Thu thập và xử lý dữ liệu định lượng và định tính
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Thu thập và xử lý dữ liệu định lượng và định tính", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- thu_thap_va_xu_ly_du_lieu_dinh_luong_va_dinh_tinh.pdf
Nội dung text: Thu thập và xử lý dữ liệu định lượng và định tính
- TÀI LIỆU Thu thập và xử lý dữ liệu định lượng và định tính 1
- Mục lục Mục lục 2 Giới thiệu về đo lường 4 Chương I. Phương pháp định lượng: nghiên cứu qua điều tra 4 Các phương pháp điều tra khảo sát 4 Bảng hỏi 4 Phỏng vấn 5 Lựa chọn Phương pháp điều tra 5 Mục đích của điều tra 5 Vấn đề về chọn tập hợp mẫu 5 Vấn đề lấy mẫu điều tra 6 Vấn đề về câu hỏi 6 Vấn đề nội dung 6 Vấn đề về định kiến 7 Vấn đề về khâu tổ chức 7 Xây dựng bảng hỏi 8 Các dạng câu hỏi 8 Nội dung câu hỏi 10 Các dạng câu trả lời 13 Kỹ thuật viết câu hỏi 15 Trật tự câu hỏi 17 Xử lý và phân tích dữ liệu định lượng 19 Công tác chuẩn bị dữ liệu bao gồm: 19 Nhập dữ liệu 19 Kiểm tra độ chính các của dữ liệu 19 Nhập dữ liệu vào máy tính 19 Chuyển đổi dữ liệu 19 Thống kê mô tả 20 Phân tích đơn biến 20 Chương II Các phương pháp định tính 22 2
- Giới thiệu 22 Mô hình định lượng 22 Nhóm tập trung (Focus group) 23 Phân tích dữ liệu định tính: phân loại và mã hóa 25 Phân loại 25 Mã số và mã hóa 25 Tài liệu tham khảo: 27 Phụ lục 1: Sử dụng Google Forms 28 3
- Giới thiệu về đo lường Đo lường là quá trình quan sát và ghi nhận những quan sát thu thập được trong quá trình nghiên cứu. Có nhiều hình thức đo lường khác nhau trong nghiên cứu. Trong tài liệu hướng dẫn này, chúng tôi xin giới thiệu hai hình thức đo lường Chương I: Nghiên cứu qua điều tra, khảo sát bao gồm xây dựng và thực hiện phỏng vấn và bảng hỏi. Chương II: Nghiên cứu định tính cung cấp tổng quan về các phương pháp đo lường dữ liệu không phải dạng số Trong cả hai chương, chúng tôi sẽ đưa ra kiến thức cơ bản về 1) Phương pháp tiến hành thu thập dữ liệu và 2) Phương pháp tiến hành phân tích dữ liệu thu được. Chương I. Phương pháp định lượng: nghiên cứu qua điều tra Có nhiều phương pháp nghiên cứu theo hướng mô tả. Những phương pháp này được xây dựng nhằm mô tả và diễn giải cho câu hỏi Cái gì. Những nghiên cứu này xem xét các cá nhân, phương pháp hoặc tài liệu với mục đích mô tả, so sánh, đối chiếu, phân loại, phân tích và diễn giải những đối tượng, sự kiện cấu thành các phần các nhau của nghiên cứu. Thông thường, các điều tra khảo sát thu thập thông tin tại một thời điểm nhất định với mục đích mô tả bản chất của những hoàn cảnh hiện có, hoặc xác định các tiêu chuẩn để so sánh các hoàn cảnh hiện có, hoặc xác định mối quan hệ tồn tại giữa các sự kiện cụ thể. Điều tra khảo sát là một trong những phần quan trọng của đo lường trong công tác nghiên cứu xã hội. Phạm vi của điều tra rất rộng, bao gồm các quy trình đánh giá có đặt câu hỏi cho người được hỏi. Một “điều tra khảo sát” có thể là một bảng hỏi ngắn trên giấy hoặc một cuộc phỏng vấn chuyên sâu. Chúng ta sẽ bắt đầu tìm hiểu các phương pháp điều tra khảo sát khác nhau. Những phương pháp này sơ bộ có thể chia thành hai loại lớn: Bảng hỏi và Phỏng vấn. Tiếp theo, chúng ta sẽ tìm hiểu làm sao lựa chọn được phương pháp điều tra phù hợp với điều kiện hiện có. Sau khi lựa chọn được phương pháp điều tra, chúng ta sẽ phải xây dựng nội dung của cuộc điều tra khảo sát. Các phương pháp điều tra khảo sát Điều tra khảo sát có thể chia thành hai loại lớn: Bảng hỏi và Phỏng vấn. Bảng hỏi thường là danh sách các câu hỏi trên giấy, người tham gia điều tra sẽ điền. Phỏng vấn được điền bởi người phỏng vấn dựa trên thông tin cung cấp từ người tham gia phỏng vấn. Dưới đây, chúng ta sẽ tìm hiểu về các loại bảng hỏi và phỏng vấn, với lưu ý rằng sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin có thể thay đổi phương thức điều tra khảo sát. Bảng hỏi Một dạng bảng hỏi là phiếu khảo sát được gửi qua email. Phương pháp này có rất nhiều điểm mạnh: chi phí thực hiện không cao, chúng ta có thể gửi cùng một nội dung hỏi cho một số lượng lớn người tham gia. Phương pháp này cho phép người tham gia có thể hoàn thành bảng hỏi khi có thời gian thuận tiện. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có một số điểm yếu. Tỷ lệ phản hồi thu thập từ phiếu khảo sát gửi qua email thường thấp và phiếu khảo sát dạng này không phải là lựa chọn tối ưu cho những câu hỏi yêu cầu nhiều thông tin chi tiết dưới dạng viết. 4
- Loại thứ hai là Bảng hỏi điều tra nhóm có giám sát. Một nhóm những người tham gia được tập trung lại và được yêu cầu trả lời một bộ câu hỏi. Thông thường, để thuận tiện, việc thực hiện bảng hỏi được thực hiện theo từng nhóm. Người nghiên cứu có thể đưa bảng hỏi cho những cá nhân có mặt tại đó và đảm bảo có được tỷ lệ phản hồi cao. Nếu người tham gia điều tra không hiểu nghĩa của câu hỏi, họ có thể yêu cầu giải thích ngay lập tức. Ngoài ra, địa điểm điều tra thường là tổ chức, cơ quan (ví dụ trong một công ty hay doanh nghiệp); điều này rất dễ tập trung thành một nhóm để khảo sát Điểm khác nhau giữa bảng hỏi điều tra nhóm có giám sát và phỏng vấn nhóm hoặc nhóm chuyên sâu? Với bảng hỏi điều tra nhóm có giám sát, mỗi người tham gia được cung cấp một bảng câu hỏi và được yêu cầu điền thông tin ngay tại địa điểm tiến hành điều tra. Mỗi người tham gia sẽ hoàn thành bảng câu hỏi. Với phỏng vấn nhóm hoặc nhóm chuyên sâu, người phỏng vấn sẽ điều khiển buổi phỏng vấn. Mọi người làm việc theo nhóm, nghe nhận xét của những người khác và trả lời câu hỏi. Một người sẽ ghi biên bản cho cả nhóm – Người được phỏng vấn không tự hoàn thành câu hỏi phỏng vấn. Phỏng vấn Phỏng vấn là một hình thức nghiên cứu có tính chất cá nhân hơn nhiều so với bảng hỏi. Trong phỏng vấn cá nhân, người phỏng vấn làm việc trực tiếp với người được phỏng vấn. Không giống như phiếu điều tra gửi qua email, người phỏng vấn sẽ có cơ hội được đặt những câu hỏi tiếp theo. Và, phỏng vấn thường dễ thực hiện hơn cho người được phỏng vấn , đặc biệt trong trường hợp thông tin cần thu thập là quan điểm hay nhận định. Phỏng vấn có thể tốn nhiều thời gian và cần nhiều nguồn lực. Người phỏng vấn được coi là một phần của công cụ đo lường và phải được đào tạo về cách đối phó với những sự việc bất ngờ. Lựa chọn Phương pháp điều tra Lựa chọn hình thức bạn sử dụng để tiến hành điều tra là một trong những quyết định quan trọng nhất. Sẽ có một số quy tắc đơn giản để bạn đi tới quyết định – bạn phải sử dụng chính khả năng đánh giá của mình để cân nhắc những điểm mạnh, điểm yếu của các hình thức điều tra khác nhau. Mục đích của điều tra Đầu tiên, mục đích chung của một cuộc điều tra phải được diễn giải thành một mục tiêu cụ thể. Nếu chúng ta muốn tìm hiểu việc giáo viên dạy học tại các trường như thế nào, chúng ta sẽ xác định: chúng ta muốn mô tả chi tiết các phương pháp giảng dạy giáo viên sử dụng trên lớp. Giai đoạn tiếp theo của lập kế hoạch là việc xác định và nhóm các chủ đề phụ trợ liên quan tới mục đích chủ đạo. Trong ví dụ trên, các chủ đề phụ trợ có thể là: các phương pháp giảng dạy khác nhau, các môn học giáo viên đang giảng dạy, Khi đã xác định được chi tiết, cần phải cân nhắc lựa chọn hình thức phù hợp nhất để thu thập các thông tin đó (phỏng vấn với một số giáo viên, phiếu khảo sát gửi qua email gửi tới một số trường cụ thể, ) Vấn đề về chọn tập hợp mẫu Vấn đề đầu tiên cần cân nhắc là chọn tập hợp mẫu và làm thế nào để tiếp cận các tập hợp mẫu. Liệu có thể tập hợp thông tin của các mẫu điều tra không? Với một số mẫu, bạn có danh sách đầy đủ những nhóm, đơn vị sẽ được lấy mẫu. Với một số nhóm khác, rất khó để thành lập danh sách tập hợp mẫu. Liệu các mẫu này có hợp tác không? Những người nghiên cứu về vấn đề nhập cư sẽ gặp vấn đề khó khăn về phương pháp luận. Họ thường cần phải nói chuyện với dân nhập cư không có hồ sơ hoặc những người có khả năng nhận diện được các cá nhân khác. Tại sao chúng ta cần sự hợp tác từ những người tham gia này? Mặc dù người nghiên cứu không có chủ định, những người tham gia điều tra vẫn có nguy cơ gặp rắc rối về mặt pháp lý nếu thông tin họ tiết lộ tới được chính quyền. Vấn đề tương tự có thể xảy ra với bất kỳ một nhóm đối tượng có liên quan tới các hoạt động bất hợp pháp hoặc không công khai. 5
- Vấn đề lấy mẫu điều tra Mẫu điều tra là nhóm thực tế bạn sẽ phải liên hệ làm việc dưới hình thức nào đó. Có một vài vấn đề quan trọng về lấy mẫu điều tra bạn cần cân nhắc khi thực hiện nghiên cứu điều tra. Những số liệu hiện có? Những thông tin nào bạn đã có từ mẫu điều tra? Bạn có biết địa chỉ, số điện thoại hiện nay của họ? Danh sách liên lạc của bạn đã được cập nhật? Những người tham gia điều tra có thể tiếp cận được? Có thể xác định được vị trí của những người tham gia điều tra không? Một số người rất bận rộn. Một số phải đi công tác rất nhiều. Một số khác phải làm việc ca đêm. Ngay cả khi bạn có địa chỉ và số điện thoại liên lạc chính xác, bạn vẫn có thể không tiếp cận hoặc liên lạc với nhóm mẫu điều tra của bạn. Liệu tỷ lệ phản hồi có phải là một vấn đề? Mặc dù bạn có thể giải quyết được tất cả các vấn đề về người tham gia và mẫu điều tra, bạn vẫn phải đối mặt với vấn đề về tỷ lệ phản hồi. Một số người tham gia điều tra sẽ từ chối trả lời. Một số khác có sự quan tâm nhưng không có thời gian để gửi bảng trả lời đúng hạn. Một số có thể để thất lạc bảng hỏi hoặc quên mất lịch hẹn phỏng vấn. Tỷ lệ phản hồi thấp là một trong những vấn đề khó nhất trong nghiên cứu điều tra. Vấn đề về câu hỏi Đôi khi nội dung bạn muốn hỏi người tham gia sẽ quyết định việc lựa chọn hình thức điều tra. Những dạng câu hỏi có thể sử dụng? Bạn sẽ hỏi những câu hỏi mang tính chất cá nhân? Bạn có cần nhiều thông tin chi tiết từ câu trả lời? Bạn có thể dự đoán dạng phản hồi phổ biến hoặc quan trọng nhất và xây dựng những câu hỏi đóng hợp lý? Câu hỏi có phức tạp? Đôi khi, bạn nghiên cứu một đối tượng, chủ đề phức tạp. Những câu hỏi bạn sử dụng sẽ có nhiều phần khác nhau. Bạn có thể cần phải chia thành những câu hỏi phụ. Có nên sử dụng những câu hỏi dài? Nếu chủ đề khảo sát của bạn phức tạp, bạn nên cung cấp cho người tham gia một số thông tin cơ bản cho câu hỏi. Bạn có nghĩ rằng người tham gia khảo sát có thể ngồi đủ lâu trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại để đặt câu hỏi? Có nên sử dụng câu trả lời dài (có nhiều đáp án trả lời) không? Nếu bạn hỏi về những thiết bị máy tính người tham gia sử dụng, bạn nên đưa ra một danh sách trả lời dài (ổ CD-ROM, ổ đĩa mềm, chuột, chuột cảm ứng, modem, kết nói mạng, loa ngoài, v.v ). Hiển nhiên, rất khó có thể hỏi loại câu hỏi này với phỏng vấn ngắn qua điện thoại. Vấn đề nội dung Nội dung nghiên cứu của bạn cũng có thể phát sinh nhiều khó khăn cho các hình thức điều tra bạn sử dụng. Người tham gia có cần phải biết về vấn đề điều tra? Nếu người tham gia không theo dõi thông tin (ví dụ như đọc báo, xem thời sự, hoặc nói chuyện), họ có thể sẽ không biết về vấn đề mà bạn muốn hỏi họ. 6
- Người tham gia có cần phải tham khảo các ghi chép, tài liệu? Ngay cả khi người tham gia hiểu câu hỏi của bạn, bạn vẫn nên cho phép họ kiểm tra lại các thông tin để có được câu trả lời chính xác. Ví dụ, nếu bạn hỏi họ tiêu bao nhiêu tiền cho thực phẩm trong tháng trước, họ có thể sẽ cần xem lại ghi chép, giấy tờ về thẻ tín dụng, séc cá nhân. Vấn đề về định kiến Chúng ta tiến hành nghiên cứu với những thành kiến, định kiến của riêng mình. Đôi khi, những định kiến này sẽ ít gây khó khăn nếu có phương pháp điều tra phù hợp. Liệu có tránh được những mong muốn xã hội? Nhìn chung, người tham gia muốn có “hình ảnh đẹp” trong mắt người khác. Không ai trong chúng ta muốn trông như thể không biết câu trả lời. Chúng ta không muốn nói bất kỳ một điều gì có thể gây bối rối, ngượng ngập. Nếu bạn đưa ra những câu hỏi có thể khiến người tham gia rơi vào những hoàn cảnh như vậy, họ có thể sẽ không nói thật, hoặc họ sẽ “xoay” câu trả lời để có được một cái nhìn tốt hơn. Vấn đề này thường xảy ra nhiều hơn với trường hợp phỏng vấn khi nào mọi người đối diện với nhau hoặc phỏng vấn trực tiếp qua điện thoại. Liệu có thể khống chế được sự biến tấu và làm sai lệch thông tin của người phỏng vấn? Người phỏng vấn cũng có thể làm sai lệch buổi phỏng vấn. Họ có thể sẽ không hỏi những câu hỏi khiến họ không thoải mái. Họ có thể không chịu lắng nghe ý kiến của người trả lời phỏng vấn với những chủ đề họ đã có quan điểm vững chắc. Họ có thể sẽ cho rằng mình đã biết người trả lời câu hỏi đó thế nào dựa trên những câu trả lời trước đó, mặc dù điều này không hẳn đã đúng. Vấn đề về khâu tổ chức Cuối cùng, bạn cần phải cân nhắc tới tính khả thi của phương pháp điều tra đánh giá cho nghiên cứu của bạn. Phương tiện Bạn có đủ các phương tiện (hoặc được phép sử dụng) để tiến hành và điều hành việc nghiên cứu của mình? Đối với phỏng vấn qua điện thoại, bạn đã có đầy đủ các phương tiện trang bị cho việc điều tra qua điện thoại? Đối với phỏng vấn nhóm chuyên sâu, bạn đã có một căn phòng phù hợp để tổ chức phỏng vấn cho cả nhóm? Bạn đã có đủ phương tiện cần thiết để ghi âm và ghi chép các câu trả lời? Thời gian Một số hình thức đánh giá điều tra sẽ cần nhiều thời gian hơn so với các hình thức khác. Bạn có cần câu trả lời ngay? Bạn đã dự trù đủ thời gian để gửi bảng hỏi điều tra qua thư và gọi điện theo dõi, và nhận lại câu trả lời điều tra qua thư? Bạn đã có đủ thời gian để thực hiện số lượng phỏng vấn cá nhân cần thiết để đánh giá? Nhân lực Các hình thức điều tra khác nhau sẽ có những yêu cầu khác nhau về nhân lực. Phỏng vấn sẽ cần người tư vấn được đào tạo bài bản và năng động. Điều tra theo nhóm có giám sát cần cán bộ điều tra được đào tạo về điều khiển nhóm. Một số nghiên cứu trong lĩnh vực kỹ thuật sẽ cần người phỏng vấn có chuyên môn ở một mức độ nào đó. 7
- Hiển nhiên, có rất nhiều vấn đề cần cân nhắc khi bạn lựa chọn hình thức điều tra khảo sát cho nghiên cứu của mình. Và không có phương pháp đơn giản và rõ ràng nào để đưa ra quyết định lựa chọn cho nhiều trường hợp. Không hề có phương pháp nào là tốt nhất. Phương pháp nào cũng có những nhận xét phê bình. Hai nhà nghiên cứu có thể lựa chọn các phương pháp điều tra hoàn toàn khác nhau với những vấn đề nghiên cứu giống nhau. Nhưng nếu bạn lựa chọn một phương pháp không hợp lý hoặc không phù hợp với hoàn cảnh, bạn sẽ phá hỏng nghiên cứu của mình ngay trước khi bạn bắt đầu thiết kế công cụ hay câu hỏi điều tra. Xây dựng bảng hỏi Xây dựng bảng hỏi là một nghệ thuật đòi hỏi phải có nhiều suy xét quyết định về nội dung, từ ngữ, hình thứ, thứ tự Các suy xét này có ảnh hưởng quyết định đến toàn bộ nghiên cứu. Viết câu hỏi liên quan đến: - quyết định mục đích, phạm vi và nội dung câu hỏi - chọn dạng câu trả lời sử dụng thể thu thập thông tin từ người trả lời - sử dụng từ ngữ để khiến cho vấn đề trở nên thú vị Sau khi đã viết xong câu hỏi, cần xem xét nên đặt chúng ở đâu cho hợp lý. Sau đây tài liệu sẽ đề cập đến một số câu hỏi có cấu trúc có thể sử dụng trong nghiên cứu. Bảng hỏi được sử dụng rộng rãi và là một công cụ hữu ích thể thu thập thông tin, cung cấp dữ liệu theo cấu trúc đã có sẵn; dữ liệu có thể kiểm soát được mà không cần sự có mặt của người nghiên cứu; dữ liệu rõ ràng, thuận tiện cho công tác phân tích. Tuy nhiên, cũng cần có thời gian để xây dựng, thử nghiệm và hoàn chỉnh bảng hỏi; dữ liệu thu được còn đơn giản và ở phạm vi hạn chế, ít linh hoạt trong câu trả lời. Các dạng câu hỏi Câu hỏi 2 lựa chọn Khi một câu hỏi có thể có hai câu trả lời, chúng ta gọi đó là câu hỏi 2 lựa chọn. Câu hỏi hai lựa chọn thường được sử dụng là dạng Có /Không, Đúng /Sai hoặc Đồng ý /Không đồng ý. Ông, bà tham gia vào chương trình tập huấn về Phương pháp giảng dạy của VVOB với vai trò? 1. Là thành viên Nhóm nòng cốt phương pháp và tham gia vào quá trình trình xây dựng mô đun Dạy học dựa trên giải quyết vấn đề và Học theo góc có không 2. Là người tổ chức các khóa tập huấn nhân rộng (là tập huấn viên) về một trong các mô đun phương pháp giảng dạy cho đồng nghiệp và/hoặc cho sinh viên. có không Câu hỏi theo mức độ đo lường Câu hỏi có thể được phân loại theo mức độ lường. 8
- ‘Câu hỏi không cần sắp xếp theo thứ tự’, ví dụ như câu hỏi về nghề nghiệp. Con số đặt cạnh mỗi tên nghề nghiệp không có nghĩa về mặt thứ tự lớn bé, người trả lời có thể tùy ý chọn là “2” hay “1”. Bạn là: 1. Hiệu trưởng 2. Giáo viên ‘Câu hỏi cần sắp xếp theo thứ tự’: người trả lời sẽ sắp xếp thứ tự các câu trả lời: Ý nghĩa của các thành phần trong Chương trình phát triển/bồi dưỡng chuyên môn về Phương pháp giảng dạy. Sắp xếp thứ tự từ có ý nghĩa nhất đến ít có ý Thứ tự nghĩa nhất. (Thành phần có ý nghĩa nhất xếp thứ nhất: số 1) Tham vấn giữa chuyên gia trong nước và ông, bà Các hội thảo giới thiệu mô đun Tập huấn cho đồng nghiệp Tập huấn cho sinh viên Học qua làm/thực hành (thiết kế kế hoạch bài học, áp dụng phương pháp giảng dạy mới vào lớp học) Học từ đồng nghiệp Tài liệu tập huấn Đĩa CD với nguồn tài nguyên Người trả lời bảng hỏi sẽ sắp xếp thứ tự các thành phần từ 1 đến 8 (Thành phần có ý nghĩa nhất xếp số 1). Chú ý: phần này cần được giải thích rõ cho người trả lời để họ có thể sắp xếp thứ tự cho đúng. Câu hỏi không liên tục/câu hỏi theo thang Likert Câu hỏi theo thang Likert thường ở dạng có 5, 7 hoặc 9 lựa chọn. ý ng ý ng ng ồ ó ồ àn àn to to ý ý Mức độ đồng ý của ông, bà với các ý kiến sau? n ng c ng ngđ ế ô àn àn ng ô ng ồ ki ồ Ho kh đ Không Đ Ho đ Kh ý 1. Sinh viên/học sinh khám phá kiến thức mới qua việc tìm kiếm cách giải quyết vấn đề 2. Sinh viên/học sinh có thể làm được nhiều hơn cả những mong đợi của giáo viên. 3. Giáo viên phải giám sát sinh viên/học sinh cẩn thận nếu không các em có thể mắc lỗi. 4. Nhận diện/xác định vấn đề là một bước rất quan trọng trong quá trình áp dụng PP Dạy học dựa trên giải quyết vấn đề. 5. Sinh viên/học sinh nên định hướng nguồn thông tin và tự tìm hiểu để giải quyết vấn đề. 9
- Câu hỏi sàng lọc/phân loại Câu hỏi sàng lọc là câu hỏi để xác định xem người trả lời có đủ trình độ hoặc kinh nghiệm để trả lời bảng hỏi hay không. Ông, bà tham gia vào chương trình tập huấn về Phương pháp giảng dạy của VVOB với vai trò? Tham dự các khóa tập huấn nhân rộng (là học viên) của ít nhất một trong các mô đun phương pháp giảng dạy về Dạy học dựa trên giải quyết vấn đề (=> câu hỏi 14-15; 16-18 A) về Học theo góc (=> câu hỏi 14-15; 16-18 B) Có thể có một số câu hỏi sàng lọc cùng một lúc để hướng dẫn người trả lời có câu trả lời chính xác cho các câu hỏi tiếp theo. Một số lưu ý khi sử dụng các câu hỏi sàng lọc: - Tránh có nhiều hơn 3 mức độ trong một câu hỏi - Nhiều mức độ trong câu hỏi có thể khiến người trả lời không tiếp tục trả lời các câu hỏi tiếp theo. Nội dung câu hỏi Câu hỏi trong bảng hỏi cần thể hiện đúng nội dung cần thu thập. Sau đây là một số câu hỏi về nội dung người xây dựng bảng hỏi cần lưu ý. Câu hỏi có ích/có cần thiết không? Kiểm tra xem liệu có cần hỏi câu hỏi này không và chi tiết cần phải có là gì. Vd. Có cần thiết phải hỏi tuổi của mỗi em hay chỉ cần số lượng trẻ dưới 16 tuổi? Có cần hỏi thu nhập của người trả lời bảng hỏi hay bạn chỉ cần ước lượng thu nhập? Có cần đặt một số câu hỏi? Đây là vấn đề thường gặp về câu hỏi có hai ý. Nên tách câu hỏi sau đây thành hai câu riêng biệt. Có thể phát hiện ra vấn đề với câu hỏi 2 ý bằng cách tìm sự kết hợp trong câu hỏi (từ “và”). ờ ng khi khi ả xuyên xuyên tho Ông, bà đã tổ chức cho sinh viên ng ng ng ng ng a a bao gi ụ ụ ụ ụ ờ m d d d ư ư ế nh ỉ Ch áp Hi áp T áp Th ápd 1. Học theo góc và thực hành học qua giải quyết vấn đề Một lý do nữa để phải hỏi nhiều câu hỏi là câu hỏi đưa ra chưa phủ được hết các khả năng có thể. Ví dụ nếu hỏi về sự tham gia trong các khóa bồi dưỡng nâng cao năng lực khác: 10
- 1. Ông, bà có tham dự các chương trình phát triển/bồi dưỡng chuyên môn về phương pháp giảng dạy khác không? 1. Tôi tham dự các khóa tập huấn đầu vào, khóa tập huấn và hội thảo về phương pháp giảng dạy khác ngoài các khóa tập huấn của VVOB. có Nếu câu trả lời là có, đề nghị ông, bà điền thông tin các khóa tập huấn, hội thảo đó vào bảng sau Tên khóa tập huấn/hội thảo Đơn vị tổ chức không 2. Tôi đã thực hiện nghiên cứu về phương pháp giảng dạy. có nếu có, đề nghị ông, bà nêu tên đề tài nghiên cứu: không 3. Tôi là một thành viên của cộng đồng mạng có liên quan đến phương pháp giảng dạy như các diễn đàn trên mạng, blog, website có không Đôi khi cần phải hỏi thêm một số câu hỏi vì chỉ một câu hỏi không thể cho câu trả lời đầy đủ. Ví dụ nếu chỉ hỏi về thái độ đối với việc ứng dụng CNTT trong dạy học thì liệu chúng ta có đưa ra kết luận được không khi mà chúng ta không có thông tin về thái độ của họ đối với việc học tập nói chung? Đôi khi cần hỏi thêm một số câu hỏi khác vì câu hỏi chính không thể quyết định mức độ cụ thể của thái độ và niềm tin của người trả lời. Ví dụ nếu hỏi xem họ có sử dụng tài liệu tập huấn được cung cấp hay không, có thể hỏi thêm về mục đích sử dụng Ông, bà sẽ sử dụng tài liệu tập huấn vê PP Dạy học dựa trên Có Không giải quyết vấn đề và Học theo góc cho những mục đích sau? 1. Tự học 2. Tập huấn cho đồng nghiệp 3. Tập huấn cho sinh viên 4. Áp dụng vào hoạt động giảng dạy trên lớp 5. Mục đích khác Nêu rõ: 6. Hỗ trợ sinh viên trong thời gian thực tập. 11
- Người trả lời cho biết họ ủng hộ điều gì. Tuy nhiên, mức độ ủng hộ sẽ thuyết phục hơn nếu có thêm thông tin về hành vi của người trả lời để thuyết phục về mức độ ủng hộ đó. Người trả lời được cung cấp thông tin cần thiết? Kiểm tra lại từng câu hỏi để xem liệu đã cung cấp đủ thông tin cho người trả lời câu hỏi. Ví dụ, nếu muốn hỏi xem người trả lời có phải là thành viên nhóm nòng cốt của VVOB. Người trả lời sẽ không thể trả lời câu hỏi này nếu họ không biết gì về nhóm nòng cốt của VVOB. Có cần làm rõ câu hỏi hơn không? Đôi khi câu hỏi đặt ra lại quá chung chung nên gặp khó trong khâu phân tích thông tin . Ví dụ, muốn tìm hiểu ý kiến về một hội thảo hoặc một khóa tập huấn, câu hỏi có thể là: Ông/bà có hài lòng về hội thảo/khóa tập huấn? trên thang đo từ "Không một chút nào" đến "Rất hài lòng" Nhưng ý nghĩa đằng sau của câu trả lời là gì? Thay vào đó, cần đặt câu hỏi cụ thể như sau: ả ả ả ố u ệ qu qu t s t qu ng ng 1. Hoạt động/Suy nghĩ trước và sau khóa tập huấn: hi ộ n u u ô u t ầ ả ệ ệ ệ m ấ Kh hi Hi ở ph Hi R qu 1. Liệu khóa tập huấn này có cần thiết? 2. Liệu các hiệu trưởng có ủng hộ khóa tập huấn này? 3. Liệu khóa tập huấn có đúng với những mô tả trước đó về nó? 4. Đã xác định được đúng đối tượng học viên chưa? 5. Liệu học viên có thể áp dụng ngay những kiến thức và kĩ năng vừa học được vào giờ dạy của họ? 6. Sau khi tham gia khóa tập huấn này, liệu phần lớn các học viên có thể có được các kiến thức và kĩ năng cần thiết không? 7. Ông, bà có giới thiệu khóa tập huấn này với người khác không? Câu hỏi đã đủ bao quát? Mặt khác, câu hỏi cũng có thể quá hẹp. Ví dụ câu hỏi yêu cầu liệt kê các chương trình TV yêu thích trong tuấn qua. Câu trả lời sẽ rất khác so với câu hỏi: ông/bà thích chương trình nào trong năm qua. Có thể chương trình họ thường không thích nhưng tuần vừa qua lại có phần hay, hoặc trong tuần qua chương trình yêu thích của họ lại bị chương trình khác thế chỗ. Câu hỏi đặt ra theo định kiến? Một vấn đề gặp phải trong thiết kế câu hỏi nữa là những điểm mù/thành kiến của riêng người thiết kế có thể ảnh hưởng đến cách sử dụng từ ngữ trong câu hỏi. Ví dụ, người thiết kế ủng hộ việc cung cấp tài liệu học tập sẽ đặt câu hỏi là: Theo ông/bà lợi ích của tài liệu học tập là gì? Như vậy người thiết kế chỉ hỏi về một mặt của vấn đề. Người thiết kế có thể thu được cách nhìn khác của người trả lời nếu đồng thời hỏi cả về những nhược điểm của tài liệu học tập. 12
- Liệu người trả lời câu hỏi có trả lời một cách trung thực? Đối với mỗi câu hỏi trong bảng hỏi, hãy tự hỏi xem người trả lời sẽ có những khó khăn nào để trả lời các câu hỏi một cách trung thực. Nếu có một số lý do để họ không thể trả lời trung thực cần viết lại câu hỏi. Ví dụ, một số người rất nhạy cảm với các câu hỏi về tuổi tác và thu nhập chính xác. Trong trường hợp này, có thể để họ chọn trong khoảng (ví dụ, giữa 30 và 40 tuổi, từ $ 50.000 đến $ 100.000 thu nhập hàng năm). Nếu cần tìm hiểu ý kiến đánh giá của người trả lời về tài liệu học tập được cung cấp, có thể hỏi xem họ có sẵn sàng mua tài liệu hay không. Bộ công cụ CNTT cho DHTC được phân phối miễn phí cho các trường ĐH/CĐSP là đối tác của VVOB. VVOB có kế hoạch cung cấp bộ công cụ này cho các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực giáo dục. Nếu ông/bà thấy bộ công cụ này được bày bán trong hiệu sách, ông/bà có mua bộ công cụ này không? (giá của bộ sách + đĩa CD là 80.000 đồng) có, sẽ trả toàn bộ số tiền có, nhưng chỉ một phần không Các dạng câu trả lời Các dạng câu trả lời là cách thu thập thông tin từ người trả lời. Hãy bắt đầu bằng cách phân biệt giữa dạng câu trả lời có cấu trúc (structured) và dạng câu trả lời không có cấu trúc (unstructured). Dạng câu trả lời có cấu trúc Dạng câu trả lời có cấu trúc giúp người trả lời dễ trả lời các câu hỏi và giúp các nhà nghiên cứu dễ thu thập và tóm tắt các câu trả lời. Tuy nhiên, định dạng này cũng có thể hơi ép buộc đối với người trả lời và hạn chế khả năng của nhà nghiên cứu để hiểu ý thực sự của người trả lời câu hỏi. Có rất nhiều dạng câu trả lời khác nhau với những ưu và nhược điểm riêng. Sau đây sẽ là một số dạng thường gặp: Điền vào chỗ trống: một dạng câu trả lời đơn giản nhất là điền vào chỗ trống. Chỗ trống có thể được sử dụng cho nhiều dạng câu trả lời khác nhau. Ví dụ: Xin vui lòng điền giới tính: ___ Nam ___ Nữ Với câu hỏi này, người trả lời có thể đánh dấu (x) hoặc (v) vào trước câu trả lời của mình. Đây cũng là ví dụ cho dạng câu hỏi có 2 ý trả lời vì nó chỉ có hai cách trả lời. Ví dụ khác về câu hỏi có 2 ý trả lời là câu hỏi Đúng/Sai hoặc câu hỏi Có/Không. Người trả lời viết một chữ số vào mỗi chỗ trống hay đánh dấu (x) vào ô trống như ở ví dụ sau: Hãy đánh dấu vào bộ phận máy tính mà ông/bà sử dụng nhiều nhất: Modem Máy in Ổ đĩa CD-dom Máy scan 13
- Chú ý: trong ví dụ này người trả lời có thể chọn nhiều hơn 1 đáp án trả lời. Dạng câu hỏi chọn bằng cách đánh dấu (x) này thường được dùng khi cho phép người trả lời có thể lựa chọn nhiều hơn 1 đáp án trả lời. Đôi khi dạng câu hỏi này được gọi là câu hỏi nhiều lựa chọn. Cần lưu ý khi thực hiện phân tích dữ liệu từ câu hỏi nhiều lựa chọn vì người trả lời có thể chọn bất kỳ đáp án nào, người phân tích cần coi mỗi đáp án là một biến riêng biệt. Ví dụ trên cũng là một ví dụ cho dạng câu hỏi bảng kiểm (check list). Khi sử dụng bảng kiểm, cần phải lưu ý các câu hỏi sau: - Đã liệt kê đủ các lựa chọn có thể chưa? - Bảng kiểm có độ dài hợp lý? - Từ ngữ đã rõ ràng (không thiên vị, định kiến)? - Hình thức đáp án đã dễ dùng, thống nhất? Bảng kiểm có thể chưa có đủ hết các thông tin cần có. Nên để người trả lời bổ sung thêm thông tin (các ý kiến khác). Đôi khi người trả lời được yêu cầu chọn một câu trả lời. ờ ng ả Mức độ áp dụng các phương pháp sau vào thực tế giảng khi khi ng ng ng tho ng ng xuyênng dạy: a bao gi ụ ụ ụ ụ ờ m d d d ư ư ế nh ỉ p Ch á Hi áp T áp Th d áp 1. Dạy học dựa trên giải quyết vấn đề 2. Học theo góc 3. Lồng ghép CNTT cho DHTC Chú ý: chỉ chọn một lựa chọn cho mỗi câu hỏi. Nguyên tắc hàng đầu là bạn yêu cầu một người nào đó khoanh tròn một mục hoặc bấm vào một nút khi bạn chỉ muốn họ chọn một đáp án. Dạng câu hỏi một lựa chọn này ngược lại với câu hỏi nhiều lựa chọn được mô tả ở trên. Dạng câu trả lời không có cấu trúc Có nhiều dạng câu trả lời có cấu trúc, tuy nhiên chỉ có một số ít các định dạng câu trả lời không có cấu trúc. Dạng câu trả lời không có cấu trúc là gì? Nói chung, nó là những từ/câu viết. Nếu người trả lời phiếu (hoặc người được phỏng vấn) viết ra các từ/câu thì đó là dạng câu trả lời không có cấu trúc. Dạng câu trả lời không có cấu trúc có thể chỉ là những câu nhận xét ngắn hay bản ghi chép lại một cuộc phỏng vấn. Một bảng hỏi ngắn thường có một hoặc một số câu hỏi yêu cầu người trả lời viết thông tin vào. 14
- Ông/bà có tham dự các chương trình phát triển/bồi dưỡng chuyên môn về phương pháp giảng dạy khác không? Tôi tham dự các khóa tập huấn đầu vào, khóa tập huấn và hội thảo về phương pháp giảng dạy khác ngoài các khóa tập huấn của VVOB. có Nếu câu trả lời là có, đề nghị ông, bà điền thông tin các khóa tập huấn, hội thảo đó vào bảng sau Tên khóa tập huấn/hội thảo Đơn vị tổ chức không Cần có hướng dẫn cụ thể và ước lượng chỗ trống đủ cho người trả lời viết thông tin vào. Ví dụ: Cảm ơn ông, bà đã dành thời gian trả lời các câu hỏi trên. Xin vui lòng chia sẻ với chúng tôi các nhận xét/ý kiến của ông, bà về các câu hỏi trên. Bản ghi chép (transcripts) có sự khác biệt so với việc viết thông tin như đã mô tả ở trên. Người ghi chép phải quyết định xem sẽ ghi lại tất cả các từ ngữ hay chỉ ghi lại những ý chính, lời nói chính Trong bản ghi chép chi tiết, cũng cần phân biệt người phỏng vấn, người trả lời và có quy định cho việc đưa thêm nhận xét của người ghi chép về buổi phỏng vấn: suy nghĩ của người phỏng vấn (xem Chương II). Kỹ thuật viết câu hỏi Một trong những khó khăn lớn nhất trong việc viết các câu hỏi khảo sát là tìm được từ ngữ chính xác. Chỉ cần dùng từ ngữ khác đi một chút cũng có thể khiến người trả lời khó hiểu hoặc hiểu sai. Sau đây là một số câu hỏi để kiểm tra lại cách diễn đạt các câu hỏi khảo sát: 15
- Câu hỏi có thể bị hiểu sai đi không? Người tiến hành khảo sát cần lưu ý đối với các câu hỏi khó hiểu hoặc dễ bị hiểu sai. Ví dụ, câu hỏi về quốc tịch (nationality), câu hỏi này có thể chưa rõ ràng (một người từ Malaysia sẽ trả lời rằng anh ta là người Malaysia, châu Á hay Thái Bình Dương?). Hoặc, câu hỏi về tình trạng hôn nhân: đã lập gia đình hay chưa lập gia đình? chi tiết hơn có thể là: góa phụ, đã ly dị, Ngoài ra còn có một số từ ngữ đa nghĩa. Ví dụ như câu hỏi về việc ứng dụng CNTT trong dạy học: CNTT có nghĩa là máy tính, TV, đài hay internet Câu hỏi có những giả định gì? Đôi khi chúng ta không xem xét câu hỏi từ góc độ của người trả lời hay những giả định đằng sau câu hỏi. Ví dụ khi hỏi xem người trả lời có phải là thành viên nhóm nòng cốt hay không, bạn mặc định là người trả lời đã biết nhóm nòng cốt là gì và những người trả lời nghĩ là họ là thành viên nhóm nòng cốt. Trong trường hợp này, nên sử dụng câu hỏi sàng lọc trước để xem liệu giả định này có đúng hay không. Khung thời gian đã chi tiết? Khi sử dụng câu hỏi có khung thời gian cần chỉ rõ lượng thời gian. Ví dụ: Trong học kỳ trước (6 tháng) bạn có thường xuyên sử dụng máy tính? Ít nhất một lần/ngày Ít nhất một lần/tuần nhưng không phải ngày nào cũng sử dụng Ít nhất một lần/tháng nhưng không phải tuần nào cũng sử dụng Ít hơn 1 lần/tháng Không sử dụng Tính cá nhân trong từ ngữ? Chỉ cần thay đổi một vài từ, câu hỏi có thể thay đổi từ mang tính khách quan sang chủ quan. Hãy xem xét 3 câu hỏi sau hỏi về sự hài lòng với công việc: Câu 1: Ông/bà có hài lòng với điều kiện làm việc trong trường (nơi ông/bà làm việc) không? Câu 2: Ông/bà có cảm thấy hài lòng với điều kiện làm việc trong trường (nơi ông/bà làm việc) không? Câu 3: Cá nhân ông/bà có hài lòng với điều kiện làm việc trong trường (nơi ông/bà làm việc) không? Câu hỏi 1 mang tính khách quan. Câu 2 có từ “cảm thấy”, Câu 3 có từ “cá nhân”. Lưu ý: câu hỏi phải phù hợp với mức độ yêu cầu của cuộc điều tra. Các vấn đề khác Các sắc thái của ngôn ngữ sẽ luôn gây khó khăn cho người thiết kế câu hỏi. Sau đây là một số điểm khác cần lưu ý: - Câu hỏi có chứa các thuật ngữ khó hiểu hoặc không rõ ràng không? - Câu hỏi làm rõ phương án trả lời chưa? - Từ ngữ đã tròn trịa chưa? - Từ ngữ có mang thành kiến? 16
- Trật tự câu hỏi Quyết định về trật tự câu hỏi Một trong những nhiệm vụ khó khăn nhất đối với người thiết kế phiếu khảo sát là việc sắp xếp trật tự các câu hỏi. Chủ đề nào giới thiệu trước, chủ đề nào giới thiệu sau? Nếu để câu hỏi quan trọng nhất ở cuối cùng, thì có thể người trả lời đã quá mệt. Nếu để ở trên thì có thể họ lại chưa sẵn sàng (đặc biệt là với câu hỏi khó hoặc câu hỏi tế nhị). Khó có thể giải quyết vấn đề này, người thiết kế cần có các suy xét phù hợp. Cân lưu ý đến các câu hỏi sau: - Câu trả lời có bị ảnh hưởng bởi các câu hỏi trước đó không? - Câu hỏi đặt ở đây có quá sớm hoặc quá muộn để thu hút sự chú ý? - Câu hỏi có thu hút được sự chú ý không? Ví dụ: Với câu hỏi về việc sử dụng máy tính trong hoạt động giảng dạy, đầu tiên nên đặt câu hỏi về kỹ năng sử dụng máy tính. Để đánh giá tác động của hoạt động nâng cao năng lực, người ta quan tâm đến sự thay đổi về kiến thức, kỹ năng, thái độ và thực hành của người trả lời (học viên). Nên hỏi về kiến thức và thái độ của người trả lời trước khi hỏi họ về việc thực hành. Câu hỏi mở đầu Ấn tượng đầu tiên cũng rất quan trọng trong công tác khảo sát. Các câu hỏi đầu tiên sẽ quyết định đến kết quả cuộc điều tra, và có thể giúp người trả lời cảm thấy thoải mái. Vì vậy, các câu hỏi mở đầu nên là những câu hỏi dễ trả lời hoặc câu hỏi mang tính mô tả đơn giản để khuyến khích người trả lời tiếp tục. Không nên bắt đầu cuộc khảo sát với những câu hỏi nhạy cảm hoặc câu hỏi mang tính ‘đe dọa’. Câu hỏi nhạy cảm Nhiều nghiên cứu xã hội cần hỏi về các vấn đề khó hoặc không thoải mái để trả lời. Trước khi đặt câu hỏi như vậy, nên cố gắng xây dựng niềm tin và mối quan hệ với người trả lời. Thông thường, trước những câu hỏi nhạy cảm cần có những câu hỏi khởi động dễ trả lời. Tuy nhiên, cần đảm bảo các vấn đề nhạy cảm không được đề cập đến một cách đột ngột và phải có liên hệ với các phần còn lại của bảng hỏi. Cũng nên có câu chuyển tiếp giữa các phần để người trả lời biết về phần tiếp theo. Ví dụ, có thể có lời dẫn như sau: Trong phần tiếp theo của bảng hỏi này, chúng tôi muốn hỏi ông/bà về mối quan hệ cá nhân của ông/bà. Ông/bà có thể không trả lời bất kỳ câu hỏi nào mà ông/bà thấy không thoải mái để trả lời. Bảng kiểm Có rất nhiều của quy tắc trong việc thiết kế bảng hỏi. Dưới đây là một danh sách để kiểm tra một số vấn đề quan trọng nhất. Bạn có thể sử dụng bảng kiểm này để kiểm tra lại bảng hỏi: bắt đầu bằng những câu hỏi dễ trả lời đặt những câu hỏi khó ở gần cuối không nên mở đầu bảng hỏi với một câu hỏi mở với các mốc lịch sử, hãy theo thứ tự thời gian mỗi lần chỉ hỏi một chủ đề nên dùng từ dẫn nếu muốn thay đổi chủ đề giảm nguy cơ trả lời đồng nhất một ý từ trên xuống dưới 17
- Quy tắc vàng Bạn đang làm ảnh hưởng đến cuộc sống của người trả lời bảng hỏi. Bạn đang yêu cầu thời gian của họ, sự chú ý của họ, sự tin tưởng của họ, và cả thông tin cá nhân. Vì vậy, bạn nên luôn luôn ghi nhớ các quy tắc "vàng" của nghiên cứu khảo sát cũng như trong cuộc sống: Hãy đối xử với người trả lời như bạn muốn họ đối xử với bạn. Cụ thể, bạn nên: - Đầu tiên nên cảm ơn người trả lời vì đã hợp tác trả lời bảng hỏi - Bảng hỏi nên ngắn gọn chỉ gồm những gì cần thiết - Cần hiểu các nhu cầu của người trả lời - Chú ý đến những dấu hiệu không thoải mái của người trả lời - Cuối cùng nên cảm ơn người trả lời vì đã hợp tác trả lời bảng hỏi - Thông báo với người trả lời rằng họ sẽ được nhận bản sao kết quả của cuộc khảo sát. 18
- Xử lý và phân tích dữ liệu định lượng Công tác chuẩn bị dữ liệu bao gồm: kiểm tra hoặc nhập dữ liệu; kiểm tra độ chính xác của các dữ liệu; nhập dữ liệu vào máy tính; chuyển đổi dữ liệu. Nhập dữ liệu Dữ liệu có thể lấy từ các nguồn khác nhau tại các thời điểm khác nhau: - Câu trả lời khảo sát qua thư Ví dụ: đánh giá khóa tập huấn bằng hình thức ‘Google Forms’ và gửi qua email - Dữ liệu phỏng vấn được mã hóa - Dữ liệu kiểm tra trước và kiểm tra sau Ví dụ: Đánh giá tác động của sử dụng Bản đồ tư duy trong Tâm lý học - Dữ liệu thu được qua quan sát Cần xây dựng quy trình nhập thông tin và theo dõi cho đến khi có thể tiến hành phân tích dữ liệu. Thông thường cần xây dựng cơ sở dữ liệu có thể xem xét dữ liệu nào đã có, dữ liệu nào còn thiếu. Dữ liệu đầu vào trực tuyến như ‘Google Forms’ cho phép người sử dụng dễ dàng theo dõi các dữ liệu được nhập vào và thực hiện các phân tích dữ liệu đơn giản. Kiểm tra độ chính các của dữ liệu Cần phải kiểm tra độ chính xác của dữ liệu ngay khi nhận dữ liệu. Trong một số trường hợp việc kiểm tra độ chính xác một cách kịp thời sẽ cho phép quay trở lại mẫu để làm rõ vấn đề hoặc lỗi mắc phải. Các câu hỏi sau hỗ trợ việc sàng lọc dữ liệu ban đầu: Các câu trả lời có rõ ràng/có thể đọc được không? Tất cả các câu hỏi quan trọng đã được trả lời? Tất cả các câu hỏi được trả lời đầy đủ? Cung cấp các thông tin về ngữ cảnh có liên quan (dữ liệu, thời gian, địa điểm, người tiến hành )? Nhập dữ liệu vào máy tính Có nhiều cách để nhập dữ liệu vào máy tính để phân tích. Có lẽ cách dễ nhất là đánh máy dữ liệu một cách chính xác. Cần kiểm tra lại các dữ liệu được nhập vào nhiều lần để đảm bảo độ chính xác. Với ‘Google Forms’, nguy cơ nhập sai dữ liệu được loại bỏ vì ngay sau khi người trả lời bấm vào nút "Gửi" (nộp/hoàn thành), bảng hiển thị các câu trả lời sẽ được đưa ra ngay trong chương trình. Chuyển đổi dữ liệu Khi các dữ liệu đã được nhập vào thì cần phải chuyển đổi các dữ liệu thô thành các biến có thể dùng để phân tích.Có nhiều cách biến đổi dữ liệu. Một số cách biển đổi phổ biến như giải quyết các giá trị bị thiếu, tìm tổng số điểm, chia tách các hạng mục. Nếu sử dụng ‘Google Forms’, không cần chuyển đổi các dữ liệu thô thành các biến. Ngay sau khi dữ liệu được thu thập, ‘Google Forms’ có thể cung cấp các bản tóm tắt và phân tích đơn giản. 19
- Thống kê mô tả Số liệu thống kê mô tả được sử dụng để mô tả các đặc điểm cơ bản của dữ liệu, cung cấp bản tóm tắt đơn giản về mẫu và các phép đo. Với phân tích đồ họa đơn giản, thống kê mô tả là cơ sở của hầu hết các phân tích định lượng. Thông kế mô tả được sử dụng để mô tả dữ liệu: dữ liệu là gì và cho biết điều gì. Thống kê mô tả được sử dụng để trình bày một mô tả định lượng theo mẫu. Có thể có rất nhiều phép đo hoặc có nhiều mẫu (nhiều người). Thống kê mô tả giúp đơn giản hóa một lượng lớn dữ liệu một cách hợp lý. Mỗi thống kê mô tả giúp làm giảm dữ liệu một cách đáng kể bằng cách cung cấp một bản tóm tắt đơn giản. Khi mô tả một tập hợp lớn các quan sát với một chỉ số duy nhất, có nguy cơ bị sai lệch dữ liệu gốc hoặc bỏ sót chi tiết quan trọng. Mặc dù có hạn chế này, thống kê mô tả có thể cung cấp một bản tóm tắt tốt phục vụ việc so sánh giữa con người hoặc đơn vị khác nhau. Phân tích đơn biến Phân tích đơn biến liên quan đến việc kiểm tra các trường hợp của một biến tại một thời điểm. Một biến duy nhất có ba đặc điểm chính: sự phân bổ, xu hướng trung tâm và phân tán (phân tán không được đề cập đến trong tài liệu này) Phân bổ Phân bổ là một bản tóm tắt của các tần số của giá trị hoặc phạm vi của các giá trị cho một biến. Mức độ áp dụng các phương pháp sau vào thực tế giảng dạy: - Dạy học dựa trên giải quyết vấn đề Chưa bao giờ áp dụng 1 1% Hiếm khi áp dụng 4 % Thỉnh tho ng áp dụng 8 62% Thường xuyên áp dụng 39 27% Bảng 2: Biểu bảng Bảng 2: Biểu đồ hình thanh Ghi chú: Đây là bản tổng hợp của ‘Google Forms’: Tổng hợp người trả lời. Ví dụ, thông thường để mô tả sự phân bố của sinh viên đại học theo năm ta có số lượng hay phần trăm số sinh viên của từng năm học. Hoặc, mô tả giới tính bằng cách liệt kê số lượng hoặc số phần trăm nam và nữ. Trong những trường hợp này, biến có giá trị đủ để có thể liệt kê và tóm tắt bao nhiêu trường hợp mẫu có cùng giá trị. Nhưng đối với biến như tuổi tác thì sao? Các biến này có một số lượng lớn các giá trị có thể, nhưng ít người có cùng giá trị giống nhau. Trong trường hợp này, chúng ta nhóm các điểm số liệu theo phạm vi/nhóm của các giá trị. Ví dụ, chúng ta có thể nhìn vào danh mục tuổi và nhóm vào năm dao động từ 20-29, 30-39, 40-49, 50-59, 60-69 Một trong những cách phổ biến nhất để mô tả một biến duy nhất là phân bổ tần số. Tùy thuộc vào các biến cụ thể, tất cả các giá trị dữ liệu có thể được thể hiện, hoặc có thể nhóm các giá trị theo hạng mục. Phân bổ tần số có thể được mô tả trong hai cách, theo bảng (hình 1) hoặc theo dạng biểu đồ cột hoặc biểu đồ thanh (hình 2) 20
- Phân bổ có thể được thể hiện qua dạng phần trăm (%) ‘Google forms’ cho phép bạn tìm các biến (các câu hỏi) một cách tự động. Xu hướng trung tâm/hướng tâm (Central tendency) Xu hướng hướng tâm của một phân bổ là một giá trị “trung tâm" của một phân bổ các giá trị. Có ba loại chính các ước tính về xu hướng hướng tâm: giá trị trung bình (mean), trung vị (median) và mốt (mode). Trong tài liệu này, chúng tôi chỉ xin giải thích về giá trị trung bình. Giá trị trung bình (mean) hoặc trung bình cộng (average) có lẽ là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất của xu hướng trung tâm mang tính mô tả. Cách tính toán giá trị trung bình là cộng tổng các giá trị rồi chia cho số giá trị. Ví dụ, xem giá trị điểm số kiểm tra: 15, 20, 21, 20, 36, 15, 25, 15 Tổng của 8 giá trị trên là 167, vậy giá trị trung bình là: 167/8 = 20.875. Giá trị trung bình không được tính một cách tự động trong ‘Google forms’. 21
- Chương II Các phương pháp định tính Giới thiệu Các phương pháp định tính được sử dụng trong nghiên cứu định tính. Đây là dạng nghiên cứu sử dụng các phương pháp không phải là định lượng (những con số). Nghiên cứu định tính cũng có thể được xem là cách thức sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để tìm hiểu chất lượng hoặc bản chất của một sự vật, hiện tượng, sự kiện. Có ý kiến cho rằng phương pháp định tính chủ yếu mang tính chủ quan khi người nghiên cứu, được sử dụng là công cụ thu thập dữ liệu hoặc ít nhất là bộ lọc để nắm bắt thông tin về một chủ đề . Ý kiến khác lại cho rằng nghiên cứu định lượng liên quan đến các dấu tích lịch sử hoặc ít nhất là ngữ cảnh lịch sử của vấn đề đang được nghiên cứu. Mô hình định lượng Việc thiết kế của bất kỳ nghiên cứu nào đều bắt đầu với một ý tưởng nghiên cứu và việc lựa chọn một mô hình phương pháp nghiên cứu. Mô hình cơ bản là một thế giới quan/quan điểm – là tổng hòa của niềm tin, giá trị và phương pháp nghiên cứu. Nghiên cứu định lượng nhấn mạnh đến việc hình thành kiến thức/hiểu biết thông qua tìm hiểu kỹ lời nói, hành động và sự tương tác của con người, các dấu tích hoặc văn bản/hồ sơ để lại của con người . Nghiên cứu định lượng xem xét các mô hình ý nghĩa/mẫu có nghĩa tổng hợp từ những quan sát có hệ thống những lời nói, hành động và tương tác của con người và các dấu tích hoặc hồ sơ để lại của con người. Trong nghiên cứu định tính, người ta tìm các mẫu có ý nghĩa trong lời nói và hành động và giải thích ý nghĩa của mẫu dựa trên những hình thành xã hội của những người đầu tiên có những lời nói và hành động đó. Thu thập thông tin định tính: phỏng vấn Phỏng vấn là một cuộc đàm thoại, nơi mà kiến thức/ý kiến được xây dựng/thu thập thông qua sự tương tác giữa một người phỏng vấn và người/nhóm người được phỏng vấn. Không giống như các cuộc hội thoại hàng ngày, các cuộc phỏng vấn nghiên cứu thường được thực hiện theo mục đích của người nghiên cứu (ví dụ, để có được kiến thức/ý kiến về một chủ đề hoặc lĩnh vực trong đời sống). Thông thường, các cuộc phỏng vấn nghiên cứu là "cuộc đối thoại một chiều": người nghiên cứu đặt câu hỏi và người được phỏng vấn trả lời. Có nhiều cách để thực hiện phỏng vấn: được tiến hành chính thức qua các cuộc khảo sát, trên internet, qua điện thoại, hoặc phỏng vấn trực tiếp hoặc được thực hiện không chính thức. Cuộc phỏng vấn nghiên cứu ít hay nhiều đều có cấu trúc (có sườn bài gợi ý). Các cuộc phỏng vấn đều có các câu hỏi được đặt ra và các câu trả lời được đưa ra theo quy trình của nghiên cứu định lượng. Hầu hết các cuộc phỏng vấn nghiên cứu định lượng là ở dạng bán cấu trúc: có chương trình/dàn bài chung do người nghiên cứu chuẩn bị trước nhưng vẫn có phần mở cho người trả lời cung cấp thông tin. Một số cuộc phỏng vấn không có cấu trúc như các cuộc phỏng vấn về tiểu sử, mà đôi khi chỉ với một câu hỏi mở có thể mời người được phỏng vấn kể lại câu chuyện về cuộc đời của mình. 22
- Sự tương tác cụ thể giữa người phỏng vấn và người được phỏng vấn chỉ diễn ra trong quá trình phỏng vấn. Các cuộc phỏng vấn được thực hiện để các nhà nghiên cứu trả lời một hoặc nhiều câu hỏi nghiên cứu của mình. Chúng được xây dựng khi các nhà nghiên cứu chọn chủ đề và thiết kế nghiên cứu. Trước khi quyết định thực hiện cuộc phỏng vấn, các nhà nghiên cứu luôn cân nhắc liệu phỏng vấn có phải là cách tốt nhất để trả lời những câu hỏi nghiên cứu. Không nên thực hiện một cuộc phỏng vấn chỉ vì suy nghĩa nhầm lẫn rằng nó là cách dễ nhất để thực hiện nghiên cứu. Nhóm tập trung (Focus group) Nhóm tập trung là một hình thức phỏng vấn mang tính định tính, là cuộc thảo luận nhóm do nhà nghiên cứu điều hành để thu thập thông tin. Do vậy chúng có thể được sử dụng cho nghiên cứu thăm dò: người tham gia tự do thảo luận về các chủ đề phù hợp. Một hình thức có cấu trúc hơn là khi người phỏng vấn hay người điều hành có một vai trò tích cực hơn trong việc kiểm soát các vấn đề cần thảo luận. Đặc điểm chính của nhóm tập trung là việc sử dụng của các cuộc thảo luận là một hình thức thu thập dữ liệu, không cần đạt được sự nhất trí hoặc đi đến quyết định, thay vào đó, đây là cuộc trò chuyện về chủ đề nghiên cứu được quan tâm. Bắt đầu từ những năm 1980, trong ngành khoa học xã hội, ‘nhóm tập trung’ được sử dụng đầu tiên trong nghiên cứu khảo sát (survey research) và nghiên cứu đánh giá (evaluation research). Sử dụng ‘nhóm tập trung’ như một công cụ thăm dò để phát triển nội dung khảo sát là một kỹ thuật được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu thị trường. ‘Nhóm tập trung’ còn được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu khảo sát học thuật, đặc biệt là trong các dự án liên quan đến chủ đề chưa từng được nghiên cứu. Đối với nghiên cứu đánh giá, ‘nhóm tập trung’ được sử dụng trong cả hai giai đoạn đầu tiên của nghiên cứu là đánh giá nhu cầu hoặc phát triển chương trình, và cả trong giai đoạn đánh giá để biết về kinh nghiệm của người thảo luận về một chương trình nào đó mà họ đã tham gia. Bằng cách tập hợp những người có điều kiện giống nhau, ‘nhóm tập trung’ tạo ra cơ hội cho họ tham gia vào các cuộc đàm thoại có ý nghĩa về các chủ đề nghiên cứu. Phỏng vấn nhóm tập trung - Phỏng vấn cá nhân Các nhà nghiên cứu thường phải lựa chọn giữa việc sử dụng phỏng vấn ‘nhóm tập trung’ hoặc phỏng vấn cá nhân, nhưng sự giống nhau cơ bản giữa hai phương pháp này cũng quan trọng như những khác biệt của chúng. Sự khác biệt rõ ràng nhất giữa các phỏng vấn nhóm tập trung và phỏng vấn cá nhân phát sinh từ hai khía cạnh liên quan chặt chẽ đến quy trình thực hiện chúng: tổng số người tham gia trong một nghiên cứu và số lượng dữ liệu người tham gia cung cấp. Một cách xem xét là so sánh các loại dữ liệu cung cấp của phỏng vấn các ‘nhóm tập trung’ với các loại dữ liệu cung cấp của các cuộc phỏng vấn cá nhân. Các ‘nhóm tập trung’ thường sẽ có số lượng người tham gia nhiều hơn, trong khi các cuộc phỏng vấn sâu thường sẽ cung cấp chi tiết hơn về mỗi người tham gia. Do đó, sự khác biệt giữa hai phương pháp này là phỏng vấn cá nhân hữu ích hơn khi mục tiêu đặt ra là để có được thông tin sâu và chi tiết về mỗi người trả lời, trong khi ‘nhóm tập trung’ sẽ hữu ích hơn khi mục tiêu là để nghe ý kiến từ một số người tham gia. 23
- Lựa chọn giữa phỏng vấn ‘nhóm tập trung’ và phỏng vấn cá nhân thường không phải là một vấn đề chọn cách sử dụng này hoặc cách sử dụng kia vì nên kết hợp cả hai loại. Thường thì người ta sử dụng một trong hai loại phỏng vấn trên sau đó sử dụng loại còn lại để thu thập thêm thông tin. Ví dụ, ‘nhóm tập trung’ có thể cung cấp thông tin giới thiệu chung, sau đó chọn một số người để tiếp tục tham gia phỏng vấn sâu. Thiết kế nhóm tập trung Thành lập nhóm Thành lập nhóm là một trong những bước quan trọng nhất của thiết kế ‘nhóm tập trung’. Đầu tiên là việc lựa chọn người tham gia ‘nhóm tập trung’, cần cân nhắc cả nhu cầu của các nhà nghiên cứu và lợi ích của những người tham gia. Thông thường, các nhà nghiên cứu mắc phải sai lầm khi xác định thành phần nhóm chỉ dựa trên nhu cầu riêng của họ, mà không chú ý đủ đến người tham gia. Ít nhất người tham gia cũng cần được cảm thấy thoải mái khi nói chuyện với nhau về các chủ đề nghiên cứu. Ngoài ra, để cuộc trò chuyện sinh động đòi hỏi thành viên nhóm phải tham gia trò chuyện tích cực về chủ đề cuộc phỏng vấn. Lựa chọn người tham gia: chọn người tham gia là những người có cùng quan điểm về chủ đề là cách phổ biến nhất để có được các cuộc trò chuyện tích cực. Cách thực hiện này thường được gọi là thành lập nhóm đồng nhất, tính đồng nhất ở đây là nói về những gì có liên quan đến chủ đề nghiên cứu hơn là sự đồng nhất trong các đặc điểm nhân chủng học. Tính đồng nhất trong thành phần nhóm khuyến khích những người tham gia đề cập đến chủ đề theo cả hướng đồng nhất và hướng khác biệt. Sự tương đồng trong nhóm khiến họ dễ dàng chia sẻ suy nghĩ và cảm xúc của mình về các chủ đề nghiên cứu, mặt khác, sự khác biệt của họ tạo ra một cơ sở thú vị để so sánh các ý kiến khác nhau của họ liên quan đến chủ đề. Nguyên tắc đồng nhất nói ở trên cũng được sử dụng trong phân chia các thành phần nhóm trong nghiên cứu có các nhóm tập trung. ‘Phân chia các thành phần nhóm’ có nghĩa là chia nhóm nhỏ để thảo luận thay vì tập hợp toàn bộ nhóm. Mỗi nhóm nhỏ lại có nhiều thành phần đồng nhất hơn. Đầu tiên là nó làm tăng mức độ thoải mái của những người tham gia trong mỗi nhóm nhỏ vì họ có điều kiện giống nhau. Thứ hai là nó cho phép so sánh một cách có hệ thống các yếu tố khác biệt giữa các nhóm nhỏ. Do vậy phân nhóm trong ‘nhóm tập trung’ có thể góp phần nâng cao chất lượng dữ liệu bằng cách tăng cảm giác có cùng lợi ích của người tham gia và cho phép so sánh các cuộc thảo luận khác nhau của các nhóm khác nhau. Câu hỏi Nếu không có hệ thống câu hỏi tốt thì sự lựa chọn thành phần nhóm tốt cũng không còn ý nghĩa. Nội dung của các câu hỏi phải đáp ứng nhu cầu của cả các nhà nghiên cứu và những người tham gia. Quan trọng là phải thiết kế các câu hỏi mà có thể khuyến khích sự tham gia tích cực của những người tham gia thảo luận về các chủ đề được các nhà nghiên cứu quan tâm nhất. Nếu người tham gia chưa hứng thú với chủ đề thảo luận, cần phải đặt ra 1, 2 câu hỏi liên quan đến nhu cầu của họ để khuyến khích sự năng động trong nhóm nhằm tạo ra sự tham gia tích cực của người tham gia vào các câu hỏi liên quan đến chủ đề nghiên cứu. 24
- Phong cách điều hành của người phỏng vấn Phong cách điều hành của người phỏng vấn là một vấn đề cần quan tâm khi thiết kế nghiên cứu cho các nhóm tập trung. Sự khác biệt phổ biến nhất là người điều hành có phong cách chỉ huy nhiều hay ít dẫn đến nhóm sẽ hoạt động theo hướng có cấu trúc (đóng) hay không có cấu trúc (mở). Ở các nhóm theo hướng có cấu trúc, người điều hành giữ vai trò chỉ huy đảm bảo cuộc thảo luận luôn tập trung vào chủ đề nghiên cứu. Phương pháp này phù hợp với nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến về một chương trình nghiên cứu đã được xác định. Ngược lại, nhóm theo hướng không có cấu trúc cho phép người tham gia tự do theo cách của họ, người điều hành chỉ hỗ trợ chứ không dẫn dắt cuộc thảo luận. Phương pháp này phù hợp với nghiên cứu mang tính khám phá. Phân tích dữ liệu định tính: phân loại và mã hóa Có nhiều phương pháp và kỹ thuật để phân tích dữ liệu định tính. Thông thường, các phương pháp phân tích có liên hệ chặt chẽ với các thiết kế nghiên cứu và các phương pháp thu thập dữ liệu. Tài liệu đề cập đến một trong những kỹ thuật cơ bản nhất được sử dụng trong nghiên cứu định tính: phân loại dữ liệu. Để phân loại dữ liệu cần phải đặt ‘mã’ cho các đơn vị có ý nghĩa của dữ liệu thông qua quá trình "mã hóa". Các quá trình phân loại và mã hóa thích hợp nhất trong trường hợp kết quả thu thập dữ liệu là ghi chép/biên bản (transcripts) của các cuộc phỏng vấn (nhóm hoặc cá nhân), phỏng vấn nhóm tập trung. Bản ghi chép (ở dạng viết) phản ánh chính xác những gì đã được nói trong một cuộc phỏng vấn (có thể gồm một số lý giải của người viết biên bản). Phân loại Phân loại là một phần chính của phân tích dữ liệu định tính. Các nhà điều tra tiến hành nhóm các mẫu quan sát được trong dữ liệu thành các đơn vị/nhóm có ý nghĩa. Nhờ đó các nhóm được tạo ra qua việc phân nhóm các dữ liệu đã được mã hóa. Việc kết hợp này dựa trên những điểm chung giữa các phần/yếu tố quan sát được đã được mã hóa. Sau đó các nhóm sẽ được tổng hợp/đặt tên dựa trên mối liên hệ giữa các nhóm. Phân loại sẽ tạo ra các chủ đề. Mã số và mã hóa Mã số và mã hóa là không thể thiếu trong quá trình phân tích dữ liệu. Mã số là các khái niệm và đặc điểm thông qua các tiêu chí rõ ràng. Mã số có thể được xây dựng trước khi thu thập dữ liệu hoặc có thể mới nảy sinh trong quá trình mã hóa. Trong nghiên cứu định tính, thảo luận về mã hóa thường được tập trung vào quá trình quy nạp tìm kiếm các khái niệm, ý tưởng, chủ đề và chuyên mục, hỗ trợ người nghiên cứu sắp xếp và diễn giải dữ liệu. Mã hóa là một quá trình Quá trình mã số và quá trình mã hóa có xu hướng khác nhau trong nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng. Trong nghiên cứu định lượng, mã số thường được tạo ra trước khi thu thập dữ liệu. Khái niệm và giả thuyết được xây dựng trước, và các phân loại và mã số của chúng được xây dựng từ lý thuyết hoặc từ các tài liệu hiện có. Người ta sử dụng các phân loại đã được xác định trước để cấu trúc các dữ liệu thu thập được. Ví dụ, trong thực tế nhiều bảng hỏi đã được mã hoá trước (các phân loại đã được liệt kê một cách rõ ràng và người trả lời được yêu cầu lựa chọn trong số các đáp án được cung cấp). Các phân loại (định nghĩa và đặc điểm) thường được đặt trong một bảng mã riêng của nghiên cứu. 25
- Trong nghiên cứu định tính, mã hóa là quá trình tạo ra các ý tưởng và khái niệm từ các dữ liệu thô như bảng ghi chép cuộc phỏng vấn, ghi chép thực địa, tài liệu lưu trữ, báo cáo và các bài báo. Quá trình mã hóa đề cập đến các bước nghiên cứu: xác định, sắp xếp, và hệ thống các ý tưởng, khái niệm, và các phân loại. Mã hóa bao gồm việc xác định các sự kiện, đặc điểm, cụm từ, hành vi, hoặc các giai đoạn của một quá trình và phân loại chúng bằng các ‘nhãn mác’. Sau đó tiếp tục được phân biệt hoặc tích hợp để xếp chúng thành các nhóm/loại nhỏ hơn để rút ra kết luận từ các dữ liệu. Một khung mã hóa, một chương trình đưa ra khái niệm chính, định nghĩa, và tiêu chí được xây dựng trong quá trình mã hóa và phân tích dữ liệu. Khung mã hóa có thể thay đổi và hoàn thiện ở các bước tiếp theo. Nhiều nhà nghiên cứu ghi lại những hiểu biết, ý tưởng, mô hình, và các kết nối thu được khi họ đọc dữ liệu. Hoạt động này được gọi là viết ghi nhớ (memoing), được thực hiện trong suốt quá trình mã hóa. Đối với nhiều người, mã hóa bắt đầu bằng sự chú ý đến chi tiết rất ‘tốt’ và phát triển thành các phân loại. Ghi chép bằng mã số giúp các nhà nghiên cứu theo dõi các điểm nổi bật của mã số và tiêu chí đặc biệt của mã số. Cho dù là để mô tả, tìm kiếm mô hình hay phát triển lý thuyết, mục tiêu của việc tạo ra mã số là để xác định chủng loại, chủ đề bằng cách làm rõ tiêu chí và cung cấp bằng chứng, và dựa vào đó để đưa ra các kết luận từ các dữ liệu. Phương pháp mã hóa Kỹ thuật và quy trình mã hóa và xử lý dữ liệu dựa trên lý thuyết nền tảng (lý thuyết được phát hiện từ các dữ liệu). Trong cách tiếp cận lý thuyết nền tảng, sự năng động của mã hóa được nhấn mạnh. Những người ủng hộ lý thuyết nền tảng đã chia quá trình mã hóa thành các giai đoạn để làm rõ logic của các phân tích, mặc dù họ cảnh báo rằng không có ranh giới rõ ràng tồn tại trong thực tế. Việc ghi nhãn các khái niệm và chủng loại trong giai đoạn đầu của công việc mã hóa được gọi là mã hóa mở. Trong các giai đoạn tiếp theo, nhà nghiên cứu bắt đầu hoàn chỉnh các danh mục cụ thể và đặc điểm của chúng, kiểm tra kỹ càng từng chủng loại. Tập trung đến các liên kết và mối quan hệ giữa một vài chủng loại (tích hợp các loại) được gọi là mã hóa có chọn lọc. Mã hóa ban đầu hay mã hóa mở Trong giai đoạn đầu sắp xếp dữ liệu này, cần đọc kỹ càng từng dòng dữ liệu để xác định ý tưởng và khái niệm mà không cần quan tâm nhiều đến các mối liên hệ. Có thể đặt ra các câu hỏi: Điều gì đang xảy ra? Điều gì đã được thực hiện? Làm thế nào nó được thực hiện? Ai đã thực hiện? Các mục tiêu là gì? Có ý nghĩa gì? Mục đích là gì? Có cảm giác hay suy nghĩ gì? Có thể bắt đầu việc mã hóa bằng việc tìm kiếm thông tin liên quan đến mục tiêu ban đầu và lợi ích của nghiên cứu. Cần giữ một tâm trí cởi mở đón nhận các vấn đề mới phát sinh. Mã hóa là công việc năng động. Bằng cách gắn nhãn mã/từ ngữ để xác định sự kiện, ý nghĩa, các hoạt động, hoặc hiện tượng, nhà nghiên cứu bắt đầu nhóm các trường hợp hoặc các sự kiện giống nhau và phân biệt những trường hợp, sự kiện khác nhau. Sau giai đoạn mã hóa mở là giai đoạn hoàn thiện. Một số khái niệm có thể được chứng minh nhiều lần, trong khi những khái niệm khác có thể được xem như là ít phổ biến hoặc có thể xem như là các biến thể của một khái niệm/chủ đề đã được xác nhận. Nhiều nhà nghiên cứu cho thấy rằng mã hóa mở nên được tiếp tục thực hiện cho đến khi không có gì mới và thú vị xuất hiện, một số mã bắt đầu trở nên nổi trội, và mối liên kết giữa các mã số bắt đầu hình thành. Đây là những dấu hiệu cho thấy cần tiếp tục xây dựng mã hóa tập trung và tích hợp. Trong quá trình thực hiện phân tích sẽ phát hiện ra các chủng loại và các đặc điểm rộng hơn. 26
- Mã hóa có chọn lọc Việc chuyển từ mã hóa mở sang mã hóa có chọn lọc không phải là một bước được xác định rõ ràng. Nhiều cảnh cáo cho rằng mặc dù có những hướng dẫn chung cho thấy diễn biến của quá trình mã hóa từ việc xác định khái niệm mới đến việc hoàn chỉnh và tích hợp các loại hiện có, không nên nghĩ quá trình mã hóa là tuyến tính. Một ý tưởng mới được phát hiện sau đó, hoặc là thu thập được nhiều dữ liệu hơn, khái niệm ban đầu có thể có thêm ý mới, cần mở rộng tầm nhìn hoặc có một tâm trí cởi mở với những khả năng mới có thể xảy ra. Một khi đã trải qua bước mã hóa dữ liệu ban đầu, thường có nhiều tiềm năng để tiếp tục với các chủ đề. Tuy nhiên, trong quá trình mã hóa có thể có các mục/loại và chủ đề cụ thể nổi trội lên, là trung tâm tích hợp một số khái niệm quan trọng, và/hoặc là mối quan tâm của một chủ đề nghiên cứu cụ thể. Khi đó các dữ liệu được xem xét kỹ càng và có hệ thống hơn, tập trung vào ít khái niệm và chủng loại cụ thể hơn để xác định xem cần tìm sự minh chứng ở đâu trong dữ liệu thu được. Để phân tích tập trung hơn và chi tiết hơn, nhiều khái niệm được định nghĩa lại và được kết hợp vào chủng loại rộng hơn, trừu tượng hơn, hoặc được hoàn chỉnh bằng cách tìm ra các biến thể của chúng. Thông qua rà soát và mã hóa dữ liệu, các mối liên kết giữa các mã khác nhau được thiết lập và mối quan hệ giữa các chủng loại được củng cố. Các nhà nghiên cứu có thể lấy tất cả các phân đoạn dữ liệu của một mã số nhất định và so sánh chúng, xác định sự phù hợp và tìm kiếm sự thay đổi hoặc những mối liên hệ khác. Một số người cho rằng mã hóa và phân tích dữ liệu định tính không thể hệ thống hóa hoặc dạy cho người khác được. Nó là một quá trình diễn giải liên quan đến sự sáng tạo và mang tính chủ quan. Ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu tin rằng, ngay cả nếu điều này là đúng, việc đặt ra quy trình và khuyến khích sự rõ ràng, minh bạch trong báo cáo cách thức tiến hành mã hóa dữ liệu sẽ hỗ trợ nâng cao độ tin cậy của nghiên cứu định tính. Tài liệu tham khảo: Morgan, David L. "Focus Groups." The Sage Encyclopedia of Qualitative Research Methods. Ed. . Thousand Oaks, CA: SAGE, 2008. 353-55. SAGE Reference Online. Berg, Bruce L. "Social Sciences, Qualitative Research In." The Sage Encyclopedia of Qualitative Research Methods. Ed. . Thousand Oaks, CA: SAGE, 2008. 827-32. SAGE Reference Online. Brinkmann, Svend. "Interviewing." The Sage Encyclopedia of Qualitative Research Methods. Ed. . Thousand Oaks, CA: SAGE, 2008. 471-73. SAGE Reference Online. Chenail, Ron. "Categorization." The Sage Encyclopedia of Qualitative Research Methods. Ed. . Thousand Oaks, CA: SAGE, 2008. 73-74. SAGE Reference Online. Benaquisto, Lucia. "Codes and Coding." The Sage Encyclopedia of Qualitative Research Methods. Ed. . Thousand Oaks, CA: SAGE, 2008. 86-89. SAGE Reference Online. Cohen, L., Lawrence, M., & Morrison, K. (2007). Research Methods in Education (6th edition). London and New York: Routledge. Web centre for Social Research Methods – Knowledge Base: 27
- Phụ lục 1: Sử dụng Google Forms HƯỚNG DẪN XÂY DỰNG BẢNG HỎI/PHIẾU KHẢO SÁT TRÊN GOOGLE FORMS Bước 1: Đăng nhập vào tài khoản Gmail Nhấp chuột vào Sign in Bước 2: Nhấp chuột vào chữ Documents Bước 3: Nhấp chuột vào chữ TẠO 28
- Bước 4: Nhấp chuột vào chữ Mẫu Bước 5: Tạo bảng câu hỏi 5.1. Điền tiêu đề vào ô “Biểu mẫu không có tiêu đề” 5.2. Điền hướng dẫn điền bảng hỏi vào ô “Bạn có thể đưa bất kỳ văn bản hoặc thông tin nào để giúp mọi người điền vào biểu mẫu” 30
- 5.3. Tạo các câu hỏi cho bảng hỏi Đánh câu hỏi vào ô “Tiêu đề câu hỏi” Chọn Loại câu hỏi phù hợp: Loại câu hỏi văn bản Thông thường loại câu hỏi này dùng để gõ mã số, gõ tên của người điền phiếu hoặc gõ tên đơn vị 31
- Loại câu hỏi văn bản của đoạn văn Thông thường loại câu hỏi này là các câu hỏi mở, yêu cầu người điền phiếu phải gõ câu trả lời. Ví dụ: Loại câu hỏi có nhiều lựa chọn Loại câu hỏi này cho phép người điền phiếu chọn một lựa chọn trong các phương án được đưa ra. Ví dụ: Loại câu hỏi hộp kiểm Loại câu hỏi hộp kiển cho phép người điền phiếu chọn hơn một lựa chọn trong các phương án được đưa ra Ví dụ 32
- Trong loại câu hỏi hộp kiểm này, người thiết kế có thể nhấp chuột vào chữ “Thêm “Câu trả lời khác”” cho phép người điền phiếu có thể gõ phương án trả lời khác ngoài các phương án đã đưa ra. Loại câu hỏi chọn từ danh sách Bản chất của loại câu hỏi này, giống như câu hỏi có nhiều lựa chọn, cho phép người điền phiếu chỉ chọn một lựa chọn trong các phương án được đưa ra. Điểm khác nhau là khi tạo xong câu hỏi, các phương án lựa chọn được sắp xếp như thanh sổ xuống. Khi tạo xong câu hỏi, các phương án lựa chọn được thiết kế như thanh sổ xuống. 33
- Loại câu hỏi thang tỷ lệ Thông thường loại câu hỏi này nhằm đề đánh giá mức độ cho một nội dung nào đó. Loại câu hỏi lưới Thông thường loại câu hỏi lưới này là câu hỏi lựa chọn mức độ đối với nhiều nội dung. Mỗi mức độ được đưa vào nhãn cột, trong khi đó mỗi nội dung được đưa vào nhãn hàng. Ví dụ: 34
- Nhấp chuột vào “Đã xong” nếu đã soạn xong câu hỏi. Nhấp chuột vào dấu mũi tên sổ xuống của để thêm câu hỏi Bước 6: Gửi bảng hỏi qua email Sau khi tạo bảng hỏi, nhấp chuột vào “Gửi biểu mẫu này qua email”, xuất hiện cửa sổ như sau: 35
- Nhập các địa chỉ email của những ngưởi cần gửi vào ô “tới” (mỗi địa chỉ email cách nhau bởi dấu phẩy (,)) Nếu muốn biểu mẫu này xuất hiện các trong email tới những người nhận, thì nhấp chọn vào ô “Bao gồm biểu mẫu trong email”. Lúc đó hộp mail của người nhận sẽ có email như sau: 36
- Người nhận chỉ điền phiếu đánh giá tập huấn này, nhấp chuột vào chữ “Gửi”, ngay lập tức dữ liệu của phiếu này sẽ được chuyến tới người xây dựng phiếu, và sẽ được phân tích. Bước 7: Thu thập dữ liệu và phân tích Khi người xây dựng phiếu muốn biết được bao nhiêu người đã điền phiếu, họ có thể đăng nhập lại vào Gmail/Documents. Nhấp chuột vào biểu mẫu đã tạo. Khi đó, màn hình sẽ xuất hiện một bảng tính (như bảng tính Excel) trực tuyến. Nhấp chuột vào chữ “Biểu mẫu”/Chỉnh sửa biểu mẫu/ xem phản hồi. Trong phần xem phản hồi này, sẽ cho phép xem theo bảng tính kết quả dữ liệu thu thập được, hoặc xem theo tóm tắt, trong đó sẽ cho phép xem bao nhiêu người đã điền phiếu, bảng thống kê và sơ đồ dữ liệu. 37
- Dựa vào những thống kê này, người thu thập bảng hỏi có thể đưa ra những giả định và kiểm chứng độ tin cậy và xác thực của dữ liệu. 38