Bài giảng Kinh tế nông nghiệp - Ðại học Thủy lợi

pdf 174 trang ngocly 3150
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Kinh tế nông nghiệp - Ðại học Thủy lợi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_kinh_te_nong_nghiep_ai_hoc_thuy_loi.pdf

Nội dung text: Bài giảng Kinh tế nông nghiệp - Ðại học Thủy lợi

  1. TRÝỜNG ÐẠI HỌC THỦY LỢI KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ Bộ môn quản lý xây dựng BÀI GIẢNG KINH TẾ NÔNG NGHIỆP (Dùng cho các lớp Cao học) Hà Nội, 2012
  2. MỤC LỤC CHƯƠNG 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ KINH TẾ HỌC NÔNG NGHIỆP 1 I. MỘT SỐ LÝ THUYẾT PHÁT TRIỂN VỀ NÔNG NGHIỆP. 1 1. Một số lý thuyết chung về phát triển kinh tế. 1 2. Một số lý thuyết về kinh tế nông nghiệp. 3 II. NHỮNG QUAN HỆ CÓ TÍNH VẬT CHẤT 8 1. Mối quan hệ giữa yếu tố sản xuất và lượng nông sản phẩm. 8 2. Mối quan hệ giữa các yếu tố sản xuất. 12 3. Mối quan hệ giữa các sản phẩm 13 III. MỐI QUAN HỆ KINH TẾ 15 1. Tối ưu hóa hiệu quả kinh tế trong mối quan hệ giữa yếu tố sản xuất và sản phẩm. 16 2. Tối ưu hóa hiệu quả kinh tế trong mối quan hệ giữa yếu tố và yếu tố 16 3. Tối ưu hóa hiệu quả kinh tế trong mối quan hệ giữa các sản phẩm 21 CHƯƠNG 2: KINH TẾ SỬ DỤNG CÁC YẾU TỐ NGUỒN LỰC TRONG NÔNG NGHIỆP 25 I. VAI TRÒ CÁC YẾU TỐ NGUỒN LỰC TRONG TĂNG TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP 25 1. Bản chất và đặc điểm của các yếu tố nguồn lực trong nông nghiệp. 25 2. Vai trò các yếu tố nguồn lực trong việc tăng trưởng và phát triển nông nghiệp. 27 II. SỬ DỤNG YẾU TỐ NGUỒN LỰC RUỘNG ĐẤT 28 1. Vị trí của yếu tố nguồn lực ruộng đất. 28 2. Đặc điểm của ruộng đất- tư liệu sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp. 29 3. Những vấn đề có tính quy luật về vận động của ruộng đất trong nền kinh tế thị trường 31 4. Quỹ đất và những đặc trưng của quỹ ruộng đất. 34 5. Những biện pháp chủ yếu để sử dụng đầy đủ và hợp lý đất nông nghiệp. 35 III. SỬ DỤNG YẾU TỐ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG NÔNG NGHIỆP 40 1. Khái niệm và đặc điểm của nguồn nhân lực trong nông nghiệp. 40 2. Xu hướng biến đổi nguồn nhân lực trong nông nghiệp 40 3. Phân bố và sử dụng nguồn nhân lực trong nông nghiệp nước ta. 41 4. Tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động nông nghiệp. 43 5. Phương hướng và biện pháp sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực trong NN nước ta. 44 IV. SỬ DỤNG NGUỒN LỰC VỐN TRONG NÔNG NGHIỆP 48 1. Vai trò và đặc điểm của vốn sản xuất trong nông nghiệp. 48 2. Vốn cố định trong nông nghiệp 49 3. Vốn lưu động trong nông nghiệp. 58 4. Biện pháp tạo vốn và sử dụng có hiệu quả vốn sản xuất trong nông nghiệp. 62 CHƯƠNG 3: SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ CHUYÊN MÔN HÓA SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP 70 i
  3. I. BẢN CHẤT CỦA SẢN XUẤT HÀNG HOÁ VÀ CHUYÊN MÔN HOÁ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP. 70 1. Sản xuất hàng hoá. 70 2. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá. 71 3. Chỉ tiêu phản ánh trình độ của sản xuất hàng hoá. 72 4. Ưu thế của sản xuất hàng hoá. 73 5. Kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. 74 6. Chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp. 75 II. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SẢN XUẤT HÀNG HOÁ VÀ CHUYÊN MÔN HOÁ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP 77 1. Những nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên của sản xuất nông nghiệp. 77 2. Những nhân tố thuộc về điều kiện kinh tế - xã hội. 78 3. Các yếu tố thuộc về điều kiện kỹ thuật. 80 III. CÁC VÙNG SẢN XUẤT CHUYÊN MÔN HOÁ TRONG NÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM 82 1. Phân vùng kinh tế nông nghiệp. 82 2. Các vùng kinh tế - vùng chuyên môn hoá nông nghiệp ở Việt Nam. 83 IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THÚC ĐẨY CÁC VÙNG CHUYÊN MÔN HOÁ Ở VIỆT NAM TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN. 97 1. Hoàn chỉnh công tác qui hoạch các vùng chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp. 98 2. Quản lý thực hiện qui hoạch. 98 CHƯƠNG 4: KINH TẾ HỌC CUNG CẦU VÀ SỰ CÂN BẰNG THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN 103 I. CUNG SẢN PHẨM NÔNG NGHIỆP. 103 1. Khái niệm và biểu diễn cung sản phẩm nông nghiệp. 103 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến cung nông sản trên thị trường. 105 II. CẦU SẢN PHẨM NÔNG NGHIỆP 108 1. Khái niệm và biểu diễn cầu sản phẩm nông nghiệp. 108 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu nông sản tiêu dùng cuối cùng. 111 III. SỰ CÂN BẰNG CUNG CẦU NÔNG SẢN PHẨM VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ 114 1. Sự cân bằng cung cầu nông sản phẩm. 114 2. Sự mất cân bằng cung cầu nông sản và vai trò điều tiết của Chính phủ. 115 CHƯƠNG 5: KINH TẾ SẢN XUẤT NGÀNH TRỒNG TRỌT 120 I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA NGÀNH TRỒNG TRỌT 120 1. Ý nghĩa kinh tế và khả năng phát triển ngành trồng trọt 120 2. Cơ cấu sản xuất ngành trồng trọt 121 3. Xây dựng các vùng sản xuất chuyên môn hoá những cây trồng chủ yếu. 125 ii
  4. 4. Phương hướng và giải pháp phát triển ngành trồng trọt. 127 II. KINH TẾ SẢN XUẤT CÁC TIỂU NGÀNH TRỒNG TRỌT 129 1. Kinh tế sản xuất cây lương thực. 129 2. Kinh tế sản xuất cây công nghiệp. 135 3. Kinh tế sản xuất cây ăn quả. 139 4. Kinh tế sản xuất rau. 141 CHƯƠNG 6: KINH TẾ SẢN XUẤT NGÀNH CHĂN NUÔI 148 I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA NGÀNH CHĂN NUÔI. 148 1. Ý nghĩa kinh tế phát triển chăn nuôi. 148 2. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành chăn nuôi. 149 3. Thức ăn - nguồn nguyên liệu cơ bản của chăn nuôi. 151 4. Phương hướng và biện pháp đẩy mạnh phát triển chăn nuôi ở nước ta. 154 II. KINH TẾ SẢN XUẤT CÁC TIỂU NGÀNH CHĂN NUÔI CHỦ YẾU Ở NƯỚC TA 158 1. Chăn nuôi trâu bò - ngành chăn nuôi quan trọng ở nước ta. 158 2. Chăn nuôi lợn - ngành chăn nuôi lấy thịt chủ yếu ở nước ta. 162 3. Chăn nuôi gia cầm, ngành chăn nuôi lấy trứng thịt và thịt quan trọng ở nước ta. 166 iii
  5. CHƯƠNG 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ KINH TẾ HỌC NÔNG NGHIỆP I. MỘT SỐ LÝ THUYẾT PHÁT TRIỂN VỀ NÔNG NGHIỆP. 1. Một số lý thuyết chung về phát triển kinh tế. Trong buổi đầu phôi thai của khoa học kinh tế, chúng ta có thể coi việc xuất bản sách: "Của cải của các dân tộc" của Adam Smith (1723 - 1790), xuất bản năm 1776 là cái mốc đánh dấu sự khai sinh của khoa học kinh tế. Các nhà kinh tế học trước A. Smith, do họ còn ít hiểu biết cách thức hoạt động của một nền kinh tế thị trường, nên đã hăng hái can thiệp vào thị trường. Cống hiến lớn nhất của A. Smith là ông đã nhìn thấy trong thế giới xã hội của kinh tế học cái mà I. Newton đã nhận ra trật tự tự nhiên có tính chất tự điều chỉnh trong thế giới vật chất và vũ trụ. A. Smith là người đầu tiên phân tích về chủ nghĩa tư bản thị trường, Ông cho rằng hiệu quả cao và cân đối trong hệ thống kinh tế có thể thực hiện được nếu để cho thị trường tự do cạnh tranh không có sự can thiệp của Chính phủ. Quan điểm cơ bản của A. Smith là nếu để các cá nhân được tự do theo đuổi các lợi ích cá nhân của mình, thì bàn tay vô hình của thị trường cạnh tranh có thể làm cho họ có trách nhiệm về mặt xã hội, sản phẩm mong muốn của người tiêu dùng sẽ được sản xuất phù hợp về chủng loại và khối lượng, cân bằng giữa người tiêu dùng và người sản xuất có thể được hình thành tự động trên thị trường cạnh tranh. Nếu có sự mất cân bằng giữa người sản xuất và tiêu dùng thì giá cả trên thị trường sẽ điều chỉnh để đưa ra hai nhóm tác nhân kinh tế này tới điểm cân bằng. Lý thuyết về bàn tay vô hình là cốt lõi chân lý trong học thuyết của A. Smith, là nền tảng lý thuyết của trường phái kinh tế tự do thế kỷ 19. T. R. Malthus (1776 - 1834) trong cuốn sách: Tiểu phẩm về nguyên tắc dân số (1798)của mình, ông tán thành nhận xét B. Franklin rằng trong các thuộc địa của Mỹ giàu tài nguyên, dân số có xu hướng tăng gấp đôi trong khoảng 25 năm. Từ đó T. R. Malthus đã đưa ra định đề về xu hướng phổ biến của dân số là tăng theo cấp số nhân và đưa ra quy luật thu nhập giảm dần. Ông ta lập luận rằng vì đất đai là cố định, trong khi lực lao động cứ tăng mãi cho nên lương thực chỉ có thể tăng theo cấp số cộng chứ 1
  6. không theo cấp số nhân. Ông đưa ra lý thuyết nói rằng việc tăng dân số nhất định sẽ giảm bớt tiền công của lao động xuống chỉ đủ sống. May thay lời tiên tri của T.R. Malthus đã sai, bởi lẽ trong khi bàn về vấn đề thu nhập giảm dần, ông đã không lúc nào dự kiến được đầy đủ các hiện tượng thần kỳ về kỹ thuật trong cuộc cách mạng công nghiệp. Tiến bộ kỹ thuật đã đẩy lùi giới hạn sản xuất ở nhiều nước ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Sự thay đổi của công nghệ nhanh chóng đã làm sản lượng vượt xa dân số, với kết quả là tiền lương thực tế tăng lên. D. Ricardo (1772 - 1823) nhân vật chủ chốt của thời kỳ này và cuốn sách: Nguyên lý kinh tế chính trị và thuế khóa (1817) đã làm cho Ông trở nên nổi tiếng. Ông đã đưa ra một sự phân tích kỹ lưỡng về lý thuyết giá trị lao động. Phân tích của D. Ricardo về gánh nặng nợ công cộng là lời cảnh báo tốt cho những năm cuối của thế kỷ XX. Thành tựu chính của Ông là đã phân tích các quy luật phân phối thu nhập trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Ông đứng vững trên cơ sở lý thuyết giá trị lao động để giải thích các vấn đề lý thuyết kinh tế. Nếu A. Smith đã có công lao trong việc đưa tất cả các quan điểm kinh tế có từ trước đó, cấu kết lại thành một hệ thống, thì D. Ricardo xây dựng hệ thống đó trên một nguyên tắc thống nhất, là thời gian lao động quyết định giá trị hàng hóa. Tuy nhiên, cũng như T.R. Malthus, D. Ricardo đã theo thuyết sai lầm về thu nhập giảm dần đúng vào lúc các tiến bộ kỹ thuật của cuộc cách mạng công nghiệp đang thắng quy luật thu nhập giảm dần. Tiếp theo là trường phái tân cổ điển, trong đó nhánh tiêu biểu là trường phái của C. Mác với Bộ Tư bản được xuất bản vào các năm 1867 - 1885 và 1894 trình bày về giá trị sức lao động và bản chất của giá trị thặng dư. Dựa trên kết quả nghiên cứu của mình, C. Mác đã kết luận về tính tất yếu của sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Vào năm 1936 tác phẩm "Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ" của J. M. Keynes (1883 -1946) đã tạo cơ sở nền móng cho trường phái kinh tế học vĩ mô hiện đại. Theo J. M. Keynes để đảm bảo sự cân bằng kinh tế, khắc phục thất nghiệp và khủng hoảng thì không thể dựa vào cơ chế thị trường tự điều tiết, mà cần phải có sự 2
  7. can thiệp của Nhà nước vào kinh tế để tăng cầu có hiệu quả, kích thích tiêu dùng, sản xuất, kích thích đầu tư để đảm bảo việc làm và tăng thu nhập. Ông còn sử dụng công cụ tài chính, tín dụng và lưu thông tiền tệ để kích thích lòng tin, tính lạc quan và tích cực đầu tư của nhà kinh doanh. Để bù đắp những thiếu hụt của ngân sách, Nhà nước có thể in thêm tiền giấy. Ông còn chủ trương sử dụng công cụ thuế để điều tiết kinh tế v.v J.M. Keynes tiêu biểu cho một nhánh khác chạy suốt từ kinh tế học tân cổ điển cho đến kỷ nguyên hiện nay của kinh tế học - trường phái chính hiện đại. Những năm cuối của thế kỷ 19 người ta đã đưa kiến thức toán vào kinh tế học, tiêu biểu là Jevons, Valras, V. Pareto nhằm phát triển những kỹ thuật đặc biệt thích hợp với một lĩnh vực nghiên cứu không có thí nghiệm, như kinh tế học, để đo lường sản lượng và thu nhập quốc dân. Kinh tế học thuộc trường phái chính hiện đại đã đưa đến sự hoạt động tốt hơn của nền kinh tế hỗn hợp. Mặc dù có sự trả lời khác nhau của lịch sử về những lời tiên đoán trong các học thuyết kinh tế, sự thật là nền kinh tế các nước đã chuyển từ nền kinh tế thị trường tự do sang nền kinh tế hỗn hợp và gần đây một số nước đang chuyển từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế hỗn hợp. 2. Một số lý thuyết về kinh tế nông nghiệp. Nông nghiệp là lĩnh vực sản xuất có những nét đặc thù, là ngành sản xuất gắn với sinh vật (cây trồng, vật nuôi), bị chi phối bởi quy luật sinh học, các điều kiện ngoại cảnh (đất đai, thời tiết - khí hậu) và là ngành sản xuất ra sản phẩm tất yếu để xã hội tồn tại và phát triển, vì thế từ lâu rất được các nhà kinh tế quan tâm và được đề cập nhiều trong các lý thuyết kinh tế, nhất là trong các mô hình phát triển kinh tế của các nước chậm phát triển hiện đang tiến hành công nghiệp hoá. D. Ricardo, nhà kinh tế học cổ điển lỗi lạc cho rằng lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lương mà nhà tư bản trả cho công nhân. Xu hướng giảm sút tỷ suất lợi nhuận được ông giải thích bởi nguyên nhân nằm trong sự vận động, biến đổi thu nhập của ba giai cấp: địa chủ, công nhân và nhà tư bản. D. Ricardo cho rằng do quy luật màu mỡ đất đai ngày càng giảm, giá cả nông sản tăng lên làm cho tiền lương công nhân tăng và địa tô tăng lên, còn lợi nhuận không tăng. Như vậy, địa chủ là người có lợi, công nhân không được lợi và cũng không bị hại còn nhà tư 3
  8. bản bị thiệt do tỷ suất lợi nhuận giảm. Kết luận này rõ ràng không còn phù hợp trong thời đại tiến bộ khoa học công nghệ ngày nay. Công lao to lớn của D.Ricardo là phân tích địa tô. Điểm nổi bật của lý thuyết địa tô được Ông phân tích dựa trên cơ sở lý thuyết về lao động. D.Ricardo lập luận rằng, do đất đai canh tác bị hạn chế, độ màu mỡ đất đai giảm đi, năng suất đầu tư đem lại không tương xứng, trong khi đó dân số tăng nhanh làm cho nông sản trở nên khan hiếm, trở nên hiện tượng phổ biến trong mọi xã hội. Điều này đã buộc con người phải canh tác cả trên đất xấu. Vì phải canh tác trên đất xấu nên giá trị nông sản do hao phí lao động trên đất xấu quyết định. Vì vậy khoản chênh lệch về lượng nông sản do cùng một lượng đầu tư như nhau trên một đơn vị diện tích ruộng đất tốt hoặc trung bình so với một đơn vị diện tích ruộng đất xấu được gọi là địa tô và khoản chênh lệch này được trả cho địa chủ. Tuy nhiên, hạn chế quan trọng nhất trong lý thuyết địa tô của D. Ricardo là ông không thừa nhận địa tô tuyệt đối. C.Mác đã dành sự quan tâm đáng kể cho việc nghiên cứu về vấn đề địa tô. Sau khi nghiên cứu lý luận địa tô của các học giả trước C. Mác, như Andiexơn, A.Smith, D.Ricardo v.v. C.Mac đã bình luận, phê phán sâu sắc những quan điểm, nội dung về lý luận địa tô của các học giả này. Những nghiên cứu này được trình bày khá kỹ trong cuốn sách: "Các học thuyết về giá trị thặng dư" phần II (từ chương IX đến chương XIV - quyển IV của Bộ tư bản). Trên cơ sở đó C.Mác đã trình bày quan điểm của mình về địa tô trong quyển III của Bộ tư bản, phần II. ở phần này C.Mác đã trình bày khá cụ thể về các loại địa tô, trong đó Ông đã dành sự quan tâm thích đáng đến địa tô chênh lệch. Theo C.Mac khi hai lượng tư bản và lao động ngang nhau thì lợi nhuận siêu ngạch ấy chuyển thành địa tô. Địa tô chênh lệch bao gồm hai loại: địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II. Địa tô chênh lệch I được tạo thành là do sự khác biệt về độ phì nhiêu tự nhiên của ruộng đất và vị trí địa lý của các thửa đất đem lại. ảnh hưởng đến độ phì nhiêu tự nhiên của đất, theo C.Mác là do cấu thành lý học (cấu tượng đất, chất đất, v.v ) hóa học đất (các thành phần dinh dưỡng trong đất và khả năng cung cấp các chất dinh dưỡng cho cây trồng), điều kiện thời tiết - khí hậu (ôn độ, ánh sáng, lượng mưa v.v ). 4
  9. Địa tô chênh lệch II được tạo thành do đầu tư tư bản khác nhau trên cùng một thửa đất. C.Mác nhấn mạnh địa tô chênh lệch I là tiền đề, là điểm xuất phát để tạo thành địa tô chênh lệch II. Ông đã phân tích khá sâu về địa tô chênh lệch II, xem xét địa tô chênh lệch II được tạo thành trong ba trường hợp giả định: giá cả sản xuất không thay đổi, giá cả sản xuất giảm xuống và giá cả sản xuất tăng lên Lý thuyết phát triển cân đối của R. Nurkse, là người đi tiên phong trong lý thuyết phát triển, cho rằng cần đầu tư vốn đồng bộ để phát triển rộng rãi các ngành khác nhau, bởi đây là cách duy nhất để tránh khỏi vòng tròn luẩn quẩn của nghèo đói. R. Nurkse quan tâm đến vấn đề tăng thu nhập quốc dân bình quân đầu người bằng cách tạo ra những chuyển biến để thoát khỏi nông nghiệp, là khu vực thu hút quá nhiều nhân công. Ông cho rằng lao động dư thừa cần phải được chuyển khỏi nông nghiệp, đáp ứng sự hình thành tư bản cho các công trình xây dựng, công xưởng, máy móc. Tình hình đó sẽ tăng năng lực sản xuất và nhu cầu chung cần thiết cho sản phẩm có thu nhập cao lâu dài, từ đó đạt được sự cân đối tốt hơn trong nền kinh tế. Tuy nhiên, với lý thuyết phát triển cân đối làm phân tán các nguồn lực rất có hạn của quốc gia. Chính vì vậy, chỉ sau một thời kỳ tăng trưởng, các nền kinh tế theo đuổi mô hình cơ cấu cân đối đã nhanh chóng rơi vào tình trạng thiểu năng. Lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối, tiêu biểu cho trường phái này là A. Hirschman, F.Perrons và G.Bernis. Lý thuyết không cân đối cho rằng các nước chậm phát triển không thể và không nhất thiết phải đảm bảo tăng trưởng bền vững bằng cách duy trình cơ cấu cân đối liên ngành, mà cần tập trung tài nguyên, vốn, năng lực quản lý vào những ngành chủ yếu. Việc phát triển cơ cấu ngành không cân đối sẽ gây nên áp lực, tạo ra sự kích thích đầu tư. Trong mối tương quan giữa các ngành, một mặt nếu cung bằng cầu thì sẽ triệt tiêu động lực khuyến khích đầu tư để nâng cao năng lực sản xuất, mặt khác, trong mỗi giai đoạn phát triển của thời kỳ công nghiệp hoá, vai trò "cực tăng trưởng" của các ngành trong nền kinh tế là không giống nhau. Vì thế, cần tập trung các nguồn lực khan hiếm cho một số lĩnh vực trong những thời điểm nhất định với ý nghĩa là những ngành, lĩnh vực đầu tàu lôi kéo toàn bộ nền kinh tế phát triển. Việc vận dụng lý thuyết này để chọn ngành chủ đạo được bàn luận khá nhiều. A. 5
  10. Hirschman (1959) đã xác định những ngành chủ yếu là những ngành có mối liên kết to lớn nhất theo ý nghĩa đầu vào - đầu ra với các ngành công nghiệp khác và những ngành sản xuất không phải nông nghiệp hay công nghiệp nhẹ thuộc nhánh dưới mà là những ngành công nghiệp thuộc nhánh giữa và nhánh trên sử dụng nhiều vốn, đặc biệt là ngành công nghiệp nặng. Thực tế phát triển kinh tế ở các nước Mỹ La Tinh, ấn Độ cho thấy các ngành công nghiệp này, với kết quả không những bản thân các ngành công nghiệp này hoạt động kém hiệu quả mà còn trút hậu quả xuống các ngành công nghiệp nhánh dưới. Mô hình hai khu vực của A. Lewis, mô hình này ra đời vào những năm 1950, sau đó được John Fei và G. Ranis mở rộng. Mô hình hai khu vực của Lewis trở thành lý thuyết "khái quát" về quá trình phát triển trong các nước thuộc thế giới thứ ba thừa lao động. Mô hình này được thừa nhận trong gần suốt những năm 1960 và đầu những năm 1970. Trong mô hình Lewis, nền kinh tế kém phát triển có hai khu vực, đó là khu vực nông thôn mang tính truyền thống, dân số đông đúc, nền kinh tế kém phát triển, lao động dư thừa so với các yếu tố sản xuất khác, năng suất lao động bằng không, do đó có thể cung cấp vô hạn lao động sang khu vực công nghiệp mà không hề làm giảm sản lượng. Thứ hai là khu vực công nghiệp thành thị hiện đại, năng suất cao mà lao động từ khu vực truyền thống chuyển sang đó. Trọng tâm của mô hình này là quá trình chuyển dịch lao động từ khu vực sinh tồn - nông nghiệp sang khu vực hiện đại - công nghiệp và sự tăng sản lượng, việc làm trong khu vực hiện đại. Sự chuyển dịch đó là kết quả của sự mở rộng quy mô sản xuất trong khu vực công nghiệp. Tốc độ chuyển dịch phụ thuộc vào tỷ lệ đầu tư công nghiệp và tích lũy tư bản trong khu vực hiện đại. Mức tiền công trong khu vực công nghiệp được giả định là không thay đổi và bị quy định như là một mức nhất định cao hơn mức tiền công trung bình trong khu vực sinh tồn (theo Lewis giả định cao hơn 30% để thúc đẩy nông dân di cư ra khỏi vùng quê của họ). Mô hình của Lewis - Fei - Ranis đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự biến đổi cơ cấu trong những nước chậm phát triển, có giá trị phân tích nhất định ở chỗ, nó nhấn mạnh hai yếu tố chủ yếu của vấn đề công ăn việc làm, đó là những sự khác biệt về kinh tế và cơ cấu giữa hai khu vực nông thôn, thành thị và cơ chế của quá trình chuyển giao lao động giữa hai khu vực. 6
  11. Tuy nhiên thực tế phát triển ở Trung Quốc, Philippin, Indonexia v.v với những cuộc di dân ồ ạt từ nông thôn ra thành thị đã gây ra tình trạng giảm sút nghiêm trọng sản xuất nông nghiệp, thiếu hụt lương thực trong các nước này. Vì vậy theo Oshima hình mẫu phát triển có lẽ phải bắt đầu từ hiệu suất nông nghiệp, nhất là trường hợp ở các nước Châu á gió mùa, nơi thu nhập hàng năm và năng suất lao động theo đầu người quá thấp. Những ý đồ nhằm duy trì năng suất do biến đổi cơ cấu sẽ không thành công, nếu trước tiên không tăng hiệu suất nông nghiệp, trừ phi việc tăng thu thập do xuất khẩu sản lượng công nghiệp và nhập khẩu lương thực. Tuy nhiên điều này rất khó thực hiện trong giai đoạn đầu của tăng trưởng khi quản lý công nghiệp, kỹ năng, vốn, quy mô và kinh tế đối ngoại chưa phát triển tốt. Đặc biệt với các nước đang phát triển, nhu cầu về nguồn lực có trình độ cao trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá là một đòi hỏi quá lớn. Lý thuyết các giai đoạn phát triển kinh tế của W.Rostow, còn được gọi là mô hình suy diễn lịch sử, đã chia tiến trình kinh tế thành năm gian đoạn: Giai đoạn xã hội truyền thống (nông nghiệp là nền tảng của nền kinh tế), giai đoạn chuẩn bị cất cánh (đã xuất hiện các khu vực kinh tế có tác dụng lôi kéo, thúc đẩy sự phát triển), giai đoạn cất cánh (tỷ lệ đầu tư tăng từ 5 đến 10% tổng sản phẩm quốc dân), giai đoạn hướng tới sự chín muồi kinh tế (tỷ lệ đầu tư cao, xuất hiện nhiều cực tăng trưởng, làm thay đổi cơ cấu kinh tế), và giai đoạn kỷ nguyên tiêu dùng cao. Với cách phân chia này các nước đang phát triển hiện nay ở vào giai đoạn 1 đến 3. Xã hội có trình độ phát triển còn thấp thì khu vực nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn về cơ cấu giá trị sản phẩm và cơ cấu lao động. Như vậy, có thể nói rằng hầu hết các lý thuyết của các nhà Kinh tế học trước đây đều không thuần túy tập trung nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp, mà đều đặt nông nghiệp trong mối quan hệ với các ngành, các lĩnh vực khác, trước hết là với công nghiệp. Ngày nay, hơn bao giờ hết, phát triển nông nghiệp càng phải đặt trong mối quan hệ tổng thể với các lĩnh vực, các ngành khác như: xuất khẩu, du lịch, công nghiệp, môi trường Do vậy khi nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp cũng phải nghiên cứu trong mối quan hệ tổng thể. 7
  12. II. NHỮNG QUAN HỆ CÓ TÍNH VẬT CHẤT Cũng như các ngành kinh tế khác, kinh tế nông nghiệp cũng quan tâm đến việc phân phối nguồn tài nguyên ít ỏi cho nhiều phương hướng sản xuất, trong đó tìm mọi cách để lựa chọn sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu và sản xuất như thế nào? Vai trò quyết định thuộc về các chủ hộ nông dân, chủ trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp được coi như là một tác nhân cụ thể làm nhiệm vụ chuyển đổi các yếu tố đầu vào thành các loại nông sản hàng hóa mong muốn, đó là các yếu tố đầu ra. Để tạo ra nông sản phẩm, cần có sự phối hợp giữa các yếu tố đầu vào và hiệu quả của nó tùy thuộc vào trình độ phối hợp hợp lý giữa các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Chúng ta có thể biểu thị mối quan hệ đó theo hàm sản xuất có dạng sau: Q = f(x1, x2, x3 xn) Trong đó: Q: Số lượng một loại sản phẩm được sản xuất ra. x1, x2, x3 xn: lượng một số yếu tố đầu vào được sử dụng trong quá trình sản xuất ra nông sản phẩm. Chẳng hạn: x1 là lượng phân bón, x2 là lượng hạt giống v.v Hàm sản lượng này cho chúng ta một khái niệm có tính chất thuần túy vật chất, nhằm mô tả lượng đầu ra tối đa về vật chất quan hệ với việc sử dụng một hoặc một số yếu tố đầu vào nhất định về vật chất. ở đây sẽ xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố sản xuất với lượng nông sản phẩm sản xuất ra và quan hệ giữa các yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất ra sản phẩm. 1. Mối quan hệ giữa yếu tố sản xuất và lượng nông sản phẩm. Để tạo ra một loại nông sản nhất định, cần thiết phải sử dụng nhiều yếu tố đầu vào khác nhau, như phân bón, hạt giống, nước, thuốc trừ sâu bệnh v.v ở đây, giả định yếu tố phân bón thay đổi theo hướng tăng lên, còn các yếu tố khác không đổi, chúng ta có thể thấy được mối quan hệ giữa sản phẩm đầu ra và yếu tố đầu vào (phân bón) biến đổi duy nhất đó, được biểu thị ở hình 1.1 về đường cong sản phẩm. ở đây (trong điều kiện sử dụng các yếu tố khác không đổi ở mức nhất định với trình độ công nghệ nhất định), nếu 8
  13. tăng lượng phân bón được sử dụng thì lượng nông sản phẩm tăng lên. Sự tăng lượng phân bón đến mức nhất định sẽ đạt sản lượng sản phẩm đầu ra cực đại và nếu tăng lượng phân bón tiếp tục, sản lượng nông sản sẽ giảm xuống. Hình 1.1 cho ta thấy mối quan hệ đó. Để tiếp tục làm rõ mối quan hệ giữa yếu tố sản xuất và lượng sản phẩm, cần coi trọng hai khía cạnh sau đây: Hình 1.1: Đường cong sản phẩm Hình 1.2: Đường cong sản phẩm cận biên, sản phẩm bình quân a. Sản lượng cận biên (ký hiệu MP) Người nông dân luôn băn khoăn với câu hỏi: liệu chi phí đầu tư tăng thêm có đem lại sản lượng nông sản bổ sung tương ứng không? Cứ mỗi lần tang thêm một lượng phân bón nhất định, có thể thu được một lượng nông sản tăng bổ sung, phần sản lượng tăng thêm đó gọi là sản lượng cận biên. Nếu x1 biến đổi một lượng ∆x1 thì Q cũng biến đổi một lượng ∆Q tương ứng. Sản lượng cận biên của yếu tố x1 biến đổi được biểu thị với dạng sau: 9
  14. Nếu x1 biến đổi vô cùng nhỏ thì MPx1 chính là đạo hàm bậc nhất của Q, đó chính là độ nghiêng đường cong của đạo hàm Q tại điểm quan sát. Theo tính chất của đạo hàm bậc nhất, Theo tính chất của đạo hàm bậc nhất, MPx1 sẽ đạt cực đại (độ dốc của TP lớn 0 nhất) tại điểm uốn của đường cong tổng sản phẩm TP (đầu vào ở mức x1 ) và tại điểm 2 cực đại của đường cong tổng sản phẩm (đầu vào ở mức x1 ), và MPx1<0 khi đầu vào 2 lớn hơn x1 . b. Sản lượng bình quân (ký hiệu AP). Tại mỗi điểm x1 có sản lượng Q tương ứng. Sản lượng bình quân của yếu tố đầu vào biến đổi biểu thị bằng phương trình sau: Trong đó: AP là sản lượng bình quân, x1 là trị số của yếu tố đầu vào, Q là sản lượng tương ứng với mỗi mức của x1. Trên hình 1.1, sản lượng bình quân ở mức sử dụng đầu vào nhất định được xác định bằng độ dốc của đường thẳng từ điểm gốc (0) lên đường cong tại điểm tương ứng. 1 Các phương trình trên giải thích tại sao APx1 = MPx1 tại điểm x1 ở hình 1.1 (độ dốc của đường cong sản phẩm TP bằng độ dốc của đường thẳng xuất phát từ điểm gốc (0) gặp đường cong TP tại điểm tương ứng với x1) và tại sao APx1 đạt cực đại ở điểm đó (đường thẳng xuất phát từ điểm gốc gặp đường cong tại đó có độ dốc lớn nhất). c. Quy luật sản lượng giảm dần. Khi một yếu tố đầu vào được sử dụng tăng dần mà các yếu tố đầu vào khác không thay đổi thì sản lượng nông sản tăng lên, nhưng mức tăng tổng sản lượng sẽ ngày càng giảm đi. Điều đó có nghĩa là sau khi tăng mức phân bón qua một số điểm, sản lượng cận biên của yếu tố đầu vào sẽ giảm đi. Đó là quy luật sản lượng giảm dần. Ở hình 1.2 mối quan hệ giữa yếu tố và sản phẩm là một trong những nhân tố làm tăng lợi nhuận cho tới khi 10
  15. 0 tại mức sử dụng phân bón x1 , nhưng lại làm giảm lợi nhuận cận biên khi sử dụng nhiều 0 hơn x1 . Trên hình 1.1 và 1.2 các đường cong TP, và MP và AP được chia thành bốn mức độ khác nhau, ở mức độ I, sản phẩm bình quân của x1 là APx1 và sản phẩm biên đều tăng lên, ở mức độ II sản phẩm cận biên (MPx1) bắt đầu giảm nhưng sản phẩm bình quân vẫn còn tăng, ở mức độ III cả APx1 lẫn MPx1 đều giảm nhưng còn là một số dương, ở mức độ IV sản phẩm cận biên đã thành số âm (hình 1.2). Một hàm số đơn giản về mối quan hệ giữa yếu tố và sản phẩm có thể thấy rõ ở biểu 3.1 với 3 yếu tố đầu vào là phân bón, đất đai và lao động để trồng lúa. Nếu 3 loại đầu vào đều sử dụng một đơn vị, tổng sản lượng sẽ đạt 6 tạ lúa. Sau đó, các yếu tố đất đai và lao động không thay đổi, yếu tố phân bón tăng lên thì sản lượng lúa tăng lên. Tại điểm x1 = 3 đơn vị, trị số sản phẩm cận biên MPx1 = 14,25 (đạt cao nhất). Sau đó nếu tiếp tục tăng x1, trị số sản phẩm cận biên sẽ có tốc độ tăng chậm dần. Tại điểm x1= 4 đơn vị, trị số sản phẩm cận biên bằng trị số sản phẩm bình quân. Nếu biểu diễn trên đồ thị, tại x1 = 4 đơn vị, đường cong biểu diễn MPx1 sẽ cắt đường cong biểu diễn APx1. Bảng 1.1: Mối quan hệ giữa yếu tố đầu vào và sản lượng lúa Sản lýợng Số ðõn vị phân Số ðõn vị Số ðõn vị lao SL lúa cận SL lúa bình bón (x1) ðất ðai (x2) ðộng (x3) lúa Q (tạ) biên MP (tạ) quân AP (tạ) 1 1 1 6,0 6,0 6,0 2 1 1 15,0 9,0 7,5 3 1 1 29,25 14,25 9,75 4 1 1 39,0 9,75 9,75 5 1 1 44,0 5,0 8,8 6 1 1 48,5 4,5 8,1 7 1 1 52,0 3,5 6,8 8 1 1 54,6 2,6 6,8 9 1 1 56,5 1,9 6,3 10 1 1 50,5 -6,0 5,1 11
  16. 2. Mối quan hệ giữa các yếu tố sản xuất. Trong sản xuất nông nghiệp, để tạo ra sản phẩm cần phải phối hợp nhiều yếu tố đầu vào, thông thường có thể có nhiều yếu tố biến đổi. Giả định có hai yếu tố đầu vào biến đổi (x1 và x2), còn các yếu tố khác không thay đổi, hàm sản xuất được biểu diễn như sau: Q = f (x1, x2, |, x ,xn) Ta có thể minh họa mối quan hệ trên bằng hình 1.3 Hình 1. 3: Đường đồng sản lượng Chủ nông trại có thể sản xuất ra 10 đơn vị sản phẩm là kết quả kết hợp hai yếu tố đầu vào tại điểm A hoặc tại điểm B (hình 1.3). Khi di chuyển từ điểm A đến B, khối lượng 0 1 0 1 yếu tố đầu vào x1 tăng từ x1 lên x1 và khối lượng x2 giảm từ x2 xuống x2 , nghĩa là x1 thay thế cho x2. Như vậy một đường đồng sản lượng là Quỹ tích của nhiều tổ hợp khác nhau của hai yếu tố đầu vào cùng tạo nên một mức sản phẩm đầu ra. Tỷ số thay thế cận biên (MRS) là tỷ số mà một lượng yếu tố đầu vào thay thế cho một lượng yếu tố vào khác tại bất kỳ điểm nào trên đường đồng sản lượng và có thể tính bằng độ dốc của đường đồng sản lượng đó. Có thể tính tỷ lệ một yếu tố đầu vào này được thay thế bằng một yếu tố đầu vào khác trong điều kiện sản lượng đầu ra không thay đổi, biểu thị bằng phương trình: MRS của x1 thay thế cho x2 = 12
  17. Nếu ∆x1 vô cùng nhỏ, thì MRS của x1 thay thế cho x2 chính là đạo hàm bậc nhất của đường cong đồng sản lượng. MRS thường là số âm, vì mức sử dụng tăng một yếu tố đầu vào này thường kéo theo mức sử dụng giảm yếu tố kia. Tuy nhiên, sử dụng làm thước đo khả năng thay thế các yếu tố đầu vào thì MRS có nhược điểm rất lớn, vì nó phụ thuộc vào các đơn vị đo của yếu tố này. Vì vậy, độ co giãn của sự thay thế (σ) trở thành thước đo ưu việt hơn và được xác định như sau: σ không phụ thuộc vào đơn vị đo lường, σ càng lớn thì việc thay thế các yếu tố càng dễ dàng, đó là ưu điểm của độ co giãn thay thế. Sự thay thế giữa các yếu tố sản xuất tùy thuộc vào thời gian và điều kiện trình độ kinh doanh. Thường trong thời gian ngắn, người ta chỉ thay đổi một số yếu tố và vẫn còn một số yếu tố không thay đổi, nhưng về lâu dài người ta thay đổi tất cả các yếu tố để đi đến sự phối hợp hợp lý giữa chúng. Các phương án thay thế, phối hợp gắn liền với việc tăng quy mô sản xuất. 3. Mối quan hệ giữa các sản phẩm Nông nghiệp là ngành sản xuất có nhiều loại sản phẩm đa dạng và phong phú, gắn rất mật thiết với điều kiện tự nhiên. Mỗi trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp có thể lựa chọn sản xuất từng sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm với quy mô và cơ cấu hợp lý nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lực hạn chế thông qua các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Thông thường, trên mỗi thửa đất, có thể sản xuất một số loại sản phẩm khác nhau. Việc quyết định sản xuất sản phẩm gì với số lượng bao nhiêu là phụ thuộc vào nhiều nhân tố. Sự cân nhắc để sản xuất sản phẩm này hay sản phẩm kia hoặc cơ cấu sản phẩm mỗi loại phải dựa vào những căn cứ khác nhau. Nghiên cứu sau đây về mối quan hệ giữa sản phẩm với sản phẩm là một trong những căn cứ đó. Để tiện trình bày, giả định một hộ nông dân có thể trồng hai loại sản phẩm là rau và hoa. Đầu ra của mỗi loại do một số n yếu tố đầu vào tạo nên. Mối quan hệ giữa n yếu tố 13
  18. đầu vào và hai sản phẩm đầu ra rau và hoa được thể hiện qua các hàm sản xuất tương ứng của rau và hoa như sau: Qr = f1 (x1, xn) Qh = f2 (x1, xn) Những mối quan hệ trên là nguồn lực sản xuất hiện có của hộ nông dân. Chúng sẽ quyết định khả năng lựa chọn của hộ nông dân mà ông ta phải đương đầu về các mặt giới hạn công nghệ, tỷ số chuyển đổi cận biên, chi phí cơ hội. a. Giới hạn công nghệ. Hộ nông dân chỉ có thể lựa chọn lượng sản phẩm sản xuất theo khả năng sản xuất (hay giới hạn công nghệ) của mình. Theo giả định trên, với cách kết hợp "đầu vào" khác nhau, hộ nông dân sản xuất ra một lượng Qr và Qh khác nhau (hình 1.4). Hình 1. 4: Đường cong năng lực sản xuất Đường cong năng lực sản xuất của các tổ hợp rau và hoa mà hộ nông dân có thể sản xuất với một số yếu tố đầu vào nhất định và với những điều kiện kỹ thuật canh tác nào đó. Nếu đem toàn bộ vật tư, tiền vốn để trồng rau sẽ thu được một khoản thu nhập R0, nhưng nếu đem toàn bộ đầu tư đó cho sản xuất hoa thì có thể thu được khoản thu nhập là H0. Các tổ hợp khác của hai loại sản phẩm được vẽ thành từng điểm nằm trên đường cong R0H0. b. Tỷ số chuyển đổi cận biên (ký hiệu MRT) 14
  19. Hộ nông dân có thể lựa chọn nhiều cách khác nhau để có một số lượng sản phẩm H và R khác nhau. Độ dốc của đường cong năng lực sản xuất cho ta tỷ số chuyển biến cận biên (MRT) của rau (R) sang hoa (H). Phương trình này là thước đo chi phí cơ hội trong trồng hoa thay vì trồng rau, nghĩa là nếu muốn thêm một đơn vị hoa thì phải bớt đi bao nhiêu đơn vị sản lượng rau. c. Chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là một khái niệm cơ bản của kinh tế học, phản ánh sự tìm kiếm và lựa chọn phương hướng phân phối nguồn lực ít ỏi. Bản chất chi phí cơ hội của một quyết định là giá trị của việc lựa chọn phương hướng tốt nhất, là kết quả của việc quyết định đó được dự báo. Chẳng hạn quyết định của một hộ nông dân trồng nhiều hoa hơn có liên quan đến việc rút bớt vốn sản xuất rau và do đó sản lượng rau ít đi. Giá trị của phần sản lượng rau đáng lẽ được sản xuất bằng nguồn lực đã chuyển sang trồng hoa là chi phí cơ hội của sản xuất hoa. Chỉ khi giá trị thu nhập của hoa tăng thêm lớn hơn chi phí cơ hội tính bằng giá trị thu nhập của rau được trồng bớt đi thì sự chuyển hướng đó mới có ý nghĩa kinh tế. III. MỐI QUAN HỆ KINH TẾ Các doanh nghiệp có sự quan tâm khác nhau đến mục tiêu của sản xuất, nhưng họ đều hướng tới mục tiêu chung là tối đa hóa lợi nhuận. Khi có một yếu tố "đầu vào" biến đổi làm ảnh hưởng đến sản lượng, người ta tính đến sự tối ưu hóa trong mối quan hệ giữa yếu tố sản xuất đó với sản phẩm sản xuất ra. Khi có nhiều yếu tố sản xuất thay đổi, người ta phải tính đến sự tối ưu trong mối quan hệ giữa các yếu tố sản xuất để sản xuất ra một sản phẩm. Khi sản xuất ra nhiều sản phẩm, người ta phải tính đế sự tối ưu trong mối quan hệ giữa các sản phẩm. Đó là những yêu cầu đặt ra đối với những người sản xuất trong thị trường cạnh tranh và dưới đây sẽ xem xét lần lượt các mối quan hệ đó. 15
  20. 1. Tối ưu hóa hiệu quả kinh tế trong mối quan hệ giữa yếu tố sản xuất và sản phẩm. Khi có một yếu tố đầu vào (x1) biến đổi, để đạt được hiệu quả tối ưu, người sản xuất cần có loại thông tin: - Sản phẩm cận biên của yếu tố đầu vào (MPx1) - Đơn giá của sản phẩm đầu ra - Đơn giá của yếu tố đầu vào x1. Giá trị của một đơn vị yếu tố đầu vào tăng thêm đối với người sản xuất là thu nhập bổ sung mà họ nhận được do kết quả của việc sử dụng nhiều vật tư, tiền vốn hơn. Khái niệm giá trị sản phẩm cận biên (VMP) dùng làm thước đo để chỉ rằng khi tăng một đơn vị chi phí, giá trị sản phẩm cận biên tăng thêm một lượng MPx1 x P tức là VMPx1. Nghĩa là khi chi phí tăng thêm một lượng Px1, giá trị sản phẩm tăng một lượng bổ sung VMPx1. Khi giá trị sản phẩm cận biên của yếu tố đầu vào biến đổi bằng giá của nó thì ta đạt hiệu quả tối ưu, tạo ra lợi nhuận tối đa. Ta có phương trình: VMPx1 =Px1. Lúc này người sản xuất ở vào trạng thái cân bằng. 2. Tối ưu hóa hiệu quả kinh tế trong mối quan hệ giữa yếu tố và yếu tố. a. Xác định điểm tối ưu. Khi có 2 yếu tố đầu vào (x1và x2) thay đổi, muốn sử dụng chúng một cách tối ưu, cần thiết phải biết các thông tin: đơn giá (hoặc tỷ giá) của hai yếu tố đầu vào trên thị trường và tỷ số thay thế cận biên giữa chúng. Với số tiền nhất định, chủ nông trại có thể mua các yếu tố đầu vào (x1 và x2) theo tỷ lệ khác nhau. Sự kết hợp chi phí của hai yếu tố đó nằm trên đường thẳng gọi là đường thẳng đồng chi phí (hình 1.5). 16
  21. Hình 1.5: Đường thẳng đồng chi phí Trong đó: C0: lượng tiền vốn của chủ nông trại Px1: đơn giá của yếu tố x1 Px2: đơn giá của yếu tố x2 Tìm hiểu phối hợp tối ưu giữa hai yếu tố x1 và x2 sao cho đạt sản lượng cao nhất bằng cách đem chồng đường cong đồng sản lượng (Q) lên đường thẳng đồng chi phí C0. Điểm tiếp xúc giữa chúng là A - điểm tối ưu, tại đó độ dốc của đường cong đồng sản lượng bằng độ dốc của đường thẳng đồng chi phí. Mà độ dốc của đường đồng sản lượng là tỷ số thay thế cận biên cho nên điều kiện tối ưu sẽ là: MRS của x1 thay thế x2 = Hình 1.6: Phối hợp đầu vào với chi phí ít hơn 17
  22. b. Chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất là khoản chi phí được dùng để sản xuất ra một lượng nông sản phẩm nào đó trong một khoảng thời gian nhất định. Tổng chi phí sản xuất (ký hiệu TC) bao gồm: - Chi phí cố định (FC): là những khoản chi phí không thay đổi và không phụ thuộc vào khối lượng công việc hoàn thành nhằm sản xuất ra nông sản phẩm. Bao gồm khoản thuê nhà kho, khấu hao tài sản cố định, tiền thuê đất, chi phí bảo hiểm tài sản, kinh doanh v.v - Chi phí biến đổi (VC): là những khoản chi phí sẽ thay đổi phụ thuộc vào quy mô, khối lượng công việc được hoàn thành trong quá trình sản xuất. Bao gồm các khoản chi phí về hạt giống, phân bón, thức ăn gia súc v.v Việc phân ra chi phí cố định và chi phí biến đổi để có giải pháp sử dụng có hiệu quả, bởi vì các khoản chi phí cố định, nếu không sử dụng các nguồn lực này theo đúng thời gian thì sẽ bị lãng phí. Tài sản cố định mặc dù không được sử dụng vẫn phải chịu khấu hao, (Nhà kho bỏ không sẽ vẫn bị hư hỏng). Còn nguồn lực biến đổi có thể cất trữ cho vụ sau, nếu chưa sử dụng hết trong vụ này. Chi phí cố định (FC) không thay đổi với mọi Q, được biểu diễn ở hình 1.7a. Khi Q tăng, cần nhiều chi phí biến đổi (VC) và ngược lại, biểu diễn ở hình 1.7b. Tổng chi phí (TC) được hợp thành bởi chi phí cố định và chi phí biến đổi, biểu diễn ở hình 1.7c. Hình 1.7:Đường cong chi phí cố định, biến đổi và tổng chi phí 18
  23. c. Chi phí cận biên và chi phí bình quân Chi phí cận biên (ký hiệu MC) là chi phí tăng thêm để tạo ra sản phẩm bổ sung mà ∆FC = 0 cho nên là độ dốc của đường cong VC. Như vậy sự biến đổi của tổng chi phí (TC) hoàn toàn do sự thay đổi chi phí biến đổi quyết định. Chi phí biến đổi bình quân (AVC) là chi phí biến đổi tính bình quân cho mỗi đơn vị sản phẩm, nghĩa là ACV = . Có thể tính trị số này bằng độ dốc của đường thẳng từ gốc tọa độ đến điểm tương ứng trên đường cong VC. Tổng chi phí bình quân (AC) là tổng chi phí tính cho mỗi đơn vị sản phẩm nghĩa là AC = là độ dốc của đường thẳng từ gốc tọa độ đến điểm tương ứng trên đường cong TC. Hình 1.8 minh họa các đường cong MC. AC và AVC có liên quan đến các đường cong ở hình 1.7a, b và c. Các loại chi phí có thể tính ở biểu 1.2. Hình 1.8: Các đường cong MC, AC và AVC 19
  24. Bảng 1.2: Các loại chi phí sản xuất của một loại nông sản Số ðõn vị Tổng chi Tổng chi Chi phí Chi phí Chi phí cố Tổng chi phí Tổng chi sản phẩm phí biến phí cố cận biến ðổi ðịnh bình bình quân phí (TC) ðầu ra ðổi (VC) ðịnh (FC) biên(MC) bình quân quân (AC) (AVC) (AFC) 0 - 20 20 - - - - 1 25 20 45 25 25 20,0 45,0 2 45 20 65 20 22,5 10,0 32,5 3 62 20 82 17 20,7 6,7 27,4 4 75 20 95 13 18,8 5,0 23,8 5 90 20 110 18 18,0 4,0 22,0 6 110 20 130 20 18,3 3,3 21,6 7 135 20 155 25 19,3 2,8 22,1 8 175 20 195 40 21,9 8,5 24,4 d. Tổng thu nhập của nông trại (ký hiệu TR) Tổng thu nhập của nông trại tăng lên khi lượng hàng hóa bán ra tăng và TR =Q.P. Vậy đường biểu diễn TR sẽ là đường thẳng chạy qua các gốc tọa độ (hình 1.9a). Thu nhập cận biên (ký hiệu MR) là phần thu thập tăng thêm với mỗi đơn vị sản lượng bán ra tăng thêm. Như vậy khi MR không đổi và bằng P, Nông trại sẽ đạt đạt được trạng thái cân bằng khi hiệu TR - TC đạt ở mức tối đa. ở hình 1.9a, khi sản lượng thấp hơn Q1 và cao hơn Q2 thì nông trại thua lỗ, vì đường cong tổng chi phí (TC) nằm ở phía trên đường cong tổng thu (TR). Mức sản lượng tối ưu là ở Q* do TR - TC đạt giá trị lớn nhất. 20
  25. Hình 1.9: Hiệu quả kinh tế tối ưu trong ngắn hạn Ở hình 1.9b đường thẳng nằm ngang biểu thị giá cả sản phẩm bán một giá cho nên MR = P = AR. Muốn sản xuất có lãi thì giá cả hoặc thu nhập bình quân phải lớn hơn chi phí bình quân. Nói cách khác, sản lượng phải nằm ở khu vực từ Q1 đến Q2. Lợi nhuận vẫn tăng khi sản lượng tăng thêm một đơn vị mà thu nhập gia tăng lớn hơn chi phí gia tăng, nghĩa là MR > MC và ngược lại khi chi phí lớn hơn thu nhập gia tăng, tức là MC > MR. 3. Tối ưu hóa hiệu quả kinh tế trong mối quan hệ giữa các sản phẩm. Để đạt được lợi nhuận tối đa trong điều kiện sản xuất nhiều sản phẩm, các doanh nghiệp cần biết thông tin về tỷ số chuyển đổi cận biên giữa các sản phẩm và giá cả sản phẩm. Khi đã biết khối lượng và giá cả các yếu tố đầu vào, để đạt lợi nhuận tối đa cần thiết phải đạt tổng thu nhập tối đa. ở đây ta gặp khái niệm đường thẳng đồng thu nhập, đó là quỹ tích các điểm của các nhóm sản phẩm khác nhau nhưng tạo ra cho doanh nghiệp cùng một lượng nhập. Hình 3.10 là đường đồng thu nhập trong trường hợp có hai sản phẩm (R và H). Độ dốc của đường thẳng là tỷ giá sản phẩm . Đường đồng thu nhập R = PRQR +PH QH 21
  26. Hình 1.10: Đường thẳng đồng thu nhập Với tổng thu nhập từ hơn 3 sản phẩm trở lên thì đường thẳng đồng thu nhập là đường thẳng song song cách xa gốc tọa độ hơn. Ở hình 1.11 người ta đặt một loạt đường đồng thu nhập lên cùng với đường biên năng lực sản xuất và ta có điểm nhập tối đa tại tiếp điểm giữa đường biên năng lực sản xuất và đường đồng thu nhập cao nhất. Trong trường hợp này tiếp điểm ứng với các đầu ra Q*R và Q*H. Vì vậy, điều kiện cân bằng là tỷ số chuyển biến cận biên MRT của rau sang hoa (QR/QH) trị số âm của giá hoa và rau: MRT của rau và hoa hay Hình 1.11:Sự cân bằng sản phẩm với sản phẩm 22
  27. TÓM TẮT CHƯƠNG 1. Lý thuyết chung về phát triển kinh tế và lý thuyết phát triển nông nghiệp đã được nhiều nhà kinh tế học đưa ra thông qua việc phân tích, giải thích các hiện tượng kinh tế và dự báo về phát triển kinh tế và kinh tế nông nghiệp. Nếu A.Smith có công lao trong việc đưa tất cả các quan điểm kinh tế có từ trước đó, cấu kết lại thành một hệ thống, thì D. Ricardo xây dựng hệ thống đó trên một nguyên tắc thống nhất, là thời gian lao động quyết định giá trị hang hóa. Tiếp đó là trường phái tân cổ điển, mà tiêu biểu là C.Mác với Bộ tư bản trình bày về giá trị sức lao động và bản chất của giá trị thặng dư và C.Mác kết luận về tất yếu của sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. J.M.Keynes tiêu biểu cho nhánh khác cho rằng cần phải có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế để tăng cầu có hiệu quả, kích thích tiêu dùng, sản xuất, kích thích đầu tư để tạo thêm việc làm và tăng thu nhập v.v Trong lĩnh vực nông nghiệp có những nét đặc thù, vì thế nhiều nhà kinh tế học quan tâm và đề cập nhiều trong các lý thuyết kinh tế, nhất là trong các mô hình phát triển kinh tế của các nước chậm phát triển đang tiến hành công nghiệp hóa. D.Ricardo cho rằng do quy luật giảm độ màu mỡ của đất đai, giá nông sản tăng lên làm cho tiền lương công nhân tăng và địa tô tăng lên, còn lợi nhuận không tăng. Công lao to lớn của D.Ricardo là phân tích địa tô. R.Nurkse là người đi tiên phong trong lý thuyết phát triển. Ông quan tâm đến vấn đề tăng thu nhập quốc dân bình quân đầu người bằng cách tạo ra những chuyển biến để thoát khỏi nông nghiệp, là khu vực thu hút quá nhiều nhân công. Lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối, tiêu biểu là A.Hirschaman, cho rằng việc phát triển cơ cấu ngành không cân đối sẽ gây áp lực, tạo ra sự kích thích đầu tư. Mô hình hai khu vực của A.Lewis với lý thuyết khái quát về quá trình phát triển trong các nước thuộc thế giới thứ ba thừa lao động, đó là khu vực nông thôn mang tính truyền thống, kinh tế kém phát triển, năng suất lao động bằng không, do đó có thể cung cấp lao động vô hạn sang khu vực công nghiệp thành thị
  28. hiện đại. Lý thuyết phát triển kinh tế của W.Rostow đã chia tiến trình kinh tế ra 5 giai đoạn, với cách phân chia này các nước đang phát triển hiện nay ở vào gđ 1 đến 3. 2. Để tạo ra nông sản phẩm cần có sự phối hợp giữa các yếu tố đầu vào và hiệu quả của nó tùy thuộc vào trình độ phối hợp hợp lý giữa các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Những quan hệ có tính vật chất trước hết xem xét mối quan hệ giữa yếu tố sản xuất và lượng nông sản phẩm, việc tăng lượng yếu tố đầu vào làm tăng lượng sản phẩm, nhưng đến mức nhất định sản lượng giảm dần. Mối quan hệ giữa các yếu tố sản xuất với sản phẩm được sản xuất cần thiết phải phối hợp nhiều yếu tố đầu vào khác nhau, giữa chúng có thể thay thế cho nhau. Có thể tính tỷ lệ yếu tố đầu vào này được thay thế bằng một yếu tố đầu vào khác trong điều kiện sản lượng đầu ra không thay đổi. Mỗi trang trại hoặc doanh nghiệp tùy thuộc vào giới hạn công nghệ, tỷ số chuyển đổi cận biên và chi phí cơ hội để có thể lựa chọn sản xuất từng loại sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm với quy mô và cơ cấu hợp lý nhằm sử dụng các nguồn lực hạn chế thông qua các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. 3. Có thể có sự quan tâm khác nhau về mục tiêu sản xuất, nhưng họ đều hướng tới mục tiêu chung là tối đa hóa lợi nhuận. Khi có một yếu tố "đầu vào" biến đổi làm ảnh hưởng đến sản lượng, người ta tính đến sự tối đa hóa trong mối quan hệ giữa các yếu tố sản xuất đó với sản phẩm sản xuất ra. Khi có nhiều yếu tố sản xuất thay đổi, người sản xuất phải tính sự tối ưu trong mối quan hệ giữa các yếu tố để sản xuất ra một sản phẩm. Khi sản xuất ra nhiều sản phẩm, người sản xuất phải tính đến sự tối ưu trong quan hệ giữa các loại sản phẩm đó. Câu hỏi ôn tập 1. Phân tích một số nội dung về lý thuyết địa tô của D.Ricardo và mô hình hai khu vực của Lewis. 2. Trình bày những mối quan hệ có tính vật chất trong quá trình sản xuất ra sản phẩm nông nghiệp. 3. Trình bày những mối quan hệ kinh tế trong quá trình sản xuất nông sản hàng hóa.
  29. CHƯƠNG 2: KINH TẾ SỬ DỤNG CÁC YẾU TỐ NGUỒN LỰC TRONG NÔNG NGHIỆP I. VAI TRÒ CÁC YẾU TỐ NGUỒN LỰC TRONG TĂNG TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP 1. Bản chất và đặc điểm của các yếu tố nguồn lực trong nông nghiệp. Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất và dịch vụ cho xã hội, con người đã sử dụng một lượng nhất định của các yếu tố về sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động được kết hợp với nhau theo một công nghệ nhất định, với một không gian và thời gian cụ thể. Các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất không ngừng được tái sản xuất mở rộng nhằm tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất và dịch vụ. Tất cả những tài nguyên hiện đang được sử dụng hoặc có thể được sử dụng vào sản xuất của cải vật chất hoặc dịch vụ được gọi là những yếu tố nguồn lực. Như vậy, về mặt kinh tế các yếu tố nguồn lực của sản xuất là phạm trù kinh tế dùng để chỉ những nguồn tài nguyên tự nhiên, kinh tế và xã hội đã, đang và sẽ được sử dụng cho hoạt động kinh tế để tạo ra của cải vật chất hay dịch vụ đáp ứng yêu cầu xã hội nhất định. Trong nông nghiệp, các yếu tố nguồn lực có thể tồn tại dưới hình thái vật chất, bao gồm: đất đai, máy móc, thiết bị, kho tàng, nguyên nhiên vật liệu, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, thức ăn gia súc, sức lao động với kỹ năng và kinh nghiệm sản xuất nhất định.v.v Nguồn lực sản xuất của nông nghiệp cũng có thể tồn tại dưới hình thái giá trị. Người ta sử dụng đồng tiền làm thước đo để định lượng và quy đổi mọi nguồn lực khác nhau về hình thái vật chất được sử dụng vào nông nghiệp thành một đơn vị tính toán thống nhất. Xét về hình thái hiện vật, người ta có thể phân nhóm các yếu tố nguồn lực trong nông nghiệp như sau: a. Nhóm các yếu tố liên quan đến nguồn nhân lực của nông nghiệp, bao gồm số lượng và chất lượng sức lao động đang và sẽ được sử dụng vào nông nghiệp. Nhóm này còn bao gồm cả những yếu tố về tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm, truyền thống, bí quyết công nghệ v.v.
  30. b. Nhóm các yếu tố nguồn lực liên quan đến phương tiện cơ khí, như: Nguồn năng lượng, bao gồm cả nguồn năng lượng của động lực máy móc và động lực gia súc. Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, động lực gia súc chiếm tỷ trọng lớn và giảm dần cùng với sự thay thế của động lực máy móc ở giai đoạn phát triển cao của công nghiệp hoá. Máy công tác và những công cụ nói chung. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, bao gồm: hệ thống thuỷ lợi, hệ thống đường giao thông, kho tàng, các cơ sở chế biến nông sản. c. Nhóm các yếu tố nguồn lực sinh học, bao gồm vườn cây lâu năm, súc vật làm việc, súc vật sinh sản,v,v. d. Nhóm các yếu tố nguồn lực liên quan đến các phương tiện hoá học phục vụ nông nghiệp; phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, thuốc thú y, các chất kích thích v.v. Điều cần nhấn mạnh là các yếu tố nguồn lực trong nông nghiệp là những tài nguyên quý hiếm và có hạn. Những đặc điểm của các yếu tố nguồn lực sử dụng vào nông nghiệp gắn liền với những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và biểu hiện trên các mặt sau: Dưới tác động của yếu tố đất đai và thời tiết -khí hậu đa dạng phức tạp dẫn đến việc sử dụng các yếu tố nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp mang tính khu vực và tính thời vụ rõ rệt. Nguồn lực đất đai rất có hạn, trong điều kiện nước ta, mức diện tích tự nhiên theo đầu người thấp hơn thế giới tới 6 lần (0,55ha/3,36h) xếp vào hàng thứ 135, thuộc nhóm các nước có mức bình quân đất đai thấp nhất thế giới. Trong đó bình quân đất nông nghiệp nước ta đạt 0,1ha/người, bằng 1/3 mức bình quân thế giới. Tiềm năng về nguồn lực sinh học đa dạng, phong phú nhưng chưa được khai thác có hiệu quả, một số cây trồng vật nuôi chưa được coi trọng để chọn lọc, bồi dục. Một số
  31. giống mới được chọn lọc, lai tạo có năng suất cao nhưng chưa đáp ứng yêu cầu mở rộng diện tích, sản xuất. Nguồn lực về vốn trong nông nghiệp nước ta đang là yếu tố hạn chế. Vốn tự có trong nông dân ít ỏi. Nguồn vốn ngân sách còn mỏng, nguồn thu cho ngân sách thấp và chưa ổn định, hàng năm ngân sách còn bội chi. Vì thế phải tính toán lựa chọn để sử dụng có hiệu quả yếu tố nguồn lực hạn chế này, từng bước tăng lực nội sinh và tạo thêm nguồn tích luỹ từ tiết kiệm ở trong nước. Nguồn nhân lực của nước ta rất phong phú, hiện lao động nông nghiệp còn chiếm gần 70% tổng lao động xã hội, nhưng chưa được sử dụng hợp lý, một bộ phận sức lao động đáng kể thiếu việc làm, thu nhập thấp, nhất là những vùng đất chật người đông. Trong quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, cần thiết phải tính toán, tìm kiếm các giải pháp để sử dụng các yếu tố nguồn lực hạn chế của nước ta hợp lý và có hiệu quả. Một mặt phải nhanh chóng khắc phục tình trạng lạc hậu về khoa học và công nghệ, mặt khác phải biết khai thác lợi thế so sánh của nền nông nghiệp nhiệt đới, á nhiệt đới để sản xuất các loại nông sản đưa ra thị trường quốc tế. 2. Vai trò các yếu tố nguồn lực trong việc tăng trưởng và phát triển nông nghiệp. Tốc độ tăng trưởng và phát triển nông nghiệp trước hết phụ thuộc vào số lượng và chất lượng các yếu tố nguồn lực được huy động vào sản xuất nông nghiệp. Khi xem xét từng yếu tố nguồn lực, xu hướng vận động về số lượng và chất lượng của từng yếu tố nguồn lực theo các chiều hướng khác nhau. Nhưng khi sử dụng cần kết hợp các yếu tố nguồn lực một cách hài hoà, hợp lý. Tỷ lệ tham gia của mỗi yếu tố nguồn lực vào quá trình sản xuất từng loại nông sản tuỳ thuộc vào tính chất của quy trình kỹ thuật và tiến bộ công nghệ. Điều đó có nghĩa là tuỳ thuộc vào tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mà quyết định những tỷ lệ về số lượng và chất lượng của mỗi yếu tố nguồn lực được huy động vào sản xuất.
  32. Việc sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các yếu tố nguồn lực của sản xuất nông nghiệp là tất yếu khách quan đòi hỏi các cơ sở nông nghiệp phải coi trọng việc bảo vệ và phát triển hợp lý, đảm bảo mối quan hệ hài hoà giữa các yếu tố nguồn lực. Trong nông nghiệp nước ta kinh tế hộ nông dân và kinh tế trang trại là lực lượng chủ yếu sản xuất và cung cấp nguồn nông sản cho nền kinh tế quốc dân. Cần thiết phải đào tạo và bồi dưỡng kiến thức kỹ thuật và quản lý cho các chủ hộ nông dân, chủ trang trại và lực lượng lao động nông nghiệp để họ thực làm chủ về sản xuất và kết quả tài chính. Đồng thời phải củng cố, nâng cấp và xây dựng mới hệ thống hạ tầng kỹ thuật ở nông thôn, nhằm nhanh chóng phát huy có hiệu quả trong quá trình sử dụng các yếu tố nguồn lực của nông nghiệp. II. SỬ DỤNG YẾU TỐ NGUỒN LỰC RUỘNG ĐẤT 1. Vị trí của yếu tố nguồn lực ruộng đất. Đất đai là cơ sở tự nhiên, là tiền đề đầu tiên của mọi quá trình sản xuất. Đất đai tham gia vào hầu hết các quá trình sản xuất của xã hội, nhưng tuỳ thuộc vào từng ngành cụ thể mà vai trò của đất đai có sự khác nhau. Nếu trong công nghiệp, thương mại, giao thông đất đai là cơ sở, nền móng để trên đó xây dựng nhà xưởng, cửa hàng, mạng lưới đường giao thông, thì ngược lại trong nông nghiệp ruộng đất tham gia với tư cách yếu tố tích cực của sản xuất là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được. Ruộng đất là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động, nó xuất hiện và tồn tại ngoài ý muốn con người, vì thế ruộng đất là tài sản quốc gia. Nhưng từ khi con người khai phá ruộng đất, đưa ruộng đất vào sử dụng nhằm phục vụ lợi ích của con người, trong quá trình lịch sử lâu dài lao động của nhiều thế hệ được kết tinh ở trong đó, thì ngày nay ruộng đất vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của lao động. Trong nông nghiệp, ruộng đất vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động. Ruộng đất là đối tượng lao động khi con người sử dụng công cụ lao động tác động vào đất làm cho đất thay hình đổi dạng, như cày, bừa, đập đất, lên luống v.v. Quá trình đó làm tăng chất lượng của ruộng đất, tạo điều kiện thuận lợi để tăng năng suất cây trồng. Ruộng đất là tư liệu lao động, khi con người sử dụng công cụ lao động tác động lên
  33. đất, thông qua các thuộc tính lý học, hoá học, sinh vật học và các thuộc tính khác của đất để tác động lên cây trồng. Sự kết hợp của đối tượng lao động và tư liệu lao động đã làm cho ruộng đất trở thành tư liệu sản xuất trong nông nghiệp. Không những thế, ruộng đất còn là tư liệu sản xuất chủ yếu, tư liệu sản xuất đặc biệt, tư liệu sản xuất không thể thay thế được. Độ phì nhiêu là thuộc tính quan trọng nhất, là dấu hiệu chất lượng của ruộng đất. Nó có ảnh hưởng lớn đến năng suất cây trồng, đến hiệu quả sử dụng lao động sống và lao động quá khứ được sử dụng. Có nhiều loại độ phì khác nhau, bao gồm: độ phì nhiêu nguyên thuỷ nhưng trên thực tế không có gì là nguyên thuỷ, bởi lẽ ruộng đất hiện có đều gắn liền với sự hình thành và phát triển đất đai trong lịch sử. Độ phì nhiêu tự nhiên được tạo ra do kết quả của quá trình hình thành và phát triển của đất với các thuộc tính lý học, hoá học, sinh vật học và gắn chặt chẽ với điều kiện thời tiết khí hậu. Độ phì nhiêu nhân tạo là kết quả của quá trình lao động sản xuất của con người, một mặt biến những chất khó tiêu thành những chất dinh dưỡng dễ tiêu và mặt khác bổ sung cho đất về số lượng và chất lượng các chất dinh dưỡng trong đất còn thiếu bằng một hệ thống các biện pháp có căn cứ khoa học và có hiệu quả. Độ phì nhiêu kinh tế là sự thống nhất của độ phì nhiêu tự nhiên và độ phì nhiêu nhân tạo, nhằm sử dụng có hiệu quả độ phì nhiêu của đất trồng. 2. Đặc điểm của ruộng đất- tư liệu sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp. Khác với các tư liệu sản xuất khác, ruộng đất - tư liệu sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp có những đặc điểm sau: a. Ruộng đất vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của lao động. Đất đai vốn là sản phẩm của tự nhiên, chỉ từ khi con người tiến hành khai phá đưa đất hoang hoá vào sử dụng để tạo ra sản phẩm cho con người, thì ruộng đất đã kết tinh lao động con người và đồng thời trở thành sản phẩm của lao động.
  34. Đặc điểm này đặt ra trong quá trình sử dụng, con người phải không ngừng cải tạo và bồi dưỡng ruộng đất, làm cho đất ngày càng màu mỡ hơn. Đồng thời, khi xác định các chính sách kinh tế có liên quan đến đất nông nghiệp, cũng cần lưu ý đến đặc điểm này. b. Ruộng đất bị giới hạn về mặt không gian, nhưng sức sản xuất của ruộng đất là không có giới hạn. Số lượng diện tích đất đai đưa vào canh tác bị giới hạn bởi không gian nhất định, bao gồm: giới hạn tuyệt đối và giới hạn tương đối. Diện tích đất đai của toàn bộ hành tinh, của từng quốc gia, của từng địa phương là con số hữu hạn, đó là giới hạn tuyệt đối của đất đai. Không phải tất cả diện tích đất tự nhiên đều đưa vào canh tác được, tuỳ thuộc điều kiện đất đai, địa hình và trình độ phát triển kinh tế của từng nước mà diện tích đất nông nghiệp đưa vào canh tác chỉ chiếm tỷ lệ phần trăm thích hợp. Đó là giới hạn tương đối, giới hạn này nhỏ hơn nhiều so với tổng quỹ đất tự nhiên. ở nước ta tỷ lệ nông nghiệp năm 2000 chiếm trên 28,38% tổng diện tích tự nhiên, khả năng đối đa đưa lên 35%. Vì thế cần phải biết quý trọng và sử dụng hợp lý ruộng đất, sử dụng một cách tiết kiệm, hạn chế việc chuyển dịch ruộng đất sang sử dụng mục đích khác. Mặc dù bị giới hạn về mặt không gian nhưng sức sản xuất của ruộng đất là không giới hạn. Nghĩa là mỗi đơn vị diện tích đất đai, nhờ tăng cường đầu tư vốn, sức lao động, đưa khoa học và công nghệ mới vào sản xuất mà sản phẩm đem lại trên một đơn vị diện tích ngày càng nhiều hơn. Đây là con đường kinh doanh chủ yếu của nông nghiệp, nhằm đáp ứng yêu cầu tăng lên về nông sản phẩm cung cấp cho xã hội loài người. c. Ruộng đất có vị trí cố định và chất lượng không đồng đều. Các tư liệu sản xuất khác có thể di chuyển đến những nơi thiếu và cần thiết, ngược lại ruộng đất - tư liệu sản xuất chủ yếu này có vị trí cố định gắn liền với điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế và điều kiện xã hội của mỗi vùng. Để kết hợp với ruộng đất, người lao động và các tư liệu sản xuất khác phải tìm đến với ruộng đất như thế nào là
  35. hợp lý và có hiệu quả. Muốn thế, một mặt phải quy hoạch các khu vực canh tác, bố trí các trung tâm dịch vụ và phân bố các điểm dân cư hợp lý. Mặt khác phải cải thiện điều kiện tự nhiên, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật và hệ thống cấu hạ tầng nhằm tạo điều kiện để sử dụng đất có hiệu quả, nâng cao đời sống của nông dân và từng bước thay đổi bộ mặt nông thôn. Ruộng đất có chất lượng không đồng đều giữa các khu vực và ngay trên từng cánh đồng. Đó là kết quả, một mặt do quá trình hình thành đất, mặt khác quan trọng hơn là do quá trình canh tác của con người. Vì thế trong quá trình sử dụng cần thiết phải cải tạo và bồi dưỡng đất, không ngừng nâng dần độ đồng đều của ruộng đất ở từng cánh đồng, từng khu vực để đạt năng suất cây trồng cao. d. Ruộng đất - tư liệu sản xuất chủ yếu không bị hao mòn và đào thải khỏi quá trình sản xuất, nếu sử dụng hợp lý thì ruộng đất có chất lượng ngày càng tốt hơn. Các tư liệu sản xuất khác sau một thời gian sử dụng đều bị hao mòn hữu hình hoặc hao mòn vô hình. Cuối cùng sẽ bị đào thải khỏi quá trình sản xuất và thay thế bằng tư liệu sản xuất mới,chất lượng cao hơn, giá rẻ hơn, còn ruộng đất - tư liệu sản xuất chủ yếu không bị hao mòn, nếu sử dụng hợp lý, chất lượng ruộng đất ngày càng tốt hơn, sức sản xuất của ruộng đất lớn hơn, cho nhiều sản phẩm hơn trên một đơn vị diện tích canh tác. Dĩ nhiên việc sử dụng ruộng đất có đúng đắn hay không là tuỳ thuộc vào chính sách ruộng đất của Nhà nước và các chính sách kinh tế vĩ mô khác, tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và tiến bộ khoa học - công nghệ của từng giai đoạn phát triển nhất định. 3. Những vấn đề có tính quy luật về vận động của ruộng đất trong nền kinh tế thị trường. Ruộng đất là sản phẩm của tự nhiên đồng thời là yếu tố cần thiết trong quá trình sản xuất. Sự vận động của ruộng đất vừa chịu sự tác động của quy luật tự nhiên vừa chịu sự tác động của luật kinh tế, biểu hiện trên các khía cạnh mang tính quy luật sau:
  36. a. Quy luật ruộng đất ngày càng khan hiếm và độ màu mỡ tự nhiên của ruộng đất có xu hướng giảm sút. Với tổng quỹ đất có hạn, dân số không ngừng tăng làm cho diện tích đất đai bình quân đầu người giảm sút, tình trạng đó dẫn đến sự khan hiếm về ruộng đất ngày càng gay gắt. Cùng với sự khan hiếm về quỹ ruộng đất, độ màu mỡ tự nhiên của ruộng đất cũng có xu hướng giảm sút do mưa, gió lụt bão làm xói mòn, rửa trôi lớp đất màu làm trơ sỏi đá, đất bị sụt lỡ và chính sự khai thác thiếu ý thức của con người cũng làm cho ruộng đất bị kiệt quệ. Mâu thuẫn gay gắt giữa chủ đất và nhà tư bản kinh doanh trong hợp đồng thuê đất do tranh giành địa tô chênh lệch dẫn đến kết cục là ruộng đất bị khai thác kiệt quệ. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ có tác động trên hai mặt: mặt tích cực là tăng năng suất cây trồng, song mặt khác chính những tiến bộ khoa học và công nghệ đó ứng dụng vào canh tác lại làm chất đất biến động, làm mất đi độ mầu mỡ của thiên nhiên ban phú, công năng của đất mang nặng tính nhân tạo. Nếu do nguyên nhân nào đó, con người không có điều kiện áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, hoặc đưa vào với mức độ thấp hơn thì năng suất cây trồng sẽ giảm sút. Như vậy, những yếu tố quy định tính quy luật giảm sút màu mỡ đai đai phụ thuộc vào cả tự nhiên, kinh tế và kỹ thuật. b. Các yếu tố của sản xuất như vốn, lao động và ruộng đất đều trở thành hàng hoá trong điều kiện kinh tế thị trường. Kinh tế hàng hoá phát triển qua hai giai đoạn: Kinh tế hàng hoá giản đơn và kinh tế thị trường. Kinh tế hàng hoá giản đơn là kinh tế hàng hoá của những người nông dân, thợ thủ công cá thể tiến hành trên cơ sở sức lao động và tư liệu sản xuất của bản thân người sản xuất. Trong quá trình phát triển, kinh tế hàng hoá giản đơn tất yếu chuyển thành kinh tế thị trường.
  37. Khác với kinh tế hàng hoá giản đơn, kinh tế thị trường phát triển ở một phạm vi và trình độ cao hơn, mọi yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất đều trở thành hàng hoá, trao đổi trên thị trường, trong đó có đất đai. c. Tập trung ruộng đất có xu hướng tăng lên theo yêu cầu phát triển của sản xuất hàng hoá. Tập trung ruộng đất là việc sáp nhập hoặc hợp nhất ruộng đất của những chủ sở hữu khác nhau vào một chủ sở hữu hoặc hình thành một chủ sở hữu mới có quy mô ruộng ðất lớn hõn. Tập trung ruộng ðất diễn ra theo hai con ðýờng; Một là hợp nhất ruộng ðất của các chủ sở hữu cá biệt nhỏ hõn thành một chủ sở hữu cá biệt khác lớn hõn. Con ðýờng này ðýợc thực hiện thông qua việc xây dựng HTX sản xuất nông nghiệp ở nýớc ta nhý trýớc ðây. Hai là, con đường sáp nhập ruộng đất của các chủ sở hữu nhỏ cá biệt cho một chủ sở hữu cá biệt để tạo ra quy mô lớn hơn. Con đường này được thực hiện thông qua biện pháp tước đoạt hoặc chuyển nhượng mua bán ruộng đất. Con đường này diễn ra mạnh mẽ ở các nước ta bản trong giai đoạn tích luỹ nguyên thuỷ tư bản mà tiêu biểu là nước Anh. Việc tập trung ruộng đất vào tay chủ sở hữu mới tạo ra kết quả hai mặt: một mặt làm cho một bộ phận nông dân trở thành không có ruộng đất, buộc họ phải đi làm thuê hoặc rời quê hương tìm kế sinh nhai. Mặt khác tạo cho chủ đất có điều kiện áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đầu tư thâm canh tăng nâng suất cây trồng. Đó là con đường tất yếu để giảm bộ phận lao động tất yếu, chuyển lao động nông nghiệp sang các ngành kinh tế khác, trước hết là công nghiệp, nó sẽ diễn ra khá mạnh trong thời kỳ công nghiệp hoá, đồng thời có tác dụng thúc đẩy nông nghiệp phát triển. d. Quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ đi đối với quá trình chuyển đất nông nghiệp sang đất chuyên dùng ngày càng tăng. Một mặt đất nông nghiệp chuyển sang xây dựng kết cấu hạ tầng (đường sá giao thông), xây dựng nhà máy, xí nghiệp, cửa hàng; mặt khác quá trình đô thị hoá làm cho
  38. dân cư thành phố tăng nhanh dẫn đến nhu cầu xây dựng nhà ở dân cư, công sở ngày càng lớn. 4. Quỹ đất và những đặc trưng của quỹ ruộng đất. Tổng quỹ đất tự nhiên của nước ta là 33.104,22 ngàn ha, trong đó quỹ đất nông nghiệp năm 2000 có 9.394,97 ngàn ha, chiếm 28,38%. Là nước có diện tích tự nhiên không lớn, xếp thứ 60 trong số 160 nước trên thế giới và xếp hàng thứ tư trong khối các nước Đông Nam á. Trong 13 năm lại đây, quỹ đất nông nghiệp có những biến động đáng kể, nhất là từ năm 1990 lại đây. Quỹ đất nông nghiệp tăng nhanh, chủ yếu là vùng Tây Nguyên (kể cả Lâm Đồng) tăng 471.14 ngàn ha, bằng 125,31% trong vòng 13 năm, vùng Đông Nam Bộ tăng 526,01 ngàn ha bằng 65,68%. Quỹ đất nông nghiệp tăng lên, trong đó chủ yếu là đất trồng cây lâu năm, từ 604,74 ngàn ha năm 1985 tăng lên 1.553,5 ngàn ha năm 1997, tăng 928,76 ngàn ha, bằng 253,28%; trong đó Tây nguyên tăng 304,69 ngàn ha, bằng 420,25% vùng Đông Nam Bộ tăng 345,46 ngàn ha, bằng 152,49%. Điều đáng lưu ý là quỹ đất trồng lúa giảm, trong vòng 13 năm diện tích đất trồng lúa cả nước giảm 97,06 ngàn ha, trong đó đồng bằng sông Hồng giảm 51,54 ngàn ha. Quỹ đất lâm nghiệp tăng lên, từ 9.641,66 ngàn ha năm 1985 tăng lên 11.153,3 ngàn ha tăng năm 1997 , trong đó vùng núi và trung du phía Bắc tang 1.045,18 ngàn ha. Quỹ diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản tăng lên nhanh, từ 249,0 ngàn ha năm 1987 tăng lên 508,017 ngàn ha năm 1997, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu long tăng 173,95 ngàn ha. Quỹ đất nông nghiệp nước ta có một số đặc trưng đáng chú ý sau: - Quỹ đất nông nghiệp của nước ta rất đa dạng, cả nước có 13 nhóm đất chính, trong đó nhóm đất đỏ chiếm gần 54% được phân bổ chủ yếu ở Trung du và miền núi phía Bắc, Tây nguyên, Bắc Trung bộ và Duyên Hải miền trung. Nhóm đất xám, đất đen
  39. đang bị thoái hoá với 2,48 triệu ha, tập trung chủ yếu ở Đông Nam bộ, Tây nguyên. Nhóm đất phù sa chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu long và đồng bằng sông Hồng v.v - Nước ta có một số nhóm đất có chất lượng tốt, như đất bazan rất thích để phát triển cà phê, cao su, hồ tiêu và các loại cây ngắn ngày, đất phù sa thích hợp trồng cây lương thực, nhất là cây lúa, trồng cây công nghiệp ngắn ngày v.v. Bên cạnh một số loại đất tốt, quỹ đất nước ta cũng có một số loại đất xấu như đất bị bạc màu, đất chua mặn, đất cát ven biển v.v cần được cải tạo và bồi dưỡng đất. - Quỹ đất nông nghiệp của nước ta không lớn, mức bình quân diện tích đầu người thấp, xếp hàng thứ 135 trên 160 nước và hàng thứ 9 ở Đông Nam á. ở đồng bằng sông Hồng diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người quá thấp - trên 500m2/người, có nhiều xã đạt dưới 300m2/người. 5. Những biện pháp chủ yếu để sử dụng đầy đủ và hợp lý đất nông nghiệp. Để sử dụng đầy đủ và hợp lý đất nông nghiệp cần thực hiện tốt các biện pháp sau đây: a. Thực hiện đánh giá đất đai theo số lượng, chất lượng và các điều kiện gắn với đất đai làm cơ sở khoa học cho việc phân loại, bố trí quy hoạch sử dụng đất theo hướng khai thác lợi thế so sánh của từng vùng, từng địa phương. Điều tra, đánh giá phân loại đất, một mặt nhằm đánh giá chính xác tiềm năng đất đai có thể sử dụng vào sản xuất nông nghiệp, mặt khác nhằm xác lập cơ sở khoa học cho việc bố trí sử dụng đất đai. Đánh giá số lượng, chất lượng đất đai là hai mặt của điều tra cơ bản nguồn tài nguyên đất. Đó là công việc cần thiết nhưng cũng rất tốn kém công sức tiền của. Vì vậy cần tiến hành từng bước, có sự đầu tư và phối hợp với nhiều ngành khoa học khác nhau. b. Đẩy mạnh thâm canh nông nghiệp, đồng thời tích cực mở rộng diện tích bằng khai thác và tăng vụ.
  40. Thâm canh là con đường phát triển chủ yếu của sản xuất nông nghiệp. Do diện tích bề mặt của ruộng đất có hạn, để tạo ra ngày càng nhiều nông sản, loài người phải khai thác chiều sâu của ruộng đất. Đó là con đường phát triển nông nghiệp hàng hoá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thâm canh phải được thực hiện từ đầu, toàn diện, liên tục và ngày càng cao. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện thâm canh phải coi trọng tính hiệu quả, phải gắn thâm canh với quá trình cải tạo và bồi dưỡng ruộng đất. Cùng với quá trình thực hiện thâm canh, coi trọng biện pháp mở rộng diện tích bằng khai hoang và tăng vụ. ở nước ta quỹ đất có khả năng nông nghiệp vẫn còn ở một số vùng, ở đây có thể khai hoang đưa quỹ đất này vào sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó quỹ đất trống đồi núi trọc, bãi bồi ven biển còn lớn, cần thiết được khai thác để phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Tuỳ điều kiện từng vùng mà lựa chọn hình thức khai hoang thích hợp, có thể là khai hoang tại chỗ, có thể là khai hoang gắn với việc xây dựng vùng kinh tế mới. Việc lựa chọn hình thức nào là phải căn cứ vào điều kiện cụ thể về quỹ đất đai, vốn của ngân sách nhằm hỗ trợ cho những người đi khai hoang và vốn của bản thân họ góp phần đầu tư để khai hoang. Việc tăng vụ, chuyển vụ ở nước ta trong những năm qua đã có nhiều thành công, tuy nhiên nếu biết khai thác tiềm năng tăng vụ to lớn ở nước ta, thì tăng vụ còn đem lại hiệu quả lớn hơn. c. Phải sử dụng một cách tiết kiệm quỹ đất nông nghiệp, đặc biệt là việc chuyển đất nông nghiệp sang mục đích sử dụng khác. Quỹ đất nông nghiệp rất có hạn về mặt diện tích, trong khi đó nhu cầu về nông sản ngày càng tăng lên. Đồng thời nhu cầu chuyển một phần đất nông nghiệp thành đất phi nông nghiệp cũng rất bức xúc trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Vì vậy sử dụng tiết kiệm đất nông nghiệp vừa là yêu cầu vừa là biện pháp để sử dụng đầy đủ và hợp lý đất đai. Hạn chế việc chuyển đất nông nghiệp sang mục đích sử dụng khác.
  41. d. Đẩy mạnh công tác chuyển đổi ruộng đất nhằm khắc phục tình trạng phân tán manh mún trong sử dụng đất. Trong một thời gian khá dài (gần 30 năm) ruộng đất do hợp tác xã nông nghiệp thống nhất và quản lý sử dụng, hiệu quả sử dụng ruộng đất thấp, tình trạng khan hiếm lương thực, thực phẩm kéo dài, đời sống của nông dân gặp khó khăn. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị được ban hành (4/1988) khẳng định việc giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho bộ xã viên, phần lớn hộ xã viên ở các địa phương đòi hỏi sự công bằng trong khi giao ruộng với phương thức: "có gần, có xa", "có xấu, tốt" để đảm bảo nếu thửa này mất mùa, thì thửa khác có thể gỡ lại nhờ được mùa nhằm đảm bảo cuộc sống của từng hộ nông dân. Với nhận thức là hướng vào sản xuất tự cấp, tự túc trong điều kiện sản xuất thấp kém thì phương thức giao ruộng này có thể giúp cho hộ nông dân vượt qua những khó khăn. Cùng với quá trình đổi mới kinh tế, điều kiện sản xuất đã thay đổi, nông nghiệp Việt Nam đang chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá, ứng dụng nhiều hơn những tiến bộ khoa học - công nghệ mới, nhất là về giống, quy trình canh tác thâm canh thì những mảnh ruộng bị chia cắt phân tán, manh mún đang là lực cản lớn trên con đường phát triển của nông nghiệp hiện đại. Đã đến lúc các hộ nông dân tự thấy cần thiết phải chuyển đổi các thửa ruộng nhỏ thành thửa ruộng có quy mô lớn hơn. Công tác chuyển đổi ruộng đất đã và đang diễn ra ở một số địa phương bước đầu đem lại kết quả thiết thực, được nông dân đồng tình và hưởng ứng. Ngành địa chính và chính quyền địa phương cần tiếp tục tổng kết, đánh giá, lựa chọn và rút ra một số phương án tốt, thích hợp để chỉ đạo, hướng dẫn các hộ nông dân thực hiện và sớm hoàn thành công việc chuyển đổi, khắc phục được tình trạng phân tán và manh mún của ruộng đất. Đồng thời với quá trình chuyển đổi ruộng đất, các địa phương kết hợp cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để các hộ nông dân có thể sử dụng làm thế chấp khi vay vốn tín dụng tại các ngân hàng thương mại. e. Thúc đẩy quá trình tập trung ruộng đất, khuyến khích thực hiện phương thức "ai giỏi nghề gì làm nghề đó" Tình hình phân bổ và tập trung ruộng đất trong hộ nông dân từ sau 10 năm đổi mới, nhất là từ khi ban hành luật đất đai năm 1993 lại đây cho thấy xu thế chuyển đổi từ
  42. nông nghiệp manh mún, tự túc sang sản xuất hàng hoá có quy mô lớn ngày càng rõ, kinh tế trang trại đã ra đời và phát triển ở nhiều vùng trong cả nước, nhất là các tỉnh trung du, miền núi, Tây nguyên, Đông Nam bộ, ven biển, v.v Đồng thời cũng xuất hiện một bộ phận hộ nông dân không có đất hoặc quá ít đất mà chưa tìm được việc làm mới thay thế, họ đã và đang trở thành lao động làm thuê thường xuyên hoặc thời vụ. Khuyến khích những người có khả năng và nguyện vọng (có vốn, có kiến thức và kinh nghiệm sản xuất, có ý chí làm giàu) kinh doanh nông nghiệp, phát triển kinh tế trang trại được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất và được cấp giấy chứng nhận chuyển quyền sử dụng đất, cho phép hộ gia đình, cá nhân được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thuê hoặc thuê lại quyền sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khác để phát triển trang trại theo quy định của pháp luật. Như vậy kinh tế trang trại ở Việt Nam đã được pháp luật thừa nhận và khuyến khích phát triển, Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi nhất để những người có khả năng đi vào kinh doanh nông nghiệp và phát triển kinh tế trang trại cũng chính là thực hiện một phần của phương thức nêu trên. Hiện nay một số lượng đáng kể các trang trại đang nhận thầu đất của công nhân lâm trường, của các hợp tác xã hoặc chính quyền cấp xã, của các chủ dự án cần được tháo gỡ về một số chính sách, thời hạn nhận thầu. Cần xem xét từng trường hợp nhận thầu cụ thể để tìm cách giải quyết cho phù hợp. Đối với đất các lâm trường nếu chuyển sang mục đích sản xuất nông nghiệp - trồng cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả thì lâm trường có thể giao lại cho chính quyền địa phương để giao đất và cấp giấy chứng nhận cho các trang trại. Đối với đất của các nông trường nếu phần đất nhận thầu không ảnh hưởng đến quy hoạch sản xuất thì nông trường cũng có thể giao lại cho chính quyền địa phương để giao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các trang trại. Tiếp tục nghiên cứu các trường hợp nhận thầu còn lại để từng bước tháo gỡ vướng mắc cho các trang trại nhận thầu đất của nông lâm trường. Đối với vùng đất chật người đông, việc thúc đẩy quá trình tập trung ruộng đất phải đi đôi với phát triển ngành nghề, làng nghề để thu hút lao động dư thừa từ nông nghiệp. Từ những năm 1990 lại đây ở đồng bằng sông Hồng các làng nghề phát triển nhanh, từ chỗ chiếm 1/3 số làng nghề cả nước đến nay vùng đồng bằng sông Hồng chiếm gần 50% số làng
  43. nghề cả nước và đang thu hút một lực lượng lao động đáng kể vào hoạt động phi nông nghiệp. Đó là xu thế tích cực cần có chính sách khuyến khích phát triển và mở rộng lĩnh vực hoạt động phi nông nghiệp này. Đồng thời ở từng vùng cần xem xét từng trường hợp cụ thể để giải quyết hợp tình, hợp lý và đúng với quy định của pháp luật hiện hành, như cấp đất (nếu chưa được cấp và nơi còn quỹ đất công), vận động chuộc lại đất cầm cố, tổ chức đưa dân đi khai hoang xây dựng vùng kinh tế mới. f. Phải kết hợp chặt chẽ giữa khai thác với bảo vệ, bồi dưỡng và cải tạo ruộng đất. Ruộng đất - tư liệu sản xuất chủ yếu không bị hao mòn và đào thải khỏi quá trình sản xuất, nếu sử dụng hợp lý thì đất đai ngày càng tốt hơn. Việc sử dụng hợp lý ruộng đất hay không là tuỳ thuộc vào quá trình sử dụng có kết hợp chặt chẽ giữa khai thác, sử dụng ruộng đất với việc bảo vệ, bồi dưỡng và cải tạo đất đai hay không. Vì thế trong quá trình sử dụng ruộng đất phải tìm mọi biện pháp để bảo vệ chống xói mòn, rửa trôi ruộng đất. Phải thường xuyên coi trọng công tác bồi dưỡng và cải tạo đất làm tăng độ phì nhiêu của đất. g. Tăng cường quản lý Nhà nước đối với ruộng đất. Ruộng đất là tài sản quốc gia, Nhà nước giao quyền sử dụng ổn định và lâu dài cho nông dân. Việc tăng cường quản lý Nhà nước về đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng là cần thiết và tất yếu. Nội dung của quản lý Nhà nước đối với đất nông nghiệp, bao gồm: Quy hoạch sử dụng đất, xây dựng hệ thống các biện pháp sử dụng đất, xác lập hệ thống các chính sách sử dụng đất .v.v Trong những năm trước mắt cần khắc phục tình trạng quản lý và sử dụng đất đai kém hiệu quả, trong đó rà soát lại tình hình quản lý và sử dụng quỹ đất nông nghiệp, khắc phục tình trạng bao chiếm đất và sử dụng đất kém hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước. Đất ở các doanh nghiệp này cần được giao lại cho địa phương để giao cho các chủ sử dụng khác (hộ, trang trại) có hiệu quả hơn. Xác định đất đang sử dụng không có hiệu quả hoặc hiệu quả thấp làm cơ sở cho việc xây dựng phương án chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp tạo điều kiện và khung pháp lý để hình thành thị trường chuyển nhượng đất đai.
  44. III. SỬ DỤNG YẾU TỐ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG NÔNG NGHIỆP 1. Khái niệm và đặc điểm của nguồn nhân lực trong nông nghiệp. Nguồn lực lao động là lực lượng sản xuất quan trọng nhất của xã hội. Việc nghiên cứu nguồn nhân lực trong nông nghiệp có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển nông nghiệp cũng như đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trước hết cần làm rõ thế nào là nguồn nhân lực trong nông nghiệp? Nguồn nhân lực trong nông nghiệp là tổng thể sức lao động tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, bao gồm số lượng và chất lượng của người lao động. Về số lượng bao gồm những người trong độ tuổi (nam từ 15 đến 60 tuổi, nữ từ 15 đến 55 và những người trên và dưới độ tuổi nói trên tham gia hoạt động sản xuất nông nghiệp). Như vậy về lượng của nguồn nhân lực trong nông nghiệp khác ở chỗ, nó không phải chỉ bao gồm những người trong độ tuổi mà bao gồm cả những người trên và dưới độ tuổi có khả năng và thực tế tham gia lao động. Về chất lượng bao gồm thể lực và trí lực của người lao động, cụ thể là trình độ sức khoẻ, trình độ nhận thức, trình độ chính trị, trình độ văn hoá, nghiệp vụ và tay nghề của người lao động. Nguồn nhân lực trong nông nghiệp có những đặc điểm riêng so với các ngành sản xuất vật chất khác, trước hết mang tính thời vụ cao là nét đặc trưng điển hình tuyệt đối không thể xoá bỏ, nó làm phức tạp quá trình sử dụng yếu tố nguồn nhân lực trong nông nghiệp. Là thứ lao động tất yếu, xu hướng có tính quy luật là không ngừng thu hẹp về số lượng và được chuyển một bộ phận sang các ngành khác, trước hết là công nghiệp với những lao động trẻ khoẻ có trình độ văn hoá và kỹ thuật. Vì thế số lao động ở lại trong khu vực công nghiệp thường là những người có độ tuổi trung bình cao và tỷ lệ này có xu hướng tăng lên. 2. Xu hướng biến đổi nguồn nhân lực trong nông nghiệp Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, nguồn nhân lực trong nông nghiệp có số lượng lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng lao động xã hội. Song, cùng với sự phát triển của quá trình công nghiệp hoá, nguồn nhân lực trong nông nghiệp vận động theo xu hướng giảm xuống cả tương đối và tuyệt đối. Quá trình biến đổi đó diễn ra theo hai giai đoạn.
  45. Giai đoạn đầu diễn ra khi đất nước bắt đầu công nghiệp hoá, nông nghiệp chuyển sang sản xuất hàng hoá, năng suất lao động nông nghiệp có tăng lên, một số lao động nông nghiệp được giải phóng trở nên dư thừa và được các ngành khác thu hút, sử dụng vào hoạt động sản xuất - dịch vụ. Nhưng do tốc độ tăng tự nhiên của lao động trong khu vực công nghiệp còn lớn hõn tốc ðộ thu hút lao ðộng dý thừa từ nông nghiệp, do ðó ở thời kỳ này tỷ trọng lao ðộng nông nghiệp mới giảm týõng ðối, số lýợng lao ðộng tuyệt ðối còn tãng lên. Giai ðoạn này dài hay ngắn là tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của đất nước quyết định. Đài loan là nơi có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao với thời gian dài. Trong 40 năm, thu nhập quốc dân bình quân đầu người của Đài loan tăng trên 70 lần. Từ một nền nông nghiệp lạc hậu, Đài loan trở thành một nền công nghiệp mới. Năm 1952 nông nghiệp chiếm 35,9%, công nghiệp chiếm 18,0% và dịch vụ chiếm 46,1% trong tổng GDP. Cùng thời gian này dân cư nông nghiệp có 4.257 ngàn người, chiếm 52,4% dân số Đài loan. Đến năm 1970 tỷ trọng của nông nghiệp giảm xuống 17,5% và công nghiệp tăng lên 34,7% trong GDP; dân số nông nghiệp tăng lên 5.997 ngàn người và chiếm 40,9%. Đài loan kết thúc giai đoạn I, giai đoạn lao động nông nghiệp mới giảm tương đối, phải mất 20 năm. Nước ta đang ở giai đoạn thứ nhất, tỷ trọng nông nghiệp trong tổng lao động xã hội đã có xu hướng giảm xuống từ 72% năm 1993 xuống 68,64% năm 1998, nhưng số lao động còn tăng lên, từ 20.482,9 ngàn lao động tăng lên 25.302 ngàn lao động cùng thời gian tương tự. Giai đoạn thứ hai, nền kinh tế đã phát triển ở trình độ cao, năng suất lao động nông nghiệp tăng nhanh và năng suất lao động xã hội đạt trình độ cao. Số lao động dôi ra do nông nghiệp giải phóng đã được các ngành khác thu hút hết. Vì thế giai đoạn này số lượng lao động giảm cả tương đối và tuyệt đối. 3. Phân bố và sử dụng nguồn nhân lực trong nông nghiệp nước ta. Năm 1998 cả nước có 10.981 ngàn hộ nông nghiệp với 52.668 ngàn nhân khẩu, trong đó có 25.302 ngàn lao động chiếm 68,64% tổng lao động xã hội. Như vậy dân số và lao động nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn, nhưng phân bố không đều giữa các vùng, thường tập trung ở vùng đồng bằng và ven biển. Năm 1998 vùng đồng bằng sông Hồng có 4.997 ngàn lao động nông nghiệp chiếm 19,75% lao động nông nghiệp
  46. cả nước nhưng diện tích đất nông nghiệp chỉ chiếm 8,57% diện tích đất nông nghiệp cả nước, tính ra cứ 1 ha có 7,43 lao động, bằng 230% mức bình quân chung cả nước và bằng 49,5% của Tây nguyên và Đông nam bộ. Vùng Bắc Trung bộ có 3.587 ngàn lao động chiếm 14,18% tổng lao động nông nghiệp cả nước nhưng chỉ có 8,68% diện tích đất nông nghiệp và tính ra trên 1 ha có 5,27 lao động. Điều đó có thể thấy ở biểu sau: Bảng 3: Phân bố lao động và đất nông nghiệp giữa các vùng trong cả nước năm 1998. Lao động Đất nông nghiệp Số lao động trên 1 ha đất nông nghiệp Số Số lượng Tỷ trọng Tỷ trọng (người/ha) lượng(10 (1000 (%) (%) 00 người) người) Chung cả nước 25.302 100 7.843,1 100 3,23 Trong đó: Đồng bằng SH 4.997 19,75 672 8,57 7,43 Đông Bắc 4.103 16,21 909,1 11,59 4,51 Tây Bắc 838 3,21 316,2 4,03 2,65 Bắc Trung Bộ 3.587 14,18 681,0 8,68 5,27 D. hải M Trung 2.11 8,34 437,1 5,57 4,83 Tây nguyên 937 3,87 668,3 8,52 1,46 Đông Nam Bộ 2.294 9,07 1526,9 19,47 1,50 Đồng bằng SCL 6.394 25,37 2632,2 33,56 2,43 Nguồn: Số liệu thống kê - Nông - Lâm nghiệp - thủy sản Việt Nam 1990 - 1998 và dự báo năm 2000. Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 1999 Sự phân bố không đồng đều giữa các vùng về lao động và đất đai đã gây sự lãng phí, làm cho hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong nông nghiệp còn thấp. Phân bố nguồn nhân lực trong nội bộ ngành nông nghiệp nhìn chung là chưa hợp lý. Đại bộ phận lao động nông nghiệp nằm trong khu vực sản xuất lương thực, bởi lẽ diện tích trồng cây lương thực còn chiếm tỷ trọng lớn, năm 1998 diện tích gieo trồng cây lương thực còn chiếm 72,97% tổng diện tích gieo trồng cả nước, riêng cây lúa còn chiếm 62,90%. Vùng đồng bằng sông Cửu long diện tích
  47. cây lương thực chiếm 86,7% và riêng lúa chiếm 85,81% tổng diện tích gieo trồng toàn vùng. Vùng đồng bằng sông Hồng cũng tương tự với 82,7% diện tích cây lương thực và diện tích gieo trồng lúa chiếm 73,10% trong tổng diện tích gieo trồng toàn vùng. Số lao động giành cho các cây trồng khác nhất là cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả trên cả nước chưa lớn, song một số vùng chiếm tỷ trọng đáng kể, như vùng Tây nguyên diện tích cây lâu năm chiếm gần 50% và Đông Nam bộ chiếm gần 40% tổng diện tích gieo trồng toàn vùng. ở đây đã hình thành những trang trại trồng cà phê, cao su, điều, v.và lao động giành cho sản xuất cây công nghiệp hàng hoá với tỷ trọng lớn. Một số địa phương đã phát triển mạnh ngành chăn nuôi, hình thành các hộ, trang trại chuyên chăn nuôi, như ở Lâm đồng, Đồng nai, Ninh thuận, Mộc châu ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh, ngoại thành thành phố Hà Nội v.v và một bộ phận lao động chuyên chăn nuôi đã hình thành, nhưng còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Nhìn chung sự phân công lao động trong nông nghiệp nước ta còn kém phát triển, phần lớn lao động tập trung ở ngành trồng trọt, đặc biệt là ở khu vực sản xuất lương thực, thực phẩm và tập trung ở những vùng đồng bằng châu thổ, ven các trục đường giao thông. Do sự phân bố lao động nông nghiệp theo vùng và phân bố theo ngành còn bất hợp lý cho nên việc sử dụng nguồn nhân lực còn nhiều lãng phí. Với các công cụ máy móc trang bị chưa nhiều, phần lớn là công cụ thô sơ, giản đơn vì thế năng suất lao động còn thấp, thu nhập và đời sống cho người lao động chậm được cải thiện. 4. Tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động nông nghiệp. Lao động nông nghiệp Việt Nam đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lao động xã hội, trong khi đó quỹ đất nông nghiệp không lớn, mức bình quân đất nông nghiệp theo dân cư nông nghiệp ở nước ta thuộc nhóm các nước thấp nhất trên thế giới. Mặt khác tốc độ tăng dân số ở Việt Nam còn cao, với tốc độ tăng 1,8%, hàng năm, số lao động bước vào thị trường lao động khoảng một triệu người. Theo số liệu của tổng cục thống kê công bố trong niêm giám năm 1998, tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng của lao động trong độ tuổi ở khu vực nông thôn là 71,1%, điều đó có nghĩa là khu vực nông thôn đang còn 28,9% thời gian lao động chưa được sử dụng tương đương với 7,1 triệu lao động còn dư thừa. Như vậy tình trạng dư thừa lao động và thiếu việc làm đang tăng, thu nhập của nông dân vẫn còn thấp. Nhờ có sự tăng trưởng nông nghiệp trong
  48. những năm đổi mới khá cao cho nên mức đói nghèo đã giảm xuống đáng kể. Từ những cuộc điều tra năm 1992 - 1993 đã có đến 51% số dân bị nghèo đói, tỷ lệ đó đã giảm xuống 20,4% (năm 1995), xuống 19,2% (năm 1996), trong đó số dân thành thị là 8%, trong khi đó tỷ lệ này của nông thôn còn 22,5%, năm 1997 là 18,3%. Chênh lệch thu nhập giữa nhóm hộ có thu nhập cao so với nhóm hộ thu nhập thấp có xu hướng mở rộng ra. Số liệu điều tra thống kê cho thấy năm 1995 sự khác biệt giữa 20% người có thu nhập cao nhất và 20% người có thu nhập thấp nhất là 6,8 lần và năm 1997 tăng lên 7,3 lần. Đó là vấn đề kinh tế xã hội cần được quan tâm giải quyết. Vấn đề đặt ra là phải tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho dân cư nông thôn. Trên cơ sở đảm bảo an toàn về lương thực, từng vùng thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi, hướng vào những cây có giá trị hàng hoá và hàng hoá xuất khẩu cao để tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho nông dân. Do lực lượng lao động ở nông thôn tiếp tục tăng nhanh chóng, để có thể thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn bằng cách tạo ra việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn. Một mặt giảm tỷ hộ thuần nông, tăng hộ nông nghiệp kiêm ngành nghề dịch vụ, hồi phục và phát triển ngành nghề thủ công, ngành nghề truyền thống ở nông thôn. Mặt khác tăng cường tiết kiệm trong dân cư nông thôn đẩy mạnh đầu tư phát triển công nghiệp nông thôn thông qua phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các thị trấn, các tụ điểm dân cư vừa để thu hút lực lượng lao động trẻ ở nông thôn vừa tạo ra những sản phẩm tiêu dùng phục vụ dân cư nông thôn- bằng các chính sách cởi mở khuyến khích dân cư đầu tư phát triển mạnh công nghiệp nông thôn. 5. Phương hướng và biện pháp sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực trong nông nghiệp nước ta. Phương hướng cơ bản sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực trong nông nghiệp nước ta là: giải phóng mọi sức sản xuất ở nông thôn, khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng các nguồn lực của đất nước, của các vùng và của các ngành nông nghiệp, phát triển mạnh nền nông nghiệp hàng hoá nhiều thành phần, đẩy mạnh việc áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào nông nghiệp, phát triển nông thôn tổng hợp, gắn chặt chẽ sử dụng lao động với việc mở rộng kinh tế đối ngoại, kết hợp giải quyết việc làm của người lao động tại chỗ là chủ yếu với phân bổ lao động hợp lý theo vùng lãnh thổ;
  49. Nhà nước thông qua các chính sách và cơ chế quản lý để tạo thêm việc làm và khuyến khích mọi người lao động tự tạo việc làm cho mình, nâng cao năng suất lao động và nâng cao mức sống của người lao động. Để thực hiện phương hướng trên đây, cần phải có một hệ thống các giải pháp sau: a. Xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý chẳng những có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế của cả nước, mà còn có ý nghĩa đối với sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn lao động xã hội, trong đó có lao động nông nghiệp. Trong điều kiện nước ta lao động nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ lớn, thì việc sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn lao động nông nghiệp càng phải được thực hiện trong mối quan hệ hữu cơ với việc phát triển các ngành kinh tế quốc dân khác để hình thành cơ cấu phân công lao động mới nhằm thực hiện cơ cấu kinh tế hợp lý. Mở rộng và phát triển mạnh các ngành kinh tế quốc dân: công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, giao thông, thương mại và dịch vụ là để mở rộng địa bàn sản xuất, thu hút mọi người có khả năng lao động trong nông nghiệp với những tư liệu sản xuất cần thiết bảo đảm cho lao động nông nghiệp ngày càng có hiệu quả hơn. Việc phân phối sức lao động giữa nông nghiệp và các ngành kinh tế quốc dân khác phải đảm bảo cho nông nghiệp cả về số lượng và chất lượng một cơ cấu lao động hợp lý đủ để cho nông nghiệp phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc rút bớt lao động nông nghiệp chuyển sang phát triển các ngành kinh tế khác là tuỳ thuộc vào việc nâng cao năng suất lao động nông nghiệp. Cơ cấu kinh tế của đất nước phải gắn liền với phát triển kinh tế đối ngoại. Trong thời đại ngày nay cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển nhanh chóng chưa từng thấy. Phát triển kinh tế của mỗi nước gắn liền sự hợp tác với các nước khác phản ánh tính quy luật. Trong điều kiện nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, việc khai thác các tiềm năng lao động, đất đai, rừng, biển, ngành nghề để tăng nhanh khối lượng nông sản phẩm hàng hoá, đặc biệt những sản phẩm để xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn lao động nước ta.
  50. b. Phân bổ lao động hợp lý giữa các vùng là biện pháp quan trọng để sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn nhân lực trong nông nghiệp nước ta. Thực hiện việc phân bố lao động đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ lao động với các nguồn tài nguyên và tư liệu sản xuất sẵn có trong từng vùng khác nhau trên phạm vi cả nước để khai thác có hiệu quả các tiềm năng đó, tạo ra nhiều ngành mới, nhiều vùng chuyên môn hoá kết hợp với phát triển tổng hợp, làm cho nền kinh tế cả nước phát triển một cách đồng đều. Việc điểu chỉnh sức lao động từ nơi đông đến những vùng thưa dân trong từng tỉnh, trong mỗi huyện có ý nghĩa thiết thực trong việc sử dụng nguồn nhân lực trong nội bộ địa phương mình. Đồng thời phải chú ý điều chỉnh sức lao động giữa các vùng hợp lý hơn. Để thực hiện nhiệm vụ đó yêu cầu trước hết đối với từng tỉnh, từng huyện, cũng như từng doanh nghiệp nông nghiệp phải nắm chắc nhân lực và nhu cầu lao động. Dân số là cơ sở của nguồn nhân lực. Vì vậy, kế hoạch hoá nguồn nhân lực phải gắn liền với kế hoạch hoá dân số. Trong khi dân số tăng lên khá nhanh, thu nhập quốc dân bình quân đầu người còn thấp, vì vậy phải thực hiện kế hoạch hoá dân số và coi đó là cuộc vận động lớn có ý nghĩa chiến lược về kinh tế xã hội. c. Thực hiện biện pháp kết hợp chặt chẽ giữa thâm canh, khai hoang và tăng vụ, phát triển chăn nuôi và đẩy mạnh công tác trồng rừng và tu bổ rừng có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn nhân lực trong nông nghiệp nước ta. Nền nông nghiệp phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa chủ yếu dựa vào việc thực hiện tái sản xuất mở rộng bằng con đường thâm canh. Để thực hiện con đường thâm canh cần phải đầu tư thêm lao động quá khứ và lao động sống trên một đơn vị diện tích ruộng đất một cách hợp lý. Điều đó tạo ra điều kiện thuận lợi để sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn nhân lực trong nông nghiệp. Thực hiện khai hoang và tăng vụ để mở rộng thêm diện tích trồng trọt, nâng cao trình độ đảm bảo ruộng đất, mở rộng phạm vi hoạt động tạo điều kiện sử dụng lao động tốt hơn.
  51. Trong nông nghiệp nước ta, chăn nuôi phát triển chậm so với ngành trồng trọt. Nhiệm vụ của nền nông nghiệp nước ta là phải phát triển mạnh cả hai ngành, nhưng tốc độ phát triển ngành chăn nuôi phải nhanh hơn tốc độ phát triển ngành trồng trọt. Thực hiện nhiệm vụ đó cho phép thu hút một bộ phận lao động đáng kể ở nông thôn. Phân phối sức lao động để phát triển nghề rừng, trồng rừng và tu bổ rừng, đặc biệt rừng phòng hộ, rừng làm nguyên liệu và cung cấp cho xuất khẩu có ý nghĩa to lớn đối với phát triển nông lâm nghiệp nước ta. d. Phát triển công nghiệp nông thôn bao gồm cả tiểu thủ công nghiệp, phát triển dịch vụ nông thôn có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng nguồn nhân lực, phát triển sản xuất và nâng cao đời sống người lao động nông thôn. Phát triển các ngành nghề ở nông thôn là để sản xuất nguyên liệu, công cụ sản xuất, thực hiện chế biến, dịch vụ đời sống,v.v Một bộ phận lao động nông nghiệp chưa có việc làm có thể làm dịch vụ trong các ngành khác. Trong việc phát triển ngành nghề nông thôn cần phải tạo ra từng bước những người có nghề và hình thành các làng nghề. Đẩy mạnh hơn nữa việc trang bị cho người lao động những tư liệu sản xuất cần thiết; đảm bảo cả về số lượng, chất lượng và chủng loại công cụ sản xuất. e. Cải tiến tổ chức lao động, thực hiện thù lao lao động đúng đắn, áp dụng những đòn bẩy kinh tế để kích thích lao động, tổ chức tốt và từng bước nâng cao đời sống của người lao động là biện pháp thiết thực để sử dụng hợp lý nguồn lao động trong nông nghiệp. f. Phải thực hiện biện pháp nâng cao trình độ văn hoá, trình độ kỹ thuật, trình độ nghiệp vụ của người lao động. Để thực hiện biện pháp này cần phải cải cách toàn bộ hệ thống giáo dục và đào tạo quốc dân phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, có sự hoạt động của thị trường lao động. Sự hình thành thị trường sức lao động trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần được sự hướng dẫn và bảo vệ của Nhà nước và luật pháp. Sự hình thành đó mở ra khả năng để người lao động tạo
  52. việc làm làm theo luật định. Cần mở rộng hệ thống các trung tâm đào tạo và hình thành và phát triển các trung tâm giới thiệu việc làm. Nhà nước cần phải đổi mới và từng bước hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách, hoàn thiện hệ thống pháp luật để đảm bảo giải phóng thực sự nguồn nhân lực. Trong đó cần đặc biệt chú ý chính sách và luật về tự do kinh doanh, tự do lao động và di chuyển lao động, góp vốn và huy động vốn, quyền sử dụng đất đai, quyền thừa kế tài sản, thực hiện tốt hợp đồng lao động và luật lao động của nước ta. IV. SỬ DỤNG NGUỒN LỰC VỐN TRONG NÔNG NGHIỆP 1. Vai trò và đặc điểm của vốn sản xuất trong nông nghiệp. Vốn là nguồn lực hạn chế đối với các ngành kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng. Vốn sản xuất vận động không ngừng từ phạm vi sản xuất sang phạm vi lưu thông và trở về sản xuất. Hình thức của vốn sản xuất cũng thay đổi từ hình thức tiền tệ sang hình thức tư liệu sản xuất và tiền lương cho nhân công đến sản phẩm hàng hoá và trở lại hình thức tiền tệ v.v. Như vậy vốn sản xuất trong nông nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và đối tượng lao động được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp. Do tính đặc thù của sản xuất nông nghiệp, vốn sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm sau: a. Trong cấu thành vốn cố định, ngoài những tư liệu lao động có nguồn gốc kỹ thuật còn bao gồm cả tư liệu lao động có nguồn gốc sinh học, như cây lâu năm, súc vật làm việc, súc vật sinh sản. Trên cơ sở những tính quy luật sinh học, các tư liệu lao động này thay đổi giá trị sử dụng của mình khác với tư liệu lao động có nguồn gốc kỹ thuật. b. Sự tác động của vốn sản xuất vào quá trình sản xuất và hiệu quả kinh doanh của nó không phải bằng cách trực tiếp mà thông qua đất, cây trồng, vật nuôi. Cơ cấu và chất lượng của vốn sản xuất phải phù hợp với yêu cầu của từng loại đất đai, từng đối tượng sản xuất là sinh vật.
  53. c. Chu kỳ sản xuất dài và tính thời vụ trong nông nghiệp một mặt làm cho sự tuần hoàn và luân chuyển chậm chạp, kéo dài thời gian thu hồi vốn cố định, tạo ra sự cần thiết phải dự trữ đáng kể trong thời gian tương đối dài của vốn lưu động và làm cho vốn ứ đọng. Mặt khác sự cần thiết và có khả năng tập trung hoá cao về phương tiện kỹ thuật trên một lao động nông nghiệp so với công nghiệp. d. Sản xuất nông nghiệp còn lệ thuộc vào nhiều điều kiện tự nhiên, nên việc sử dụng vốn gặp nhiều rủi ro, làm tổn thất hoặc giảm hiệu quả sử dụng vốn. e. Một bộ phận sản xuất nông nghiệp không qua lĩnh vực lưu thông mà được chuyển trực tiếp làm tư liệu sản xuất cho bản thân ngành nông nghiệp, do vậy vòng tuần hoàn vốn sản xuất được chia thành vòng tuần hoàn đầy đủ và không đầy đủ. Vòng tuần hoàn không đầy đủ là vòng tuần hoàn của một bộ phận vốn không được thực hiện ở ngoài thị trường và được tiêu dùng trong nội bộ nông nghiệp khi vốn lưu động được khôi phục trong hình thái hiện vật của chúng. Vòng tuần hoàn đầy đủ yêu cầu vốn lưu động phải trải qua tất cả các giai đoạn, trong đó có giai đoạn tiêu thụ sản phẩm. 2. Vốn cố định trong nông nghiệp a. Khái niệm và đặc điểm. Tư liệu lao động là điều kiện vật chất không thể thiéu được trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Có nhiều loại tư liệu lao động và công dụng của mỗi loại không giống nhau, nhưng chúng đều có tính chất chung là giữ vai trò môi giới trong quá trình lao động, tạo nên sự kết hợp giữa người lao động và đối tượng lao động. Để tiến hành kinh doanh sản xuất cần thiết phải ứng trước một số tiền vốn nhất định để mua sắm tư liệu lao động. Trong quá trình sản xuất, tư liệu lao động không thay đổi hình thái vật chất ban đầu và tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm mới theo mức độ hao mòn. Vốn đầu tư ban đầu thu hồi từng phần sau mỗi chu kỳ sản xuất thông qua quỹ khấu hao. Tài sản cố định hết thời hạn sử dụng sẽ được thanh lý đào thải. Do đặc điểm trong quá trình luân chuyển, hình thái vật chất của tư liệu lao động được gọi là tài sản cố định và phần vốn ứng trước được gọi là vốn cố định. Là tài sản cố định phải có đủ
  54. hai điều kiện: đạt giá trị tối thiểu theo quy định và thời hạn sử dụng phải trên một năm. Giá trị tối thiểu tuỳ thuộc từng thời kỳ Bộ tài chính có quy định cụ thể. Như vậy vốn cố định là số vốn ứng trước để mua sắm tư liệu lao động chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Phương thức luân chuyển và bù đắp giá trị của nó là chuyển dần từng phần giá trị vào sản phẩm mới đến khi tư liệu lao động hết thời hạn sử dụng thì vốn cố định kết thúc quá trình luân chuyển. b. Phân loại đánh giá vốn cố định. Vốn cố định được phân loại theo chức năng (sản xuất và phi sản xuất vật chất). Theo công dụng của từng yếu tố (tư liệu lao động cơ khí, tư liệu lao động sinh học, điều kiện vật chất của lao động v.v.) hoặc theo cơ cấu các ngành sản xuất trong nông nghiệp. Có thể sử dụng 5 phương pháp sau để đánh giá vốn cố định; phương pháp đánh giá theo giá trị ban đầu hoàn toàn, theo giá khôi phục hoàn toàn, theo giá trị ban đầu trừ phần đã hao mòn, theo giá trị khôi phục trừ phần đã hao mòn và theo giá cố định. c. Tái sản xuất vốn cố định. Trong quá trình sản xuất nông nghiệp, tất cả tài sản cố định đều bị hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Sự hao mòn hữu hình là sự hao mòn vật chất dưới dạng hình thức cọ xát, biến dạng, hư hỏng, bị ăn mòn. Những chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật đối với tư liệu cơ khí và khả năng sinh sản của chúng (đối với tư liệu sinh học) bị thay đổi, đặc tính, hiệu suất, và độ tin cậy của tài sản cố định chuyển dần vào những sản phẩm đã được sản xuất ra trong quá trình sản xuất. Hao mòn vô hình là sự hao mòn làm giảm giá trị của tài sản cố định do tiến bộ khoa học - công nghệ. Tài sản cố định bị giảm giá là do người ta đã sản xuất những tư liệu lao động cùng một chức năng nhưng hiện đại hơn về công nghệ, có năng suất cao hơn hoặc giá thành rẻ hơn. Hao mòn vô hình là tất yếu khách quan, đặc biệt trong điều kiện ngày nay cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển với nhịp độ
  55. nhanh chóng và tác động mạnh mẽ vào nông nghiệp kéo theo sự thay đổi sâu sắc về tư liệu lao động. Vì vậy trong thực tiễn sản xuất, vấn đề đặt ra là phải giảm thấp sự tổn thất do sự hao mòn vô hình các tài sản cố định bằng cách mua sắm những tư liệu lao động có trình độ kỹ thuật cao, đảm bảo sử dụng đem lại hiệu quả lớn và tiến hành khấu hao hết trước khi thanh lý. Tái sản xuất tài sản cố định chủ yếu thực hiện bằng hai phương thức: - Thông qua quỹ khấu hao: Quỹ khấu hao được hình thành trên cơ sở trích khấu hao hàng năm. Mục đích chủ yếu là để tái sản xuất giản đơn tư liệu lao động, nhưng trên thực tế nó thực hiện chức năng tái sản xuất mở rộng, vì rằng đến khi khấu hao hoàn toàn tài sản cố định, quỹ khấu hao này được sử dụng để xây dựng tài sản cố định mới. Khi tiến hành khấu hao tài sản cố định phải đảm bảo các yêu cầu sau: Bù đắp đủ giá trị tài sản cố định đã hao mòn trong quá trình sử dụng. Các bộ phận cấu thành của tài sản cố định thường có nhịp độ hao mòn không giống nhau. Muốn duy trì hoạt động của máy móc lâu dài phải chi thêm một khoản tiền sửa chữa lớn. Sau khi không còn khả năng sử dụng, tài sản cố định sẽ được thanh lý, phần giá trị này gọi là giá trị đào thải. Như vậy, phần giá trị khấu hao thu được hàng năm gồm có hai phần và chuyển thành các loại quỹ: quỹ khấu hao cơ bản và quỹ khấu hao sữa chữa lớn. Công thức khấu hao chung như sau: Hoặc:
  56. Trong đó: A: Mức khấu hao hàng năm Gb: Giá trị ban đầu hoàn toàn của tài sản cố định S: Chi phí sửa chữa lớn Gt: Giá trị đào thải tài sản cố định T: Thời gian sử dụng Q: Khối lượng sản phẩm có thể sản xuất ra trong thời kỳ tồn tại của tài sản cố định. q: Khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong năm tính toán. Tùy thuộc vào từng loại tài sản cố định mà vận dụng công thức tính khấu hao theo thời gian sử dụng hoặc theo khối lượng sản phẩm có thể sản xuất ra. Chẳng hạn đối với cây lâu năm có thể tính khấu hao theo sản lượng, đối với máy kéo tính theo khối lượng công việc hoàn thành Để đơn giản trong tính toán, cần phải xác định tỷ lệ khấu hao hàng năm cho từng loại sản phẩm cố định. Dựa vào tỷ lệ đó để xác định mức khấu hao và phân bổ vào giá thành sản phẩm. Tỷ lệ khấu hao hàng năm với giá trị ban đầu hoàn toàn của tài sản cố định, ta có công thức: Hoặc: Tỷ lệ khấu hao cơ bản, tính theo công thức sau: