Bài giảng Môi trường giáo dục - Chương IV: Phát triển môi trường giáo dục - Những vấn đề đặt ra (Phần 1)

pdf 25 trang ngocly 2330
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Môi trường giáo dục - Chương IV: Phát triển môi trường giáo dục - Những vấn đề đặt ra (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_moi_truong_giao_duc_chuong_iv_phat_trien_moi_truon.pdf

Nội dung text: Bài giảng Môi trường giáo dục - Chương IV: Phát triển môi trường giáo dục - Những vấn đề đặt ra (Phần 1)

  1. Chương IV PHÁT TRIỂN MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC - NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA “ Phát triển nhân văn (human development) là một quá trình mở rộng và tăng cường sự lựa chọn của con người. Những lựa chọn quan trọng nhất là được sống lâu và khoẻ mạnh, dược giáo dục và được hưởng một mức sống tươm tất. Những sự lựa chọn khác gồm sự tự do về chính trị, tự do nhân quyền và sự tự tin vào bản thân mình” (UNDP, 1990). Trọng tâm của nhiệm vụ phát triển môi trường văn hoá giáo dục trong các cơ sở đào tạo giáo viên là hình thành và phát triển các giá trị nhân cách, khuyến khích sinh viên tạo lập một lối sống lành mạnh, tích cực. Cách tiếp cận chức năng về các nội dung giáo dục là hướng đi đúng hướng của các trường học. Chẳng hạn, các trường sư phạm sẽ không thể giải quyết triệt để và có kết quả ngay các vấn đề về môi trường, dân số, giới tính, sức khoẻ sinh sản vị thành niên hay vấn đề môi trường sinh thái, các vấn đề đạo đức xã hội trong quá trình đào tạo giáo viên. Điều quan trọng là cần thực hiện các giải pháp giáo dục tổng thể về những vấn đề trên, trong đó cốt lõi là tập trung giáo dục toàn diện nhân cách. Trong khi đó, các quan hệ xã hội phức tạp đã ảnh hưởng theo hai hướng tích cực và tiêu cực đến con người cần được các nhà giáo dục điều chỉnh theo các quy luật đúng đắn của quá trình xã hội hoá con người. Trong các chương trên, chúng ta đã nghiên cứu để làm sáng tỏ các vấn đề lí luận và thực tiễn của môi trường giáo dục. Đồng thời, đề xuất các biện pháp từ góc độ giáo dục về vấn đề phát triển môi' trường văn hoá giáo dục. Xuất 148
  2. phát từ luận điểm: ở chừng mực nhất định, con người còn tham gia vào cải tạo môi trường và con người muốn kiến tạo một môi trường xã hội định chuẩn thì cần phải có các điều kiện nhất định. Tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đến cá nhân còn tuỳ thuộc vào quan điểm lập trường, vào xu hướng, năng lực của cá nhân đó. Để thực hiện tết các giải pháp phát triển môi trường văn hoá giáo dục, trước hết cần xác lập các tiêu chí (ở các mức độ khác nhau) nhằm tạo điều kiện tốt nhất trong những hoàn cảnh nhất định để phát triển toàn diện con người. Do đó, cần phác thảo các tiêu chuẩn môi trường giáo dục ở các cấp độ môi trường nhỏ đến môi trường lớn. Trước hết, trong môi trường sư phạm, sớm để các giáo sinh sư phạm được thích ứng nghề nghiệp một cách chắc chắn. Sự tự ý thức của chủ thể giáo dục (giảng viên và sinh viên) về việc chủ động tiếp nhận các tác động tết của môi trường và kiến tạo một môi trường giáo dục lành mạnh là yêu cầu quan trọng của nhiệm vụ phát triển trong các trường sư phạm, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo Nhà giáo dục học Xô - viết A.I. Piskunov đã nhận định về nhà trường mới như sau : “ Nhà trường mới phải tạo ra được một môi trường giáo dục có khả năng bảo đảm sự phát triển của trẻ về các mặt thể lực, trí lực và đạo đức và chuẩn bị cho trẻ bước vào cuộc sống thực tiễn. Kiểu tổ chức tốt nhất của loại môi trường đó là trường nội trú. Trong môi trường này, sự phát triển thể lực của trẻ được đặc biệt chú ý là tiền đề thiết yếu để triển khai một cách bình thường các sức mạnh và các năng lực trí tuệ” . (Dẫn theo Hà Thế Ngữ: Giáo dục học - một số vấn đề lí luận và thực tiễn, NXB Đại học quốc gia, Hà nội, 2001, tr. 1 95). Đánh giá chất lượng giáo dục của nước ta hiện nay còn rất nhiều vấn đề đang tranh luận, tuy nhiên theo quan điểm 149
  3. của khoa học giáo dục hiện đại thì mục tiêu giáo dục nhân cách (chất lượng con người) phải được coi trọng hàng đầu khi xem xét vấn đề chất lượng. Nếu giáo dục chỉ coi trọng tiêu chí điểm số sẽ dẫn đến chất lượng giáo dục giả tạo, kết quả giáo dục chỉ được phản ánh trên các báo cáo và dẫn đến năng lực người học yếu kém, các phẩm chất nhân cách không phát huy được trong hoạt động thực tiễn. Mục tiêu đào tạo trong các trường đại học sư phạm là hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất nhân cách người giáo viên đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. Quá trình đào tạo nghề trong môi trường sư phạm có ý nghĩa quyết định đến việc hình thành nhân cách nghề nghiệp tương lai của các giáo sinh su phạm. Do đó, xây dựng các tiêu chí và phát triển nó trong môi trường giáo dục có thể được coi là các yêu cầu sư phạm cơ bản để góp phần hình thành và phát triển nhân cách cho sinh viên. Khi tiếp cận vấn đề môi trường giáo dục con người từ góc độ triết học, cần thấm nhuần quan điểm của triết học Mác- lênin, đó là “ Tính quy luật của xã hội đối với giáo dục sự phụ thuộc của nhiệm vụ, nội dung, phương pháp giáo dục vào các điều kiện vật chất của đời sống, vào tính chất của quan hệ xã hội” . (Sđd; tr.79). Còn theo tác giả B.T Likhachev thì trong các quy luật chung của giáo dục học, loại quy luật được xem xét trước tiên là loại quy luật xã hội học giáo dục học, hoặc có thể gọi các quy luật giáo dục chịu sự quy định của các quy luật phát triển xã hội. Trong câu chuyện “ Mạnh mẫu giáo tử” dạy con bằng cách tìm đến chỗ ở tốt hơn để môi trường tốt có tác dụng tích cực đối với giáo dục trẻ. Vấn đề dặt ra ở dây là: Liệu có thể thường xuyên di chuyển con người ra khỏi môi trường xấu để được sống ở môi trường tốt hơn hay không? Điều này chỉ có thể có lợi cho một cá nhân, nhưng khó thực 150
  4. hiện được liên tục bởi khả năng xuất hiện những yếu tố xấu trong môi trường tết là vẫn có thể xảy ra. Giá trị của câu chuyện này ở chỗ là đánh giá cao vai trò của yếu tố môi trường sống đối với sự hình thành nhân cách con người. Tuy nhiên, có thể nói quan điểm trên đây chỉ thể hiện sự đánh giá, nhận thức đúng về môi trường. Tư duy của khoa học giáo dục hiện đại đòi hỏi phải tiếp cận giải quyết vấn đề theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng. Con người còn phải có nhiệm vụ phát triển và cải tạo môi trường, như luận điểm của C.Mác đã xác định: “ Con người sáng tạo ra hoàn cảnh trong chừng mực hoàn cảnh sáng tạo ra con người” . I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÓ TÍNH NGUYÊN TẮC TRONG XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN MÔI TRƯƠNG VĂN HOÁ GIÁO DỤC TRONG CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN Nhìn chung, xã hội càng phát triển thì thiết chế môi trường chung đều hướng đến hiện đại, văn minh, dân chủ và tốt đẹp cho con người. Trong các cơ sở đào tạo giáo viên, quá trình xây dựng và phát triển môi trường văn hóa giáo dục cần quan tâm đến các vấn đề có tính nguyên tắc sau đây: Đảm bảo tính mục tiêu của quá trình giáo dục Các hoạt động giáo dục trong những điều kiện khác nhau của các cơ sở đào tạo giáo viên đều hướng vào mục tiêu của quá trình giáo dục đó là sự hình thành và phát triển nhân cách chuyên gia sư phạm. Nhận thức đúng về nguyên tắc này đòi hỏi phải có chiến lược phát triển nhà trường đúng hướng trong công tác đào tạo và bồi' dưỡng. Ngay trong quá trình đào tạo giáo viên, cần quan tâm đến nhiệm 151
  5. vụ giáo dục những nét phẩm chất nhân cách nghề nghiệp quan trọng như: sự trung thực trong học tập, trong các quan hệ, các hành động có động cơ trong sáng, ý chí khắc phục khó khăn, ham học hỏi, có quyết tâm tự học cao, rèn luyện tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng. Mục tiêu cơ bản của nền giáo dục mới là giáo dục toàn diện con người, coi trọng chất lượng giáo dục nhân cách. Nét đặc trưng về năng lực chuyên gia sư phạm trong giai đoạn hiện nay là năng lực giao tiếp toàn cầu, năng lực thích nghi và ứng phó trước sự biến đổi liên tục của cáo vấn đề chuyên môn và xã hội. Những quan điểm tiến bộ về giáo dục đã khẳng định mục tiêu giáo dục nhân cách là trọng tâm của hệ thống giáo dục quốc gia. Đảm bảo các nguyên tắc giáo dục Trước hết, các hoạt động phát triển môi trường giáo dục ở các mức độ khác nhau cần phải đảm bảo các nguyên lí chung của giáo dục học. Đó là: “ học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội” . Đồng thời, đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học, lí luận giáo dục. Các nguyên tắc giáo dục con người dựa trên nền tảng cơ bản là học đạo lí làm người - mục tiêu cao nhất của giáo dục và dựa trên nội dung cơ bản của triết lí nhân văn: Tất cả cho con người, tất cả vì con người. Nghiên cứu các điều kiện phục vụ cho con người ở xã hội văn minh, phát triển đã cho thấy các dịch vụ công cần đảm bảo các điều kiện tối ưu cho mọi đối tượng. Như vậy, các hành động, việc làm, các yếu tố điều kiện được huy động để đảm bảo cho nhiệm vụ giáo dục con người theo mục tiêu tết đẹp đều được thừa nhận và trở thành nguyên.tắc của giáo dục học hiện đại. Đảm bảo tính hiệu quả, thiết thực, tiết kiệm 152
  6. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo các biện pháp xây dựng và phát triển môi trường văn hoá giáo dục cần tính toán trong điều kiện chi phí không nhiều, thời gian tiêu phí ít, tiết kiệm nhân lực nhưng kết quả đạt được phải cao. Đây cũng là bài toán khó trong điều kiện hiện nay của các trường sư phạm nói riêng và giáo dục đại học nước ta nói chung. Vấn đề hiệu quả, thiết thực, tiết kiệm là điểm mấu chốt để phân biệt tính chất định hướng mục tiêu của hệ thống giáo dục với hệ thống phát triển tự nhiên tác động vào con người. Nhờ quá trình giáo dục có mục đích, có nội dung, phương thức và các lực lượng chuyên biệt cho nên giáo dục mới đạt được hiệu quả. Cán làm thay đổi cách nhìn nhận phiến diện hoặc cực đoan về điều kiện để đổ lỗi cho hoàn cảnh, ỷ lại vào các phương tiện, dẫn đến sự trì trệ trong đổi mới phương pháp giáo dục. Đồng thời, khắc phục cách làm duy ý chí, không tính đến điều kiện thực tế của địa phương và đất nước trong tổ chức các hoạt động giáo dục, dạy học ở các cơ sở giáo dục miền núi hiện nay. Đảm bảo hệ thống giá trị được giữ gìn và phát triển ở đối tượng giáo dục Nguyên tắc cơ bản của giáo dục học trước hết đòi hỏi các hoạt động giáo dục chứa đựng những giá trị nhân văn, có sự kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống. Nhiệm vụ phát triển môi trường văn hoá giáo dục phải đảm bảo tạo điều kiện tết nhất để các giá trị truyền thống tết đẹp được nảy nở, sinh sôi và lan toả. Định hướng cơ bản của khoa học giáo dục hiện đại không phải là ngăn chặn, cấm đoán mà trước hết là gợi mở, phát triển, tạo môi trường tích cực để những giá trị tốt đẹp thăng hoa. Hoạt động sống của mỗi cá nhân là một tác nhân tích cực hoặc tiêu cực đến môi trường hoạt động của những người khác. Do đó, ở mỗi cá nhân nếu được tạo điều kiện để phát triển các giá trị tết đẹp 153
  7. sẽ tạo ra sự cộng hưởng của một môi trường sống lành mạnh, có tác dụng tích cực đến đời sống xã hội. Đảm bảo xây dựng và phát triển phải đi đôi với xoá bỏ, ngăn chặn các tiêu cực ảnh hưởng đến nhà trường sư phạm, trong nhà trường sư phạm Nguyên tắc này nhằm bảo vệ quan điểm khi giải quyết vấn đề giáo dục phải đảm bảo sự biện chứng giữa xây và chống, giữa phát triển và ngăn chặn. Giải quyết các mâu thuẫn bên trong và bên ngoài một cách đồng bộ bởi các hệ thống trong và ngoài phải được thiết lập trong một hệ thống lớn hơn. Trong đó, tăng cường khả năng kháng thể của sinh viên trước tác động xấu của môi trường là yếu tố quan trọng và quyết định. Các hoạt động giáo dục trong các cơ sở đào tạo giáo viên từ nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng, hoạt động chuyên môn và các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao cần phải tạo ra một môi trường tích cực, lành mạnh. Có sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển nhà trường với phát triển môi trường kinh tế xã hội địa phương trong việc xây dựng một xã hội học tập, một môi trường sống văn minh. Đảm bảo các kết quả nghiên cứu về khoa học giáo dục được ứng dụng vào quá trình đào tạo ở các trường sư phạm Nguyên tắc này nhấn mạnh yêu cầu trong quá trình phát triển môi trường giáo dục cần sử dụng các kết quả nghiên cứu một cách có hiệu quả, đảm bảo cho các hoạt động giáo dục trong nhà trường khoa học hơn, chuẩn mực hơn. Tôn trọng các quy luật giáo dục trong nhiệm vụ phát triển môi trường giáo dục chính là đảm bảo sự phát triển bền vững. Các chủ đề, nội dung nghiên cứu của khoa học giáo dục phải xuất phát từ thực tiễn giáo dục, phục vụ sự nghiệp giáo 154
  8. dục. Mặt khác, các chính sách, chủ trương của các cấp quản lí giáo dục cần sử dụng kết quả nghiên cứu của khoa học giáo dục, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến giáo dục nhân cách, giáo dục lối sống, xây dựng môi trường giáo dục sinh viên. Đảm bảo trong các trường sư phạm, vai trò chủ thể của hoạt : động phát triển môi trường giáo dục là giảng viên và sinh viên được khẳng định Đây là nguyên tắc cơ bản khi thiết kế, phát triển môi trường giáo dục. Yếu tố không thể thiếu trong môi trường giáo dục đại học là con người với sự chủ động và tích cực của các chủ thể là giảng viên và sinh viên. Các yếu tố khác có thể chưa đầy đủ, nhưng quan hệ giữa giảng viên và sinh viên trong môi trường giáo dục tốt đẹp sẽ là yếu tố quyết định đến sự tồn tại của môi trường giáo dục trong bất cứ điều kiện xã hội - lịch sử nào. Như vậy, cần có những chính sách để tập trung vào khuyến khích khả năng tự lập, tự chủ, sáng tạo của con người. Đối với các cơ sở đào tạo giáo viên, sinh viên và giảng viên là những thành phần ưu tú của xã hội về khả năng nhận thức, về trình độ và về lối sống, do đó nếu những thành phần này không tự giác tích cực thì sẽ là một cản trở lớn đối với nhiệm vụ phát triển môi trường xã hội. Đảm bảo quá trình đào tạo phải gắn với sử dụng, gắn với nhiệm vụ thiết lập môi trường làm việc tích cực cho con người Trên thế giới những năm gần đây, nhiều người có trình độ chuyên môn cao ở Liên xô (cũ), ở châu Á di chuyển đến Mỹ và các quốc gia phát triển. Nguyên nhân cơ bản là lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao chỉ có thể phát huy độ trong môi trường công nghệ luôn thay đổi. Nói cách 155
  9. khác là tại các quốc gia này đang thực hiện chính sách mở cửa thị trường. Ở trong nước, hiện tượng cán bộ khoa học kĩ thuật di chuyển về các vùng phát triển cũng rất phổ biến. Theo tác giả Trần Văn Tùng [13, tr.6] thì: “ Muốn có nhiều tài năng cống hiến cho đất nước cần phải mở rộng dân chủ, tạo ra môi trường tự do học thuật để phát triển tài năng Mỗi loại nhân tài đều có những đặc điểm riêng, và có môi trường hoạt động riêng” . Như vậy, giải pháp nằm ở yếu tố môi trường chứ không hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế hay các yếu tố khác. Nghị quyết đại hội lần thứ Vi của Đảng đã xác định rõ: “ Đối với trí thức điều quan trọng nhất là đánh giá đúng đắn năng lực và tạo điều kiện cho các khả năng sáng tạo được sử dụng và phát triển” . Như vậy, môi trường đào tạo, môi trường làm việc sau tốt nghiệp phải được đặt trong một hệ thống nhất quán. Từ những vấn đề cơ bản trên đây đã định hướng cho nhiệm vụ phát triển môi trường văn hoá giáo dục trong các cơ sở đào tạo giáo viên để đạt được mục đích đề ra. Xuất phát từ thực tiễn giáo dục đại học, căn cứ vào nhiệm vụ của các cơ sở đào tạo giáo viên và chức năng giáo dục của xã hội, có thể xác định các nhóm biện pháp sau đây nhằm cải thiện môi trường giáo dục trong điều kiện hiện nay. II. NHÓM BIỆN PHÁP VỀ CHUYÊN MÔN 1. Tập trung giáo dục nhân cách toàn diện theo mục tiêu giáo dục đại học Mục tiêu đào tạo của các trường sư phạm là đào tạo giáo viên có những phẩm chất và năng lực theo yêu cầu của Luật Giáo dục. Mục tiêu giáo dục toàn diện nhân cách đang đòi hỏi hệ thống giáo dục các cấp phải hoàn thiện các yếu tố như mục tiêu giáo dục, nội dung, phương pháp giáo dục Trong các yếu tố của quá trình giáo dục thì vai trò 156
  10. của môi trường giáo đục được xác định là quyết định đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Do đó, sự phong phú của yếu tố môi trường giáo dục với các chuẩn mực của nó cùng với sự tác động đúng đắn của các hệ thống môi trường là yếu tố góp phần quyết định đến việc hoàn thành nhiệm vụ giáo dục nhân cách toàn diện. Con người là trung tâm, là chủ thể của hoạt động và giao lưu, sự hình thành và phát triển nhân cách được diễn ra trong và bằng hoạt động. Đối với sinh viên, quá trình hình thành năng lực nghề nghiệp diễn ra trong các môi trường chủ yếu sau đây: môi trường học tập - nghiên cứu khoa học; môi trường hoạt động chính trị - xã hội môi trường hoạt động vui chơi, giải trí, thể thao; môi trường hoạt động xã hội khác của sinh viên. Trong phạm vi hoạt động của sinh viền ở các môi trường khác nhau như vậy, thì vai trò chủ thể, sự năng động sáng tạo và khả năng thích ứng là yếu tố quan trọng. Sự chủ động để làm chủ, để chiếm lĩnh các tác động ảnh hưởng tốt của môi trường và khả năng chống đỡ, khắc phục các tác động xấu của môi trường là yêu cầu quan trọng của phẩm chất nhân cách sinh viên. Tiếp cận vấn đề từ thực trạng lối sống của sinh viên, tác giả Trần Thị Trâm đã đề xuất các biện pháp: Tuyên truyền để mỗi thành viên trong nhà trường có nhận thức đúng về ý nghĩa to lớn của vấn đề nâng cao nếp sống văn hoá cho sinh viên; nâng cao chất lượng dạy học được coi là giải pháp hàng đầu; tạo môi trường văn hoá lành mạnh; thu hút sinh viên vào các hoạt động vui chơi giải trí lành mạnh [Sđd]. Những giải pháp này đang cần được triển khai thành những cách làm cụ thể trong các trường sư phạm. Các kết quả nghiên cứu về giáo dục học, tâm lí học cũng đã xác 157
  11. định vấn đề trọng tâm, cơ bản của quá trình hình thành và phát triển nhân cách cần phải bắt đầu từ giáo dục nếp sống, lối sống cho con người. Một vấn đề cần đặt ra trong quá trình đánh giá sinh viên là thông thường chúng ta quan tâm nhiều hơn đến kết quả học tập của họ, xếp loại năng lực thông qua tiêu chuẩn điểm số. Đây là những tiêu chí rất quan trọng, cùng với tiêu chí về rèn luyện (gồm các nội dung cơ bản về phẩm chất, thái độ, tư cách đạo đức sinh viên ) đã trở thành quen thuộc để đánh giá và cấp bằng tết nghiệp đại học. Trong đó, các tiêu chuẩn cơ bản để cấu thành nhân cách toàn diện giáo sinh sư phạm là năng lực sáng tạo, sự chủ động và những phẩm chất tốt đẹp của nhà giáo dục tương lai vẫn được đánh giá theo cách cũ. Trên thực tế, số sinh viên ra trường có được phẩm chất và năng lực để làm việc có hiệu quả chưa nhiều, điều này cũng đặt ra việc đánh giá chất lượng giáo dục toàn diện nhân cách trong các trường sư phạm còn nhiều vấn đề cần phải điều chỉnh. Quan điểm đánh giá theo quá trình đào tạo được nhiều nhà giáo dục chấp nhận. Các chuyên gia giáo dục quốc tế cũng khuyến nghị các cơ sở đào tạo phải coi trọng việc giữ liên hệ thường xuyên với sinh viên đã tốt nghiệp và đây là một việc làm rất quan trọng để đổi mới nội dung, phương thức đào tạo. Môi trường thực hành nghề nghiệp như: kiến tập, thực tập sư phạm ở trường phổ thông, hoạt động giáo dục trong trường thực hành trong quá trình đào tạo giáo viên có tác dụng tích cực để sinh viên thể nghiệm những khả năng của mình. Tại những môi trường giáo dục này, mặc dù với các tiêu chuẩn, các điều kiện rất khác nhau, nhưng đã tạo nên một môi trường lí tưởng cho sinh viên được thể nghiệm cũng như nếm trải những yếu tố tích cực và hạn chế của 158
  12. môi trường. Cũng từ đây, lòng yêu nghề được hình thành và được củng cố vững chắc, các phẩm chất tâm lí như: khả năng kiên trì, ý chí quyết tâm và các phẩm chất khác của sinh viên sẽ được thể hiện đầy đủ nhất. Về phương diện dạy học, nếu nhằm mục tiêu trang bị kiên thức và hình thành kĩ năng cho người học thì ở các điều kiện môi trường khác có thể đạt được, nhưng để hình thành thái độ, tình cảm và niềm tin đúng đắn cho người học thì chỉ có thể ở trong một môi trường giáo dục nhất định. 2. Bước đầu xác lập các tiêu chí của môi trường văn hoá giáo dục Đây là một nhiệm vụ rất phức tạp bởi các chuẩn mực đạo đức xã hội luôn biến đổi do tính chất lịch sử - xã hội của nó.: Hiện nay, khoa học giáo dục còn đang tìm tòi các tiêu chí để đánh giá những kết quả định tính về mặt dạy học (mặc dầu sự đánh giá về khối lượng tri thức khoa học, mức độ hiểu khái niệm có thể lượng hoá được), nhưng về giá trị và các chuẩn mực giáo dục thì khó có thể lượng hoá bằng các tiêu chí định lượng. Đặc biệt là trong sự tương tác giữa con người với môi trường thì tiêu chí đánh giá quan hệ này lại càng khó xác định một cách đầy đủ và ổn định. Căn cứ vào mục tiêu đào tạo nhân cách chuyên gia sư phạm, theo các tiêu chuẩn của Điều lệ trường đại học và 10 tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục đại học, có thể tập trung quan tâm vào các vấn đề sau đây: Tính mục đích của các hoạt động trong trường sư phạm. Tiêu chí này nhằm xác định các hoạt động trọng tâm và loại bỏ các hoạt động làm ảnh hưởng xấu hoặc bất chấp các yếu tố điều kiện thực tế của môi trường văn hóa giáo dục. - Tính kế hoạch đảm bảo các hoạt động trong môi trường sư phạm phải được kiểm soát, được quản lí, do các cấp phê 159
  13. duyệt và có điều chỉnh. - Tính phù hợp với thực tiễn truyền thống văn hoá, lối sống, lứa tuổi nghề nghiệp của đối tượng, đảm bảo hiệu quả của các hoạt động, thích hợp với điều kiện hiện có của nhà trường và phù hợp với kinh nghiệm sẵn có của đối tượng. - Tính nhân văn sâu sắc đảm bảo các hoạt động (dù chính thức hay không chính thức) trong phạm vi môi trường nào cũng hướng đến nhiệm vụ giáo dục con người. - Tính pháp lí đảm bảo kỉ cương nề nếp trong các hoạt động và trong môi trường pháp lí, người học được phát triển năng lực mới. Căn cứ vào các vấn đề chung trên đây, cần xác lập các tiêu chí cụ thể ở mỗi phạm vi môi trường. Ở phương diện khoa học, các tiêu chí phải được xác lập dựa trên các kết quả nghiên cứu cụ thể. Ví dụ, muốn đánh giá đúng tiêu chí về nhu cầu không khí của con người (theo số liệu Báo Khoa học và Đời sống, số 41, l0/1996) thì định lượng như sau: “ Hàng ngày chúng ta ăn khoảng 1, 5 kg thực phẩm, uống khoảng 2 kg nước, thở vào khoảng 12.000 lít không khí không khí thiên nhiên tinh khiết nhất vốn đã là hỗn hợp 21% ôxi, 78% nhơ, 0,9 khí trơ, hơi nước và carbonic là 0,03%. Mọi sự thay đổi số lượng và thành phần của không khí đều do ô nhiễm môi trường” . Như vậy, nhiệm vụ xác định các tiêu chí cụ thể của yếu tố môi trường đòi hỏi phải xây dựng chuẩn chính xác, tuy nhiên cần phải nghiên cứu hoàn thiện, đặc biệt, trong việc xây dựng tiêu chí môi trường xã hội, môi trường hoạt động của con người thì việc xác đình các tiêu chuẩn cụ thể lại càng phức tạp và khó khăn. Tuy chưa có đủ các căn cứ khoa học nhưng bước đầu có thể phác thảo một số tiêu chí cơ bản sau đây cho các cấp độ môi 160
  14. trường giáo dục, trước mắt gồm tiêu chí giá trị và tiêu chí vật chất: Môi trường học tập Tiêu chí giá trị chủ yếu là sự tự giác của người học cao, tính tích cực của sinh viên được nâng lên, các bài tập tự học được hoàn thành, lớp học sôi động hưng phấn, tần số giao tiếp của giáo viên và sinh viên được tăng cường Tiêu chí cơ sở vật chất gồm: không gian trong lớp học đa dạng và phong phú, bàn ghế cơ động, các phương tiện như bảng, tranh ảnh, học liệu đảm bảo, Internet và các phương tiện máy tính, máy chiếu hoạt động tốt. Các tài liệu học tập được cung cấp theo yêu cầu của học tập ở đại học, đặc biệt là nhiệm vụ hoàn thiện đề cương bài giảng của giảng viên. Phát triển môi trường học tập, về cơ bản là tạo điều kiện cho sinh viên tự học. Trong đó quan hệ giữa hoạt động dạy học trên lớp và hoạt động tự học phải được xem xét một cách có hệ thống. Năng lực làm việc độc lập, sáng tạo, chủ động và khoa học là yêu cầu cao đối với sinh viên, là sản phẩm phải được tạo ra và định hình ở nhân cách sinh viên. Tiêu chuẩn năng lực tự học, tự nghiên cứu của sinh viên ngày càng được các nhà khoa họe, các nhà giáo dục, các nhà tuyển dụng chấp nhận. Môi trường giáo dục (dạy học) - Tiêu chí giá trị cơ bản là: khả năng hợp tác trong lớp học, các nhóm học tập được tăng cường, phạm vi giao tiếp của sinh viên với giảng viên tăng lên ở trên lớp và ngoài giờ lên lớp, sinh viên làm việc theo kế hoạch tại thư viện và giảng đường, các hoạt động của sinh viên được đánh giá, giảng viên đại học có đầy đủ kế hoạch giảng dạy (lí thuyết và thực hành), sinh viên được phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu, kĩ năng nghiên cứu khoa học được phát triển. 161
  15. - Tiêu chí cơ sở vật chất gồm: không gian tớp học được mở rộng tại giảng đường, thư viện, ngoài trời, các phương tiện dạy học đầy đủ các kĩ thuật đánh giá được sử dụng đúng. [xem thêm tài liệu tham khảo 1 1 ]. Phát triển môi trường dạy học đòi hỏi chủ thể sinh viên phải tự giác và tích cực cao độ. Các yếu tố nội dung, phương pháp, đánh giá được xem xét thường xuyên về tính mới mẻ, tính thực tiễn và khả năng ứng dụng của nó trong hoạt động thực tiễn của sản phẩm đào tạo Các mô hình dạy học mới được áp dụng thường xuyên và được khuyến khích như: Nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế, thảo luận nêu vấn đề, semina Các phương tiện được sử dụng tối đa, có hiệu quả để nâng cao năng suất và chất lượng dạy học. Môi trường văn hoá giáo dục - Tiêu chí giá trị cơ bản là: an toàn, trong lành về không khí, vệ sinh, các hoạt động có mục tiêu xác định, có nội dung và chương trình hành động, có các lực lượng phối hợp, có các cá nhân tiêu biểu, có dư luận lành mạnh và tích cực, có các hoạt động được khen thưởng, biểu dương, có tinh thần dân chủ cao; không có cácbiểu hiện tiêu cực của cá nhân vi phạm ở mức độ phổ biến; hàng năm có kiểm điểm đánh giá và tổng kết hoạt động. Quan hệ giữa người dạy và người học trong sáng, không vụ lợi; các yếu tố trong trường học là điển hình và có thể làm mẫu cho các môi trường khác xung quanh. - Tiêu chí cơ sở vật chất gồm: có hệ thống giảng đường, lớp học, thư viện, phòng thí nghiệm, kí túc xá đủ tiêu chuẩn; nhà sinh hoạt của sinh viên về văn hoá, văn nghệ; có không gian dành cho thể thao; có hệ thống quản lí trong trường và ngoài trường, có người tham gia làm nhiệm vụ quản lí chuyên biệt về công tác văn hoá, giáo dục; có đầy 162
  16. đủ các phương tiện dạy học và hệ thông phục vụ giảng dạy và nghiên cứu. Phát triển môi trường văn hoá giáo dục là thiết lập một hệ thống các chuẩn mực của nhà trường, xã hội, gia đình trong thực tiễn đã được thống nhất cao. Các giá trị của mỗi nhân cách và cộng đồng đều có tiêu chuẩn chung phù hợp, được chấp nhận một cách tự giác. Không có ranh giới rõ rệt giữa môi trường giáo dục và môi trường văn hoá bởi các yêu cầu của giáo dục cũng chính là các giá trị văn hoá cần bảo tồn và phát triển đối với mỗi cá nhân và cộng đồng. Vai trò dẫn đường và làm mẫu của nhà trường được coi là yếu tố trọng tâm và đang lan tỏa đối với phát triển môi trường xung quanh. Môi trường kinh tế xã hội Tiêu chí giá trị cơ bản là: Xã hội lành mạnh, có độ an toàn cao, an ninh đảm bảo; tăng trưởng kinh tế bền vững, chỉ tiêu phát triển người HDI (Human Deve/opment Index) cao, thu nhập bình quân đầu người tăng lên, xã hội dân chủ, khả năng hợp tác cao giữa các ngành trong và ngoài nước, xã hội có chiến lược trung hạn và dài hạn. - Tiêu chí cơ sở vật chất gồm: Hệ thống trường đạt học được xác định trong hệ thống phát triển chiến lược của quốc dân; kinh phí được cung cấp theo dự toán và đa dạng hóa các nguồn; các dịch vụ xã hội được đảm bảo; tỉ lệ thất học giảm, tỉ lệ người lao động đã qua đào tạo đã tăng lên; môi trường pháp luật được đảm bảo; hệ thông giao thông, viễn thông được đảm bảo thông suốt; các đảm bảo về nhà ở, y tê, giáo dục đối với cộng đồng dân cư được đảm bảo theo mức trung bình của khu vực. Phát triển môi trường kinh tế xã hội là một quá trình lâu 163
  17. dài. Mục tiêu phấn đấu của nước ta là” dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” đang đòi hỏi toàn xã hội dốc sức vào sự nghiệp chung. Quan hệ giữa môi trường kinh tế - xã hội với giáo dục được gắn chặt, biện chứng và có tác động ảnh hưởng tích cực lẫn nhau. Sự phát triển hệ thống giáo dục đại học là nhu cầu tất yếu của phát triển xã hội, phát triển kinh tế, phát triển giáo dục là hạt nhân của quá trình phát triển xã hội với tính chất xã hội hóa ngày càng cao. Môi trường quốc tế - Tiêu chí giá trị cơ bản là: có uy tín đối với khu vực và thê' giới, chương trình giáo dục và nhân lực đã được thế giới công nhận; có thể tiếp nhận sinh viên quốc tê' trong đào tạo; đội ngũ giảng viên dùng chung trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học cửa các nước trong khu vực. Tiêu chí cơ sở vật chất gồm: Các phòng tiện dạy học, nghiên cứu được trang bị hiện đại so với tiêu chuẩn thế giới, có sự liên thông toàn hệ thống giữa các khu vực, môi trường nghiên cứu tối ưu không gian mở, các tiêu chuẩn được thế gioiw cũng nhận. (Những nội dung gợi ý trên đây ]à đề xuất bao(. đầu, chưa hoàn chỉnh và cần có những nghiên cứu sâu thêm về các tiêu chuẩn môi trường giáo dục). Trong các phạm vi môi trường giáo dục như đã nêu ở trên, quan hệ chủ đạo để xây dựng và phát triển môi trường là quan hệ giữa người giáo dục với người được giáo dục. Nếu quan hệ này phát triển tết, các chủ thể đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao về năng lực phẩm chất và lối sống thì sẽ tạo nền móng chắc chắn cho việc xây dựng môi trường văn hoá giáo dục lành mạnh. 164
  18. Theo đó, các giá trị văn hoá, giáo dục cốt lõi cần hình thành và phát triển ở 2 đối tượng này là: + Với người học: sự trung thực, thái độ tích cực trong học tập, có năng lực sáng tạo, có kỉ luật học tập, có khả năng hợp tác, có ý thức giữ gìn và phát triển các giá trị văn hoá cộng đồng và giá trị nghề nghiệp Kết quả giáo dục phản ánh ở bộ mặt nhân cách được giáo dục. + Với người dạy: sự công bằng, khách quan trong dạy học, sáng tạo trong cách dạy, có kĩ năng giáo dục nghề nghiệp tết, có uy tín và ảnh hưởng tết đối với người học, có trách nhiệm trong việc tạo lập môi trường giáo dục, có đủ các tiêu chuẩn của một nhân cách có văn hoá. Vai trò ảnh hưởng và dẫn đường của nhà giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với chất lượng giáo dục. Để phát triển tết quan hệ trên đây cần có vai trò quan trọng của nhà lãnh đạo và sự vận hành của bộ máy quản lí. Theo quan điểm của khoa học quản lí thì nhà lãnh đạo cần có: Ý tưởng mới, quan điểm mới có tính chất dẫn đường, khả năng hoạch định và tầm nhìn chiến lược, còn nhà quản lí thì yếu tố cần thiết là năng lực điều hành, khả năng bao quát chung và biết kịp thời điều chỉnh. Người lãnh đạo và người quản lí có chức năng khác nhau với những yêu cầu về năng lực, tuy nhiên trong thực tế có khi vẫn nhầm lẫn hai khái niệm này là một. Hệ quả là việc chọn người quản lí trong hệ thống chưa coi trọng các tiêu chuẩn tương thích với chức năng, nhiệm vụ. Chẳng hạn, người hoạt động trong hệ thống giáo dục, khi tham gia quản lí môi trường giáo dục (môi trường sư phạm) ngoài những phẩm chất năng lực chung, cần am hiểu sâu sắc về khoa học giáo dục, khoa học quản lí giáo dục. Ở lĩnh vực quản lí giáo dục các cấp cần có hệ thống nhân sự được đào tạo cơ bản và đạt 165
  19. tiêu chuẩn về chuyên môn và khoa học quản lí giáo dục. Ở lĩnh vực khoa học chuyên ngành, đòi hỏi phải có nhà khoa học đầu đàn. Phải có các chuyên gia am hiểu sâu về xây dựng và phát triển chương trình đào tạo, phương pháp đào tạo, kĩ thuật đánh giá cũng như năng lực xây dựng kế hoạch chiến lược về tổ chức, tài chính, nhân sự. Khoa học về phát triển chương trình (Cuniculum Development) phải trở thành nội dung cốt lõi của khoa học giáo dục. Những nội dung này đã được thiết kế, xây dựng trong chương trình đào tạo cử nhân, thạc sĩ quản lí giáo dục. Nhìn chung, phải nhìn nhận yếu tố môi trường giáo dục và hệ thống các nhân tố liên đới theo quan điểm của sư phạm học, của tư duy mới về khoa học quản lí giáo dục. Đối với người học, hình thành kĩ năng tự tổ chức môi trường học tập của cá nhân gồm: chuẩn bị và tổ chức các phương tiện thiết yếu; chuẩn bị chỗ làm việc và các điều kiện cho học tập; bảo quản lưu giữ tài liệu; đề xuất làm việc theo nhóm học tập; chuẩn bị kế hoạch trong các đợt thực tế dã ngoại. Kĩ năng hoạch định kế hoạch và các hoạt động gồm: quản lí thời gian và nghỉ ngơi trong học tập, lập kế hoạch ôn tập, luyện tập cá nhân, kế hoạch tự học, kế hoạch thi và thực hiện kế hoạch. Kĩ năng xác định mục tiêu và phương pháp học tập cá nhân phù hợp với mục tiêu đã định, kĩ năng lập kế hoạch rèn luyện và phát triển phong cách học tập thích hợp với nhiệm vụ học tập. Kĩ năng kiểm tra đánh giá quá trình và kết quả học tập gồm: Xem xét phân tích đánh giá ưu và nhược điểm, đánh giá hành vi học tập của mình và của người khác, kiểm tra học lực của mình thông qua hình thức trắc nghiệm khác nhau [12] Đối với các giáo sinh sư phạm, điều quan trọng hơn là họ còn phải là người tổ chức, người thi công và đánh giá các quá trình 166
  20. xây dựng môi trường giáo dục ở nơi họ công tác sau này. Với tư cách là các giáo viên tương lai, trước hết họ cần phải có năng lực xây dựng và thực hiện các tiêu chí dạy học và các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Với trách nhiệm là người quản lí giáo dục (ở các cấp độ từ quản lí bài dạy cho đến quản lí một hệ thống giáo dục), họ sẽ đáp ứng được các yêu cầu. Đối với các nhà nghiên cứu về khoa học giáo dục trong giai đoạn hiện nay, một vấn đề đặt ra là trong môi trường dạy học điện tử (chẳng hạn như học tập qua mạng Internet) thì nhiệm vụ xây dựng môi trường sư phạm với các tiêu chuẩn mới cần phải được nghiên cứu hoàn thiện về cơ sở lí luận. 3. Tổ chức các hoạt động đa dạng và phong phú trong môi trường giáo dục Mục tiêu chung của các cơ sở đào tạo giáo viên là phấn đấu đạt các chuẩn về giá trị văn hóa, khoa học và về cơ sở vật 'chất ở các mức độ khác nhau theo từng giai đoạn phát triển. Trong mục tiêu tổ chức các hoạt động, cần coi trọng mục tiêu giá trị, đặc biệt là hình thành lối sống tích cực cho sinh viên sư phạm. Tổ chức các hoạt động bên trong và bên ngoài nhà trường sư phạm cần coi trọng nội dung văn hoá, nội dung giáo dục đậm đà bản sắc văn hóa các dân tộc, thậm chí là của từng dân tộc. Có thể là các loại hình nghệ thuật, văn hoá rất đa dạng nhưng phải chứa đựng yếu tố giáo dục; có thể nội dung hoạt động giáo dục là cơ bản, nhưng cần đan xen yếu tố văn hoá. Đặc biệt là đối với sinh viên sư phạm, cần coi trọng cả hai nội dung trong việc tổ chức các hoạt động. Tổ chức các hoạt động phong trào chung như: câu lạc 167
  21. bộ; hoạt động văn hóa văn nghệ, thể thao trong khuôn khổ điều kiện cho phép của nhà trường. Hiện nay, trong các trường đại học nói chung có hiện tượng là khi tổ chức các hoạt động chung, đặc biệt là hoạt động văn hoá văn nghệ, quá chú ý đến tính chất biểu diễn chuyên nghiệp và do đó chỉ ít người có thể tham gia, nhưng lại thiếu quan tâm đến hoạt động của số đông sinh viên. Điều đó có thể tạo cho sinh viên tâm lí hưởng thụ là chính, ít chú ý đến việc tự tổ chức hoạt động để đạt được cả mục tiêu rèn luyện kĩ năng hoạt động, kĩ năng tổ chức và mục tiêu hưởng thụ văn hoá. Thông qua các hoạt động đoàn thể nhằm xác định rõ vai trò gương mẫu của giảng viên, trọng tâm là xây dựng mối quan hệ sư phạm tích cực giữa cán bộ, giảng viên với sinh viên. Xây dựng đội ngũ giảng viên có lối sống trong sạch, giản dị, lành mạnh, đạo đức cao thượng; đồng thời xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá một cách cụ thể. Khẩu hiệu “ mỗi thầy cô giáo là tấm gương sáng cho học sinh noi theo” vẫn là mục tiêu phấn đấu lâu dài trong các trường sư phạm. Hoạt động trên lớp bao gồm các nội dung cơ bản như: dạy học, giáo dục theo chương trình kế hoạch năm học. Các cơ sở đào tạo giáo viên cần xây dựng hệ thống danh mục các hoạt động nhằm phát triển năng lực khoa học cho sinh viên như: hội thảo chuyên đề, tổ chức nghiên cứu khoa học sinh viên, nghiên cứu thực tế, thi Olimpic các môn. Đồng thời khuyến khích sinh viên tự tổ chức các buổi semina chuyên môn, học nhóm, học theo phương pháp dự án, học theo tình huống, học qua mạng là điều kiện tiên quyết để xây dựng môi trường giáo dục, môi trường khoa học. Hoạt động ngoại khoá cần được đẩy mạnh với các hình thức đa dạng và phong phú do hội sinh viên, đoàn thanh niên tổ chức. Có thể là các hoạt động rèn luyện nghiệp vụ 168
  22. như thi, tổ chức thảo luận theo các chủ đề về giới, dân số, môi trường, chủ đề nhân các ngày kỉ niệm, về các chủ đề chính trị - xã hội của địa phương và đất nước Coi trọng khâu xây dựng kế hoạch, trong khi duyệt kế hoạch cần quan tâm đến vấn đề môi trường hoạt động (phạm vi không gian và thời gian, các yếu tố điều kiện cần đảm bảo ). Có thể ví như khi phê duyệt một dự án phát triển, người ta ưu tiên quan tâm đến nhiệm vụ bảo vệ môi trường, xử lí ô nhiễm môi trường trước tiên. Bản kế hoạch có thể viết theo mẫu dưới đây: Tên/chủ Mục tiêu . Nội dung Kết quả đề hoạt đạt được hoạt động và sản phẩm động (Mục tiêu (Các dự kiến Để phát triển môi trường giáo dục trong các cơ sở đào tạo giáo viên cần phải quan tâm đến các vấn đề sau: - Tiêu chuẩn về số lượng sinh viên tham gia trong bầu không khí tích cực có thể dự kiến, mức độ ảnh hưởng tích cực của các cá nhân đến những người xung quanh (tác động giáo dục). - Dự kiến các hạn chế có thể xảy ra và các phương án khắc phục. - Mức độ an toàn cho con người, tiết kiệm cơ sở vật chất và sử dụng hợp lí nguồn nhân lực và vật lực trong các hoạt động. Trong điều kiện còn khó khăn về tài chính và nhân lực tại các trường sư phạm, điều cốt yếu là xác định rõ thứ tự ưu tiên các hoạt động. Trước hết cán phải xác định cụ thể 169
  23. định mức về tài chính, ưu tiên về thời gian và các điều kiện khác cho các hoạt động trọng tâm. Trong hàng loạt các hoạt động phong phú và đa dạng ở môi trường sư phạm, cần quan tâm đến các hoạt động chuyên môn là chủ yếu. 4. Đánh giá khách quan trong quá trình giáo dục sinh viên Như đã trình bày ở phần đầu cuốn sách này và qua kết quả khảo sát thực trạng tại các trường sư phạm, một trong những vấn đề được sinh viên quan tâm là sự công bằng trong thi và kiểm tra. Mô hình giáo dục đại học của nước ta, trong đó có hệ thống các trường sư phạm vẫn đánh giá theo quan điểm cũ, ít kích thích sinh viên sáng tạo và tự học. Khi khảo sát trên sinh viên tốt nghiệp trước khi ra trường, vấn đề được đặt ra là: Điều gì làm cho anh (chị) hài lòng nhất trong 4 năm học? Điều gì khiên anh (chị) chưa hài lòng trong 4 năm học? Kết quả cho thấy, ý kiến tập trung vào vấn đề quan hệ giữa sinh viên và giáo viên, trong đó khâu đánh giá được quan tâm nhiều nhất. Về quy trình thi và kiểm tra, các cơ sở đào tạo giáo viên đã thực hiện đầy đủ quy chế đào tạo đã ban hành. Việc xử lí nghiêm các vấn đề về chuyên môn (kể cả đối với giảng viên và sinh viên) trong hoạt động giảng dạy và đánh giá là tác nhân tích cực làm hạn chế tiêu cực trong nhà trường. Trục quan hệ chính trong trường sư phạm là quan hệ giữa giảng viên với sinh viên trong quá trình đào tạo, do đó nếu ở khâu thi, kiểm tra được kiểm soát chặt chẽ và khách quan sẽ làm trong sạch môi trường học tập, góp phần phát triển môi trường giáo dục và môi trường văn hoá theo mục tiêu đã xác định. Hệ thống quản lí đào tạo cấp khoa, cấp phòng với chức năng là lập kế hoạch thanh tra và kiểm soát các hoạt động 170
  24. thi. Các tổ chức: Hội sinh viên, Đoàn thanh niên và Phòng công tác sinh viên phát động phong trào, tuyên truyền giáo dục sinh viên chấp hành nghiêm túc quy chế thi. Giảng viên cần được tập huấn thường xuyên về kĩ năng tổ chức thi, các kĩ năng đánh giá kết quả thi, cũng như kĩ thuật đánh giá khoá luận, đánh giá các đề tài khoa học của sinh viên. Tạo nên một môi trường học tập dân chủ, khoa học, công bằng, chính là yếu tố khích lệ sinh viên học tập hăng hái hơn. Ngược lại, kết quả đánh giá thiếu khách quan, không đảm bảo công bằng của hệ thống quản lí sẽ làm kìm hãm sự tiến bộ của sinh viên, làm gia tăng các biểu hiện tiêu cực. Kết quả đánh giá sinh viên trong quá trình học tập cần được nhìn nhận ở phương diện thực tiễn, từ những cơ sở sử dụng nhân lực, sự đánh giá của nhà trường và đánh giá của xã hội phải có sự tương quan. Tục ngữ Pháp có câu: Nhà trường xếp loại học sinh (theo điểm), đời xếp loại con người (theo hiệu quả giải quyết vấn đề) (Dẫn theo Trần Văn Hà - Kỉ yếu Hội thảo Đổi mới phương pháp dạy - học ở đại học và cao đẳng, NXB Giáo dục, H., 2003; tr.63). Nhiều nước trên thế giới coi trọng việc xây dựng các chuẩn đánh giá có tính độc lập cao, chẳng hạn như việc xây dựng bộ tiêu chí đánh giá theo chuẩn chung để bất cứ lúc nào cũng xác định đúng trình độ học tập của người học. 5. Hình thành cho sinh viên năng lực tiếp cận nhanh chóng với môi trường kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước Năng lực tiếp cận môi trường là một khái niệm mới ít được đề cập trong các tài liệu giáo dục. Có thể trong hoạt động sống, khả năng thích ứng khả năng tiếp biên những ảnh hưởng từ. môi trường của con người có tính tự nhiên trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Tuy nhiên, cần 171
  25. xác định năng lực này là một tiêu chí quan trọng của nhân cách cần để giáo dục, hình thành cho thế hệ trẻ. Phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta nói chung và ở khu vực miền núi nói riêng đang có sự biến đổi sâu sắc. Mức tăng trưởng nhanh về kinh tế trong những năm gần đây càng đòi hỏi giáo dục phải gấp rút chuẩn bị tốt về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực. Trong sự phát triển kinh tế - xã hội không đồng đều, đặc biệt ở miền núi đã xuất hiện sự chênh lệch giàu nghèo quá lớn dẫn đến nguy cơ bất bình đãng xã hội, các yếu tố tiêu cực xuất hiện và tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng. Về văn hoá, sinh viên phải góp sức mình vào nhiệm vụ quan trọng là giữ gìn, phát triển bản sắc văn hoá các dân tộc trong bối cảnh hội nhập và giao lưu quốc tế. Đặc biệt là cần quan tâm đến các vấn đề xã hội phức tạp và nhạy cảm như tôn giáo, dân tộc trong cộng đồng các dân tộc thiểu số. Về giáo dục, sinh viên sư phạm khi ra trường họ phải tiếp cận ngay với nhiệm vụ đổi mới chương trình, sách giáo khoa, đổi mới phương pháp giảng dạy ở phổ thông. Trong đó, nhiệm vụ nâng cao chất chất lượng giáo dục là trọng tâm và đây cũng là vấn đề mà hệ thống giáo dục đang chịu áp lực lớn từ xã hội. Để giúp sinh viên hoà nhập tốt với môi trường khó khăn ở khu vực miền núi, cần định hướng tiếp cận các vấn đề trên đây ở ngay trong quá trình đào tạo. Thường xuyên tổ chức các hoạt động xã hội đa dạng phong phú, chuyển tải thông tin khách quan và đa chiều, đồng thời rèn luyện cho sinh viên có năng lực phân tích tiếp cận các vấn đề trên một cách khoa học Chiến lược của vấn đề đào tạo cán bộ là người dân tộc thiểu số phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội 172