có hệ thống trên cơ sở các nguyên tắc tâm lý và logic, nhằm thu được các nội dung cần thiết cho đề tài nghiên cứu, là sự thể hiện bên ngoài của các giả thuyết đã nêu ở phần quá trình nghiên cứu. Người điều tra sẽ thu thập thông tin ở đối t ượng theo bảng hỏi. Như vậy, bảng hỏi còn là phương tiện chứa đựng và lưu trữ thông tin, làm cơ sở cho việc xử lý tiếp theo. Xây dựng bảng hỏi là công việc trí tuệ rất vất vả, chất lượng bảng hỏi phụ thuộc vào trình độ của tác giả và sự chuẩn bị chu đáo ở các khâu xác định đề tài và mục tiêu nghiên cứu, xây dựng các giả thuyết, mô hình nghiên cứu và thao tác hoá các khái niệm. Các loại câu hỏi: + Theo nội dung câu hỏi: • Các câu hỏi đặc trưng cho một sự kiện, sự thật nào đó, trong một không gian và thời gian xác định. • Các câu hỏi thể hiện sự mong muốn, đánh giá của cá nhân, của nhóm về một vấn đề nào đó. 24
  25. + Theo tính chất của câu hỏi: • Câu hỏi mở là loại câu hỏi không có sự chuẩn bị trả lời tr ước, người được hỏi trả lời theo sự hiểu biết, tâm trạng của m ình. Loại câu hỏi này thường được dùng cho những hiện tượng, quá trình chưa được nhận thức đầy đủ, những câu trả lời đưa ra được các khía cạnh mà người nghiên cứu chưa biết hoặc chưa hiểu rõ. Ngoài ra, khi cần kiểm tra tính đầy đủ và chất lượng của câu hỏi đóng người ta cũng dùng câu hỏi mở. Tuy nhiên, câu hỏi mở có nhược điểm là các câu trả lời thường có nhiều nghĩa rất khác nhau, nhất là có những từ đa nghĩa, làm người nghiên cứu khó xác định nội dung trả lời. Mặt khác, có thể nhiều cách trả lời khác nhau, làm cho việc tổng hợp gặp nhiều khó khăn. • Câu hỏi đóng là các câu hỏi đã có sẵn các cách trả lời, người được hỏi xem xét, cân nhắc và chọn cách trả lời phù hợp với suy nghĩ của họ. Câu hỏi đóng có ưu điểm là các cách trả lời đo được chuẩn bị nên thường đơn giản và nhằm đúng trọng tâm nghiên cứu, để tổng hợp. Tuy vậy, loại câu hỏi này chỉ thích hợp với các vấn đề đã rõ ràng, người nghiên cứu đã bao quát được các cách trả lời (nếu chưa bao quát được hết, sẽ mất các cơ hội tiếp cận được nhận thức mới. • Câu hỏi kết hợp vừa đưa ra sẵn các cách trả lời, vừa có phần để ngỏ cho các ý kiến ngoài các cách trả lời sẵn. Loại câu hỏi này hay được dùng vì kết hợp được ưu điểm của hai loại câu hỏi trên. Bố cục của bảng hỏi thường có ba phần: + Phần mở đầu bao gồm tên của bảng hỏi, tên cơ quan nghiên cứu, lời giới thiệu nêu rõ mục đích nghiên cứu, các giải thích và hướng dẫn cách trả lời. Phần này nên ngắn gọn, dễ hiểu, gây tin tưởng cho đối tượng trả lời. + Phần nội dung gồm các câu hỏi nhằm thu thập thông tin cho cho đề tài. Vấn đề cơ bản của phần này là việc sắp xếp thứ tự các câu hỏi. Thông thường các câu hỏi về vấn đề chung được đặt trước, vấn đề riêng được đặt sau; câu hỏi khách quan đặt tr ước, câu hỏi đụng chạm đến khía cạnh riêng tư đặt sau Ngoài các câu hỏi nội dung còn có các câu hỏi kiểm tra (nhắc lại một câu hỏi ở tr ên hoặc hỏi theo cách khác để xem có gì mâu thuẫn không). 25
  26. + Phần kết luận gồm một vài câu hỏi để kết thúc cuộc điều tra. Thường là những câu hỏi về thông tin của đối t ượng điều tra: Họ tên, tuổi, địa chỉ hay cơ quan công tác, chức vụ Trình bày bảng hỏi nên sáng sủa, rõ ràng. Phía dưới các câu hỏi mở phải có khoảng cách thích hợp để điền các câu trả lời. B ên phải các câu hỏi đóng, phải có các ô vuông ở từng cách trả lời để đánh dấu cách trả lời được chọn. Phần dưới cũng có các ghi chú về đặc điểm đối t ượng như tuổi, giới tính, nghề nghiệp Bảng hỏi nên để khuyết danh để người trả lời không e ngại. V. CẤU TRÚC CỦA XÃ HỘI HỌC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA XÃ HỘI HỌC VỚI MỘT SỐ KHOA HỌC X Ã HỘI KHÁC 1. Cấu trúc của xã hội học a) Xã hội học lý thuyết, xã hội học thực nghiệm và xã hội học ứng dụng Xã hội học lý thuyết là bộ phận xã hội học nghiên cứu một cách khách quan, khoa học các hiện tượng và quá trình xã hội nhằm phát hiện những vấn đề lý luận mới, các khái niệm, phạm tr ù hoặc lý thuyết mới. Xã hội học thực nghiệm là bộ phận xã hội học nghiên cứu các hiện tượng và quá trình xã hội bằng việc vận dụng lý luận v à thực chứng bằng những quan sát, đo lường, thí nghiệm để kiểm nghiệm các giả thuyết khoa học. Xã hội học ứng dụng là bộ phận xã hội học vận dụng lý luận vào việc phân tích, tìm hiểu, nghiên cứu và giải quyết các hiện tượng và quá trình xã hội, các tình huống, các sự kiện của thực tiễn đời sống xã hội, tức là thực hiện việc đưa tri thức xã hội học vào cuộc sống. Cả ba bộ phận trên của xã hội học quan hệ mật thiết với nhau, trong đó, xã hội học lý thuyết và xã hội học thực nghiệm là tiền đề cho xã hội học ứng dụng, còn xã hội học ứng dụng là đích đến của xã hội học. b) Xã hội học đại cương và xã hội học chuyên ngành Xã hội học đại cương nghiên cứu các quy luật, tính quy luật, thuộc tính và những đặc điểm chung nhất của các hiện tượng và quá trình xã 26
  27. hội. Xét về phạm vi và tính chất, xã hội học đại cương gần gũi với xã hội học vĩ mô hay xã hội học lý thuyết. Xã hội học chuyên ngành là một bộ phận của xã hội học gắn lý luận xã hội học đại cương với việc nghiên cứu những hiện tượng hay quá trình xã hội của một lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội. Xã hội học hiện đại được phân chia thành nhiều chuyên ngành xã hội học như: - Xã hội học gia đình; - Xã hội học nông thôn; - Xã hội học đô thị; - Xã hội học văn hoá; - Xã hội học quản lý 2. Mối quan hệ giữa xã hội học với một số khoa học x ã hội khác a) Quan hệ giữa xã hội học với triết học Triết học là khoa học nghiên cứu các quy luật chung của tự nhi ên, xã hội và tư duy. Do đó, quan hệ giữa xã hội học với triết học là mối quan hệ giữa một khoa học cụ thể với thế giới quan khoa học. Các nhà xã hội học mác xít vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử v à phép biện chứng duy vật làm công cụ lý luận sắc bén để nghiên cứu và cải thiện mối quan hệ giữa con ng ười với xã hội. Cần tránh hai quan niệm sai lầm hoặc l à coi xã hội học chỉ là một bộ phận của triết học, hoặc là đối lập xã hội học với triết học. Xã hội học là khoa học độc lập nhưng lấy triết học làm nền tảng tư tưởng và mối quan hệ giữa chúng là mối quan hệ biện chứng. Xã hội học cung cấp những thông tin v à phát hiện các vấn đề mới làm phong phú thêm kho tàng tri thức và phương pháp luận của triết học. b) Quan hệ giữa xã hội học với một số khoa học xã hội khác Xã hội học giúp hiểu rõ bản chất, tức là quy luật của con người và xã hội, bộc lộ rõ nhất trong mối quan hệ giữa một b ên là xã hội và bên kia là con người. 27
  28. Việc xác định rõ đối tượng nghiên cứu của xã hội học giúp nhà xã hội học xác định được vị trí của xã hội học trong hệ thống các khoa học xã hội. Xã hội học và các khoa học xã hội khác đều là những khoa học chuyên ngành có khách thể nghiên cứu chung là hệ thống xã hội, chỉ khác nhau ở đối tượng nghiên cứu được tách ra từ khách thể đó. Như vậy, giữa xã hội học với các khoa học xã hội khác tuy có sự phát triển độc lập song lại quan hệ tương hỗ nhau và đều dựa trên lập trường thế giới quan và phương pháp luận của triết học duy vật lịch sử. Chẳng hạn: - Xã hội học quan hệ chặt chẽ với tâm lý học v à sử học. Các nhà xã hội học có thể vận dụng cách tiế p cận tâm lý học để xem xét hành động xã hội với tư cách là hoạt động cảm tính, có đối tượng, có mục đích. - Xã hội học có thể coi cơ cấu xã hội, tổ chức xã hội, thiết chế xã hội với tư cách là chủ thể của hành động. - Xã hội học có thể quán triệt quan điểm lịch sử trong việc đánh giá tác động của hoàn cảnh, điều kiện xã hội đối với con người. - Xã hội học quan hệ với kinh tế học theo ba h ướng tạo thành ba lĩnh vực khoa học chuyên ngành, cụ thể: + Kinh tế học xã hội rất gần gũi với kinh tế chính trị học; + Xã hội học kinh tế; + Kinh tế và xã hội. - Mặc dù trong cả ba lĩnh vực trên, kinh tế học tỏ ra có ảnh hưởng tới xã hội học nhiều hơn là xã hội học ảnh hưởng tới kinh tế học. Nhưng xã hội học cũng như kinh tế học đều sử dụng nhiều thuật ngữ khoa học, nhiều khái niệm, phạm trù của nhau. - Xã hội học và các khoa học xã hội đều có nhiệm vụ chung là lý giải và đáp ứng các nhu cầu do thực tiễn xã hội đặt ra. 28
  29. Chương II CẤU TRÚC XÃ HỘI I. KHÁI NIỆM CẤU TRÚC XÃ HỘI VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU CẤU TRÚC XÃ HỘI 1. Một số lý thuyết về cấu trúc xã hội a) Thuyết cấu trúc - chức năng A. Comte đưa ra nội dung khái quát của lý thuyết cấu trúc - chức năng. H. Spencer tiếp tục phát triển. Các nhà xã hội học sau này kế thừa và xây dựng thành lý thuyết cơ cấu - chức năng một cách hoàn chỉnh. Lúc đầu, A. Comte nghiên cứu cá nhân với tư cách là những thành phần hay đơn vị hợp thành cơ bản của cấu trúc xã hội. Cá nhân là một tập hợp, một hệ thống, bao gồm: - Các năng lực và nhu cầu đã có sẵn bên trong mỗi cá nhân; - Các nhu cầu, năng lực được tiếp thu từ bên ngoài thông qua quá trình tham gia vào xã hội (xã hội hoá). Sau đó, A. Comte lại cho rằng: “Đơn vị xã hội đích thực” của cấu trúc xã hội không phải là cá nhân mà là gia đình, vì gia đình là đơn vị cấu trúc xã hội cơ bản có mặt trong tất cả các đơn vị xã hội khác. Theo A. Comte, cấu trúc xã hội là những thành tố tạo nên một xã hội như cá nhân, gia đình. Sự phát triển của cấu trúc xã hội gắn liền với sự phát triển của xã hội và phụ thuộc vào tiến hoá xã hội. Sự phát triển của xã hội, một mặt, dẫn đến phân hoá và đa dạng hoá các chức năng; mặt khác, làm tăng mức độ liên kết giữa các tiểu cấu trúc xã hội. b) Thuyết chức năng Thuyết chức năng ra đời từ nửa đầu thế kỷ XX gắn liền với tên tuổi hai nhà xã hội học nổi tiếng là E. Durkheim và V. Malinowski (1884-1942). Hai ông tập trung nghiên cứu xã hội châu Âu nhằm giải quyết vấn đề là xã hội châu Âu được vận hành như thế nào hoặc biến đổi và phát triển ra sao? Học thuyết cấu trúc xã hội của E. Durkheim được bắt đầu từ phạm trù “sự kiện xã hội”. Ông định nghĩa: “Sự kiện xã hội là mọi cách làm cố định hay không cố định, có khả năng tác động lên cá nhân một sự 29
  30. cưỡng bức bên ngoài; hay là mọi cách làm có tính chất chung trong phạm vi rộng lớn của một xã hội nhất định trong khi vẫn có sự tồn tại riêng, độc lập với các biểu hiện cá biệt của nó ”. Đặc trưng nổi bật của sự kiện xã hội là sự cưỡng bức của nó đối với hành vi của cá nhân. Sự cưỡng bức của các sự kiện xã hội không phải là do ý chí cá nhân mà là do hiện thực xã hội quy định, là sản phẩm của nguyên nhân nhất định. Sự cưỡng bức của xã hội đối với cá nhân không đơn giản là sự cưỡng bức vật chất mà là trí tuệ và đạo đức. Ý thức tập thể, tình cảm gắn bó với cộng đồng xã hội và sự tôn trọng tập quán xã hội của cá nhân chỉ có thể hình thành và củng cố khi họ đặt sự tồn tại của họ trong sự tồn tại phong phú, phức tạp và lâu bền của xã hội. Theo Durkheim, xã hội là tổng thể các sự kiện xã hội bình thường và các sự kiện xã hội không bình thường (bệnh lý). Sự kiện xã hội bình thường gắn liền với sự cưỡng chế bình thường, tức là sự cưỡng chế phù hợp với ưu thế của một xã hội nào đó, là ưu thế về chính trị hay đạo đức của một xã hội nhất định. Sự kiện xã hội bình thường là các hiện tượng xã hội biểu hiện qua hình thức chung có thể nhận thấy ở tuyệt đại đa số cá thể trong xã hội cả về không gian và thời gian tồn tại của nó. Sự kiện xã hội không bình thường (bệnh lý) là các hiện tượng xã hội biểu thông qua các hình thức ngoại lệ, thường gặp ở thiểu số người và xảy ra nhất thời, không tồn tại trong toàn bộ đời sống cá thể. Một hiện tượng xã hội có thể được gọi là bình thường cần phải xem xét trong quan hệ đối với một loại xã hội nhất định. Nguyên tắc chung để xác định loại xã hội được E. Durkheim kế thừa H. Spencer như sau: “Sự tiến hoá xã hội bằng những tổ hợp đơn giản, bé nhỏ, rằng nó tiến triển do sự kết hợp của một số tổ hợp nhỏ th ành những tổ hợp lớn hơn và sau đó, khi đã được củng cố, các nhóm đó lại kết hợp với các nhóm khác giống như chúng để tạo ra các tổ hợp càng lớn hơn. Sự phân loại xã hội phải bắt đầu bằng những xã hội thuộc loại thứ nhất, tức là đơn giản nhất”. Với E. Durkheim, xã hội đơn giản nhất là Bầy. Bầy là một tổ hợp xã hội sơ đẳng nhất, mà các cá nhân tựa như những phân tử phân bố bên cạnh nhau. Bầy là chất nguyên sinh của giới xã hội, là cơ sở tự nhiên 30
  31. của mọi sự phân loại xã hội. Sự phát triển của các bầy trở th ành phân đoạn xã hội, khi đó xuất hiện xã hội thị tộc, bộ lạc đồng thời với việc xác định các phân tử hình thành nên cấu trúc của loại xã hội nào đó, người ta phải quy về hình thái xã hội. Hình thái xã hội là sự kết hợp các yếu tố tạo thành xã hội giống như sự phân bố và kết hợp của các nguyên tử. Các yếu tố xã hội kết hợp với nhau tạo thành môi trường bên trong xã hội, quy định trình độ phát triển xã hội. Có hai loại yếu tố tạo thành môi trường xã hội: - Các sự vật (bao gồm cả các dạng vật chất gia nhập x ã hội, cả hoạt động trước đó do con người tạo ra như luật pháp, phong tục, văn học, nghệ thuật ); - Con người. Sự kết hợp của các yếu tố bên trong (đặc biệt là số lượng các đơn vị xã hội và mức độ tập trung của các cá thể) là điều kiện quyết định cho mọi hiện tượng xã hội. Còn chất keo gắn kết các yếu tố xã hội không phải là sức mạnh vật chất mà là tình cảm, đạo đức. Như vậy, theo E. Durkheim, xã hội là xã hội tinh thần, đạo đức, lương tri và trí tuệ. c) Lý thuyết hệ thống xã hội của Talcott Parsons Talcott Parsons, nhà xã hội học người Mỹ đã phát triển lý thuyết chức năng theo hướng phân tích xã hội với tư cách là hệ thống hữu cơ vào những năm 1940-1950. Theo T. Parsons, thế giới là một hệ thống lớn, mở rộng, trong đó có rất nhiều xã hội khác nhau, giới hạn bởi đường biên giới lãnh thổ quốc gia. Mỗi xã hội có đặc trưng và giới hạn riêng. Các xã hội tồn tại theo phương thức thích nghi với nhau. Xã hội là một hệ thống mở, thường xuyên thực hiện quá trình trao đổi; biến đổi để tạo ra sự cân bằng, trên cơ sở thích ứng, “cùng tồn tại” với xã hội khác. Trong mỗi xã hội có các hệ thống nhỏ (tiểu hệ thống), tồn tại theo phương thức tích hợp với nhau. Nghĩa là, mỗi hệ thống thực hiện một chức năng nhất định trên cơ sở phối hợp với các hệ thống khác. 31
  32. Sự hoạt động và phối hợp giữa các tiểu hệ thống bảo đảm cho xã hội có khả năng thích ứng với các xã hội khác, tức là tạo nên sự cân bằng cho hệ thống lớn. Các tiểu hệ thống được chia thành hai loại: - Tiểu hệ thống mang tính vật chất tồn tại tự nhi ên (gia đình, dân tộc ); - Tiểu hệ thống mang tính chức năng, là những hệ thống do xã hội tạo ra để thực hiện những mục đích quan trọng (đảng phái, cơ quan quyền lực ). Như vậy, có thể coi hệ thống tự nhiên là hệ thống sơ cấp (hệ thống được tạo ra ngay từ đầu), còn hệ thống chức năng là hệ thống thứ cấp (được tạo ra do sự tích hợp các mục đích của nó). Theo T. Parsons, bất kỳ xã hội nào cũng đều có năm tiểu hệ thống chức năng cần thiết, đó là: - Tiểu hệ thống kinh tế; - Tiểu hệ thống chính trị; - Tiểu hệ thống pháp luật; - Tiểu hệ thống văn hoá; - Tiểu hệ thống làm nhiệm vụ tích hợp. Năm tiểu hệ thống trên là mô hình chung của các hệ thống xã hội. Chúng có thể biểu hiện dưới những hình thái khác nhau tuỳ thuộc vào mỗi hệ thống xã hội. Các tiểu hệ thống hoạt động tương đối độc lập với nhau, có thể phối hợp và giao thoa với nhau, nhưng không đồng nhất với nhau. Trong trường hợp các tiểu hệ thống trùng khít với nhau sẽ đưa đến hiện tượng siêu tích hợp, là nguyên nhân dẫn tới xung đột xã hội. Xã hội chỉ có thể phát triển tốt nếu các tiểu hệ thống ở trong trạng thái cân bằng. d) Chủ nghĩa duy vật lịch sử Chủ nghĩa duy vật lịch sử không xem cấu trúc x ã hội là đối tượng nghiên cứu trực tiếp của mình, Đối tượng của chủ nghĩa duy vật lịch sử là mối quan hệ cơ bản giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; các quy luật 32
  33. chung của xã hội, các quy luật của chủ nghĩa duy vật biện chứng biểu hiện trong đời sống xã hội. Karl Marx là người đầu tiên đưa vào xã hội học cơ sở lý luận khoa học băng việc xác định phạm trù hình thái kinh tế - xã hội (bộ phận hết sức quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử). Hình thái kinh tế - xã hội là một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của xã hội. Đặc trưng của mỗi hình thái kinh tế - xã hội là một phương thức sản xuất riêng, tức là một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và một kiểu quan hệ sản xuất tương ứng. Toàn bộ các quan hệ kinh tế (bao gồm quan hệ về t ư liệu sản xuất, về tổ chức lao động, và phương thức phân phối sản phẩm) tạo nên nền tảng, cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định các mối quan hệ xã hội khác. Các quan hệ kinh tế một mặt, hình thành một cách khách quan, độc lập với ý thức của con người; mặt khác, hình thành trong chính hoạt động sản xuất của con người. Mỗi xã hội đều có một kết cấu kinh tế đặc trưng làm cơ sở hiện thực của xã hội, mà trên đó, một kiểu kiến trúc thượng tầng tương ứng, phản ánh các quan hệ kinh tế được dựng lên. Tổng hợp các thiết chế, các tổ chức do con n gười tạo ra một cách có ý thức để đấu tranh cho lợi ích của mình, phát sinh, phát triển trên cơ sở hạ tầng, được gọi là kiến trúc thượng tầng. Kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ các quan điểm chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo và các thiết chế tương ứng như nhà nước, đảng phái chính trị quan hệ biện chứng với nhau. Kiến trúc thượng tầng là lĩnh vực của ý thức xã hội, phản ánh sự tồn tại xã hội. Nó được hình thành và phát triển trên nền tảng của cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, kiến trúc thượng tầng không phải là sản phẩm thụ động và phụ thuộc mà có tính độc lập và ổn định tương đối của ý thức xã hội, tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Đặc biệt, kiến trúc thượng tầng chính trị, nhà nước có tác dụng quyết định hiện thực hoá các tất yếu kinh tế. Sự tác động trở lại cơ sở hạ tầng của kiến trúc thượng tầng có thể diễn ra theo ba cách như sau: 33
  34. - Tác động thuận chiều làm cho sự phát triển kinh tế diễn ra nhanh hơn; - Tác động nghịch chiều với các tất yếu kinh tế l àm cho xã hội khủng hoảng nghiêm trọng, thậm chí có thể sụp đổ. - Tác động ngăn cản phát triển kinh tế theo hướng này, nhưng lại thúc đẩy kinh tế phát triển theo hướng khác. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tuân thủ các quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất, quy luật tương tác giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Từ phạm trù hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử, xã hội học mác xít xác định được cấu trúc xã hội, những nguyên nhân sâu xa của quá trình hình thành và phát triển cấu trúc đó, cũng như các quy luật phát triển xã hội nói chung. Trên cơ sở phương pháp luận duy vật lịch sử, xã hội học mác xít đưa ra một số lý thuyết về cấu trúc xã hội, trong đó bao hàm một cách biện chứng mối liên hệ giữa hành động xã hội và cấu trúc xã hội. 2. Khái niệm cấu trúc xã hội Có nhiều cách tiếp cận khái niệm cấu trúc x ã hội, xin đơn cử một vài định nghĩa điển hình như sau: - Trong công trình “Công tác xã h ội học”, các nhà xã hội học Liên Xô trước đây viết: “Cơ cấu xã hội là mối liên hệ vững chắc của các thành tố trong hệ thống xã hội. Những thành tố cơ bản là các cộng đồng xã hội bao gồm các giai cấp, các dân tộc, các nhóm nghề nghiệp, nhóm nhân khẩu lãnh thổ, nhóm chính trị Mỗi cộng đồng xã hội lại có cấu thành phức tạp với những tầng lớp bên trong và những mối liên hệ giữa chúng”. - Ian Roberttson, nhà xã hội học người Mỹ, trong công trình nghiên cứu xã hội học thì định nghĩa: “Cơ cấu xã hội là một mô hình của các mối quan hệ giữa các thành phần cơ bản trong một hệ thống xã hội. Những thành phần này tạo nên bộ khung cho xã hội loài người trong một giai đoạn lịch sử, mặc dù tính chất của các thành phần và các mối quan hệ giữa chúng có sự biến đổi từ xã hội này đến xã hội khác. Những thành phần quan trọng nhất của cơ cấu xã hội là vị trí, vai trò nhóm, các thiết chế”. 34
  35. Như vậy, cách tiếp cận khái niệm cấu trúc x ã hội của các nhà xã hội học nêu trên chủ yếu nhấn mạnh đến cấu trúc tập đoàn xã hội (nhóm lớn), mối liên hệ giữa các thành tố cơ bản của xã hội. Từ nội dung của các lý thuyết x ã hội học về cấu trúc xã hội và những khái niệm về cấu trúc xã hội như vừa dẫn, có thể đề xuất một định nghĩa khác về cấu trúc xã hội như sau: Cấu trúc xã hội là tổng thể các thành phần cấu thành xã hội, là một hệ thống lớn, bao gồm những hệ thống nhỏ (tiểu hệ thống), bao gồm các bậc (hoặc các lớp) đầu tiên là con người - đơn vị cơ bản của xã hội; gia đình - tế bào của xã hội, rồi đến các cấu trúc nhóm, và hơn nữa là toàn xã hội như một chỉnh thể cấu trúc. Những thành phần quan trọng nhất của cấu trúc x ã hội là vị thế, vai trò, nhóm xã hội và các thiết chế xã hội. Định nghĩa trên chỉ ra những đặc trưng cơ bản của cấu trúc xã hội, cụ thể: - Cấu trúc xã hội, không chỉ được xem xét như là một tổng thể tập hợp các bộ phận cấu thành xã hội, mà còn được xem xét về mặt kết cấu và hình thức tổ chức bên trong của một hệ thống tổ chức xã hội. - Cấu trúc xã hội là sự thống nhất của hai mặt các th ành phần xã hội và các mối liên hệ xã hội. - Cấu trúc xã hội có tính lịch sử cụ thể, mang đậm nét đặc trưng của từng giai đoạn phát triển xã hội. - Cấu trúc xã hội vừa có tính kế thừa, vừa có tính biến đổi và phát triển theo xu hướng phát triển của thời đại. 3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu cấu trúc xã hội trong xã hội học Nghiên cứu cấu trúc xã hội giúp nhận thức đúng các đặc trưng của xã hội trong từng giai đoạn phát triển lịch sử. Qua quan sát cấu trúc x ã hội, từ sự khác nhau của cấu trúc x ã hội có thể phân biệt được sự khác nhau của một xã hội trong từng giai đoạn phát triển cụ thể cũng như có thể phân biệt, so sánh sự khác nhau của x ã hội với xã hội. Nghiên cứu cấu trúc xã hội giúp hiểu được các thành phần cấu trúc xã hội , hiểu rõ vai trò, chức năng của mỗi thành phần đó trong cấu trúc để đảm bảo tính hệ thống của cấu trúc và nghiên cứu động lực phát triển xã hội. 35
  36. Nghiên cứu cấu trúc xã hội để thấy được mối quan hệ tương tác giữa các thành phần của cấu trúc xã hội, hiểu rõ bản chất của các quan hệ đó dưới dạng các quy luật xã hội, tiến tới giải thích được hành vi của các cá nhân, các nhóm xã hội và toàn bộ xã hội trong thời gian và không gian cụ thể. Nghiên cứu cấu trúc xã hội chỉ ra bức tranh tổng quát về x ã hội, từ đó có thể hoạch định được chiến lược, xây dựng mô hình cơ cấu xã hội tối ưu bảo đảm sự vận hành một cách hiệu quả, thực hiện tốt các vai tr ò xã hội theo chiều hướng tiến bộ. Nghiên cứu cấu trúc xã hội, đặc biệt là nghiên cứu sự phân tầng xã hội, về vị thế và vai trò xã hội của các nhóm, về mối quan hệ giữa các yếu tố kinh tế và quan hệ xã hội trong cấu trúc xã hội, giúp tạo cơ sở khoa học vạch ra chính sách xã hội đúng đắn, nhằm phát huy những nhân tố tích cực điều chỉnh và khắc phục những hiện tượng lệch chuẩn, những biểu hiện tiêu cực trong hoạt động xã hội. II. CÁC PHÂN HỆ CẤU TRÚC XÃ HỘI CƠ BẢN 1. Cấu trúc xã hội - giai cấp Cấu trúc xã hội - giai cấp là một phân hệ của cấu trúc xã hội. Trong xã hội có giai cấp, nét nổi bật của cấu trúc x ã hội là cấu trúc xã hội - giai cấp. Xã hội phân hoá thành các giai cấp khác nhau là một hiện thực được thừa nhận rộng rãi. Nhận thức về giai cấp là hết sức khác nhau. Nói chung, ng ười ta thường hiểu giai cấp là một nhóm xã hội có vị thế kinh tế, chính trị v à xã hội giống nhau, nhưng không được quy định chính thức, không được thể chế hoá, mà do sự nhận biết theo những chuẩn mực xã hội nhất định như: - Có của - không có của; - Giàu - nghèo; - Làm chủ - làm thuê; - Thống trị - bị trị Trong lịch sử xã hội học, Karl Marx là người đầu tiên xác định khái niệm giai cấp một cách chặt chẽ tr ên phương diện lý luận. 36
  37. Theo xã hội học mác xít, chuẩn mực để phân chia giai cấp là quan hệ đối với tư liệu sản xuất (có sở hữu tư liệu sản xuất hay không), đối với quá trình sản xuất (điều khiển hay bị điều khiển), cũng như kết quả sản xuất (chiếm hữu sản phẩm mới tạo ra theo dạng nào, lợi nhuận, lợi tức hay tiền công ). Trên cơ sở những chuẩn mực kinh tế đó, các giai cấp còn có những dấu hiệu xã hội và chính trị khác nhau như: - Lối sống; - Địa vị xã hội; - Văn hoá; - Ý thức Cấu trúc xã hội - giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp trong xã hội và những mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp x ã hội đó. Xã hội học mác xít cho rằng trong x ã hội có giai cấp thì cấu trúc xã hội - giai cấp đóng vai trò quyết định trong cấu trúc xã hội. Cấu trúc xã hội - giai cấp là hạt nhân của cấu trúc xã hội và sự biến đổi của nó dẫn đến sự biến đổi xã hội. Sự phân chia cấu trúc xã hội - giai cấp tuỳ thuộc vào mỗi chế độ xã hội khác nhau, tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ phân công lao động xã hội. Cấu trúc xã hội dưới chế độ TBCN được phân chia thành hai giai cấp chủ yếu là giai cấp tư sản và giai cấp công nhân. Ngoài ra còn có các tầng lớp trung gian. Cấu trúc xã hội dưới chế độ XHCN được phân chia thành hai giai cấp chính là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Ngoài ra còn có tầng lớp trí thức và một số tầng lớp khác. Các giai cấp tồn tại trong hệ thống cấu trúc x ã hội - giai cấp, có mối quan hệ ràng buộc, chế ngự lẫn nhau, song lại luôn mâu thuẫn với nhau, tạo nên mâu thuẫn xã hội. Trong một xã hội, mà quá trình phân công lao động xã hội dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng tất yếu sẽ dẫn đến đấu tranh giai cấp, dẫn đến sự thay đổi cấu trúc xã hội - giai cấp. 37
  38. Nghiên cứu cấu trúc xã hội - giai cấp nhằm mục đích nhận thức được những mâu thuẫn (qua mâu thuẫn của các giai cấp). Từ đó, có thể tìm ra các phương thức giải quyết mâu thuẫn phù hợp với quy luật vận động, biến đổi và phát triển của xã hội. 2. Cấu trúc xã hội - dân tộc Lịch sử nhân loại gắn liền với lịch sử hình thành các dân tộc khác nhau bởi những đặc trưng về ngôn ngữ, lãnh thổ, phương thức sinh hoạt kinh tế cũng như tâm lý xã hội. Cấu trúc xã hội - dân tộc là một phân hệ của cấu trúc xã hội. Nó được hình thành bởi sự phân định về những đặc trưng của các dân tộc trong một cộng đồng quốc gia - dân tộc. Một xã hội bao gồm nhiều dân tộc khác nhau, cùng tồn tại và hoạt động theo một hệ thống thiết chế x ã hội. Nhưng do sự phát triển không đều về các mặt kinh tế, chính trị, x ã hội, tư tưởng, văn hoá của các dân tộc nên dẫn đến quá trình đồng hoá bởi các dân tộc phát triển đối với các dân tộc chậm phát triển, tạo nên sự bất bình đẳng và mâu thuẫn giữa các dân tộc. Mâu thuẫn dân tộc thường bị các thế lực phản động trong nước hoặc nước ngoài lợi dụng, kích động và lôi kéo các dân tộc chống đối chính quyền và ly khai gây ra tình trạng rối loạn xã hội. Mâu thuẫn dân tộc chỉ có thể giải quyết bằng con đường thực hiện một cách khoa học và sáng suốt chính sách dân tộc trong hệ thống chính sách kinh tế - xã hội của nhà nước. Đó phải là một chính sách đồng bộ trên tất các lĩnh vực hoạt động xã hội nhằm tạo ra sự bình đẳng giữa các dân tộc và xoá bỏ định kiến dân tộc trong tâm lý cộng đồng xã hội. 3. Cấu trúc xã hội - dân số Cấu trúc xã hội - dân số (còn gọi là cấu trúc xã hội - nhân khẩu) là một phân hệ cơ bản của cấu trúc xã hội. Nội dung và các tham số chính được sử dụng để phân tích cấu trúc xã hội - dân số qua các thời kỳ phát triển của xã hội là: - Các dạng thức tái sản xuất dân số; - Mức sinh, mức tử, mật độ dân số; - Di dân; 38
  39. - Tỷ lệ giới tính; - Cấu trúc xã hội - thế hệ. Sự vận động của cấu trúc xã hội - dân số phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội, vào các quan hệ kinh tế, văn hoá như hoạt động sản xuất, tính chất của các quan hệ x ã hội, các chuẩn mực văn hoá, các định hướng giá trị tâm lý xã hội của con người. Sự phát triển của xã hội và quá trình tác động của xã hội và tự nhiên đều phụ thuộc vào tính chất vận hành của hệ thống dân số. Sự phát triển dân số không hợp lý sẽ dẫn đến tình trạng suy giảm năng suất lao động xã hội, cạn kiệt các nguồn tài nguyên, đói nghèo cũng như các khuyết tật xã hội khác. Trong cấu trúc xã hội - dân số, cấu trúc thế hệ giữ vai trò quan trọng. Nó chi phối và quyết định tính thống nhất và tính hiệu quả của hoạt động xã hội. Theo dân số học, thế hệ là tập hợp những người sinh trong khoảng thời gian nhất định (thường cùng năm sinh), còn tâm lý học xã hội lại cho rằng thế hệ biểu hiện ở sự thay đổi khả năng nhận thức và hành vi của con người qua một khoảng thời gian nhất định (khoảng 15 năm). Xã hội học sử dụng thuật ngữ thế hệ để chỉ tập hợp người (có thể không cùng tuổi nhau) nhưng là người cùng thời của một thời kỳ lịch sử nào đó cụ thể. Thế hệ, dưới giác độ nghiên cứu của xã hội học là tầng lớp người có hoàn cảnh xã hội giống nhau. Xã hội bao gồm nhiều thế hệ kế tiếp nhau, tác động lẫn nhau tạo thành một tổng thể hoạt động chung. Do mỗi thế hệ có những đặc thù riêng về tâm lý xã hội và nhận thức xã hội, vì vậy những bất đồng giữa các thế hệ luôn có khả năng xảy ra. Sự bất đồng thế hệ là do những nguyên nhân sau đây: - Tính bảo thủ của thế hệ già dẫn đến sự áp đặt của thế hệ này đối với thế hệ trẻ về nhận thức và hành động. - Do khuyết tật của nền giáo dục đối với thế hệ trẻ, khiến thế hệ này nhận thức sai lầm về thế hệ trước, thậm chí phủ nhận vai trò xã hội của các thế hệ đi trước. - Do vị trí và vai trò của mỗi thế hệ trong xã hội quá bất bình đẳng (do thiết chế xã hội quy định). 39
  40. Mặc dù các thế hệ cùng tồn tại trong xã hội, song môi trường cụ thể bộc lộ sự thống nhất hay bất hoà giữa các thế hệ chủ yếu ở gia đ ình và các nhóm hoạt động xã hội. Trách nhiệm của mỗi cá nhân trong gia đ ình và tập thể là củng cố tính thống nhất giữa các thế hệ, tạo sự h ài hoà, phong phú, tính kế tiếp nhau của các thế hệ đảm bảo tính liên tục của quá trình phát triển lịch sử xã hội. 4. Cấu trúc xã hội - giới tính Dân số học, khi nghiên cứu cấu trúc dân số - giới tính, đưa ra khái niệm: Cấu trúc dân số - giới tính là sự phân chia tổng số dân cư thành số nam và số nữ. Có thể biểu thị cấu trúc dân số - giới tính theo các dạng tương đương như: - Tỷ lệ nam giới so với tổng số dân; - Tỷ lệ nữ giới so với tổng số dân; - Số nữ trên 100 nam; - Số nam trên 100 nữ. Căn cứ vào các tiêu chí trên, xã hội học, khi nghiên cứu cấu trúc xã hội - giới tính, chú trọng đến hai vấn đề c ơ bản sau đây: - Thứ nhất, sự bất đồng tâm lý xã hội giữa hai giới tính dẫn đến những mâu thuẫn nhất định trong hoạt động của gia đ ình, tập thể và xã hội. - Thứ hai, sự mất cân bằng giới tính trong phạm v i toàn xã hội hoặc tại những khu vực nào đó sẽ là nguyên nhân dẫn đến những hành vi xã hội không lành mạnh ảnh hưởng xấu tới sự phát triển chung của x ã hội. Do sự phát triển của lịch sử cũng nh ư do sự khác biệt về đặc điểm tâm lý giới tính mà nam giới thường có vị thế cao hơn phụ nữ trong cơ cấu tổ chức xã hội và trong gia đình thường biểu hiện rõ nét nhất là tư tưởng trọng nam khinh nữ. Tình trạng đối xử bất bình đẳng, thiếu công bằng với phụ nữ trong gia đình, tập thể và xã hội là một trong những nguyên nhân tạo ra mâu thuẫn trong gia đình và xã hội. Nếu sự cân bằng giới tính trong phạm vi to àn xã hội hoặc ở khu vực nào đó bị vi phạm nghiêm trọng sẽ dẫn đến nhiều hành vi xã hội 40
  41. không lành mạnh như vi phạm luật hôn nhân và gia đình, sinh con ngoài giá thú, tệ nạn buôn bán phụ nữ Tồn tại nhiều nguyên nhân của tình trạng mất cân bằng giới tính như: - Tâm lý xã hội; - Chiến tranh; - Không quan tâm đúng mức đến cơ cấu dân số - giới tính khi hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội 5. Cấu trúc xã hội - lãnh thổ Cấu trúc xã hội - lãnh thổ gắn liền với cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ, chủ yếu được nhận diện theo đường phân chia ranh giới về lãnh thổ. Các vùng lãnh thổ có sự khác biệt nhất định về điều kiện sống, trình độ sản xuất, lối sống, mức sống, thị hiếu tiêu dùng, đặc trưng văn hoá, mật độ dân cư, thiết chế xã hội, phong tục tập quán xã hội Cấu trúc xã hội - lãnh thổ chủ yếu được chia thành hai loại hình là cấu trúc xã hội đô thị và cấu trúc xã hội nông thôn. Cũng có thể phân chia cấu trúc xã hội - lãnh thổ theo tiêu chí vùng, mà trong đó bao gồm cả nông thôn và thành thị. Theo cách phân chia này, cấu trúc xã hội - lãnh thổ Việt Nam gồm có: - Đồng bằng sông Hồng; - Đông Bắc; - Tây Bắc; - Bắc Trung bộ; - Duyên hải Nam Trung bộ; - Tây Nguyên; - Đông Nam bộ; - Đồng bằng sông Cửu Long. Nghiên cứu cấu trúc xã hội - lãnh thổ nhằm làm rõ sự khác biệt giữa các vùng lãnh thổ về trình độ phát triển sản xuất, kinh tế, văn hoá, xã hội; khác biệt về lối sống, mức sống Từ đó, có thể đề ra nhữ ng giải pháp phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với đặc điểm của từng vùng, 41
  42. nhằm phát huy lợi thế của mỗi vùng; tạo nên động lực phát triển xã hội tích cực. 6. Cấu trúc xã hội - học vấn, nghề nghiệp Trình độ học vấn của xã hội phản ánh trình độ phát triển văn hoá , kinh tế và mức độ tiến bộ xã hội của một đất nước. Không những thế, trình độ học vấn của dân cư còn là nhân tố quyết định tốc độ phát triển của mỗi quốc gia. Sự chênh lệch về trình độ học vấn giữa các tầng lớp dân c ư, giữa nam và nữ, giữa thành thị với nông thôn đã tạo ra sự phát triển không đồng đều về kinh tế - xã hội, văn hoá - tư tưởng; tạo nên sự khác biệt giữa các loại hình lao động (lao động trí óc và lao động chân tay). Cơ cấu nghề nghiệp là sự phân chia dân số trong độ tuổi lao động theo những nghề nghiệp khác nhau. Cơ cấu xã hội - nghề nghiệp trước hết phụ thuộc vào trình độ phát triển của nền sản xuất, trình độ học vấn của người lao động. Ngoài ra, nó còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như giới tính, truyền thống ngành nghề của cộng đồng dân cư Vấn đề đặt ra là cần hoạch định hệ thống các chính sách x ã hội đúng đắn và phù hợp với từng ngành, nghề khác nhau, từng vùng lãnh thổ khác nhau để xoá bỏ sự bất hợp lý trong c ơ cấu nghề nghiệp - xã hội, khắc phục tình trạng mất cân đối và lãng phí trong phân bố và sử dụng lao động có kỹ thuật, có chuyên môn. III. BẤT BÌNH ĐẲNG VÀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI 1. Bất bình đẳng xã hội a) Khái niệm Khái niệm “bình đẳng” thường được hiểu trên hai bình diện có mối quan hệ mật thiết với nhau l à bình diện tự nhiên và bình diện xã hội. Trên bình diện tự nhiên, bình đẳng không ngụ ý rằng mọi ng ười đều có năng lực thể chất và tinh thần hoàn toàn giống nhau, nhưng đó là những cá thể người chứ không phải là cái gì khác. Trên bình diện xã hội, bình đẳng bao hàm sự ngang bằng nhau giữa người với người về một hay nhiều lĩnh vực của đời sống x ã hội (chính trị, kinh tế, văn hoá, dân tộc, chủng tộc ). 42
  43. Trong quá trình thực hiện quyền bình đẳng của con người, từ trước đến nay, thường xuyên xảy ra tình trạng không ngang bằng giữa nhóm người này với nhóm người khác, dẫn đến bất bình đẳng xã hội. Từ cách nhìn về khái niệm bình đẳng như trên, có thể rút ra khái niệm bất bình đẳng như sau: “Bất bình đẳng xã hội là sự không ngang bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích đối với những cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm xã hội”. Các nhà xã hội học, khi nghiên cứu về bất bình đẳng xã hội đều cơ bản thống nhất rằng: - Bất bình đẳng xã hội không phải là một hiện tượng tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa các cá nhân trong xã hội. Đó là một hiện tượng xã hội phổ biến và có những nguyên nhân xã hội nhất định. - Bất bình đẳng xã hội có nguồn gốc khi một số cá nhân (hoặc một số nhóm xã hội) có đặc quyền kiểm soát và khai thác một số cá nhân (hoặc một số nhóm xã hội) khác trong một số lĩnh vực chủ yếu của xã hội. - Ở những xã hội khác nhau đã và đang tồn tại những hệ thống bất bình đẳng khác nhau. - Bất bình đẳng xã hội là một vấn đề cơ bản của xã hội học, có ý nghĩa quyết định đối với sự phân tầng x ã hội và tổ chức xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn có sự khác biệt giữa các quan điểm x ã hội học khi xác định các yếu tố tạo nên bất bình đẳng xã hội. b) Cơ sở tạo nên bất bình đẳng xã hội Mức độ và tính chất của bất bình đẳng xã hội phụ thuộc vào quy mô và trình độ phát triển của một xã hội cụ thể. Xã hội nào có quy mô nhỏ và hoàn thiện hơn thì bất bình đẳng xã hội ít gay gắt hơn và ngược lại, xã hội nào có quy mô lớn và ít hoàn thiện hơn thì vấn đề bất bình đẳng xã hội trở nên gay gắt và phức tạp hơn. Bất bình đẳng xã hội là hiện tượng xã hội mang tính cụ thể, gắn liền với những đặc điểm giai cấp xã hội, giới tính, chủng tộc, tôn giáo, l ãnh thổ Nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng xã hội là sự đa dạng và khác biệt giữa các xã hội và nền văn hoá; có thể đi tìm nguyên nhân của bất bình đẳng xã hội theo ba sự khác biệt sau đây: 43
  44. - Thứ nhất, do sự khác biệt về những cơ hội trong cuộc sống: + Có thể coi những cơ hội trong đời sống bao gồm những điều kiện thuận lợi về vật chất để có thể cải thiện chất l ượng cuộc sống như của cải, thu nhập và tài sản; những điều kiện như lợi ích chăm sóc sức khoẻ, y tế hay bảo đảm an ninh xã hội. + Trong một xã hội cụ thể, một nhóm người này có thể có những cơ hội trong khi các nhóm khác thì không. Đó là cơ sở khách quan của bất bình đẳng xã hội. - Thứ hai, do sự khác biệt về địa vị xã hội: + Những yếu tố tạo nên địa vị xã hội có thể khác nhau. Đó là những cái mà một nhóm xã hội tạo ra và cho là ưu việt và được các nhóm xã hội khác thừa nhận như của cải, địa vị + Cho dù là yếu tố nào đi chăng nữa thì địa vị xã hội chỉ có thể được giữ vững bởi những nhóm xã hội nắm giữ địa vị đó và các nhóm xã hội khác tự giác thừa nhận tính ưu việt của những nhóm xã hội thứ nhất. - Thứ ba, do sự khác nhau về ảnh hưởng chính trị: + Bất bình đẳng xã hội do ảnh hưởng chính trị được biểu hiện trong thực tế như là mối quan hệ giữa vị thế chính trị với ưu thế vật chất và địa vị xã hội. + Tóm lại, nguồn gốc của bất bình đẳng xã hội nằm ngay trong mối quan hệ kinh tế và địa vị xã hội, hay trong các mối quan hệ thống trị về chính trị của các giai cấp trong xã hội. 2. Phân tầng xã hội a) Khái niệm phân tầng xã hội Tầng xã hội là tập hợp các cá nhân, nhóm có cùng hoàn cảnh xã hội được sắp xếp theo trật tự thang bậc nhất định trong hệ thống x ã hội. Các thành viên của tầng xã hội ngang nhau về tài sản (thu nhập), trình độ học vấn, địa vị, vai trò hoặc uy tín xã hội, khả năng thăng tiến cũng như có được những ân huệ hay thứ bậc nh ư nhau trong xã hội. Từ khái niệm tầng xã hội trên đây, có thể suy ra khái niệm phân tầng xã hội như sau: Phân tầng xã hội là trạng thái phân chia và hình thành cấu trúc xã hội thành các tầng xã hội khác nhau trong những 44
  45. điều kiện thời gian và không gian nhất định. Các tầng xã hội khác nhau về địa vị kinh tế, địa vị chính trị, uy tín x ã hội cũng như một số khác biệt về trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú, phong cách sinh hoạt, cách ứng xử giao tiếp và thị hiếu Cũng có thể coi phân tầng xã hội là sự sắp xếp các cá nhân trong một hệ thống xã hội vào các tầng lớp xã hội khác nhau trên cơ sở của sự phân chia những ngạch bậc và những tiêu chuẩn chung về giá trị được thừa nhận. Phân tầng xã hội là một hiện tượng khách quan, phổ biến và không thể tránh khỏi. Đó là kết quả của sự phân công lao động x ã hội và sự bất bình đẳng mang tính cơ cấu của tất cả mọi chế độ xã hội (ngoại trừ giai đoạn đầu của xã hội nguyên thuỷ và một số bộ lạc mông muội khác đang tồn tại rải rác ở một số nơi trên thế giới). Phân tầng xã hội có ý nghĩa rộng lớn hơn phân chia giai cấp xã hội, vì giai cấp chỉ là một trong những tiêu chuẩn phân chia xã hội thành các tầng lớp khác nhau. Phân tầng xã hội có cả mặt “tĩnh” và mặt “động”, có cả sự ổn định tương đối cũng như sự cơ động của các cá nhân và các nhóm xã hội từ tầng xã hội này sang tầng xã hội khác hoặc chỉ trong nội bộ tầng x ã hội đó. Như vậy, phân tầng xã hội khác với phân hoá xã hội. Khi đề cập đến phân hoá xã hội, xã hội học muốn nhấn mạnh trạng thái động, tức l à quá trình mà một xã hội nào đó từ trạng thái tương đối thuần nhất ban đầu chuyển dần thành những nhóm khác nhau (thậm chí đối l ập nhau) về lợi ích, mức sống và các định hướng giá trị. Khi nghiên cứu hậu quả của phân tầng xã hội, thông thường, xã hội học đề cập đến tác động hai mặt của phân tầng x ã hội tuỳ thuộc vào phân tầng hợp thức hay phân tầng không hợp thức. trong đó: - Phân tầng xã hội hợp thức là sự phân tầng dựa trên sự khác biệt một cách tự nhiên về năng lực (thể chất, trí tuệ), về điều kiện, c ơ may cũng như sự phân công lao động, căn cứ v ào năng lực của các cá nhân và các nhóm xã hội. Bản chất của phân tầng xã hội hợp thức là sự vận hành xã hội theo nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Phân tầng xã hội hợp thức là động lực tích cực và cần thiết của phát triển xã hội; có tác dụng thúc đẩy xã hội đi lên, tạo ra chuẩn mực thống 45
  46. nhất và khách quan cho việc đánh giá xã hội cũng như việc tự đánh giá của các cá nhân và các nhóm xã hội về vị thế và vai trò xã hội của mình. - Phân tầng xã hội không hợp thức là phân tầng xã hội không dựa trên sự khác biệt tự nhiên của các cá nhân, cũng không phải dựa tr ên sự khác nhau về năng lực và sự cống hiến của mỗi cá nhân cho x ã hội. Phân tầng xã hội không hợp thức tạo nên sự bất công xã hội. Nó là xiềng xích trói buộc năng lực sáng tạo của con ng ười, làm thui chột năng lực thể chất và trí tuệ của con người, là nguyên nhân tích tụ mầm mống của bất bình và xung đột xã hội, đối kháng xã hội, thậm chí phá vỡ trật tự xã hội. b) Các hệ thống phân tầng xã hội trong lịch sử Phân tầng xã hội xuất hiện rất sớm và biểu hiện hết sức đa dạng ở các nước, các thời kỳ lịch sử và các nền văn hoá khác nhau. Dựa vào tính cơ động của xã hội và kiểu xã hội, xã hội học có thể chia ra hai hệ thống phân tầng xã hội điển hình trong lịch sử như sau: - Hệ thống phân tầng “đóng” - phân tầng trong xã hội đẳng cấp: Đặc trưng nổi bật của hệ thống phân tầng đóng là ranh giới giữa các tầng xã hội hết sức rõ ràng, được duy trì một cách nghiêm ngặt; địa vị của mỗi cá nhân được quy định ngay từ khi mới sinh ra bởi nguồn gốc dòng dõi của cha mẹ. Một cá nhân nào đó khi mới thuộc về đẳng cấp nào thì mãi mãi thuộc về đẳng cấp đó. - Hệ thống phân tầng “mở”- phân tầng trong xã hội có giai cấp: Đặc trưng của hệ thống phân tầng mở là địa vị của con người chủ yếu phụ thuộc vào địa vị kinh tế của họ. Trong hệ thống phân tầng n ày, ranh giới giữa các tầng không quá cứng nhắc và tách biệt như trong xã hội đẳng cấp mà linh hoạt và mềm dẻo hơn. Địa vị của cá nhân thường phụ thuộc vào nghề nghiệp và thu nhập. Hầu hết các xã hội hiện nay trên thế giới đều thuộc về hệ thống phân tầng n ày. c) Quan hệ giữa phân tầng xã hội với bất bình đẳng xã hội Giữa phân tầng xã hội với bất bình đẳng xã hội có mối liên hệ nhân - quả. Bất bình đẳng xã hội là nguyên nhân tạo nên sự phân chia xã hội thành các tầng lớp khác nhau. Hay nói cách khác, phân tầng x ã hội là hệ quả của bất bình đẳng xã hội, luôn gắn liền với bất bình đẳng 46
  47. xã hội. Bất bình đẳng xã hội càng đa dạng, phức tạp bao nhiêu thì phân tầng xã hội diễn ra càng đa dạng và phức tạp bấy nhiêu. Trên phương diện lý thuyết, các nhà xã hội học đã đưa ra những mô hình phân tầng xã hội khác nhau tuỳ thuộc vào các tiêu chuẩn xác định sự bất bình đẳng mà họ đã đưa ra (theo chức năng giá trị, theo quyền lực chính trị và uy tín ). Bất bình đẳng xã hội hình thành trong đời sống xã hội, mà trước hết là trong lĩnh vực sản xuất vật chất của x ã hội, gắn liền với sự phân công lao động xã hội. Nền sản xuất xã hội càng phát triển, sự phân công lao động xã hội càng đạt đến trình độ cao thì theo đó, phân hoá xã hội cũng càng trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Quá trình phân hoá xã hội tác động vào mọi mặt của đời sống xã hội, làm cho xã hội trở nên cơ động và cởi mở. Nếu cho rằng bất bình đẳng xã hội là nguồn gốc của phân tầng xã hội thì phân hoá xã hội và cơ động xã hội có mối liên hệ trực tiếp tới phân tầng xã hội; quá trình này không những tạo nên trạng thái (quy mô, cấu trúc, tốc độ ), m à còn tạo nên xu hướng của quá trình phân tầng xã hội. 3. Một số lý thuyết về bất bình đẳng và phân tầng xã hội a) Lý thuyết chức năng xã hội Các nhà lý thuyết chức năng xuất phát từ luận điểm sau đây để giải thích các hiện tượng xã hội: - Các hiện tượng xã hội tồn tại vì có những nguyên nhân tạo ra chúng; nhưng cũng vì chúng có một chức năng tích cực nào đó để thực hiện trong xã hội. - Một xã hội muốn tồn tại phải có một số điều kiện ti ên quyết có tính chức năng phải được thoả mãn một cách hữu hiệu. Khi giải thích hiện tượng bất bình đẳng và phân tầng xã hội, các nhà lý thuyết chức năng cho rằng bất bình đẳng và phân tầng xã hội là một đặc trưng của xã hội loài người luôn luôn tồn tại cùng với lịch sử. Có thể tóm tắt lý luận phân tầng của các nhà xã hội học chức năng như sau: - Trong một xã hội, có những địa vị khác nhau thực hiện những chức năng nhất định. 47
  48. - Mức độ quan trọng của các địa vị l à không giống nhau và tuỳ thuộc vào chức năng của chúng. - Có những địa vị đặc biệt quan trọng (liên quan đến sự tồn vong của của xã hội) đòi hỏi phải có những kỹ năng đặc biệt m à chỉ có một số ít người thực hiện được mà thôi. - Do vậy, những cá nhân đạt được địa vị cao không nhiều. Để đạt được địa vị đó, họ phải trải qua một thời kỳ huấn luyện nhất định nhằm trang bị những kỹ năng chuyên môn cần thiết. - Phải có hệ thống phần thưởng bất bình đẳng gắn với một tổ chức ngạch bậc những địa vị xã hội, tuỳ theo mức độ quan trọng của địa vị v à tương xứng với tài năng, công sức và chi phí học tập để có những kỹ năng đó. Như vậy, theo thuyết chức năng xã hội, sự bất bình đẳng xã hội là bất bình đẳng về giá trị địa vị xã hội, là tất yếu khách quan. Do đó, tiêu chuẩn của sự phân tầng xã hội là địa vị xã hội. Hạn chế lớn nhất của thuyết chức n ăng về phân tầng xã hội là chỉ dựa vào tiêu chí giá trị địa vị xã hội mà bỏ qua những yếu tố quan trọng như kinh tế, chính trị trong quá trình phân tầng xã hội. Vì vậy, sự giải thích về bất bình đẳng và phân tầng xã hội của lý thuyết này có ý nghĩa hợp thức hoá hơn là đi tìm căn nguyên của hiện tượng xã hội này. b) Quan điểm mác xít về bất bình đẳng và phân tầng xã hội Lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp trong chủ nghĩa duy vật lịch sử của Karl Marx là cơ sở phương pháp luận để giải thích bất bình đẳng và phân tầng xã hội của xã hội học mác xít. Sự phân chia giai cấp xã hội là nguyên nhân tạo ra bất bình đẳng xã hội và hệ quả của nó là phân tầng xã hội. Sự phân chia giai cấp và quan hệ giai cấp không phải được tạo ra một cách tự phát và trực tiếp bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà diễn ra trên bình diện quan hệ xã hội giữa con người với con người trong quá trình sản xuất. Trong một xã hội, khi mà trình độ phân công lao động xã hội còn phụ thuộc vào chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì đó là quan hệ giữa giai cấp bóc lột (những ng ười chiếm hữu tư liệu sản xuất, tổ chức sản xuất và phân phối lao động) với giai cấp bị bóc lột (những người bán sức lao động để kiếm sống). 48
  49. Chính quan hệ giai cấp nêu trên là căn nguyên của bất bình đẳng xã hội. Mọi lợi ích kinh tế, quyền lực chính trị v à địa vị xã hội đều bắt nguồn từ quan hệ này. Đồng thời, nó nhào nặn mọi khía cạnh khác của đời sống xã hội. Giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị xã hội đó. c) Lý thuyết phân tầng của Max Weber Nhà xã hội học người Đức Max Weber xây dựng lý thuyết phân tầng xã hội xuất phát từ phạm trù hành động xã hội, nhằm giải nghĩa cho hành động xã hội của cá nhân trong xã hội TBCN. Phân tầng xã hội mà ông đề cập là phân tầng xã hội tư bản, nhưng do nó có ý nghĩa phổ quát cao, nên có thể vận dụng để giải thích phân tầng x ã hội của nhiều thời đại và xã hội khác nhau. Theo M. Weber, cách giải thích của lý thuyết chức năng v à của K. Marx về phân tầng xã hội là cách giải thích một chiều, trong khi sự vận động, biến đổi xã hội lại hết sức phức tạp và vô cùng rộng lớn. Như vậy, theo M. Weber, cần phải phân tầng x ã hội theo nhiều chiều, mà trong đó, ba yếu tố chủ yếu để phân tầng xã hội là địa vị xã hội, quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế. Về nguyên lý, ông không tuyệt đối hoá bất kỳ yếu tố nào; nhưng khi giải thích, những lập luận của ông lại đề cao địa vị xã hội và quyền lực chính trị. Weber lập luận rằng quyền lực kinh tế có thể thu l ượm được từ sự chiếm hữu quyền lực dựa trên nền tảng khác. Địa vị xã hội và quyền lực chính trị có thể xuất phát từ quyền lực kinh tế, nh ưng đây không phải là tất yếu. Ngược lại, quyền lực kinh tế có thể có từ quyền lực chính trị v à địa vị xã hội. Weber cũng đề cập đến vấn đề giai cấp. Ông coi đó là hiện thân của bất bình đẳng về kinh tế. Nhưng K. Marx xuất phát từ quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất và phân phối sản phẩm, còn Weber lại nhấn mạnh tầm quan trọng của thị trường như là cơ sở kinh tế cho một tầng lớp xã hội nào đó hơn là tài sản. Theo M. Weber, nguyên nhân đầu tiên của bất bình đẳng xã hội trong xã hội tư bản là khả năng chiếm lĩnh thị trường của người lao động (phụ thuộc vào sự hiểu biết, bản lĩnh và khả năng nghề nghiệp của họ). 49
  50. Thị trường kỹ năng gắn liền với cơ may đời sống của người lao động tạo ra hoàn cảnh giai cấp của các nhóm xã hội. Những người có khả năng thị trường tương tự và do đó có cơ may đời sống tương tự hợp thành giai cấp nhất định. Trong ba lý thuyết về bất bình đẳng và phân tầng xã hội đã nêu trên, lý thuyết chức năng ít có sức thuyết phục hơn cả, bởi vì lý thuyết này phiến diện và mang tính tư biện, thậm chí biện minh cho sự bất bình đẳng xã hội. Karl Marx và Max Weber được coi là “hai người khổng lồ của lý thuyết phân tầng xã hội”, bởi lẽ: - Học thuyết của K. Marx đã dựng nên bức tranh rõ ràng về bất bình đẳng xã hội và căn nguyên cuối cùng của nó, cũng như sự vận động tất yếu của xã hội để tiến tới xoá bỏ những nguyên nhân tạo ra bất bình đẳng xã hội. - Lý thuyết phân tầng xã hội của M. Weber đã đưa ra những tiêu chuẩn khả dĩ có thể dựa vào đó để xác định các tầng lớp người khác nhau với những hành vi kinh tế khác nhau trong nền kinh tế thị tr ường. Giữa K. Marx và M. Weber tồn tại sự đối lập về quan hệ sinh thành giữa cơ sở kinh tế với tinh thần, chính trị. Nếu K . Marx chủ trương phương thức sản xuất là nền móng, cơ sở để điều tiết các thiết chế nhà nước, pháp luật, tôn giáo thì Weber, trái lại, cho rằng đời sống kinh tế xã hội của nhà tư bản bắt nguồn từ động cơ tinh thần của chính nhà tư bản. Xét trong lĩnh vực kinh tế có liên quan đến bất bình đẳng xã hội, thì giữa hai ông không có sự đối lập ho àn toàn. Về một phương diện nào đó, cả hai người đều gắn phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội với nguyên nhân chủ yếu là chế độ tư hữu. Trong khi K. Marx nhấn mạnh đến tư hữu về tư liệu sản xuất, lao động và sản phẩm thì M. Weber lại quan tâm đến thị trường lao động. Do đó, nếu K. Marx chỉ ra tiêu chí để xác định rõ ràng ranh giới bất bình đẳng giai cấp (vô sản và hữu sản) thì M. Weber lại giúp nhận thấy được sự khác nhau giữa các thành viên trong mỗi giai cấp, do có cơ may thị trường và kỹ năng lao động khác nhau. Nếu Marx vạch ra cơ sở của sự chuyển hoá và thủ tiêu giai cấp là các cuộc cách mạng xã hội thì M. Weber cho thấy tác động của cạnh 50
  51. tranh thị trường và phân công lao động đối với sự thay đổi địa vị kinh tế, quyền lực chính trị và uy tín xã hội của các thành viên trong mỗi giai cấp. Vì vậy, trong một chừng mực nào đó, có thể phối hợp một phần lý luận của Weber về bất bình đẳng và phân tầng xã hội với lý luận phân tầng mác xít để phân tích sự vận động v à biến đổi của các xã hội có nền kinh tế thị trường. IV. DI ĐỘNG XÃ HỘI 1. Khái niệm di động xã hội Di động xã hội (cơ động xã hội, dịch chuyển xã hội) là khái niệm xã hội học dùng để chỉ sự chuyển động của các cá nhân, gia đình, nhóm xã hội, phản ánh tính linh hoạt của các cá nhân v à nhóm xã hội trong kết cấu các tầng xã hội. Hệ quả của di động xã hội là sự chuyển đổi vị trí của các cá nhân, gia đình và nhóm diễn ra trong cùng một tầng lớp xã hội hay chuyển sang tầng lớp xã hội khác. 2. Các hình thức di động xã hội a) Di động theo chiều dọc Di động theo chiều dọc là sự thay đổi vị thế của một cá nhân, gia đình và nhóm khi họ di chuyển theo chiều đi lên hoặc đi xuống trong bậc thang xã hội. b) Di động theo chiều ngang Di động theo chiều ngang là sự di động trên cùng một mặt bằng xã hội. c) Di động liên thế hệ Di động liên thế hệ là sự di chuyển xã hội xảy ra giữa các thế hệ. Di động liên thế hệ có thể diễn ra theo ba hướng là đi lên, đi xuống hoặc di động theo chiều ngang. d) Di động nội thế hệ Di động nội thế hệ là những thay đổi về mặt vị thế của một cá nhân hoặc một nhóm trong cùng một thế hệ. 51
  52. Cần nhấn mạnh rằng di động xã hội chủ yếu đề cập tới địa vị đạt được (giành được) do hoạt động xã hội mà có, chứ không đề cập đến địa vị được gắn cho (có sẵn). Ngoài những hình thức di động xã hội đã nêu trên, còn có các loại di động xã hội cơ cấu, di động xã hội trao đổi Các hình thức di động xã hội kết hợp với nhau, tác động lẫn nhau tạo n ên sự biến động của cấu trúc xã hội để cuối cùng thiết lập sự cân bằng của toàn bộ hệ thống xã hội. 3. Những nhân tố ảnh hưởng đến di động xã hội a) Điều kiện kinh tế - xã hội Di động xã hội phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội. Trong một xã hội khép kín, thường xuất hiện những vấn đề như: - Vị trí xã hội của một cá nhân được xác định ngay từ khi sinh ra, ít có khả năng dịch chuyển lên hoặc xuống thì di động xã hội diễn ra một cách chậm chạp và khó có sự thay đổi địa vị xã hội của cá nhân, gia đình và nhóm xã hội. - Trong một xã hội mở (xã hội công nghiệp), sự bất bình đẳng xã hội có thể tồn tại với những biểu hiện đa dạng v à phức tạp; nhưng các cá nhân, gia đình và nhóm xã hội có cơ may nhiều hơn để di chuyển lên giai cấp xã hội cao hơn, hoặc ngược lại, xuống giai cấp xã hội thấp hơn. - Tuy nhiên, sự di động xã hội theo chiều hướng đi lên chỉ có thể trở thành hiện thực khi các cá nhân, gia đình và nhóm xã hội tích cực làm việc, có tài năng vượt trội và có cơ hội may mắn, điều kiện thuận lợi để thay đổi vị thế xã hội của mình. - Trong xã hội công nghiệp, quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá tạo nên xu hướng lao động chân tay giản đơn bị suy giảm và thay vào đó là lao động kỹ thuật, lao động chuyên nghiệp hoá với máy móc, công nghệ chuyên dùng hiện đại. Như vậy, xét về lý thuyết, sẽ có nhiều cá nhân có cơ hội chuyển sang những ngành nghề có kỹ thuật, kỹ năng hay gia nhập vào những thành phần xã hội có vị trí cao hơn như quản trị, doanh thương, kỹ thuật viên b) Trình độ học vấn Trình độ học vấn của một cá nhân ảnh h ưởng rất lớn đến sự di động xã hội của cá nhân đó. Trình độ học vấn thúc đẩy di động xã hội 52
  53. bằng cách thông qua giáo dục cho cá nhân những kỹ năng cần thiết để tham gia cạnh tranh trên thị trường lao động. Nhờ có trình độ học vấn cao mà người lao động có khả năng nhận được những công việc đòi hỏi có trình độ chuyên môn cao; họ có điều kiện để được trả lương cao đạt đến địa vị xã hội cao hơn. c) Nguồn gốc gia đình Di động xã hội có tính kế thừa truyền thống gia đ ình ở mức độ rộng rãi. Hoàn cảnh gia đình (nghề nghiệp của cha mẹ, tài sản, giáo dục gia đình ) ảnh hưởng lớn đến sự di động xã hội của cá nhân. Nghề nghiệp của cha mẹ của một cá nhân có ảnh h ưởng đến số lượng và chất lượng giáo dục mà cá nhân đó nhận được và tiếp đó, sự giáo dục này lại ảnh hưởng đến các cơ hội nghề nghiệp của cá nhân đó. Quy mô gia đình là một nhân tố xã hội quan trọng liên quan đến sự di động xã hội. Gia đình quá đông con khó có đủ điều kiện để thoả mãn những nhu cầu rất lớn về học tập kỹ năng, nghề nghiệp. Từ đó m à cá nhân ít có khả năng và cơ hội thực hiện di động xã hội theo chiều dọc. d) Giới tính Giới tính là một nhân tố quan trọng trong di động x ã hội. Do sự phân biệt giới tính trong xã hội, nam giới thường được ưu đãi hơn về nghề nghiệp, tiền lương và địa vị xã hội so với nữ giới. Vì vậy khả năng di động xã hội của nam giới cao hơn so với nữ giới. Trong xã hội hiện đại, gia đình hạt nhân và có nghề nghiệp, việc làm đầy đủ và phụ nữ ở vị thế xã hội cao. Mặc dù vậy, phụ nữ vẫn ít có cơ hội di động xã hội hơn nam giới. Đối với nữ giới, tuổi kết hôn cũng là một nhân tố quan trọng đối với di động x ã hội. Chẳng hạn, phụ nữ càng kết hôn sớm thì khả năng di động xã hội theo chiều dọc (theo hướng đi lên) càng hạn chế. Xã hội học còn lưu ý các yếu tố như môi trường, điều kiện sinh sống cụ thể của từng cá nhân, gia đình và nhóm xã hội, ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá, tôn giáo, sắc tộc ảnh h ưởng đến di động xã hội. 53
  54. Chương III TỔ CHỨC XÃ HỘI VÀ THIẾT CHẾ XÃ HỘI I. NHÓM XÃ HỘI 1. khái niệm nhóm xã hội Nhóm xã hội là tập hợp người có liên hệ với nhau theo một kiểu nhất định, hay nói một cách đầy đủ hơn, nhóm xã hội là một tập hợp người có liên hệ với nhau về vị thế, vai trò, những nhu cầu lợi ích và những định hướng nhất định. Gurvitch (nhà xã hội học người Pháp, 1894-1965) cho rằng nhóm là một đơn vị tập thể hiện thực dựa trên những thái độ tập thể liên tục và tích cực và có sự nghiệp chung để thực hiện. Nh ư vậy, theo Gurvitch đặc trưng cơ bản của nhóm là sự thống nhất về tinh thần, tình cảm, mục đích và phương thức hoạt động của nhóm. Nhóm là một trong những đơn vị cơ bản tạo thành xã hội. Con người luôn sống thành nhóm. Tuy nhiên, khái niệm nhóm ở con người không chỉ có tính sinh học tự nhiên, mà còn mang tính xã hội, quan hệ cá nhân - cá nhân - nhóm và quan hệ nhóm - nhóm tác động và chịu ảnh hưởng của những quan hệ xã hội. Xã hội tác động tới các cá nhân thông qua nhóm, hay nói cách khác, nhóm gi ữ vai trò trung gian để liên kết cá nhân và xã hội. Nhóm là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học khác nhau. X ã hội học tìm hiểu nhóm như là một cộng đồng của những tương tác, những vị thế và cơ cấu xã hội trong mối quan với các nhóm khác cũng như với toàn thể xã hội Để làm rõ vai trò trung gian của nhóm (liên kết cá nhân - xã hội), cần xem xét nhóm như một tập hợp, một tiểu hệ thống x ã hội trong bối cảnh xã hội rộng lớn. Trong đó, yếu tố li ên kết cơ bản của nhóm (dấu hiệu chính của nhóm) là hoạt động xã hội của nhóm với những dạng cụ thể và hình thức phù hợp của nhóm. Các thành viên tham dự vào hoạt động chung của nhóm phụ thuộc v ào cơ cấu tổ chức của nhóm. Ngược lại, cơ cấu xã hội, tiểu văn hoá của nhóm ảnh h ưởng tới hoạt động của các thành viên trong nhóm. Cần phân biệt nhóm xã hội với cộng đồng xã hội. Là biến thái của nhóm xã hội, trong nhiều trường hợp cụ thể, cộng đồng xã hội lại đồng 54