Tìm hiểu Võ thuật luyện công

doc 33 trang ngocly 2990
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tìm hiểu Võ thuật luyện công", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • doctim_hieu_vo_thuat_luyen_cong.doc

Nội dung text: Tìm hiểu Võ thuật luyện công

  1. VÕ THUẬT Mục lục NAM PHÁI NỘI GIA BỘ MÁY HÔ HẤP TRONG KHÍ CÔNG: Khí Công Khí Công Bài Một - Khái Lược Về Khí Công ÐỊNH NGHỈA KỶ THUẬT LUYỆN KHÍ CÁCH THỞ NỘI CÔNG Khí Công Bài Hai - Phương Pháp Luyện Khí I. Thở Bụng (còn gọi là thở Thuận): II. Thở Ngực (còn gọi là thở nghịch): Khí Công Bài Ba - Luyện Khí 1. Môi Trường Tập 2. Chuẩn bị tư tưởng 3. Tư thế mẫu. 4.Luyện Công Khí Công Bài Bốn - Luyện Vòng Tiểu Chu Thiên I. Luyện Nhâm Mạch và Ðốc Mạch Riêng (áp dụng phương pháp thở hai thời) II. Luyện vòng Nhâm Ðốc Chung Khí Công Bài Năm - Luyện Tinh - Khí - Thần và Nội Lực A. Tinh - Khí - Thần B. Nội Lực ĐẠT MA TỔ SƯ THIỀN NGUYÊN NHÂN PHÁT SINH TÔN CHỈ VÀ YẾU LÝ TRUNG HOA VÕ SỬ THỜI THƯỢNG CỔ: (trước thời nhà tần, 221. b.c. trước thiên chúa) THỜI TRUNG CỔ: (Từ 221 trước TC đến 684 sau TC ) 4. Thời Cận Đại: (1277 1644 sau T.C) 5. Thời Hiện Đại (1644 1912) VÕ HỌC BÌNH ĐỊNH THỜI KỲ MỞ MANG (1470-1558) THỜI KỲ PHÁT TRIỂN (1558-1771) THỜI KỲ CỰC THỊNH (1771-1802) THỜI KỲ ẨN MÌNH (1802-1867) THỜI KỲ TRUNG HƯNG (1867- 1924) THỜI KỲ NGOẠI NHẬP (1924-1945) THỜI KỲ TRẦM LẮNG (1945 đến nay) NAM PHÁI NỘI GIA GS Vũ Đức N.D. Vào thời thượng cổ tại Trung Hoa võ thuật được bắt nguồn từ các môn võ sơ khai như: Giốc Để (đấu vật cổ truyền), Thủ Bác (Đánh Tay Đá Chân), Đạo Dẫn (HôHấp Dưỡng Sinh) và Kiếm Thuật (Đánh Kiếm). Về sau, vì muốn trao dồi kỹ thuật chiến đấu, và sức khỏe thâ tâm, bốn môn võ cổ điển này đã được người ta phát huy và phối hợp lại thành hệ thống võ thuật Trung Hoa, gồm có hai ngành chính yếu: Quyền Thuật và Binh Khí. Ngày xưa, võ thuật Trung Hoa được mệnh danh là "Kỷ Kích" hay "Quốc Kỷ". Vào thời cận đại, người ta gọi là "Wu Shu" tại lục địa Trung Hoa, và "Kung Fu" tại các nước khác trên thế giới. Tại Trung Hoa, vì ảnh hưởng với các yếu tố: Hoàn cảnh địa lý, triết lý tôn giáo, và kỹ thuật thực hành, võ thuật Trung Hoa đã phát sinh ra hàng trăm võ phái lớn nhỏ khác nhau, qua các thời đại. Từ thời thượng cổ đến đầu triều Minh (1368), nguồn gốc lịch sử của các võ phái rất là mơ hồ, không có tài liệu dẫn chứng. Hầu hết, chỉ dựa vào các truyền thuyết không được rõ ràng. Kể từ triều đại nhà Minh (1368 – 1660) về sau, xuất xứ và cách truyền dạy của các võ phái, tương đối được rõ ràng, xuyên qua các tài liệu sách sử. Hoàn cảnh địa lý đã đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống con người và võ thuật. Cho nên, trên đại thể, hầu hết, giới võ lâm Trung Hoa đã đồng thuận dùng sông Dương Tử (Trường Giang), làm giới tuyến cho địa phận Nam Bắc, nơi khai sinh các võ phái. Do đó, võ thuật Trung Hoa được chia thah hai phái căn bản: Nam và Bắc phái. Vì vậy người ta thường nói "Nam Quyền, Bắc Cước". Nam phái được đại diện bởi ba võ phái: Võ Đang Thái Cực Quyền, Bát Quái Quyền, và Hình Ý Quyền. Bắc phái gồm có rất nhiều võ phái khác nhau. Xuất xứ từ miền bắc, các võ phái nổi danh Thiếu Lâm, Trường Quyền, Đoàn Đả, và Địa Đàn. Ngoài ra, vì ảnh hưởng tríết lý tôn giáo và nguồn gốc khai sáng, danh từ "nội gia" và "ngoại gia" cònđược dùng thêm cho Nam Phái và Bắc phái. Tức là hai nguồn võ thuật: nội phát và ngoại nhập. Nội Gia (hay Nam phái) Vì ba võ phái Võ Đang Thái Cực Quyền, Bát Quái Quyền, và Hình Ý Quyền đều được ảnh hưởng bởi triết lý đạo dẫn của Lão Trang, và Kinh Dịch cũng như nguồn gốc khai sáng tại nội địa Trung Hoa. Kỹ thuật thực hành của Nội Gia có những đặc tính như: nhu nhuyễn, chậm chạp, vòng cầu, nội lực, tĩnh chế động, tư thế ngắn hẹp. Ngoại gia (hay Bắc Phái) Hầu hết các võ phái ngoại gia đều được ảnh hưởng bởi các triết lý tôn giáo cũng như nguồn gốc khai sáng do từ nước ngoài du nhập vào Trung Hoa: Thiếu Lâm từ Phật Giáo đến Ấn Độ, Đàn Thoái từ Hồi Giáo ở Tây Tạng. Kỹ thuật thực hành của ngoại gia có những đặc tính như cương mãnh, nhanh nhẹn, đường thẳng, ngoại lực, năng động, tư thế dài rộng. Sau đây là nguồn gốc lược sử của một số võ phái nổi tiếng đại diện cho hai nhóm Nam Phái (Nội Gia) và Bắc Phái (Ngoại Gia): NAM PHÁI (NỘI GIA) 1. VÕ ĐANG PHÁI (THÁI CỰC QUYỀN) Võ Đang Phái tọa lạc tại núi Võ Đang Sơn thuộc Tiêu Anh phủ, nằm giữa hai phần đất Giang Tây và Hà Nam. Sáng tổ là Trương Quân Bảo, đạo hiệu là Trương Tam Phong sống vào cuối đời nhà Nguyên (Mông Cổ) và đầu đời nhà Minh, tổ tiên gốc ở Long Hổ Sơn, tỉnh Giang Tây. Thuở nhỏ, ông theo học đạo Nho và đạo Lão. Vào triều Nguyên, vua Huệ Tôn (Thuận Đế), niên hiệu Nguyên Thống (năm 1333) ông thi đỗ Mậu Tài (Tú Tài ngày nay) và làm quan Lịnh ở Trung Sơn và Bắc Lăng. Về sau ông dứt bỏ đường công danh để chu du thiên hạ. Ông đã
  2. từng theo học võ và Phật tại Tung Sơn Thiếu Lâm Tự khoảng 10 năm. Vì nhận thấy võ thuật Thiếu Lâm Tự thuộc về cương quyền ngoại tráng, cho nên khi thành đạo sĩ tu luyện tại núi Võ Đang, ông đã khai sáng Võ Đang quyền pháp, với đặc tính nhu nhuyễn trong kỹ thuật, phối hợp với nội lực tĩnh luyện. Cũng như triết lý Lão Trang và Dịch Kinh được áp dụng dẫn đạo thực hành. Môn quyền ổi danh nhất của Võ Đang phái là "Thái Cực Quyền" được Trương Tam Phong sáng chế vào thế kỷ 14. Theo sách "Thái Cực Quyền Luận" của Vương Tông Nhạc có ghi: "Những điều bàn luận trong sách này đều căn cứ vào tài liệu truyền dạy của Trương Tam Phong tiên sinh, để giúp hào kiệt trong thiên hạ, tăng thêm tuổi thọ, sống lâu, chớ không nghĩ đến chuyện dùng Thái Cực Quyền để làm phương tiện chiến đấu với kẻ địch". Theo mục "Phương Kỷ Truyện" trong Minh sử có chép" "Trương Toàn Nhất có tên thật là Trương Quân Bảo, đạo hiệu là Trương Tam Phong dung mạo khôi ngô, thân giống rùa, lưng giống hạc, tai to, mắt tròn, râu cứng như kích. Dù trời nóng hay lạnh, Trương Tam Phong thường mặc một bộ quần áo, đầu đội nón, mỗi ngày ăn hơn một đấu gạo, và đi hơn trăm dặm đường. Ông cùng học trò đi chơi núi Võ Đang, vì thích phong cảnh nơi đây, ông đã lập ra lều cỏ trên núi Võ Đang để tu luyện. Vua Minh Thái Tổ nghe tiếng vào năm Hồng Vũ thứ 14 tức năm 1382, có sai sứ đến tìm ông nhưng không gặp". Theo Hoàng Tông Hy, một học giả đời Thanh cho rằng Trương Tam Phong sống vào đời Bắc Tông (950 – 1275). Còn có thuyết cho rằng Trương Tam Phong sinh ngày 9 tháng 4 năm 1247, triều Nguyên, sống đến triều Minh, thọ trên 200 tuổi. Theo Quốc Kỷ Luận Lược của Từ Triết Đông, những thuyết này không đáng tin cậy. Về nguồn gốc môn Thái Cực Quyền có tất cả là 4 truyền thuyết: 1. Trương Tam Phong là sáng tổ (vào cuối đời Nguyên đầu đời Minh); 2. Vào đời Đường (618 – 907) Thái Cực Quyền được phát triển bởi bốn nhà: Hứa Tuyên Bình, người phủ Vi Châu, Giang Nam, Du Lưu Châu, người phủ Ninh Quốc, Giang Nam, Trình Linh Tiển, tự Nguyên Điều, người phủ Vi Châu, Giang Nam và Ân Lợi Hanh. 3. Vào cuối đời Minh 91618 – 1644) Trần Vương Tinh, người thuộc Trần Gia tại làng Trần Gia. 4. Vào triều Thanh vua Càn Long 91736 – 1797), Vương Tông Nhạc, người tỉnh Thiểm Tây trong lúc đi ngang qua làng Trần Gia Cấu, tỉnh HỒ Nam trông thấy dân làng đang tập luyện môn nhuyển quyền Thái Cực Trần Gia. Hôm sau, ông đến tiếp xúc và được dân làng nể phục, sau những lần thử đấu với các võ sư Trần Gia. Vương Tông Nhạc đã nhận lưu lại dạy Thái Cực Quyền cho dân làng Trần Gia. Từ đó, Trần Gia Thái Cực Quyền có ha hệ phái đứng đầu bởi: Trần Hữu Bổn (Tân phái), Trần Trường Hưng (cựu phái) và Trần Thanh Bình (Tiểu gia). Về sau Dương Phúc Khôi, tự Lộ Thiền theo học với Trần Trường Hưng, rồi cải biến thành Dương Gia Thái Cực Quyền. Dương Phúc Khôi (Lộ Thiền) có ba người học trò là anh em họ Vũ: Vũ Trừng Thanh, Võ Hà Thanh (tự là Võ Nhượng) và Võ Như Thanh. Võ Hà Thanh (tự Võ Nhượng) đến làng Trần Gia Cấu (Hồ Nam) học thêm với Trần Thanh Bình (Tiểu gia phái) rồi cải biến thành "Vũ Gia Thái Cực Quyền". 2. BÁT QUÁI QUYỀN (hay BÁI QUÁT CHƯỞNG) Bát Quái là một trong ba phái thuộc Nội Gia Nam Phái, danh từ Bát Quái được rút ra từ Dịch Kinh, tạm hiểu là sự biến động truyền điệu trong tám phương hướng. Vì vậy kỹ thuật chính yếu của Bát Quái Quyền (Chưởng) chuyền dùng bọ pháp và chưởng pháp làm trung tâm vận chuyển, biến hóa không ngừng trong vị thế bốn phương tám hướng. Nguồn gốc Bát Quái Quyền (Chưởng) vẫn chưa được xác định. Câu hỏi vẫn còn đặt ra. Do ai, từ đâu, và lúc nào phát sinh ra nó? Theo sách "Lam Triều Ngoại sử" có ghi: "Vào năm 1798, triều Thanh vua Gia Khánh năm thứ hai ở huyện Tế Ninh, tỉnh Sơn Đông, miền Hoa Bắc, Vương Trường có truyền dạy quyền pháp cho Phùng Khắc Thiện. Đến mùa xuân Canh Ngọ (năm Gia Khánh thứ 15), Ngưu Lương Thần theo học quyền pháp này với Phùng Khắc Thiện và nhận thấy quyền pháp có tám phương bọ nên gọi là Bát Quái. Từ đó, môn Bát Quái được lưu truyền cho đến nay đã hơn trăm năm." Đến đời vua Thanh Quang Tự thứ sáu (1881), môn Bát Quái Quyền phát triển cực thịnh khắp Trung Hoa, nhất là ở Bắc Kinh, có nhiều vị tiền bối về Bát Quái Quyền như các ông: Đổng Hải Xuyên (1798 – 1879), người tỉnh Hồ Bắc học được môn Bát Quái từ một đạo sĩ ở miền núi. Đổng Hải Xuyên rất giỏi và nổi tiếng nhất ở Bắc Kinh, được xem như một Chưởng Môn về Bát Quái, có nhiều học trò nổi tiếng như Vi Phước, Trịnh Đình Hoa, Tống Vĩnh Tường, Mã Duy Kỳ, Ngụy Cát, Lý Văn Bảo, Đoàn Phúc, Lý Tồn Nghĩa. Về sau, Đổng Hải Xuyên kết bạn với danh thủ Quách Vân Thâm về
  3. Hình Ý Quyền, sau trận thử thách ngang tài. Từ đó, hai ngườikết hợp hai môn cùng dạy cho các học trò. Trong số các học trò của Đổng Hải Xuyên có Trịnh Đình Hoa rất giỏi, nổi tiếng ở Hoa Bắc. Trịnh Đình Hoa có học trò giỏi nhất là Tôn Lộc Đường. Về kỹ thuật Bát Quái, theo sách "Bát Quái Quyền Học" của Tôn Lộc Đường có ghi: "Trong Du Thân Bát Quái Liên hoàn chưởng có chưa mười tám đường La Hán Quyền, gồm bảy mươi hai tuyệt thoái, 72 ám cước, đến như các môn điểm huyệt, kiếm thuật, và các môn võ khí cũng chứa trong Bát Quái Quyền. Do đó, về hình thức môn Bát Quái rất giuống như các quyền thuật ngoại gia Bắc Phái, nhưng đặc điểm chuyên dùng bộ pháp tròn Hoán Hành, và thay đổi tay Hoán Chưởng làm chính tông, được gọi là "Du Thân Bát Quái" gồm có ba loại: thượng bàn, trung bàn, và hạ bàn. Các thế thượng bàn đã thấp, trung bàn và hạ bàn còn thấp hơn. Trong lúc xoay chuyển bộ pháp dùng rất hẹp và nhanh nhẹn, với dụng ý né tránh thế công của địch, để phản kích vào mặt sau lưng của địch. Trong lúc đối địch, thân và ý phải chuyển động nhưng khí phải trầm. Các động tác về tay gồm có thập chưởng, đơn hoán chưởng, dùng để biến chuyển phối hợp với bốn bộ pháp linh động. Trong thập chưởng, đơn hoán chưởng và song hoán chưởng làm gốc, còn lại là tám chưởng chủ yếu. Bốn bộ pháp gồm có: Khởi, Lạc, Khấu và Bài. Nhằm rèn luyện cho thân thủ được nhanh nhẹn, kỹ thuật của Bát Quái gồm có bốn đặc điểm như sau: Nhất Tẩu (chạy, bước lẹ), Nhị thị (trông, nhìn thấy rõ ràng), Tam Tọa (xuống bộ, ngồi thấp), và Tứ Phiên (nhà lộn, thoát ra khỏi). 3. HÌNH Ý QUYỀN Theo truyền thuyết, Nhạc Phi Vũ (Vũ Mục 1103 – 1142) Trung Liệt Tướng Quân vào đời vua Tống Cao Tông là sáng tổ của môn Hình Ý Quyền. Nhưng về kỹ thuật, ngườicác học trò của hai phái), Lưu Kỳ Lan, người Thâm Châu, Trương Thủ Đức, người Kỳ Châu, Tống Thế Vinh, người Uyển Bình, Xa Nghị Trai, người Thái Cốc, Bạch Tây Viên, người Đại Hưng, Lưu Hiếu Lan, người Hà Giang, và Thọ Nhiễu Trai, người Tân An. Quách vân Thâm có một số học trò rất giỏi như Hứa Chiêm Ngao, Tiền Quản Lương, Lý Tồng Nghĩa, Lý Khuê Nguyên, Trương Chiếm Khôi, Còn Mã học Lễ khi về đến Hà Nam thâu nhận rất đông học trò. Trong os học trò giỏi nhất như mã Tầm Nguyên, người Hà Nam và Trương Chí Thanh, người Nam Dương. Về sau, Trương Chí Thanh truyền dạy cho Lý Chính, người Lỗ Sơn. Lý Chính truyền lại cho Turơng Tu, người Lỗ Sơn. Trương Tu dạy lại cho Gia Trang Đỗ, rồi Gia Trang Đỗ dạy lại cho An Đại Khánh, người Trường An. An Đại Khánh dạy lại cho Bảo Hiến Đình. Đó là chi phái Hình ý Quyền ở Hà Nam một thời danh tiếng. Môn Hình Ý Quyền rất là đơn giản, ít biến hóa, người tập chuyên tâm dễ thuần thục. Cả ba môn Thái Cực, Bát Quái, và Hình Ý thuộc Nội Gia Quyền đều có liên quan mật thiết lẫn nhau. BẮC PHÁI NGOẠI GIA Trong quyền thuật, Bắc Phái hay Ngoại Gia bao gồm rất nhiều các môn võ khác nhau, được xuất xứ từ các địa phương Hoa Bắc. Cũng như, triết lý tôn giáo và nguồn gốc khai sáng được du nhập từ nước ngoài. Về kỹ thuật thực hành, Bắc Phái Ngoại Gia có những đặc tính căn bản như: cương mãnh, nhanh nhẹn, năng động, trực diện, đường thẳng, ngoại lực, tư thế dài rộng, Căn cứ vào các môn võ nổi tiếng, người ta nhận thấy có 3 loại tổng quát như: Trường Quyền, Đoản Đả, và Địa Đàng (theo sách "Quốc Kỷ Luận Lược" của Từ Triết Đông). Trong Trường Quyền, một số môn nổi tiếng như: Thái Tổ, Nhị Lang, Mê Tung, Bát Cực, Phiên Tử, Tra Quyền, Hồng Quyền, đều có những điểm đại đồng và tiểu dị. Thí dụ như môn Phiên Tử sở trường về luyện tay, môn Phê Quải chuyên luyện về chưởng pháp, còn Tra Quyền chuyên luyện về bước di chuyển. Đó là nét độc đáo của mỗi môn. Ngoài ra, trong lúc tập luyện, hầu hết các môn trong Trường Quyền đều tập trung vào các điểm: tiến thoái nhanh lẹ, nhảy và tọa một cách nhẹ nhàng, khí trầm thế vững, biến hóa linh động, đường quyền dài rộng, Về Đoản Đả, các môn nổi tiếng nhất là Miên Trường Đoản Đả, Lục Lộ Đoản Đả của Đàn Thoái Môn, Thiên Cang Thủ ở vùng Giang Nam, Đối Đả của phái Hồng Tháo, đều áp dụng quyền pháp nghiêm ngặt, thủ pháp kín đáo. Còn Địa Đàng chuyên về nhào lộn, nổi tiếng nhất Lục Hợp Môn, Hầu Quyền, Túy Bát Tiên, Về sau, cả ba môn Trường Quyền, Đoản Đả và Địa Đàng đều được một số các võ phái phối họp lại với nhau. Sau đây là nguồn gốc và lược sử một số các môn võ nổi tiếng đại diện cho Bắc Phái Ngoại Gia Quyền:1. Đàm Thoái và Đàn Thoái Quyền: Môn võ Đàm Thoái hay còn gọi là Đàn Thoái được du nhập vào Trung Hoa, từ những người theo đạo Hồi ở Tây Tạng, khoảng thế kỷ thứ mười bốn, rất thịnh hành ở tỉnh Sơn Đông, Hoa Bắc. Về kỹ thuật, môn này có hai nhánh. Những người theo học 12 lộ quyền thường gọi là Đàm Thoái.
  4. Còn những người theo học 10 lộ quyền lại gọi là Đàn Thoái. Vào thời nhà Thanh, Hoắc Nguyên Giáp, người ở Hà Bắc, xuống phương nam sáng lập Tinh Võ Hội ở Thượng Hải, và phổ biến môn Đàm Thoái, rất đông người theo học. Về sau, Mã Vĩnh Trinh là người nổi tiếng giỏi nhất về môn Đàm Thoái ở Thượng Hải. 2. Tra Quyền hay Xoa Quyền: Tra Quyền hay còn gọi là Xoa Quyền là một môn võ cổ của Trung Hoa, thuộc Bắc Phái, xuất xứ từ các tín đồ Hồi Giáo người Trung Hoa, thuộc các tỉnh Tân Cương, Thanh Hải, và Cam Túc, vào thế kỷ thứ 14. Môn này có cùng nguồn gốc với môn Đàm Thoái. Cả hai đều được thịnh hành vào thế kỷ thứ 17 tại Trung Hoa. Theo sách Kỷ Hiệu Tân Thư Quyền Kinh của Thích Kế Quang, nhà họ Ôn có 72 đường hành quyền, cùng một dụng ý như Tra Quyền. 3. Nga Mi Võ Phái: Vào thời vua Minh Tuyên Tôn (1426 sau T.L) tại núi Nga Mi Sơn, thuộc tỉnh Tứ Xuyên, võ phái Nga Mi được sáng lập, do nữ sáng tổ Chu Tú Anh, xuất thân từ dòng họ Chu gia giỏi võ, danh tiếng nhiều đời, tại tỉnh Sơn Đông, Hoa Bắc. Thuở nhỏ, vì cha mất sớm, hai anh em Chu Đức Kiệt và Chu Tú Anh được chú ruột, Chu Đức Võ Thượng Nhân, nuôi dưỡng và truyền dạy võ nghệ rất cẩn thận. 4. Không Động Võ Phái: Võ Phái Không Động được xuất hiện tại núi Không Động, tỉnh Cam Túc, một nơi núi rừngâm u, lạnh lẽo, với một xuất xứ mù mờ, nguồn gốc sáng lập không được xác định. Cách thu nhận môn đồ rất khắt khe và hạn chế. 5. Võ Phái Địa Đàng: Võ Phái Địa Đàng chuyện luyện về các kỹ thuật nhảy nhào, lăn lộn, té người xuống đất. Theo sách Quyền Kinh của Thích kế Quang, tổ sư của môn võ này là Thiên Trật Trường. Ơû miền Hoa Bắc, võ phái này áp dụng phối hợp với kỹ thuật Trường Quyền. Trái lại, ở vùng Giang Nam, kỹ thuật của Đoản Đả được phối hợp làm căn bản. Ngoài ra, môn võ Túy Bát Tiên rất được xem trọng trong võ phái Địa Đàng. Về sau, Trương Cảnh Phúc, tự là Giới Thần, rất nổi tiếng về Địa Đàng, ở Hà Bắc. Oâng đã từng xuống Hoa Nam, dạy môn Địa Đàng cho Trung Hoa Thể Dục Hội, tại Thương Hải. 6. Côn Luân Võ Phái: Vào thời vua Minh Thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc (1403 – 1425 T.L.) nhà vua xuất công khố trùng tu ngôi cổ tự Bích Vân, trên dãy núi Côn Luân Sơn, thuộc đất Lương Châu, huyện Tiêu Dương, tỉnh Thanh Hải, để cấp cho Chu Đức Võ Thượng Nhân trụ trì tu luyện, và sáng lập võ phái Côn Luân. Gần ngày tạ thế, Chu Đức Võ Thượng Nhân đã kế truyền chức Chưởng Môn phái Côn Luân cho Chu Đức Kiệt, một người cháu ruột, cũng là một cao đồ đắc ý nhất của ngài. Ngài còn lưu truyền lại bí kíp "Thái Dương Trường Kiếm Pháp", cùng với thanh bảo kiếm Thái Dương, do ngài dày công nghiên cứu chế tạo, cũng như, môn thuốc giang hồ "Tiêu Nhục Phấn" (còn gọi là Mãng Xà Diệp), cách chế tạo thuốc phấn này do sư phụ của ngài truyền lại. Trước kia, Chu Đức Võ Thượng Nhân được thụ giáo với sư phụ Huyền Vân Trưởng Lão, tại Bạch Vân Miếu, trên dãy núi Cửu Huyền Sơn, miền bắc quan ngoại, biêngiới Mông Cổ. Nguyên sư phụ Huyền Vân Trưởng Lão, vào thuở thiếu thời, đã tình cờ khám phá ra lá cây "Tiêu Nhục Diệp" (hay Mãng Xà Diệp) qua sự chỉ điểm của người tiều phu Mông Cổ, cư ngụ bên chân núi Cửu Huyền Sơn. Loại lá "Tiêu Nhục Diệp" chỉ mọc trong rừng rậm, nơi có nhiều mnag xà lui tới, vì giống mãng xà có sẵn chất giải độc trong máu, nên khi ăn loại lá cây này, mãng xà không bị nguy hiểm, mà còn tiêu hóa được con thịt vừa mới nuốt vào trong bụng. Ngoài ra, bất cứ động vật nào nhiễm phải chất độc của lá "Tiêu Nhục Diệp", đều bị nguy hiểm đến tánh mạng, vì nhục thể sẽ bị tiêu hủy, từ từ tan ra thành nước. Trên đường giang hồ hành hiệp, mỗi khi muốn làm sạch, tiêu mất thi thể đối phương, người hiệp sĩ chỉ cần cho một lượng vừa phải của "Tiêu Nhục Phấn" vào vết thương trên tử thi. Sau vài phút đồng hồ, tử thi dần dần bị tan biến thành nước mà tiêu mất. 7. Tung Sơn Thiếu Lâm Tự: Võ phái Tung Sơn Thiếu Lâm Tự do Đạt Ma Tổ Sư sáng lập, vào năm (520 – 529 sau T.L.), tại núi Tung Sơn, tỉnh Hồ Nam, là một danh môn chính phái, có nề nếp kỷ cương, trong suốt gần 15 thế kỷ. Thiếu Lâm Tự đã được mọi người mến mộ, có thành tích lừng lẫy, danh trấn giang hồ, được giới võ lâm kính nể như một ngôi sao Bắc Đẩu, trên vòm trời võ lâm Trung Hoa. Kể từ đời nhà Đường, sau chiến công oanh liệt của 13 vị thiền sư Thiếu Lâm Tự, giúp vua Đường Thái Tông (năm 627 sau T.L.) dẹp được giặc Vương Thế Sung, từ đó, võ phái Thiếu Lâm vang danh khắp Trung nguyên. Trong suốt thời nhà Minh (1368 – 1644 T.L.), võ phái Thiếu Lâm Tự ở vào thời hưng thịnh, sách "Thiếu Lâm Côn Pháp Xiểng Tông" được biên soạn phổ biến, do Trình Xung Đẩu, tự Tông Du, người ở Tân Đô, saukhi học võ thuần thục với hai vị thiền sư Thiếu Lâm là Hồng Kỷ và Hồng Chuyển, hai vị này đã nổi danh nhất về
  5. côn pháp, vào thời vua Minh Vạn Lịch (1573 – 1616 sau T.L.). Đến đời vua Minh Sùng Trinh (1628), tướng Thẩm Thụy Trinh đã mời các nhà sư Thiếu Lâm Tự: Hồng Kỷ và Hồng Tín đến Thái Thượng dạy võ cho binh sĩ. Khi nhà Minh mất về Thanh triều (1644), các cựu thần văn võ và tôn thất nhà Minh, phần đông, trốn ẩn trong chùa Thiếu Lâm Tự, để ẩn dật và chuyên tâm gắng sức luyện võ, mưu tìm cơ hội khôi phục quốc gia. Sau cùng, Thiếu Lâm Tự đã ở vào thời cực thịnh, vang danh trong phong trào "Phản Thanh Phục Minh" của dân Hán, vào thời Mãn Thanh. Ngoài ra, Tung Sơn Thiếu Lâm Tự còn là một lò luyện võ sản xuất biết bao ngoại đồ cao đẳng, nhân tài võ dũng, giang hồ hiệp sĩ, giúp dân giúp nước, khắp nơi trên lãnh thổ Trung Hoa, trong những thế kỷ vừa qua. Cũng như, một số chi nhánh Thiếu Lâm Tự địa phương Nam Bắc đã được các cao đồ phát huy như Hồng Gia, Lưu Gia, Lý Gia, Thái Gia, và Mặc gia, cũng như, rất nhiều võ phái lớn nhỏ được sáng lập tại các địa phương Trung Hoa, đáng kể đến như: Quảng Châu Thiếu Lâm Nam Phái, Thiếu Lâm Bạch Hạc Phái, Thái Sơn Thiếu Lâm Bắc Phái (hay Sơn Đông), 8. Quảng Châu Thiếu Lâm Nam Phái: Quảng Châu Thiếu Lâm Nam Phái được đặt trụ sở tại chùa Tam Vân Tự, tọa lạc tại phía đông ngoại thành Quảng Châu, tỉnh Phúc Kiến. Ngôi vhùa này đã được xây cất vào thời vua Đường Túc Tông, niên hiệu Càn Nguyên (756 sau T.L.). Vào đời vua Minh Thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc (1403 sau T.L), vị trụ trì Ngũ Chấn Thiền Sư đến từ Thiếu Lâm Tự, phát động huấn võ cho các vị thiền sư trong chùa Tam Vân Tự. Ngũ ChấnThìn Sư, dáng người cao lớn khỏe mạnh, là sư đệ của chiêu Đức Sư Trưởng, Tung Sơn Thiếu Lâm Tự lúc bấy giờ. Vào triều nhà Minh, những vị thiền sư tại Tam Vân Tự đã có lần vang danh trong cuộc chiến thắng bọn "Nụy Khấu" (cướp biển người Nhật) đến cướp phá dân lành, thuộc vùng ven biển, tỉnh Phúc Kiến. Đến đời Mãn Thanh, vì tham gia vào phong trào "Phản Thanh Phục Minh" ngôi chùa này đã bị chính quyền Mãn Thanh đốt phá, và các vị thiền sư đã phải bôn ba trốn tránh tại các tỉnh lân cận như Quảng Đông, Quảng Tây, và âm thầm phát huy tinh thần võ dũng của Thiếu Lâm Nam Phái. 9. Thiếu Lâm Bạch Hạc Phái: Thiếu Lâm Bạch Hạc Phái tu luyện tại chùa Long Sơn Tự, trên núi Bạch Hạc Sơn (hay Long Sơn), thuộc huyện Quan Đồ, phía Tây tỉnh Vân Nam. Võ phái này được sáng lập bởi Nhứt Khánh Thiền Sư, vào hàng sư đệ của Trí Dõng Thiền Sư (Trí Dõng là thầy dạy của Chiêu Đức và Ngũ Chấn Thiền Sư). Vì xuất xứ từ Thiếu Lâm Tự, cho nên, cách luyện tập của Bạch Hạc phái đã được Nhứt Khánh Thiền Sư áp dụng giống y như tại Tung Sơn Thiếu Lâm Tự. Nhứt Khánh Thiền Sư thọ được 91 tuổi. Đệ nhất cao đồ của ngài là Thượng Thái Lão Ni Sư Trưởng lên kế nghiệp, và chỉ truyền dạy 10 ni cô, đều rất giỏi võ nghệ. Vào đời vua Thanh Cao Tôn, niên hiệu Càn Long (1736 – 1796 sau T.L.), Bạch Hạc Phái tại Long Sơn Tự được truyền đến Ngũ Mai Lão Ni Sư Trưởng, lúc bấy giờ, danh nghĩa Bạch Hạc Phái lẫy lừng trong chốn giang hồ hành hiệp. 10. Thái Sơn Thiếu Lâm Bắc Phái (hay Thiếu Lâm Bắc Phái Sơn Đông): Thái Sơn Thiếu Lâm Bắc Phái, Sơn Đông, được đặt trụ sở tu luyện tại Chùa Bạch Vân Tự, trên núi Mã Dương Cương, thuộc dãy Thái Sơn, tỉnh Sơn Đông, miền Hoa Bắc. Nữsáng tổ Âu Dương Bích Nữ trụ trì tu luyện, và khai sáng võ phái này, vào thời vua Minh Tuyên Tôn (1426 sau T.L.). Xuất thân từ một gia đình yêu chuộng võ thuật, cha của Âu Dương Bích Nữ là Âu Dương Tòng Thiện, một ngoại đồ cao đẳng của Tung Sơn Thiếu Lâm Tự, thuộc hàng sư huynh trên Chiêu Đức Thiền Sư, cả hai là bạn đồng môn, cùng thụ huấn với sư phụ Trí Dõng Thiền Sư. Nguyên tổ tiên dòng họ Âu Dương, trải qua nhiều đời, rất giàu có và ham chuộng văn học nghệ thuật. Vào đời vua Tống Nhân Tôn (1023 sau T.L.), Âu Dương Tu, tự là Vĩnh Thúc người ở đất Lư Lăng, thi đỗ tiến sĩ, và được giữ chức Thái Tử Thiếu Sư trong triều Tống Nhân Tôn. Về sau, ông xin từ quan, về quê làm trí sĩ, hiệu là Lục Nhất Cư Sĩ, biên soạn sách "Văn Trung Tập" được lưu truyền trong văn học sử Trung Hoa. Về sau, họ Âu Dương, qua nhiều đời tại Tô Châu, chuyên về việc kinh doanh, trở nên một họ giàu lớn, có nhiều ruộng đất, và nhiều cổ phần lớn trong các hiệp hội kinh doanh lớn. Đến đời Âu Dương Tòng Thiện, ngoài văn học còn ham chuộng võ nghệ, sẵn có sức khỏe và trí thông minh, từ thuở bé, cha mẹ đã mời danh sư về nhà truyền dạy võ cho ông. Đến năm 15 tuổi, ông được phép theo học võ tại Tung Sơn Thiếu Lâm Tự, với sư phụ Trí Dõng Thiền Sư. Đến năm 21 tuổi, việc học tập thập bát ban võ nghệ đều tinh thông. Sau khi hạ san Thiếu Lâm Tự, Âu Dương Tòng Thiện giao dịch rất rộng rãi, thường kết giao với các hảo hán giang hồ, dị nhân quái khách, đạo sĩ thiền sư, và tao nhân mặc khách. Cho
  6. nên, tại Tô Châu, và khắp mọi nơi lân cận, họ Âu Dương đã vang danh, mọi người đều biết đến. Trong trang trại, lúc nào cũng tấpn ập bạn bè, hàng trăm thực khách từ bốn phương đến thăm viếng lưu ngụ. Vì vậy, khách giang hồ đã đặt tước hiệu cho Âu Dương Tòng Thiện là "Trai Mạnh Thường".Âu Dương Tòng Thiện có hai con trai là Tòng Cát, Tòng Đức, và một gái là Âu Dương Bích Nữ. Cả ba anh em họ Âu Dương đều ham chuộng võ nghệ, và được cha tập luyện ngay từ thuở nhỏ, theo phương pháp chính tông Thiếu Lâm Tự. Ngoàira, các tay hảo hán giang hồ qua lại Âu Dương Trang, còn mang ra những đòn hay thế lạ của các võ phái khác nhau, để chỉ dạy cho ba anh em Âu Dương. Khi đến tuổi 17, lần lượt, cả ba đều được đưa lên Thiếu Lâm Tự, theo học tập hai năm liền với sư phụ Chiêu Đức Sư Trưởng. Cả ba anh em Âu Dương đều tinh thông thập bát ban võ nghệ, và đặc biệt giỏi về tài cung tiển và kỵ mã. Riêng về Âu Dương Bích Nữ, nàng thường sử dụng Thiết phiến, một võ khí cá nhân đặc biệt, do Chiêu Đức Sư Trưởng chế ra. Đó là một cây quạt xếp bằng sắt, có 6 dóng đầu nhọn. Khi xếp chụm lại giống như cây giản vuông bằng sắt. Lúc thuận tiện, muốn lấy đầu đối thủ, bất ngờ xòe ra thành cây quạt, với 6 dóng đầu nhọn, cổ đối thủ sẽ bị tiện đứt như bị cưa cắt. Bích Nữ sử dụng món võ khí này rất tinh vi, cho nên, giới giang hồ gọi nàng là "Thiết Phiến Cô". Vào thời vua Minh Thành Tổ, năm Vĩnh Lạc thứ 10, với tư cách công dân trung nghĩa, gia đình Âu Dương Tòng Thiện đã lập được đại công, trong việc cứu mạng nhà vua thoát hiểm, và giúp vua phá vỡ cuộc âm mưu phản loạn của nhóm Thuận Vương, tránh được cuộc nội chiến tương tàn, khiến cho dân chúng lầm than, khốn khổ. Do đó, Âu Dương Tòng Thiện đã được vua Minh Thành Tổ sắc phong tước "Trung Dũng Hầu", và toàn gia đình họ Âu Dương được phép dùng chữ "Trung Dũng Tô Châu Đệ Nhất Gia". (Theo sách "Giang Hồ Kỳ Văn, 1930" của tác giả Tề Phong Quân) Giáo Sư Vũ Đức HÔ HẤP TRONG KHÍ CÔNG GS Vũ Đức, N.D. Ý NIỆM VỀ KHÍ: Đối với người Tây phương, "Khí" được hiểu bằng những danh từ như: Energy, Vital Energy, Life Force, Bio-Force, Electromagnetism Cũng như "Animal Magnetism" ở Úc châu do Mesmer, "Odic Force" ở Đức do Baronvon Reichenbach, "Orgone Energy" ở Mỹ do Wilhelm Reich, "Bioplamsm" ở Nga Sô do Inyushin. "Khí" (Energy) tức là năng lực, năng lượng. Khí thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như :Nhiệt năng, cơ năng, quang năng, điện năng, hóa năng, năng lực tinh thần, Khí và vật có sự liên hệ mật thiết với nhau. Khí cấu tạo ra vật, và cùng kết hợp với vật. Vật hoạt động sinh ra khí. Cũng như, cơ quan có sự liên hệ mật thiết với cơ năng. Cơ năng quyết định sự hình thành và phát triển cơ quan. Cơ quan ssinh hoạt biến thành cơ năng. Nhà khoa học Einstein đã giải thích sự liên hệ giữa khí và vật bằng phương trình E = mc 2. năng lượng khí bằng khối lượng nhân với bình phương tốc độ ánh sáng. Năng lượng khí và khối lượng vật chỉ là một, nhưng p hai hình thức khác nhau. Khi khối lượng vật chất bị phá hủy, kết quả sẽ sinh ra năng lượng khí được tỏa ra. Về phương diện sinh lý, cơ thể con người là một thể chất hóa hợp của những tế bào, phân tử, nguyên tử khác nhau. Tùy theo những yếu tố và điều kiện sống chung quanh (như: thực phẩm, nước uống, không khí, thời tiết, xã hội ), nguồn năng lực (khí) trong cơ thể được gia tăng, hay bị suy giảm. Trong đời sống hàng ngày, nguồn năng lực (Khí) đóng một vai trò rất quan trọng, trong sự liên quan mật thiết giữa cơ thể và tâm trí con người. Cũng như, hơi thở qua việc hô hấp không khí là một yếu tố quan trọng nhất, trong tiến trình phát sinh năng lực (Khí) conngười. Qua tiến trình hô hấp không khí, dưỡng khí (oxygen) trong không khí được gạn lọc như một nhiên liệu căn bản, dùng đốt cháy thực phẩm, để sinh ra năng lực (khí), thán khí (carbon dioxide), và nước, theo phương trình hoá học như sau: Food + Oxygen ® Energy + Carbon Dioxide + Water (Đồ ăn) + (Dưỡng khí) ® (Năng lực) + (Thán khí) + (Nước) năng lựv (khí) được sinh ra từ phản ứng hóa học của dưỡng khí và đồ ăn, được dùng bồi dưỡng, điều hòa nhiệm vụ não bộ, và các bộ phận trong cơ thể, cũng như, tạo nên một sức mạnh chịu đựng, dẻo dai về thể chất lẫn tinh thần. Để có nguồn năng lực (khí) sung mãn, trong đòi sống khỏe mạnh, ngoài hai yếu tố cần thiết phải có như dưỡng khí (Oxygen) (trong khí trong lành), và thức ăn tươi tốt (đầy đủ chất dinh dưỡng), người ta cần phải có thêm những yếu tố hỗ trợ khác, không kém phần quan trọng như: nước uống tinh khiết, ánh sáng mặt trời, nghỉ ngơi tịnh dưỡng, tâm trí
  7. quân bình, và vận động thể dục HÔ HẤP VÀ SỰ SỐNG: Hô hấp (hít thở) không khí đóng một vai trò quan trọng nhất, trong sự sống con người. Do đó, hô hấp là để sống, sống cần phải hô hấp, vì hô hấp tạo nên hơi thở, và nguồn sinh lực (khí) trong con người. Nếu hơi thở chấm dứt, tiếp theo, sự chết đến ngay với con người. Sau một công việc mệt nhọc, hay một ngày lao tâm, lao lực, người ta áp dụng một số phương pháp hô hấp (hít thở) không khí đúng cách. Kết quả nhận thấy cơ thể khỏe mạnh, tinh thần tươi tỉnh. Sinh lực được phục hồi, nhờ vào sự biến năng của dưỡng khí (oxygen), được không khí mang vào cơ thể. Hơi thở của một người khỏe mạnh bìnhthường được gọi là hơi thở tự nhiên, cần phải hội đủ bốn đặc tính: yên lặng, thanh thản, nhẹ nhàng, và điều hòa. Hơi thở của họ biểu lộ một cách dễ dàng, nhẹ nhàng, liên tục, không cảm thấy mệt mỏi, không bị ràng buộc bởi bất cứ điều kiện nào, kể cả việc ý thức về hơi thở. Nói một cách khác, hoi thở khỏe mạnh tự nhiên là hơi thở không dài, không ngắn, êm đềm, và đều đặn. Khi đạt được hơi thở như thế, người ta cảm thấy nhận được sự khỏe khoắn, nhẹ nhàng trong cơ thể, tình cảm an hòa, tinh thần bình tĩnh, trong một linhhồn minh mẩn. Tuy nhiên, đối với người bệnh hoạn, sức khỏe yếu kém, hơi thở của học thường có vẻ mệt nhọc, do sức cố gắng mà ra. Hơi hít vào vô cùng ngắn, thở ra thường kéo dài, đôi khi, ngược lại. Những người có hơi thở mất bình thường như thế, thể chất và tinh thần của họ trở nên yếu đuối, đời sống tình cảm bất an, để đưa đến những nỗi lo âu, buồn nản, thiếu ý chí kiên nhẫn, trong công việc hàng ngày. Tiếp tục như thế, trong một thời gian lâu dài. Điều kiện sức khỏe thể chất lẫn tinh thần của họ sẽ gặp nhiều khó khăn. Do đó, hơi thở của những người này cần được chăm sóc cẩn thận, trong lúc tập luyện khí công. Dần dần, với thời gian, khí công có thể giúp họ phục hồi được hơi thở tự nhiên, khỏe mạnh bình thường. Nhịp độ thở trung bình của một người khỏe mạnh bình thường là mười tám hơi thở (ra vào) trong một phút. Trong tiến trình tập luyện khí công, thời gian cho mỗi hơi thở (ra vào) càng lúc cần được kéo dài thêm. Vì vậy, khi đến giai đoan tiến bộ, học viên nên tập để nhịp độ thở trung bình giảm xuống, nghĩa là giảm dần số lần của hơi thở (ra vào) trong một phút. Các nhà thiền sư, đạo sĩ thường tập giữ cho nhịp độ thở (ra vào) từ 5 xuống tới 2 hơi thở (ra vào) trong một phút. Với tư thế ngồithiền tịnh tâm, họ có thể tập kéo dài trong 30 phút. Có hai cách thông thường để giữ cho nhịp độ thở giảm xuống như: tạo nên hơi thở nhẹ nhàng, hay đưa hơi thở sâu xuống bụng dưới (đan điền). BỘ MÁY HÔ HẤP TRONG KHÍ CÔNG: Đối với học viên mới nhập môn khí công, điều quan trong nhất là việc hiểu biết về sinh lý căn bản của các bộ phận liên quan đế tiến trình hô hấp của con người như sau: Nhiệm vụ của phổi: Bộ máy hô hấp của con người gồm có hai lá phổi, và những bộ phận trung gian, để dẫn không khí ra vào hai lá phổi như: mũi, miện, yết hầu, thanh quản, khí quản và cuống phổi. Hai lá phổi được nằm ở hai bên đường trung tuyến trong lồng ngực, và ngăn cách bởi quả tim. Lá phổi bên phải gồm có ba thùy. Lá phổi bên trái có hai thùy. Nơi tận cùng của ống khí quản được tiếp nối với hai cuống phổi lớn, và các động mạch, để dẫn vào bên trong hai lá phổi trái phải. Từ đó, hai cuống phổi lớn và các động mạch, càng vào bên trong phổi, càng được phân chia thành nhiều chùm nhánh nhỏ dần, để dẫn đến tận cùng những túi nhỏ chứa không khí (gọi là Khí bào). Bên trong mỗi lá phổi, được cấu tạo bởi vô số, khoảng 600 triệu túi nhỏ chứa không khí (Khí bào), chia thành hiều chùm khí bào, đi song song với nhiều chùm mạch máu lớn nhỏ chằng chịt. Phổi được cấu tạo bởi những mô mềm xốp, co dãn và có nhiều lỗ hình thức như một tổ ong. Mỗi túi nhò khí bào chứa đựng một phần không khí được hít vào. Từ đó, dưỡng khí (oxygen) được thấm xuyên qua thành của các phế mao quản. Sau đó, máu hữu dụng hóa dưỡng khí (oxygen) và thải trừ thán khí (carbondioxide) cùng những chất cặn bã, do máu góp nhặt được trong hệ thống. Nếu thiếu sự hiện diện của máu, những túi nhỏ khí bào sẽ bị thất thoát nguồn dưỡng khí (oxygen), và được thay vào bằng thán khí (carbon dioxide). Thể tích của hai lá phổi ở người trưởng thành, trung bình chứa từ 4 đến 6 lít không khí, hoặc tương đương với số lượng không khí được chứa trong quả bóng rổ (basketball). Nếu những mô tầng của hai lá phổi được tráng mỏng ra trên mặt phẳng, diện tích của nó có thể phủ lên một nửa sân chơi quần vợt. Bên ngoài mỗi lá phổi được bao phủ bởi mặt trong của màng phổi vững chắc. Mặt ngoài của màng phổi này được dính vào thành trong lồng ngực. Vùng ở giữa màng phổi là một chất nước nhờn, để cho hai lá phổi di chuyển linh động, trong lúc hít thở không khí. Vai trò hoành cách mô: Thân người được chia làm hai phần: phần trên là
  8. lồng ngực, phần dưới là bụng. Hai phần này được ngăn cách bởi một "Hoành Cách Mô" (một màng thịt gân có hình nón chóp bầu). Sự co dãn của lồng ngực và hoành cách mô đã đóng một vai trò chủ yếu trong tiến trình hít thở không khí. Lồng ngực chứa đựng hai lá phổi và tim, được bao phủ bởi bộ xương sườn và xương ức. Khi hít hơi vào, hai lá phối bắt đầu nở lớn dần dần và gây nên sự kích thích các bắp thịt liên tiếp giữa các xương sườn. Chính các bắp thịt này tác dụng tạo nên sự di động của bộ xương sườn, để cho lồng ngực được căng phồng lên. Do đó, bên trong lồng ngực có thêm một khoảng trống đủ sức chứa thể tích gia tăng của hai lá phổi. Đây là loại thở bằng ngực (hay thở trung bình), không có sự ảnh hưởng của hoành cách mô. Phần chủ yếu là sự dãn nởlớn tối đa của lồng ngực, để đạt được một số lượng dưỡng khí (oxygen) lớn nhất, trong một thể tích không khí tối đa ở vào vùng giữa của hai lá phổi. Đối với loại thở sâu (hay thở thấp, Đan Điền), khi hít hơi vào, không khí không bị dừng lại ở vùng giữa của hai lá phổi như nói trên, nhưng không khí được đưa sâu xuống phần dưới của hai lá phổi. Đồng thời tạo nên một sức ép trên mặt chóp bầu của hoành cách mô, khiếncho hoành cách mô bị đẩy thấp xuống phía bụng dưới, khoảng 4 phân (centimeters). Động tác này tạo nên một khoảng trống, giữa mặt trên hoành cách mô và phía dưới của hai lá phổi. Do đó, không khí gia tăng làm cho phần đáy của hai lá phổi, dãn nở thêm xuống phía dưới. Trong khi đó, tất cả những túi nhỏ khí bào, ở vùng dưới hai lá phổi, phải hoạt động tích cực, để có một sự dãn nở lớn gia tăng tối đa. Được như thế, các túi nhỏ khí bào mới đạt được một thể tích tồn trữ không khí tối đa. Điều này rất quan trọng, vì cần phải có một số lượng dưỡng khí (oxygen) tối đa, để thay vào chỗ của số thán khí (carbon dioxide) cần được loại bỏ ra ngoài, cũng như cần một số dưỡng khí (oxygen) để dùng vào việc tác dụng phản ứng biến thể trong phổi. Ngoài ra, sức ép của hoành cách mô hướng xuống bụng dưới, đã khiến cho một số máu dư đang ứ đọng trong các nội tạng, và màng ruột được ép dồn vào bên trong các tĩnh mạch. Cũng như, tạo nên sự kích thích cho đôi dây tah kinh thái dương, giúp cho tâm trí trở nên thanh tịnh. Không khí được thổ ra là buớc sau cùng cần thiết, trong tiến trình hô hấp. Song song với không khí được thở ra, hai lá phổi co thắt nhỏ lại dần dần, cùng lúc với lồng ngực hạ thấp xuống, vì các bắp thịt giữa bộ xương sườn giảm dần tính kích thích, rồi trở lại bình thường. Do đó, sức ép của hoành cách môbị mất ảnh hưởng, rồi hoành cách mô bật hướng lên, theo sức đàn hồi tự nhiên. Đồng thời tạo nên một sức đẩy hướng thượng, tác động vào phần đáy của hai lá phổi, giúp gia tăng sức ép từ dưới đáy phổi, tống mạnh không khí dơ bẩn, còn ứ đọng lại từ đáy phổi ra ngoài. (Trích trong sách sắp xuất bản "Khí Công Dưỡng Sinh" của Vũ Đức Hiền Âu) GS Vũ Đức, N.D. Khí Công Khí Công Bài Một - Khái Lược Về Khí Công GS. Ngô Gia Hy - VS. Trần Huy Phong ÐỊNH NGHỈA Khí là nguồn năng lực sống của con người. Khí luân lưu trong khắp cơ thể theo các đường Kinh mạch vào Lục phủ ngũ tạng. Khí biểu hiện dưới cả hai dạng vật chất và tinh thần, nhưng mắt ta không nhìn thấy được (không được lầm lẫn giữa Khí và Không Khí. Không khí là khí trời, là phương tiện để ta hô hấp trong lúc luyện Khí.) Mỗi người sinh ra đều mang trong cơ thể một lượng khí nhất định, nhiều ít tuỳ theo từng người. Ðó là Khí trời cho, tức Khí thụ hưởng từ cha mẹ, còn gọi là Tiên Thiên Khí hay Khí Bẩm Sinh. Ngoài Tiên Thiên Khí, hàng ngày con người còn tiếp thụ một lượng Khí từ bên ngoài vào cơ thể mình xuyên qua đồ ăn thức uống, không khí, ánh sáng, vũ trụ tuyến và môi trường sống nói chung. Loại khí này gọi là Hậu Thiên Khí (tức Khí Có Sau). Khí Công: Là công phu tập luyện để điều hòa, phát huy tích luỹ và sử dụng hai loại khínói trên. Hai loại khí ấy phối hợp và cộng hưởng với nhau làm thành Chân Khí. Chân Khí thịnh thì người khỏe, khi suy thì người yếu, khi rối thì người bệnh, khi kiệt thì người chết. Có thể nói, Khí Công là gốc của các phái võ Nội Gia, là căn cốt của mọi phương pháp dưỡng sinh Ðông A. Hình thành từ các Phép Ðạo Dẫn của Ðạo Gia, phối hợp với Môn Phái Thiền Tông Ðạt Ma Sư Tổ, Khí Công triển khai qua dịch học đã trở nên rất phong phú và mỗi ngày một phát triển nhất là dựa vào y học hiện đại. Lấy nguyên lý Quân Bình Âm Dương, Ðiều Hòa Ngũ Hành làm căn bản trong luyện khí. Khí công làm gia tăng nội lực, một mục tiêu mà mọi võ gia đều mong muốn. Lại nữa, cũng trên căn bản này, các Võ Gia còn có thể tự trị bệnh và hơn thế, trị bệnh cho người khác, thể hiện Tinh Thần của Võ Ðạo. Phương pháp luyện tập Khí Công không khó, nhưng muốn luyện tập Khí Công thành tựu thì phải có quyết tâm cao và tốn nhiều công phu. Cũng ví như cách học làm thơ, cách chơi các nhạc cụ thì không khó
  9. nhưng muốn trở thành một thi sĩ, một nhạc sĩ có tài thì khó hơn. Chính vì vậy có người nói muốn luyện thành Khí Công thì phải có "cơ duyên". Nhưng điều chắc chắn là bất cứ ai nếu yêu thích Khí Công và kiên trì luyện tập theo đúng phương pháp thì cũng sẽ đạt được một kết quả nhất định, đủ để giúp cho thân thể kháng kiện, kịch phát năng lực bản thân, điều trị được nhiều loại bệnh tật của chính mình và của người khác như các loại bệnh về Tim mạch - Thần Kinh - Tê Thấp - Thận Suy - Các loại bệnh về hô hấp, tiêu hóa, các loại bệnh liên quan đến cột sống v.v Tập Khí Công còn làm gia tăng tuổi thọ. Ðối với các võ sinh luyện Khí Công còn tích lũy nội lực, tập trung tâm ý, ngõ hầu phát huy tối đa hiệu quả của đòn thế.KỶ THUẬT LUYỆN KHÍ Các phương pháp luyện khí thay đổi tùy theo các Trường Phái. Ðại để có năm Trường Phái chính: Ðạo Gia - Phật Gia - Y Gia - Võ Gia. Phương pháp của Ðạo Gia chủ yếu tạo sự kháng kiện cả thể xác và tâm hồn. Phương pháp này dạy cách phát triển trau dồi Tâm Chất và sự sống. Nghĩa là nhấn mạnh cả về hai mặt: luyện tập và suy tưởng. Phương pháp của Phật Gia đặt nặng về sự điều hòa phần Tâm, tức là gạt bỏ mọi tạp niệm để đầu óc trống rỗng, tiến đến giác ngộ. Phương pháp của Khổng Gia lại nêu ra những "Nguyên Tắc Của Tâm Hồn!" Sự chân chính và sự rèn luyện các đức tính. Ðưa người tập vào trạng thái nghỉ ngơi, an bình và yên tĩnh. Phương pháp của Y Gia chủ trương dùng Khí Công để điều trị bệnh tật, bảo dưỡng sức khỏe và kéo dài tuổi thọ. Phương pháp của Võ Gia nhằm xây dựng sức mạnh cá nhân, biết chấn tĩnh tinh thần khi bị tấn công hoặc để công kích địch thủ. Mặc dầu phương pháp này cũng có chức năng bảo vệ sức khỏe và nâng cao tuổi thọ nhưng nó khác hẳn với các Trường Phái nói trên. Tuy các phương pháp của các Trường Phái có sự khác biệt nhưng chúng vẫn không nằm ngoài ba nguyên tắc chính: Tĩnh Luyện, Ðộng Luyện, và Tĩnh Ðộng Luyện. Cả ba nguyên tắc này đều có 3 mặt: Luyện Tâm (tức Ðiều Tâm), Luyện Thở (tức Ðiều Tức) và Luyện Hình (tức Ðiều Thân). Luyện Tâm (Ðiều Tâm): Bắt buộc phải gạt bỏ mọi suy nghì, ưu tư và tình cảm để đầu óc trống rỗng hoặc phải tập trung ý niệm vào một điểm để đưa trí não vào một trạng tháiđặc biệt. Cách luyện này gọi là Ðịnh Thần. Luyện Thở (Ðiều Tức): Những bài tập thở gồm: Nạp Khí - Vận Khí - Xả Khí - Bế Khí, đều phải "nhẹ và sâu" (sẽ chỉ dẫn ở phần sau). Luyện Hình (Ðiều Thân): Gồm nhiều vị trí khác nhau trên cơ thể qua nhiều tư thế, xuyên qua 6 cách: Ði - Ðứng - Ngồi - Nằm - Quỳ - Thoa Bóp. Bất kể luyện tập theo phương pháp nào, nếu tập bền bỉ và đúng phép thì chắc chắn sẽ đạt được một công phu đáng kể. Khí Công của Việt Võ Ðạo tổng hợp các kinh nghiệm của nhiều Trường Phái khác nhau, chủ yếu để luyện Tâm & Thân theo nguyên lý "Cương Nhu Phối Triển." Cũng để tập trung sức mạnh của TÂM THÂN trong tự vệ chiến đấu, điều trị bệnh tật và gia tăng tuổi thọ. Phương pháp khí công trong võ thuật còn gọi là: Nội Công. Nội công là phương pháp luyện tập những phần bên trong của cơ thể con người (không luyện cơ bắp như thể thao). Luyện bên trong tức là phương pháp luyện để: - Kinh mạch điều hòa (luyện Kinh Mạch). - Thần kinh vững mạnh (luyện Tâm). - Lục phủ ngũ tạng được kích phát và kháng kiện (luyện Phủ Tạng). Muốn "luyện bên trong" chủ yếu là phải vận dụng hơi thở. Thở đúng phương pháp là cơ bản của việc luyện công. Thở tự nhiên hàng ngày là thở Vô Thức. Thở Nội Công là thở Có Y¨ Thức. Thở chủ động theo phương pháp đã được nghiên cứu công phu. CÁCH THỞ NỘI CÔNG A. Thở Bụng: là cách thở chủ yếu, trong Nội Công gọi là "Thở Thuận". Trong khi luyện thở có thể Nằm - Ngồi - Ði - Ðứng đều được cả, nhưng bao giờ cũngphải giữ cho xương sống thật thẳng. Nằm: Trên một mặt bằng cứng (không nệm, không gối đầu) hai tay để úp xuôi theo thân mình. Ngồi: Ngồi xếp bằng theo lối bán già hay kiết già tùy ý. Cũng có thể ngồi trên ghế, không dựa lưng, hai chân để xuôi xuống sàn một cách ngay ngắn, hai tay buông xuôi xuống hoặc để trên hai bắp vế. Giữ lưng thẳng góc với mặt ghế. Ðứng: Ðứng thật thẳng như thế "Nghiêm" nhưng hai chân ngang rộng khoảng 25cm cho vững. Hai tay buông xuôi thoải mái, không co cứng cơ. Ði: Hai chân di động nhưng giữ thân người thật thẳng. Dù ở tư thế nào hai tay và hai vai đều buông lỏng thoải mái. Trước khi thở phải gạt bỏ tạp niệm. Tập trung ý vào hơi thở. Lưu ý: chữ Khí dùng ở đây chỉ là Khí Trời, tức Hơi Thở, không phải là Chân Khí như đã định nghĩa. B. Thực Hành Nạp Khí: Hít khí trời thẳng vào bụng dưới, tất nhiên bụng dưới sẽ căng lên. Vận Khí: Nín thở, dồn hơi vào Ðan Ðiền (cách vùng bụng dưới rốn khoảng 3-4cm) rồi dồn khí luân lưu theo Kinh Mạch. Xả Khí: Thở ra hết, thót bụng lại, từ từ nhẹ nhàng cho hơi ra hết. Bế Khí: Ngưng thở trong lúc bụng trống
  10. rỗng, nhíu cơ hậu môn lại và tưởng tượng khí của toàn cơ thể trở về Ðan Ðiền. Một vòng thở đủ bốn nhịp như thế gọi là Phép Thở 4 Thì. Lưu ý: Cả 4 thì đều phải: Êm, Nhẹ, Ðều Ðặn. Kết hợp co cơ và giãn cơ, nhưng giãn cơ là chính. Tự điều hòa 4 nhịp sao cho vừa phải đểcảm thấy thoải mái, dễ chịu. Nếu chỉ Nạp, Vận, và Xả mà không Bế Khí thì đó là phép thở 3 thì. Nếu chỉ Nạp và Xả không thôi thì đó là phép thở 2 thì. Các Ðạo Gia thường áp dụng lối thở hai thì và lấy thư giãn là chủ yếu. Những người bị bệnh do cao huyết áp, bệnh Tim mạch, bệnh Hen Suyễn chỉ nên thở 2 thì. Thở thật đều, nhẹ và êm. C. Thở Ngực (Còn gọi là Thở Nghịch): Lúc Nạp Khí, Ngực căng lên, Bụng thót lại. Lúc Xả Khí, Ngực xẹp xuống, Bụng hơi phình ra. Phép Thở Nghịch rất tốt cho Phế Nang Thượng, tạo sự cường tráng. Người mới tập thở mỗi ngày nên chia làm nhiều lần, mỗi lần khoảng 5, 10 phút và thật đúng giờ, trong tư thế Ði - Ðứng - Ngồi - Nằm đều được cả. Khi đã thở quen, dần dần tăng thời gian tập lên. Những nhà Khí Công chuyên nghiệp họ thở hầu như suốt ngày, dĩ nhiên trừ lúc ăn no, làm việc nặng, ngủ nghỉ. Ðây mới chỉ là những cách thở căn bản trong Khí Công. Thở đúng cách theo các tư thế khác nhau là chúng ta bắt đầu bước vào con đường luyện tập Khí Công hay Nội Công vậy. Khí Công Bài Hai - Phương Pháp Luyện Khí VS. Trần Huy Phong Khí là nguồn năng lực sống của con người (vital energy). Có hai loại Khí: Khí Tiên Thiên do cha mẹ truyền thụ, Khí Hậu Thiên do ta tiếp thụ qua dinh dưỡng và môi trường sống. Khí luân lưu khắp cơ thể, qua các đường Kinh Mạch vào lục phủ ngũ tạng. Khí biểu hiện dưới cả hai dạng vật chất và tinh thần (các nhà khoa học đã dùng máy móc để thí nghiệm và xác minh điều đó), nhưng với mắt thường ta không nhìn thấy được.Không bao giờ được lầm lẫn Khí và Khí Trời (tức không khí), vì không khí (air) chỉ là một trong những phương tiện, dùng để hô hấp trong khi Luyện Khí. Võ lâm Trung Nguyên thường truyền tụng một câu nói rất nổi tiếng: Lực bất đả quyền Quyền bất đả công Luyện vũ bất luyện công Ðáo lão nhất trường không. Có nghĩa là "người chỉ có sức khỏe không thôi thì không thể đánh người giỏi quyền pháp, và người có quyền pháp không thắng được người có Khí Công. Tập võ mà không luyện Khí Công thì khi về già sẽ không còn gì nữa". Những Phương Pháp Thở Thông Thường Ðể Chuẩn Bị Luyện Khí Lưu ý: Thở đúng phương pháp là phần cơ bản của việc luyện Công. Thở hàng ngày là thở tự nhiên, thở vô thức. Thở Khí Công hay Nội Công là thở có ý thức, thở theo phương pháp. Các bài thở thông thường này, chưa cần thiết phải áp dụng những phương pháp Nhập Tĩnh, Thu Công. Tư Thế: Trong khi luyện thở, có thể Nằm - Ngồi - Ðứng đều được cả, nhưng bao giờ cũng phải cho đầu, cổ và xương sống thật thẳng thì Khí mới có thể lưu thông được. Nằm: trên một mặt bằng và cứng (không nệm, không gối đầu), hai tay để úp, xuôi theo thân mình. Hai chân duỗi thẳng, gót chân chạm nhau, mũi bàn chân ngả ra hai bên. Tư thế nằm áp dụng cho những người sức khỏe quá yếu, hoặc những người thiếu máu, không thể ngồi lâu được. Ngồi: ngồi xếp bằng theo lối bán già hay kiết già tùy ý, cũng có thể ngồi trên ghế, không dựa lưng, hai chân để xuôi xuống sàn một cách tự nhiên, ngay ngắn, hai tay buông xuôi xuống hoặc để trên hai bắp vế. Ðiềuquan trọng là phải giữ cho đầu, cổ xương sống xuống đến hậu môn ở trên một đường thẳng. Ngồi là tư thế đúng nhất và tốt nhất cho việc Luyện Khí´. Ðứng: Hai chân đứng song song, dang rộng khoảng 25cm, cho vững, hai tay buông xuôi theo thân người, hai đầu gối hơi chùng xuống một chút, nặng ở hai gót chân, buông lỏng hai vai. Tư thế đứng dùng để tập luyện nhiều động tác quan trọng. Dù ở tư thế nào, thân, vai, bụng đều buông lỏng, thoải mái. Trước khi thở phải gạt bỏ hết mọi ý nghĩ, tập trung tinh thần vào hơi thở. Trước khi Luyện Khí nên biết Thư Giãn. Không biết Thư Giãn thì kết quả Luyện Khí sẽ bị giới hạn rất nhiều: Thư giãn Cơ Bắp: buông lỏng tất cả dường gân, thớ thịt: từ đầu ngón tay cho tới tứ chi, vai, bụng và toàn thể thân người, coi như toàn thân mềm nhũn ra, không còn một trương lực nào cả. Thư giãn Tâm Thần: để bộ não từ từ tan biến đi, không còn một ý thức nào nữa, không nghe, không thấy, không biết gì nữa, cứ để tâm chìm vào hư vô Mới đầu khó thực hiện, nhưng sau sẽ quen dần. Ðộng tác Thư Giãn sẽ giúp ta thấy nhẹ nhàng, khoan thai, dễ chịu sau những giờ làm việc căng thẳng. Thư giãn thoải mái xong mới bắt đầu tập luyện. I. Thở Bụng (còn gọi là thở Thuận): Phương pháp thở bụng 2 thời liên tục: ngồi bán già hay kiết già, hay ngồi trên ghế hoặc đứng, hoặc nằm trên mặt phẳng và cứng, không gối đầu, mục đích giữ cho đầu, cổ, lưng thật thẳng, hai tay buông xuôi. Nạp Khí: Từ từ hít hơi vào thẳng bụng dưới theo phương pháp: đều, nhẹ, êm, sâu (khi đầy, bụng hơi
  11. phình ra). Xả Khí: ngay khi đó, từ từ thở ra cũng đều-nhẹ - êm và thở ra hết. Ghi chú quan trọng: - Hít vào và thở ra đều bằng mũi. - Công thức: mới tập theo công thức 3-3 (nghĩa là hít vào trong 3 giây và thở ra cũng đúng 3 giây, nghĩa là thở 10 vòng trong 1 phút. Cách đếm: ba trăm lẻ một, ba trăm lẻ hai, ba trăm lẻ ba cứ đếm đều đặn là rất đúng, nếu cần lấy đồng hồ ra căn lại cách đếm cho chính xác hơn), dù ta có thể tập dài hơn cũng đừng cố, phải tập ít nhất trong 3 tuần lễ mới có thể tăng dần. Về sau, khi đã tập luyện vững vàng rồi, ta có thể theo công thức: 5-5 (tức 5 vòng thở ra một phút) hoặc 6-6 (tức 6 vòng thở trong một phút). Một người bình thường, thở trung bình 15 vòng trong 1 phút, nếu nay ta thở chỉ còn 10 vòng/phút là đã khá tốt rồi. So sánh với nhịp thở của một loài động vật: gà mái 30 nhịp/phút, chó 28 nhịp/phút, mèo 24 nhịp/phút, ngựa 16 nhịp/phút, rùa 2 nhịp/phút. Nếu nhiều công phu tập luyện, sau này ta có thể thở từ 2 nhịp hay 1 nhịp trong một phút thì tuổi thọ của ta có thể tăng lên như loài rùa. Mặt khác, khi thở chậm, nhịp tim cũng sẽ đập chậm lại và đều hơn. Giả thử nhịp tim đang từ 90 giảm xuống 60 lần/phút, tức là tiết giảm được 30 lần/phút. Nếu tính trong một năm thì sẽ tiết giảm được: 30 lần x 60 x 24 x 365 ngày = 15,768,000 lần. Tập đúng: thân thể tráng kiện, da mặt hồng hào, sáng láng, mắt sáng, tinh thần thoải mái dễ chịu. Tập sai: Nồng độ CO2 trong máu quá cao, gây ra các triệu chứng dễ nhức đỉnh đầu và vùng gáy. Tim bị hồi hộp, ăn không tiêu gặp trường hợp này, xả trong một tuần lễ sẽ khỏi (xem cách XẢ ở phần Thụ Công - đoạn chót bài 4). Phương pháp thở bụng 3 thời: công thức3-3-3 hoặc 4-4-4. Nghĩa là Nạp Khí trong 3 giây. Sau đó dồn khí xuống Ðan Ðiền (tức huyệt Khí Hải - cách lỗ rốn khoảng từ 3 tới 4 cm), ngưng tụ khí tại đó trong 3 giây, làm cho đan điền căng lên, đồng thời ta nhíu hậu môn và đường tiểu tiện lại. Sau đó, buông lỏng tất cả và từ từ Xả Khí ra trong 3 giây, cho không khí ra hết, xả xong lại tiếp tục Nạp Khí, thở cho vòng kế tiếp, liên tục không ngừng. Sự ngưng tụ khí tại Ðan Ðiền này rất quan trọng sẽ giải thích sau. Phương pháp thở bụng 4 thời: công thức 3-3-3-3 về sau khi thở đã quen có thể áp dụng công thức 4-4-4-4 hoặc cao hơn nữa (nhưng đừng cố quá sẽ có hại!). Nạp trong 3 giây, ngưng tụ tại Ðan Ðiền trong 3 giây, nhíu hậu môn và đường tiểu tiện lại, như nói ở đoạn trên. Sau đó buông lỏng tất cả, Xả (tức thở ra nhẹ, đều, êm trong 3 giây cho hết không khí). Khi bụng đã xẹp hết hơi, ta Bế Khí, tức là ngưng thở hoàn toàn, để bụng trống rỗng trong 3 giây rồi lại tiếp tục Nạp Khí cho vòng kế tiếp. Ghi chú: Việc thở phải điều hòa, liên tục, nhịp nhàng và bao giờ cũng phải Êm - Nhẹ - Ðều - Dài. Thở hấp tấp, vội vàng, cốt cho đủ số là hoàn toàn vô ích! Nên khai thác triệt để hơi thở trong ngày: nếu ta chỉ tập thở trong những buổi chính thức theo đúng nghi thức, thì nhiều lắm, mỗi ngày, ta cũng chỉ tập được hai buổi (mỗi buổi khoảng nửa giờ mà thôi) và tất nhiên kết quả chỉ có giới hạn. Nhưng theo lối thở phổ thông trình bày ở trên, ta có thể thở bất cứ lúc nào, bất cứ tại đâu, tại văn phòng, trong xưởng, trong phòng khách, tại nơi đang làm việc v.v Ta khai thác được rất nhiều dịp thở trong ngày mà những người xung quanh không hay biết, theo kiểu "tích tiểu thành đại", lâu dần thành thói quen. Càng thở nhiều càng thấy thoải mái dễ chịu không bị mệt mỏi, căng thẳng, chán nản, mấttinh thần Tất nhiên không nên thở lúc ăn no, uống say hoặc lúc làm việc nặng. II. Thở Ngực (còn gọi là thở nghịch): Ðây là phương pháp thở phổ thông trong các môn thể thao, điền kinh của Tây phương. Phương Pháp Khi Nạp Khí, ta dồn không khí lên ngực trên, bụng sẽ thót lại. Lúc Xả Khí, ngực sẽ xẹp xuống, bụng hơi phình ra. Phép thở nghịch tốt cho Phế Nang Thượng, làm cho ngực nở nang, nhưng không hữu dụng cho phương pháp tập KHÍ CÔNG. Lý giải theo Y-học Tây phương: Khi ta tập các cơ bắp như tập tay, tập chân, tập cổ, tập ngực v.v ta thường dùng các dụng cụ như tạ, dây kéo, para fix, parallel, hoặc hít đất, nhẩy xổm, bơi lội v.v Nhưng nếu ta muốn tập các bộ phận bên trong như Tim, Gan, Tì, Phế, Thận (ngũ tạng) hoặc Dạ Dầy, Mật, Bàng Quan, Tam Tiêu, Ruột Non, Ruột Già (lục phủ) nhất là các Kinh Mạch và Thần Kinh, thì chúng ta tập ra sao? Người xưa dạy ta tập bằng cách Thở Khí Công: khi ta Nạp không khí vào phần Hạ Phế (phổi dưới) - nói là thở Bụng, nhưng thực tế, không bao giờ không khí có thể vào thẳng bụng được. Không khí vào phần Phổi dưới, nó sẽ nở ra, đẩy Cơ Hoành và Cơ Bụng xuống, làm cho Lục Phủ Ngũ Tạng bị ép nhẹ xuống. Khi ta Xả Khí, Cơ Hoành và Cơ Bụng lại nâng Lục Phủ Ngũ Tạng lên. Như vậy, toàn bộ các cơ quan trong người ta cứ liên tục bị nhồi lên, ép xuống một cách nhẹ nhàng, nhu nhuyễn, như vậy các bộ phận bên trong của ta đã được "thoa bóp bằng hơi một cách vô cùng êm ái". Nói cách khác,
  12. Lục Phủ Ngũ Tạng của ta đã được tập luyệnbằng những đệm hơi rất vi tế. Một khi các bộ phận trong người đã được tập có phương pháp như thế thì tất nhiên chúng sẽ trở nên linh hoạt, không bị u trệ và hoạt động tốt hơn, do đó Kinh Mạch của ta sẽ vận hành đều hòa hơn. Mặt khác, vì phải tập trung tinh thần, không suy nghĩ vẩn vơ, điều này sẽ giúp cho Thần Kinh của chúng ta vững vàng, Tâm không bị giao động, âm dương được quân bình. Tập như thế, tức là Tập Bên Trong - Công Phu Tập Luyện Bên Trong- Tức là Tập Nội Công vậy. Ghi chú: Nếu chịu khó tập Thở Nội Công liên tục đều dặn, sau 3 tháng sẽ có kết quả cụ thể: người khỏe mạnh, năng động, vui tươi, giảm lượng đường trong máu, giảm cholesterol, giảm huyết áp (nếu có), ăn uống, tiêu hóa tốt, sinh lý mạnh và có thể chữa khỏi những chứng bệnh thông thường. Khí Công Bài Ba - Luyện Khí VS. Trần Huy Phong Khí Công của Vovinam - Việt Võ Ðạo, có những nét đặc thù riêng, mục đích để luyện Tâm Thân theo nguyên lý Cương Nhu Phối Triển. Chủ yếu luyện Khí Công để Dưỡng sinh, bảo kiện, tăng cường thể lực để tự chữa một số bệnh cho chính bản thân và nếu khá hơn, có thể phát công để trị bệnh cho người khác. Ðặc biệt là có khả năng tập trung sức mạnh của Tâm Thân, áp dụng trong tự vệ và chiến đấu. Tôi đã dự định viết một cuốn "Nội Công Nhập Môn Việt Võ Ðạo" từ mấy năm trước, nhưng không may tôi bị lâm trọng bệnh, nên chưa thực hiện được. Do yêu cầu của một số môn sinh, đề nghị tôi viết tiếp một vài bài nữa sau bài "Khái Lược Về Khí Công" đăng trong tập san Việt Võ Ðạo - Trở Về Nguồnxuất bản năm 1993. Mặc dù đang tiếp tục điều trị bệnh tại Pháp (đợt 3), tôi cũng cố gắng đáp ứng lời yêu cầu của các bạn. 1. Môi Trường Tập Môi trường tập rất quan trọng, để tránh những tác động của khung cảnh từ bên ngoài có thể tác động không tốt vào cơ thể. Không gian: Yên tĩnh - Sạch sẽ - Thoáng mát (đừng để bị ngoại cảnh quấy rầy, nhất là những thứ ảnh hưởng tới Ngũ Quan và cần nơi an toàn ) Không nên ngồi tập chỗ có gió lùa. Khi trời giông bão, sấm sét, mưa to, điện trường xung quanh biến động quá nhanh. Nên ngồi tập trên một tấm chiếu hay một tấm mền mỏng. Thời gian: Người xưa chia thời gian theo giờ sinh thái rất phức tạp, ngày nay ít ai theo được. Tốt nhất là nên tập vào lúc bình minh, hoặc vào những giờ rảnh rỗi, không bị công việc chi phối là được. Không nên luyện công trong lúc ăn no, uống say, chỉ tập khi bụng đã nhẹ (sau bữa ăn khoảng 2 giờ). Không tập khi đau yếu, hoặc khi làm việc quá mệt mỏi. Không giao hợp trước và sau buổi tập. Uống một ly nước đun sôi để nguội trước và sau buổi tập. 2. Chuẩn bị tư tưởng Trước khi tập thở Nội Công, điều quan trọng trước hết là phải chuẩn bị Y¨ Niệm và Tư Tưởng: hãy buông bỏ tất cả không còn hình ảnh nào vương vấn trong tâm ta nữa, không lo lắng, ưu tư, yêu ghét gì nữa cuộc đời dù có ghê gớm đến đâu, ta cũng nên "vứt bỏ ra ngoài trong chốt lát, để Tâm được thực sự an bình, thư thái (điều Tâm). 3. Tư thế mẫuHướng ngồi nên theo hướng Nam Bắc (quay mặt về hướng Bắc cho hợp với Ðịa từ, nhưng cũng không cần quan trọng hóa). Ngồi kiết già hay bán già đều được cả, miễn sao thấy thoải mái. Áp dụng các nguyên tắc sau: Lưng thẳng, cổ thẳng, đầu ngay ngắn, cằm hơi thu lại. Bụng lỏng, hai vai và hai tay buông lỏng, toàn thân thư giãn (điều thân) cho hai mạch Nhâm Ðốc và 12 kinh thông. Miệng ngậm để giữ Khí, lưỡi cong đặt trên vòm ếch để thông giữa hai mạch Nhâm Ðốc, nếu có nước miếng thì nuốt đi. Hai lòng bàn tay để ngửa, chồng lên nhau, đặt ở vị trí bụng dưới. Con Trai tay trái chồng lên trên, con Gái tay phải chồng lên trên. Mắt nhắm để định thần, tư tưởng tập trung dùng Ý dẫn Khí, vì vậy phải thuộc vị trí của các đại huyệt (coi bảng hướng dẫn). Ðầu tiên hơi thở phải tự nhiên, đều đặn (điều Tức). Nhập Tĩnh: Tập trung tinh thần, ta nhẩm đọc bài Kệ, trong ý: Lưng thẳng, vai mềm, bụng lỏng ra, Gát phăng ý nghĩ khỏi đầu ta, Ðiều hơi, vận khí theo phương pháp, Óc cố, tâm yên, tiến rất xa. (Óc cố có nghĩa là đầu óc chỉ tập trung cố định vào một điểm như hơi thở chẳng hạn). Nếu Tâm vẫn chưa thực sự yên tĩnh, ta nhẩm đọc bài Kệ sau đây: Chẳng mừng giận, cũng không yêu ghét, Chẳng thương xót, cũng không lo buồn, Ðã không ham muốn, có chi sợ hãi, Ðể lòng thanh thản, an nhiên tự tại.4. Luyện Công Khi Tâm hồn đã thực sự đi vào yên tĩnh và thoải mái, ta bắt đầu luyện Công theo phương pháp 3 thời hoặc 4 thời, nhưng theo các nguyên tắc sau đây: 3-6-3. Mượn hơi thở không khí bằng mũi, thở Nhẹ - Êm - Dài, nhưng thực tế dùng ý thở bằng toàn thân. Tất nhiên vẫn thở như bài luyện thở Nội Công số 2, nhưng không quan tâm nhiều đến hơi thở (bằng khí trời) như trước mà thở
  13. gần như vô thức. Nhưng điểm chủ yếu là Thở Bằng Ý, thở bằng tất cả các huyệt đạo, bắt đầu thở từ huyệt Bách hội (đỉnh đầu), thở bằng tất cả các huyệt cao trên đầu, thở bằng lỗ tai, thở bằng các huyệt Dũng Tuyền (giữa gan bàn chân), bằng các huyệt Lao Cung (giữa gan bàn tay), thở bằng tất cả những lỗ chân lông, dưới hạ bàn, từ hậu môn, bộ phận sinh dục, từ huyệt Hội Âm, Trường Cường và các huyệt đạo khác ta hấp thụ được Ðịa Khí v.v nghĩa là toàn thân đều thở. Thở như thế, có nghĩa là toàn bộ cơ thể ta đã được hấp thụ được nhiều Tinh Khí của trời đất, của Vũ Trụ, của các tia alfa, các tia điện từ của trái đất và các hành tinh khác Ta dồn tất cả các khí "Âm Dương" của trời đất ấy, tích tụ vào Ðan Ðiền, nén thành một trái cầu ngũ sắc, to như một quả cam. Ta vận hành cho trái cầu này quay tròn trong Ðan Ðiền, theo chiều quay của kim đồng hồ và ngược lại. Trái cầu này sẽ phát ánh sáng, soi sáng Lục Phủ Ngũ Tạng của ta, rồi soi sáng khắp các Kinh Mạch và cơ thể ta, có thể đó chỉ là do ta tưởng tượng ra mà cũng có thể là thật. ánh sáng đó mỗi lúc một sáng, soi toả khắp cơ quan trong người. Hiện tượng này có thể chỉ là ý niệm, nhưng cũng có thể là sự thật. Người Tây phương sẽ khó có thể cảm nhận được hiện tượngnày. Trái cầu ấy chính là Khí Hậu Thiên của Trời Ðất, kết hợp với Khí Tiên Thiên vốn đã sẵn có trong cơ thể ta để tăng cường, phối hợp, làm thành Chân Khí, mà Chân Khí là cái gốc của sự sống, nó lưu hành, cung ứng cho các Kinh Mạch và Nội Tạng của ta. Trái cầu "Chân Khí" đó, sau khi cung ứng cho các nội tạng và Kinh Mạch, nó sẽ mờ dần và nhỏ dần, chỉ còn là một điểm sáng Nhưng sau đó ta lại tiếp tục thở, tiếp tục Nạp trái cầu lại càng lớn và sáng trở lại và cứ thế tiếp tục mãi cho đến hết buổi tập. Trung bình, mỗi buổi tập ít nhất cũng phải kéo dài trong 30 phút, ta sẽ tiếp thụ được thêm Chân Khí. Khí Công Bài Bốn - Luyện Vòng Tiểu Chu Thiên VS. Trần Huy Phong Ghi chú: Vòng Tiểu Chu Thiên (còn gọi là Vòng Nhâm Ðốc Mạch) xưa kia được coi như một phương pháp Khí Công bí truyền vì Luyện Vòng Tiểu Chu Thiên duy trì sự quân bình Âm Dương. Khí luôn vận hành theo vòng khép kín, không bao giờ ngừng, tầm mức tác dụng rất cao vào toàn bộ Kinh Mạch và chức năng của Phủ Tạng. Hướng đi của hai mạch Nhâm Ðốc Mạch Nhâm thuộc Âm (thuộc phía trước thân ngực, bụng của ta). Mạch Ðốc thuộc Dương (thuộc phía sau lưng, chạy qua đỉnh đầu của ta). Theo luật Âm giáng (đi xuống), Dương thăng (đi lên) thì: Mạch Nhâm sẽ đi từ huyệt Thừa Tương (huyệt nằm ở giữa cằm, cách môi dưới độ 1cm), đi xuống theo đường giữa bụng, xuống đến huyệt Hội Âm (huyệt Hội Âm nằm ở chính giữa bộ phận sinh dục và hậu môn).Mạch Ðốc sẽ đi ngược lên, đi từ huyệt Trường Cường (huyệt này nằm ở điểm chót của đốt cột sống cuối cùng, ngay đầu hậu môn), chạy ngược lên, qua đỉnh đầu, xuống tới huyệt Ngân Giao (là huyệt nằm ở chính giữa vòm miệng, thường gọi là hàm ếch). Vì vậy, trong tập luyện vòng Tiểu Chu Thiên, cũng như luyện các phương pháp Khí Công khác, lưỡi luôn phải uốn cong, đặt lên nóc hàm ếch, tại vùng huyệt Ngân Giao, nhằm khép kín vòng Âm Dương, để Khí không bị phân tán. Nhập Tĩnh: Ngồi bán già hay kiết già, hoặc ngồi trên ghế, từ huyệt Bách hội (đỉnh đầu) qua sống lưng, xuống huyệt Hội Âm đều nằm trên một trục thẳng. I. Luyện Nhâm Mạch và Ðốc Mạch Riêng (áp dụng phương pháp thở hai thời) Luyện Nhâm Mạch Thở vào: từ từ dẫn Khí theo Mạch Nhâm, đi từ huyệt Thừa Tương xuống huyệt Hội Âm. Thở ra: từ từ dẫn Khí theo Mạch Nhâm, đi từ huyệt Hội Âm đi ngược lên huyệt Thừa Tương. Luyện Mạch Ðốc Thở vào: dẫn Khí từ huyệt Trường Cường, ngược lên theo cột sống, qua đỉnh đầu, tới huyệt Ngân Giao (vòm miệng) Thở ra: dẫn Khí từ huyệt Nhân Trung (huyệt này nằm giữa vùng môi trên, ngay giữa sống mũi), lên đỉnh đầu, xuống gáy, chạy dọc theo cột sống, xuống huyệt Trường Cường. II. Luyện vòng Nhâm Ðốc Chung Thông suốt hai mạch mà không cảm thấy vướng víu, do đó cần tập trung Ý để Khí có thể chạy dễ dàng.a. Phương pháp thứ nhất: Luyện vòng Tiểu Chu Thiên theo hai hơi thở (mỗi hơi hai thời). Hơi thở thứ nhất: Thở vào: dẫn Khí từ huyệt Thừa Tương, xuống tới huyệt Khí Hải, hay Ðan Ðiền. Thở ra: dẫn Khí từ huyệt Khí Hải xuống Hội Âm rồi theo Ðốc Mạch lên huyệt Trường Cường, đồng thời co thắt hậu môn để đẩy Khí lên. Hơi thở thứ hai: Thở vào: dẫn Khí từ huyệt Trường Cường cho tới huyệt Ðại Chùy (huyệt này nằm dưới các đốt xương cổ, nhưng ngay ở đốt xương sống đầu tiên, khi ta cúi đầu xuống, ở phần giáp xương cổ và lưng có một cục xương nhô cao, sát bên dưới đốt xương đó là huyệt Ðại Chùy). Thở ra: dẫn Khí từ huyệt Ðại Chùy
  14. cho tới huyệt Nhân Trung. b. Phương pháp thứ hai: Luyện nguyên vòng Tiểu Chu Thiên bằng một chu kỳ thở Thở vào: tưởng tượng Khí nhập vào huyệt Thừa tương, dẫn xuống qua huyệt Khí Hải, tới Hội Âm (trong 5 giây) Thở ra: Co thắt hậu môn, đẩy Khí từ huyệt Hội Âm, ngược theo cột sống, chạy lên đỉnh đầu (huyệt Bách Hội), rồi tới huyệt Nhân Trung (trong 5 giây). Cứ thế tiếp tục không ngừng nghỉ cho đến hết buổi tập. Ðến khi kết thúc buổi tập, lúc thở ra, ta sẽ dẫn Khí xuống thẳng Ðan Ðiền. c. Phương pháp thứ ba: Luyện hai vòng Tiểu Chu Thiên bằng một chu kỳ thở: Thở vào: dẫn Khí đi từ huyệt Thừa Tương, chạy suốt hai mạch Nhâm Ðốc đến huyệt Nhân Trung. Thở ra: cũng dẫn Khí chạy suốt hai mạch Nhâm Ðốc, nhưng ở vòng cuối, dẫn Khí chạy thẳng xuống Ðan Ðiền.d. Phương pháp thứ tư:Luyện nhiều vòng Tiểu Chu Thiên bằng một chu kỳ thở ba thời: Tạm ngưng thở: dẫn Khí chạy lướt qua vòng Nhâm Ðốc mạch. Thở vào: tụ Khí đầy ở huyệt Thừa Tương. Ngưng thở: Tập trung ý, dẫn Khí chạy theo đường Nhâm Ðốc mạch từ 3 đến 4 lần nhanh. Ở vòng cuối cùng dẫn Khí xuống Ðan Ðiền. Thở ra: tưởng tượng Khí tỏa ra khắp vùng bụng dưới. e. Phương pháp thứ năm:Vận Khí chạy ngược vòng Nhâm Ðốc Mạch. Sau khi đã tập thành thục, ta có thể: 1. Vận Khí chạy ngược với đường đi tự nhiên trên vòng Nhâm Ðốc: Thở vào: Vận Khí từ huyệt Hội Âm ngược lên đường giữa bụng, lên huyệt Thừa Tương (luyện Nhâm Mạch). Thở ra: vận Khí từ huyệt Thừa Tương, lên mặt, qua đỉnh đầu, chạy dọc xương sống xuống Hội Âm, về Ðan Ðiền. 2. Vận Khí chạy ngược xuôi, qua lại, tới lui trên suốt vòng Nhâm Ðốc: Có khi, chỉ cần dùng lưỡi, để lên vòm miệng (hàm ếch), hơi thở tự nhiên bình thường, tự động vòng Nhâm Ðốc vận hành chạy liên tục không ngừng nghỉ. Tất nhiên phải đạt tới giai đoạn nhuần nhuyền lắm thì mới có thành tựu như vậy được. Ghi chú: Những huyệt khó vượt qua trên mạch Ðốc: Huyệt Trường Cường (nằm ở đốt xương cùng của cột sống), từ Hội Âm lên Trường Cường phải qua hậu môn, là một đường cong vì thế, ta phải co thắt hậu môn để giúp đẩy Khí lên. Huyệt Mệnh Môn (nằm trong khối thận, khoảng chính giữa trục Ðan Ðiền và cộtxương sống.) Khi dẫn Khí qua Mệnh Môn, ta chỉ cần tập trung Y¨, cho chạy chậm lại một chút là có thể vượt qua dễ dàng. Huyệt Não Hộ (nằm trên vùng gáy, dưới Bách Hội, ngang với huyệt Ấn Ðường ở phía trước), vì Khí phải vượt qua đường hõm, vòng cung của gáy nên khó đi, nhưng nếu ta tập trung Y¨, cho chạy chậm lại một chút thì Khí sẽ vượt qua dễ dàng. Người mới tập vòng Tiểu Chu Thiên, lúc đầu chưa thấy cảm giác gì. Nhưng sau thời gian tập quen, ta tập trung được Tâm Ý, dẫn Khí đi đúng hướng, không bị phân tán, lúc đó ta sẽ thấy một luồng chân Khí chạy thành vòng cung trên suốt vòng Nhâm Ðốc. Tầm quan trọng của vòng Nhâm Ðốc: luyện vòng Nhâm Ðốc là sự giao hòa giữa Tiên Thiên (mạch Ðốc vốn là di sản của cha mẹ), và Hậu Thiên (mạch Nhâm được tiếp thụ từ đời sống bên ngoài). Luyện Tiểu Chu Thiên làm thanh khiết và quân bình Âm Dương, tránh được sự rối loạn chức năng của Phủ Tạng. Luyện vòng Tiểu Chu Thiên là bước đầu tác động vào Tinh - Khí - Thần, tiến tới bài tập để "Tinh biến thành Khí, Khí biến thành Thần" Khí Công Bài Năm - Luyện Tinh - Khí - Thần và Nội Lực VS. Trần Huy Phong A. Tinh - Khí - Thần Tinh, Khí, Thần là tam Bảo của con người, không có chúng thì chúng ta không thể tồn tại được. Tinh - Khí - Thần cũng đều có Tiên Thiên và Hậu Thiên, do đó đều có thể luyện tập để trở nên tăng tiến, sung mãn. Tinh Tiên Thiên: (còn gọi là Nguyên Khí) là tinh chất cốt lõi của con người, vốn là do Âm Dương của cha mẹ truyền lại, vì vậy, Tinh là nguồn mạch của sự sống, nó duy trì tínhchất di truyền của gene DNA. Tinh Hậu Thiên: (còn có tên gọi là Thiên Ðịa Khí và Thủy Cốc Khí) có chức năng duy trì và bù đắp cho sự tiêu hao của Tinh Tiên Thiên, do ta hấp thụ từ trời đất (tiết thực, dinh dưỡng, thu nạp trong những môi trường sống nói chung). Phân biệt như vậy cho có nguồn gốc, thực ra Tinh Tiên Thiên hay Tinh Hậu Thiên cùng giao hòa làm một và ta gọi chung là Tinh Khí. Sách Hoàng Ðế Nội Kinh cho rằng Tinh tích tụ tại Thận, điều này cũng không sai vì Thận nên hiểu là cơ quan bao hàm cả cơ quan sinh dục, trong đó có tinh hoàn và buồng trứng. Hai Khí giao hòa với nhau, bổ túc cho nhau để tạo thành một dạng chung gọi là Chân Khí, hàng ngày luân lưu trong các kinh mạch và Lục Phủ Ngũ Tạng của ta. Chân Khí lại chia thành: Vinh Khí: luân lưu trong các Kinh Mạch và Tạng Phủ với chức năng điều hòa và tăng cường cho sức mạnh của Kinh Mạch và Nội Tạng. Vinh Khí mạnh hay yếu tùy thuộc rất nhiều và tiết thực, vì vậy chúng ta phải rất cẩn thận trong việc ăn uống.Vệ Khí: không đi theo Kinh Mạch mà lại đi vào da thịt. Vệ Khí khuếch tán mạnh có
  15. thể đi vào vùng rỗn của khoang ngực, bụng. Tập thở bằng Cơ Hoành (ở bài 2) có thể làm cho Vệ Khí rất có lợi trong luyện tập võ thuật, nó giúp cho gân, xương, cơ bắp của ta trở nên vững chắc và bảo vệ thân thể ta chống chọi với những thay đổi của môi trường xung quanh (như trong thiết bố sam). Thần là chủ đạo của não. Thần có liên quan mật thiết với Tâm, nên mới nói Tâm tàng Thần. Ðan Ðiền của Thần đóng ở Ấn Ðường và phía sau là Bách Hội (đỉnh đầu). Nói tóm lại, Tinh là gốc của sự sống, được nuôi dưỡng hàng ngày bởi Khí sinh sau và chịuảnh hưởng của Chân Khí và Nguyên Khí. Mục tiêu tối hậu của Khí Công là luyện Tinh thành Khí - Luyện Khí thành Thần (trong dịp khác, tôi sẽ trình bày bài tập này). Tinh - Khí - Thần xét cho cùng chỉ là một Tinh và Thần chỉ là hai dạng khác nhau của Khí. Tinh là trạng thái gốc, Thần là trạng thái thăng hoa của Khí. Ba trạng thái này có liên hệ mật thiết với nhau và có tác động qua lại rất hài hòa. B. Nội Lực Nội lực là sức mạnh bên trong cơ thể con người, ai cũng có Nội Lực, chỉ nhiều ít khác nhau mà thôi. Nội lực cũng có hai dạng: bẩm sinh và tự tạo. Rất nhiều người, trời sinh ra đã có sẵn một nội lực phi thường và cũng không ít người, khi ra đời chỉ có một sức mạnh yếu kém, nhưng nhờ bền chí luyện tập đúng phương pháp, cũng trở nên những con người có sức mạnh siêu phàm. Cái gốc của Nội Lực là Tinh - Khí - Thần, nên muốn luyện Nội Lực thì ta phải đi từng bước. Trước hết luyện Tinh - Khí - Thần, sau đó phải biết phương pháp luyện tập để thúc đẩy nội lực lên. Ðiều quan trọng là phải biết huy động và tập trung nội lực vào một mục tiêu để "phá vỡ" hay "bẻ gẫy" những chướng ngại cần thiết, nhất là trong võ thuật. Nội lực thường tản mát trong khắp cơ thể ta, nhưng thường thường ta không biết sử dụng chúng vào những mục tiêu mong muốn. Có rất nhiều câu chuyện thực tế được kể lại như sau: có nhiều người khi gặp cơn nguy khốn, họ đã vượt thoát được sự hiểm nghèo như nhẩy qua một hố sâu rộng nhiều mét, vượt qua một bức tường 3 mét, phóng mình lên một cành cây cao khi gặp một con gấu đuổi tấn công, vác được những vật nặng hàng trăm ký khi nhà đang bị cháy, bị trượt chân trên một tòa nhà cao 33 tầng, phải túm lấy nhau, đu bám trên một bậc cửa sổ và đãđược thoát chết v.v nhưng sau đó họ sẽ không thể nào lập lại quá trình đó được nữa, vì nội lực của họ đã bị phân tán mỏng, không có "yếu tố kích thích để tập trung vào một điểm hay một vùng" của cơ thể để có thể thực hiện được những mục tiêu mong muốn, tất nhiên, không phải bất cứ ai cũng có thể tập trung được nội lực trong lúc hiểm nguy như thế, vì thường thường lúc đó họ "mất tinh thần, có khuynh hướng buông xuôi !" Thường thường những nhà quán quân trong các môn điền kinh hoặc những võ sĩ chuyên nghiệp, do công phu tập luyện hàng ngày đã quá nhuần nhuyễn, nên họ có khả năng tập trung nội lực để phát huy hết khả năng vào đôi chân hay đôi tay do đó, họ đạt được những thành tích cao. Tuy nhiên, không phải lúc nào họ cũng làm được những điều mà họ mong muốn, nhiều khi họ cũng bị "phân tâm, mất tự tin" khiến thành tích của họ bị sút giảm. Chỉ khi nào chúng ta tập được tới trình độ "tâm ý tương thông", tập trung được toàn bộ nội lực vào một điểm, đột khởi xuất chiêu thì lúc đó ta mới có thể cho rằng "mình đã tự làm chủ được nội lực của mình". Muốn phát huy được nội lực cao độ để thực hiện những mục tiêu mong muốn, ta phải thực hiện được hai yếu tố sau đây: Luyện nội lực thật sung mãn. Tập trung cao độ nội lực vào một bộ phận của cơ thể để đạt mục đích. 1. Luyện Tinh - Khí - Thần để nâng cao nội lực. Muốn luyện nội lực thì trước hết phải luyện Tinh - Khí - Thần, vì đó là cái "thế chân vạc" để nâng cao nội lực. Cũng phải theo đúng quy trình, ngồi bán già hay kiết già, "Khai Công Nhập Tĩnh", thư giãn, an thần, vứt bỏ mọi tạp niệm v.v a. Luyện Tinh Nạp Khí: thở vào từ tất cả các huyệt đạo,tập trung toàn bộ suống vùng bụng dưới (Quan Nguyên - Khí Hải), từ 5 đến 6 giây, tập trung cao độ ý niệm vào vùng này. Vận Khí: ngưng thở để thu hút khí trời đất và vận hành để nén chúng thành một "Khối Tinh Chất", quán tưởng khối đó như một bông hoa sen lớn, thơm và tinh khiết, dùng cơ bụng dưới vận khí cho bông sen đó quay vòng theo chiều kim đồng hồ, rồi sau đó quay ngược lại, thời gian trong vòng khoảng 20 giây. Xả Khí: thở ra, buông lõng tất cả cơ bắp, thở ra từ từ, bông sen sẽ tan biến và loan tỏa ra khắp vùng Quan Nguyên, vùng bụng dưới, theo vòng đôi mạch chạy sang Mệnh Môn, xuống Trường Cường và chạy ngược lên vùng thận du (Bế Thận). Bế Khí: sau đó Bế Khí trong 3 giây để Tinh tan biến vào Phủ Tạng, tích lũy và tàng trữ Tinh trong đó. b. Luyện Khí Luyện Khí ở đây cũng có những điểm như luyện Khí ở bài số ba, nhưng có điểm khác biệt là tụ Khí để tăng cường trực tiếp cho Nội Lực. Nạp Khí: qua tất cả các huyệt đạo
  16. nạp khí vào trung tâm Ðan Ðiền (Khí Hải) trong vòng 5 giây. Vận Khí: cắn chặt hai hàm răng, hai nắm tay nắm xiết chặt đến cao độ, cơ bụng dưới căng ra như có một khối đá nặng hàng trăm ký đang đè xuống Tất cả tư tưởng và ý niệm đặt hết vào bụng dưới, không một chút gì có thể làm ta phân tâm trong lúc này thời gian kéo dài trong 20 giây hoặc hơn (có thể làm cho ta toát mồ hôi). Xả Khí: buông lỏng cơ bắp thở ra từ từ, để Khí lan tỏa ra khắp vùng bụng dưới. Thư Giãn hoàn toàn: tất cả Tâm Thần như chết đi, tất cả mọi cơ bắp như tan rã ra, mềm nhũn ra, dùng hai tay thoa nhẹ vàokhắp vùng bụng dưới - thời gian khoảng 10 giây, sau đó lại tiếp tục nạp Khí để làm chu kỳ tiếp theo. Trung bình Nam làm 7 vòng, Nữ làm 9 vòng. Vì tập theo chu kỳ này rất tổn hao sức, nên nếu muốn tập nhiều thì phải chia ra làm nhiều buổi trong ngày mà tập. Chỉ cần tập đều trong 3 tháng, các bạn có thể hít một luồng khí vào bụng dưới, trương cơ bụng lên và cho những môn sinh khoẻ mạnh tha hồ đấm cực mạnh vào bụng mà chẳng sao cả. c. Luyện Thần Nạp Khí: Khi đã "Óc cố - Tâm an" xong, từ huyệt Bách Hội, Nhân Trung, Phong Phủ, Não Hộ, Thái Dương, nói chung là tất cả các huyệt đạo trên đầu ta quán tưởng, nạp Khí từ khắp không gian thu vào Bách Hội, kết lại ở đó thành một vòng hào quang - thời gian 10 giây. Vận Khí: tập trung tư tưởng, ý niệm cao độ vào Bách Hội, vận hành cho vòng "hào quang" đó xoay nhiều vòng theo chiều kim đồng hồ và sau đó quay ngược lại - thời gian 10 giây. Xả Khí: sau đó, dẫn một nửa Khí chạy theo Nhâm Mạch xuống Hội Âm, từ từ buông lỏng, thư giãn và để cho Khí tự bung ra lan tỏa từ Bách Hội ra khắp không gian, phần kia, lan xuống hạ bàn và đi vào lòng đất - thời gian 10 giây. Bế Khí: sau đó bế Khí (ngưng thở) trong 5 giây và để cho Bách Hội và tất cả các huyệt đạo trên đầu như chìm đắm đi, quên hết mọi thứ và ngay sau đó lại tiếp tục Chu Kỳ kế tiếp. Trung bình mỗi buổi tập khoảng 24 chu kỳ. d. Luyện Nội Lực Luyện Tinh - Khí -Thần chính là những phương pháp luyện Nội Lực cơ bản, vì chính chúng là những chất liệu để gia tăng nội lực. Nhưng sau đây có ba phương pháp mà nếu tập luyện đúng cách thì Nội Lực sẽ gia tăngnhanh chóng: Ðó là tập luyện 3 vòng xoay trên cơ thể. Vòng xoay thứ nhất là Xoay Cổ. Vòng xoay thứ hai là Xoay Hai Vai. Vòng xoay thứ ba là Xoay Vòng Cột Sống Vùng Thắt Lưng. Phương pháp Ðứng trung bình tấn, tập trung hết Tâm Y¨ vào nơi tập luyện. Nạp Khí đầy bụng dưới - nín thở (Bế Khí). Quay cổ: cắn chặt hai hàm răng, vận tối đa gân, xương cơ Cổ lên một trương lực thật cao. Từ từ quay cổ sát theo thân người (đầu lúc nào cũng sát xuống xương vai- lưng - ngực), quay nhanh dần, nhanh dần, sau đó quay ngược lại quay cho đến khi nào hơi thể hết, cần phải thở ra thì ngưng. Thở sâu 3 hơi, để lấy sức và tiếp tục quay vòng thứ hai. Trung bình nam 7, nữ 9. Quay vai: cắn chặt hai hàm răng, nắm chặt hai tay, vận hết xương, gân ở hai vai và hai tay quay vòng tay theo hai vai từ phía sau ra phía trước, mỗi lúc một nhanh dần, sau đó quay ngược lại, cũng nhanh dần. Khi hơi thở đã hết thì ngưng lại. Tạm ngưng, thở sâu ba hơi để lấy lại sức và tiếp tục quay vòng thứ hai. Trung bình Nam 7, Nữ 9. Xoay Cột Sống (đây là vòng xoay quan trọng nhất và cũng khó nhất): cắn chặt hai hàm răng, căng cứng phần bụng dưới, hai tay nắm thật chặt, dang rộng ra hai bên, cúi gục người xuống, xoay quanh vòng bụng, quanh thắt lưng, từ phải sang trái, thân người phải bẻ gập sang các phía, lúc ngửa thì lưng song song với mặt đất. Lúc nghiêng thì sườn phải gập hẳn sang một bên, quay nhanh dần, nhanh dần, sau đó quay ngược lại, cũng nhanh dần. Khi hơi thở đã hết thì ngưng lại. Tạm ngưng, thở sâu ba hơi để lấy lại sức, tiếp tục quay vòng thứ hai. Trung bình: Nam 7, Nữ 9.Ðây là ba vòng quay quan trọng, trong lúc quay phải vận hết Khí lực trong người, tập trung Tâm Y¨ cao độ, nên việc luyện tập khá vất vả, nhưng nhờ đó mà Nội Lực sẽ được phát triển sung mãn, nhanh chóng. Những bài tập Khí Công còn nhiều. Ngoài Ðộng Công còn có Tĩnh Công. Trong chương trình đã được phổ biến (giới hạn) còn có bài Khí Công Quyền, thuộc loại "động công", vừa ứng dụng để luyện Khí, vừa ứng dụng trong kỹ thuật chiến đấu. Một chương trình khác là "Nhị Thập Bát Tú," bao gồm 28 tư thế Ðộng Công, luyện tập để dưỡng sinh và tự chữa bệnh cho mình và cho người khác. Lưu ý: người ta nói "Tập Khí Công rất dễ, ai cũng có thể tập được, chỉ không có duyên với nó mà thôi, nhưng muốn giỏi về Khí Công thì lại rất khó," theo tôi phần đông không chịu tập đều đặn, hoặc Tâm - Y¨ bị phân tán vì công việc (cứ lo ra vớ vẩn), không thể tập trung được, hoặc đời sống hàng ngày buông thả quá, nào hút thuốc, chơi khuya, ăn uống tự do quá độ v.v Tuy nhiên nếu không thể nào theo đúng đươp pháp độ, thì cứ chịu khó tập thở đúng (theo bài 2) thì cùng giúp cho các bạn được rất nhiều trong
  17. khoa dưỡng sinh, bảo vệ sức khỏe, đó là cũng là một trong những mục tiêu của Môn phái ta. 2.THU CÔNG Sau khi đã Nhập Tĩnh để tập luyện, sau giai đoạn kết thúc buổi tập, ta phải Thu Công để trở lại trạng thái bình thường. Trước khi Thu Công, phải có ý niệm chuẩn bị Thu Công. Bước đầu tiên là Xả: phải buông lỏng các khớp toàn thân nhão hết ra, rời rạc ra, mắt mở nhìn ra xa. Từ từ hít vào bằng mũi, thở ra bằng miệng, nhưng chậm hơn, trung bình khoảng 20 lần, nhằm thải bớt khí CO2 tích tụ trong máu. Bước hai: dùng song chưởng đẩy nhè nhẹra như đẩy một cái hộp (thở ra), xong lại co vào cũng nhè nhẹ như thế (trong 20 lần). Bước ba: thoa hai bàn tay vào nhau cho thật nóng, rồi ấp vào hai mắt, tìm cảm giác có ánh sáng từ lòng bàn tay truyền vào mắt để tăng thị lực. Rồi dùng hai bàn tay vuốt mặt nhiều lần, rồi vuốt ngược lên đỉnh đầu cho đến khi thấy thoải mái. Bước bốn: duỗi hai chân ra, dùng hai tay thoa bóp và vuốt mắt trên, rồi mắt dưới, rồi tay này vuốt tay kia, theo chiều trong rồi chiều ngoài. Bước năm: dùng lưỡi xoay vòng trong vòng miệng nhiều lần, có nước bọt thì nuốt đi. Bước sáu: hít hơi đầy bụng, xong từ từ cúi gập mình xuống (hai chân duỗi thẳng) thở ra chậm, lúc nâng người lên thì hít hơi vào (làm khoảng từ 5-7 lần). Chấm dứt Thu Công ĐẠT MA TỔ SƯ THIỀN Vũ Đức, N.D. "Đạt Ma Tổ Sư Thiền" hay là Thiền Tông Trung Hoa là môn thiền do Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma khai sáng và chuyển hóa từ Thiền Tông Ấn Độ. Thiền Tông Ấn Độ hay còn gọi là Thiền Tam Muội, cách truyền dạy dựa vào kinh sách Phật. Phật Tổ Thích Ca là vị đầu tiên thực hiện và chỉ dạy phép Thiền Tam Muội, cũng như những pháp môn của các tông phái Phật giáo khác. Giai thoại "Niêm Hoa Vi Tiếu" trong lịch sử thiền học có giải thích: "Trong lúc thuyết pháp cho các đệ tử, Phật Tổ đưa cao lên một cành hoa sen (Niêm hoa). Hầu hết mọi người đều ngơ ngác, không hiểu việc gì. Ngài Ca Diếp là người duy nhất cảm nhận được thâm ý của Phật Tổ lúc bấy giờ. Lập tức đáp lại với Phật Tổbằng một nụ cười thông cảm (vi tiếu)" Thiền Tông Ấn Độ được Đức Phật Tổ tâm truyền cho ngài Ca Diếp từ đó, và ngài Ca Diếp được nhận truyền y bát, kế thừa nhiệm vụ Tổ sư đời thứ hai. Dần dần, các kế tổ được truyền thừa y bát đến vị tổ sư thứ hai mươi tám Bồ Đề Đạt Ma, cũng là vị tổ sư sau cùng của Thiền Tông Ấn Độ. NGUYÊN NHÂN PHÁT SINH Bồ Đề Đạt Ma là vị tổ sư Thiền Tông Ấn Độ đời thứ hai mươi tám lúc bấy giờ xã hội Ấn Độ đang bị ảnh hưởng lâu đời của Bà La Môn Giáo, và tín ngưỡing của dân Ấn, hầu hết thiên nhiều về siêu hình, thần bí học. Cho nên Ấn Độ lúc bấy giờ, rất thích hợp cho Phật giáo Duy Tông Thức, Chân Như Tông, Hoa Nghiêm Tông và Không luận Tông. Trái lại, con đường trực chỉ quy nguyên của Thiền Tông rất khó khăn phát triển tại quê nhà. Do dó, Thiền Tông cần phải tìm đến một môi trường thích nghi như Trung Hoa. Đúng theo lời di huấn của Tổ thứ hai mươi bảy, ngài Bát Nhã Đa La (Prajanatra) truyền lại cho Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma như sau: "Sáu mươi năm sau ngày ta viên tịch, đệ tử nên du hành sang Đông Độ Trung Hoa truyền đạo, vì môi trường hướng Đông rất thích hợp với Thiền Tông. Theo các học giả Đông Tây, Trung Hoa và các nước thuộc miền Đông Châu Á là đất dụng võ, rất thích hợp phát triển Thiền Tông, vì phần lớn người dân bản xứ từng thấm nhuần, và áp dụng tinh thần hòa hợp các tư tưởng Lão Trang trong cuộc sống hàng ngày. Đây là yếu tố thuận lợi giúp cho tâm hồn con người dễ trở nên điềm đạm, hào sảng, chân thành, bình thản, quân bình, mẫn tiệp, hài hòa, an nhiên tự tại, Những đức tính căn bản này rất cần thiết, là những viên gạch cốt tủy để xây dựng nền móng vững chắc cho Thiền Tông.Vào năm 520, đời vua Lương Võ Đế, những ngày đầu tiên mới đến Trung Hoa, Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma nhận thấy hầu hết những người học Phật chỉ hiểu theo danh số, hành theo sự tướng "Dĩ danh số vi giải, sự tướng vi hành" (Theo Thiền Sư Khuê Phong, tác giả sách Truyền Nguyên Chư Thuyên tập). Cũng như các tông phái Phật giáo tại đây đều có khuynh hướng về tranh luận siêu hình, pháp quan vô thường, phụng trì giới hạnh, Tất cả khuynh hướng này đều là lớp vỏ bên ngoài, những phương tiện để diễn tả chân lý, giống như ngón tay chỉ trăng của Phật. Do dó, với tư tưởng cách mạng, chặt bỏ ngón tay chỉ trăng, Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma chủ xướng một đường lối tu hành mới, đặt lại vấn đề "giác ngộ" cho người Trung Hoa. TÔN CHỈ VÀ YẾU LÝ Với chủ trương bất chấp phương tiện, kinh sách để đi thẳng vào tâm hồn con người, Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma đã sáng
  18. chế ra bốn tôn chỉ thiền như sau: Giáo Ngoại Biệt Truyền, Bất Lập Văn Tự Trực Chỉ Như Tâm Kiến Tánh Thành Phật Dịch nghĩa tạm là: Truyền Riêng Ngoài Giáo Chẳng Lập Văn Tự Chỉ Thẳng Tâm Người Thấy Tánh Thành Phật Yếu lý của thiền làgì? Theo ngài chủ trương: "Thiền là con đường đi thẳng vào tâm hồn con người để đạt chân lý, chỉ thẳng vào bản chất thể tánh của con người để giải thoát. Thiền không thể nghiên cứu về mặt lý luận mà phải là những kinh nghiệm sống thực, từđó, để phát sinh ra những trực giác đi thẳng vào đời sống tâm linh của con người. Do đó, Thiền cũng có thể hiểu là một Đạo sống của con người. Mọi phương diện của cuộc sống đều nằm trong Đạo Sống. Thí dụ như: - Tinh thần và thái độ cư xử hợp nhân bản trong cuộc sống của chúng ta đối với con người và vật xung quanh là Đạo (Nhân đạo hay đạo làm người) – Viết văn, đọc sách, làm thơ, ca ngâm, chơi nhạc, vẽ tranh, để nâng cao tâm hồn văn hóa nghệ tuật, và giáo dục đời sống con người là Đạo (Văn Đạo như người xưa có câu: Văn dĩ tải đạo) – Luyện tập võ thuật, thể dục và chơi thể thao là Đạo (Võ đạo). – Nghệ thuật uống trà có Trà đạo. – Thửng thức cảnh vật thiên nhiên, làm vườn, cắm hoa, trang trí sạch sẽ nhà ở, nấu thức ăn, và cách dùng y phục tất cả thích hợp với htời tiết và sức khỏe cá nhân, đều là Đạo (Đạo dưỡng sinh) – Tập trung tinh thần và thưởng thức niềm vui thú trong các công việc làm hàng ngày, tại nhà hoặc nơi làm việc cũng là Đạo. Sau cùng, yên lặng cũng là Đạo. Danh từ Thiền là một tiếng giản dị, nhưng ý nghĩa cao cả của nó lại vượt lên trên tất cả hiểu biết ngoại tâm, sắc tướng của con người. Chân lý thiền không phải là đối tượng có thể mang ra để thảo luận suông, xuyên qua sự thông hiểu của hàng trăm kinh sách. Một người dốt nát không hiểu biết chữ nghĩa cũng có thể đạt được chân lý thiền. Nếu tâm của người đó tự nhận biết được bản tính thực chất của mình." Hiện nay những sử sách ghi chép lại những lời thuyết giảng của Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma gồm có: Thiếu Thất Lục Môn, các bài thuyết pháp, các bài kệ phú pháp, "Thiếu Thất Lục Môn" còn gọi là "Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất" là sách ghi chép lại sáu môn đi vào đạo pháp Đạt Ma Tổ sư Thiền Tông như:Tâm Kinh Tụng (Bộ Kinh Bát Nhã Ba-La- Mật) Phá Tướng Luận (Luận Về Pháp Phá Tướng) Nhị Chũng Nhập (Hai Nẽo Đường Đi Vào Đạo Pháp) An Tâm Pháp Môn (Phép An Tâm) Ngộ Tánh Luận (Phép Thấy Tánh Thành Phật) Đạt Ma Huyết Mạch Luận (Phép Luận Chính Yếu Của Đạo Phật) Sau đây là bài kệ phú pháp của Đạt Ma đọc trong lúc truyền y bát cho ngài Nhị Tổ Huệ Khả (tức Thần Quang) "- Ngôn Bản Lai Tư Thổ - Thọ Pháp, Cứu Mê Tình - Nhất Hoa Khai Ngũ Diệp - Kết Quảtự Nhiên Thành" dịch nghĩa tạm là: "- Ta Vốn Qua Trung Thổ - Trao Pháp, Cứu Mê Tình - Một Hoa Năm Cánh Trổ - Trái Kết Tự Nhiên Thành" Theo sách "Truyền Đăng lục" (do Đạo Nguyên soạn 1101, đầu đời Tống), bài thuyết giảng đầu tiên cho triều đình Lương Võ Đế chính là phần cơ bản của Đạt Ma Huyết Mạch Luận. Ngài đã đặt lại các quan điểm: An tâm, Kiến tánh, Pháp thân, Phá tướng, và các nguyên lý Thiền đạo. Ngài rất thất vọng vì triều đình Lương Võ Đế, đại diện cho một lớp người tầm thường về mặt tư tưởng: nệ cổ, thành kiến bởi những phong tục tập quán, bảo thủ với những phước đức cầu danh nhỏ hẹp, không đủ căn cơ lĩnh hội những tư tưởng mới lạ, cao thâm của ngài như sau: "Cả thế giới được nghĩ trong Tâm. Tất cả các chư Phật từ quá khứ hiện tại đến tương lại, đều được tạo thành ngay ở trong Tâm.Sự hiểu biết cũng được truyền bá từ Tâm sang Tâm nhờ vào lời nói. Tâm của mọi người đều đồng điệu, tương ứng trong thực tại muôn đời, với thực tế muôn đời. Tâm là Phật. Ngoài tâm không có Phật. Sự giác ngộ nào ngoài Tâm linh động, ngoài thực tại của Tâm. Tất cả đều là huyển tượng. Duy chỉ có tư tưởng của Tâm và sự an nghĩ của Tâm mới chính là Niết Bàn thực sự. Cho nên, mình phải tự lắng nghe và tự nhìn thất Phật tánh ngay trong chính mình. Mọi người là một vị Phật trong chính mình. Do đó, mình chẳng cứu ai cả, cũng như không có ai có thể cứu được mình. Mình không phải van xin, nguyện cầu bất cứ ai, vì không có vị Phật nào hiểu mình hơn chính mình tự hiểu. Vì vậy, mình không phải học hỏi những sự hiểu biết trong các kinh sách của bất cứ ai Thân xác là phù du, trong cuộc đời trôi nhanh với thời gian ngắn ngủi nầy. Vậy ta tự giải thoát, bằng cách tự khám phá lại hình bóng của mình Tâm ơi! Hỡi Tâm! Mi lớn đến nỗi bao trùm cả vũ trụ, mi nhỏ đến nỗi mũi kim không xuyên qua lọt. Hỡi Tâm của ta ơi! Mi là Phật, và chính vì mi mà ta phải lao đao qua Trung quốc để giảng truyền đạo lý " SỰ KẾ THỪA BỒ ĐỀ ĐẠT MA Đạt Ma Tổ sư Thiền hay là Thiền Tông Trung Hoa được chuyển hóa từ Thiền Tông Ấn Độ, do ngài Bồ Đề Đạt Ma khai sáng, trong chín năm "Diện Bích Tham
  19. Thiền" tại chùa Thiếu Lâm Tự (núi Tung Sơn). Sau đó, đúng theo lời tiên tri của Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma, trong bài kệ phú pháp truyền lại cho Nhị Tổ Huệ Khả là "- Nhất Hoa Khai Ngũ Diệp, Kết quả tự nhiên thành". Thiền Tông Trung Hoa đã được kế thừa bởi năm vị tổ như sau: Nhị Tổ Huệ Khả (486-593)Tam Tổ Tăng Xán (606) Tứ Tổ Đạo Tín (580-651) Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (601-674) Lục tổ Huệ Năng (638-713) Trong khoảng hai trăm năm, sáu vị tổ sư đã gia công hưng thịnh Thiền Tông Trung hoa. Từ đó, Thiền Tông được bành trướng sâu rộng vào các nước thuộc miền Đông Châu Á, điển hình như các nước Nhật, Đại Hàn, Việt Nam, Đài Loan, HongKong, Trong thời kỳ sơ khởi này cách truyền dạy Thiền qua những lời truyền khẩu (không có chữ viết), những lời dạy giản dị, dể hiểu và thực tiễn. Việc tu tập chủ yếu vẫn theo lối Ấn Độ. Đó là kỹ thuật "Quán Tâm trong Tĩnh Lặng" hay nói theo danh từ nhà Thiền là Mặc Chiếu. Vào khoảng đầu thế kỷ thứ tám, Lục tổ Huệ Năng có một số đệ tử xuất sắc torng đó co hai người là Hoài Nhượng (? – 788) và Hành Tư (? – 775) có ảnh hưởng rất mạnh mẻ. Mỗi vị lại có một đệ tử xuất sắc là Mã Tổ (? – 788) và Thạch Đầu (700-790), hai vị này lại có một số đệ tử phi thường, trực tiếp hoặc gián tiếp đã sáng lập ra năm phái Thiền chính, vào thời đó như: Phái Lâm Tế, phái Tào Động, phái Qui Ngưỡng, phái Vân Môn và phái Pháp Nhãn. Theo thời gian ba phái Qui Ngưỡng, Vân Môn và Pháp Nhãn không còn tồn tại, đều bị đồng hóa vào hai phái Lâm Tế hoặc Tào Động. Do đó, hai phái Thiền độc nhất là Lâm Tế và Tào Động vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Trãi qua nhiều thế hệ, hai phái này thường hay đối địch với nhau. Tào Động vẫn giữ việc tu tập "Mặc Chiếu" theo truyền thống Ấn Độ, còn Lâm Tế theo kiểu Trung HOa và Nhật là tham khảo Công Án (Thoại Đầu), cách tập này rất là rắc rối, khó hiểu. Gs. Vũ Đức, N.D. TRUNG HOA VÕ SỬ Giáo Sư Vũ Đức, N.D. THỜI THƯỢNG CỔ: (trước thời nhà tần, 221. b.c. trước thiên chúa) Theo truyền thuyết thần thoại Trung Hoa, vào thời thái cổ hỗn mang, ông Bàn Cổ được sinh ra bởi khí thiêng vũ trụ. Sau đó khoảng hơn mười tám ngàn năm, trời đất mới bắt đầu khai lập theo định luật thiên nhiên. Dần dần, vạn vật và loài người xuất hiện trên quả đất. Trong giai đọan này, các nhà chép sử gọi là thời đại Tam Hoàng, khoảng tám mươi mốt ngàn năm. Theo sử ký của Tư Mã Thiên năm 145 80 BC trước Thiên Chúa), Tam Hoàng gồm có Thiên Hoàng, Địa Hoàng và Nhân Hoàng. Theo sách Thượng Thư Đại Truyện, vua Toại Nhân dạy người biết dùng lửa (tức là thời đại phát minh lửa) Vua Phục Hy dạy người biết cách đánh cá, săn bắn thú rừng (tức là thời đại du mục). Vua Thần Nông dạy người biết làm ruộng vườn, giao dịch họp chợ (tức là thời đại canh nông). Tiếp theo Tam Hoàng, truyền xuống thời đại Ngũ Đế (khoảng hơn 474 năm). Ngũ Đế cũng có nhiều thuyết khác nhau. Theo sách sử, thời đại Ngũ Đế gồm có các vua: Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn. Thực ra, năm tên của Ngũ Đế không phải là tên vua, chính là tên của các bộ tộc thời xưa. Sau đó, Đế Thuấn nhường ngôi lại cho vua Vũ, thuộc bộ tộc Hạ, để lập nên triều đại nhà Hạ, bắt đầu cho chế độ quân chủ thế tập, cha truyền con nối ngôi vua. Nhà Hạ truyền ngôi được 422 năm, gồm những đời vua như: Vũ, Khải, Thái Khang,, sau cùng là Nhà Hạ bị diệt vong, bởi sự nổi lên của vua Thang, nguyên là tù trưởng của bộ tộcThương, vua Thang thâu gồm nhiều bộ tộc khác nhau, để dựng nên triều đại nhà Thương, bắt đầu đóng đô tại vùng đất Hà Nam, thuộc tỉnh Sơn Tây ngày nay. Mãi đến đời thứ tám nhà Thương, vua Bàn Canh dời đô sang đất thuộc bộ tộc Ân, cho nên nhà Thương còn được gọi là nhà Ân từ đó. Triều đại nhà Thương (hoặc Ân) truyền ngôi được 661 năm. Tại Trung Hoa, các món binh khí bằng đá như: dao đá, búa đá, tên đá,cuốc đá, mác đá, chày đá,, đã đào được ở các vùg đất thuộc làng Ngưỡng Thiều, huyện Thăng Trì, tỉnh Hồ Nam. Theo các nhà khảo cổ, những di tích binh khí bằng đá nầy đã xuất hiện cách nay khoảng 5,000 nam. Điều này chứng tỏ rằng võ thuật Trung Hoa đã khai sinh vào thời Thượng Cổ. Theo truyền thuyết Trung Hoa, vua Hoàng Đế (năm 2697. B.C. trước Thiên Chúa) là thủy tổ của Hán tộc, từ miền Bắc, dùng kỹ thuật (Giốc-Để) đấu vật cổ truyền Trung Hoa, đã chiến thắng tù trưởng Xi-Vưu (Chi-You) của Miêu tộc, và chiếm lấy miền đất lưu vực sông Hoàng Hà, vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ ba trước Thiên Chúa. Cũng như, dựa vào những hình khắc vẽ trên các di tích bằng xương, các nhà khảo cổ cho rằng phương thuật (Giốc-Để) đấu vật cổ truyền vẫn còn được áp dụng trong các đời vua nhà Thương (năm 1783 1134.B.C.trước Thiên Chúa). Hơn nữa, các kỹ thuật (Giốc-Để) đấu vật
  20. cổ truyền này còn được thể hiện trong các vũ điệu dân tộc cổ truyền, qua hình ảnh hai vũ công, đầu mang sừng, giống như hai con bò đang lừa thế ôm vật, với đội cặp sừng đánh hút vào nhau. Đến đời vua nhà Ân (hay Thương), bộ tộc Ân thường đánh nhau với các bộ tộc khác, cho nên, việc chế tạo những vũ khí bằng đồng rất là phát đạt như: cung, tên, giáo,dao, búa, thương,. Bằng chất đồng. Theo bốc từ ở Ân Khư, trong cuộc chiến tranh với các bộ tộc Thổ Phương và Lữ Phương, người Ân có khi giết chết hơn 2600 người, kẻ địch bị bắt về làm nô lệ. Theo sách sử, nhà Thuong (Ân) truyền ngôi được 661 năm, đến đời vua Trụ, vì tham tàn vô đạo, bị diệt vong, về tay người con của Văn Vuong là Vũ Vương. Văn Vương là hậu duệ thuộc dòng dõi tù trưởng (tên Khí) ở đất Thai, vào đời vua Nghiêu và Thuấn, từ phương Bắc di cư đến chân núi Kỳ Sơn, thuộc tỉnh Thiểm Tây ngày nay. Vào năm 1134 B.C trước Thiên Chúa, vũ Vương lên ngôi vua, đóng đô ở đất Cảo Kinh, lập nên triều đại nhà Tây Chu, bắt đầu chế độ phong kiến. Đến năm 770 B.C. trước Thiên Chúa, vua Bình Dương đời đô về Lạc Dương, bắt đầu cho nhà Đông Chu. Nhà Chu truyền ngôi được 885 năm (từ 1134 249 B.C. trước Thiên Chúa). Theo sử liệu, thời đại nhà Chu là giai đoạn bắt đầu của thời đại kim khí, và các tư tưởng triết học Trung Hoa. Thuật bắn cung và dùng chiến mã xa cũng được phát sinh, với sự hưởng ứng mãnh liệt của giới thượng lưu trí thức. Thuật bắn cung, lúc bấy giờ đã được xem trọng, như là một phần nghi lễ văn hóa, tập quán xã hội, một nghệ thuật cần thiết, trong chương trình giáo dục học đường cho các học sinh ở lớp tuổi từ 15 đến 20. Theo sử ký của Tư Mã Thiên, vào thời Xuân Thu và Chiến Quốc (722- 221 B.C. trước Thiên Chúa), người Trung Hoa đã biết dùng sắt, để thay thế chất đồng, trong việc chế tạo binh khí. Vào thời kỳ này là lúc nhà Đông Chu bắt đầu suy tàn, tiến dần đến diệt vong. Những lãnh chúa ở các địa phương nổi lên chiếm đất, hùng cứ lập nên những vượng quốc tự trị. Xã hội Trung Hoa, lúc bấy giờ, gặp phải nhiều nỗi bất công, trộm cướp,loạn lạc khắp nơi. Những vị anh hùng, hiệp sĩ, giỏi võ hảo tâm, tự nguyện đứng lên thế thiên hành đạo, trừ gian diệt bạo, để giúp đỡ bênh vực dân lành, sức yếu thế cô. Vào thời Xuân Thu (772 481 B.C. trước Thiên Chúa), Trung Hoa có hơn 160 nước lớn nhỏ, dưới quyền thống trị của nhà Chu. Sang đến thời Chiến Quốc (từ 481- 221 BC trước Thiên Chúa) trải qua nhiều cảnh chiến tranh, các nước lớn mạnh lần lần thôn tính các nước nhỏ yếu, co nên, nhiều nước bị cảnh diệt vong, chỉ còn lại 7 nước lớn mạnh, tranh hùng với nhau, tạo nên một cuộc chiến quốc sử lâu dài giữa các nước như: Sở, Hàn, Ngụy, Triệu, Yên, Tề, và Tần. Trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc, thuật đánh kiếm đã được phổ biến rộng rãi, khắp cả hai miền Nam và Bắc Trung Hoa. Điều ấy đã được minh chứng trong sách "Ngô Việt Xuân Thu" THỜI TRUNG CỔ: (Từ 221 trước TC đến 684 sau TC ) Vào năm 249 B.C. trước Thiên Chúa, nhà Chu mất ngôi về tay Tần Thủy Hoàng. Vì biết cách áp dụng chính sách phú quốc cường binh, Tần Thủy Hoàng đã diệt được 5 nước: Sở, Hàn, Ngụy, Triệu và Yên. Sau đó, vào năm 221 B.C. trước Thiên Chúa, Tần Thủy Hoàng tận diệt luôn nước Tề, thống nhất đất Trung Hoa, và lập nên nhà Tần, với một chế độ quân chủ chuyên chế, tại kinh đô Hàm Dương. Để chống giữ giặc Hung nô từ phương Bắc, Tần Thủy Hoàng cho thực hiện "Vạn Lý Trường Thành", dài hơn 1400 dặm, dọc theo biên giới, vùng núi rừng thung lũng, từ Lâm Thao, tỉnh Cam Túc đến tận Sơn Hải Quan. Công trình xây cất này đã gây nên biết bao tốn kém công quỹ , và xương máu, khổ cực từ phía dân chúng.Hơn nữa, vì muốn thống nhất tư tưởng ngôn luận, nhà Tần ra lệnh đốt bỏ tất cả sách vở, và bắt chôn sống hơn 460 học trò. Về phương Nam, nhà Tần đem quân chinh phụcc xứ Bách Việt, và di dân hơn 50 vạn để khai hoang lập ấp. Vào thời nhà Tần, môn kiếm thuật vẫn còn thịnh hành, và được minh chứng qua truyện "Kinh Kha Hành Thích Vua Tần" trong sử ký có ghi nhận: "Kha bàn về kiếm thuật trái ý với Nhiếp Cái. Về sau, Kha đâm không trúng Tần Thủy Hoàng, Lỗ Câu Tiễn có nói rằng:-Tiếc thay Kha không tinh luyện môn kiếm thuật." Đến đời Nhị Thế Hoàng (năm 209 B.C. 206 B.C. trước Thiên Chúa)vì chính sách quá khắc nghiệt của nhà Tần, dân chúng khắp nơi nổi lên chống lại chính quyền, nhưng đều bị quân Tần đánh dẹp, duy chỉ còn lại binh của Lưu Bang ở đất Bái, và Hạng Võ ở đất Ngô, có đủ sức chống cự với quân Tần. Sau cùng, binh của Lưu Bang chiếm được thành đô Hàm Dương, tiêu diệt nhà Tần. Tiếp theo, Lưu bang đánh dẹp được Hạng Võ. Vào năm 206 B.C. trước Thiên Chúa, Lưu bang lên ngôi vua, hiệu là Hán Cao Tổ, lập nên nhà Hán (Tây và Đông Hán), truyền ngôi được 425 năm. Theo Hán sử, vào triều nhà Hán, các môn Thủ Bác (võ
  21. đánh tay đá chân), Giốc-Để (đấu vật cổ truyền), Đạo Dẫn (nội công hô hấp) và Kiếm Thuật (kể cả các binh khí khác), đều được vua Hán nâng lên hàng quốc sách, được đặt năng trong chương trình huấn luyện binh sĩ. Nhà vua chỉ thị mở các kỳ thi võ dũng, tuyển chọn những người giỏi võ để bổ sung vào tướng lãnh. Cũng như, trong Hán Thư ở mục "Nghệ Văn Chí" có đề cập đến "Binh Kỹ Xảo", gồm có 13 thiên, ở thiên thứ 6 có ghi nhận về môn thủ Thủ Bác (võ đánh tay đá chân) được xếp vào "Binh Kỹ Xảo" để áp dụng trongviệc huấn luyện cho binh sĩ. Ở mục "Vũ Đế Ký" có ghi chép: " Vào mùa Xuân năm Nguyên Phong thứ ba (năm 113 B.C trước Thiên Chúa), nhà vua chỉ thị tổ chức hội thi đấu Giốc Để (đấu vật cổ truyền) " cũng như ở mục "Phương Kỷ Lược" có chép: " Hoàng Đế có thuật Tạp Tử Bộ Dẫn, gồm có mười hai quyển, trong đó đề cập đến phương pháp đạo dẫn". Ngoài ra, trong sách "Dưỡng Tín Mệnh Lục" có các chương "Phục Khí Liệu Bệnh Đạo Dãn Án Ma" trình bày về các phương pháp tập luyện hô hấp khí công và nội công tâm pháp. Do đó, môn Đạo Dẫn (Nội Công Tâm Pháp) đã có từ xưa, các quyền thuật gia đã áp dụng môn này để hổ trợ cho võ thuật, tăng phần sức mạnh thân tâm. Vào đời Hán Hoàn Đế và Linh Đế (năm 147 A.C, sau Thiên Chúa) quan Hổ Bôn là Vương Việt rất giỏi về kiếm thuật và nổi tiếng ở kinh sử. Cũng như môn đồ của ông là Sử A, người gốc Hà Nam được sự chân truyền kiếm thuật của ông. Đến cuối đời Hàn, môn kiếm thuật vẫn còn thịnh hành. Theo sách "Điển Luận" của Tào Phi có chép "Kiếm pháp ở bốn phương đều khác nhau, duy chỉ kiếm pháp ở kinh sư là hay nhất". Vào thời Tam Quốc (năm 220 A.C sau Thiên Chúa), y sư Hoa Đà sáng chế phương pháp thể dục dưỡng sinh "Ngũ Cầm Hí" dựa trên các động tác và tính chất của năm loài thú rừng như Cọp, Gấu, Nai, Khỉ, Chim. Cũng như môn kiếm thuật vẫn được phổ biến rộng rãi, và được xem là môn chính yếu căn bản phát sinh ra các môn binh khí khác như thương, côn, chỉa ba, câu liêm, yển nguyệt đao, đơn đao, kích, Lúc bấy giờ các danh tướng giỏi về các môn binh khí như Lữ Bố giỏi về môn đánh kích, Tào Phi lúc tuổi trẻ giỏi về môn đánh song kích, cũngnhư Đặng Triển, quan Phân Úy Tướng Quân nhà Ngụy rất giỏi về kiếm thuật với tay không, Đặng Triển có khả năng đoạt được đao, kiếm, kích Theo Tấn Sử (265 A.D. sau Thiên Chúa), Trần A là người giỏi về trường mâu và đại đao. Bỉnh Tiên giỏi về lối dùng mâu. Sang thời Nam Bắc Triều (năm 420 589 A.D sau Thiên Chúa) vào năm 520 đến 529 Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa từ Ấn Độ đã khai sáng Thiền Tông và võ thuật Thiếu Lâm Tự tại Tung Sơn tỉnh Hồ Nam. Võ thuật Thiếu Lâm Tự được người Trung Hoa xem là một tổ phái ngoại gia quyền, danh trấn giang hồ. Về sau, các đệ tử Thiếu Lâm đã sáng lập ra nhiều chi phái Thiếu Lâm như Thiếu Lâm Bắc Phái Sơn Đông và các danh gia Nam Phái như Hồng Gia, Lý Gia, Lưu Gia, Thái Gia, và Mặc Gia. Vào đời vua Lương nguyên Đế (552 A.D sau Thiên Chúa) Trình Linh Tiển tự Nguyên Điều người phủ Vi Châu tỉnh Giang Nam sáng chế môn Thái Cực Quyền, truyền xuống cho Trình Cũng Nguyệt, rồi đến Trình Tất, môn Thái Cực Quyền được đổi tên thành "Tiểu Cửu Thiên" gồm có mười bốn thế và hai ca quyết "Dụng Công Ngũ Chi" và "Tứ Tính Qui Nguyên". Sau nhà Tùy (589 618 A. D) đến nhà Đường hưng khởi (618 907) tinh thần võ sỉ đạo Trung Hoa lên cao độ, do bởi chiến công của mười ba vị thiền sư Thiếu Lâm Tự, giúp vua Đường Thái Tông (627 650) dẹp giặc Vương Thế Sung. Từ đó, võ phái Thiếu Lâm Tự vang danh khắp cả Trung Hoa. Theo Trình Xung Đẩu trong "Thiếu Lâm Côn Pháp Xiểng Tông": " Lúc đó các nhà sư có công gồm có mười ba người, chỉ có Đàm Tông được vua phong cho làm Đại Tướng Quân, còn mười hai vị không muốn làm quan, nên được vua ban cho bốn chục khoảnh đất đai".3. Thời Cận Cổ: (684 A.C. sau T.C. đến 1,277 A.C. sau T.C.) Vào thời Vũ Tắc Thiên Hoàng Đế (684 705 A.C. sau T.C.), các kỳ thi võ dũng được mở rộng thường xuyên để tuyển chọn nhân tài giỏi võ, bổ nhiệm vào chức võ quan. Theo Đường thư, vào đời nhà Đường, có Hám Lăng giỏi về Lưỡng Nhân Đao (Dao hai lưỡi), nếu dao dài khoảng một trượng được gọi là Thách Đao. Cũng như, Uất Trì Kính Đức giỏi dùng Giáo (hay còn gọi Sóc), và với tay không ông ta có thể cướp được Giáo (Sóc) của đối thủ. Theo sách "Thái Cực Quyền Thế Độ Giải" của Hứa Vũ Sinh, vào đời Đường, Hứa Tuyên Bình có trueỳn dạy môn Thái Cực Quyền, còn gọi là "Tam Thất Thế", vì nổi tiếng chỉ có 37 thế, liên tục với nhau, tiếp diên không dứt. Do đó, cũng được gọi là "Trường Quyền". Yếu quyết gồm có "Bát Tự Ca", "Tâm Hội Luận", "Chu Nhân Đại Dụng Luận", "Thập Lục Quan yếu Luận", và "Công Dụng Ca". Về sau, môn này được truyền lại cho Tống Viễn Kiều. Ngoài ra, họ Du
  22. cũng có truyền dạy môn Thái Cực Quyền, cũng được gọi là "Tiên Thiên Quyền", hay là "Trường Quyền". Họ Du học được từ Lý Đảo Tử, ở núi Võ Đang, thời nhà Đường. Theo Ngũ Đại Sử, vào thời Ngũ Đại (907 955 sat T.C.), Vương Ngạn Chương là người giỏi về Thiết Thương. Cũng như, vua Đường Trang Tông (923 sau T.C.) rất thích môn Giốc Để (đấu vật), thường đấu thắng Vương Đô, nên thường tự kiêu. Về phép Đạo Dẫn hô hấp, theo sách Di Kiên Chí của Hồng Mại có ghi: Năm Chính Hòa thứ bảy (1111.) đời Huy Tông nhà Tống, Lý Tự Củ làm Khởi Củ Lang thường tập phép hô hấp gọi là "Trường Sinh An Lạc Pháp".Vào triều đại nhà Tống (950 A.C 1,275 A.C. sau T.C.), theo mục "Quyền Kinh" trong sách Kỷ Hiệu Tân Thư của Thích Kế Quang, Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn có sáng chế 32 thế Trường Quyền, gọi là Thái Tổ Môn, và các bộ quyền khác như: Lục Bộ Quyền, Hầu Quyền, Hoa Quyền. Những môn quyền này tuy có tên khác nhau, nhưng nói chung, đều có những điểm đại đồng và tiểu dị. Ngoài ra, theo trueỳn thuyết, người đời còn cho rằng môn Hồng Quyền là do Tống Thái Tổ sáng chế(???) Vào đời Tống, danh tướng Dương Nghiệp rất giỏi về Thương Pháp, và dòng họ Dương đã nổi tiếng về "Lể Hoa Thương:. Theo sách "Kỷ Hiệu Tân Thư" của Thích Kế Quang, Thương Pháp của nhà họ Dương có thính chất biến hóa, rất huyền diệu. Cho nên, người đời sau không thể hiểu được ý nghĩa sâu rộng của nó. Hoặc có người biết đến, nhưng vẫn giữ kín không truyền dạy ra, hoặc có thể có ý dạy sai lệch với chân truyền. Vì vậy, Thương pháp của nhà họ Dương không được phổ thông bằng Thương Pháp của hai nhà họ Mã và Sa. Thương Pháp của hai nhà họ Mã và Sa đều có chỗ hay, nhưng cách dùng đánh xa hay gần đều có nhiều điểm khác nhau. Về Thương Pháp của nhà họ Dương, với tay cầm đốc thương và đưa thương ra rất dài, vừa có hư có thực, vừa có lỳ có chính, vừa có hư hư thực thực, vừa có kỳ kỳ chính chính. Lúc tiến lên dũng mạnh, lúc lui về nhanh nhẹn. Thế thương diêu động rất độc hiểm, lúc bất động vững chắc như núi Thái Sơn, lúc di động nhanh chóng như điện xẹt. Vì vậy, lúc bấy giờ, ngọn "Lê Hoa Thương" của họ Dương chưa có ai sánh kịp. Cũng như, theo sách "Trần Kỷ" của Hà Lương Thần nhận định: "Thương pháp của nhà họ Dươngdùng cả trường lẫn đoản, hư thực đều thích nghi, lúc tiến lên tinh nhuệkhông thể chống đỡ, lúc lui mau lẹ không nghỉ kịp. Thiên hạ gọi vô địch, chỉ có thế Hoa Thương pháp của nhà họ Dương mà thôi." Theo Tống sử, Lữ Động Tân, người ở Quan Tây, giỏi về kiếm thuật. Trương Uy giỏi dùng côn gỗ (gọi là Tử Đại Trùng), và côn tròn dài khoảng 6 thước. Theo truyền thuyết, Nhạc Phi (Vũ Mục), danh tướng nhà Tống đã sáng chế ra môn đô vật để dạy cho binh sĩ biết cách đáng cận chiến, với tay không và sức mạnh của toàn thân, áp dụng kỹ thuật quật ngã đối thủ té nhào xuống đất, cũng như với đôi tay chân không khóa bắt đối thủ. Môn đô vật được sáng chế từ sự phối hợp các kỹ thuật của môn Giốc Để cỏ truyền Trung Hoa và các nguyên tắc trong các môn: Câu, Nả, Tiêu, Khấu, 4. Thời Cận Đại: (1277 1644 sau T.C) Đến thời nhà Nguyên (1277 1368 sau T.C), theo Nguyên sử, Vương Anh là người giỏi về song đao, được gọi là Đao Vương. Đặng Bật giỏi về song kiếm. Theo sách Trần Kỷ của Hà Lương Thần, "Phép Phân Giáo" của Biên Trang Tử, "Phép Khởi Lạc" của Vương Tu, "Phép Cố Ứng" của Lưu Tiên Chủ, "Phép Thiển Điện" của Mã Minh Vương, "Phép Xuất Thủ" của mã Khôi. Đó là kiếm pháp của năm nhà đều có truyền lại đời sau. Năm 1351, Hàn Sơn Đông, người ở Loan Thành, thuộc Hà Bắc, cùng với cha là Hàn Thế, tự nhận là dòng dõi vua Huy Tông nhà Tống, với mục đíchkháng chiến chống nhà Nguyên, hai cha con họ hàn sáng lập Bạch Liên Giáo (Hoa Sen Trắng) và lợi dụng việc truyền bá võ thuật và Phật giáo để tạo thế lực, trong việc tuyển mộ tín đồ đệ tử, dần dần, Bạch Liên Giáo tạo được uy thế khắpnơi trên đất Trung Hoa. Sau khi hàn Sơn Đông tạ thế, các vị kế nghiệp lợi dụng tinh thần thấp kém, mê tín dị đoan của quần chúng, mà đi sai mục đích cách mạng, và lâm vào đường tà đạo, làm nhiều điều hỗn loạn, dâm bôn, có nhiều thành tích xấu xa, trong chốn giang hồ. Vào thời nhà Minh (1368 1644 sau TC), môn Bát Phiên Quyền của môn phái Bát Thiển Phiên được truyền dạy rộng rãi trong quần chúng. Về sau, vào đời Thanh, Trần Tử Chính rất nổi tiếng về môn quyền này, tại vùng Hà Bắc, cũng như ông đã truyền dạy môn Bát Phiên Quyền tại Tinh Võ Hội, Thượng Hải. Về môn Đô Vật, lúc bấy giờ, Trần Nguyên Bân là võ sư rất nổi tiếng, đã truyền dạy môn Đô vật cho một số người Nhật Bản (có lẽ, môn Nhu Thuật Nhật bản đã bị ảnh hưởng từ Đô vật Trung Hoa từ đời nhà Minh chăng????) Cũng như, Mã lương Thường đã có dịp phát triển môn Đô vật, khi làm quan Trấn Thủ Sứ ở đất Tế Nam. Ong đã đào tạo ta nhiều nhân tài đô