Bài giảng Lịch sử thế giới cận đại (Phần 1)

pdf 25 trang ngocly 3400
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Lịch sử thế giới cận đại (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_lich_su_the_gioi_can_dai_phan_1.pdf

Nội dung text: Bài giảng Lịch sử thế giới cận đại (Phần 1)

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT F 7 G ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG LỊCH SỬ THẾ GIỚI CẬN ĐẠI Th.s. Bùi Văn Hùng 2002
  2. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 2 MỤC LỤC MỤC LỤC 2 PHẦN II 6 CHỦ NGHĨA TƯ BẢN CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX 6 CHƯƠNG I 6 CÔNG XÃ PARIS 6 1. NƯỚC PHÁP VÀ CUỘC CHIẾN TRANH PHÁP – PHỔ 6 1.1. TÌNH HÌNH NƯỚC PHÁP TRƯỚC CUỘC CHIẾN TRANH PHÁP – PHỔ 6 1.1.1.TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ VÀ NHỮNG MÂU THUẪN XÃ HỘI 6 1.1.2. TÌNH HÌNH KINH TẾ. 7 1.2. CUỘC CHIẾN TRANH PHÁP – PHỔ 7 1.2.1. MỤC ĐÍCH CỦA PHÁP, PHỔ 7 1.2.2. DIỄN BIẾN CỦA CUỘC CHIẾN TRANH VÀ SỰ SỤP ĐỔ CỦA NỀN ĐẾ CHẾ II. 8 2. CUỘC ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN PARI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA CÔNG XÃ PARI 8 2.1. TÌNH HÌNH PARI SAU KHI QUÂN PHÁP ĐẦU HÀNG QUÂN PHỔ 8 2.2. CUỘC CÁCH MẠNG BÙNG NỔ VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA CÔNG XÃ PARI 9 2.3. NHỮNG CHÍNH SÁCH CỦA HỘI ĐỒNG CÔNG XÃ 10 2.3.1. Về Bộ MÁY NHÀ NƯớC 10 2.3.2. Về KINH Tế – XÃ HộI : 10 2.3.3. Về VĂN HOÁ GIÁO DụC 10 2.4. SỰ THẤT BẠI CỦA CÔNG XÃ PARI 11 3. NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI, BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA CÔNG XÃ PARI 11 3.1. NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI 11 3.2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM 11 3.3. Ý NGHĨA LỊCH SỬ 12 CHỦ NGHĨA TƯ BẢN CHUYỂN SANG GIAI ĐOẠN ĐẾ QUỐC CHỦ NGHĨA GIAI ĐOẠN 1870 –1914 12 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 12 1.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN 1870 –1914 12 1.1.1. SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 12 1.1.2. SỰ HÌNH THÀNH CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC 13 1.2. NĂM ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC 13 1.2.1. Sự tập trung sản xuất và tư bản đạt tới mức độ phát triển rất cao, tạo thành những tổ chức lũng đoạn có một vai trò quyết định trong sinh hoạt kinh tế. 13 1.2.2. Sự dung hợp tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp thành tư bản tài chính. 13 1.2.3. Việc xuất khẩu tư bản trở thành đặc biệt quan trọng. 13 1.2.4. Sự hình thành những khối liên minh tư bản độc quyền chia nhau thế giới. 13 1.2.5. Việc các cường quốc tư bản đã chia nhau xong đất đai trên thế giới. 13 2. NƯỚC ANH 1870 - 1914 13 2.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ 13 2.1.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1870 –1900 13 2.1.2. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1900-1914. 14 1.2. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ 14 1.2.1. CHÍNH SÁCH ĐỐI NỘI VÀ PHONG TRÀO CÔNG NHÂN 14 1.2.2. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI 15 Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  3. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 3 3. NƯỚC PHÁP 1870 –1914 15 3.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ 15 3.1.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1870-1900 15 3.1.2. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1900-1914 16 3.2. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ 16 3.2.1. CHÍNH SÁCH ĐỐI NỘI VÀ PHONG TRÀO CÔNG NHÂN 16 3.2.2. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI 17 4. NƯỚC ĐỨC 1871-1914 17 4.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ 17 4.1.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1871-1914 17 4.1.2. SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 1900-1914 18 4.2. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ 19 4.2.1. CHÍNH SÁCH ĐỐI NỘI VÀ PHONG TRÀO CÔNG NHÂN 19 4.2.2. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI 20 5. CÁC NƯỚC KHÁC Ở CHÂU ÂU 1870-1914 21 6. NƯỚC MỸ 1870-1914 21 6.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ 21 6.1.2. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1870-1900 21 6.1.2. TÌNH HÌNH KINH TẾ MỸ 1900-1914 22 6.2. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ 23 6.2.1. CHÍNH SÁCH ĐỐI NỘI VÀ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN 23 6.2.2. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI 24 CHƯƠNG III 26 HOẠT ĐỘNG CỦA QUỐC TẾ I, II VÀ PHONG TRÀO CÔNG NHÂN THẾ GIỚI CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX 26 1. PHONG TRÀO CÔNG NHÂN THẾ GIỚI SAU CÔNG XÃ PARI 26 1.1 SỰ TAN RÃ CỦA QUỐC TẾ I 26 1.2. PHONG TRÀO CÔNG NHÂN THẾ GIỚI VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA QUỐC TẾ II 26 2. HOẠT ĐỘNG CỦA QUỐC TẾ II 27 CHƯƠNG IV 29 CUỘC CÁCH MẠNG DÂN CHỦ TƯ SẢN NGA 1905 - 1907 29 1. TÌNH HÌNH NƯỚC NGA TRƯỚC CÁCH MẠNG 29 1.2. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI 29 1.2. TÌNH HÌNH KINH TẾ 30 2. QUÁ TRÌNH CỦA CUỘC CÁCH MẠNG 30 2.1. CUỘC CÁCH MẠNG BÙNG NỔ 30 2.2. CUỘC CÁCH MẠNG TRONG GIAI ĐOẠN CAO TRÀO 31 2.3. CUỘC CÁCH MẠNG TRONG GIAI ĐOẠN THOÁI TRÀO 32 3. NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI, Ý NGHĨA LỊCH SỬ 32 3.1. NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI 32 3.2. Ý NGHĨA LỊCH SỬ 33 CHƯƠNG V 34 CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT 34 1. NGUYÊN NHÂN VÀ TÍNH CHẤT 34 1.1. NGUYÊN NHÂN 34 1.2. TÍNH CHẤT. 34 2. QUÁ TRÌNH DIỄN BIẾN 34 2.1. GIAI ĐOẠN I 34 Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  4. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 4 2.2. GIAI ĐOẠN II 34 2.3. GIAI ĐOẠN CUỐI 34 PHẦN II 35 LỊCH SỬ CẬN ĐẠI PHƯƠNG ĐÔNG 35 CHƯƠNG I 35 NHẬT BẢN 35 1. TIỀN ĐỀ CỦA CUỘC MINH TRỊ DUY TÂN 35 1.1. KINH TẾ 35 1.2. CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI 36 1.3. TƯ TƯỞNG 37 2. CUỘC MINH TRỊ DUY TÂN 37 2.1. SỰ XÂM NHẬP CỦA TƯ BẢN PHƯƠNG TÂY VÀ HẬU QUẢ CỦA NÓ 37 2.2. NHỮNG PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN 37 2.3. CẢI CÁCH MINH TRỊ 37 3. ĐẾ QUỐC NHẬT 38 3.1. KINH TẾ 38 3.2. CHÍNH TRỊ 39 CHƯƠNG II 40 TRUNG QUỐC 40 1. CUỘC CHIẾN TRANH THUỐC PHIỆN LẦN THỨC NHẤT. 40 1.1. TÌNH HÌNH TRUNG QUỐC CUỐI TRIỀU MÃN THANH 40 1.2. THUỐC PHIỆN, CÔNG CỤ MỞ CỬA TRUNG QUỐC 40 1.3. QUÁ TRÌNH CUỘC CHIẾN TRANH VÀ ĐIỀU ƯỚC NAM KINH 41 1.4. HỆ QUẢ 41 2. PHONG TRÀO NÔNG DÂN THÁI BÌNH THIÊN QUỐC 42 2.1. NGUYÊN NHÂN 42 2.2. DIỄN BIẾN 42 2.3. TÍNH CHẤT, NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ 43 3. PHONG TRÀO DÂN TỘC TƯ SẢN TRUNG QUỐC 43 3.1. CÁC NƯỚC ĐẾ QUỐC SÂU XÉ TRUNG QUỐC 43 3.1.1. SỰ ĐẦU TƯ CỦA TƯ BẢN PHƯƠNG TÂY 43 3.1.2. SỰ RA ĐỜI CỦA TƯ SẢN VÀ VÔ SẢN DÂN TỘC TRUNG QUỐC 44 3.2. SỰ THỨC TỈNH DÂN TỘC TƯ SẢN CẢI LƯƠNG 44 3.2.1. NGUYÊN NHÂN 44 3.2.2. DIỄN BIẾN 44 3.3. PHONG TRÀO CÁCH MẠNG TƯ SẢN 45 3.3.1. TÔN TRUNG SƠN VÀ TỔ CHỨC CÁCH MẠNG 45 3.3.2. DIỄN BIẾN VÀ KẾT CỤC CỦA CUỘC CÁCH MẠNG TÂN HỢI 45 3.3.3. TÍNH CHẤT, NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ 45 CHƯƠNG III 46 ẤN ĐỘ 46 1. CHỦ NGHĨA THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY XÂM NHẬP ẤN ĐỘ 46 1.1. ẤN ĐỘ GIAI ĐOẠN ĐẦU BỊ CHỦ NGHĨA THỰC DÂN XÂM NHẬP 46 1.2. SỰ XÂM LƯỢC CỦA THỰC DÂN ANH 46 2. CUỘC KHỞI NGHĨA DÂN TỘC ẤN ĐỘ (1857 - 1859) 47 2.1. TIỀN ĐỀ CỦA CUỘC KHỞI NGHĨA 47 2.2. QUÁ TRÌNH CỦA CUỘC KHỞI NGHĨA 48 2.3. TÍNH CHẤT, NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ 48 Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  5. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 5 3. PHONG TRÀO DÂN TỘC ẤN ĐỘ TƯ SẢN 49 3.1. NỀN THỐNG TRỊ CỦA ANH 49 3.2. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC CỦA NHÂN DÂN ẤN ĐỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX 49 CHƯƠNG V 50 MỸ LA TINH 50 1. MỸ LA TINH ĐẦU THỜI KỲ CẬN ĐẠI 50 1.1. VỀ ĐỊA LÝ VÀ DÂN CƯ 50 1.2. THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY PHÂN CHIA CAI TRỊ MỸ LA TINH 51 2. PHONG TRÀO ĐẦU TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC MỸ LA TINH THẾ KỶ XIX 51 3. MỸ LA TINH THẾ KỶ XIX, ĐẦU THẾ KỶ XX 52 CHƯƠNG VI 53 CHÂU PHI 53 1. CHỦ NGHĨA THỰC DÂN CHÂU ÂU XÂM LƯỢC CHÂU PHI 53 1.1. ĐỊA LÝ VÀ DÂN CƯ 53 1.2. THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY BƯỚC ĐẦU XÂM NHẬP CHÂU PHI 53 1.3. TƯ BẢN PHƯƠNG TÂY MỞ RỘNG PHẠM VI THỐNG TRỊ CHÂU PHI 53 2. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN CHÂU PHI 53 Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  6. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 6 PHẦN II CHỦ NGHĨA TƯ BẢN CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX CHƯƠNG I CÔNG XÃ PARIS 1. NƯỚC PHÁP VÀ CUỘC CHIẾN TRANH PHÁP – PHỔ 1.1. TÌNH HÌNH NƯỚC PHÁP TRƯỚC CUỘC CHIẾN TRANH PHÁP – PHỔ 1.1.1.TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ VÀ NHỮNG MÂU THUẪN XÃ HỘI - Về chính trị : Ngày 2/12/1852, một năm sau ngày đảo chính lật đổ nền Cộng hoà Hiến chế, Luy Bônapactơ (Louis Bonaparte) lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Napôlêông III (Napole,on ), lập ra nền Đế chế II Nền Đế chế II là nền chuyên chế phản động công khai của giai cấp tư sản Pháp. Napôlêông thiết lập một bộ máy quân sự và cảnh sát để đàn áp mọi phong trào đòi quyền tự do dân chủ của nhân dân. Giáo hội Thiên Chúa giáo có ảnh hưởng to lớn trong các lĩnh vực sinh hoạt của Nhà nước Napôlêông một mặt đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao ở châu Âu ( tham gia cuộc chiến tranh Crưm 1853 – 1856, liên kết với Nga chống Anh, can thiệp vũ trang ngăn cản cuộc đấu tranh thống nhất Italia, ngăn cản cuộc đấu tranh thốnh nhất nước Đức ), mặt khác không ngừng mở rộng những cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa để bành trướng thế lực ra bên ngoài. - Những mâu thuẫn xã hội : Giai cấp tư sản phân hoá thành hai bộ phận. Tầng lớp đại tư sản và các phần tử Bảo hoàng nắm giữ những cương vị quan trọng trong chính phủ có đặc quyền về kinh tế là chỗ dựa cơ bản của nền Đế chế. Tầng lớp trung và tiểu tư sản có tư tưởng cộng hoà bị gạt ra khỏi vũ đài chính trị, bị chèn ép về kinh tế và thường xuyên bị đe doạ phá sản mâu thuẫn gay gắt với tầng lớp đại tư sản và nền Đế chế. Giai cấp vô sản phát triển nhanh về số lượng và sống khá tập trung. Năm 1870, số lượng công nhân công nghiệp tại Paris lên tới 55 vạn người. Trình độ chính trị không ngừng nâng cao do tác động của các trào lưu tư tưởng Mácxít và dân chủ tiểu tư sản Pruđông (Proudhon), Blăngki (Blanqui), Giacôbanh Mới (Giacobins). Bất chấp các cuộc đàn áp, bắt bớ của quân đội và cảnh sát tư sản, phong trào công nhân vẫn diễn ra sôi nổi. Năm 1862, công nhân Paris đã bầu được đoàn đại biểu đi dự hội nghị triển lãm ở Luân Đôn (London) và tham dự hội nghị thành lập Quốc tế I (ngày 28/9/1864) ở đây. Nhiều cuộc bãi công và biểu tình đã diễn ra dưới sự lãnh đạo của chi nhánh quốc tế I tại Paris và các thành phố khác. Điển hình là cuộc bãi công, biểu tình của hơn 20 vạn công nhân Paris vào tháng 1/1870. Giai cấp nông dân bị nạn thiếu đất, nạn cho vay nặng lãi, ách bóc lột của địa chủ, phú nông và đóng góp nghĩa vụ thuế khoá nặng nề phục vụ cho tham vọng xâm lược thuộc địa của chính phủ phản động Pháp đã tỏ ra thất vọng và cũng không ngừng nổi dậy đấu tranh. Hàng chục vạn người bị phá sản đã phải chạy ra thành thị kiếm sống bằng đủ mọi nghề. Năm 1851, nông dân chiếm 74% dân số thì đến 1866 chỉ còn 69,5%. Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  7. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 7 1.1.2. TÌNH HÌNH KINH TẾ. Công nghiệp: Cuộc cách mạng công nghiệp ở Pháp hoàn thành, nền công nghiệp Pháp vươn lên mạnh mẽ trở thành nước đứng thứ hai (sau Anh) trên thế giới. Các ngành kinh tế công nghiệp như : khai mỏ, luyện kim, chế tạo máy, giao thông, dệt vải, dân dụng đều khá phát triển. Từ năm 1852 đến 1869, số lượng máy hơi nước tăng lên tới 4 lần (từ 6.080 lên 26.221 máy); tổng chiều dài đường sắt tăng lên gần 5 lần; tàu chạy bằng máy hơi nước tăng lên 3,5 lần. Nông nghiệp: Cuộc Đại cách mạng tư sản Pháp 1789 – 1794 đã mang lại một bộ mặt mới cho nông thôn nước Pháp. Nông dân được chia ruộng đất, quan hệ tư bản chủ nghĩa được thừa nhận và ngày càng phát triển, sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy nông nghiệp Pháp phát triển. Đại bộ phận ruộng đất nằm trong tay tư bản, tuy nhiên, về cơ bản nông nghiệp Pháp vẫn mang tính chất của một nền tiểu nông tư hữu theo hướng thị trường. Thương nghiệp: Trên cơ sở kinh tế công nông nghiệp phát triển và một thị trường nội địa thống nhất, ngành kinh tế thương nghiệp tư bản chủ nghĩa Pháp cũng phát triển. Trong lĩnh vực ngoại thương, năm 1851, tổng kim ngạch đạt 2.615 triệu fran thì đến năm 1869 đã lên tới 8.003 triệu fran gấp hơn 3 lần, đối tượng trao đổi không chỉ với những nước tư bản chủ nghĩa mà còn với hệ thống thuộc địa rộng lớn. Ngân hàng: Từ năm 1851 đến năm 1869, hoạt động của ngân hàng Pháp tăng lên hơn 5 lần (từ 1.592 triệu fran lên tới 8.325 triệu fran). Các cơ sở giao dịch hoạt động mạnh mẽ mà phần lớn là cho vay nặng lãi (năm 1868, 14 chính phủ các nước phải vay nợ của ngân hàng Pháp 33 tỷ fran). Sự cạnh tranh tư bản diễn ra gay gắt, nhiều nhà máy, xí nghiệp phải đóng cửa vì phá sản. Đời sống xã hội thay đổi, phân hoá giàu nghèo gia tăng : năm 1858, có khoảng 3 triệu ăn mày, 6 triệu không đủ mức sống tối thiểu trong khi giai cấp tư sản giàu lên một cách nhanh chóng. Tóm lại: Nền Đế chế II là một nền chính trị phản động của giai cấp tư sản và các lực lượng Bảo hoàng Pháp. Nó trở thành công cụ cho giai cấp tư sản và các lực lượng phản động Pháp thống trị, áp bức nhân dân Pháp. Sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa Pháp chỉ làm giàu cho giai cấp thống trị còn nhân dân lao động Pháp bị bóc lột đến tận cùng. Bầu không khí ngột ngạt của nền chính trị Pháp báo hiệu một cơn bão táp cách mạng đang đến gần. 1.2. CUỘC CHIẾN TRANH PHÁP – PHỔ 1.2.1. MỤC ĐÍCH CỦA PHÁP, PHỔ Về phía Pháp: Napôlêông III muốn thông qua cuộc chiến tranh này để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của nền Đế chế II; xoa dịu những mâu thuẫn trong nước đang phát triển tới mức gay gắt, huớng sự chú ý của các tầng lớp xã hội vào cuộc chiến tranh; tăng thêm uy tín và địa vị của nền Đế chế II cũng như giai cấp tư sản Pháp trên trường quốc tế; cản trở quá trình thống nhất nước Đức vì lo ngại về một nước Đức hùng mạnh ngay bên cạnh; cướp đoạt một phần đất đai và của cải của Đức Về phía Phổ: Quá trình đấu tranh thống nhất Đức đang ở vào giai đoạn cuối. Bằng những cuộc chiến tranh với Đan Mạch (1864), Áo – Hung (1866) thắng lợi, năm 1867, Liên bang Bắc Đức được thành lập dưới quyền lãnh đạo của Phổ, gồm 18 nước và 3 thành phố tự do ở Bắc Đức. Con đường thống nhất nước Đức “bằng sắt và máu” do Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  8. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 8 Bixmắc (Otto Von Bismarck 1815 – 1819). Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phổ đề xướng đạt thắng lợi khi tiến hành cuộc chiến tranh với Pháp. Phổ muốn tiến hành cuộc chiến tranh này, một mặt để sát nhập phần còn lại ở vùng Tây Nam Đức (giáp giới Pháp) vào Liên bang Bắc Đức; mặt khác để tìm kiếm lợi nhuận phục vụ cho quá trình tư bản hoá đất nước đồng thời làm yếu đi thế lực tư bản Pháp 1.2.2. DIỄN BIẾN CỦA CUỘC CHIẾN TRANH VÀ SỰ SỤP ĐỔ CỦA NỀN ĐẾ CHẾ II. Ngày 19/7/1870, Napôlêông III tuyên chiến với Phổ. Ngay từ đầu, quân Pháp đã bị thua hết trận này đến trận khác. Cả hai cánh quân đều bị vây hãm : một ở pháo đài Mếtdơ (Metz) và một ở pháo đài Xơđăng (Sedan). Ngày 2/9/1870, Napôlêông III cùng với 80 ngàn quân Pháp đầu hàng ở pháo đài Xơđăng. Tin tức lan truyền về tới Pari, ngày 4/9/1870, quần chúng Pari xuống đường biểu tình đòi lật đổ nền Đế chế II. Chính phủ tư sản lâm thời được thành lập do tướng Tơrôsuy (Trochu) - một phần tử Bảo hoàng, nguyên Thị trưởng Pari – làm thủ tướng. Chính phủ này đã không thực hiện được nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, trái lại còn âm mưu thỏa hiệp với quân Phổ để đàn áp quần chúng cách mạng. Ngày 27/10/1870, Tướng Baden (Bazel) đầu hàng quân Phổ ở Mếtdơ, cuộc chiến tranh Pháp – Phổ do giai cấp tư sản lãnh đạo về cơ bản đã kết thúc. Nước Pháp bại trận. 2. CUỘC ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN PARI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA CÔNG XÃ PARI 2.1. TÌNH HÌNH PARI SAU KHI QUÂN PHÁP ĐẦU HÀNG QUÂN PHỔ Ngay từ khi cuộc chiến tranh bùng nổ, Mác đã gửi thư cho công nhân Pháp và Đức. Người đã phân tích tính chất của cuộc chiến tranh và kêu gọi giai cấp công nhân ở hai nước hãy cảnh giác sẵn sàng đấu tranh. Khi quân Pháp đầu hàng ở pháo đài Mếtdơ, phong trào đấu tranh của nhân dân Pháp đã diễn ra mạnh mẽ mà trung tâm là Thủ đô Pari. Ngày 31/10/1870, dưới sự lãnh đạo của phái Blăngki (Blanqui), nhân dân Pari biểu tình chiếm được Toà Thị chính nhưng sau đó bị Chính phủ Lâm thời đàn áp. Trước thái độ đầu hàng của chính phủ tư sản (11/1870, Bộ trưởng Ngoại giao Guynlơ Phavrơ (Jules Favre) đã bí mật ký với đại diện của Bixmắc một thoả ước đầu hàng), quần chúng Pari đã thành lập được hơn 200 tiểu đoàn Vệ quốc, tự trang bị vũ khí và tổ chức bảo vệ Thủ đô. Vào tháng 1/1871, trong vòng vây của quân Phổ, Pari lâm vào cảnh đói rét trầm trọng. Hơn 20 ngàn người bị chết, nhà máy, xí nghiệp bị đóng cửa, giá cả luơng thực, thực phẩm tăng vọt. Giữa lúc đó, Chính phủ Lâm thời lại lần lượt ký với Bixmắc những hiệp định đầu hàng. Ngày 18/1/1871, lễ tuyên bố thống nhất nước Đức được long trọng tổ chức ở cung điện nước Pháp Vécxây (Vessailler). Từ ngày 23/1/1871 đến ngày 28/1/1871, cuộc hội nghị chính thức về thoả thuận đình chiến giữa đại diện chính phủ Pháp với đại diện chính phủ Đức đã diễn ra tại Vécxây. Ngày 8/2/1871, theo điều khoản đình chiến ký ngày 28/1/1871, cuộc bầu cử Quốc hội Pháp đã được tiến hành dưới sự giám sát của quân Phổ. Phe Bảo hoàng thắng lớn với 450/750 ghế trong Quốc hội, âm mưu khôi phục nền quân chủ. Ađônphơ Chie (Adolphe Thiers) được cử làm Thủ tướng chính phủ. Ngày 28/2/1871, Chie đã ký với Bixmắc hiệp ước đầu hàng trong đó có những điều khoản cơ bản: nước Pháp phải bồi thường cho Đức 5 tỷ fran chiến phí; cắt tỉnh Andát (Alsace) và 1/3 tỉnh Lôren (Loren) Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  9. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 9 cho Đức; Đức được phép chiếm đóng những vị trí quan trọng của Pari cho đến khi nào phía Pháp thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ của mình. Trước hành động đầu hàng của Chie và chính phủ tư sản, quân đội Vệ quốc đã chuyển về chiếm lĩnh hai ngọn đồi ở Đông Bắc Pari là Môngmáctơrơ (Monmartre và Benlơvinlơ (Bellerviller) và bầu ra Uỷ ban Trung ương quân đội Vệ quốc. Ngày 24/2/1871, Uỷ ban đã lãnh đạo nhân dân biểu tình kỷ niệm nền Cộng hoà thứ Hai ở trước ngục Baxti (Bastiler). Lo sợ trước khí thế của quân đội Vệ quốc, vào trung tuần tháng 3/1871, Quốc hội tư sản ra lệnh tước vũ khí của quân đội Vệ quốc. 2.2. CUỘC CÁCH MẠNG BÙNG NỔ VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA CÔNG XÃ PARI Rạng sáng ngày 18/3/1871, quân đội tư sản đánh chiếm các vị trí chiến lược ở tả ngạn sông Xen và bí mật bao vây quân Vệ quốc ở ngọn đồi Môngmáctơrơ. Được tin từ quần chúng nhân dân, Uỷ ban trung ương quân đội Vệ quốc một mặt phản công, mặt khác kêu gọi binh lính đầu hàng. Đến 9 giờ sáng, quân đội tư sản rút chạy. Buổi trưa cùng ngày, quân đội Vệ quốc tiến công vào các công sở, trại lính của chính phủ tư sản tại Pari. 20 giờ hôm đó, quần chúng cách mạng làm chủ hoàn toàn thành phố Pari, chính phủ và quân đội tư sản rút chạy về Vécxây. Cuộc cách mạng kết thúc thắng lợi tại thủ đô của nước Pháp. Sau thắng lợi, Ủy ban trung ương quân đội Vệ quốc trở thành chính phủ Lâm thời tạm quyền quản lý thành phố chờ tổng tuyển cử. Ngày 26/3/1871, cuộc tổng tuyển cử theo lối phổ thông đầu phiếu cho mọi công dân từ 18 tuổi trở nên đã diễn ra trong không khí tưng bừng, nhộn nhịp. Ngày 28/3/1871, Hội đồng Công xã gồm 85 đại biểu long trọng ra mắt quốc dân. Trong số đó, 25 đại biểu là công nhân, 30 đại biểu là trí thức, 15 đại biểu là tư sản nhưng sớm từ chức, còn lại là các đại biểu thuộc mọi giới khác nhau. Hội đồng Công xã đóng vai trò là cơ quan quyền lực cao nhất của Pari cách mạng. Trong Hội đồng có các uỷ ban phụ trách các vấn đề khác nhau của bộ máy nhà nước như: quân sự, bưu điện, lao đọng xã hội, tài chính, giáo dục, nghệ thuật, Ngay từ đầu, trong Hội đồng Công xã đã phân hoá thành hai phe: thiểu số và đa số. Phe thiểu số chiếm 1/3 số ghế là những người Pruđông (Proudhon). Họ cho rằng : Hội đồng Công xã không nên đi quá phạm vi là một hội đồng thành phố. Nước Pháp là liên bang của hội đồng thành phố và nông thôn tự trị. Họ chống lại việc thành lập chính quyền tập trung và phản đối chức năng trấn áp kẻ thù. Phe thiểu số lại phân chia làm 2 phái: phái Hữu phủ nhận sự cần thiết của chuyên chính vô sản và đấu tranh chính trị; phái Tả cho rằng cần thực hiện triệt để quyền sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, liên hệ mật thiết với công nhân qua các tổ chức công đoàn, câu lạc bộ dân chủ và điều chỉnh sự trao đổi bằng cách cho vay nhẹ lãi. Phe đa số chiếm 2/3 số ghế gồm những người theo tư tưởng Blăng ki và Giacôbanh Mới. Họ chủ trương hạn chế tối đa quyền sở hữu đại tư sản, củng cố tiểu tư hữu. Họ chủ trương phải xây dựng một chính quyền tập trung mạnh mẽ trên cơ sở kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng. Hội đồng Công xã là chính phủ chung của cả nước Pháp. Tuy nhiên phe đa số lại kém liên hệ với quần chúng nên chủ trương này không trở thành hiện thực. Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  10. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 10 Sự tồn tại của các phe phái nói trên đã làm cản trở đến tiến trình của cách mạng. Trong nội bộ Hội đồng Công xã liên tục diễn ra những cuộc tranh cãi gay gắt làm cản trở việc thực hiện những đòi hỏi xã hội. 2.3. NHỮNG CHÍNH SÁCH CỦA HỘI ĐỒNG CÔNG XÃ 2.3.1. Về Bộ MÁY NHÀ NƯớC Sau khi đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản, Hội đồng Công xã được thành lập dựa trên cơ sở dân chủ vô sản là cơ quan tối cao của Nhà nước. Hội đồng Công xã thực thi quyền lực thông qua 10 uỷ ban do các Uỷ viên của Hội đồng Công xã đứng đầu. Nhiều ngoại kiều tham gia Hội đồng Công xã như Phrăngken (Frankel) người Hung, Đômbơrốpxki (Dombropxki), người Ba Lan, E. Đmitriêva người Nga Mọi thành viên của Hội đồng Công xã và các uỷ ban đều có thể bị bãi miễn khi không đủ tín nhiệm. Mức lương của các Ủy viên Hội đồng Công xã đều không được vượt quá mức lương trung bình của công nhân. Hội đồng Công xã ban bố sắc lệnh bãi bỏ quân đội thường trực và bộ máy cảnh sát tư sản thay vào đó là lực lượng vũ trang nhân dân dưới sự chỉ huy của Hội đồng Công xã. Hội đồng Công xã cũng ra sắc lệnh tách nhà thờ ra khỏi những hoạt động của Nhà nước, huỷ bỏ ngân sách về tôn giáo. 2.3.2. Về KINH Tế – XÃ HộI : Hội đồng Công xã giao quyền quản lý các xí nghiệp, nhà máy mà chủ tư bản bỏ trốn cho công nhân. Ở các nhà máy, xí nghiệp mà chủ tư bản đang làm chủ, Hội đồng Công xã quản lý chế độ tiền lương công nhân , cấm không được cúp phạt dù dưới hình thức nào đối với công nhân, cấm làm việc ban đêm (sắc lệnh ngày 20/4/1871). Hội đồng Công xã ban bố chế độ ngày làm việc 8 giờ và điều chỉnh mức lương cho công nhân theo năng lực chuyên môn và tính chất công việc. Hội đồng Công xã quy định giá cả lương thực, thực phẩm và hoãn trả các khoản nợ trước đây; bãi bỏ dịch vụ cầm đồ, trả lại đồ cầm cho công nhân; thay đổi điều kiện ăn ở cho người nghèo; bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ; xây dựng các cơ sở giữ trẻ cho con em công nhân Hội đồng Công xã còn chú ý xây dựng khối đoàn kết liên minh với nông dân. Họ rải 10 vạn tờ truyền đơn bằng khinh khí cầu kêu gọi nông dân đứng về phía công nhân chốnh kẻ thù chung là giai cấp tư sản. Rất tiếc rằng hành động này không thu được kết quả vì sự phản tuyên truyền của giai cấp tư sản. 2.3.3. Về VĂN HOÁ GIÁO DụC Hội đồng Công xã ra sắc lệnh tách nhà thờ ra khỏi hệ thống giáo dục, thay thế đội ngũ giáo viên là cha cố bằng giáo viên mới, tăng lương cho giáo viên. Hội đồng Công xã ra sắc lệnh quy định chế độ giáo dục bắt buộc, miễn phí đối với lứa tuổi học sinh. Ngày 2/5/1871, Hội đồng Công xã quyết định thành lập 2 trường trung học chuyên nghiệp. Ngày 21/5/1871, Hội đồng Công xã ra sắc lệnh thủ tiêu việc kinh doanh nghệ thuật tư nhân và trực tiếp quản lý các công trình, di sản văn hoá cũng như các hoạt động nghệ thuật để phục vụ đông đảo quần chúng; khuyến khích các nhà văn, nhà thơ, nhạc sỹ sáng tác những tác phẩm văn học phục vụ cho sự nghiệp của Công xã. Bài Quốc tế ca do Ơgien Pôchiê sáng tác trong hoàn cảnh ấy. Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  11. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 11 Những chính sách trên chứng tỏ Hội đồng Công xã Pari là một Nhà nước kiểu mới của giai cấp vô sản. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan mà trong một chừng mực nào đó những chính sách ấy chưa được thực hiện và thực thi chưa đầy đủ. 2.4. SỰ THẤT BẠI CỦA CÔNG XÃ PARI Khi rút về Vécxây, quân đội tư sản chỉ còn lại có 12.000 người, nhưng quân cách mạng lại không tiếp tục truy kích nên chúng có thời gian để bổ sung lực lượng và chuẩn bị phản công. Ngày 2/4/1871, quân đội tư sản bắt đầu tấn công Pari. Quân đội tư sản có 65 vạn với phương tiện và chỉ huy tốt hơn, trong khi đó, quân cách mạng có khoảng 40 vạn với vũ khí và chỉ huy kém hơn. Mặc dù chiến đấu rất dũng cảm nhưng do so sánh tương quan lực lượng như vậy nên thế trận nghiêng dần về phía kẻ thù. Đến đầu tháng 5, quân đội tư sản đã chiếm được phần lớn Tây Nam của Pari. Chính phủ tư sản Pháp được sự giúp đỡ của quân Phổ đang chiếm đóng tại vùng phía Bắc Pari đã mở rộng phạm vi tấn công. Ngày 20/5/1871, quân đội tư sản mở cuộc tổng tấn công vào Pari. Các chiến sĩ Công xã đã chiến đấu vô cùng anh dũng cản từng bước tiến của kẻ thù. Tuần lễ đẫm máu đã diễn ra từ ngày 20 đến ngày 28 tháng 5 kết thúc bằng sự thất thủ của chiến luỹ cuối cùng của công xã. Một cuộc tàn sát đẫm máu đã diễn ra. Hàng trăm ngàn chiến sĩ Công xã đã hy sinh anh dũng trong cuộc chiến đấu bảo vệ sự nghiệp vinh quang của giai cấp công nhân Pari. 3. NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI, BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA CÔNG XÃ PARI 3.1. NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI Về khách quan, chủ nghĩa tư bản đang trên đà phát triển, trong khi đó lực lượng của giai cấp vô sản thế giới chưa thống nhất thành một mặt trận chống chủ nghĩa tư bản. Do đó, các thế lực tư bả trong và ngoài nước câu kết với nhau để đàn áp phong trào cách mạng của giai cấp vô sản. Về chủ quan, giai cấp công nhân Pháp chưa có một chính đảng thống nhất, thiếu chuẩn bị, rèn luyện, nên chưa ý thức rõ rệt về nhiệm vụ chính trị của mình. Công xã đã tỏ ra thiếu kiên quyết và rộng lượng với kẻ thù của mình. Những chính sách của Hội đồng Công xã chưa có hiệu lực và phát huy hết tác dụng trong việc tổ chức và quản lý xã hội. Vấn đề liên minh công nông được đặt ra nhưng chậm trễ và phản tác dụng 3.2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM Sự cần thiết phải xây dựng một chính đảng tiên phong của giai cấp công nhân được trang bị lý luận sắc bén của chủ nghĩa Mác. Phải triệt để đập tan bộ máy Nhà nước cũ để xây dựng bộ máy Nhà nước mới của giai cấp vô sản. Bộ máy nhà nước ấy phải thực hiện đầy đủ, triệt để hai chức năng trấn áp và xây dựng để gìn giữ chính quyền mới giành được. Phải không ngừng củng cố và tăng cường khối liên minh công nông vững chắc làm cơ sở để giành và giữ chính quyền đồng thời tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ chiến lược và sách lược của cách mạng vô sản. Ngoài ra còn có thể rút ra những bài học quý báu khác về chiến lược, sách lược, thời cơ cách mạng, khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  12. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 12 3.3. Ý NGHĨA LỊCH SỬ Công xã Pari là cuộc cách mạng đầu tiên của giai cấp vô sản với tư cách là một lực lượng chính trị độc lập đấu tranh chống giai cấp tư sản vì quyền lợi chính trị của mình. Chứng tỏ rằng giai cấp vô sản chính là người lĩnh sứ mệnh lịch sử là đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản Công xã Pari đã sáng tạo ra hình thức chính quyền mới dựa trên cơ sở dân chủ vô sản – Nhà nước ckiểu mới của giai cấp vô sản vì quyền lợi của nhân dân lao động. Công xã Pari đã góp phần quan trọng bổ sung vốn thực tiễn trong học thuyết của chủ nghĩa Mác Công xã Pari là biểu hiện cao độ về sự gắn bó chặt chẽ giữa tính giai cấp, dân tộc và thời đại. CHƯƠNG II CHỦ NGHĨA TƯ BẢN CHUYỂN SANG GIAI ĐOẠN ĐẾ QUỐC CHỦ NGHĨA GIAI ĐOẠN 1870 –1914 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN 1870 –1914 1.1.1. SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Về công nghiệp: - Công nghiệp luyện kim, do việc sử dụng lò Bétxơme (Bessme) và lò Máctanh (Martin) nên sản lượng thép tăng từ 250 ngàn tấn năm 1870 lên tới 28,3 triệu tấn năm 1900 và 76 triệu tấn năm 1903, gang từ 41 triệu tấn năm 1900 lên tới 79 triệu tấn năm 1903. - Công nghiệp năng lượng, nguồn năng lượng than được khai thác ngày càng tăng từ 700 triệu tấn năm 1900 lên đến 1.300 triệu tấn năm 1903. Việc sử dụng nguồn điện năng từ nước (thuỷ điện) cũng được đẩy mạnh song song với việc thiết lập hệ thống tải điện đi xa. Một nguồn năng lượng mới là dầu hoả được phát hiện và sử dụng tạo điều kiện cho các ngành kinh tế phát triển. Năm 1870, tổng sản lượng dầu hoả toàn thế giới là 0,8 triệu tấn đến năm 1903 là 52 triệu tấn - Các ngành công nghiệp khác như hoá học mới ra đời sản xuất thuốc nhuộm, thuốc trừ sâu, phân bón, thuốc nổ ;ngành chế tạo máy, ô tô, cũng rất phát triển. Năm 1900 cả thế giới có 37 ngàn chiếc ô tô thì đến năm 1903 đã lên tới 485 ngàn chiếc các loại. - Ngành giao thông vận tải tiến bộ nhanh chóng nhất là trong lĩnh vực đường sắt. Năm 1900, tổng chiều dài đường sắt thế giới là 800 ngàn km thì đến năm 1903 đã lên đến 1,1 triệu km. Tàu biển ngày càng hiện đại với trọng tải ngày càng lớn chạy bằng máy móc. - Ngành giao thông liên lạc phát triển với những phát minh quan trọng như radio, vô tuyến điện, điện báo, điện thoại, Về nông nghiệp: Do sự phát triển như vũ bão của công nghiệp, nông nghiệp cũng có những bước phát triển đáng kể nhưng so với công nghiệp thì chậm chạp hơn nhiều lần. Những tiến bộ mới như mở rộng diện tích canh tác, phương pháp canh tác, chuyên canh hoá, cơ giới hoá, phân bón, giống cây trồng, thuốc trừ sâu, đã tạo ra một nguồn của cải to lớn đủ chi dùng cho con người và sản xuất. Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  13. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 13 Về thương nghiệp: Sự phát triển công nông nghiệp đã thúc đẩy sự trao đổi giao lưu kinh tế. Cả thế giới bị cuốn vào hoạt động của nền kinh tế thị trường mà hàng hoá chính là sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp và thậm chí cả tiền tệ. Việc xuất khẩu tư bản thu được một nguồn lợi nhuận to lớn nên trở thành một hoạt động kinh tế nổi bật của chủ nghĩa tư bản giai đoạn này. 1.1.2. SỰ HÌNH THÀNH CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC Sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản đã dẫn tới những cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng không những ở mỗi quốc gia mà còn trên phạm vi toàn thế giới. Đứng trước tình hình đó, chủ nghĩa tư bản đã tự điều chỉnh và hình thành các tổ chức độc quyền trong từng ngành sản xuất đến nhiều ngành có tầm cỡ từ quốc gia đến khu vực và vươn tới phân chia toàn thế giới. Các hình thức tổ chức độc quyền phổ biến như : Cácten là tổ chức hợp nhất nhằm phân chia thị trường tiêu thụ, xác định quy mô sản xuất và giá cả); Xanhđica là tổ chức hợp nhất nhằm bán hàng chung cho các công ty tư bản; Tơrớt là tổ chức hợp nhất hoàn toàn quyền sở hữu xí nghiệp; Côngxoócxiom là tổ chức hợp nhất nhằm thống nhất trên cơ sở tài chính chung phụ thuộc vào một nhóm lũng đoạn. V.I. Lênin đã phân chia 3 giai đoạn hình thành chủ nghĩa đế quốc như : từ 1860 – 1880 là giai đoạn tự do cạnh tranh phát triển cực thịnh, từ 1873 đến 1893 là giai đoạn hình thành các tổ chức độc quyền nhưng không ổn định và phổ biến, từ 1893 đến 1903 là thời kỳ xác lập chủ nghĩa đế quốc. Nền sản xuất trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa được xã hội hoá ở mức độ rất cao nhưng lại mâu thuẫn gay gắt với quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất làm cho những mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản phát triển không thể điều hoà được. 1.2. NĂM ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC V.I.Lênin là người đã phân tích một cách khoa học và nêu lên bản chất, địa vị lịch sử của chủ nghĩa đế quốc. Người đã vạch ra 5 đặc trưng cơ bản sau : 1.2.1. Sự tập trung sản xuất và tư bản đạt tới mức độ phát triển rất cao, tạo thành những tổ chức lũng đoạn có một vai trò quyết định trong sinh hoạt kinh tế. 1.2.2. Sự dung hợp tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp thành tư bản tài chính. 1.2.3. Việc xuất khẩu tư bản trở thành đặc biệt quan trọng. 1.2.4. Sự hình thành những khối liên minh tư bản độc quyền chia nhau thế giới. 1.2.5. Việc các cường quốc tư bản đã chia nhau xong đất đai trên thế giới. Ở mỗi nước do điều kiện lịch sử và kinh tế khác nhau đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa với những nét riêng biệt. Nước Mỹ là sự hình thành cácTơrớt khổng lồ với những tập đoàn tài chính giàu sụ, nước Anh là đế quốc thực dân, nước Pháp là đế quốc cho vay nặng lãi, nước Đức là đế quốc tư sản gioongke, Nga và Nhật là đế quốc phong kiến quân sự. 2. NƯỚC ANH 1870 - 1914 2.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ 2.1.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1870 –1900 - Công nghiệp, nước Anh từ vị trí hàng đầu dần dần tụt xuống vị trí thứ 3 thế giới. Nguyên nhân của tình trạng này là vì : các cuộc khủng hoảng kinh tế 1878-1879, Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  14. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 14 1882-1887,1890-1894, ; nền kỹ thuật công nghệ lạc hậu; hệ thống thuộc địa rộng lớn thu hút nguồn vốn đầu tư tư bản của Anh; tốc độ phát triển của các nước tư bản khác vượt xa Anh; Sản lượng thép của Anh năm 1880 là 1,3 triệu tấn thì đến năm 1900 là 4,9 triệu tấn, tăng 377% trong khi cùng thời gian ấy, sản lượng thép của Đức tăng 910% và Mỹ là 850%. - Nông nghiệp Anh cũng trong tình trạng khủng hoảng do những nguyên nhân tương tự. Gần 60% nhu cầu lương thực, thực phẩm phải nhập khẩu, tỷ lệ dân số giữa nông thôn và thành thị năm 1891 là 23/77. - Thương nghiệp Anh phát triển chậm chạp hơn so với các nước khác. Nếu trong 20 năm cuối thế kỷ XIX, xuất cảng của Anh chỉ tăng 8% thì Đức tăng 40%, Mỹ tăng 230%. Tuy nhiên, với một hệ thống thuộc địa rộng lớn, anh vẫn giữ được ưu thế về lĩnh vực này. - Ngân hàng và hàng hải Anh nhờ có hệ thống thuộc địa rộng lớn vẫn dẫn đầu thế giới. Đến cuối thế kỷ XIX, Anh vẫn chiếm 48% trọng tải trên biển. - Sự xuất khẩu tư bản diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Nước Anh giữ vai trò là một kho hàng và trung tâm tài chính thế giới. Hướng xuất khẩu tư bản của Anh nhằm vào mọi nơi trên thế giới: năm 1850 là 200 triệu bảng, năm 1875 là 1,1 tỷ bảng và 1900 là gần 2 tỷ bảng, nguồn lời lên tới 90 triệu bảng. 2.1.2. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1900-1914. - Công nghiệp, mặc dù tốc độ phát triển nhanh hơn so với giai đoạn trước nhưng vẫn chậm hơn các nước khác. Trong giai đoạn này, tỷ lệ sản phẩm công nghiệp Anh trong tổng sản phẩm công nghiệp thế giới giảm dần: than từ 29,7% còn 21,8%, gang từ 22,1% còn 13%, Địa vị công nghiệp Anh tiếp tục đứng thứ 3 sau Đức và Mỹ. - Nông nghiệp Anh tiếp tục lạc hậu, sản lượng thấp. Nguồn lương thực, thực phẩm, nguyên liệu phần lớn trông chờ vào nhập khẩu. - Thương nghiệp và những hoạt động tín dụng Anh vẫn giữ địa vị hành đầu thế giới. Đồng bảng Anh vẫn là đồng tiền thế giới. - Sự tập trung sản xuất và tư bản diễn ra mạnh mẽ trong hầu hết các ngành nhất là ngân hàng. Năm 1913, 27 nhà ngân hàng sở hữu 85% tổng số tư bản nước Anh. Ở Luân Đôn có 5 ngân hàng chiếm 40% vốn của cả nước. Thông qua các chi nhánh ở khắp các nước, các ngân hàng tiến hành xuất khẩu tư bản thu lợi nhuận. Năm 1912, tư bản Anh thu được 176 triệu bảng từ việc xuất khẩu tư bản. 1.2. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ 1.2.1. CHÍNH SÁCH ĐỐI NỘI VÀ PHONG TRÀO CÔNG NHÂN Giai cấp tư sản Anh thực hiện quyền lực chính trị của mình thông qua chế độ hai đảng: Tự do và Bảo thủ. Đảng Tự do đại diện cho quyền lợi của đông đảo tư sản công thương nghiệp. Đảng này theo đuổi chính sách tự do buôn bán, nới lỏng quyền tự trị cho Ailen, lương hưu cho công nhân 65 tuổi để mị dân. Đảng Bảo thủ đại diện cho lợi ích của trùm công nghiệp nặng, tư sản ngân hàng và quý tộc ruộng đất. Đảng này chủ trương thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch để bảo vệ quyền lợi của tư bản Anh, tăng cường cai trị Ailen, đàn áp phong trào công nhân. Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  15. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 15 Về cơ bản, hai đảng nhất trí trong việc bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản và đối phó với phong trào công nhân. Sự khác biệt chỉ mang tính hình thức hay quyền lợi bộ phận. Hai đảng thay nhau nắm quyền thống trị ở nước Anh. Quyền bầu cử sau nhiều lần cải cách vẫn chỉ giới hạn trong giới những người giàu có (12%). Phong trào công nhân và xã hội chủ nghĩa Anh diễn ra dưới tác động của nhiều trường phái tư tưởng khác nhau. Các tổ chức : Liên minh xã hội dân chủ (1884-1890), Hội Phabiêng (1884), Đảng công nhân độc lập (I.W.P.1893) Công đảng (1905) và nhất là Đảng xã hội Anh (1911) đã lãnh đạo công nhân đấu tranh. Tuy nhiên, do sự tồn tại của đội ngũ công nhân quý tộc ( công nhân có kỹ thuật, tay nghề cao được trả lương hậu hĩnh ) và sự thao túng của chủ nghĩa nghiệp đoàn, các phần tử cơ hội, xét lại mà phong trào công nhân và xã hội chủ nghĩa Anh còn nhiều hạn chế. 1.2.2. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI - Chính sách bành trướng mở rộng thuộc địa, các nhà tư tưởng tư sản Anh luôn đề cao chính sách này. Năm 1867, Sáclơ Đincơ (Charler Dilker) xuất bản cuốn sách “Một nước Anh vĩ đại”; năm 1883, Giôn Xinly (John Silly) về “Sự bành trướng của nước Anh” để tuyên truyền cho sự xâm lược của đế quốc Anh. Ở châu Á, Anh hoàn thành việc xâm lược Ấn Độ và thi hành chính sách thống trị trực tiếp ở thuộc địa này từ năm 1858; hoàn thành việc xâm lược và thống trị Singapo (1819), bán đảo Mã Lai (1890), Mianma (1885), Apganixtan (1880), Bắc Kalimantan và Tân Ghinê (XIX), đồng thời mở rộng việc chinh phục Trung Quốc. Ở châu Phi, Anh hoàn thành việc xâm lược Aicập (1882), Xuđăng (1881- 1896), đồng thời xâm chiếm Nigiêria, Xômali, Kênia, Tandania, Uganda, Dandiba; Anh thực hiện kế hoạch 3C (Cáp – Cairô – Cancútta) nối liền hệ thống thuộc địa Anh từ Nam Phi tới Ấn Độ. Ở châu Mỹ, Anh tranh chấp ảnh hưởng với Mỹ và sở hữu một số thuộc địa ở Guyana, Manvinát, Canada. Cho tới cuối thế kỷ XIX, diện tích thuộc địa Anh lên đế 33 triệu km2 với 370 triệu dân. V.I.Lênin đã gọi đó là đế quốc thực dân. - Chính sách ngoại giao khác, Anh tăng cường vai trò của mình ở châu Âu. Để ngăn cản ảnh hưởng của Nga ở khu vực Bancăng và Địa Trung Hải, Anh chiếm đảo Síp, kênh đào Xuyê. Tranh chấp với các nước đế quốc khác ở châu Phi, Á, Mỹ, tăng cường chạy đua vũ trang chuẩn bị chiến tranh thế giới thứ nhất. Anh xúc tiến quan hệ ngoại giao hình thành khối liên minh quân sự Hiệp ước gồm Anh-Nga-Pháp dưới sự ủng hộ của Mỹ. 3. NƯỚC PHÁP 1870 –1914 3.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ 3.1.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1870-1900 - Công nghiệp Pháp dần dần mất đi vị trí thứ hai và tụt xuống vị trí thứ 4 trên thế giới. Nguyên nhân cơ bản là Pháp bị thất bại trong cuộc chiến tranh với Phổ, kỹ thuật ngày càng lạc hậu, thị trường nội địa hạn chế, nguyên liệu nghèo nàn, quy mô sản xuất nhỏ, nguồn vốn chủ yếu dùng để cho vay lãi và đầu tư vào hệ thống thuộc địa rộng lớn Tuy vậy, trong xu thế phát triển chung của chủ nghĩa tư bản, công nghiệp Pháp cũng có những tiến bộ đáng kể. Hệ thống đường sắt lan rộng trong cả nước. Từ năm 1872 đến năm 1891, sản xuất gang từ 1,2 triệu tấn lên 1,9 triệu tấn, thép từ 130 ngàn tấn lên 740 ngàn tấn, than từ 15,8 triệu tấn lên 26,7 triệu tấn. Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  16. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 16 - Nông nghiệp Pháp vẫn ở trong tình trạng phân tán, tiểu nông tư hữu gây khó khăn cho việc áp dụng những tiến bộ kỹ thuật. 60% ruộng đất nằm trong tay tư bản ruộng đất và thương mại nhưng chỉ có một phần nhỏ được áp dụng phương pháp kinh doanh tư bản chủ nghĩa ở những vùng trồng nho. - Thương nghiệp Pháp duy trì ở vị tí thứ 3 thế giới với hoạt động chủ yếu ở lĩnh vực ngoại thương thông qua hệ thống thuộc địa. - Sự tập trung sản xuất và tư bản diễn ra mạnh mẽ nhất là trong ngành ngân hàng. 2/3 số tư bản nước Pháp tập trung trong tay 3 ngân hàng lớn ở Pari, phần lớn số tư bản này được dùng cho vay lãi. 3.1.2. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1900-1914 - Công nghiệp Pháp mặc dù có những bước phát triển lớn song tốc độ vẫn thua kém xa so với các nước khác. - Nông nghiệp vẫn trong tình trạng phân tán và lạc hậu. Đây là đặc tính cố hữu của nền nông nghiệp Pháp. Chỉ có ngành trồng Nho là tương đối phát triển do nhu cầu nguyên liệu cho ngành công nghiệp sản xuất rượu vang nổi tiếng của Pháp. - Thương nghiệp cũng phát triển trao đổi hàng hoá giữa Pháp với thuộc địa và vùng phụ thuộc. - Quá trình tập trung sản xuất và tư bản ở Pháp giai đoạn này diễn ra mạnh mẽ dẫn tới sự hình thành các tập đoàn tư bản tài chính kếch xù. Ngành luyện kim và khai mỏ do hai tập đoàn lớn là Snâyđơ Crơdô (Schneider Creusot) và Cômitê Phogiơ (Comite, des Forges) 5 ngân hàng lớn ở Pari khống chế 2/3 toàn bộ số tư bản Pháp. Phần lớn tư bản được đưa ra nước ngoài. Năm 1908, 38 tỷ fran được xuất khẩu trong khi chỉ có 9,5 tỷ đầu tư trong nước. Năm 1914, 60 tỷ fran xuất khẩu đem lại cho tư bản Pháp 2,5 tỷ fran lợi nhuận. 3.2. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ 3.2.1. CHÍNH SÁCH ĐỐI NỘI VÀ PHONG TRÀO CÔNG NHÂN Sau khi đàn áp Công xã Pari, các thế lực bảo hoàng âm mưu khôi phục nền quân chủ. Hiến pháp năm 1875 thừa nhận chính thể cộng hoà với đa số hơn 1 phiếu (353/352) chứng tỏ cuộc đấu tranh giữa hai phái diễn ra hết sức gay gắt. Nền cộng hoà thứ 3 được thiết lập và tồn tại cho đến tháng 6 năm 1940. Đặc điểm của nó là tình trạng khủng hoảng nội các thường xuyên xảy ra (1873-1890 phải thay đổi tới 34 lần). Tư bản tài chính nắm quyền, phe bảo hoàng đòi cải biến hiến pháp âm mưu lật đổ nền cộng hoà càng làm cho tình trạng khủng hoảng chính trị thêm gay gắt. Nhiều vụ bê bối của chính phủ Pháp đã xảy ra làm cho nền cộng hoà nghiêng ngả. Năm 1887, nghị viên Uynsơn (Willson) con rể Tổng thống Grêvy lôi kéo các quan chức chính phủ tham gia vụ mua bán huân chương giả bị vỡ lở buộc Tổng thống phải từ chức. Năm 1892, công ty Panama tuyên bố vỡ nợ, các quan chức trong chính phủ ít nhiều dính líu làm cho nội các Pháp bị khủng hoảng. Từ năm 1894 đến năm 1906, phe dân chủ, tiến bộ giành được thắng lợi lớn thông qua vụ án Đrâyphút (Dreyfus). Thắng lợi của phe dân chủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho phe cấp tiến (cánh tả của phe cộng hoà) giành thắng lợi và lên cầm quyền (1906 –1909). Để xoa dịu phong trào đấu tranh của quần chúng, chính phủ cấp tiến của G. Clêmăngxô (Giorge Cle,menseau 1841-1929) buộc phải ban bố một số chính sách : xây dựng nền cộng hoà dân chủ, thủ tiêu quyền lợi chính trị của giáo hội Thiên chúa, loại trừ những phần tử bảo hoàng khỏi quân đội, tuyên truyền tư tưởng phục thù Đức, tiếp tục chính sách mở rộng thuộc địa, tiếp tay cho Nga hoàng đàn áp phong trào cách mạng Nga. Riêng đối với phong trào Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  17. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 17 công nhân, chính phủ tiến hành cải cách vụn vặt để lừa bịp : lập Bộ Lao động, trả lương hưu cho công nhân 65 tuổi, nhưng lại thẳng tay đàn áp phong trào đấu tranh của công nhân và các lực lượng dân chủ. Phong trào công nhân Pháp mặc dù bị đàn áp nhưng vẫn từng bước hồi phục và lớn mạnh. Dưới sự dẫn dắt của những người Mácxít như Giuyn Ghexđơ (Jules Gesder), Pôn Laphácgơ (Paul Lafargue) Đảng Công nhân đã được thành lập ở Lơ Havrơ vào năm 1880. Năm 1902, Tổng liên đoàn lao động được thành lập. Năm 1904, Đảng Xã hội thống nhất cũng được thành lập trên cơ sở hợp nhất hai đảng Xã hội Pháp và đảng Xã hội nước Pháp. Mặc dù còn tồn tại nhiều khuynh hướng khác nhau nhưng nhiều cuộc đấu tranh vẫn diễn ra thể hiện sự giác ngộ chính trị ngày càng cao của giai cấp công nhân Pháp. 3.2.2. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI - Chính sách xâm lược thuộc địa là nội dung quan trọng trong chính sách đối ngoại của các chính phủ nước Pháp. Đối với châu Á, Pháp hoàn thành việc xâm lược Việt Nam và Đông Dương (1858-1891), tham gia xâu xé Trung Quốc. Đối với châu Phi, Pháp chiếm Tuynidi (1881), Mađagaxca (1885) và mở rộng xâm lược Cônggô, Đahômây, Xênêgan, Tây Xuđăng, Ghinê Đối với châu Mỹ, Pháp gặp phải sự cản trở của Mỹ. Cho đến cuối thế kỷ XIX, diện tích thuộc địa của Pháp đứng thứ hai thế giới và lên tới 3,7 triệu dặm vuông với 56,1 triệu dân. - Chính sách ngọai giao với thế giới tư bản chủ nghĩa. Đứng trước nguy cơ xâm lược mới từ nước Đức và lòng thù hận dân tộc, Pháp tăng cường hoạt động ngoại giao với Nga (hiệp ước Pháp- Nga 1893), Anh (hiệp ước Pháp - Anh 1903). Liên minh quân sự Pháp-Anh-Nga được hình thành sẵn sàng tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất. Pháp cũng ráo riết chạy đua vũ trang, reo rắc tư tưởng xô vanh, phục thù Đức để lôi kéo nhân dân pháp. 4. NƯỚC ĐỨC 1871-1914 4.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ 4.1.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1871-1914 Nước Đức bước vào xây dựng và phát triển kinh tế giai đoạn này trong tình thế vô cùng thuận lợi. Cuộc đấu tranh thống nhất Đức hoàn thành năm 1871, giai cấp tư sản Đức cấu kết chặt chẽ với quý tộc tạo thành một lực lượng chính trị hùng hậu, thắng lợi của cuộc chiến tranh với Pháp nước Đức thu được 5 tỷ fran chiến phí và hai tỉnh giàu có về tài nguyên khoáng sản Andát và Loren, nguồn tài chính ấy được dùng để xây dựng một nền kinh tế hiện đại nhất - Công nghiệp Đức phát triển mạnh mẽ đuổi kịp và vượt Anh, Pháp trở thành nước đứng đầu châu Âu. Công nghiệp nặng chiếm ưu thế so với các ngành kinh tế khác. Từ năm 1871 đến năm 1900, đường sắt tăng 2,3 lần (17.160 km lên 49,878 km) tạo điều kiện cho sự giao lưu và phát triển kinh tế, than tăng 3,5 lần (37,9 triệu tấn lên 149 triệu tấn), gang tăng 5,5 lần (1,56 triệu tấn lên 8,5 triệu tấn), thép tăng 26 lần (0,25 triệu tấn lên 6,6 triệu tấn). Các ngành kinh tế như : hoá chất, điện khí đều chiếm vị trí hàng đầu châu Âu, năm 1883 Đức đã sản xuất được 2/3 thuốc nhuộm Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  18. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 18 toàn thế giới. Tốc độ phát triển kinh tế công nghiệp Đức trong 20 năm cuối cùng của thế kỷ XIX đạt 163% trong khi Anh là 49%, Pháp là 65%. - Nông nghiệp Đức cũng có những bước tiến bộ. Phần lớn ruộng đất tập trung trong tay địa chủ quý tộc (khoảng 40%). Trong khi vẫn duy trì những tàn dư phong kiến để khai thác, bóc lột sức lao động của nông dân thì những biện pháp canh tác mới được áp dụng như : cơ giới hoá, phân bón, thuốc trừ sâu, thị trường hoá sản phẩm Ở Đông Bắc là chế độ đại sở hữu (100 ha đến 100.000 ha) còn Tây Namvẫn còn phổ biến là tiểu nông (ảnh hưởng pháp). Sự phân hóa diễn ra sâu sắc trong nông thôn Đức, phần lớn phải đi làm thuê cho địa chủ hoặc thành công nhân công nghiệp. - Thủ công nghiệp vẫn tồn tại khá lâu, đến cuối thế kỷ còn 2,3 triệu thợ thủ công trong đó có 67 vạn thợ làm ở nhà. - Thương nghiệp Đức phát triển mạnh mẽ trên cơ sở một thị trường nội địa thống nhất và một nền kinh tế công nông nghiệp phát triển. Ngành ngoại thương đặc biệt phát triển do xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp. Từ năm 1880 đến năm 1899, giá trị các loại hàng như : máy móc và vật liệu tăng từ 90 triệu Mác lên tới 291 triệu Mác, sắt thép tăng từ 134 triệu Mác lên tới 326 triệu Mác, hoá chất tăng từ 200 triệu Mác lên tới 365 triệu Mác. - Sự tập trung sản xuất và tư bản diễn ra mạnh mẽ hình thành các tổ chức lũng đoạn. Xanhđica than Ranh Vetxphalen sản xuất 87% tổng sản lượng than cả nước, hãng Krupp độc quyền công nghiệp quân sự sử dụng tới 45.000 công nhân năm 1879 mới có 14 cácten thì đến 1900 đã lên tới 300 cácten. - Hệ quả xã hội là làm cho bộ mặt nước Đức thay đổi : quá trình đô thị hoá nhanh chóng với 36% năm 1871 lên đến 54,3% dân số thành thị trong đó 22% là công nhân (10,6 triệu). 4.1.2. SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 1900-1914 - Công nghiệp Đức tiếp tục khẳng định vị trí hàng đầu châu Âu và thứ hai thế giới về cả tổng sản lượng cũng như những ngành cơ bản. Năm 1912, sản xuất gang vượt Anh và Pháp cộng lại kể cả trong các ngành khai mỏ, luyện kim, cơ khí, hoá chất, đường sắt, đóng tàu - Nông nghiệp Đức đạt tới mức độ cơ giới hoá cao, phân công lao động theo hướng chuyên môn hoá, sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu và kinh doanh theo hướng tư bản chủ nghĩa. Từ năm 1909 đến năm 1913, sản lượng lúa và khoai tăng gấp 2 lần năm 1894 –1897. - Thương nghiệp Đức vẫn tiếp tục phát triển trong cả hai lĩnh vực nội thương và ngoại thương. Trong khoảng 1909 – 1913, hàng xuất khẩu của Đức tăng 60%. - Sự tập trung sản xuất và tư bản tăng lên nhanh chóng trên quy mô lớn. Không đầy ¼ xí nghiệp sử dụng hơn ¾ điện lực cả nước. Số cácten tăng lên nhanh chóng từ 395 năm 1905 lên tới 600 năm 1911 nhưng các công ty lớn kiểm soát hầu hết các ngành: khai mỏ và luyện kim 2, điện khí 2, hoá chất 2, hàng hải 2, đó thực sự là những ông vua công nghiệp. Năm 1913, khoảng 30 “ông vua” thu lại nguồn lãi khoảng 15 tỷ mác. - Ngành ngân hàng có 9 lớn nhất là ngân hàng Béclin có số vốn hơn 3tỷ mác chi phối hoạt động của hơn 2000 xí nghiệp, kiểm soát 83% tổng số tư bản của Đức. Một Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  19. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 19 phần lớn số tư bản được xuất khẩu ra nước ngoài : năm 1902 là 12,5 tỷ fran đến 1914 là 44 tỷ fran. Hướng đầu tư chủ yếu là Đông Nam Âu, Cận Đông và Nam Mỹ. 4.2. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ 4.2.1. CHÍNH SÁCH ĐỐI NỘI VÀ PHONG TRÀO CÔNG NHÂN - Hiến pháp năm 1871 quy định nước Đức là một liên bang gồm 22 vương quốc và 3 thành phố tự do là Hămbuốc, Brême, Luybếch (Hamburg, Breme, Lubeck). Đứng đầu nhà nước liên bang là Vua Đức nhất thiết phải là vua Phổ có toàn quyền về quân đội, cảnh sát, bổ nhiệm và cách chức thủ tướng, ký kết hiệp ước ngoại giao, tuyên chiến thậm chí còn có quyền triệu tập, giải tán và hoãn các phiên họp của Hội đồng liên bang và Quốc hội mà không phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Hội đồng liên bang gồm 58 đại biểu từ các bang và thành phố tự do trong đó Phổ chiếm 17 ghế. Quyết nghị của Hội đồng chỉ có thể được thông qua khi không vượt quá 14 phiếu chống. Điều này bảo đảm ưu thế tuyệt đối của quý tộc, tư sản Phổ. Thủ tướng Đức là Chủ tịch Hội đồng liên bang đồng thời là thủ tướng Phổ chỉ chịu trách nhiệm trước Nhà vua và Hội đồng liên bang mà không chịu trach nhiệm trước Quốc hội. Thủ tướng đầu tiên và suốt 20 năn (1871- 1890) là Bixmắc. Quốc hội Đức do bầu cử lập nên nhưng cử tri chỉ giới hạn trong giới quý tộc và tư sản mà thôi. Quốc hội có thể bị Nhà vua giải tán bất cứ lúc nào. Ở các bang có chính quyền và bộ máy nhà nước riêng nhưng chịu sự cai quản của Nhà nước Liên bang. - Sự cấu kết giữa quý tộc Đông Phổ ( gioongke – Junker ) với tư sản là rất mật thiết. Cả hai đều ủng hộ chính sách thuế quan bảo hộ mậu dịch, tăng cường bộ máy quân đội và cảnh sát để đàn áp quần chúng và gây chiến tranh xâm lược. Bộ máy quan liêu nặng nề và chủ nghĩa quân phiệt Đức làm cho tính chất nhà nước Đức là đế quốc tư sản gioongke. - Các đảng phái tư sản và quý tộc thao túng nền chính trị Đức : ƒ Đảng Bảo thủ đại diện cho quyền lợi của quý tộc địa chủ Đông Phổ là đảng cầm quyền, chủ trương thiết lập chế độ quân chủ bán chuyên chế, giữ các chức vụ cao trong quân đội, cảnh sát, Nhà nước đòi tăng ngân sách quân sự, giữ giá cao về nông sản. ƒ Đảng Bảo thủ tự do (đế quốc) là một bộ phận của Đảng Bảo thủ tách ra đại diện cho quyền lợi của đại địa chủ tư sản hoá, trùm công nghiệp nặng ƒ Đảng Dân tộc tự do đại diện cho tư sản công nghiệp lớn chủ trương tăng cường công nghiệp hoá trong nước, đẩy mạnh chiến tranh xâm lược thuộc địa, tăng cường quân đội và cảnh sát. Đảng này làkẻ thù tệ hại nhất của giai cấp công hân và các lực lượng xã hội chủ nghĩa. ƒ Đảng Trung tâm Cơ đốc giáo (Đảng Trung ương) tập hợp quý tộc, tăng lữ ở Tây và Nam Đức. Đảng này chủ trương chống lại chính sách Phổ hóa nước Đức của Bixmắc, đòi quyền lợi chính trị và kinh tế cho bộ phận nên đã lôi kéo được một bộ phận công nhân và nông dân lạc hậu tham gia. ƒ Đảng Tiến bộ tập hợp đông đảo tư sản loại vừa, nhỏ, trí thức chủ trương đấu tranh nghị trường đòi quyền tự do dân chủ Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  20. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 20 - Chính sách đối nội Đức. Nhằm thúc đẩy sự phát triển của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, chính phủ Bixmắc đã ban bố một loạt các sắc lệnh về thống nhất hành chính, điện tín, giao thông vận tải, tiền tệ (chế độ bản vị vàng cho đồng Mác), thuế quan cao, tăng ngân sách quân sự Sự đấu tranh giữa hai thế lực tôn giáo và giới cầm quyền về quyền lực diễn ra mạnh mẽ dưới tên gọi “đấu tranh văn hoá” (kulturkamft). Bixmắc đã ban bố những đạo luật năm 1872, 1873, 1874, 1875 nhằm bẻ gẫy sự bướng bỉnh của các tăng lữ gồm có các nội dung như : cấm giáo sĩ tuyên truyền chính trị, không được kiểm soát trường học,Nhà nước bổ nhiệm tăng lữ Đảng Trung ương được sự ủng hộ của một bộ phận quần chúng lạc hậu, Toà thánh Vaticăng nên giành được ưu thế. Trong cuộc bầu cử Quốc hội 1874, Đảng này giành được 91 ghế. Trong khi đó phong trào đấu tranh của nhân dân lên rất cao, Bixmắc và Đảng Trung ương phải thoả hiệp với nhau để đối phó. Đến đây, tất cả các thế lực cầm quyền Đức đã thống nhất hành đông để loại phong trào công nhân và xã hội chủ nghĩa ra khỏi luật pháp nước Đức. Bixmắc đã ban bố “đạo luật đặc biệt” từ năm 1878 đến năm 1890. - Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp Đức là điều kiện cho phong trào công nhân Đức phát triển. Mặc dù Đảng Xã hội dân chủ Đức thành lập rất sớm (1869) nhưng lại chưa đủ sức tập hợp lực lượng. Năm 1875, Đảng Công nhân xã hội dân chủ Đức được thành lập tại Gôta (Gotha) trên cơ sở hợp nhất giữa 2 phái Látxan và Aidơnắc. Nhưng ngay từ đầu, cương lĩnh Gôta đã mang tính chất cơ hội Látxan nên không phát huy được tính tích cực của Đảng trong việc tổ chức và lãnh đạo công nhân đấu tranh. Vào cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa xét lại Becxtainơ (Bernsteiner) đại diện cho tầng lớp công nhân quý tộc xuất hiện. Becxtainer đòi xét lại chủ nghĩa Mác mà thực chất là sự biến tướng của chủ nghĩa tự do tư sản khoác áo Mácxít. Do vậy, phong trào công nhân Đức chịu tác động từ nhiều phía khác nhau. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh của công nhân Đức vẫn diễn ra rầm rộ dưới mọi hình thức khác nhau. Phổ biến nhất là bãi công đòi tăng lương, giảm giờ làm: năm 1890 có 226 cuộc thu hút 38.536 người tham gia, năm 1896 có 438 cuộc thu hút 128.308 người tham gia, từ 1903- 1904 có hơn 25 vạn người tham gia. Đặc biệt, trong 2 năm 1905, 1906 đã diễn ra những cuộc biểu tình thị uy của hơn 80 vạn công nhân ủng hộ cuộc cách mạng Nga đang diễn ra. 4.2.2. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI - Chính sách xâm lược thuộc địa : là một đế quốc trẻ, có tiềm lực kinh tế và quân sự hùng hậu, lại được trang bị tư tưởng “dân tộc đại Đức”, nước Đức ráo riết mở những cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa. Các nhà tư tưởng tư sản như F. Nixơ (Fridric Niss 1844 - 1890), Bixmắc không ngừng tuyên truyền cho tư tưởng sôvanh đòi chia lại thế giới “tính siêu việt của người German”, “nước Đức trên hết”. Giới cầm quyền Đức ráo riết xây dựng quân đội nhất là hải quân để thực hiện kế hoạch đánh chiếm các cứ điểm nhằm tấn công chiếm các thuộc địa của Anh, Pháp, Bỉ, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Đối với châu Á-Thái Bình Dương, Đức chiếm vịnh Giao Châu (1897) làm bàn đạp tiến vào Trung Quốc, xây dựng tuyến đường sắt Batđa (từ Bôxpho – Côoet) nhằm vào Ấn Độ, đánh chiếm các đảo ở Thái Bình Dương và Nam Mỹ để chống Bắc Mỹ. Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  21. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 21 Đối với châu Phi, Đức thành lập Tây Phi và Đông Phi thuộc Đức (1884 - 1885) gồm có Tôgô, Camơrun, Bắc Ghinê, Angra Pêkina, Danbia. Chính sách của Đức bị Anh phản đối gay gắt, mâu thuẫn Anh - Đức trở thành mâu thuẫn chủ yếu của chủ nghĩa đế quốc. - Chính sách ngọi giao trong thế giới tư bản chủ nghĩa: Mục đích lớn nhất cuả Đức là xác lập địa vị bá chủ ở châu Âu. Năm 1875, Đức ra lệnh báo động quân sự để uy hiếp Pháp. Lo sợ trước hành động của Đức, Anh và Nga lên tiếng phản đối làm cho âm mưu của Đức bị phá sản. Năm 1882, Đức ký với Ý, Áo-Hung hiệp ước liên minh quân sự tay ba đồng thời vẫn duy trì hiệp ước không chính thức với Nga (1873, được tái bảo đảm năm 1887) làm chỗ dựa cho cuộc đối đầu với Anh và Pháp. - Đức ráo riết chạy đua vũ trang. Từ năm 1909 đến 1914, chi phí quân sự Đức tới hơn 2 tỷ mác, tăng lên gần 33% chiếm gần 50% ngân sách quốc gia. Quân số lên tới 136.000 người năm 1912 với 232 tàu chiến các loại. Lò lửa chiến tranh đang được nhen nhúm ở Đức, đẩy nhân loại vào cuộc chiến tranh tàn khốc. 5. CÁC NƯỚC KHÁC Ở CHÂU ÂU 1870-1914 Ý, Áo-Hung, Nga là những nước đế quốc yếu hơn Anh, Pháp, Đức cũng có những bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế và chuyển biến sang giai đoạn độc quyền. Các nước này cũng tham gia tích cực vào những cuộc chiến tranh nhằm phân chia thế giới, đàn áp các phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa. Tuy vậy, hầu hết các nước này đều ít nhiều lệ thuộc vào các cường quốc nói trên. 6. NƯỚC MỸ 1870-1914 6.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ 6.1.2. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1870-1900 - Những điều kiện thuận lợi cơ bản : ƒ Sau cuộc nội chiến 1861-1865, giai cấp tư sản Mỹ thống nhất thành một lực lượng chính trị hùng hậu trong đó đại tư sản công thương nghiệp miền Bắc chiếm ưu thế so với đại địa chủ tư sản hoá miền Nam. Chính phủ Mỹ đã đề ra những biện pháp quan trọng để thúc đẩy kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển : ổn định lại chế độ tiền tệ (năm 1875, huỷ bỏ chế độ tiền giấy và quy định chế độ bản vị vàng cho đồng dollar, tiến hành trả công trái bằng tiền mặt ); điều chỉnh chế độ thuế khoá (năm 1872, giảm 10% thuế quan; tháng 10-1890, Tổng thống Mc Killey ban hành đạo luật hạ mức thuế đồng loạt các mặt hàng len dạ, nông phẩm, đường sắt; năm 1913, Tổng thống Wilson ban hành quy định giảm 16% thuế quan cho 958 mặt hàng thiết yếu); khuyến khích đầu tư, trang bị kỹ thuật mới nhất cho các cơ sở kinh tế; tạo điều kiện thuận lợi nhất để tư bản châu Âu đầu tư vào Mỹ ; thu hút các nhà bác học, công nhân lành nghề từ các nước đến Mỹ bằng chế độ đãi ngộ cao; chú ý đào tạo đội ngũ trí thức và công nhân lành nghề ƒ Nước Mỹ có điều kiện địa lý hết sức thuận lợi là nước nằm trọn vẹn ở Tây Bán cầu, cách xa đại lục Á - Âu thường xuyên có những biến động lớn nên phát triển kinh tế trong thời bình; miền Tây nước Mỹ rộng lớn, màu mỡ, chưa được khai phá là điều kiện để thu hút lao động phát triển kinh tế; hai mặt giáp hai đại dương là điều kiện hoà nhập kinh tế với các tam giác mậu dịch; tài nguyên thiên nhiên nhiên phong phú, giàu về trữ lượng Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  22. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 22 ƒ Nguồn nhân công dồi dào do chế độ nô lệ bị thủ tiêu làm cho nô lệ được giải phóng; các luồng nhập cư không ngừng gia tăng gia nhập đội ngũ công nhân làm thuê cho tư bản. ƒ Hệ thống đường sắt, đường bộ, đường thuỷ dày đặc làm cho thị trường lưu thông, kích thích sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa. - Công nghiệp Mỹ phát triển với tốc độ mạnh mẽ. Nếu năm 1860, sản lượng công nghiệp Mỹ mới chỉ đứng hàng thứ 4 thì đến năm 1894, đã vượt lên hàng đầu thế giới bằng ½ tổng sản lượng Tây Âu và gấp 2 lần Anh. Ngành giao thông vận tải đặc biệt phát triển làm tăng tốc độ khai thác và vận chuyển hàng hoá. Từ năm 1860 đến 1900, tổng chiều dài đường sắt tăng lên 6,5 lần (49,3 ngàn km lên 320,2 ngàn km) vượt quá tổng chiều dài đường sắt của các nước Tây Âu cộng lại ( Hiện nay cả Tây Âu có khoảng trên 400 ngàn km ). Cũng trong thời gian nói trên, tổng sản lượng than tăng gần 15 lần (18,5 ngàn tấn lên 270,9 ngàn tấn), gang tăng gần 2 lần (0,8 ngàn tấn lên 13,8 ngàn tấn). - Nông nghiệp Mỹ cũng đạt được những bước tiến rất dài. Từ năm 1860 đến 1900, diện tích canh tác tăng lên hơn 3 lần, sản lượng tăng lên gấp bội : lúa mì tăng 4 lần, ngô tăng 3,5 lần, kiều mạch tăng 5,5 lần; hàng nông phẩm xuất khẩu tăng lên nhanh chóng : 9/10 bông, ¼ lúa mạch thế giới, giá trị xuất khẩu tăng từ 250 triệu dollar lên tới 950 triệu dollar. Nhiều biện pháp kỹ thuật như cơ giới hoá triệt để, phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng cũng như chuyên môn hóa, thương phẩm hoá, sử dụng lao động làm thuê được áp dụng phổ biến. - Thương nghiệp Mỹ cũng rất phát triển dựa trên một thị trường nội địa thống nhất và một thị trường thế giới rộng mở. - Mặc dù nền kinh tế Mỹ rất phát triển nhưng nạn khủng hoảng vẫn thường xuyên xảy ra. Hàng loạt các xí nghiệp bị phá sản đẩy nhanh quá trình tập trung sản xuất và tư bản, hình thành các tổ chức lũng đoạn. Cuối thế kỷ XIX, hai tổ chức độc quyền lớn là Rốccơphenlơ ( Rockerffeller ) và Moócgan ( Morgan ) khống chế hầu như toàn bộ nền tài chính nước Mỹ, bước đầu lũng đoạn nền kinh tế và chính trị Mỹ. 6.1.2. TÌNH HÌNH KINH TẾ MỸ 1900-1914 - Công nghiệp Mỹ tiếp tục có những bước tiến mạnh mẽ khẳng định địa vị bá chủ thế giới. Năm 1913, sản lượng gang thép vượt Đức 2 lần, Anh 4 lần; than gấp 2 lần Anh và Pháp cộng lại. Thương nghiệp phát triển, năm 1900, tổng kim ngạch ngoại thương đạt 2,7 tỷ dollar thì đến 1914 tăng lên đến 5,5 tỷ dollar. Các ngành khác đều có tốc độ tăng trưởng vượt bậc tạo ra một nguồn của cải khổng lồ cho tư bản Mỹ. - Quá trình tập trung sản xuất và tư bản được đẩy mạnh trên quy mô lớn, tiếp tục hình thành các tổ chức độc quyền trong tất cả các ngành. Sự tập trung đó không chỉ diễn ra theo chiều ngang (cùng sản xuất một mặt hàng) mà còn theo chiều dọc (từng công đoạn trong quá trình chế tạo sản phẩm). Năm 1910, khoảng 1% số xí nghiệp sản xuất gần ½ tổng sản lượng công nghiệp trong nước. Các tơrớt nắm độc quyền sản xuất từng ngành trên phạm vị cả nước và có ý nghĩa khu vực, quốc tế. Tơrớt dầu lửa của tập đoàn Rốccơphenlơ có số vốn hàng tỷ dollar, có 7 vạn km đường ống dẫn dầu, hàng trăm tàu biển, kho hàng, giếng khoan, nhà máy, kiểm soát tới 90% ngành này. Nó còn thông qua hệ thống ngân hàng để chi phối hoạt động của nhiều công ty thuộc các lĩnh vực khác nhau. “Công ty thép Mỹ” (United States Steel Corporation) do tập đoàn tài chính Moócgan thành lập năm 1901 với số vốn ban đầu gần 7 tỷ dollar, sử dụng hơn 20 vạn công nhân, 5000ha đất mỏ than cốc, chi phối tới gần 2/3 ngành này. Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  23. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 23 Hai tơrớt trên còn khống chế ngành ngân hàng, các lĩnh vực công nghiệp khác, ruộng đất sở hữu tới 1/3 số của cải nước Mỹ. Ngoài ra, nhiều tập đoàn khác cũng là những “ông vua” trong các lĩnh vực như sản xuất nhôm, đồng, đường, thuốc lá, cao su, điện khí, điện tín và điện thoại - Sự xuất khẩu tư bản diễn ra tỷ lệ thuận với sự phát triển kinh tế. Từ năm 1899 đến 1913, tư bản Mỹ đã xuất ra nước ngoài tăng từ 0,5 tỷ dollar lên tới 2,6 tỷ dollar, gấp hơn 5 lần. Thị trường đầu tư của Mỹ là châu Mỹ, Trung Quốc, Philíppin, Nhật Bản - Mâu thuẫn trong xã hội tư bản Mỹ phát triển gay gắt. Sự phân hoá giàu nghèo mạnh mẽ nhất trên thế giới: 2% dân số chiếm 60% của cải trong khi 65% ở phía bên kia chỉ chiếm 5% của cải mà thôi. Nhân dân lao động bị bần cùng hoá,nạn thất nghiệp xảy ra thường xuyên. Giai cấp tư sản còn lũng đoạn chính trị làm cho tình hình khủng hoảng không ngừng diễn ra. 6.2. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ 6.2.1. CHÍNH SÁCH ĐỐI NỘI VÀ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN - Giai cấp tư sản Mỹ thi hành quyền lực thống trị của mình thông qua hai đảng Cộng hoà và Dân chủ. Đảng Cộng hoà do Abraham Lincoln (1809-1865) thành lập năm 1851, đại diện cho lợi ích của đại tư sản công thương nghiệp và tài chính, chủ trương thực hiện chính sách bảo hộ mậu dịch bằng thuế quan cao. Đảng Dân chủ thành lập năm 1791, sau nội chiến đại diện cho lợi ích của đại địa chủ, phú nông, tư sản miền Nam và tư sản miền Bắc phản đối chính sách bảo hộ mậu dịch. Cả hai đảng đều vì lợi ích của giai cấp tư sản và đối lập với quyền lợi của nhân dân lao động. Sự khác biệt chỉ là giả tạo nhằm lôi kéo sự ủng hộ của quần chúng nhân dân lao động trong cuộc chạy đua giành quyền chính trị để bảo vệ quyền lợi của bộ phận giai cấp. Trong giai đoạn này, các tập đoàn tài phiệt lũng đoạn cả hai đảng, cử người làm tổng thống vàtham gia các chức vụ của Nhà nước. Trên thực tế, các tập đoàn tư bản tài chính mới là kẻ thống trị của nước Mỹ. Từ năm 1860 đến 1884, Đảng Cộng hoà nắm quyền, sau đó là Đảng Dân chủ mà thực chất là do tập đoàn Morgan điều khiển. - Chính sách đàn áp người da đen và phong trào đấu tranh của họ. Sau khi cuộc nội chiến chấm dứt, người da đen được một số quyền lợi chính trị cơ bản như : quyền bầu cử và tham gia các cấp chính quyền, dân chủ hoá chính quyền địa phương. Nhưng khi quyền lực đã vững vàng, giai cấp tư sản liền phản bội quần chúng nhân dân. Năm 1872, Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật khôi phục quyền lợi của chủ nô và lập lại ách áp bức đối với người da đen. Năm 1881, đạo luật cấm người da đen tới những khu vực của người da trắng. Chính phủ Mỹ còn làm ngơ trước những hành động tàn ác của Đảng 3K (Klu-Klux-Klan, thành lập năm 1866 tại bang Tennessee). Chính sách đàn áp dã man đối với người da đen thể hiện tính chất bất công, vô nhân đạo của nền chính trị tư sản Mỹ cuối thế kỷ XIX. Nhiều phong trào đấu tranh của người da đen đã diễn ra. Oazingtơn (Wazington) là một đại biểu cho những người da đen đòi giải phóng nhưng chỉ đề cao biện pháp đấu tranh cải luơng là tự nâng cao đời sống kinh tế và nhận thức xã hội. Uyliam Đuyboa (William Dubour) khởi xướng phong trào Niagara đòi chấm dứt sự phân biệt đối xử với người da đen, đến năm 1910, phong trào gia nhập “Hội giúp người da đen tiến bộ toàn quốc”. Đây là một tổ chức tập hợp cả người da trắng, chủ trương đấu tranh cho sự bình đẳng về chủng tộc, pháp luật, kinh tế, xã hội và công đoàn. Tuy vậy, do nhận thức về vai trò và nhiệm vụ còn nhiều hạn chế nên phong trào đấu tranh của họ thiếu liên hệ với Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  24. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 24 phong trào công nhân, nông dân và ngược lại. Cuộc đấu tranh của người da đen còn phải tiếp tục trong những thời kỳ tiếp nối. - Phong trào công nhân và xã hội chủ nghĩa Mỹ có những đặc điểm riêng biệt: sự không ổn định về số lượng, thành phần phức tạp về chủng tộc, dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, trình độ tay nghề khác nhau, chịu tác động của nhiều trào lưu tư tưởng khác nhau Chính những đặc điểm này đã hạn chế phong trào công nhân Mỹ. Giai cấp tư sản đã triệt để lợi dụng và tạo ra sự chia rẽ để thống trị. Phong trào đấu tranh của công nhân Mỹ chịu sự chi phối của các tổ chức : Đảng Công nhân Xã hội Mỹ (1876 – American Social of Party), Liên đoàn Lao động Mỹ (1881 – American fedaration of Labour), Liên đoàn Công nhân Đường sắt Mỹ (1877 – American Railudy Union), Đảng Xã hội Mỹ ( 1901 – American Social of Party), Hội Công nhân sản nghiệp thế giới (1905 – Industrial World Worker) Cuộc đấu tranh giữa các khunh hướng cải lương và cách mạng, cơ hội, xét lại và Mácxít và sự chi phối của chủ nghĩa nghiệp đoàn vô chính phủ đã làm hạn chế sự phát triển của phong trào. Một số cuộc đấu tranh lớn của công nhân đã liên tục diễn ra. năm 1877- 1878, diễn ra cuộc tổng bãi công của công nhân đường sắt ở 17 bang lan sang các ngành khác với quy mô của một cuộc nội chiến nhỏ. Ngày 1- 5-1886, hơn 40 vạn công nhân các nhà máy, xí nghiệp ở Chicago đã tiến hành tổng bãi công đòi thực hiện ngày làm 8 giờ, mặc dù bị đàn áp dã man nhưng giai cấp tư sản đã buộc phải ban hành đạo luật ngày làm việc 8 giờ trong một số ngành. Trong ngày thành lập Quốc tế II ( 14 -7-1889 ), đại biểu công nhân các nước đã lấy ngày 1-5 làm ngày biểu dương sức mạnh của giai cấp công nhân toàn thế giới. Năm 1905, diễn ra cuộc bãi công của công nhân mỏ các bang miền Tây; năm 1907, ở bang Nevada; năm 1912, ở bang Maschasuset; năm 1914, ở Colorado 6.2.2. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI - Chính sách gây chiến xâm lược phù hợp với tham vọng của tư bản tài chính. Những đại biểu tư tưởng của giai cấp tư sản Mỹ không ngừng tuyên truyền cho chính sách này. Năm 1823, Mỹ nêu ra học thuyết Malroe về cái gọi là “châu Mỹ của người Mỹ” làm cơ sở cho “chủ nghĩa Liên Mỹ” vào năm 1889. Năm 1904, Theodor Roosevelt đưa ra chính sách “cái gậy lớn” nhằm độc chiếm châu Mỹ. Cũng trong năm 1889, Mỹ đưa ra chính sách mở cửa để phân chia thị trường Trung Quốc. - Trên cơ sở đó, Mỹ tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa. Đối với châu Á-Thái Bình Dương, từ năm1866-1882, Mỹ xâm lược bán đảo Triều Tiên và giành được một số quyền lợi bất bình đẳng; năm 1889, đặt Xamoa dưới quyền bảo hộ chung của 3 nước Mỹ, Anh, Đức; từ năm 1875-1893, Mỹ từng bước đặt Hawai dưới quyền bảo hộ của mình, tham gia chia phần ảnh hưởng ở Trung Quốc. Năm 1898, Mỹ gây chiến tranh với Tây Ban Nha và giành được quyền thống trị ở Philíppin, Puerto Rico, Guyam và được quyền bảo hộ Cuba; đổi lại, Mỹ phải trả cho Tây Ban Nha 20 triệu dollar. Trong chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905), Mỹ giúp Nhật đánh bại Nga để hạn chế quyền lợi của Nga tại viễn Đông. Đối với Mỹ Latin, thông qua học thuyết về “chủ nghĩa liên Mỹ”, chính sách “cái gậy lớn”, “chính sách ngoại giao đồng dollar”, Mỹ ngăn chặn sự xâm nhập của các nước tư bản châu Âu và độc chiếm Nam Mỹ. Mỹ sát nhập Hawai thành một bộ phận của Hợp chúng quốc; mua lại cổ phần công ty Panama của Pháp và tách Panama ra khỏi Colombia (1903) để độc chiếm vị trí chiến lược này; chi phối về Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  25. Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 25 chính trị và kinh tế các nước Mỹ Latinh; San Domingo, Mexico, Nicaragoa, Goatemana, Costa-Rica Như vậy, bằng đại bác và dollar, Mỹ đã từng bước xác lập quyền thống trị ở Tây Bán Cầu và xây dựng được nhiều căn cứ hải quân quan trọng ở Thái Bình Dương làm cầu nối tiến sang châu Á. Năm 1917, Mỹ tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất. Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử