Thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 1990 (Phần 2) - Lê Lưu Oanh

pdf 59 trang ngocly 2100
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 1990 (Phần 2) - Lê Lưu Oanh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftho_tru_tinh_viet_nam_1975_1990_phan_2_le_luu_oanh.pdf

Nội dung text: Thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 1990 (Phần 2) - Lê Lưu Oanh

  1. C h ư ơ n2 g Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1975-1990 Thơ trữ tình miêu tả ý thức xã hội với toàn bộ đời sống tinh thần của nó, từ những tư tưởng, quan điểm lí thuyết đến tình cảm, tâm trạng trong mối quan hệ quá khứ, hiện tại và tương lai. Ý thức xã hội thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi mối quan hệ thơ và đời sống, dẫn đến sự thay đổi mô hình, nội dung quan điểm về đời sống của cái tôi trữ tình. Tuy chưa có những thành tựu đáng kể như thơ những năm chống Mĩ, chưa có những đóng góp ồn ào như sân khấu kịch nói những năm 1985-1987, chưa có bước chuyển mạnh mẽ như văn xuôi những năm tám mươi, dù có bước đi không đều với một diện mạo khó xác định, thơ trữ tình giai đoạn 1975-1990 vẫn có những vận động và đổi mới. Sự được mùa và nở rộ của thể loại trường ca từ 1978 đến 1984 và giải thưởng thơ Báo Văn nghệ 1982 khiến người ta nghĩ đến một mùa gặt mới trong thơ1. Nhưng sau đó, từ 1985 đến 1989, các nhận xét về thơ đều giống nhau ở chỗ cho rằng thơ đang suy, đang khủng hoảng, nhàm và nhạt là phổ biến2,3. Từ 1989 đến nay, các ý kiến chia thành hai loại lớn. Do xuất hiện nhiều thơ loại hai, loại ba, nên có nhiều ý kiến bi quan cho rằng thơ rất cũ kĩ, cũ về chủ đề, giọng điệu, phi cá tính, giả tạo, xa rời cuộc sống, nhạt nhẽo, viển vông, đặc biệt là thơ tình4,5. Bên cạnh đó, với sự xuất hiện của giải thưởng thơ Báo Văn nghệ 1989-1990, giải thưởng của Hội nhà văn 1991, 1993, Tạp chí Văn nghệ Quân đội 1989-1990, Hội Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh 1993, khiến có những đánh giá tương đối lạc quan về tương lai thơ: thơ có đổi mới, bước đầu có cá tính, có những chuyển biến mới trong nội dung và hình thức diễn đạt6,7,8. Từ 1990 đến 1994, xuất hiện một số tập thơ mà dư luận chưa có những đánh giá thống nhất: Thơ tình (Bùi Chí Vinh), Ba sáu bài thơ tình (Lê Đạt, Dương Tường), Sự mất ngủ 1Tế Hanh. Tiến đến những mùa gặt mới trong thơ. Báo Văn nghệ số 40/1983. 2Tế Hanh. Thơ hiện nay. Báo Thể thao văn hóa số 32/1987. 3Thơ hôm nay (trao đổi). Báo Quân đội nhân dân ngày 6-6-1987. 4Nguyễn Sĩ Đại. Thơ hôm nay, cuộc luận bàn dang dở. Tạp chí Cửa Việt số 17/1992. 5Thơ và sự phát triển (trao đổi). Báo Văn nghệ số 10/1989. 6Hữu Thỉnh. Một giải thưởng thơ đáng ghi nhớ. Báo Văn nghệ số 10/1991. 7Phạm Tiến Duật. Giải thưởng thơ hai mươi tám cộng một. Báo Văn nghệ số 10/1991. 8Thơ trong tiến trình đổi mới văn học (trao đổi). Báo Văn nghệ số 26/1990. 43
  2. Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1975-1990 của lửa (Nguyễn Quang Thiều), Ngựa biển, Người đi tìm mặt (Hoàng Hưng), Bóng chữ (Lê Đạt). Một loại ý kiến ra sức phỉ báng chê bai những “cách tân” của các hiện tượng thơ này. Một bên lại rất ủng hộ. Mâu thuẫn trong quan niệm về thơ ấy đã diễn tả một thực trạng: rõ ràng có những nhà thơ không muốn đi con đường cũ, họ muốn tìm tòi đổi mới. Và phản ứng của những người đã quen thuộc với những truyền thống thi ca cũ là điều tất yếu. Sau 1975, bên cạnh những gương mặt thơ xuất hiện từ trước Cách mạng, trải qua hai cuộc kháng chiến như Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh, bên cạnh những nhà thơ xuất hiện từ thời chống Mĩ như Phạm Tiến Duật, Vũ Quần Phương, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Nguyễn Khoa Điềm, Thu Bồn, Thanh Thảo, Ý Nhi, Nguyễn Duy, đã xuất hiện nhiều gương mặt mới: Nguyễn Nhật Ánh, Lê Thị Kim, Lê Thị Mây, Nguyễn Thị Hồng Ngát, Dư Thị Hoàn, Đỗ Trung Quân, Hoàng Trần Cương, Bùi Chí Vinh, Đỗ Minh Tuấn, Trương Nam Hương, Nguyễn Quang Thiều, Phùng Khắc Bắc và sự trở về của Hoàng Cầm, Lê Đạt. Tất cả đã làm nên một dòng thơ bốn thế hệ trong sự chuyển giọng bắt nhịp vào một giai đoạn mới của thơ ca dân tộc. Chế Lan Viên xứng đáng là cây đại thụ của thơ ca dân tộc. Đến cuối đời ông còn đăng quang vòng nguyệt quế trong giải thưởng Hội nhà văn 1994, với tập Di cảo. Một số nhà thơ vẫn tiếp tục viết sau những năm chống Mĩ nhưng ít tiếng vang. Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Ý Nhi, Thu Bồn, Xuân Quỳnh vẫn viết khá sung sức, chính họ là những người vừa tiếp tục mạch thơ từ trước năm 1975 nhưng đã có những suy nghĩ khác làm nền cho sự đổi mới của lớp thơ sau. Tài năng của họ đã làm nên bề dày chất lượng của nền thơ 1975-1990, tuy không có những “tân kì”, “độc đáo” đột xuất. Lớp trẻ xuất hiện sau 1975 chưa có ai vượt hẳn lớp người đi trước. Tuy vậy, họ rất mạnh mẽ và cũng rất đa dạng. Tương lai còn đợi họ ở phía trước. Sự chuyển mình của thơ bắt đầu từ ý thức trữ tình (phạm vi đời sống quan tâm) do sự thay đổi rõ rệt của các kiểu cái tôi trữ tình. Cái tôi trữ tình sử thi dần dần vắng bóng, nhường cho cái tôi trữ tình thế sự và đời tư. Cái tôi lịch sử nhường chỗ cho cái tôi đời thường. Cái tôi công dân không bộc lộ mạnh mẽ bằng cái tôi cá nhân. Sự trở về với đời sống đích thực của trữ tình thông qua các chủ đề muôn thuở trong sự hòa nhập với cuộc sống bộn bề phức tạp, làm cho thơ hiện nay, dù chưa có những thành tựu rực rỡ, vẫn phần nào mang được diện mạo và hơi thở của những trăn trở, khát vọng thời đại vừa cố gắng vươn tới những bản chất đa dạng, vĩnh cửu vốn có của thơ trong tiến trình đổi mới của văn học hiện đại. 2.1 Cái tôi sử thi 2.1.1 Sự nối tiếp truyền thống Có thể gọi một cách khái quát, cái tôi trữ tình của thơ Việt Nam giai đoạn 1945-1975 chủ yếu là cái tôi sử thi bởi nội dung chính của văn học giai đoạn này là nội dung lịch sử-dân tộc. Sử thi là một khái niệm dùng để chỉ đặc điểm của một thể loại hoặc một loại hình nội dung văn học (Hêghen, Biêlinxki, Bakhtin, Pôxpêlôp) thường xuất hiện trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Tuy cách hiểu về sử thi còn khác nhau, nhưng chúng tôi dựa trên quan niệm cho rằng, văn học sử thi phản ánh những sự kiện có ý nghĩa lịch sử và có tính cách toàn dân. Nhân vật trung tâm của nó thường là những con người đại diện cho giai cấp, dân tộc với tính cách dường như kết tinh đầy đủ những phẩm chất cao quý của cộng đồng. 44
  3. 2.1. Cái tôi sử thi Khuynh hướng sử thi gắn liền với cảm hứng lãng mạn. Con người sống chủ yếu với lịch sử và tương lai. Cái tôi trữ tình sử thi xuất hiện với tư cách con người công dân-chiến sĩ mang cảm hứng lịch sử, thời đại dân tộc trên các chủ đề: đất nước và con người trong chiến tranh cách mạng. Với tư cách đó, con người có ý thức cao độ về trách nhiệm xã hội, trách nhiệm trước lịch sử, có tư thế đại diện cho sức mạnh của dân tộc và thời đại, đóng vai trò người chứng kiến, tự hào và ngợi ca sức mạnh tinh thần của Nhân dân và Tổ quốc. Đó là cái tôi mang sứ mệnh lịch sử. Ý nghĩa sử thi bộc lộ qua những mô típ trữ tình, hình ảnh biểu trưng, những hình tượng chủ đạo, cách lí giải và cấu trúc hình tượng, giọng điệu và cảm hứng trữ tình. Cũng là cuộc chia li nhưng chia li trong truyền thống là Hoa trôi dạt thắm, liễu xơ xác vàng (Nguyễn Du), Cùng trông lại mà cũng chẳng thấy, thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu (Đoàn Thị Điểm), Hoàng hôn đầy trong mắt trong (Thâm Tâm). Đó là cuộc chia li của loại cái tôi trữ tình khác trong các loại hình nội dung khác nên buồn là nét bao trùm. Còn chia li trong thời kì chiến tranh cách mạng lại là loại chia li màu đỏ mang màu sắc lí tưởng, nén tình riêng vì nghĩa lớn, dồn cảm xúc vào hành động: Tươi như cánh nhạn lai hồng (Nguyễn Mỹ); Xa nhau không hề rơi nước mắt, Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt (Nam Hà). Cũng là tình yêu lứa đôi nhưng ở đây tình yêu lứa đôi hòa lẫn tình yêu Tổ quốc, trong cùng chung một nhiệm vụ: Ngày mai hai đứa đã hai nơi, Hai đầu đất nước trong giông bão, Cùng chung chiếu đấu hai phương trời (Nguyễn Đình Thi); Anh đang mùa thắng lợi, Lúa em cũng chín rồi (Trần Hữu Thung). Vì thế, tình yêu cao cả nhất, đẹp đẽ nhất là tình yêu Tổ quốc: Có mối tình nào hơn, Tổ quốc? (Trần Mai Ninh); Ôi, Tổ quốc, nếu cần, ta chết, Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông (Chế Lan Viên). Tình yêu quê hương gắn liền lịch sử dân tộc: Những đêm ta nằm nghe mưa hát mưa ơi Giấc mơ xưa có chớp giật sấm gầm, Trang sử nhỏ nhà trường bỗng hóa mưa giông, Nghe như tiếng của cha ông dựng nước (Ca Lê Hiến). Ý thức về mình cao đẹp, tự hào nhất là thấy mình trong dòng thác nhân dân, đồng đội: Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ, Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa (Chế Lan Viên); Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá, Miệng cười buốt giá chân không giày, Thương nhau tay nắm lấy bàn tay (Chính Hữu). Cái chết không phải là sự mất đi, tan biến mà là sự thăng hoa, bay lên, tan vào đất nước, quê hương, hồi sinh trong lòng thiên nhiên, Tổ quốc, được đặt trong vĩnh hằng của đất nước nên vừa có cái nhẹ nhàng thanh thản, vừa có dấu ấn của sự bất tử: Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân (Lê Anh Xuân), Có phải thịt da em mềm mại trắng trong, Đã hóa thành những làn mây trắng (Lâm Thị Mỹ Dạ), Những người chết cho mùa xuân ở mãi (Giang Nam), Em sẽ là hoa trên đỉnh núi, Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm (Vũ Cao). Sự sống dù có trải trên nền đạn bom hủy diệt vẫn đượm màu hồng, mày xanh tươi mát, non tơ, vẫy gọi, hồn nhiên, sinh sôi nảy nở, biểu hiện sự bất diệt của tinh thần và tư thế không thay đổi của con người: Triệu tấn bom không thể nào làm sổ, Một hạt cườm trên cổ chim tơ (Chế Lan Viên). Hình ảnh đối lập tương phản được dùng để khẳng định sự tồn tại của con người trong bạo tàn: dòng thơ tươi xanh/dòng thơ lửa cháy; vầng trăng/quầng lửa; trang giấy học trò/nghìn cân bom đạn; ánh trăng ngân/đạn bom gào thét; giếng nước trong/đầy thuốc độc; tim tôi êm ả/sau rất nhiều gian lao; vẫn nguyên vẹn/sau rất nhiều từng trải; vẫn còn nguyên phong thái hào hoa/bận dẫu không hề phút nghỉ; mạch đập bình yên/báo động. 45
  4. Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1975-1990 Cảm hứng anh hùng và lãng mạn khiến con đường ra trận là con đường đẹp nhất: Đã hay đâu cũng say tiền tuyến, Mà vẫn bâng khuâng mộng chiến trường (Tố Hữu), Đường ra trận mùa này đẹp lắm (Phạm Tiến Duật). Ấn tượng mạnh mẽ và lớn lao để lại những cảm xúc khó phai mờ chính là những cuộc hành quân như là cuộc diễu hành của dân tộc trên con đường vì lí tưởng độc lập, tự do, từ Quân đi điệp điệp trùng trùng, Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan (Tố Hữu) đến Hàng ngũ ta đi dài như tiếng hát (Chính Hữu), từ Đêm ấy đêm trăng, Chúng tôi hành quân qua phà Long Đại (Vũ Đình Văn) đến Mùa thu này ta hát khắp Trường Sơn (Hoàng Nhuận Cầm). Trên con đường ra trận đó, người chiến sĩ ý thức về nhiệm vụ lịch sử của thế hệ mình: Anh đi là để giữ quê quán mình (Hoàng Trung Thông); Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới (Chính Hữu); Đường hành quân qua làng qua xóm, nơi có mắt mẹ xa vời bóng xám sân, có em gái hiền như lúa, mắt ngời xanh lam (Hữu Loan) Tình cảm riêng tư, đời thường chỉ là những phút dừng trong tình quân dân cá nước, là nơi gặp gỡ làm nên chiều sâu tình cảm con người. Và có những phút lặng khi người chiến sĩ gặp lại chính mình: Kỉ niệm một ngày mây, Khắc tên ngoài hang gió (Vũ Đình Văn), gặp lại tuổi thơ, gặp những niềm vui, cái đẹp của cuộc đời: Cây đã hé những mắt tròn chúm chím (Anh Ngọc). Đó là những giây phút chờ đợi trước giờ chiến đấu, những giây phút dồn nén chất trữ tình nhất, những giờ khắc con người cảm nhận sâu sắc về sự gắn bó máu thịt với quê hương, với kỉ niệm về Mẹ, về Đất đai, về Dòng sông, Cơn mưa, Cánh cò, Giọt sao, Hoa gạo, Khúc dân ca như những biểu tượng về truyền thống, lịch sử, về con người và đất nước. Trong chiến đấu ác liệt, cái tôi trữ tình có thiên hướng đi tìm sự bình yên để lấy lại thăng bằng, thể hiện sự điềm tĩnh, bất khả chiến thắng, một niềm tin bất tận vào tương lai: Suốt thời chống Mĩ, lí ngựa ô hát đến mê người (Phạm Ngọc Cảnh), Mảnh vườn khi nắng xế, nghe ong rù rì kêu (Bằng Việt). Chính trong sự đằm sâu vào kỉ niệm, tuổi thơ, phong tục, thiên nhiên mà cái tôi sử thi có chiều sâu phong phú về tâm hồn, tạo nên sức mạnh tinh thần uyển chuyển, nhuần nhị không gì bẻ gãy. Không phải ngẫu nhiên, giọng điệu mượt mà, du dương lại là giọng điệu phổ biến của cả một nền thơ. Điều này còn thể hiện trong cả các ca khúc trữ tình thời kháng chiến. Bên cạnh Không cho chúng nó thoát, Anh vẫn hành quân, là sự tiếp đón nồng nhiệt những Quê em miền trung du, Lên ngàn, Xa khơi, Quảng Bình quê ta ơi Bên những khúc tráng ca là bản tình ca, thậm chí anh hùng ca núp dưới vỏ tình ca để diễn đạt chất lãng mạn sử thi này. Trường Sơn đông, Trường Sơn tây (Phạm Tiến Duật), Nhớ (Nguyễn Đình Thi), Vàm Cỏ Đông (Hoài Vũ), Bài ca về hạnh phúc (Dương Hương Ly) là những ví dụ. Sau 1975, dư âm sử thi vẫn còn vang vọng trong những bài thơ về chủ đề chiến tranh, về nhân dân, Tổ quốc, đặc biệt trong những trường ca xuất hiện ồ ạt những năm 1978-1985: Những người đi tới biển, Những ngọn sóng mặt trời (Thanh Thảo), Đường tới thành phố, Sức bền của đất (Hữu Thỉnh), Đất nước hình tia chớp, Mặt trời trong lòng đất (Trần Mạnh Hảo), Sư đoàn (Nguyễn Đức Mậu), Sóng Côn Đảo (Anh Ngọc) Trong các tác phẩm này, cái tôi sử thi vẫn tiếp tục những cảm hứng lớn ngợi ca Tổ quốc, Nhân dân, khẳng định và tự hào trên những sự kiện lớn, những chiến công vĩ đại của dân tộc. Trước hết, đó là sự tự ý thức về chân dung tinh thần thế hệ cầm súng: Cả thế hệ xoay trần đành giặc, Mặc quần đùi khiêng pháo lội qua bưng (Thanh Thảo), Lứa cầm súng suốt một thời trai trẻ (Nguyễn Duy). Chiều sâu tâm lí của con người sử thi được phát hiện thông qua việc đề cao ý thức 46
  5. 2.1. Cái tôi sử thi công dân, ý thức trách nhiệm trước dân tộc và lịch sử, qua sự ý thức về lựa chọn: Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình, Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc, Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc (Thanh Thảo), Nhưng trước mặt là Tổ quốc, dù chỉ gốc sim thôi, dù chỉ gốc sim cần, Anh ôm súng bò lên với trái tim tình nguyện (Hữu Thỉnh). Sự lựa chọn giản dị và quyết liệt. Trong thơ trước 1975, tư thế con người bước vào trận đánh hồn nhiên hơn, đơn giản hơn, dường như không chút day dứt về số phận cá nhân: Những buổi vui sao, Cả nước lên đường; Gian nhà không mặc kệ gió lung lay (Chính Hữu); Rắn mình em chịu có sao đâu (Tố Hữu). Ở giai đoạn này, cái tôi sử thi nghiêng về suy nghĩ, phân tích, lí giải về vị trí, sự ứng xử của mình và đánh giá được nó: Người ta không thể chọn để được sinh ra, Nhưng chúng tôi đã chọn cánh rừng phút giây năm tháng ấy (Thanh Thảo). Họ khẳng định mình như một thành viên của cuộc trường chinh giải phóng, là một chiếc lá của rừng cây, một giọt nước của dòng sông, một ngọn sóng của biển cả, một hạt cát của đất đai, một ngọn cỏ trong rừng già, một chiếc áo trong điệp trùng áo lính. Nhưng thành viên ấy không hòa tan vào cộng đồng mênh mông nhờ ý thức về chính mình, về số phận thế hệ mình. Nhân vật trữ tình xuất hiện với tư cách người nhập cuộc, người tham gia lịch sử chứ không phải người ngợi ca lý tưởng nên mọi lựa chọn đều đau đớn hơn, vật vã hơn và khắc nghiệt hơn. Trong Đường tới thành phố (Hữu Thỉnh), người lính trước giây phút ôm súng bò lên với trái tim tình nguyện, đã nghĩ về mẹ, về người vợ có thể chỉ giây phút nữa thôi sẽ thành vọng phu của muôn đời. Họ đi tới chiến thắng không ung dung, thanh thản, vô tư mà trong sự xao động và thử thách thực tế thường xuyên của toàn nhân cách. Mô típ ngày ra trận - ngày hội thi vị lãng mạn không còn. Phần mở đầu của các trường ca đều đặt vấn đề từ Mẹ, từ Tuổi trẻ, Đất đai như là một khát vọng về tình yêu của những con người rất yêu hòa bình, yêu tự do, yêu sự sống nhưng bắt buộc phải cầm súng. Sự đối thoại, bàn luận với lời cỏ cây, dòng sông, cánh đồng, biển cả như là sự hiện diện giữa Sự sống vĩnh cửu và Cái chết nhất thời. Bằng con mắt của những người trực tiếp cầm súng, nhân vật trữ tình chú ý những sự kiện đời sống chiến tranh mang nặng sức biểu cảm và có giá trị thuyết phục bởi tính chân xác của nó qua những trải nghiệm thực sự của người lính. Cách nhìn đối với hiện thực ấy được gọi là “thi pháp xác thực”, “thi pháp của người trong cuộc”. Đó là cái nhìn chiến tranh từ góc độ chiến hào mà thế giới đã từng có với Lửa (H. Bacbuyt), Phía Tây không có gì lạ (E. M. Rơmacơ), Phát tên lửa thứ ba (V. Bưcôp), Tuyết bỏng (I. Bônđarep) Dưới cái nhìn đó là những câu thơ bật lên từ đời sống hiện thực vừa âm thầm vừa quyết liệt, vừa nóng bỏng dữ dội nhất: Một mình một mâm cơm, ngồi bên nào cũng lệch (Hữu Thỉnh), Ánh chớp mìn Clây-mo, bàn tay chầm chậm buông rời tàu dừa nước (Thanh Thảo), Con chúng mình sinh ra không có trên mặt đất, Tuổi lẫy của con không có chiếu giường, Tuổi con bò không nền nhà bằng phẳng, Tuổi con ngồi không nắng đến soi gương (Trần Mạnh Hảo), Ở xứ sở xẻ đất mà giữ đất, Ngực con người ngực đất chạm nhau (Lê Lâm). Tính chân thực do đó trở thành tiêu chuẩn thẩm mĩ cao nhất. Tâm hồn con người sử thi không đơn giản, có nhiều suy nghĩ về cuộc sống, quê hương, lương tâm, nghĩa vụ, sự hi sinh Thực chất phần đông người lính cách mạng Việt Nam có nguồn gốc là người nông dân, cho nên mọi quan hệ ràng buộc trong tâm hồn vẫn là mối quan hệ với ruộng đất, làng quê với mọi phong tục, nếp sống và các hình ảnh nông thôn: dòng sông, hoa gạo, hoa xoan, bờ ruộng, vườn cây, hạt gạo, con đò. Trong mối quan hệ tinh thần ấy họ ý thức rất rõ về cội nguồn với mảnh đất sinh ra mình. Họ thấy mình vừa là yếu 47
  6. Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1975-1990 tố trong dòng chảy sinh sôi vĩnh cửu của sự sống nhưng cũng là tinh hoa của đất đai: ngọn lửa, bài ca, ngôi sao, quả chín. Sức mạnh tinh thần cũng như sự yên tĩnh, lòng tự tin của họ bắt nguồn từ đó. Con người sử thi vẫn là con người bình thường nhưng vĩ đại, vô danh mà cao cả. Họ được đồng nhất vào đội ngũ trùng điệp của dân tộc, vào lịch sử nghìn năm: Những ngọn súng tinh tường xuyên bóng tối, Đôi mắt nhìn mang lửa cháy nghìn xưa (Trần Mạnh Hảo). Đây là hình thức tạc chân dung con người vào đất nước, lịch sử, một mô típ thường gặp của sử thi với Ngủ rừng theo địa hình đánh giặc (Nguyễn Đức Mậu), Lá đỏ (Nguyễn Đình Thi), Những dấu chân qua trảng cỏ (Thanh Thảo), Dáng đứng Việt Nam (Lê Anh Xuân). Con người tồn tại trong vĩnh hằng của nhân dân và Tổ quốc. Sự lựa chọn cuối cùng được trả giá bằng chiến thắng, chấm dứt cuộc hành quân dài ba mươi năm của dân tộc để cuối cùng, dân tộc đã đi tới biển (Thanh Thảo), tới thành phố (Hữu Thỉnh), tới thành phố Hồ Chí Minh là đích phía chân trời (Chế Lan Viên), tới Mặt trời êm ả xanh không tưởng, Mặt đất bình yên giấc trẻ thơ (Tố Hữu). Hình ảnh về biển, về thành phố, trời xanh, mặt trời là những hình ảnh chói chang, rực rỡ nhất của chiến thắng. Trên con đường tìm kiếm và khẳng định chân dung của mình, cái tôi sử thi có xu hướng tìm về cội nguồn sức mạnh nhân dân. Do đó, hình tượng nhân dân là hình tượng mang sức khái quát đẹp đẽ nhất của thơ ca chủ đề sử thi. Trong Những người đi tới biển (Thanh Thảo), hình tượng nhân dân với sức sống bất diệt tiềm tàng được biểu trưng bằng hình ảnh dòng sông, đầu nguồn, biển, mạch nước, bài ca, ngọn lửa: Mang lịch sử qua trăm nghìn thử thách, Dân tộc này còn tiềm ẩn những dòng sông; Chính chúng ta là dòng sông, mỗi chúng mình là giọt nước; Thời khai mở những mạch ngầm khát vọng, Những dòng sông tuôn chảy hết mình; Dân tộc tôi khi đứng dậy làm người, Trời sao lặn hóa thành muôn mạch nước, Chảy âm thầm chảy dọc thời gian. Trên dòng sông, con người chuyền giữ trao tay nhau ngọn lửa và bài ca như những giá trị tinh thần nhỏ bé nhưng bất diệt. Cảm hứng này đồng dạng với cảm hứng của Mặt đường khát vọng (Nguyễn Khoa Điềm), Dòng sông Mẹ (Nguyễn Duy), Vàm Cỏ Đông (Hoài Vũ). Tiếp đến, Thanh Thảo đã đẩy sâu hơn sức khái quát về nhân dân qua hình tượng sóng trong Những ngọn sóng mặt trời. Theo Sử Hồng và Trần Đăng Xuyền, bằng hình tượng sóng, Thanh Thảo đã thể hiện tư tưởng nhân dân là trường tồn, là muôn đời, là bất diệt. Đó là sức mạnh tồn tại trong không gian-thời gian9. Sóng là hình thái tồn tại vĩnh hằng thể hiện sức mạnh khôn cùng của nhân dân, qua ngọn sóng vừa vô hình vừa hữu hình, ai cũng thấy mà không nắm bắt được: Đã bao lần xuống biển lên trời rồi trở lại, Đã cháy khô tới giọt cuối cùng, Mà trong như thể trong nguồn, Tràn trề như thể chưa từng cạn vơi. Sóng là tượng đài kỉ niệm nhân dân hùng vĩ sừng sững giữa trời: Dựng ngọn sóng ngang trời bằng đá trắng. Trong khi đó, Thu Bồn, Hữu Thỉnh lại chú ý đến đất đai như cội nguồn mơ ước, khát vọng tượng trưng cho sự bền bỉ lòng kiên nhẫn, nhân hậu, thủy chung với trường ca Người vắt sữa bầu trời, Sức bền của đất, nối tiếp cảm hứng từ Ước mơ của đất (Nguyễn Thi), Đất (Anh Đức), Đất Quảng (Nguyễn Trung Thành), Đất nước (Nguyễn Đình Thi). Còn Nguyễn Duy và Ý Nhi lại tìm thấy ở cát cái vĩnh cửu của cuộc sống nhân dân. Nguyễn Duy thấy hạt cát mang trong mình mọi điệp khúc thăng trầm của con sông như một nhân chứng về 9Sử Hồng, Trần Đăng Xuyền. Suy nghĩ về nhân dân trong “Những ngọn sóng mặt trời” của Thanh Thảo. Báo Văn nghệ số 23/1983. 48
  7. 2.1. Cái tôi sử thi sự chuyển giao vĩ đại các thế hệ đã sinh ra, lớn lên, biệt xứ và trở về cội nguồn, các thế hệ lặn lội lên ghềnh xuống thác, sống đời sống nhọc nhằn vất vả nhưng đầy lẫm liệt. Đó đích thực là dòng chảy của số phận nhân dân: Thấy hạt cát có cái gì bất diệt. Cát trong thơ Ý Nhi hiện lên như một đài tưởng niệm vô hình chìm sâu trong lòng đất về những cuộc đời đã hòa tan trong cát. Trong sự giao tiếp tâm linh âm thầm với những số phận nằm dưới cát bạt ngàn, nhà thơ cảm nhận được sự trường tồn vĩnh cửu, nhưng cũng thật là hư vô và bất hạnh của nhân dân. Đó là những số phận dù bỏng khô, quyết liệt nhưng vẫn lặng lẽ sinh sôi như hạt mầm trong sỏi đá, như đốm lửa dưới tàn tro, mãi mãi chói ngời bên biển sáng, chói lọi vô bờ. Và hình ảnh đích thực về số phận nhân dân cuối cùng tập trung vào hình ảnh người phụ nữ, vốn đã được khơi nguồn từ truyền thống. Mẹ, chị và em, đó là những con người cụ thể với tất cả mọi khổ đau âm thầm, nhẫn nại, thủy chung, kiên cường và nhân hậu trong mọi cuôc đời chung và riêng. Nhưng các nhà thơ không dừng lại ở đấy mà đi đến một triết lý khái quát về vẻ đẹp cội nguồn này. Mẹ, đó là chỗ nhạy cảm nhất của trái tim con người, là cái đầu tiên và cái cuối cùng của mọi điều cao cả trên thế giới, là điểm tựa, nơi trở về, chốn nương thân, nơi đặt niềm tin, nơi con người hiện hữu những tình cảm thiện tính của mình: Con thương mẹ, con thương đất nước, Áo vá vai như ruộng vá chân đồi, Con thương mẹ, con thương lưỡi cuốc, Suốt một đời không được ngẩng đầu lên, Những lưỡi cuốc như mỏ gà bới đất, Cánh đồng sâu chân mẹ quánh phèn (Trần Mạnh Hảo); Mẹ đang đi gánh rạ giữa đồng, Rạ chẳng nặng mà nặng nhiều vì gió, Đã bao lần mẹ nuôi tôi như thế (Hữu Thỉnh); Cho con xin bắt đầu từ mẹ Ngày mai con đi, Nửa đất đai này mẹ gánh (Thanh Thảo). Những câu thơ về mẹ là những câu thơ đẹp nhất trong dòng thơ sử thi này. 2.1.2 Sự nhạt dần của chất sử thi Chiến tranh đã lui vào quá khứ, hào quang chiến thắng, tiếng kèn và cờ hoa thắng trận bớt rực rỡ, ồn ào. Sau một quãng lùi lịch sử, một khoảng cách về thời gian, dòng sử thi nhạt dần, bớt đi khí vị anh hùng cao cả đầy màu sắc lãng mạn mà trở nên thâm trầm, sâu lắng hơn với những sắc màu và bình diện mới. Con người sử thi vốn vẫn tồn tại trong vô vàn các quan hệ và các bình diện: tập thể-cá nhân, lí tưởng-hiện thực, tiền tuyến-hậu phương, sống-chết, được-mất, cho-nhận, cống hiến-hưởng thụ, vì người-vì mình, lí tưởng chung-số phận riêng, ra trận-trở về, đội ngũ-cá nhân Nếu trước đây, con người ấy được nhìn nghiêng về mặt dân tộc, tập thể, lí tưởng, chiến trường, cống hiến thì giờ đây, những cảm nhận đã nghiêng về trục đối lập. Cảm hứng trữ tình chuyển từ tự hào, ca ngợi, chiêm ngưỡng xuống lắng đọng, suy tư. Không gian chuyển từ rộng sang hẹp, từ không gian lịch sử sang không gian đời tư. Những vấn đề sử thi chuyển dần sang màu sắc thế sự. Cái nhìn chuyển từ vĩ mô xuống vi mô, từ cao xuống thấp, từ số phận chung của đất nước, dân tộc đến số phận những con người cụ thể. Sự cố gắng cao giọng, lên gân mất đi, nhiệt độ cảm xúc hạ xuống. Dòng thơ sử thi thiếu đi chất hùng tráng nhưng lại mang vẻ đẹp tâm trạng, của sự cảm nhận chiến tranh trên những cung bậc mới. Xuất hiện tâm thế đối thoại, một tâm thế xác nhận những quan niệm, giá trị, các tiêu chuẩn khác với cách nhìn nhận truyền thống theo con mắt sử thi. Những cảm nhận về hi sinh đã khác xa cảm nhận cũ. Sự hi sinh không còn là sự hồi sinh, thăng hoa mà là nỗi lạnh lẽo, cô đơn, một nỗi buồn chiến tranh: Dáng nghĩa trang như một 49
  8. Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1975-1990 dáng thở dài (Hoàng Trần Cương). Hình ảnh ngôi mộ chiến sĩ không còn ở tư thế tượng đài, cao chót vót: Em sẽ là hoa trên đỉnh núi (Vũ Cao), Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân (Lê Anh Xuân), Trên mồ em có mùa xuân nở mãi (Dương Hương Ly), hay tư thế hóa thân vào thiên nhiên, trời đất như những biểu tượng cao cả: Có phải thịt da em mềm mại trắng trong, đã hóa thành những làn mây trắng (Lâm Thị Mĩ Dạ) mà trở về vị trí thật của nó: Mặt đất, lạnh lẽo, cỏ và sương lạnh, không hương khói, lẫn vào hư vô: Sau trận đánh tôi về thành phố, Bạn ở lại rừng sương rơi trên mộ (Lê Văn Vọng); Ở rừng xanh mộ bạn anh đã mấy lần thay cỏ, Thương nhớ cắm hoa mờ bia trắng (Hoàng Trần Cương); Người vô danh hoa cỏ cũng vô danh (Ngọc Bái). Tư thế người lính không còn cao vòi vọi để người đời chiêm ngưỡng (như Lịch sử hôn anh, chàng trai chân đất - Tố Hữu) mà chính bản thân họ ý thức được giá trị của mình, chối bỏ mọi hào quang: Ta là đất đai thôi, xin đừng nặn ta thành những tượng thần, xin đừng nặn ta thành những núi cao (Thu Bồn). Xác định chỗ đứng thật của mình: Không biết từ bao giờ ta đã chán trời xanh, ta quên đi cả sức mạnh không lồ ta gửi vào mây gió, Hồi ức của ta, khát vọng của ta đã cắm vào mặt đất, nơi những anh hùng gửi lại xương trước lúc ra đi (Đỗ Minh Tuấn). Nhìn thẳng vào hiện thực không tô vẽ của chiến tranh: Con trai vừa lớn lên, chưa biết yêu đã biết cầm súng, đứng vào đội ngũ Đường đến với Tổ quốc là đường đi qua cái chết (Lê Lâm). Đây chính là dấu hiệu đổi thay của hệ giá trị sử thi. Cái tôi sử thi không còn được nhìn ở góc độ nhiệm vụ, cống hiến, anh hùng mà được nhìn từ phía sau, phía của đời thường. Do vậy, mô típ người lính trở về, anh hùng giữa đời thường là một mô típ phổ biến. Chia tay với lịch sử, với sứ mệnh lớn lao để trở về với cuộc sống đời thường bộn bề, phức tạp và rắc rối, từ vị trí anh hùng trở về vị trí người dân, sự chuyển đổi khắc nghiệt nhưng tất yếu, người lính kiêu hãnh của giai đoạn sử thi sẽ suy nghĩ và ứng xử ra sao, cái gì còn, cái gì mất, cái gì đã cho, cái gì sẽ nhận? Điều gì sẽ nảy sinh trong tâm hồn họ? Thánh Gióng trở về (Đỗ Minh Tuấn) là một cảm nhận mang tính triết lí về số phận anh hùng trong đời thường: Tất cả mọi người sẽ thắt lưng buộc bụng để nuôi ta, để muôn đời ta biểu diễn mục vươn vai hay ta sẽ phải chết? Nếu ta trở về dưới đất để trở thành cát bụi thì biết đâu một ngày kia sẽ có những hạt bụi, nhân danh ta mà vươn vai lớn dậy thành núi ngăn đường, và huyệt chôn ta cũng sẽ biết vươn vai lớn lên thành vực thẳm. Chọn một cách ứng xử như thế nào cho hợp lí khi con người đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình là một điều không dễ. Đường ra trận đẹp và hào hùng là thế, tư thế ra trận kiêu hãnh, ồn ào, đông đúc vui vẻ, trùng trùng điệp điệp là thế mà sự trở về lại cô đơn, pha chút xót xa: Người lính trở về, không trách cứ, không hàm ơn số phận. Người lính trở về đời thường, thân quen và lạ lẫm, Hơi thở lạnh lẽo cái chết đã sau lưng, Cái nhìn nghiệt ngã cuộc đời, trước mắt (Nghiêm Huyền Vũ). Sau chiến tranh là một cuộc sống khác. Ra khỏi đội ngũ, người lính hiện diện với tư cách những số phận cụ thể, và trước mắt họ là bao điều khắc nghiệt của đời thường, mà họ, giờ đây tồn tại như một con số đơn lẻ, phải đón nhận. Đó là sự nghèo khổ, đói rách của quê hương, bạn bè, người thân: Người lính về quê chặt tre thưng vách, Nhà mẹ nhiều năm giàu quá những sao trời (Thu Bồn), Chúng tôi đánh giặc mấy mươi năm, giữ từng tấc đất từng cây lúa, Máu thấm những dòng sông, thửa ruộng, con đường, Máu trào qua hạt gạo, sao vẫn đói? (Trần Sơn Nam). Sự muộn màng, lỡ dở của hạnh phúc lứa đôi: Bây giờ anh vào tuổi 50
  9. 2.1. Cái tôi sử thi bốn mươi, Vẫn hốc hác khuôn mặt thời lính trận Đâu chỉ lỡ một chuyến đò đánh chìm duyên đôi lứa (Hoàng Trần Cương); Người yêu anh đi lấy chồng rồi, Bế con người đứng đón anh dưới bóng trúc, Anh nghe tiếng nàng cười và nàng khóc (Trần Đăng Khoa) Tuổi trẻ tàn phai: Một thời con mắt lá răm, Một thời con gái đăm đăm hẹn thề, Soi thời con gái mà thương, Nước da sốt rét tóc vương sợi buồn (Thu Bồn); Trôi nổi suốt con đường thời chinh chiến, Tiếng bom ngưng mới nghĩ chuyện mình già (Mai Hồng Niên). Nỗi cô đơn của những người yêu, người vợ, người mẹ: Hẹn một lời chờ đợi mấy ngàn ngày (Vương Trọng); Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền (Hữu Thỉnh); Chiến tranh mất mát qua rồi, Bao nhiêu bà mẹ vẫn ngồi chờ con (Thái Thăng Long). Đó là những cảm nhận về dư âm chiến tranh một cách máu thịt đầy đau đớn mà C. Ximônôp từng nói: Chỉ có nhân dân mới biết chiến tranh thực sự là gì. Nỗi đau về mất mát hi sinh đến giờ mới ngấm với những ám ảnh, xót xa cứ trở đi trở lại. Qua sự mất mát: Và có thể là, sáng mai bừng mắt ra, mẹ sẽ nhận về tay mình một tờ giấy, như nhiều bà mẹ ở làng, tờ giấy mỏng manh nhưng lại nặng hơn ngàn tấn bom trút xuống tuổi già của mẹ (Trần Đăng Khoa). Qua niềm suy tư về cái được mất cho nhận: Ta vào cuộc chiến tranh, như vị tướng tài ba xông pha trận mạc, nghĩ đời mình là chuỗi chiến công, tuổi hoa râm về đưa ma mẹ, túi không tiền chỉ có quân hàm và cuống huân chương, Tướng quân ơi, nước mắt quá muộn màng (Trần Sơn Nam); Ta - đã ba mươi năm xa, Ba mươi năm nằm hầm, ba mươi năm làm mục tiêu cho những họng súng. Nhà dột, con dốt, vợ xa, mẹ già. Chỉ vì ta (Phùng Khắc Bắc). Qua những chiêm nghiệm về thân phận mình: Ôi đất nước cái ngày xong giông bão, Nắng mênh mông trong mắt chúng tôi cười, Mái tóc xanh da bớt thắm nửa đời, Người con gái trở về làm mẹ, Người con gái trở về băng vết thương đau xé, Giữa mặt trận đời thường viên đạn núp sau tim (Lệ Thu). Tuy nhiên, dù sự cảm nhận về chiến tranh và dư vị của chiến tranh trong đời thường có những ý vị khác xa cảm hứng anh hùng ca và lãng mạn, nhưng khi nhớ lại tuổi trẻ, tuổi hai mươi của mình, cái tôi sử thi không chối bỏ quá khứ. Họ vẫn khẳng định trách nhiệm, vị trí của thế hệ mình trước lịch sử, vẫn coi đó là thời sống đẹp nhất, say mê nhất, quên mình nhất, lí tưởng nhất: Thế hệ anh đã sống một thời, Xứng đáng để thế hệ sau kiêu hãnh (Trần Đăng Khoa); Tôi đi hết một thời trai trẻ, Đạn bom cào xé mặt quê hương, Cả nước chuyền tay nhau khẩu súng, Viên đạn đi chỉ một con đường (Trần Sơn Nam); Tuổi trẻ biến trăm sông thành thác, Dập tắt lửa chiến tranh bằng máu đời mình (Thu Bồn). Cái cao đẹp của cuộc sống chiến đấu vì lí tưởng độc lập tự do của dân tộc đã lùi vào quá khứ, nhưng trong những phút giây nào đó vẫn còn ám ảnh, bừng dậy, lóe lên như những vệt sáng trong tâm hồn họ: Chợt hiện về thăm thẳm núi non xưa (Nguyễn Duy), tạo thành những điểm tựa tinh thần của đời sống hôm nay: Những ngọn gió dịu dàng. Mạch máu âm thầm, thầm thì như máu mặn, muối đọng hồn tôi (Nguyễn Khoa Điềm). Cái tôi sử thi đã đi trọn quãng đường lịch sử của mình với hệ giá trị riêng, với những mô típ thẩm mĩ đặc thù. Hình tượng người chiến sĩ và hình tượng nhân dân là hai hình tượng trung tâm, vừa mang tính cụ thể vừa mang tính khái quát, quy tụ cao độ cảm hứng sử thi. Cái tôi sử thi vẫn mang những đặc thù giai đoạn văn học 1945-1975. Đó là cái tôi mang sứ mệnh lịch sử. Sau 1975, do môi trường sử thi không hoàn toàn thuần khiết, dưới cái nhìn hiện thực chối từ sự lí tưởng hóa, dưới sự thay đổi của điều kiện lịch sử-xã hội, ý thức về sứ mệnh lịch sử nhạt dần. Con người rơi vào một không gian vĩnh hằng. Hệ quy chiếu phản ánh với hệ thống giá trị, điểm nhìn và cảm hứng trữ tình thay đổi, nghiêng cái nhìn sang 51
  10. Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1975-1990 một lĩnh vực khác, lĩnh vực phi sử thi. Dòng thơ sử thi với cái tôi sử thi không còn giữ vị trí độc tôn, duy nhất, nhường chỗ cho sự phát triển của cái tôi trữ tình khác. 2.2 Cái tôi thế sự và đời tư 2.2.1 Sự thức tỉnh những nhu cầu xã hội và cá nhân Bản chất thơ trữ tình là ý thức về cái tôi, về giá trị bản thân, về quyền sống, quyền làm người. Con người trữ tình hiện nay đang trăn trở, kiếm tìm và khát vọng điều gì? Họ suy nghĩ, phủ nhận và khẳng định cái gì? Thơ hiện nay muốn hòa nhập vào hơi thở của thời đại phải trả lời được những câu hỏi ấy. Bởi lẽ, thơ phải “tìm thấy sức mạnh của mình trong lịch sử đang xảy ra, trong đời sống, đời sống của những con người này đặt ra” (Lui Aragông)10. Bước vào giai đoạn mới nhiều nhà thơ vừa tự phát hiện ra mình, tự thấy chán ghét lối thơ công thức, sơ lược, giả tạo, đồng thời xác nhận trách nhiệm và địa vị nhà thơ đối với lịch sử. Một ý thức mới về thơ xuất hiện. Sự trung thực xã hội trong tư tưởng với quan niệm phải dấn thân vào cuộc đời, phải tôn trọng sự thật là một mô típ trữ tình phổ biến: Cái đẹp là sự thật, Hơn cả tắm trong lửa trong nước là tắm trong những ý nghĩ trung thực (Thanh Thảo); Thơ lặng lẽ, gày gò, thơ như thanh thép nguội, thơ làm cột thu lôi dưới bão giông này (Nguyễn Khoa Điềm); Tôi đi qua tuổi học trò, Nói năng khuôn phép câu thơ sáo mòn, Cười mình quen thói đại ngôn, Thương vay khóc mướn véo von một thời (Anh Ngọc). Nhưng sự thật lại đòi hỏi lòng dũng cảm: Sự thật là một gánh nặng, người trung thực gánh sự thật bằng đôi vai trần trụi của mình (Ngọc Bái). Sự thật mang đến vẻ đẹp mới cho thơ ca: Tôi lột hết ngữ ngôn bóng bảy, những áo xống triệu thần trong những tụng ca, những bài thơ trẻ trung cởi áo dưới mặt trời làm nghĩa vụ công dân (Thu Bồn); Dẫu sinh nở muộn màng, Sự thật bật ra, ứa máu, Đẹp như nụ cười mẹ sau những cơn đau (Lê Nhược Thủy). Trách nhiệm công dân, đạo đức nghệ sĩ được đặt ra tuy âm thầm nhưng khá quyết liệt. Nhân cách nghệ sĩ đối với lịch sử được thể hiện trên hai phương diện: các vấn đề xã hội với tư cách công dân và những vấn đề đời sống cá nhân với tư cách một cá tính. Trong đó, sự thành thực được coi là cội nguồn, là sức mạnh của các khuynh hướng nội dung trữ tình, là yêu cầu đầu tiên dẫn đến các giá trị chân thiện mĩ của thơ trữ tình hiện nay. Nhu cầu xã hội cao cả nhất của giai đoạn 1945-1975 là nhu cầu độc lập tự do. Khát vọng bức thiết nhất, đau đớn nhất của con người giai đoạn 1980-1990 là khát vọng dân chủ. Sau nhiều năm không ít nhà thơ chợt nhận thấy một thời quá say mê lí tưởng mà quên mất hiện thực: Tôi đã đi quá nửa cuộc đời, Qua những thập kỉ hát ca, những thế kỉ anh hùng; Say mê quá chợt bây giờ nhìn lại, Chứa bao điều bão tố ở bên trong (Võ Văn Trực). Ta đã đến như một niềm kiêu hãnh, mượn trời xanh làm tấm thảm êm, để quên hết gập ghềnh trên mặt đất (Thu Bồn). Từ những năm 80, xã hội có những thay đổi mạnh mẽ, con người hoang mang trước sự phức tạp của đời sống với sự đảo lộn của những giá trị, những quan hệ chuẩn mực cũ. Trong thơ, xuất hiện giọng nói ngược, những cái nhìn giải cổ tích với một kiểu nhận thức lại: Nói với con (Thạch Quỳ), Bánh chưng bánh giầy, Chuyện cổ tích của bà (Bằng Việt), Đò Lèn, Tổ quốc nhìn từ xa (Nguyễn Duy). Thế giới không thể chỉ đẹp như trong truyện cổ tích (Tôi trong suốt giữa hai bờ hư thực, Giữa bà tôi và Tiên Phật Thánh Thần - Nguyễn Duy), chưa được như hình mẫu từng mơ ước (Ngày mai bao lớp đời dơ, Sẽ tan như đám mây 10Dẫn theo Nguyễn Quân, Vương Trí Nhàn. Mười nhà thơ lớn của thế kỉ. Nxb Tác phẩm mới. Hà Nội, 1982. Trang 271. 52
  11. 2.2. Cái tôi thế sự và đời tư mờ đêm nay; Đời hết kẻ sống lười ăn bám, Đời của ai dũng cảm hi sinh - Tố Hữu), vì vậy, thái độ đối với hiện thực phải là thái độ suy xét, công bằng, không áp đặt. Việc nhận thức về cái mong manh hư ảo của thế giới truyện cổ tích, của một thế giới trong lí tưởng đã dẫn đến một cái nhìn chân thật, từng trải hơn về cuộc đời, một cái nhìn tỉnh táo, rạch ròi và duy lí của lớp làm thơ xuất hiện sau 1975. Nhà thơ trực tiếp va chạm với một đời sống hiện thực không lí tưởng hóa, lãng mạn hóa của xã hội sau chiến tranh. Trước hết đó là nhận thức về nỗi đau có thực với những mất mát về con người, về tinh thần, ngày càng thấm sâu: Mấy đời xương trắng hóa vôi, Tro tàn âm ỉ mấy thời chiến tranh (Nguyễn Duy); Ta yêu em?, Ở cái thời tuổi trăng hóa đá, Ở cái thời đến máu cũng bạc màu (Nguyễn Khắc Thạch). Tiếp đó, là những cảm nhận về trạng thái xã hội hiện tại với những khiếm khuyết, băng hoại về môi trường và nhân cách, chứa đầy những thông tin nhức nhối, xót xa về số phận của những con người cụ thể, bộc lộ trước hết qua cuộc đời những người thân: bà tôi, bố tôi, mẹ tôi, vợ tôi, em tôi, thầy giáo tôi, bạn bè tôi (Tặng bạn - Bế Kiến Quốc; Giã từ Arêkhôvơ, Bán vàng - Nguyễn Duy; Thưa thầy - Đỗ Trung Lai; Có một chiều tháng năm - Đỗ Trung Quân; Với cha - Phan Cung Việt; Vật trang sức - Thuận Vi). Trạng thái xã hội ấy được trình bày qua những nỗi bất hạnh của con người mà sức mạnh và chiều sâu trữ tình đạt được nhờ bộc lộ những sự thật tàn nhẫn: thua thiệt, khổ sở, đói nghèo, mòn mỏi, bất công, trốn chạy quá khứ, xa lánh cội nguồn, suy thoái đạo đức, mơ ước lụi tàn, tài năng rơi rụng Những mô típ trữ tình này được trình bày qua các nghịch lí và các cặp mâu thuẫn: lí tưởng-hiện thực, chiến tranh-hòa bình, cũ-mới, lừa dối-sự thật, hiện thực-mộng mơ, thật-giả, nhớ-quên, được-mất, cho-nhận, khao khát-thất vọng, đam mê-tuyệt vọng, quá khứ-hiện tại, hi sinh-đền bù. Những quan hệ này tồn tại trong một môi trường, một con người, một sự kiện, tạo thành những bức tranh đời sống mang tính bi kịch (Đắng - Việt Phương, Các em nhỏ và những đống rác - Hồng Nhu, Đứa bé thả diều và vắt cơm cúng mả mới - Trần Vàng Sao, Ngày và đêm - Trần Nhương, Tự khúc trò chơi - Lê Chí, Lãng mạn - Bùi Thị Trinh, Những ổ khóa - Nguyễn Hoa, Hoa khoai - Nguyễn Anh Thuấn, Tháng ba - Anh Chi). Hình tượng nhân dân trong giai đoạn sử thi hiện lên với những biểu tượng về sức mạnh bất diệt của số đông qua các hình ảnh: cây, lá, rừng, biển, dòng sông, đầu nguồn, thì bây giờ nổi lên qua số phận những con người cụ thể, đơn lẻ, nhưng tổng hòa lại là niềm bất hạnh lớn lao. Sự thức tỉnh trước những bi kịch khổ đau của nhân dân được thể hiện bằng một loại từ có tính chất hối hận: tôi hốt hoảng, tôi nhận biết, tôi ngỡ, tôi đâu biết, chợt thấy mình có lỗi, bỗng tôi chợt thấy rằng, xin cúi đầu với nỗi nhức nhối về một nhu cầu xã hội: đạo lí, lẽ công bằng, niềm hạnh phúc, sự ấm no: Tôi sững sờ Gặp lại dáng mẹ tôi quạt thóc Bên đường hai mươi năm về trước Từ bàn tay của má Thổi vào hồn tôi những ngọn gió buồn Thổi vào hư không một luồng gió gắt Thổi vào cuộc đời bao điều day dứt (Má quạt thóc bên đường - Dương Kỳ Anh) 53
  12. Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1975-1990 Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế Bà mò cua xúc tép ở Đồng Quan Bà đi gánh chè xanh Ba Trại Quán cháo, Đồng Giao thập thững đêm hàn (Đò Lèn - Nguyễn Duy) Im phăng phắc dáng mẹ ngồi Tấm lưng còng đỡ cả đời bão giông Cúi đầu trước mẹ bao dung Nghìn lần tạ lỗi cánh đồng, quê hương (Tạ lỗi cánh đồng - Trương Nam Hương) Trong suy tư, cái tôi trữ tình nhận thấy lịch sử dù đổi thay nhưng vẫn còn những điều bất biến. Cảm giác về sự quay vòng trở lại những bất hạnh truyền kiếp diễn tả sự bất lực của con người trong những điều kiện lịch sử mới, tạo nên nỗi lo ngại: Mồ côi cha lên ba, Mười ba tuổi, anh đánh giày ngoài phố. Ba mươi năm cầm súng, mong xóa đi những bóng trẻ nhọc nhằn trên phố chiều đông, Ba mươi năm máu lửa, Giờ lại thấy em, còng còng, cặm cụi lau chùi, Người lính già, òa khóc (Sau ba mươi năm - Trần Tùng Linh). Mỗi bước đi của lịch sử, kể cả sự tiến bộ, bao giờ cũng kèm theo nỗi đau đớn, bao giờ cũng đi liền sự đánh mất cái gì đó không bao giờ lấy lại được. Đó là sự trả giá của những tiến bộ lịch sử: Lịch sử dấu tro tàn trong cẩm thạch, Dấu cơn mưa nước mắt thấm trên đồng; Một Pôntava mấy cõi chiến trường, Quằn quại những con đường dĩ vãng, Lót chân người dằng dặc máu xương (Nguyễn Duy). Bên cạnh đó là những dự cảm: tương lai không hề và không chỉ là hạnh phúc mà có cả bất hạnh, cả hy sinh lẫn tuyệt vọng, Thiện và Ác, tốt đẹp và xấu xa. Ít hoặc hầu như không có cảm giác về sự đổi thay đáng tin cậy. Vì thế, không có chiều thời gian tương lai trong loại thơ này mà chỉ tồn tại trạng thái bất ổn, lo âu. Trạng thái này được Nguyễn Quang Thiều dựng lại rất có hồn trong cảm nhận về một làng quê nghèo đói cay đắng, ao tù với bầu trời sắp bão oi nồng như cơn sốt, có những cơn gió dại loang lổ, điên cuồng quần quật trong đêm trường, với ánh sáng chói gắt như mặt trời mùa hè, với những tiếng chó sủa đầy ráo riết man rợ. Trong những biến động xã hội ấy, cái tôi trữ tình nhận thấy mình mất chỗ đứng và niềm tin: Niềm tin ơi, Xin đừng rơi như lá rụng trái mùa (Hoàng Trần Cương); Tôi chẳng sợ cuộc chiến tranh trong hòa bình, Nhưng lòng tin, tôi có lúc đói lòng tin, Tim tôi gióng hồi chuông cấp báo, Tôi đã đồng hành cùng gió bão, biết mặt từng đám mây khi giông tố nổi lên, Nhưng cuộc đời ôi thật mênh mông (Thu Bồn). Do thiếu niềm tin nên rơi vào tâm trạng hoang mang, hụt hẫng, đôi lúc bế tắc và bi phẫn: Ngó đi đâu cũng vang bóng cơ hàn (Nguyễn Quốc Chánh). Tuy còn nhiều băn khoăn, đau đớn, nhưng trách nhiệm công dân của cái tôi trữ tình hiện nay từ những cảm hứng về thời thế, con người, lịch sử vẫn nhằm tìm kiếm một đạo đức xã hội mang tính thời sự, một nghĩa vụ đối với nhân dân, một chỗ đứng của người nghệ sĩ, thể hiện khát vọng về một xã hội yên bình và hạnh phúc. 54
  13. 2.2. Cái tôi thế sự và đời tư Sự xuất hiện ồ ạt các tập thơ tình trong vài năm gần đây như là sự đòi hỏi bức thiết của con người trong đời sống riêng sau chiến tranh. Tình yêu thời chiến có đặc thù rất rõ. Tình yêu là nơi yên tĩnh, là sự thanh thản, là phút lặng trong chiến tranh, là biểu hiện của sự sống bất diệt trong bom đạn, là hậu phương, nơi gửi gắm hi vọng, đợi chờ của người ra trận. Đó là loại tình yêu mang lí tưởng xã hội cao cả, mang nét chung của một thế hệ, một giai đoạn lịch sử. Tình yêu hiện nay là một cõi miền rất riêng tư với các dạng vẻ vĩnh cửu của nó: mất mát, tan vỡ, hòa hợp, hờn giận, nỗi đau đớn tinh thần, sự trống rỗng vô vọng, niềm khắc khoải, chênh vênh, day dứt, dự cảm, nồng nàn Nó phức tạp hơn và trần tục hơn. Tình yêu bao giờ cũng có hai cung bậc: tinh thần và vật chất. Thơ tình trước đây chú ý khía cạnh lí tưởng hóa và mĩ hóa tình yêu. Tình yêu thời thơ ca lãng mạn 1930-1945 chủ yếu vẫn là loại tình yêu sương khói, mờ nhạt, vô định như trong một giấc mơ. Đến như Xuân Diệu, người đã chú ý đến các cảm giác thân xác của một tình yêu “lành mạnh và cường tráng” (Ăngghen), nhưng vẫn đề cao tính lí tưởng, coi tình yêu là đấng cứu rỗi của linh hồn. Thơ tình hiện nay tô đậm nét cảm nhận về tình yêu trần thế: Ai siết ghì tiếng nấc, Ai chất ngất môi mềm (Nguyễn Thụy Kha); Trên trinh bạch khỏa thân em, Ta khắc lên những chiếc hôn cỏ giã, Như những vì sao miên man đính vào thanh cao lòng đêm (Nguyễn Khắc Thạch). Có những khao khát về một hạnh phúc đời thường: Em nấu bếp nhìn anh trong mắt ướt, Thế là chiều Hà Nội bớt lang thang (Trần Quang Quý); Anh khoác ba lô về, Đất trời dồn chật lại, Em tái nhợt niềm vui, Như trăng mọc ban ngày (Lê Thị Mây). Nếu thơ tình ngày nay chỉ dừng lại ở sự tán tụng, ca ngợi và thưởng thức tình yêu thông thường, khó có thể đạt được điều gì cao hơn thơ tình các giai đoạn trước. Cái được khẳng định của thơ tình hiện nay là ở chỗ con người-cá nhân-tình yêu rất cứng cỏi và mạnh mẽ, đam mê và không bi lụy. Thơ tình lãng mạn khá sầu não với một không khí của lá úa, lệ rơi, tim vỡ, hoa tàn, hương nhạt, phấn bay, đàn chìm, máu ứa, lá rụng, hoa thừa, rượu ế Còn tư thế của con người trong tình yêu hôm nay là tư thế đáng trân trọng. Họ dám chịu trách nhiệm, công khai thừa nhận những lỡ lầm, mất mát, đau khổ, kể cả những điều trước đây kiêng kị không dám nói. Con người đối diện với nỗi bất hạnh của chính mình. Về nỗi lỡ duyên, lỡ thì: Anh hững hờ suốt cả mùa thu (Nghiêm Thị Hằng), Lỡ một thì con gái (Lam Luyến). Về sự tan vỡ: Bong bóng vỡ đầy tay, bong bóng cơi đầy mắt, Mảnh hồn nào em đánh mất vì anh (Đinh Thị Thu Vân); Rồi từ nơi ấy em đi, mang những tháng ngày góa bụa đời anh (Thuận Vĩ). Về những khao khát tình yêu (Thị Mầu - Anh Ngọc, Người đàn bà đang yêu, Khát - Hồng Ngát, Em sẽ yêu anh như tháng giêng - Phạm Thị Ngọc Liên). Về sự cô đơn (Hai nửa vầng trăng - Hoàng Hữu, Dẫu em biết chắc rằng anh trở lại - Xuân Quỳnh). Sự cứng cỏi ở chỗ thản nhiên trong cách ứng xử (Chồng chị chồng em - Lam Luyến), vì thái độ chấp nhập (Tự do và ràng buộc - Hồng Ngát), vì ý thức được tình thế như nó đang tồn tại (Không lời - Minh Nga, Hai người - Bùi Kim Anh, Hòn cuội và bông sứ - La Quốc Tiến) vì biết dừng lại với thái độ dịu dàng đầy kiêu hãnh (Vô hình - Phạm Thu Yến). Thơ tình của tác giả phụ nữ hiện nay đáng chú ý bởi cách nói táo bạo, thẳng thắn về những bi kịch và ước muốn cá nhân (Xuân Quỳnh, Dư Thị Hoàn, Hồng Ngát, Ngọc Liên, Thảo Phương, Đinh Thị Thu Vân ). Nhưng ẩn đằng sau tất cả cái mạnh mẽ, dữ dội ấy là ý thức sâu xa về thân phận, về những nỗi bất hạnh muôn đời của kiếp phụ nữ đã từng có trong thơ xưa. 55
  14. Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1975-1990 Bên nhu cầu về một hạnh phúc đời thường, tình yêu trần thế, sự thức tỉnh những nhu cầu cá nhân còn thể hiện ở nội dung: khẳng định cá tính. Con người cá tính hiện nay đang được khẳng định như một giá trị. Đó là nhu cầu ý thức về mình, xác định chỗ đứng của mình trước thế giới và trong các quan hệ xã hội, cá nhân. Cái tôi giai đoạn 1945-1975 mang sức mạnh của cả dân tộc, giai cấp, thời đại. Nó hòa đồng vào cái chung. Trở về đời thường, cái tôi phải dựa vào chính bản thân mình, cá nhân mình. Vì vậy việc trình bày một cách nhìn nhận về chính mình, tìm một gương mặt riêng, một giọng điệu riêng là nhu cầu bức thiết. Nhiều nhà thơ tự nhận thấy: Thơ viết ra ít bóng dáng của mình (Phan Xuân Hạt); Mà sao tôi chẳng là tôi, Khi hèn mọn đánh rơi mình vào quên lãng (Ngô Minh); Câu thơ dẫu viết xong rồi, Vẫn như thấy thiếu một lời ở trong, Một lời thốt tự đáy lòng, Một lời vẽ được chân dung của mình (Anh Ngọc). Bi kịch đánh mất cá tính bộc lộ qua những mô típ trữ tình: một thời lầm lỗi, một thời mê hoặc, một thời nói bằng giọng người khác. Vì thế, hiện nay, câu hỏi ta là ai? lại càng nhức nhối trong tâm hồn các thế hệ làm thơ. Và cũng không hiếm tuyên ngôn kiêu hãnh dựng chân dung tinh thần của chính mình: Uy lực của em, một vẻ đẹp không luật lệ, Sự bất thường chen nhau về hội tụ (Dư Thị Hoàn); Tôi cũng nhẹ và trong suốt, tựa hồn cây cỏ (Giáng Vân); Như tôi mang dấu ruộng dấu vườn (Nguyễn Duy); Kí hiệu của đời tôi là một chấm xanh ngắt (Phùng Khắc Bắc) đã ra đời. Không phải ngẫu nhiên mà khá nhiều bài thơ mang mô típ đối thoại với chính mình trong tư thế tự ngắm mình, một tư thế trước đây ít có (Không tự ngắm mình, Anh chẳng hay đâu hỡi chàng dũng sĩ - Tố Hữu): Tản mạn với mình (Diệp Minh Tuyền), Lục bát một mình (Trần Vàng Sao), Viết tặng nỗi buồn riêng (Lâm Thị Mỹ Dạ), Nói với bóng mình in trên vách (Hoàng Phủ Ngọc Tường), Ta gửi cho mình (Chế Lan Viên), Tôi nhìn thấy tôi (Nguyễn Khắc Thạch), Tôi chợt hiểu lòng tôi (Ý Nhi), Mình lại ru mình (Hồ Hồng Trâm), Tôi gọi tên tôi (Đinh Thị Thu Vân), Tôi tìm đến tôi (Tạ Hữu Yên), Tôi đang đi tìm tôi (Nguyễn Ngọc), Người đi tìm mặt (Hoàng Hưng). Đây là một trạng thái muốn tách mình ra khỏi thế giới để được thấy mình, cái tôi, rõ nhất. Mô típ đi tìm bản thân là một mô típ chứa đựng khát vọng khẳng định mình. Tập thơ Người đàn bà ngồi đan của Ý Nhi đã diễn tả khá sâu sắc hành trình tìm cái tôi ấy. Tác giả đã quay lại tuổi thơ, tuổi thiếu nữ, dừng lại phán xét người đàn bà trong hiện tại, đã tìm đến những năm tháng đầy hoài bão lớn lao với những cuộc đời âm thầm, mạnh mẽ, bất diệt, và lại trở về với nỗi cô đơn của người mẹ, người phụ nữ. Con đường đi tìm ấy bộc lộ qua những từ miêu tả sự khát khao, trông ngóng, mong đợi: đi tìm, dấu chân, kiên nhẫn, lang thang, ngóng đợi, mong chờ, đánh mất, tìm thấy, trải qua, đón gặp, bắt đầu, mong đợi, đi tìm đường dài, chờ đợi gì phía xa kia, lòng tôi qua năm tháng ra đi, trông chờ, đốm lửa đợi chờ, dự cảm phập phồng khi cánh buồm chợt mở, tôi hằng kiếm mong chờ, đường dài xa tít tắp, đoạn đường còn lại, tôi đến với nẻo đường kia, cuối con đường gặp biển, tôi trở về. Có những lúc tác giả tự nhủ đã tìm thấy nhưng rồi lại dường như chẳng nhận diện rõ mình vì thế tâm hồn tác giả luôn như “cây xao xác giữa ngày thường”. Chế Lan Viên trong những bài thơ cuối đời vẫn còn day dứt về “mình” và “ta”: Lại tìm ra mình trong hàng cây hai dãy, Đứng xao xác bên đường đưa tiễn gió thu qua; Hoa Lư ở đâu, Hoa lau ở đâu, Hồn ta ở đâu?; Mình là ta đấy thôi, Ta vẫn gửi cho mình, Sâu thẳm mình ư lại là ta đấy! Vậy mà, ông tưởng đã chạm đến câu trả lời đích thực cho cái Ta ấy từ ba mươi năm trước ở cái thuở: “Ta vì ai” khẽ xoay chiều ngọn bấc, Bàn tay người thắp lại 56
  15. 2.2. Cái tôi thế sự và đời tư triệu chồi xanh. Cái tôi con người là tổng hòa của vô vàn quan hệ, nó luôn vận động, biến đổi mà nghệ sĩ lại là người luôn khao khát đi tìm những giá trị tinh thần mới, vì thế hành trình đi tìm mình là một hành trình vô hạn, vô đích Do vậy, chưa bao giờ khát vọng tìm giọng nói riêng lại da diết đến như hiện nay. Các nhà thơ, mỗi người mỗi kiểu, tuy chưa định hình rõ rệt nhưng đều cố gắng có tiếng nói riêng của mình. Đó là tiếng ca về cuộc đời thông qua lăng kính của một nỗi buồn trong suốt của thơ Từ Nguyên Thạch, là cái nồng nàn táo bạo của Phạm Thị Ngọc Liên, là cái duyên dáng chân quê chỉ tôn thờ duy nhất một “lời thề cỏ may” của Phạm Công Trứ, là chất lí trí đời thường của Đỗ Minh Tuấn, là cái hư ảo dân dã cổ truyền (Ngô Văn Phú) hoặc tìm đến bản chất thiên nhiên hoang sơ mà lại đầy nhân tính, bụi bặm mà lại thanh khiết của con người (Nguyễn Quyến). Thơ trước đây cũng mỗi người mỗi vẻ, nhưng đó là sự phong phú của một nền thơ thống nhất trên cùng một tiếng thơ trữ tình chính trị, còn hiện nay, sự đa dạng về giọng điệu là kết quả của sự giải phóng ý thức, giải phóng cá tính. Bắt đầu là loại giọng cố tình nói ngược lại những điều quen thuộc: Con ơi con nàng Bạch Tuyết trong mơ, Không thể nào yêu con thay mẹ được (Thạch Quỳ). Các nhà thơ có ý xé rào, phá vỡ những công thức và mô hình cũ. Cái thản nhiên em nhặt bã trầu về têm của Đoàn Thị Lam Luyến, cái xứ sở mặt trời mà mùa nào cũng thiếu nắng của Nguyễn Quốc Chánh là thái độ cố ý làm khác người để khẳng định một tiếng nói riêng. Có người gọi Bùi Chí Vinh là kẻ phá phách đáng yêu trong thơ, bởi anh xuất hiện trong sự ồn ào của báo chí (năm 1991) với loại ngôn ngữ ngang tàng, đậm chất “giang hồ” “anh chị” ngược lại với ngôn ngữ hoa mĩ của tình yêu: Con gái Huế rất khó chơi, Con gái Nam rất hay cười, Ta dùng ngôn ngữ cao bồi biểu dương; Các em như miếng cá kho, Ngó vô thấy “đã” cắn vô thấy bà; Cái nhớ nhảy qua hàng rào Có người thử sức đi vào vùng cấm kị của thơ ca: sex (Hoàng Hưng, Dương Tường) gây nên những phản ứng khá quyết liệt. Sự giải phóng cá tính nhờ yêu cầu dân chủ hóa ý thức xã hội dẫn đến việc nhìn nhận con người theo nhiều hướng, nhiều chiều trong xu thế đa dạng và phức tạp hóa. Có ý kiến cho rằng, sự phức tạp của con người trong văn học hiện nay là đối trọng với sự đơn nhất, một chiều trong văn học giai đoạn trước. Thực ra, đó là sự trở về với hình ảnh con người đích thực trong cuộc đời. Con người là tụ điểm của cả thế giới vi mô và vĩ mô, tồn tại như một “cõi nhân gian bé tí”. Với nhận thức đó, cách lí giải cấu trúc con người ít nhiều thay đổi. Con người là một cấu trúc phức tạp tồn tại trong rất nhiều quan hệ. Các nhân vật trữ tình của Ý Nhi là kiểu con người phức hợp về trạng thái tình cảm. Cái phức hợp đó thường được thể hiện qua các đối cực đầy mâu thuẫn trong số phận: Trong nỗi chua chát của tuyệt vọng, Trong kiêu hãnh của sự khước từ, anh đơn độc; Ngọt như rượu đắng như rượu, vui như tiệc cưới, buồn như tiệc cưới; Chị đang giữ kín đau thương, hay là hạnh phúc, Lòng chị đang tràn đầy niềm tin, hay là ngờ vực; Thiếu nữ đã là người đàn bà ở tuổi bốn mươi, cam chịu và cuồng nộ, mong mỏi và buồn nản, giản đơn và rối ren, lớn lao và cạn hẹp Đây chính là sự tổ chức các mâu thuẫn giữa các mặt khác nhau của thế giới tinh thần để tạo thành một cá tính hoàn chỉnh, có vận động, có quá trình. Sự phức hợp tình cảm còn được tạo nên bởi việc xuất hiện dày đặc từ miêu tả trực tiếp tâm trạng. Bài thơ Thư mùa đông có 40/100 câu thơ có các từ diễn tả tâm trạng đa chiều, giàu cung bậc: nhẫn nại, đằm thắm, nhọc nhằn, dầu dãi, tần ngần, lặng lẽ, âm thầm, nức nở, lầm lụi, mảnh mai, dữ dội, êm ả, dịu dàng 57
  16. Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1975-1990 Một tình cảm người con đối với mẹ qua bài Kính gửi mẹ cũng là tổng thể của rất nhiều cảm xúc: yêu mến, xót thương, hờ hững, đau đớn, xót xa, đơn bạc, lãng quên, se thắt, bồn chồn, thăm thẳm, nhẫn nại, đằm thắm Xuất hiện trạng thái nhiều người trong một người. Con người tình yêu của Dư Thị Hoàn là một con người đầy mâu thuẫn: vừa có sự chọn lựa quyết liệt, vừa có giọt nước mắt tủi thân mặc cảm, vừa có cái kiêu hãnh, tự tin, vừa rụt rè lặng lẽ, vừa có cái nồng nàn táo bạo lại vừa có cái lạnh tanh của người từng trải. Thanh Thảo bên những lời thơ sử thi nồng nhiệt lại có những câu hỏi thế sự đầy băn khoăn, day dứt, bên những ý tưởng hết sức đứng đắn lại có những cảm xúc và lời lẽ bông phèng, trêu ngươi. Khi cả nền thơ là một tiếng thơ duy nhất với kiểu nhà thơ lấy lí tưởng và hành động cách mạng làm thước đo duy nhất về vẻ đẹp và giá trị nhân cách, không tồn tại kiểu người phân thân như vậy. Quan niệm đơn giản về con người ấy đã ít nhiều cắt xén không tự nhiên những giá trị và các mối liên hệ vốn có của nó. Điều này lí giải vì sao cứ lâu lâu trong văn học 1945-1975 lại xuất hiện những bài thơ “phạm húy”. Ấy là những lúc quan hệ đa dạng của con người cứ bộc lộ tự nhiên không cưỡng nổi. Thí dụ, nếu đặt bài thơ Màu tím hoa sim (Hữu Loan) vào trong hệ thống những tiếng khóc mất người thân của dòng thơ thế sự và đời tư (Phạm Thái, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Khuyến, Tương Phố) thì sự xuất hiện của nó là rất tự nhiên. Nhưng tiếng khóc của con người sử thi phải thuộc về “những nỗi buồn không gì bẻ gãy” (Biêlinxki). Bài thơ như lạc khỏi dòng sử thi hùng tráng vì lẽ đó. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nó lại là một khẳng định: số phận của con người với những yếu tố lịch sử-cá nhân, sử thi-bi kịch, tráng ca-bi ca, cái anh hùng-cái bi thương vẫn luôn tồn tại, tạo thành những hòa âm hoàn chỉnh của cuộc sống tinh thần con người trong dòng chảy vĩnh cửu của nó. Các tương quan và đặc điểm của các yếu tố trong cấu trúc con người thay đổi. Sự hài hòa giữa cá nhân và xã hội, mà thực ra là sự lấn át của cái xã hội, cái chung đối với cái riêng, như là tiêu chuẩn thẩm mỹ của một thời, bây giờ được đặt ra có phần ngược lại. Người ta mặc nhiên coi cái tôi-cá nhân-cá tính là chuẩn mực để soi ngắm thế giới. Trong văn học 1945-1975, sức mạnh con người đồng nhất với sức mạnh dân tộc, giai cấp nên dẫn đến ý thức vô hạn về sức mạnh, đó là tư thế con người trong tương quan với dân tộc. Khi con người hiện diện giữa đất trời với tư cách cá nhân thì ý thức từ vô hạn chuyển sang hữu hạn: Đời ngoài tuổi năm mươi, Mong gì hương sắc lạ (Chế Lan Viên); Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế, Chỉ em là đã khác với em xưa (Xuân Quỳnh); Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi, Mình vẫn còn một thứ quả non xanh (Nguyễn Khoa Điềm). Khi hiểu mình, hiểu người, hiểu đời, con người chỉ càng thêm đau đớn, xót xa, vì thế giọng thơ buồn hơn, lắng hơn, cô đơn hơn. Buồn và cô đơn là một trạng thái có thực khi con người có ý thức cao độ về mình. Trước đây, con người xung quanh có bè bạn, dân tộc, cộng đồng nên ít thấy cô đơn. Bây giờ khi đối diện với mình, bạn đồng hành, người tri âm đâu có dễ, hơn nữa, do đời sống xã hội còn bi kịch đưa đến trạng thái mất niềm tin, trống rỗng nên cái tôi cá nhân nhiều khi thấy cô đơn: Nỗi đau đớn một mình ai biết được, Chẳng đêm nào không rỏ máu trong tim (Ngô Văn Phú). Có khi đẩy tới cách nói hơi quá lên: Đôi khi ta muốn làm kiếp chó, Tru lên cho đỡ vắng người ơi (Nguyễn Khắc Thạch). Quan hệ trên dẫn đến tương quan lí trí-tình cảm thay đổi. Có người nhận xét, văn học 1945-1975 là nền văn học của lí trí. Lẽ dĩ nhiên, trong hình tượng thơ trữ tình của thơ cách mạng không phải yếu tố lí trí chi phối hoàn toàn. Nhưng do bản năng giải phóng dân tộc 58
  17. 2.2. Cái tôi thế sự và đời tư là một xúc cảm mang tính lí trí, con người cần vững vàng và cân bằng về lí tưởng, phải tin vào lí trí, không tin vào cảm giác, nên nền thơ cách mạng có tính lí trí. Còn trong thơ sau 1975, dường như có sự phân hóa, nếu trong loại thơ thế sự, chất duy lí nổi rõ thì đối với thơ tình, một thế giới cảm xúc được giải phóng với rất nhiều cung bậc, gần như không còn ràng buộc bởi yếu tố lí trí, chuẩn mực, khuôn phép nào (Bùi Chí Vinh, Phạm Thị Ngọc Liên, Lam Luyến). Mặt ưu thế của cấu trúc nhân cách con người sử thi là chính trị tạo nên tiếng thơ phổ biến là thơ trữ tình chính trị. Hiện nay thơ đã giải phóng con người ra khỏi chức năng khái quát những giá trị chính trị thuần túy, ra khỏi quan hệ sử thi duy nhất, thể hiện qua những nhân vật tồn tại với tư cách chính trị dễ phân loại như trước đây (lãnh tụ, anh bộ đội, mẹ chiến sĩ, chị du kích, cô gái hậu phương, em liên lạc). Khía cạnh chính trị giảm dần, mặt nhân loại ít nhiều được chú ý. Ví như hình tượng người phụ nữ, nay lại được khai thác trên những khía cạnh nhân bản muôn đời với các đặc thù: si mê, đa mang, dại khờ, dễ bị lừa, đau khổ, hy sinh, khát khao hạnh phúc, cắn răng chịu đựng. Các nhà thơ khóc với núi Vọng Phu, cảm thông với Thị Mầu, đau đớn với Nguyệt Cô hóa cáo, hòa nhịp cùng nhịp đập với trái tim Hồ Xuân Hương, Thúy Kiều, Dương Vân Nga. Xót xa với số phận những người yêu, người vợ, người mẹ trong đời thường: Sân đình táo rụng xuống rêu Người ơi làm bão chẳng xiêu được chùa Lả lơi như nắng như mưa Đong đưa như thể nước mùa nước lên Người ơi trời đất sấm rền Yếm khô, áo ướt thân em một mình (Thị Mầu - Trần Dư) Người đàn bà đi lấy nước Đòn gánh lệch đôi vai Đôi bàn chân trần Qua cát lửa Qua đất bùn Gót chân hoa sen Xa xôi kí ức Đôi bàn chân đi ngàn lần Vẫn không thôi kiếm tìm (Người đàn bà đi gánh nước - Nghiêm Huyền Vũ) Giá em đừng sống hết lòng Giá đừng yêu, chẳng mơ mòng làm chi Thì đâu ngọc mất trắng tay Thì đâu đến nỗi đắng cay một mình (Xem Nguyệt Cô hóa cáo - Nguyễn Thị Hồng Ngát) 59
  18. Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1975-1990 Sự trở về với con người đa dạng, phức tạp, con người nội tâm sau 1975 đã mở đường cho khả năng đi sâu vào thế giới bên trong con người với những không gian-thời gian tâm tưởng tương đối đặc biệt. Là sản phẩm của một tư duy hiện thực phát triển theo hướng cách mạng, thơ Việt Nam 1945-1975 ít chú ý tới chiều không gian-thời gian siêu thực mang tính tâm linh và vô thức, thể hiện một cõi miền rất sâu, rất xa xôi và bí ẩn của thế giới tinh thần con người. Đã có những nhận xét: “Thơ kháng chiến dường như thiếu mất chiều thứ tư của không gian, đó là chiều của hư vô, siêu hình, tấm lòng nên đã thành trói buộc”11; “Những bài thơ có chút hư ảo, giàu tâm trạng và tâm trạng đa chiều hình như đem lại cho người đọc suy nghĩ, đắn đo”12; “Thơ sau 1975 bước đầu khai thác vào phía vô thức của sự sống, phía tâm linh của cõi người, đã dè dặt đặt được những viên gạch đầu tiên cho nấc thang mới của thi ca Việt Nam”13. Phong cách tôn giáo hóa trong rất nhiều bài thơ đã góp phần tạo dựng một không gian linh thiêng, cao cả với tinh thần vươn tới cõi vĩnh hằng, chạm tới các giá trị vĩnh cửu, để nghiền ngẫm, khắc khoải về sự tồn tại của con người trong quy luật của tạo hóa. Phùng Khắc Bắc dựng một không gian siêu thực với những Đức Bà, Chúa, biển hối thương, đồi Gôngôta, cơn hồng thủy, Bụt, chúa tể cõi âm, Thánh Giêsu, đêm giáng sinh, quỷ satăng, cõi chúa Hoàng Cầm như lạc trong cõi đường mê, cung mê, đền Bà Sấm, bến cô mưa. Lệ Thu bên cạnh những bài thơ rất hiện thực lại xuất hiện trong tư thế hướng về miền linh thiêng: nguyện cầu, trả nợ trần gian. Trong không gian ấy, con người đối thoại với các lực lượng siêu thực (Chúa, Phật, Trời, Thần, Thánh, người cõi âm, nhân vật lịch sử và truyền thuyết) và để các lực lượng này lên tiếng. Đó là hình thức đối thoại của các bài thơ: Nghĩ thêm về Nguyễn (Chế Lan Viên), Ru em Thúy Kiều, Đêm viết Kiều (Trần Mạnh Hảo), Bài thơ riêng cho những người chết, Đo bằng chiều cuộc đời (Phùng Khắc Bắc), Chiều trong nghĩa trang, Lạc nhịp (Nguyễn Quang Thiều), Thánh Gióng trở về (Đỗ Minh Tuấn), Địa chỉ buồn (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Hình thức này bộc lộ một nhu cầu đối thoại trong trong sâu thẳm ý thức và cũng không ra ngoài nội dung bàn luận cảm xúc về những vấn đề mang tính muôn đời: cái chết, sự sống, thiện, ác, lòng nhân ái, cái hư vô của danh vị, hư ảo của cuộc đời, nỗi buồn, niềm đau. Bài thơ là tiếng nói của những giấc mơ, cơn say, sự mê sảng, nửa tỉnh nửa mê, là tiếng nói trong đêm khuya, tiếng nói lúc mờ sáng. Đêm trên cát (Thanh Thảo) viết về một đêm không ngủ của Cao Bá Quát. Trong cái đêm đó, con người được bộc lộ trong những phút giây gay gắt của cuộc đời: đối diện với cái chết. Gần như cả cuộc đời Cao Bá Quát được sống lại trong những ám ảnh, những suy ngẫm về cách ứng xử, về giấc mơ, cái đói trong dòng ý thức và vô thức chập trùng đan chéo. Cả bài thơ là sự cô đặc của một thời đại lịch sử với những bi kịch dữ dội của kiếp người. Cõi phi lí tính của thế giới bí ẩn trong tâm hồn con người cũng được đụng chạm đến thông qua sự đứt đoạn và tiếp nối của dòng ý thức với những hình ảnh ngột ngạt, kì dị và căng thẳng về cảm xúc. Thế giới tâm hồn con người thật không đơn giản mà chứa đựng những quằn quại, giằng xé, giông bão, rối bời. Hình ảnh đêm đen, bóng đen, ngọn nến, bóng soãi nền nhà trong Tổ quốc nhìn từ xa (Nguyễn Duy), là sự khách thể hóa đối tượng đối thoại trong sâu thẳm ý thức, kết quả của sự tập trung cao độ năng lực tinh thần nhằm khám phá đến tận cùng bản chất sự vật. Nguyễn Quang Thiều thường có nhiều bài thơ viết trong đêm, và cái không gian-thời gian ấy, theo anh, rất 11Tế Hanh. Dẫn theo Nguyễn Sĩ Đại. Thơ hôm nay, cuộc luận bàn dang dở. Tạp chí Cửa Việt số 17/1992. 12Mã Giang Lân. Nhìn lại thơ ba mươi năm chiến tranh. Tạp chí Văn học số 2/1992. 13Nguyễn Thụy Kha. Thơ mới đã qua một vận hội. Báo Lao động Chủ nhật số 20/1992. 60
  19. 2.2. Cái tôi thế sự và đời tư phù hợp với sự tỉnh giấc của thế giới tâm linh, một cõi miền cao hơn, bí ẩn hơn, khó nắm bắt hơn với những dấu hiệu mong manh, mơ hồ. Có lẽ, ban ngày dưới ánh sáng mặt trời, con người cảm nhận phần vật chất rõ nhất, còn ban đêm, phần linh hồn dễ dàng được cảm nhận. Lúc ấy, nhà thơ không nhìn cuộc đời bằng đôi mắt mở mà bằng đôi mắt nhắm (đôi mắt bên trong, phần linh cảm, trực giác, ấn tượng). Có thể nói, hình thức đêm đen chính là hình thức tương đối tối ưu tạo điều kiện cho con người tự phát hiện và trình bày thế giới tâm linh của chính mình. Cũng như Hômerơ khi thi thần nhập vào người thì mắt bị mù đi, Ơđíp khi tự chọc mù mắt cũng là lúc hiểu mình rõ nhất (X. X. Avêrinsep)14. Không gian-thời gian của tâm linh ấy còn được tạo thành từ những cõi riêng, bí ẩn, xa vời, huyền diệu với thế giới tuổi thơ, thế giới truyền thuyết đầy màu sắc kì ảo. Hoàng Cầm đã tạo được một thế giới ảo, siêu thực, vời vợi, đầy thực và hư với một màn mưa kì lạ (mưa long lanh ánh mắt, mưa trong tóc xõa, mưa sành sứ, mưa hoa nhài, mưa nằm lẳng lặng, cõi mưa nhung, lùa mưa đuổi nắng buồn, mưa chuông chùa lặng, hạt mưa chèo bẻo, mưa đi lưu ly), với thế giới văn minh Kinh Bắc cổ kính pha đầy huyền thoại (cỏ bồng thi, chùa Phật tích, mưa Ỷ Lan, bến Luy Lâu, tượng Quan Âm, núi Thiên Thai, điệu quan họ, cô gái giặt lụa, đầu ngọn sông Thương, lá diêu bông), với một không gian thời gian không xác định, mờ ảo, xa vời, tít tắp, đan cài giữa mộng và thực, trở về quá khứ (Ta con chim cu về gù rặng tre, Đưa nắng ấu thơ về sân đất trắng, Đưa mây lành những phương trời lạ, về tụ nóc cây rơm), với sự mĩ lệ hóa thế giới (khoảng quê hồng, mắt mê cung, đau kết thành viên ngọc huyền quang, mắt sáng ngậm tròn giọt đau, nét buồn khôi nguyên, hương vương phi, suối thơm, chảy dòng hạnh xanh trôi nhanh cát buồn). Cõi tâm linh của con người dù luôn hướng về một miền cao siêu, kì dị, vô thường, nhưng không phải đi tới chốn tịch diệt mà lại là sự thấu suốt, trải nghiệm về những nỗi đau trần thế, là một thể nghiệm xác định bản chất hoàn thiện vừa thâm trầm vừa giông bão của sâu thẳm nội tâm, một khát khao về nỗi thánh thiện vô biên, một sự giải thoát làm nên cái cân bằng giữa đời thường phàm tục và một niềm tin thiêng liêng về những giá trị vĩnh hằng, bất biến đầy thành kính như một niềm tin tôn giáo. Loại trừ các trường hợp quá khích, mở rộng sự tìm tòi đến mức vô nghĩa (sẽ nói ở phần sau), chiều không gian-thời gian siêu thực trong thơ hiện nay bộc lộ khát vọng muốn vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp, đầy thiên kiến, mặc cảm để giải thoát sức tưởng tượng, làm nên sự đầy đặn của việc thể hiện một quan niệm đa chiều về hình tượng con người trong thơ hiện nay. 2.2.2 Triết lí về tồn tại trên những chủ đề vĩnh cửu Sức sống của một nền nghệ thuật được xây dựng trên sự kết hợp của tính thời đại và tính trường tồn. Tính thời đại bộc lộ khát vọng của con người đương thời, nhưng tinh thần ấy không nhất thiết thể hiện một cách trực tiếp mà thông qua lăng kính của các chủ đề vĩnh cửu. Sự lặp lại của các chủ đề xuyên suốt các nền thơ thể hiện niềm khát khao các giá trị bất biến, mong muốn chạm tới cái vĩnh hằng. Muốn ngang tầm nhân loại, một nền nghệ thuật phải vươn tới một chiều sâu nhất định nhờ sự hiểu biết và cảm nhận sâu sắc con người và thế giới theo những quan niệm thẩm mĩ có sức chi phối toàn diện, nói theo triết học, là trên tổng giác về cái tồn tại. 14Dẫn theo Hoàng Ngọc Hiến. Năm bài giảng về thể loại. Trường viết văn Nguyễn Du. Hà Nội, 1992. Trang 39. 61
  20. Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1975-1990 Triết lí là việc đặt câu hỏi cuối cùng về tồn tại: Con người là gì? Ta là ai? Sống là gì? Chết là gì? Hạnh phúc và khổ đau là gì? Con người tồn tại như thế nào giữa thế giới? Nhà triết học trả lời dựa trên mối quan hệ khách quan và phổ biến và chung nhất, còn người nghệ sĩ dựa vào sự đúc kết kinh nghiệm từ những số phận và những mối quan hệ cá biệt. Qua một đời người, một hiện tượng, nghệ thuật muốn chiêm nghiệm cả thế giới. Cuộc đời một Mêđê, Hămlet, vua Lia, một nụ cười của nàng Mona Lisa, một gam màu nâu đỏ trong tranh Rembrăng hay màu xanh hư ảo của Mâtixơ, một tiếng rền định mệnh trong bản nhạc Bethôven đều là những khái quát triết lí về đời sống. Triết học sử dụng những phán đoán, suy luận. Nghệ thuật nhờ đến thế giới hình tượng trực quan sinh động. Sự ngắn gọn và hàm súc đưa thơ trữ tình đến gần với tính khái quát cao, dễ đưa tư duy đến cấp độ toàn bộ với những phán đoán về tồn tại: Hoa thường hay héo, cỏ thường tươi; Tu là cõi phúc tình là dây oan; Thớt có tanh tao ruồi đổ đến; Chim khôn xuống đất ăn trùn, Anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than. Xét về đặc trưng, thơ trữ tình luôn tiềm ẩn một bản chất triết lí, bởi hình tượng thơ bao giờ cũng được diễn đạt trên một nền triết học phổ biến đương thời, dưới một lăng kính của sự cắt nghĩa, tiếp cận thế giới của một thời đại thơ ca. Kết cấu đa nguyên về tư tưởng tôn giáo-triết học Việt Nam cổ đã tạo ra một phương pháp suy lí, một dạng tâm lí, đạo đức, một kiểu định hướng hành động phức tạp trong thơ cổ. Đó là một kiểu xuất xử mâu thuẫn: vừa có cái vững tin, yên lòng, xa cách, lặng lẽ của người xuất thế, vừa có cái nhức nhối, xót xa, nhiệt huyết của tấm lòng nhập thế mà thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyến Khuyến là những ví dụ. Từ quan niệm Yêu là chết ở trong lòng một ít (Xuân Diệu) đến Có gì đẹp trên đời hơn thế, Người yêu người sống để yêu nhau (Tố Hữu) là sự khác biệt về hai cảm quan, hai cách lí giải đời sống. Trong thơ sau 1975, nội dung của những triết lí chưa có gì đột xuất, mới mẻ, tuy vậy, sự chú ý đến những chủ đề vĩnh cửu đã khẳng định mong muốn vươn tới tầm cao nhân loại và vĩnh hằng của cái tôi trữ tình. 2.2.2.1 Triết lí về con người Triết lí nổi bật về con người hiện nay là triết lí về con người của cuộc đời thực, một triết lí nhập thế, khẳng định tính tích cực xã hội của nhân cách nhà thơ. Con người không quay lưng với hiện thực để tìm đến một thế giới xa lạ siêu phàm, không hòa tan bất lực trong hư vô và siêu hình. Họ không vời đến khía cạnh lãng mạn, trừu tượng, xa xôi của những điều cao cả mà phủ nhận cái phi thực tế, khẳng định cái cần thiết thực sự của cuộc đời: Con ơi con trên ấy Ngân Hà, Cao xa lắm nhưng rồi con sẽ tới, Nhưng đêm nay con cần phải thuộc, Mấy phép tính cộng trừ hoặc một trang thơ (Thạch Quỳ). Họ đau những nỗi đau rất thực: Hạnh phúc với tôi bây giờ xa xỉ quá, Như nông dân mơ gạo bồ lúa vựa, Như cô gái nghèo mơ tiệc xe hoa, Như cán bộ về hưu mơ một mái nhà (Trần Sơn Nam). Đến cả hòn Vọng Phu cũng khao khát hạnh phúc của con người thực: Chị quay mặt với nỗi buồn thiên cổ, Không có gì cao xa ngoài hạnh phúc thực sự một kiếp người (Võ Thanh An). Họ khẳng định mình là những con người bình thường trong những quan hệ rất thực của đời thường: Anh không mong làm thánh, Anh chỉ mong làm người (Ngô Văn Phú). Có rất nhiều tứ thơ phủ nhận các ảo tưởng về cuộc đời, ảo tưởng về lí tưởng xã hội: Có những thế hệ mặc cùng ảo tưởng, Cởi trần ra buồn lạnh thấu xương (Nguyễn Quốc Chánh). Ảo tưởng về chính mình: Toàn ảo ảnh! Hỡi cuộc đời lận đận, Đến bao giờ tôi mới thực là tôi 62
  21. 2.2. Cái tôi thế sự và đời tư (Xuân Hoàng). Ảo tưởng về đường đi của tương lai: Đường ta xa lắc xa lơ, Đường người ảo ảnh bến bờ mờ xa (Nguyễn Duy). Con người sống không còn ảo tưởng, không còn tự huyễn hoặc hay bị huyễn hoặc. Ảo ảnh dù có đẹp, thế giới cao xa dù có lấp lánh, nhưng cuộc đời này vẫn đáng chú ý hơn: Sự sống dù ngắn ngủi, Cuộc đời dù khổ đau, Tình yêu dù bạc phếch, Xin theo người đến con cháu mai sau (Nguyễn Thái Nguyên). Cuộc đời thực, con người thực dù lem nhem, chắp vá, khập khiễng vẫn có cái hấp dẫn trần gian của nó. Đây là sự tiếp nối một trong những đặc điểm của thơ ca 1945-1975 là niềm gắn bó với đời sống, lòng yêu cuộc sống hằng ngày giản dị mà bất diệt, làm bớt đi những nỗi buồn chìm đắm hắt hiu, những khí vị siêu hình của con người quay lưng với hiện thực. Nhưng quan niệm này lại có nhược điểm làm thơ dễ sa vào cái thường ngày vụn vặt. Ở đây chưa thấy có cái nhìn Tsêkhôp, Lỗ Tấn, Nam Cao: cái thường ngày được nhìn qua một lăng kính, một cảm quan nhân đạo và triết học lớn về con người. Có khuynh hướng đề cập lại mô típ con người-số phận. Tư tưởng triết học cổ xưa coi con người là một bộ phận của vũ trụ, một thứ tiểu vũ trụ nào đó mà trong những biểu hiện người của nó lại phục tùng một khởi nguyên tối cao là số phận. Theo Biêlinxki, số phận có nghĩa là tính tất yếu của lí tính, là các quy luật của hiện thực, là cái tương quan của nguyên nhân và kết quả. Có một thời chúng ta phủ nhận lý thuyết về con người, số phận. Vậy mà giờ đây con người lại suy nghĩ nhiều về thân phận của mình: Có đổi thay thân phận không? Có giả thật không? Có niềm tin không? Sao cuộc sống không như mình mong đợi? Có tri âm không? Sao cuộc đời nhiều bất hạnh vậy? Khả năng con người ở đâu? Khi bất hạnh, đau thương, mất mát người ta thường nói đến số phận. Do vậy, sự hoài nghi, trống trải, lo âu, thiếu dứt khoát xuất hiện như một nét nổi bật (Tháng giêng dai dẳng - Hoàng Cát, Người đàn bà ngồi đan - Ý Nhi). Sự cảm nhận về con người thân phận còn bộc lộ qua trạng thái cô đơn và nỗi buồn, hai dấu hiệu của một triết học bi kịch về con người: Nỗi buồn cô đơn, Tận cùng sâu thẳm (Dương Kỳ Anh), Chiều mùa hè mà tê buốt trong xương (Hoàng Cát), Em chết trong nỗi buồn, chết như từng giọt sương, Rơi không thành tiếng (Lâm Thị Mỹ Dạ). Niềm cô đơn và nỗi buồn vừa gắn bó với sự tan vỡ của giấc mơ, bất lực trước những đòi hỏi tất yếu, trước sự tha hóa của những giá trị đời sống không gì ngăn cản nổi, vừa gắn với sự tự ý thức về cái khó chia sẻ, là dấu hiệu của sự tự cắt đứt mối dây liên hệ đời sống, khi một mình đối diện với những nỗi đau, đặc biệt là nỗi đau tinh thần. Có ý kiến nhận xét rằng thơ hiện nay buồn nhiều và cô đơn nhiều, là bế tắc và cũ kĩ. Thực ra, nỗi buồn và sự cô đơn ấy có những lí do và nội dung bên trong của nó. Trạng thái này không phải độc quyền của chủ nghĩa lãng mạn và các chủ nghĩa “hiện đại” khác. Cô đơn và buồn còn là một tình cảm thẩm mỹ, một trạng thái tư duy. Đó không chỉ là một dấu hiệu của một bi kịch mà còn là một dấu hiệu của tự ý thức về cá tính (ở phần trên đã phân tích). Trước đây, cái buồn bao trùm cả thế giới, con người chỉ là một tế bào của thế giới mênh mông ấy. Lí do thật trăm hình nghìn vẻ: Nguyệt xuyên há dễ thâu lòng trúc, Nước chảy âu không xiết bóng non (Nguyễn Trãi), Kẻ ở Chương Đài, người lữ thứ, Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn (Bà huyện Thanh Quan), Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn (Xuân Diệu). Trong nỗi buồn và sự cô đơn ấy thấm nhuần thái độ hoặc hiểu đời, hoặc tinh thần phê phán quay lưng với hiện thực mang nét khinh bạc, phỉ báng, chửi bới hoặc lạnh lẽo, hắt hiu. Hiện nay, hai trạng thái đó không hoàn toàn do bế tắc, xa vời hiện thực mà lại do sự ý thức rất rõ về nhân cách và hoàn cảnh. Con người phải 63
  22. Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1975-1990 tách ra suy ngẫm, nên cô đơn. Con người hiểu vì sao tồn tại các bi kịch cá nhân, bi kịch xã hội cho nên buồn. Do vậy, cái cô đơn và nỗi buồn hiện nay mang một tư thế cứng cỏi hơn: Ngước nhìn thăm thẳm trời xanh, Một lần khát lại biến thành giọt mưa (Hồng Ngát), Uống tận cùng giọt đắng ở trong tim (Lệ Thu), Em hãy vuốt tóc mai, Xóa mờ tai họa cũ, Bấm chân qua tai họa mới, Như người mẹ mất chồng lại tiễn con ra trận (Trần Sơn Nam). Sự tự ý thức dẫn đến thái độ tự tin và điềm tĩnh với chỗ dựa là sự khẳng định cá tính và nhân cách cá nhân. Con người dựa vào chính mình qua tất cả thăng trầm của số phận, chấp nhận mọi thua thiệt, bất hạnh, bi kịch, giới hạn của kiếp người. 2.2.2.2 Triết lí về nhân dân Để tìm chỗ dựa cho đời sống tinh thần ngày hôm nay trong bối cảnh đời sống xã hội phức tạp với nhiều giá trị bị lung lay, một số nhà thơ có thiên hướng quay về với nhân dân, con người truyền thống, tìm về cội nguồn với quê hương, gia đình, làng mạc như sự trở về với những giá trị đạo đức-thẩm mĩ vốn mang tính lâu bền, vĩnh cửu. Đó là việc quay trở về với đạo đức con người truyền thống. Nét hi sinh, thầm lặng, vô danh được chú ý trong từng số phận riêng. Ở văn học sử thi, vấn đề này thường được trình bày trong cảm hứng về số phận chung của dân tộc. Nỗi cơ cực, vất vả, hi sinh của mẹ Tơm, mẹ Suốt, bà bầm, bà bủ chỉ là những chi tiết để góp phần làm sáng rõ thêm bức tranh sử thi toàn diện. Còn bây giờ hình ảnh những người thân (mẹ, bà, cô dì, bố, chị) được nhắc tới nhiều như là sự trở lại với những con người không tên tuổi, nhưng cuộc đời họ mãi mãi vẫn đọng lại trong tâm hồn mọi người niềm cảm thương, sự kính trọng, lòng yêu thương vô bờ dù pha lẫn những xót xa: Mẹ ta không có yếm đào, Nón mê thay nón quai thao đội đầu (Nguyễn Duy), (Mẹ) Âm thầm héo kiệt một đời quê (Trần Quang Quý). Số phận họ đích thực là số phận của nhân dân trong dòng chảy đời thường của nó. Sự bình yên của cái tôi trữ tình ngày hôm nay còn được củng cố nhờ sự chú ý tới đời sống văn hóa nhân dân với những triết lí về phong tục, bởi con người đâu phải sống với nhau chỉ bằng chính trị, giai cấp mà phần lớn bằng đạo lý, văn hóa ở đời. Đó là nội dung những bài thơ: Người bán rắn ở Văn Miếu (Nguyễn Thụy Kha), Theo chân câu hát cũ (Giang Nam), Nói trạng (Ngô Văn Phú), Đò Lèn, Cầu Bố (Nguyễn Duy). Cái tôi trữ tình cố gắng tìm mối giao lưu giữa hiện thực và văn hóa cội nguồn, tìm ra cái gọi là trữ lượng tinh thần của những ngày đang sống với những giá trị bền vững. Người tìm ở văn hóa dân tộc với chùa Trăm gian, tượng Đức Bà, đền Hùng, giếng Ngọc, hòn Vọng Phu. Người tìm ở nếp sống, cách ứng xử của một văn hóa truyền thống, người đến với vẻ đẹp bình dị kiên nhẫn của đạo đức truyền thống. Bài thơ Hát gọi hạt giống (Trần Quang Quý) vang lên cái âm điệu vĩnh cửu: con người mãi mãi cày ruộng, gieo lúa và hi vọng vào một cuộc sống tốt đẹp hơn, mặc cho những thử thách nặng nề của số phận. Bài thơ hòa cùng âm hưởng của các câu chuyện Đàn sếu sớm, Cánh đồng mẹ của T. Aimatôp. Mẹ tôi, người hay lo (Đỗ Minh Tuấn) cũng cùng một giai điệu ấy: có cái lo âu thảng thốt của đời thường, nhưng cái vững bền là sự kiên nhẫn, niềm hy vọng của lòng mẹ và niềm biết ơn của trái tim con. Trong xu hướng ấy, nhiều người tìm đến với hồn quê (Phạm Công Trứ, Nguyễn Sĩ Đại, Trần Quang Quý, Bùi Việt Phong, Nguyễn Duy ). Có thể thấy rõ điều này trong thơ của Ngô Văn Phú. Vùng quê trong thơ anh không hiện lên dưới những khía cạnh xã hội thời sự. Anh hướng về cái cội nguồn, gốc rễ hơn, cái làm nên sức sống của một vùng: phong tục. 64
  23. 2.2. Cái tôi thế sự và đời tư Hồn quê trong thơ anh bộc lộ ở văn hóa quê với muôn vàn quan hệ, cách ứng xử, nếp nghĩ, nếp cảm qua nguồn văn hóa dân gian với hình ảnh đám cưới chuột, chú tễu, thầy đồ cóc, làng pháo, hội vật, qua những tình cảm giản dị, hồn nhiên của bạn bè, họ mạc, dân làng với những buổi cơm đồng, đêm đập lúa, những giây phút đổi mùa, những lần hái quả. Cuộc sống làng quê với bao oái oăm thường nhật: cờ bạc, đánh ghen, túng thiếu, cãi cọ nhưng vẫn đầy sức hấp dẫn trần thế với cảnh hội vật, cưới xin, chợ búa, nói trạng, lễ hội và những con người bình dị, lành mạnh đầy vất vả lo toan lầm lụi nhưng cũng biết thưởng thức cuộc sống trong những giây phút thảnh thơi: Ấm đất trà ngon thu tím ngát; Cả làng mê pháo như mê đất Anh tìm trong nếp sống ấy một triết lí sống giản dị, như một chỗ dựa tinh thần, một sức mạnh âm thầm, một tình yêu bền chặt. Quan niệm về nhân dân, phong tục, chính là sự trở về cội nguồn đích thực của những giá trị đạo đức, một điểm tựa mang tính truyền thống muôn đời. 2.2.2.3 Triết lí về thiên nhiên Thiên nhiên là môi trường tự nhiên của xã hội, Mối quan hệ với thiên nhiên của con người không những mang tính hợp lí hết sức thực tiễn mà còn mang tính xúc cảm đạo đức thẩm mĩ sâu sắc. Thiên nhiên vừa biến hóa không ngừng vừa tuần hoàn vĩnh cửu, mang mọi dáng vẻ của quá trình lưu chuyển đời sống con người: vừa vận động, biến suy, vừa bất biến vô hạn. Vì vậy, coi thiên nhiên như một phân thân của con người là một cảm quan mang tính nhân loại. Trong thơ trữ tình phương Đông, thiên nhiên được coi là một vũ trụ lớn, cõi tâm linh con người là một tiểu vũ trụ, vì vậy, cách thống nhất cái hữu hạn và bản thân mình với cái vô hạn của trời đất là một cách xác định phong thái tồn tại trong vũ trụ, hiện diện cái cảm quan của con người in dấu trên trời đất. Tiếp nối quan niệm truyền thống đó, con người hiện đại vẫn tìm thấy mình trong dòng chảy của tự nhiên, diễn tả thiên nhiên nhưng thực chất là diễn tả sự vận động và dáng vẻ tâm hồn. Thiên nhiên trong thơ Xuân Quỳnh rất đẹp, có gió, cát, màu nắng, màu mây, có buổi chiều sặc sỡ như thêu, có mùa hoa phượng rơi hồng mái phố, có bông cúc xanh, có hoa tường vi tím nhạt nhưng không đơn giản là thiên nhiên khách quan, mà cái vĩnh cửu của nó là chỗ dựa cho sự bình yên, là sự chở che, là điểm tựa của tâm hồn, là nguồn thôi thúc khát vọng của cảm xúc về cái đẹp, về hạnh phúc, về tình yêu. Thiên nhiên ấy như thực như mơ nhưng sức sống của nó, sự tuần hoàn vĩnh cửu trẻ trung và tinh khôi của nó nói hộ bản chất nữ tính muôn đời của người phụ nữ ấy: dù đã qua bao niềm đau đớn, qua nỗi đau buồn dồn nén xuống đáy tâm tư, nhưng tâm hồn chị không trở nên chai sạn, tàn nhẫn, khắc nghiệt mà vẫn là con người dịu dàng, nhân hậu, sống hết mình, yêu hết mình: Lòng như trời biếc lúc nguyên sơ; Trái tim ta như nắng thuở ban đầu; Vẫn còn nguyên vẹn niềm yêu, Như cây tứ quý đất nghèo nở hoa; Quả ngọt ngào thắm thiết vẫn màu hoa; Như chưa hề có nỗi đau xưa; Như chưa hề biết đến tàn phai. Thiên nhiên ấy đã để lại dấu ấn vĩnh cửu của sự bắt đầu: vẫn trong trẻo, vẫn rạo rực, vẫn mong chờ, vẫn cháy sáng Chính vì vậy, thơ tình yêu của chị không hề hạn hẹp, khép kín bởi nó tìm đường đến gần thế giới muôn đời qua sự thống nhất quá khứ-hiện tại-tương lai, khoảnh khắc-muôn đời, sự tuần hoàn lặp đi lặp lại của thế giới. Con người chú ý tới thiên nhiên như một phút lặng, phút hồi tưởng, phút lãng quên mọi ưu tư trong nhịp sống ồn ào, vội vã của dòng chảy cuộc đời, để hướng tới cái cao đẹp, cái 65
  24. Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1975-1990 thanh khiết, cái chất thơ của đời sống. Đây không phải là sự thoát li, chạy trốn mà là một cấu trúc khác về quan hệ với thiên nhiên, là sự trở về giá trị vĩnh cửu, thân quen của tự nhiên, là ý thức về môi sinh và sinh thái. Thơ Ngô Văn Phú viết nhiều về quan hệ này. Sau khi tiếp xúc văn minh thị thành, với khung cảnh đường về phố bụi mù, chật chội, anh thèm khát mở lòng về một lá me chua, một sóng hồ, một tiếng chim tu hú, anh mới hiểu đích thực cái thủy chung say đắm của mình là vùng quê của riêng anh. Say là một trong những trạng thái của vẻ đẹp giao cảm giữa người và cảnh. Người say cảnh, cảnh say người. Dưới con mắt người say cảnh ấy, cảnh vật cũng biết mời mọc, chào đón, yêu đương và tình tự: Tháng tư xanh ngắt và giông bão, Là tháng yêu đương tháng phải lòng; Mưa tháng giêng lặng thầm quyến luyến; Chao ơi muôn vật trong trời đất, Cỏ cây còn biết phải lòng nhau. Có phải điều này gần gũi với ý tưởng: Xin hãy cho mưa qua miền đất lạnh, ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau (Trịnh Công Sơn). Một triết lí nhân sinh phổ biến. Chú ý tới thiên nhiên là quay trở về tình cảm quê hương, đất nước, một tình cảm lâu bền như lịch sử loài người với nguồn mạch xúc cảm thiêng liêng không bao giờ cạn. Từ ngọn khói lam chiều trong thơ Malacmê, khói sóng trong Hoàng Hạc lâu, cánh chim trong nỗi nhớ nhà của chàng Uylitxơ, giọng nói quê nhà trong Đăngtê, cái háo hức “về đi” của Đào Tiềm, Nguyễn Trung Ngạn, nỗi u hoài cố hương của Lỗ Tấn, đến khúc dân ca làm xao động tình quê hương của Gôgôn, tình yêu quê hương luôn là cách khẳng định về tồn tại người giữa thân quen trong mối dây ràng buộc với tự nhiên. Các nhà thơ tìm về quê hương như nơi cứu rỗi tâm hồn: Mang quê hương như viên ngọc trong hồn (Nguyễn Sĩ Đại) như gốc rễ gắn bó con người với nguồn cội: Trung du, thì đấy là sứ sở, tôi sinh ra bằng thịt da người (Trần Quang Quý). Con người tìm đến vẻ đẹp của thần hồn quê hương đất nước trong mối tương giao với những khao khát cân bằng của tinh thần. Những mô típ trở về cội nguồn, trở về nguyên sơ, tìm lại chính mình trong cái vĩnh cửu của tự nhiên là những mô típ phổ biến (Ánh trăng, Xuồng đầy, Trăng sông Tiền, Ông già sông Hậu, Cầu Bố - Nguyễn Duy; Hoa cúc xanh, Hoa tường vi, Cố đô, Hoa dại Hoàng Liên Sơn - Xuân Quỳnh; Mùa thu chưa tới, Rau me đất, Quảng Bình, Về Thái Nguyên, Trung du - Ý Nhi). Từ đó dẫn đến ý thức về con người tự nhiên. Xu hướng trở về con người tự nhiên là phản ứng cự tuyệt niềm tin mù quáng vào khoa học và công nghệ. Bản thân sự can thiệp thái quá của công nghệ lí trí vào lĩnh vực tình cảm đang kích thích sự thăng hoa của ý đồ buông thả mình trong tự nhiên. Bởi lẽ, khoa học và công nghệ không nói cho con người biết ý nghĩa cuộc sống là gì. Con người phải hiểu nó qua các giá trị tinh thần khác. Theo khoa học hiện đại, đây là quá trình hồi cố. Con người phải tự xác định lại mối quan hệ với thiên nhiên. Trước hết, phải tồn tại con người của thiên nhiên. Đó là sự trở lại của con người đối với thiên nhiên, đến với sự vận động trong im lặng, sự nhạy cảm và chặt chẽ của thiên nhiên, sự bình yên vĩ đại đối lập với nỗi khiếp sợ, bất an và vô vọng của nỗi đảo lộn hỗn loạn, hối hả trong xã hội con người. Trong thơ, đó là sự trở về với bản tính hồn nhiên hơn, buông thả hơn, không lên gân. Đây cũng là sự đối nghịch lại bản chất xã hội vốn được đề cao trong cấu trúc nhân cách con người. Có lẽ, vì vậy mà trong thơ hiện nay xuất hiện loại thơ muốn trình bày rõ rệt những cảm giác tự nhiên, mạnh mẽ của con người về thế giới, những tư thế muốn buông thả mình trong thiên nhiên, trong sự gần gũi với đất trời sông biển, một cảm giác “về mình” tìm thấy mình trong tự nhiên, một trạng thái “hòa tan” mình trong vũ trụ, một trạng thái không cần đến sự cân bằng của lí trí mà tràn ngập cảm xúc: 66
  25. 2.3. Cái tôi mang xu hướng hiện đại chủ nghĩa Hồ ơi ta muốn tan thành nước Để biết được ta là ai (Hồ trên cao nguyên - Nguyễn Chí Hoan) Bỗng nhận biết khi về miền đất cũ Khi con tàu đã đi qua chỉ mình ta ở lại Và sững sờ chính đất của mình đây (Quảng Bình - Ý Nhi) Mây trắng bay đi cùng với gió Lòng như trời biếc lúc nguyên sơ (Hoa cỏ may - Xuân Quỳnh) Sương khói xa mờ đôi bờ thức ngủ Con cá nào quẫy động giấc chiêm bao Cúi đầu xuống, gặp chân mình lấm đất Ngửa mặt lên trăng sáng cứ ngọt ngào (Trăng sông Tiền - Nguyễn Duy) Giai đoạn 1975-1990, ý thức xã hội có nhiều biến chuyển mạnh mẽ. Trên cơ sở ấy, thơ trữ tình đã tìm đến những mô hình thẩm mĩ mới với các kiểu tìm tòi, các kiểu khẳng định: người nói ngược, người phá phách, người tự thú, người không theo quy phạm cũ, người trở lại cội nguồn, có sự tiến lên, có sự trở về. Không chỉ là tiếng nói, hơi thở của thời đại, ý thức của cái tôi trữ tình còn vươn tới địa bàn của những vấn đề vĩnh cửu. Tuy đã có những thay đổi so với thơ giai đoạn trước, nhưng nhìn chung, chỗ dựa tinh thần, sự thăng bằng của con người đều phải dựa trên những giá trị mang tính truyền thống: dân chủ và nhân đạo. Về cơ bản, cái tôi trữ tình trong dòng thơ này vẫn mang tính hiện thực cao, tiếp nối dòng thơ hiện đại trên phương diện thế sự và đời tư. 2.3 Cái tôi mang xu hướng hiện đại chủ nghĩa Cuối những năm tám mươi đầu những năm chín mươi xuất hiện một số nhận xét tương đối ồn ào về một vài tập thơ, như Ba sáu bài tình (Lê Đạt, Dương Tường), Ngựa biển, Người đi tìm mặt (Hoàng Hưng), Bóng chữ (Lê Đạt), Ô mai (Đặng Đình Hưng). Không phải ngẫu nhiên tập trung được dư luận phê bình, các tập thơ trên, dù có những bài viết từ những năm sáu mươi, bảy mươi, đều ít nhiều có dấu hiệu của xu hướng thơ hiện đại chủ nghĩa (ấn tượng, tượng trưng, siêu thực, hiện sinh) xuất hiện ở châu Âu từ cuối thế kỉ XIX đến giữa thế kỉ XX, và đã chấm dứt với tư cách là các trào lưu. Có một số yếu tố hiện sinh. Cũng giống như cội nguồn của nó, con người trong loại thơ này của Hoàng Hưng, Đặng Đình Hưng là hiện diện của nỗi buồn bã, cô đơn đến tuyệt vọng với cảm giác bất lực, mệt mỏi, chán chường, thiếu niềm tin, day dứt đầy hoài nghi: Sống 67
  26. Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1975-1990 chỉ còn như một thói quen; Ước nằm nghe mưa rồi chết; Chẳng biết hồn lạc về đâu (Hoàng Hưng). Đó là một nỗi buồn mờ ảo, mông lung, trừu tượng, hư vô, nỗi buồn không địa chỉ, ít có điểm tựa hiện thực với những chi tiết đời sống giàu sức thuyết phục. Con người trong Ô mai (Đặng Đình Hưng) lại là con người mục nát, tan rữa trong nỗi buồn và cô đơn. Con người ấy xa lạ với chính mình. Đến nhân diện của mình cũng trở thành người khác, người không quen: Soi gương cũng không thấy, Anh lại đi ra phố nửa giờ, Về thấy, vội lấy bút ra giao lưu với người không quen. Không quen có một mùi vị. Hương vị từ lâu không thấy ở quen. Thèm cái mùi không quen này Thèm cái không quen, Tới với tôi đi người không quen ạ Nếu như trong các mạch thơ khác, con người luôn khẳng định ta là ai, ta là gì trong cõi đời thì con người ở đây lại là cái tôi không là ai cả: Tôi vẫn phi tôi (Dương Tường). Dù cái tôi trữ tình của Hoàng Hưng có đi tìm mặt mình trong những nỗi đau vừa sục sôi, vừa âm ỉ, như một món nợ tiền kiếp trong những nỗi buồn nhàu nát, pha trộn ít say, ít sex, ít sắc màu, ít âm thanh, ít hình khối, ít điên, ít mộng, ít tỉnh thì cuối cùng vẫn là vô vọng: Ta đói mặt người, ta khát mặt ta; Đi tạc mặt vào đêm, Hút hút. Có thể nói, sự giải phóng cá nhân khi đến cao độ, đến mức hoàn toàn vô nghĩa lí thì diện mạo cái cá tính độc đáo như một giá trị xã hội cũng trở nên mờ nhạt, bởi đã đẩy quá cao phần cảm giác, chối bỏ lí tính, ham vô thức, chối bỏ kinh nghiệm mà ham siêu nghiệm, bởi phần ý thức (cái tôi) bị thu hẹp mà đẩy cao phần bản năng (cái nó). Con người đầy những cảm giác vật chất (như một sự chống đối khuôn phép của ý thức) nên nhà thơ miêu tả rất kỹ việc ăn uống: ăn, gắp, xin tý tương giấm Đi duyệt một lượt các mẹt tim gan, bầu dục, chân giò, thủ, lòng, tràng (Đặng Đình Hưng), thậm chí cả những cảm giác phi lí thèm ăn cả quả chuông giờ (Đặng Đình Hưng). Đầy những cảm giác tình dục (một sự nổi loạn, một trong những biểu hiện của phản ứng đối với xã hội mà các thế hệ nhân loại đã trải qua: đường tu, cõi phật, hơi men, hương tình ái ) với nhiều hình ảnh và chữ nghĩa xấu, thô tục (Thơ vụt hiện, Duyên, Đêm mưa, Đường phố, Du lịch - Hoàng Hưng). Theo các đại diện của chủ nghĩa hiện đại, nếu con người chỉ được miêu tả ở phần ý thức không thôi, sẽ không phải là hình ảnh trọn vẹn của con người toàn nguyên. Do đó trong thơ hiện đại chủ nghĩa còn đánh thức dậy rõ nhất cả phần thấp hơn của thế giới tinh thần với những miền tiềm thức và vô thức. Theo Từ điển triết học (M.1986) vô thức được hiểu là: 1. Những hành vi được thực hiện một cách tự động theo phản xạ, khi nguyên nhân của nó chưa kịp đi vào ý thức, là những ý thức hoạt động không tự nhiên như thôi miên, say rượu, giấc ngủ. 2. Những quá trình tâm lí tích cực không tham gia trực tiếp vào mối quan hệ chủ thể và hiện thực (tiềm thức). 3. Một lĩnh vực tâm lí đặc biệt tập trung những ý hướng, động cơ, những ham muốn vĩnh viễn và bất biến do bản năng điều khiển. Chiều vô thức trong thơ (ấn tượng, cảm giác) được thể hiện bằng những quan hệ phi lí tính, chỉ còn ít nhiều quan hệ cảm tính trong các hình ảnh thơ: Hồ chành mi thổi viễn dương xanh (Lê Đạt), Noel, đèn, môi em, za em, jesusalem, phaphem, hang Đức mẹ, Jọt Jọt, hẽ 68
  27. 2.3. Cái tôi mang xu hướng hiện đại chủ nghĩa he, mùi quen, mà quên (Dương Tường). Những quan hệ cảm tính cũng hết sức mờ nhạt, xa xôi và rời rạc: Chớp nuột thở dài em trắng, Cánh cò đậu bờ mất ngủ, Tôi mặc áo buồn chờ gội mưa em (Dương Tường); Chói chang ngực rộng mây bay về khát khát; Đi trên một tối trầm phun ánh; Ai gọi rất xa, chờ ta, chờ ta bùng nổ (Hoàng Hưng). Bài thơ không tạo nghĩa mà chỉ tạo ấn tượng, không trình bày tình cảm trực tiếp mà trình bày một ám thị. Dương Tường có một kiểu cấu tạo từ, lập hình ảnh trên cơ sở kết hợp âm thanh hình khối. Cả một loạt từ mà dư luận cho là nhảm nhí, điên loạn: llềnh, llềnh nước, lli, lluông, lloang, llưng, lling, noel, nôem, nôelle, leng, beng được cấu tạo từ sự kết hợp giữa những tiếng chuông kéo dài (âm thanh thính giác) và hình bóng nước loang loáng trên mặt đường. Các từ Mariem, malem, x-em, noel, nôem, phaphem là một kiểu phối hợp giữa những âm thanh tương đối giống nhau để gây cảm giác trùng phức về ấn tượng. Trước đây, các nhà ngôn ngữ đã từng thán phục khi Nguyên Hồng sáng tạo ra các từ “nhê nha” (đứa trẻ nhê nha khóc) vừa kết hợp với nghĩa âm thanh (êa) và nghĩa hình ảnh thằng bé đang khóc (nhễ nhại), “những nắm tay nhua nhúa” (kếp hợp nghĩa của từ tua tủa và nhấp nhô). Ta cũng đã gặp những kiểu kết hợp từ như trên: cần trúc lơ phơ (lơ thơ + phất phơ), sè sè nắm đất bên đường (lè tè + sát sàn sạt) vừa tạo hình khối, tạo mảng, tạo cử động. Tuy nhiên, đẩy đến mức tạo ấn tượng như Dương Tường, sẽ trở thành trò chơi âm thanh, đến chỗ xa lạ, phi lí. Nếu mỗi hình ảnh nghệ thuật, vừa là một hình ảnh nghệ thuật, vừa là một hiện tượng thực tại, vừa mã hóa một nội dung cảm xúc tư tưởng (Iu. Lôtman) thì có thể dựng lại một thế giới với không gian và thời gian vô thức trong thơ Hoàng Hưng. Nhà thơ nắm bắt thế giới cũng như tâm trạng của chính mình trong những khoảng khắc vụt hiện của dòng ý thức, Vì vậy, nhiều bài thơ không phải là một trạng thái trọn vẹn mà chỉ là những phiến đoạn của cảm giác, thậm chí chính tác giả cũng không thể đặt tên cho nó: hầu hết những bài thơ trong tập Ngựa biển không có tên và ta hay gặp những câu thơ kết hợp hình ảnh tản mạn, bị xé vụn về cảm giác: Ai đi sương, tóc dạ, lông, chìm; Những tiếng dài, rộng, gió, Và cây, nhà, khối tượng, đá, hoa, sương; Tường vắng, khe, lông. Thơ anh đầy rẫy sự bất ngờ, khó hiểu, phi lí bởi hình ảnh và cảm xúc là sự chồng chéo hỗn loạn của dòng vô thức với những ẩn ức siêu hình. Thế giới của vô thức phải được diễn đạt bằng ngôn ngữ của vô thức. Có lẽ vậy, mà nhà thơ hay nhắc đến giấc mơ, một khái niệm về vô thức của các nhà tâm thần học: giấc mơ tỉnh dậy, chìm vào giấc ngủ ngày, muốn nhắm mắt thật lâu, xa xăm đỉnh mơ, ngủ chìm đáy mộng, thốt tỉnh, đắm mộng, triền miên một giấc mơ ngày, mộng dữ Dường như trí tuệ nhà thơ đang lang thang trong một cõi mơ ngày mà S. Phơrơt đã gọi là giấc mơ ban ngày hay trí tưởng tượng. Trong giấc mơ này, cái còn lại trong tác giả và để dấu ấn trong thơ là những hình ảnh dữ dội, man dại, nặng nề, hốt hoảng, rực rỡ, ngạt thở, hoang mang với những sắc màu kì lạ: Vụt kinh hoàng bóng em tan biến; Trái tim bắt đầu hoang mang; Em sặc nước rồi anh sặc nước; Vùng biển nâu bỏng rẫy mặt trời hoang; Em khắc khoải toàn thân lửa múa; Ngày nhật thực bảy mặt trời vần vụ; Biển oằn oài vũ nữ quay tít; Đau khoét ngực; Trắng bệch màu mây mệt mỏi; Vụt đứng dậy bồn chồn kinh hãi; Bật tiếng cười phút hoang mang nhất. Nhà thơ hay tìm đến cảnh biển với một không gian dữ dội và man dại: Có những người ra biển ngày giông, ngoài thẳm biển, biển sầm, biển sáng, biển réo, sặc nước, sóng trào dữ dội, biển động, giấc mơ gặp biển. Đến cả em cũng không chỉ là một người tình trong một tình yêu cụ thể mà phần nhiều là một thực thể hữu hình của những khát khao, ẩn ức vô hình không nắm bắt được: Em là ngựa non thon vó, giữa 69
  28. Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam 1975-1990 rừng người hoang vu; Anh mới hiểu chính em là biển; Em bỗng chín đỏ như trái cây chạm mặt trời mùa hạ; Thịt da em ráng chiều vụt tắt; Nhưng em đã bay đi như cánh vạc. Ngay cả con ngựa biển, con chó đêm cũng chỉ là những ảo giác, hiện hữu của những nỗi nhức nhối, những khát vọng, những mộng mị không đầu không cuối, không tên tuổi, không có tính hiện thực trực tiếp. Lẽ dĩ nhiên, về bản chất, hình tượng thơ ca từ truyền thống tới hiện tại, từ tây sang đông, đều mang trong mình những nét ảo, hư vô, ấn tượng, phi lí, mộng say, mông lung (Trên mái nhà xanh những con bồ câu đang đi - Pôn Valêri; Con cá sấu màu sẫm bơi trong mắt em - Guillen Ghiden; Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay - Thôi Hiệu; Mới sáng tóc còn xanh, chiều đã bạc như tơ tuyết - Lí Bạch; Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm giông - Tố Hữu; Câu thơ chở chòng chành tiếng khóc, Nghe mùa thu xa lắc ngấm trong lòng - Trương Nam Hương). Đây là một trong những đặc điểm của tư duy nghệ thuật thơ ca góp phần tạo nên cái đẹp huyền diệu quyến rũ của thơ. Tuy nhiên, những hiện tượng phi lí đó cuối cùng đều phải diễn tả cái có lí. Cái vô thức của cảm nhận Cô phàn viễn ảnh bích không tận, Duy kiến Trường giang thiên tế lưu là để diễn tả cảm giác cô đơn của con người trong cõi biệt ly. Cái dồn nén của thời gian tâm trạng Ba thu dồn lại một ngày dài ghê là thước đo của nỗi sầu dằng dặc. Còn cái vô thức trong thơ Dương Tường, Hoàng Hưng không giúp vào ciệc làm sáng rõ ý thức mà dường như chỉ trình bày một tồn tại phiêu diêu nào đó của tinh thần. Đẩy đến mức cực đoan, những câu thơ hoàn toàn mất đi phần lí tính, trở nên vô nghĩa là điều nên tránh. Cần phải có sự kết hợp hài hòa giữa ý thức và vô thức. Cõi siêu thực của tâm linh chỉ là cái tận cùng của những đau đớn, chiêm nghiệm về hiện thực. Miền vô thức là bước đầu tiên của ý thức. Những ấn tượng trực quan có thể gợi cho con người những ý nghĩ nào đó, nhưng cần có ý thức để điều chỉnh cân bằng, tôn tạo lại, bởi về cơ bản thơ là những ý tưởng đầy sự đứng đắn được xây dựng trên những phương tiện hài hòa giữa ý thức và vô thức. Ở một số tác giả khác, còn xuất hiện các yếu tố tượng trưng. Một trong những đặc điểm cơ bản của loại thơ tượng trưng là không giải thích thế giới theo lôgic thông tục, kinh nghiệm, mà theo lôgic siêu nghiệm. Thế giới trong thơ tượng trưng được dựng lên bằng ám thị, tức không phải bằng những hình thức cảm tính của đời sống mà bằng những ẩn ngữ, những tín hiệu, không phải để phát biểu ý nghĩ tình cảm trực tiếp mà để tự sự vật gợi lên một ám ảnh, một cảm giác nào đó. Vì vậy, muốn ám thị thơ, cái trước hết cần tới là âm nhạc. Nhờ âm thanh, các từ sẽ gợi được những sắc thái tinh tế nhất của tâm trạng bởi “Âm nhạc đi trước mọi cái” (Veclen). Tiếp đến là dùng các biểu tượng gây ấn tượng độc đáo. Thế giới của thơ tượng trưng, siêu thực có nhiều khó hiểu, nhưng không phải vì “kín mít, “tắc tị” mà vì nhận thức về vũ trụ, không gian-thời gian không theo lôgic phổ biến mà theo một nguyên tắc riêng. Vì vậy, ngôn ngữ thơ rất nhiều ấn tượng, biến ảo khôn lường, rất chú ý vẻ đẹp của ngôn từ, hình ảnh, âm thanh. Ngôn ngữ gợi nhiều hơn tả. Đi theo xu hướng đó, Lê Đạt đã có một quan niệm về thơ: người ta làm thơ không phải bằng ý mà bằng chữ, “nhà thơ làm chữ chủ yếu không phải ở nghĩa tiêu dùng, nghĩa tự vị của nó, mà ở diện mạo âm lượng, độ vang vọng, sức gợi cảm, chữ trong tương quan hữu cơ với câu thơ bài thơ15. Vì thế trong Ba sáu bài tình, Lê Đạt có những câu thơ rất đẹp, đầy màu sắc, đầy ấn tượng: Qua những đèo lẻ nắng; những chiều sướng bạc má; Mimôza chiều 15Lê Đạt. Chữ bầu lên nhà thơ. Báo Văn nghệ số 34/1994. 70
  29. 2.3. Cái tôi mang xu hướng hiện đại chủ nghĩa khép cánh, mi-môi-xa; Vườn màu hoa con gái bướm phù dâu; Mộng anh hường tim môi em bói đỏ, Giàn trầu già khua những át cơ rơi. Đến tập thơ Bóng chữ, tỉ lệ những câu thơ đẹp mà khó hiểu càng nhiều. Đến nỗi có người theo quan niệm thơ khác phải tặng Lê Đạt nhận xét: thi pháp thơ ú ớ. Trong một câu thơ xuất hiện nhiều hình ảnh, nhiều nghĩa, nhiều quan hệ. Những câu thơ kiểu Nguyễn Xuân Sanh từng viết cách đây nửa thế kỉ: Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi không hiếm. Lê Đạt tả cái thực bằng một ngôn ngữ dồn nén, đầy tỉnh lược, liên tưởng xa, đầy ấn tượng. Tả bèo dâu: Mộng hoa dâu lum lúm má sông đào. Tả quả vải chín: Tuổi vào ga mùa ủ lửa má vừa. Tả cô gái đánh đàn: Sóng tháp bút bước mở trầm âm lắng, Mưa búp măng lưng phím nắng dạo ngần. Tả tóc con gái bay trên phố chiều: Gáy nê ông chiều lả liễu lam bay. Tả đồi núi vùng Vũ Ẻn: Đồi mềm mây lưu thủy mắt thuyền quyên. Tả thực đã chuyển màu siêu thực bởi việc sử dụng ngôn ngữ ấn tượng và cắt dán, đặc biệt với kĩ thuật cắt dán của nghệ thuật trừu tượng và siêu thực. Những chi tiết của các hình thể khác nhau bị tách rời, dán ghép vào nhau tạo thành một chỉnh thể mới như ngôn ngữ hội họa siêu thực (Picatxô là một ví dụ). Nếu mỗi câu thơ được coi như một chỉnh thể thì câu thơ Lê Đạt có nhiều tầng lớp, nén nhiều nghĩa trong một tập hợp từ có hạn bởi sự giao thoa về trường liên tưởng của các từ trong một câu. Câu thơ Gáy nê ông chiều lả liễu lam bay có các hình ảnh chồng chất sau: gáy cô gái sáng trắng như ánh đèn nê ông, buổi chiều ở phố có ánh đèn nê ông, tóc mềm như lá liễu, tóc xanh như lá liễu, tóc đang bay, dáng cô gái lả lướt như liễu. Tác giả tả thực mà đã không thực bởi đã có những liên tưởng chuyển nghĩa khá phức tạp. Tả thực bằng huyền thoại (bướm phù dâu), bằng cổ tích (chiều Bích Câu, dáng Từ Thức, lông ngỗng ), bằng cách tạo ra những ngôn từ mới (mây vẩy hồng, mưa tuổi, tin xanh, phố tê tê ), bằng những màu sắc ấn tượng (Áo trắng, bước bồng bềnh mây trắng, Trời sáng ngần thân phố khỏa xuân). Trong cách đặt câu có sự tỉnh lược, nói tắt để dồn nén hình ảnh: trời mênh chim, tóc hoa đèn, buồm bềnh, mộng ba giăng Con người trong thơ thiên về cảm nhận cái đẹp của thế giới trong tính nữ: Địa trung hải sóng mày thu mải miết; Gió se se hoa trinh nữ thẹn thùng; Giải yếm đào gãy cầu; Hoa mười giờ môi con gái chín cây; Cây ải cây ai, Gió sải tóc buông thề; Cây gạo già lơi tình lên hiệu đỏ, La lả cành cởi thắm để hoa bay; Mưa rợp bóng mi, mày động gió; Gió bồ kết; Bờ đê con gái Có lẽ bởi vì cái đẹp, có một phần nào đó, nghiêng về tính nữ (cũng như trong hội họa, các nghệ sĩ thường vẽ phụ nữ và trẻ em). Nếu khảo sát thơ Hoàng Cầm ta cũng có nhận xét tương tự. Dương Tường bên những câu thơ phá phách, ba lăng nhăng, tạo ấn tượng là những câu thơ khá hay: Đêm say nồng như một tình yêu da đen; Những ngón tay mưa trời sao bạc, tỉnh mộng Seherazade; đêm ngàn lẻ hai; Tiếng thở xuyên xanh địa tầng kí ức; Chờ em đường dương cầm sương, chúm chím nụ dương cầm biếc. Có vẻ như một trong những tuyên ngôn của các nhà thơ theo xu hướng này (dù không viết ra thành lời) là tôn thờ Nghệ thuật, tôn thờ Cái đẹp, tôn thờ tình yêu, thiên về hình thức chủ nghĩa, còn những biến động đời sống hiện thực hàng ngày dường như chỉ còn bóng dáng khá xa xôi, mờ nhạt. Thơ cầu kì nhưng xa cuộc đời, nên không dễ có sự đánh giá nhất trí. Ở một số tác giả trẻ như Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Bình Phương, Kim Ba, Dương Kiều Minh cũng xuất hiện những yếu tố tượng trưng, ấn tượng. Trong thơ Dương Kiều Minh, tập Củi lửa là một ví dụ. Khi nghe một tiếng địch, tác giả viết Tiếng gì đơn độc, xa hơn nỗi 71