Xung quanh việc tích hợp Văn - Sử trong chương trình dạy học phổ thông hiện nay

pdf 7 trang ngocly 2030
Bạn đang xem tài liệu "Xung quanh việc tích hợp Văn - Sử trong chương trình dạy học phổ thông hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfxung_quanh_viec_tich_hop_van_su_trong_chuong_trinh_day_hoc_p.pdf

Nội dung text: Xung quanh việc tích hợp Văn - Sử trong chương trình dạy học phổ thông hiện nay

  1. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 33, Số 1 (2017) 58-64 Xung quanh việc tích hợp Văn-Sử trong chương trình dạy học phổ thông hiện nay Nguyễn Đức Can*, Lê Thời Tân Trường Đại học Giáo dục, ĐHQGHN, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 26 tháng 9 năm 2016 Chỉnh sửa ngày 16 tháng 02 năm 2017; Chấp nhận đăng ngày 15 tháng 03 năm 2017 Tóm tắt: Trên cơ sở lí luận của việc tiếp cận tri thức khoa học liên ngành Văn-Sử, bài viết tìm cách nhận thức và mô tả lại tương quan nội bộ giữa các “phân môn” của Văn khoa với các phân ngành trong khoa học lịch sử nhằm góp phần vào việc xây dựng chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra có tích hợp các nội dung tri thức liên môn và nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên PTTH. Từ khóa: Tích hợp Văn-Sử; Khoa học liên ngành; Trung học phổ thông; Tri thức liên môn. 1. Câu chuyện tích hợp trong giáo dục nói chung* những lĩnh vực tri thức “tách rời” là không phù hợp với thực tiễn khoa học ngày nay. Do vậy, Giáo dục hiện đại đang hướng đến cái cốt ngày nay tích hợp đã trở thành một trong lõi trong đổi mới phương pháp dạy học là dạy những xu thế dạy học hiện đại thu hút sự học theo hướng tích hợp (integration). Theo Đề quan tâm nghiên cứu và áp dụng ở nhiều án Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, thì sau nước trên thế giới. năm 2015 số môn bắt buộc của HS sẽ chỉ còn 3- 1. Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, nhiều 8 môn, thay vì 11-13 môn như hiện nay. Hội nghị trên thế giới quan tâm đến lí thuyết về Chương trình giáo dục phổ thông sẽ dạy theo tích hợp như: Tháng 9 năm 1968, Dưới sự bảo phương án tích hợp và phân hóa là chủ yếu. trợ của UNESCO, Hội đồng liên quốc gia về Vấn đề tích hợp Văn-Sử phục vụ chương giảng dạy khoa học, đã tổ chức tại thành phố trình đào tạo giáo viên đã được nhiều nhà giáo Varna (Bungari) “Hội nghị tích hợp việc giảng dục quan tâm nghiên cứu. Các khoa học nói dạy các khoa học”. Hội nghị này đặt ra hai vấn chung đã chuyển từ tiếp cận “phân tích - cấu đề: “Vì sao phải dạy học tích hợp các khoa trúc” sang tiếp cận “tổng hợp - hệ thống”. Sự học?” và “Dạy học tích hợp các khoa học là thống nhất của tư duy phân tích - tổng hợp cần gì?”. Đến Hội nghị phối hợp trong chương thiết cho việc phát triển nhận thức, hình thành trình của UNESCO tại Paris 1972 đã đưa ra nhận thức biện chứng quan hệ giữa bộ phận với định nghĩa dạy học tích hợp các khoa học. Tiếp toàn thể. Việc dạy học các khoa học trong nhà sau đó, UNESCO lại tổ chức Hội nghị đào tạo trường vì thế cũng phải phản ánh sự phát triển giáo viên để bàn về dạy học tích hợp các khoa của khoa học. Tiếp tục dạy các khoa học như học vào tháng 4 năm 1973 tại Đại học tổng hợp Maryland. Đến lúc này khái niệm dạy học tích ___ hợp các khoa học còn bao gồm cả dạy học tích * Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-912179225. hợp các khoa học với công nghệ học [1]. Email: cannd@vnu.edu.vn 58
  2. N.Đ. Can, L.T. Tân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 33, Số 1 (2017) 58-64 59 Ở Việt Nam, trong nhà trường thuộc địa, 2. Tìm hiểu cơ sở thực tiễn và lí luận của quan điểm tích hợp được thể hiện chẳng hạn ở việc tích hợp liên môn trong dạy học Ngữ môn “Cách trí” (Tiểu học), tức là môn “Khoa văn và Lịch sử trong chương trình trung học thường thức” về sau. Từ những năm 1987, học phổ thông việc nghiên cứu xây dựng môn “Tìm hiểu tự nhiên - xã hội” của Việt Nam theo quan điểm 2.1. Hình dung đại lược về khoa học xã hội tích hợp đã được thực hiện và đã được thiết kế nhân văn đưa vào dạy học suốt bậc tiểu học (lớp 1 đến Do chỗ đối tượng chung quy của các khoa lớp 5). Chương trình năm 2000 thể hiện mạnh học xã hội suy cho cùng là con người nên thay hơn quan điểm tích hợp. Mặc dù vậy, khái niệm vì “tự giới hạn” phạm vi nghiên cứu hẹp lại tích hợp vẫn còn xa lạ với nhiều giáo viên. trong cụm từ “khoa học xã hội”, các nhà học Chương trình bậc trung học chủ yếu thực hiện giả ngày nay ngày càng có thiên hướng cổ vũ tích hợp ở mức thấp, chưa coi trọng mạnh mẽ cho cách gọi rộng hơn - cách gọi “khoa học xã vấn đề dạy học tích hợp. hội - nhân văn”. Và dù hiểu theo nghĩa truyền Trước đây, tinh thần tích hợp trong đào tạo thống hay hiện đại thì nổi bật lên trong danh và dạy học chỉ mới được thực hiện ở mức độ sách các phân ngành khoa học xã hội - nhân văn thấp (liên hệ, phối hợp các kiến thức, kĩ năng đó vẫn là Triết học, Sử học, Văn học và Ngôn thuộc các môn học hay phân môn khác nhau). ngữ học. Tìm hiểu đối tượng và phạm vi nghiên Hiện nay, xu hướng tích hợp vẫn đang được cứu của ba ngành này trong mối liên hệ chung tiếp tục nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng vào cũng là một cách để thấy rõ hơn cơ sở thực tiễn đổi mới chương trình SGK phổ thông. Việc của vấn đề “văn sử bất phân” từ đó hiểu hơn về chuyển đổi SGK ở trường phổ thông theo lí do đặt vấn đề tích hợp hợp liên môn trong dạy hướng tích hợp là một yêu cầu tất yếu đổi mới học Ngữ văn và Lịch sử trong nhà trường. việc dạy và học Ngữ văn. Đầu tiên ta đều thấy rằng Văn học, Sử học Vấn đề tích hợp trong đào tạo được chú ý cùng Triết học cũng như Ngôn ngữ học đều có bàn đến nhiều tại các hội thảo, hội nghị ở những thể được xem là những ngành nghiên cứu về quy mô khác nhau. Vậy mà cho đến hiện tại, văn hóa nói chung. Trên thực tế cũng tồn tại tích hợp mới chỉ là một trong những định một phân môn gọi là Nghiên cứu về Văn hoá. hướng cơ bản xây dựng chương trình tiểu học. Phân môn học nghiên cứu văn hoá (cultural Trong chương trình và sách giáo khoa tiểu học, studies) là phân môn kết hợp tri thức xã hội các môn Tự nhiên - xã hội, môn Khoa học, môn học, lí thuyết về văn chương (literary theory), lí Sử - Địa là các môn học mới được xây dựng luận truyền thông (media theory), nhân loại học theo hướng tích hợp liên môn và xuyên môn. Ở văn hoá (cultural anthropology), lịch sử nghệ bậc trung học phổ thông, tích hợp vẫn chưa trở thuật và phê bình nghệ thuật nhằm nghiên cứu thành định hướng chung trong việc xây dựng một cách hữu hiệu các sự kiện văn hoá của chương trình và viết sách giáo khoa các môn nhân loại. Giới thuyết nội dung phân môn học học. Nói chung, giáo dục nước ta cũng đã thực nghiên cứu văn hoá như thế cho thấy các tri thức hiện tích hợp trong nội bộ môn học và tích hợp Văn học, Sử học cũng như cùng Triết học hay đa môn nhưng chưa sâu rộng. như ngôn ngữ học đều có mối liên hệ nội tại chặt Chúng tôi hi vọng với sự cập nhật các nội chẽ. Chính điều đó mới là điều kiện dẫn tới quan dung thông tin nghiên cứu liên ngành văn sử điểm tích hợp tri thức Văn-Sử nói chung. phục vụ chương trình đào tạo giáo viên Ngữ 2.2. Luận giải về mối quan hệ tri thức trong văn và giáo viên Lịch sử, bài viết này sẽ góp nhóm ngành Văn-Sử-Triết phần nhỏ vào việc xây dựng chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra có tích hợp các nội dung Trước hết hãy nói về Lịch sử và Sử học. tri thức liên môn, liên lãnh vực. Lịch sử là một hệ thống những thông tin về quá
  3. 60 N.Đ. Can, L.T. Tân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 33, Số 1 (2017) 58-64 khứ thu thập được từ nhiều nguồn tư liệu khác thường được sử dụng để chỉ những sáng tác văn nhau. Các nguồn thông tin tư liệu đó được văn chương như văn xuôi tự sự (truyện ngắn, tiểu bản hóa (nói cách khác lịch sử là thành văn). thuyết), thơ ca, và kịch. Một khi đã định nghĩa “lịch sử” như vậy thì dễ Trong tiếng Việt, từ “Văn học” còn để chỉ dàng đi đến với quan điểm cho rằng Sử một khoa học. Khoa học Văn học bao gồm các học chính là ngành nghiên cứu và giải thích phân ngành nhỏ như Lí luận văn học, Nghiên những ghi chép của loài người, của dòng tộc, cứu và phê bình văn chương, Văn học sử. Với dân tộc - quốc gia hay cộng đồng xã hội - giai tư cách là một nghệ thuật, Văn học chính là bản cấp nhất định. Nói chung, Lịch sử về cơ bản thân kho tàng các sáng tác ngôn từ với rất nhiều được xem là toàn bộ dữ liệu thông tin về quá thể loại phong phú được gom vào trong ba loại khứ được chuyển tải dưới những dạng văn bản hình quen gọi là tự sự, trữ tình, kịch. Bên cạnh hay kí thuật nhất định. Khi được dùng để định đó không thể không kể đến những tác phẩm vốn danh một ngành học, thì Lịch sử chính là chỉ không phải là sáng tác ngôn từ thuần túy văn công việc phân tích-khảo cứu và giải mã (đọc- chương nhưng vẫn được xem là tác phẩm văn hiểu) hệ thống hồ sơ dữ liệu thông tin về con học, ví dụ văn chính luận. Chỉ cần lấy một vài người, cộng đồng, xã hội, hoặc chủ đề nhất định dẫn chứng là đủ hình dung được vấn đề. Ví dụ, nào đó trong dòng thời gian. Tuyên Ngôn Độc Lập khai sinh Nước Việt Nam Khác với khái niệm Sử học đã được định Dân chủ Cộng hòa của Chủ tịch Hồ Chí Minh hình rõ ràng, trong tiếng Việt Văn học là một được xem là một diễn ngôn hay văn kiện lịch thuật ngữ rất mơ hồ. Có cách hiểu rộng cho sử, là tài liệu sử học hàng đầu nhưng đồng thời rằng “văn học” chỉ bất kì một văn bản ngôn từ bản tuyên ngôn này cũng được đưa vào trong nào đã được viết ra và lưu truyền dưới một hình nhà trường như là một mẫu mực của tác phẩm thức nào đó (không loại trừ phương thức cả văn chương chính luận xuất sắc. Một loạt các truyền miệng). Chính cách hiểu này đã tạo điều tác phẩm như Hịch tướng sĩ của Trần Quốc kiện trực tiếp cho sự hình thành quan niệm “văn Tuấn, Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi đều sử bất phân” trong truyền thống văn hóa Đông là những ví dụ tương tự. Á. Theo đó, bất cứ kí tải nào cũng có giá trị như Nếu chấp nhận quan điểm vừa trình bày ta là tài liệu lịch sử. Dễ hiểu tại sao trường hợp tác sẽ thấy dù hiểu “văn học” theo cách nào đi nữa phẩm truyền miệng lại được xem là dã sử. Đó là thì giữa Văn và Sử vẫn có những “gian díu” hết lí do vì sao mà có không ít học giả xem Sử kí sức lâu đời và bền vững. Dĩ nhiên sự “gian díu” của Tư Mã Thiên là một văn bản văn học mà giữa Văn-Sử-Triết bộc lộ tập trung ở vấn đề ngôn cũng là một trước tác lịch sử. Đẩy đến mức cực ngữ. Tất cả các tác phẩm Triết học, Sử học hay đoan, nhiều người đề xuất quan điểm đọc tác Văn học đều được truyền đạt nhờ ngôn từ. Vì vậy phẩm sử học của Tư Mã Thiên như đọc một ta không thể không nhắc đến Ngôn ngữ học. cuốn tiểu thuyết. Tại Việt Nam, cho đến tận ngày nay vẫn tồn tại hai luống ý kiến khác nhau 2.3. Nhìn lại thực chất vấn đề “Văn Sử bất về tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô phân” - cơ sở thực tiễn của việc tích hợp tri gia Văn phái. Nhiều người cho đó là kí tải lịch thức Văn-Sử sử có thực (“chí” trong nhan đề trước tác này được xem là “ghi chép”, đồng nghĩa với “thực Ngày nay trong khoa học xã hội nhân văn lục”) trong lúc có không ít học giả cho đó là đã hình thành một ngành mới tạm gọi là Lý “tiểu thuyết chương hồi” bắt chước thể thức bộ thuyết Diễn ngôn. Lý thuyết này quan niệm tất tiểu thuyết Tam Quốc Chí diễn nghĩa của La cả mọi dạng biểu đạt bằng ngôn ngữ và giao 1 tiếp ngôn ngữ của nhân loại là diễn ngôn. Như Quán Trung . Theo nghĩa hẹp hơn thì văn học vậy một tác phẩm sử học hay văn học hay triết ___ học, mọi bài giảng về văn hay sử, mọi giao tiếp 1 Chẳng hạn, dịch giả Ngô Tất Tố trước sau luôn giáo dục và học thuật về lịch sử và văn chương xem Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm lịch sử.
  4. N.Đ. Can, L.T. Tân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 33, Số 1 (2017) 58-64 61 trong nhà trường các cấp hay ngoài xã hội đều Thực tế ngay cả khi dự định khi “tích hợp” được xem là các loại diễn ngôn. Định nghĩa sau vào thành môn lớn gọi là “Cuộc sống quanh ta” đây về diễn ngôn là của nhà nghiên cứu người (lớp 1, 2, 3), “Tìm hiểu xã hội” (lớp 4, 5), Hà Lan - Teun A.van Dijk: “Diễn ngôn là sự “Khoa học xã hội” (THCS), và THPT là môn kiện giao tiếp diễn ra giữa người nói và người “Công dân với Tổ quốc” thành hiện thực thì nghe (người quan sát ) trong tiến trình hoạt cũng đâu phải vì thế mà môn Lịch sử bị thủ động giao tiếp ở một ngữ cảnh thời gian, không tiêu. Ngược lại, chính là vì được tích hợp trong gian, hay những ngữ cảnh khác nào đó. Hoạt những môn lớn đó mà tri thức Lịch sử trở nên động giao tiếp này có thể bằng lời nói, bằng văn sâu sắc và năng động hơn. Chúng tôi muốn nói viết, những bộ phận hợp thành của nó có thể như vậy để đề phòng quan điểm phản bác rằng bằng lời và không lời” [2]. Hiểu như vậy thì đặt vấn đề tìm cơ sở lí luận tích hợp trong dạy- một cách tụ nhiên ta đã thấy rõ cơ sở thực tiễn học Ngữ văn và Lịch sử là chuẩn bị tìm cách sử của vấn đề tích hợp Văn Sử trong nghiên cứu hóa môn Văn hay ngược lại hòa tan Sử vào nói chung cũng như giảng dạy nói riêng. trong Văn? Việc tái cơ cấu hay tái phối trí chương trình môn học hay viết lại sách giáo khoa không thể lí giải thành “tích hợp” cơ học. 3. Cơ sở lí luận tích hợp trong dạy-học Ngữ Cơ sở lí luận của việc “tích hợp” trong dạy học văn và Lịch sử phải được tìm kiếm tự bản chất của việc tiếp cận và biểu đạt tri thức chứ không nằm ở việc Trước tiên phải nói rõ ở đây chúng tôi chỉ “dồn điền đổi thửa” hệ thống các môn học. Môn tìm kiếm cơ sở lí luận cho việc tích hợp trong học khác với ngành khoa học, tri thức thụ đắc dạy học Ngữ văn và Lịch sử chứ không phải là được trong nhà trường không bao giờ là những tìm cách tích hợp “môn văn” hay “môn sử” vào thứ chỉ nằm gọn trong từng môn học cô lập. một môn nào đó đã có trong chương trình hay Việc phân tích các dữ liệu Văn-Sử dưới đây môn “mới” chứa gộp từ hai đến ba môn “cũ”. sẽ chứng minh cách đặt vấn đề tìm cơ sở lí luận Nói cách khác việc tìm kiếm cơ sở lí luận cho tích hợp trong dạy-học Ngữ văn và Lịch sử theo việc tích hợp trong dạy học Ngữ văn và Lịch sử cách hiểu vừa trình bày. này chỉ là để tăng cường nhận thức về bản chất Dẫn chứng đầu tiên có thể nêu ra là câu tích hợp tri thức để dạy-học tốt hơn cả hai môn chuyện sản phẩm văn hóa nổi tiếng xuất hiện Văn và Sử. Và việc dạy-học tốt hơn cả hai môn trong nhiều nền văn minh của nhiều dân tộc - Văn và Sử đó cũng chính nhằm đáp ứng tốt Sử thi hay anh hùng ca (lịch sử văn học còn gọi hơn sự hình thành năng lực của người học. Mặc là trường ca). Sử thi hay trường ca là thuật ngữ dù vậy, liên hệ với câu chuyện thời sự về “vận dùng để chỉ những tác phẩm tự sự, có nội dung mệnh” (hoặc cũng có thể dùng từ “số phận”) hàm chứa những bức tranh rộng và hoàn chỉnh môn sử hiện nay cũng không phải là không giúp về đời sống dân tộc với nhân vật trung tâm là ích cho nhận thức toàn cục. những anh hùng, dũng sĩ đại diện cho một cộng Vậy mà - theo chỗ chúng tôi hiểu, có vẻ đồng người nào đó. Cách nhìn hẹp xếp Sử thi như ở đây người ta đã không thực sự cùng chia vào kho tàng văn học. Nhưng không một ai có sẻ với nhau một cách hiểu chung về câu chuyện thể phủ nhận được cốt lõi lịch sử hiện lên thấp “tích hợp”. Bên “yêu” môn Lịch sử cố đồng thoáng đằng sau những lời “thơ” dài đó. Truyền nghĩa chuyện đem môn Sử vào “học chung” với thống văn học và mĩ học châu Âu gọi sử thi là những tri thức khác là “bỏ môn”; Bên xây épos, épic. Đây là khái niệm phổ biến vào nền dựng chương trình cố xem “học chung” là “tích học thuật khác nhau nhưng luôn được hiểu theo hợp”. Cả hai bên đều chỉ níu kéo nhau trong sân hai phạm vi rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, Sử hẹp - chương trình có tên môn nào, không tên thi là thuật ngữ chỉ một thể loại tự sự - một môn nào. trong ba loại hình theo cách phân chia của Aristotle (hai loại còn lại là Kịch và Trữ tình).
  5. 62 N.Đ. Can, L.T. Tân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 33, Số 1 (2017) 58-64 Trong phạm vi hẹp, Sử thi được dùng phổ biến không thể là lịch sử nếu không được thuật lại, trong các nền văn học dân tộc chỉ thể loại Sử thi mà thuật-kể đó cũng là cách thức của văn anh hùng. Cụ thể Sử thi chỉ một hoặc một nhóm chương (truyện). Đó là lí do vì sao mà trong thể loại trong tự sự, quen gọi là anh hùng ca. văn hóa Trung Hoa, một loạt các thuật ngữ Các thiên anh hùng ca là những thiên tự sự kể “truyện” “kí” đều được dùng chung trong cả sử về quá khứ anh hùng, là bức tranh rộng và hoàn lẫn văn. Đối với người Trung Hoa nói riêng, chỉnh về đời sống của cả một cộng đồng-dân Nhật Bản, Triều Tiên và cả Việt Nam thời trung tộc. Sử thi anh hùng tồn tại dưới cả dạng truyền đại - lịch sử là chuyện kể. Do vậy có từ “sử miệng (diễn xướng hay kể kèm nhạc cụ) và văn truyện”. Trong văn học có từ “truyện kí” nhưng bản thành văn. Hầu hết những bản chép các trong sử học cũng có từ “sử kí” [3]. Ai cũng thiên anh hùng ca tiêu biểu đều có ngọn nguồn biết lịch sử là chuỗi các biến cố-sự kiện liên dân gian. Nói cách khác sử chỉ chính là lịch sử quan tới vận mệnh cả một cộng đồng dân tộc- tiền thành văn, bảo tồn kí ức lịch sử của một quốc gia trong thời đại. Nói cách khác khi dân tộc. Vẻ đẹp độc đáo của sử thi anh hùng thể không có biến cố-sự kiện thì chỉ có đời sống- hiện cách hình dung quá khứ dân tộc trong thời gian mà không đặt vấn đề lịch sử. Biến cố- niềm thành kính và tin tưởng tuyệt đối. Trước sự kiện chính là “chuyện” và “chuyện” trong lúc lịch sử được kí tải lại bởi người chép sử cá tiếng Việt chẳng qua cũng chỉ là một biến thể nhân, cả một dân tộc coi sử thi chính là lịch sử “ngữ âm” (Việt hóa) của từ Hán Việt “truyện”. lưu lại dưới hình thức “thi” (thơ), hình thức “Chuyện” được thuật kể thì mới thành truyện. “ca” (hát kể-diễn xướng trước đám đông). Đó là Truyện đó chính là chuyện được “kí tải” lại lí do vì sao mà Karl Marx lại cho xếp sử thi vào bằng văn tự. Các biến thể thuần Việt như “ghi” thời đại trước khi bắt đầu có sáng tạo nghệ thuật (đối ứng từ Hán “kí”), “chữ” (đối ứng từ Hán thực thụ. Vì nghệ thuật thì đối lập với sử học “tự”) hay biến thể trong lòng mỗi ngôn ngữ nên mặc dù lịch sử được lưu lại dưới hình thức “sự” và “sử” phản ánh tính cách “tích hợp” tri thơ nhưng không ai lại xem sử thi cũng như thơ thức Sử và Văn tự ngay từ ngọn nguồn văn hóa. ca hay tiểu thuyết về sau. Rõ ràng là ngay từ Các dẫn chứng sử thi và sử truyện trên đây ngọn nguồn văn minh, tri thức về quá khứ tự nó đã cho thấy cần phải tiếp cận một cách tích hợp đã có tính cách “tích hợp” thực sự. Ngày nay, ra sao cùng một đối tượng trần thuật trong dạy khi dạy học các bộ Iliad, Odysseus của Hy Lạp học Văn và Sử. Trong trường hợp Việt Nam ta cổ đại hay Mahabharata, Ramayana của Ấn còn có thể kể đến hình thức “diễn ca”. “Diễn Độ, song song với việc nghiên cứu nghệ thuật ca” về hình thức chính là sử dụng “thơ” hoặc văn chương, các học giả đồng thời cũng còn ra nói rộng hơn là “văn vần” để kí tải lịch sử. Ai sức “khai thác” các “vỉa” ý nghĩa lịch sử tiềm đã từng đọc Đại Nam Quốc sử Diễn ca đều cảm tàng dưới lớp ngôn từ tráng lệ của các bộ sử thi nhận được tính cách tích hợp Văn- Sử ở tác này. Các lớp nghĩa lịch sử cổ đại đó thậm chí đã phẩm này. phát lộ thực sự nhờ vào sự hỗ trợ thực chứng Cả Văn hay Sử suy cho cùng là những của khai quật khảo cổ học trên quy mô lớn. “cách kể”. Tức Lịch sử không thể là lịch sử nếu Dĩ nhiên không ai dùng “huyền thoại” hay không được thuật lại, mà thuật-kể đó cũng là các “hình ảnh” thần thoại trong sử thi để thay cách thức của văn chương (truyện). Đó là lí do thế cho tri thức sử học đích thực. Nhưng trần vì sao mà trong văn hóa Trung Hoa, một loạt thuật hay kí tải lịch sử về sau không phải vì các thuật ngữ “truyện” “kí” đều được dùng không còn màu sắc thần kì mà được xem là “có chung trong cả Sử lẫn Văn. Văn hóa phương thực”. Tín sử đời sau này càng xa rời với những Đông có thuật ngữ từ “sử truyện”. Sử học phân hình tượng kì diệu nhưng tính đáng tin của loại hai cách “kí”/“ghi” câu chuyện lịch sử: nhưng kí tải đó chủ yếu nằm ở “cách kể”. Nói biên niên và đoạn đại. Biên niên là cách chép sử cách khác sau thời kì sử thi, kí tải lịch sử thực theo dòng thời gian. Đoạn đại là cách chép sử tế vẫn là một cách tự sự bằng văn. Tức lịch sử theo phận chia “thời đại” riêng. Cả hai cách đó
  6. N.Đ. Can, L.T. Tân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 33, Số 1 (2017) 58-64 63 suy cho cùng cũng là cách tự sự của tự sự văn nhất định bị biến thành “công việc” chính trị. chương - tự sự xuôi chiều theo dòng thời gian Cứ như là có nhà cách mạng, nhà hoạt động (chuyện xảy ra trước kể trước) hay tập hợp các chính trị lớn sáng tác văn chương nhưng không sự kiện bất kể thời điểm phát sinh lại xung phải cho văn học dân tộc mà đơn giản chỉ là quanh một hình tượng nhân vật trong truyện công cụ “chiến đấu” cho sự nghiệp chính trị-xã ngắn và tiểu thuyết. Thực chất của sự “tích hội. Các nhà nghiên cứu văn học sử “quên” mất hợp” Văn Sử xét ở phương thức tự sự-kí thuật tư cách nghệ sĩ-nhà văn của họ. Kết quả là khi sự kiện-nhân vật chính là ở phương thức dạy học một văn học sử như vậy, học sinh “chiếm lĩnh” không-thời gian theo một nhãn thường vẫn có cảm giác lịch sử văn học cũng quan trần thuật nhất định. Sự khác biệt phân giống hệt lịch sử đấu tranh và dường như chỉ có cách phân chia trước tác lịch sử và tác phẩm chiến tranh, kháng chiến mới là đề tài và chủ đề văn chương chỉ là ở chỗ trước tác lịch sử vin chính của văn học nghệ thuật. Trong tình hình dẫn “tài liệu” khả chứng và tuyên bố “thực lục” đó, có không ít giáo viên nhầm tưởng rằng biên (chép sự thực) trong lúc tiểu thuyết chấp nhận soạn và dạy học văn học sử như vậy là một hư cấu và “miễn” khảo cứu tài liệu “có thực”. cách tích hợp liên môn Văn Sử. Suy cho cùng cả Văn hay Sử là những “cách kể”. Tức lịch sử không thể là lịch sử nếu 4. Nhìn nhận lại mối quan hệ nội dung các không được thuật lại, mà thuật-kể đó cũng là phân môn văn học và sử học từ góc nhìn tích cách thức của văn chương (truyện). Một loạt hợp tri thức các thuật ngữ như “truyện” “kí” “sử truyện” “truyện kí” đã được sinh thành trong bối cảnh Có thể điểm lại các phân môn có quan hệ tri “tích hợp” Văn Sử tự lâu đời. Thực chất của sự thức qua lại giữa Văn và Sử như văn học sử “tích hợp” Văn Sử xét ở phương thức tự sự-kí trong liên hệ với lịch sử nói chung, sử danh thuật sự kiện-nhân vật chính là ở phương thức nhân với văn xuôi “truyện kí”, lí luận văn học “chiếm lĩnh” không-thời gian theo một nhãn với lịch sử tư tưởng, Văn học sử hay cũng gọi quan trần thuật nhất định. Sự khác biệt phân Lịch sử văn học là một phân môn quan trọng cách phân chia trước tác lịch sử và tác phẩm của văn khoa nói chung. Một nhận thức đã trở văn chương chỉ là ở chỗ trước tác lịch sử vin nên phổ biến là Lịch sử văn học là một phần dẫn “tài liệu” khả chứng và tuyên bố “thực lục” của của lịch sử nói chung. Nói cách khác văn (chép sự thực) trong lúc tiểu thuyết chấp nhận chương và các hoạt động lí luận phê bình và hư cấu và “miễn” khảo cứu tài liệu “có thực”. khảo cứu văn học cũng có một quá trình lịch sử và quá trình này không nằm ngoài lịch sử. Nhưng đó chỉ là nhận thức chung. Từ nhận thức 5. Thay lời kết luận tổng quát này đến thao tác xác định đối tượng của Văn học sử trong phân biệt với đối tượng Có thể nói một trong những cơ sở thực tiễn chung của nghiên cứu sử học là cả một quá đáng chú ý nhất của việc tích hợp Văn Sử trong trình. Rất nhiều nhà văn học sử biến các bộ chương trình phổ thông về cơ bản nằm ở nền Lịch sử văn học thành một thứ tài liệu minh họa tảng nhận thức Văn Sử bất phân đã trở thành cho lịch sử nói chung. Trong các công trình văn truyền thống. Lí giải tính chất “bất phân” này là học sử này, văn học được nhìn nhận như là một một công việc không dễ dàng. Nhưng chỉ trên sự kiện văn hóa bị quyết định một chiều từ các một sự lí giải thích đáng ta mới có thể bàn tới sự kiện lịch sử thuần túy. Các mốc thời gian của quan hệ tri thức trong nhóm ngành Văn-Sử- sự kiện lịch sử (sự thành lập của triều đại, quốc Triết. Và điều quan trọng hơn là ta sẽ phát hiện khánh, ngày thành lập của đảng cầm quyền) trở thấy sự “gian díu” giữa Văn-Sử-Triết bộc lộ tập thành mốc thời gian của văn học. Thậm chí trung ở vấn đề ngôn ngữ, hoặc nói cụ thể hơn - sáng tác văn chương của những nhân vật lịch sử vấn đề phong cách dụng ngữ. Tất cả các tác
  7. 64 N.Đ. Can, L.T. Tân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 33, Số 1 (2017) 58-64 phẩm Triết học, Sử học hay Văn học đều được cũng chính nhằm đáp ứng tốt hơn sự hình thành truyền đạt nhờ ngôn từ. Vì vậy ta không thể năng lực của người học. không nhắc đến ngôn ngữ học. Các nghiên cứu ngôn ngữ góp phần soi tỏ những “gian díu” Văn-Triết-Sử. Tất nhiên sự tìm kiếm cơ sở lí Tài liệu tham khảo luận cho việc tích hợp trong dạy học Ngữ văn và Lịch sử ở đây là phục vụ cho việc dạy học [1] Trần Bá Hoành, Dạy học tích hợp, tốt hơn Văn và Sử chứ không phải là tìm cách tích hợp “môn Văn” hay “môn Sử” vào một [2] Lã Nguyên dịch, 22 định nghĩa về diễn ngôn, môn nào đó đã có trong chương trình hay môn phebinhvanhoc.com.vn “mới” chứa gộp từ hai đến ba môn “cũ”. Và [3] Tư Mã Thiên, Sử kí (Phan Ngọc dịch), NXB việc dạy-học tốt hơn cả hai môn văn và sử đó Văn học, 2008. Integrating Literature and History in the Current Upper-secondary School Curriculum Nguyen Duc Can, Le Thoi Tan VNU University of Education, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Abstract: Based on the theory of approaching literature-history knowledge in an interdisciplinary manner, this article conceptualizes and demonstrates the organic interrelations between the "branches" of literature and those of history to contribute to the development of an outcome-based curriculum with interdisciplinary knowledge and help improve the quality of upper-secondary school teacher training. Keywords: Literature-history integration, interdisciplinary science, upper-secondary school, interdisciplinary knowledge.