Tiểu luận Vai trò của Liên Xô trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Vai trò của Liên Xô trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tieu_luan_vai_tro_cua_lien_xo_trong_cuoc_khang_chien_chong_m.doc
Nội dung text: Tiểu luận Vai trò của Liên Xô trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA Tiểu luận Vai trò của Liên Xô trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam 1
- VAI TRÒ CỦA LIÊN XÔ TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM (1954-1975) Môn học: Lịch sử Quan hệ Đối ngoại Việt Nam Thực hiện: Nhóm 4-Quốc tế học.K53 2
- MỤC LỤC 1. Mở đầu. 2. Vai trò của Liên Xô trong giai đoạn 1954-cuối năm 1960. 3. Vai trò của Liên Xô trong giai đoạn cuối năm 1960-1965. 4. Vai trò của Liên Xô trong giai đoạn từ 1965-1/1973. 5. Vai trò của Liên Xô trong giai đoạn từ tháng 1/1973-4/1975. 6. Kết luận. * Tài liệu tham khảo Danh sách nhóm và đánh giá. 3
- 1.Mở đầu: Cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc Việt Nam đã kết thúc hơn 30 năm nhưng có rất nhiều vấn đề xung quanh giai đoạn lịch sử này mà ngày nay chúng ta vẫn cần phải bàn bạc và thảo luận. Một trong các vấn đề ấy là vai trò không thể phủ nhận của Liên Xô trong việc ủng hộ và giúp đỡ quân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước làm nên một kết thúc vẻ vang cho toàn dân tộc, đưa nước Việt Nam độc lập hoàn toàn, Bắc Nam xum họp một nhà. Theo đánh giá của một số học giả nước ngoài, nhìn chung, sự giúp đỡ của Liên Xô đối với Việt Nam trong giai đoạn này thể hiện trên một số khía cạnh chủ yếu sau đây. Thứ nhất, mặc dù giúp đỡ Việt Nam, Liên Xô vẫn không muốn “hy sinh” chiến lược hoà dịu của họ trong quan hệ với Hoa Kỳ. Thứ hai, Liên Xô sẵn sàng đáp ứng tất cả nhu cầu cần thiết của Việt Nam nhằm chống lại sự tấn công ngày một mở rộng và ác liệt của đế quốc Mỹ. Thứ ba, Liên Xô mong muốn thực hiện đàm phán để chấm dứt cuộc chiến hơn là ngày một dấn sâu vào cuộc chiến tranh đó. Nói một cách khác, với tư cách là thành trì của phe Xã hội Chủ nghĩa (XHCN) và một cực đối trọng với Mỹ, Liên Xô mong muốn thông qua cuộc chiến tranh này thực hiện những mục đích đối ngoại có tính toàn cầu, chiến lược của mình. Để hiểu rõ hơn vai trò của Liên Xô trong cuộc kháng chiến chống Mỹ từ năm 1954 (sau khi Hiệp định Geneve được ký kết, Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền) cho đến khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng năm 1975, vai trò ấy có thể được xem xét trong 4 giai đoạn chính: 1954- cuối năm 1960; cuối năm 1960-1964; 1964-1/1973; 1/1973-4/1975. 2.Vai trò của Liên Xô trong giai đoạn 1954-cuối năm 1960: 2.1.Hoàn cảnh lịch sử: Ngày 30/01/1950, chính phủ Liên Xô công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Từ đây, nhân dân Việt Nam nhận được sự giúp đỡ và ủng hộ to lớn của chính phủ và nhân dân Liên Xô. Trong giai đoạn 1954 từ khi hiệp định Geneve được ký kết, tình hình thế giới, tình hình Việt Nam có rất nhiều thay đổi. Trên thế giới, chiến tranh lạnh lan rộng và có chiều hướng căng thẳng trên toàn thế giới. Phong trào giải phóng dân tộc lên cao mạnh mẽ ở khu vực Mỹ - La Tinh ( 1960 được coi là “năm Châu Phi” khi có 17 quốc gia giành độc lập. Chủ nghĩa thực dân 4
- bị lên án, suy yếu, tinh thần đó thúc đẩy các nước liên kết lại.Ở Liên Xô và các nước Đông Âu, nền kinh tế đang được khôi phục. Các kế hoạch 5 năm được hoàn thành với tinh thần cao. Liên Xô sản xuất thành công bom nguyên tử, phá vỡ thế độc quyền của Mỹ. Ảnh hưởng và uy tín của các nước XHCN ngày càng lên cao. Ở Đông Dương, uy thế của Mỹ lớn mạnh, Pháp tỏ ra yếu kém, mâu thuẫn Mỹ-Pháp trở nên rõ rệt. Ở Việt Nam, sau hiệp đinh Geneve, Việt Nam bị chia cắt thành 2 miền Nam–Bắc, gặp nhiều khó khăn và tổn thất sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp qua đi. Miền Bắc tuy được độc lập nhưng phải khắc phục những hậu quả nặng nề của cuộc kháng chiến chống Pháp và phát triển kinh tế làm hậu phương cho miền Nam. Miền Nam tiếp tục công cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt trong giai đoạn này, các thế lực xâm lược đang lăm le vào xâm lược đất nước. Ngay khi Pháp thất thế, Mỹ đã lên nắm chính quyền Sai Gòn, con bài của Mỹ là Ngô Đình Diệm. Năm 1955 Diệm tuyên bố thành lập Việt Nam cộng hòa, viện trợ tới 80% cho chính quyền Sài Gòn, phá vỡ hiệp định Geneve và chính thức xâm lược Việt Nam. 2.2.Vai trò của Liên Xô: Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Liên Xô đã ủng hộ chủ trương và đường lối khôi phục, xây dựng miền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, quan hệ này lại không đậm đà bằng quan hệ với các nước khác. Ví dụ: ngày 3/2/1950, Liên Xô mới đặt quan hệ ngoại giao với Inđônêxia (sau Việt Nam 3 ngày), song tháng 1/1953 Liên Xô đã cử đại sứ đi Giacacta, trong khi đó mãi đến gần 2 năm sau tức là ngày 4/11/1954, Liên Xô mới cử Lavraschev-đại sứ đầu tiên của Liên Xô đến Hà Nội. Tổng bí thư Khrushev và Boulganin đã đi thăm Ấn Độ, Miến Điện và Apganistan vào tháng12/1955 và đã 2 lần đi thăm Trung Quốc (vào tháng 8/1958 và tháng 10/1959), song không hề đi thăm Việt Nam. Đoàn đại biểu Xô Viết tối cao Liên Xô do chủ tịch Vôrôsilốp dẫn đầu đi thăm Inđônêxia trước rồi mới đến Việt Nam (tháng 5/1957). Bộ trưởng quốc phòng Liên Xô cũng đã đi thăm Ấn Độ và Miến Điện (2/1957), song vẫn không đi thăm Việt Nam. Hội hữu nghị Việt Xô được thành lập từ tháng 3/1950, nhưng hội hữu nghị Xô Việt mãi đến ngày 31/7/1958 mới được thành lập. Về kinh tế, biểu hiện cụ thể là Liên Xô đã giúp Việt Nam thực hiện kế hoạch 3 năm khôi phục kinh tế 1955-1957 và kế hoạch 3 năm phát triển kinh tế và văn hoá 1958-1960. Theo Hiệp định ký ngày 18/7/1955, Liên Xô đã viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 40 triệu rúp để xây dựng và khôi phục 146 xí nghiệp công trình công nghiệp và cơ quan thuộc các ngành cơ khí, 5
- than, điện lực và công nghiệp nhẹ. Tháng 3/1959, Liên Xô cho Việt Nam vay 100 triệu rúp để thực hiện kế hoạch 3 năm phát triển kinh tế nói trên. Ngoài ra, Liên Xô còn giúp Việt Nam xây dựng 21 đài khí tượng thuỷ văn, 156 trạm thuỷ văn các cấp, cho Việt Nam vay 350 triệu rúp để mua trang thiết bị máy móc và xây dựng một số nông trường, trồng cây nhiệt đới theo hiệp định 14/6/1960. Trong thời gian từ 1955-1960, Liên Xô đã cử 1547 chuyên gia các ngành sang công tác tại Việt Nam và nhận 420 thực tập sinh và 1267 sinh viên Vịêt Nam sang học tập tại Liên Xô. Tuy nhiên, sự giúp đỡ của Liên Xô cho Việt Nam so với các nước không phải XHCN ở châu Á là khá khiêm tốn. Tuy nhiên, trong thái độ của Liên Xô đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ có một số biểu hiện sau đây: Thứ nhất, Liên Xô chủ trương giữ nguyên trạng ở miền Nam và chủ trương hoà bình để thi hành hiệp định Geneve. Liên Xô muốn Việt Nam phấn đấu giành thắng lợi trong xây dựng miền Bắc để động viên và thúc đẩy đấu tranh chính trị ở miền Nam, giải quyết vấn đề miền Nam bằng thương lượng, bằng con đường hoà bình. Do vậy, Liên Xô ít đề cập đến đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị ở miền Nam. Các phương tiện thông tin đại chúng của Liên Xô rất ít đưa tin về thắng lợi quân sự của nhân dân miền Nam và cũng không lên án thẳng chính quyền Mỹ trong các hoạt động ở miền Nam. Lý do Liên Xô có thái độ trên đây theo Đảng Lao động Việt Nam là sau khi Stalin mất, Khrushev lên thay đã đi vào con đường xét lại. Năm 1956, tại Đại hội lần thứ XX, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đưa ra đường lối “cùng tồn tại hoà bình”, “quá độ hoà bình”, “thi đua hoà bình” và chương trình đầy tham vọng “đuổi kịp và vượt Mỹ” về sản xuất sản phẩm tính theo đầu người trong thời gian ngắn nhất”. Vì mục tiêu và lợi ích của mình, Liên Xô chủ trương hoà hoãn với chủ nghĩa đế quốc nhất là đế quốc Mỹ, coi đó là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu, nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của Mỹ và Tây phương và giữ nguyên trạng của châu Âu để tạo ra những điều kiện quốc tế thuận lợi cho xây dựng CNXH ở Liên Xô. Liên Xô e ngại phong trào giải phóng dân tộc sẽ như “đốm lửa cháy rừng”, cản trở hoà hoãn, ảnh hưởng đến mục tiêu chiến lược của Liên Xô. Thứ hai, do trọng tâm chiến lược mới của Liên Xô là nhằm củng cố khối XHCN ở Đông Âu, mà biểu hiện rõ nhất là việc thành lập khối SEV năm 1949 và tổ chức Hiệp ước Varsava 1955, đòi các nước đế quốc giữ nguyên trạng châu Âu, thực hiện hoà hoãn Đông-Tây, đẩy lùi chiến tranh lạnh, nên Liên Xô tránh những đối đầu căng thẳng với Mỹ và các nước phương Tây. 6
- Có thể nói trong giai đoạn này Liên Xô có vai trò hết sức quan trọng trong việc giúp Miền Bắc phục hồi kinh tế. Những sự viện trợ của Liên Xô trong giai đoạn này là hết sức cần thiết và kịp thời cho Miền Bắc khi Miền Bắc vừa bị tổn thất nặng nề trong kháng chiến chống Mỹ. Nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô mà Miền Bắc đã đạt được một số thành tựu sau: Trong 3 năm khôi phục nền kinh tế, nền kinh tế của Miền Bắc được phục hồi, phát triển với sự hiện diện của nhiều thành phần kinh tế. Trên 10 vạn người thất nghiệp đã có việc làm, đời sống nhân dân được ổn định. Tuy nhiên, sự giúp đỡ của Liên Xô chủ yếu về mặt kinh tế và chủ yếu hỗ trợ Miền Bắc. Còn đối với Miền Nam, giai đoạn này chưa thể hiện rõ lắm vai trò của Liên Xô do Liên Xô chưa có những hành động cụ thể đối với Miền Nam do còn e ngại tình hình thế giới và ảnh hưởng của Liên Xô. Có thể nói vai trò của Liên Xô trong giai đoạn này như vị cứu tinh cho Miền Bắc khi Miền Bắc phải đối mặt với những khó khăn nặng nề. 3.Vai trò của Liên Xô trong giai đoạn cuối năm 1960-1965: 3.1.Hoàn cảnh lịch sử: Trong giai đoạn tiếp theo này tình hình thế giới, Liên Xô và Việt Nam có nhiều bước thay đổi. Trên thế giới, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ngày càng lên cao ở Châu Phi, Châu Á và Mỹ - La tinh. Tình hình chủ nghĩa thúc dân thì ngày càng lâm vào khó khăn và sụp đổ ở nhiều nơi. Hệ thống chủ nghĩa thực dân đang bị phá vỡ. Tại Liên Xô và Đông Âu, hình thức kinh tế tập trung và kế hoạch hóa đang phát huy các mặt tích cực của nó. Liên Xô tập trung mọi nguồn lực, bất chấp hậu quả sau này, cố đạt cho bằng được những chỉ tiêu kinh tế, chính trị được cho là ưu thế của hệ thống xã hội chủ nghĩa để tranh đua với Hoa Kỳ vai trò lãnh đạo thế giới. Việc phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên của loài người (Sputnik 1) và đưa người đầu tiên vào vũ trụ ( Yuri Gagarin) là biểu tượng của một siêu cường đang thắng thế. Liên Xô và Hoa Kỳ - hai kẻ thù tư tưởng-sẵn sàng đối chọi nhau ở mọi vấn đề quốc tế. Thập niên 1960 cũng là thời kỳ nở rộ của khối XHCN và đã xuất hiện mầm mống chia rẽ giữa hai cường quốc hàng đầu trong khối là Liên Xô và Trung Quốc về các vấn đề tư tưởng, đường lối cách mạng. Nhất là từ khi Liên Xô rút hết các cố vấn khỏi Trung Quốc sau năm 1960. 7
- Trong giai đoạn 1960–1964 là giai đoạn miền Bắc công khai hậu thuẫn Cộng sản miền Nam và bắt đầu đem quân thâm nhập miền Nam. Các lực lượng Cộng sản miền Nam thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam. Trong khi đó, Hoa Kỳ giúp Việt Nam Cộng hòa tiến hành chiến lược Chiến tranh đặc biệt. Tuy nhiên, quân Giải phóng vẫn thắng thế trên chiến trường, đánh những chiến dịch lớn sát các đô thị. Tổng thống Ngô Đình Diệm không kiểm soát nổi khủng hoảng chính trị và bị Hội đồng Quân nhân Cách mạng đảo chính. Việt Nam Cộng hòa sau đó đã rơi vào cuộc khủng hoảng lãnh đạo. Đây cũng là giai đoạn đường lối cách mạng Việt Nam có sự thay đổi. Trong thời gian này, Việt Nam chủ trương “tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh cách mạng XHCN ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe XHCN và bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.” 3.2.Vai trò của Liên Xô: Thái độ và sự giúp đỡ của Liên Xô được biểu hiện trên một số khía cạnh sau: Để giúp Việt Nam thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961- 1965), Liên Xô đã cho Việt Nam vay 430 triệu rúp theo hiệp định 23/12/1960 với những điều kiện ưu đãi. Liên Xô cũng cho Việt Nam vay 350 triệu rúp để phát triển các nông trường trồng cây nhiệt đới theo hiệp định 14/6/1960. Ngoài ra, Liên Xô còn viện trợ cho Việt Nam 20 triệu rúp để chống sốt rét trong những năm 1961-1965. Với sự giúp đỡ của Liên Xô, Việt Nam đã hoàn thành cải tạo và xây dựng 90 xí nghiệp và công trình các loại trong đó có 43 công trình công nghiệp, đáng kể là một số nhà máy điện có tổng công suất là 71.300 kw, các công trình khai khoáng như mỏ thiếc Tĩnh Túc, mỏ apatit Lào Cai, nhà máy cơ khí Hà Nội, nhà máy supe phốt phát Lâm Thao, nhà máy chè Phú Thọ, nhà máy cá hộp Hải Phòng, Trường Đại học Bách Khoa, Trường Đại học Nông Nghiệp I Hà Nội. Tuy nhiên, trong suốt giai đoạn này, Liên Xô không cử bất cứ đoàn cán bộ cao cấp nào sang thăm Việt Nam. Đoàn lớn nhất cũng chỉ do Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư trung ương Đảng Mukhidinop dẫn đầu sang dự Đại hội lần thứ III Đảng Lao động Việt Nam. Năm 1960, Hồ Chủ Tịch đã mời Khrushop sang thăm Việt Nam, nhưng Khrushop đã không sang, trong khi đó lại đi thăm Inđônêxia, Ấn Độ, Miến Điện và Apganixtan vào tháng 2 và 8
- 3/1960. Liên Xô chỉ cử đoàn quan sự cấp thấp do Đại tướng Patov, Phó Tổng tham mưu trưởng, dẫn đầu sang thăm Việt Nam, trong khi đó cả Bộ trưởng Quốc phòng, Tư lệnh Không quân lẫn Tư lệnh Hải quân đã lần lượt đi thăm Inđônêxia vào tháng 3/1963. Thái độ của Liên Xô đối với Việt Nam xấu hẳn đi kể từ giữa năm 1963, sau khi Việt Nam công khai phát biểu một số quan điểm về các vấn đề quốc tế và sau khi Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ thăm Việt Nam vào tháng 5/1963. Thái độ đó được biểu hiện rõ nét trong các bức thư của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô gửi Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam ngày 28/11/1963 và nhất là lá thư ngày 6/7/1964. Bức thư đó viết: “Trong thời gian gần đây, một số hoạt động của các đồng chí trong Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã làm cho chúng tôi nghi ngại và phiền lòng vì những hành động đó rõ ràng đi ngược lại những lời tuyên bố của các đại biểu Việt Nam về tình hữu nghị Xô-Việt một chiến dịch không thân thiện chống Liên Xô gần đây được tiến hành ngày càng rộng rãi và tích cực tại nước VNDCCH trong các hội nghị bí mật của Đảng và trong nhân dân đã phổ biến rộng rãi đủ điều bịa đặt nhằm reo rắc sự hoài nghi đối với đất nước của Lênin, khêu lên tình cảm không tốt đẹp đối với đất nước của Lênin phải chăng những sự kiện kể trên đang gây thiệt hại lớn lao cho mối tình hữu nghị Xô-Việt chúng tôi mong muốn một cách chính đáng rằng hữu nghị thì phải được đáp lại bằng hữu nghị.” Đối với nhiệm vụ đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam Việt Nam, thái độ của Liên Xô cũng có những biểu hiện tiêu cực. Cũng như giai đoạn trước, Liên Xô chủ trương giải quyết vấn đề miền Nam Việt Nam bằng phương pháp hoà bình, không muốn Việt Nam phát động cuộc đấu tranh vũ trang ở miền Nam Việt Nam, chỉ muốn Việt Nam tập trung sức lực xây dựng CNXH ở miền Bắc và bằng cách đó tác động vào diễn biến của tình hình miền Nam. Vì vậy, ngày 25/2/1963, Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô đã khuyên Việt Nam nên lợi dụng đề nghị của chính quyền Kennedy về thương lượng nhằm “trung lập hoá” Việt Nam để phục vụ cho việc củng cố vị trí của nước VNDCCH, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh của các lực lượng yêu nước miền Nam Việt Nam, đồng thời giúp thủ tiêu lò lửa căng thẳng ở Đông Nam Á. Vì thế, Liên Xô viện trợ rất ít vũ khí cho cuộc đấu tranh quân sự ở miền Nam. Tháng 9/1962, khi đồng chí Văn Tiến Dũng sang Liên Xô đề nghị tăng cường viện trợ quân sự, Liên Xô chỉ nhận giúp với số lượng rất ít. Ngày 28/1/1963, Đại sứ Liên Xô tại Hà Nội Tovmasyan đã được Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô uỷ nhiệm đến gặp thủ tướng Phạm Văn Đồng nhấn mạnh chỉ viện trợ kinh tế cho miền Nam thôi. Liên Xô cũng đón tiếp một cách lạnh nhạt các đại diện của Mặt 9
- trận DTGPMNVN. Liên Xô cũng phản ứng yếu ớt trước việc Mỹ dùng không quân tấn công miền Bắc ngày 5/8 và 18/9/1964. Đặc biệt, Liên Xô đã tìm cách thoái thác nghĩa vụ đồng chủ tịch cả hai Hội nghị Geneve về Lào và Đông Dương thể hiện trong thư của Bộ ngoại giao Liên Xô ngày 27/7 và 17/8/1964. Đặc biệt, Liên Xô đã thoả hiệp với Mỹ về vấn đề Lào trên cơ sở ngừng bắn, lập chính phủ liên hiệp đứng đầu là Phouma. Sở dĩ Liên Xô muốn hợp tác với Mỹ để giải quyết vấn đề Lào là để đánh đổi lấy việc Mỹ chấp nhận sự kiện “bức tường Berlin” được dựng lên vào ngày 13/8/1961. Chính trong giai đoạn này, mâu thuẫn Xô-Trung và nhân tố Trung Quốc đã trở thành trở ngại lớn cho sự phát triển quan hệ Việt-Xô. Điều này được biểu hiện rõ rệt qua những hành động và thái độ của Liên Xô đối với Việt Nam. Trong thời gian từ 1960-1964, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã nhận được khoảng 13 lá thư và các thông báo của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô. Phần lớn những bức thư và thông báo này đều đề cập đến sự bất đồng Xô-Trung, đề nghị hội đàm hai đảng Xô-Việt, phàn nàn lãnh đạo Đảng và báo chí Việt Nam phê phán lập trường của Đảng Cộng sản Liên Xô, phê phán Việt Nam có thái độ không thân thiện với chuyên gia Liên Xô ở Việt Nam. Các chuyến viếng thăm của Liên Xô tới Việt Nam do Pônômarinốp, Bí thư Trung ương Đảng dẫn đầu vào tháng 2/1962 và đoàn do Andrôpốp, Bí thư Trung ương Đảng dẫn đầu vào tháng 1/1963, đều nhằm lôi kéo tranh thủ Việt Nam. Trong lá thư gửi Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ngày 6/7/1964, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã đề nghị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam phải “thay đổi lập trường”. Trong bối cảnh bất đồng Xô-Trung bộc lộ công khai, Liên Xô quan tâm nhiều hơn đến việc tranh thủ các nước lớn khác trong khu vực như Inđônêxia, Ấn Độ, nhằm tranh giành ảnh hưởng với Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên, Liên Xô đã không cắt quan hệ với Việt Nam như đã làm với Albani và Trung Quốc vì vị thế của Việt Nam trong ván bài với Mỹ. Đây là giai đoạn xấu nhất trong lịch sử quan hệ giữa hai nước. 4.Vai trò của Liên Xô trong giai đoạn 1965-1/1973: 4.1.Hoàn cảnh lịch sử: Giai đoạn này đánh dấu bằng những mốc lịch sử quan trọng trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Trên thế giới, các dân tộc bị áp bức tiếp tục đứng lên đấu tranh dành chính quyền, lật đổ ách thực dân. Chủ nghĩa thực dân ngày càng thu hẹp 10
- diện tích cũng như ảnh hưởng của mình. Chủ nghĩa xã hội ngày càng lớn mạnh trên phạm vi toàn thế giới. Liên Xô và Đông Âu thực hiện thành công các kế hoạch 5 năm. Ở Việt Nam, giai đoạn này là giai đoạn ác liệt của cuộc chiến tranh khi Mỹ bắt đầu tiến hành “Chiến tranh cục bộ” ở Việt Nam trước nguy cơ “Chiến tranh đặc biệt” bị phá sản. Mỹ tìm cách bắn phá Miền Bắc đồng thời tăng cường đánh chiếm Miền Nam. Bắt đầu từ tháng 8/ 1964, miền Bắc đã phải đối phó với chiến tranh trên không rất ác liệt của Không quân và Hải quân Hoa Kỳ. Đầu tiên là chiến dịch Mũi Tên Xuyên (Pierce Arrow) ngày 5/8/1964, hành động trả đũa sự kiện Vịnh Bắc Bộ do máy bay của Hải quân Mỹ thực hiện, đánh phá các căn cứ hải quân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Lạch Trường (Thanh Hóa), Bãi Cháy (Hòn Gai). 4.2.Vai trò của Liên Xô: Trong giai đoạn này, sự quan tâm của Liên Xô đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu vào cuối năm 1964, sau khi Mỹ leo thang mở cuộc tấn công bằng không quân ra miền Bắc và sau khi Khrushev bị hạ bệ. Cuối tháng 12/1964, Liên Xô đã cho phép đại diện thường trú của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam được hoạt động tại Matxcơva. Tiếp theo đó, sự giúp đỡ của Liên Xô đối với Việt Nam được đánh dấu bằng chuyến thăm của đoàn đại biểu cấp cao Liên Xô do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Kossygin dẫn đầu tới Hà Nội vào tháng 2/1965. Chuyến thăm này có ý nghĩa nhiều mặt. Thứ nhất, Liên Xô cam kết cung cấp vũ khí chống lại sự tấn công bằng không lực của Hoa Kỳ. Thứ hai, Liên Xô muốn nhấn mạnh vai trò và vị trí của mình ở Đông Nam Á. Thứ ba, Liên Xô muốn cảnh báo Việt Nam không được coi thường âm mưu của Mỹ đối với CNCS ở châu Á. Cuối cùng, Liên Xô cũng dự định thoả thuận với Trung Quốc về kế hoạch phối hợp giúp đỡ Việt Nam. Tuyên bố chung được hai bên đưa ra ngày 10/2/1965 khẳng định VNDCCH là tiền đồn của phe XHCN ở Đông Nam Á, vai trò của Việt Nam trong cuộc chiến chống đế quốc Mỹ và đóng góp của Việt Nam vào nền hoà bình của thế giới. Tuyên bố cũng khẳng định Liên Xô không thể thờ ơ với an ninh của một nước XHCN anh em và sẵn sàng ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam. Trong thời kỳ này, Liên Xô tập trung xây dựng kinh tế, tiếp tục phấn đấu thực hiện mục tiêu chiến lược đã đề ra là vượt Mỹ về tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người vào năm 1970 và xây dựng xong cơ sở vật chất kỹ thuật của CNCS vào năm 1980. Nhằm đạt mục tiêu này, Liên Xô vẫn tiếp tục thi hành chính sách hoà hoãn với Mỹ, tranh thủ thời gian củng cố Đông Âu, bảo đảm an ninh, tranh thủ khoa học kỹ thuật của phương Tây. Cũng vào thời gian này, mâu thuẫn 11
- Xô-Trung đã bộc lộ công khai, sự bất đồng giữa hai đảng cộng sản Liên Xô và Trung Quốc bắt đầu trở lên gay gắt. Sự cam kết giúp đỡ Việt Nam của Liên Xô một lần nữa được khẳng định bằng chuyến thăm Liên Xô từ ngày 10-17/4/1965 của đoàn đại biểu cao cấp Việt Nam do đồng chí Lê Duẩn dẫn đầu. Tuyên bố chung nhấn mạnh: “Nếu Hoa Kỳ tăng cường xâm lược chống Việt Nam, trong trường hợp cần thiết và nếu Việt Nam yêu cầu, chính phủ Liên Xô sẵn sàng cho phép những công dân Xô Viết có nguyện vọng đến Việt Nam theo tinh thần quốc tế vô sản để chiến đấu vì sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, bảo vệ những thành quả xã hội chủ nghĩa của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.” Kết quả cụ thể của các chuyến thăm này là Liên Xô đã cung cấp cho Việt Nam hệ thống tên lửa đất đối không, máy bay, phi công và đội ngũ kỹ thuật viên nhằm bảo vệ khu vực Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố quan trọng khác. Ngay trong năm 1965, một số máy bay MIG 15/17 và IL-28 đã được chuyển đến Việt Nam. Sự giúp đỡ của Liên Xô tăng dần từ năm 1965 đến năm 1968. Tính đến năm 1967, tổng viện trợ của các nước XHCN cho Việt Nam là khoảng 1,5 tỷ Rúp (hơn 1,5 tỷ USD), trong đó sự trợ giúp của Liên Xô chiếm 36,8% (608 triệu USD). Đến cuối năm 1967, sự giúp đỡ Liên Xô đã tăng lên 50% tổng giá trị giúp đỡ của phe XHCN, trong đó sự giúp đỡ về quân sự chiếm 2/3 tổng giá trị giúp đỡ của Liên Xô và đạt con số là 396,7 triệu USD. Năm 1968, Liên Xô đã dẫn đầu danh sách các nước XHCN giúp đỡ cho Việt Nam, với tổng giá trị đạt 542 triệu Rúp (582,2 triệu USD). Ngoài ra, có khoảng từ 1.500 đến 2.500 chuyên gia quân sự Liên Xô bao gồm kỹ sư, phi công, kỹ thuật viên phụ trách hệ thống rađa, tên lửa đã phục vụ ở Việt Nam trong thời gian chiến tranh. Đến năm 1968, Liên Xô đã chiếm vị trí đầu bảng trong danh sách các nước ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam. Nguyên nhân của những điều chỉnh trong chính sách của Liên Xô đối với Việt Nam trong giai đoạn này trước hết là do đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Liên Xô. Ngoài ra, Liên Xô cũng nhận thấy những sai lệch trong đường lối đối ngoại dưới thời Khrushev. Đại hội lần thứ XXIII Đảng Cộng sản Liên Xô (cuối tháng 3-đầu tháng 4/1966) đã không xác định chung sống hoà bình là đường lối chung bao trùm của Liên Xô nữa và đã đưa nhiệm vụ ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc lên hàng thứ hai và nêu thêm nhiệm vụ chống trả các thế lực xâm lược của chủ nghĩa đế quốc. Một nguyên nhân quan trọng khác là Liên Xô đã thay đổi cách nhìn về Việt Nam, coi Việt Nam là trung tâm trong nền chính trị quốc tế, có liên quan trực tiếp tới đối thủ chính của Liên Xô là Mỹ và đối thủ chính của Liên 12
- Xô trong phong trào cách mạng là Trung Quốc. Vì những lý do đó, Liên Xô đâ cố gắng kiểm soát từ nội dung, giải pháp đến cách tiến hành chiến tranh của Việt Nam. Liên Xô đề nghị lấy phi công, bộ đội điều khiển tên lửa của Liên Xô. Đặc biệt, ngày 19/3/1968, Chủ tịch Kossygin gửi thư cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng yêu cầu cho lập hệ thống cố vấn từ Bộ tư lệnh phòng không đến các đơn vị sư, trung đoàn. Nói tóm lại, từ vị trí "quan sát viên“ trong giai đoạn 1954-1964, đến giai đoạn này Liên Xô đã trở thành nước giúp đỡ Việt Nam nhiều nhất. Sự giúp đỡ này đã góp phần quan trọng vào thắng lợi tiếp theo của nhân dân Việt Nam. Đảng, nhà nước và nhân dân Việt Nam không bao giờ quên sự giúp đỡ to lớn và quý báu đó. 5.Vai trò của Liên Xô trong giai đoạn 1/1973-4/1975: Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam đã được ký kết. Việc ký hiệp định Paris là phù hợp với mong muốn làm dịu tình hình quốc tế căng thẳng, giải quyết các cuộc tranh chấp quốc tế bằng thương lượng của Liên Xô. Vì thế, Liên Xô luôn gắn thắng lợi của Việt Nam với kết quả của việc thực hiện cương lĩnh hoà bình của Đại hội lần thứ XXIV ĐCSLX, lấy việc ký hiệp định Paris để chứng minh đường lối cùng tồn tại hoà bình là đúng, là mẫu mực cho việc giải quyết các vấn đề tranh chấp quốc tế khác. Sau khi Hiệp định được ký kết, Liên Xô vẫn tiếp tục giành sự ủng hộ to lớn về chính trị và vật chất cho Việt Nam. Cụ thể, trong thời gian này, Liên Xô đã đón nhiều đoàn cấp cao của Việt Nam như đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam do Tổng bí thư Lê Duẩn dẫn đầu đi thăm Liên Xô vào tháng 7/1973 và tháng 10/1975, đoàn của Thủ tướng Phạm Văn Đồng vào 3/1974, đoàn của Lê Thanh Nghị vào tháng 8/1974, đoàn của Lê Đức Thọ vào tháng 11/1974, của Nguyễn Duy Trinh 12/1974, của Nguyễn Hữu Thọ 12/1973. Khác trước, từ cuối 1973, Liên Xô đã thừa nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam là người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam. Trong giai đoạn này, tổng số hàng viện trợ cho Việt Nam từ các nước là 724.512 tấn, gồm: 75.267 tấn hàng hậu cần, 49.246 tấn vũ khí, trang bị - kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 65.601 tấn. Trong giai đoạn 1973–1975, tuy lượng viện trợ quân sự từ Liên Xô và Trung Quốc giảm rõ rệt, tổng số tấn vũ khí và thiết bị quân sự được viện trợ giảm từ khoảng 171.166 tấn/năm trong thời kì 1969-72 giảm xuống còn khoảng 16.415 tấn/năm trong thời kì 1973- 75, nhưng cán cân lực lượng vẫn dần nghiêng về Quân Giải phóng. 13
- Tuy nhiên, Liên Xô lại mong muốn tất cả các bên đều phải nghiêm chỉnh và triệt để thi hành Hiệp định, giữ vững hoà bình lâu dài, không để chiến tranh bùng nổ. Đối với nhiệm vụ hoàn thành nhiệm vụ độc lập và dân chủ ở miền Nam thì Liên Xô lại chủ trương thực hiện bằng con đường đấu tranh chính trị, thông qua việc lập chính phủ liên hiệp trên tinh thần hiệp định Paris. Tóm lại, Liên Xô muốn duy trì tình trạng nguyên trạng đã đạt được khi ký Hiệp định. Liên Xô luôn e ngại rằng Việt Nam sẽ mở các cuộc tấn công lớn bằng quân sự, dẫn đến việc Mỹ có thể quay lại, đe doạ những thành quả đã đạt được. Tháng 7/1973, trong khi tiếp Tổng bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng PhạmVăn Đồng, Tổng bí thư Brêgiơnhép nói: “Điều chủ yếu ngày nay là phải giữ vững Hiệp định Paris, đừng để cho tình hình phức tạp.” Tháng 11/1973, Chủ tịch Kossygin lại nói với Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Vì lợi ích chung phải làm sao đừng để nổ ra chiến tranh, hơn nữa nhân dân VN đã mỏi mệt.” Đặc biệt, bức thư ngày 20/12/1973 của Bộ chính trị BCHTW ĐCSLX thể hiện rõ ý muốn của Liên Xô giữ nguyên trạng khi ký Hiệp định, giữ nguyên hai vùng kiểm soát, chống lấn chiếm là cần thiết nhưng cũng khuyên Việt Nam không dùng vũ trang để thay đổi nguyên trạng. Từ khi hiệp định Paris được ký kết, Liên Xô đã 5 lần chuyển đề nghị hoặc những lời đe doạ gây sức ép của Mỹ đối với Việt Nam như tố cáo Việt Nam vi phạm hiệp định, thông báo Mỹ sẽ đình chỉ gỡ mìn theo thoả thuận vì Việt Nam lấn chiếm ở miền Nam. Đặc biệt, ngày 16/8/1974, Liên Xô đã chuyển ý kiến của chính quyền Ford là Mỹ lo ngại về việc Việt Nam đang chuẩn bị tấn công lớn ở miền Nam Việt Nam và đe doạ sẽ can thiệp. Ngày 21/4/1975, khi Việt Nam đang thắng lớn ở miền Nam, Đại sứ Liên Xô tại Việt Nam Chapline đã thông báo với Thủ tướng Phạm Văn Đồng thông điệp miệng của Tổng thống Ford ngày 19/4/1974 gửi Tổng bí thư Brêgiơnhép đề nghị Việt Nam thực hiện một cuộc đình chỉ chiến sự tạm thời ở miền Nam Việt Nam nhằm bảo đảm cho việc di tản một cách liên tục những người Mỹ ra khỏi miền Nam và tỏ ý lo ngại không thể loại trừ việc chính quyền Mỹ có hành động phiêu lưu nhằm gỡ thể diện. Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Liên Xô bộc lộ ý muốn tăng cường quan hệ mọi mặt với Việt Nam. Về chính trị, Liên Xô đưa ra cả một chương trình phối hợp hoạt động; về kinh tế, muốn Việt Nam hợp tác tham gia SEV. Về quân sự, Liên Xô muốn đặt hệ thống cố vấn trong quân đội Việt Nam, tích cực xây dựng cảng và hạm đội đánh cá, xây dựng trạm động đất. Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác ký ngày 3/11/1978 là bằng chứng cho quan hệ toàn diện giữa Việt Nam và Liên Xô. Lý do chính là Đông dương và Đông Nam Á đang trở thành một bộ phận quan trọng trong chiến lược của Liên Xô ở Châu Á-Thái Bình Dương, khi mà Mỹ đã thất bại trong chiến 14
- tranh Việt Nam và Trung Quốc đang đẩy mạnh hoạt động và câu kết với Mỹ. Ngày 12/7/1973, Tổng bí thư Brêgiơnhép bày tỏ mong muốn Việt Nam đóng vai trò kinh tế, chính trị trong khu vực. Ngày 16/7/1973, Chủ tịch Kossygin thậm chí còn cho rằng Việt Nam là chỗ dựa duy nhất của Liên Xô ở Đông Dương. Tuy nhiên, Liên Xô vẫn e ngại Việt Nam sẽ ngả theo Trung Quốc, nên đã thăm dò xem Việt Nam đánh giá, so sánh như thế nào về sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc cho Việt Nam. Liên Xô cũng rất quan tâm đến quan hệ của Việt Nam với các nước TBCN, nhắc nhở Việt Nam cần cảnh giác trong làm ăn kinh tế với Mỹ và các nước TBCN phát triển, nhất là với Nhật Bản. Liên Xô cũng chưa tin khả năng tiếp thu vốn và kỹ thuật của Việt Nam. 6.Kết luận: Với tư cách là một phần của cuộc chiến tranh lạnh, cuộc Kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam là thử thách lớn nhất đối với quan hệ song phương Việt Nam-Liên Xô. Với tư cách là thành trì của phe XHCN và là một cực trong trật tự thế giới lưỡng cực, Liên Xô đã phải theo đuổi cùng một lúc nhiều mục tiêu. Thứ nhất, Liên Xô không thể không ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam-thành viên của phe XHCN. Thứ hai, vì lợi ích chiến lược của mình và cũng vì lợi ích chung của cách mạng thế giới, Liên Xô đã tìm mọi cách để hạn chế quy mô chiến tranh, đưa vấn đề vào bàn thương lượng, để đi tới một giải pháp chính trị trên cơ sở nguyên trạng. Thứ ba, trên cơ sở đó Liên Xô hy vọng cải thiện quan hệ với Mỹ nhằm giải quyết những vấn đề có tính chiến lược khác, đồng thời hạn chế vai trò của Trung Quốc. Với các khoản viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam, cử chuyên gia sang Việt Nam cũng như giúp Việt Nam trong việc đào tạo chuyên gia kỹ thuật. Xây dựng các công trình kiến trúc và bệnh viện lớn, viện trợ vũ khí, trang thiết bị giúp miền Nam kháng chiến chống Mỹ. Trong 21 năm chiến đấu, Việt Nam đã "nhận được sự ủng hộ chí nghĩa, chí tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, đặc biệt là Liên Xô. Giai đoạn 1955-1960: tổng số 49.585 tấn, gồm: 4.105 tấn hàng hậu cần, 45.480 tấn vũ khí, trang bị-kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: viện trợ 29.996 tấn. Giai đoạn 1961-1964: tổng số 70.295 tấn, gồm: 230 tấn hàng hậu cần, 70.065 tấn vũ khí, trang bị - kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 47.223 tấn. 15
- Giai đoạn 1965-1968: tổng số 517.393 tấn, gồm: 105.614 tấn hàng hậu cần, 411.779 tấn vũ khí, trang bị-kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 226.969 tấn. Giai đoạn 1969-1972: tổng số 1.000.796 tấn, gồm: 316.130 tấn hàng hậu cần, 684.666 tấn vũ khí, trang bị-kỹ thuật; trong đó, Liên Xô 143.793 tấn. Giai đoạn 1973-1975: Tổng số 124.513 tấn, gồm: 75.267 tấn hàng hậu cần, 49.246 tấn vũ khí, trang bị - kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 65.601 tấn. Có thể tổng kết như sau: Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, vũ khí Liên Xô là lá chắn tin cậy cho Việt Nam. Tổng cộng, Liên Xô đã cung cấp cho Việt Nam 158 tổ hợp tên lửa phòng không, 7000 pháo và súng phóng lựu, hơn 700 máy bay chiến đấu, hơn 100 tàu chiến, 2000 xe tăng. Các chiến sĩ giải phóng quân đã tiến vào chiếm Dinh tổng thống ngụy trên xe tăng Liên Xô. Trong giai đoạn đánh Mỹ, gần 11 000 lính, sĩ quan và tướng lĩnh Liên Xô đã tham gia bảo vệ độc lập của Việt Nam. Như vậy, những sự viện trợ, giúp đỡ của Liên Xô có vai trò vô cùng to lớn đối với công cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta. Những sự giúp đỡ ấy đã tăng thêm sức mạnh cho dân tộc ta đánh Mỹ, xây dựng Chủ nghĩa xã hội, giúp chúng ta xích lại gần hơn với các nước chủ nghĩa xã hội anh em, giúp đỡ trên tinh thần quốc tế cộng sản Những sự giúp đỡ của Liên Xô cho Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ thể hiện tình đoàn kết, gắn bó, giúp đỡ của quan hệ Việt Nam – Liên Xô. 16
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình môn lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam của khoa Quốc tế học – Đại học khoa học xã hội và nhân văn. 2. Lịch sử thế giới hiện đại – Nguyễn Anh Thái ( chủ biên ). Nhà xuất bản giáo dục. 3. Webside: 4. Tiến trình lịch sử Việt Nam – Nguyễn Quang Ngọc ( chủ biên ). Nhà xuất bản giáo dục. 5. Webside: tuyen/ElearningDetail.aspx?docid=3216&sid=41. 6. Webside : 7. Sách "Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học" (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996). 8. Webside: 9. Webside: xoviet-nam-60-nam-sat-canh.htm. 10.Sách online “ Liên bang Xô Viết và chiến tranh Việt Nam- Ilya V. Gaiduk”. 11.Các webside tìm kiếm trực tuyến như: 1. 2. 3. 4. 17
- DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM VÀ ĐÁNH GIÁ STT Họ và Tên MSSV Chức vụ Công việc Đánh giá Tìm tài liệu Tài liệu tìm có giai đoạn hiệu quả, tổng Đặng Thị Nhóm 1 08030202 1973-1975, hợp bản Word Hằng trưởng tổng hợp tốt. Điểm đánh bản Word. giá : 10 Tìm tài liệu Tìm tài liệu Trần Thu Thành giai đoạn tương đối hiệu 2 08030729 Mai viên 1954-1960. quả. Điểm đánh giá : 9 Tìm tài liệu Tìm tài liệu hiệu Nguyễn Thị giai đoạn Thành quả, làm Power 3 Trang 08030844 1965-1968, viên Point tốt. Điểm Nguyên làm Power đánh giá : 10 Point. Tìm tài liệu Tìm tài liệu Lê Thị Thành giai đoạn tương đối hiệu 4 Kiều Oanh viên 1954-1960. quả. Điểm đánh giá : 9 Tài liệu tìm có Tìm tài liệu Nguyễn hiệu quả, chuẩn giai đoạn 5 Thanh 08030933 Nhóm phó bị thuyết trình 1968-1973, Phương tốt. Điểm đánh thuyết trình. giá: 10 Tìm tài liệu Tìm tài liệu Vũ Thị Thành giai đoạn tương đối hiệu 6 Phương 08031107 viên 1960-1965. quả. Điểm đánh Thảo giá : 9 Tìm tài liệu Tìm tài liệu Vũ Thị Thành giai đoạn tương đối hiệu 7 08031382 Kim Xuyến viên 1965-1968. quả. Điểm đánh giá : 9 18