Thành ngữ trong cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều

pdf 6 trang ngocly 2870
Bạn đang xem tài liệu "Thành ngữ trong cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfthanh_ngu_trong_cung_oan_ngam_khuc_nguyen_gia_thieu.pdf

Nội dung text: Thành ngữ trong cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều

  1. Diễn đàn trao đổi 75 THÀNH NGỮ TRONG CUNG ỐN NGÂM KHÚC – NGUYỄN GIA THIỀU Expressions in Cung oan Ngam Khuc – Nguyen Gia Thieu Trần Minh Thương1 Tĩm tắt Abstract Dựa trên những khái niệm về thành ngữ của Based on the researchers’s concept of the các nhà khoa học, bài viết dưới đây chúng tơi khảo expressions, our research paper investigate its sát các biểu hiện của nĩ qua tác phẩm Cung ốn expression through the work “Cung oan ngam ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều. Chúng tơi tiến khuc” of Nguyen Gia Thieu. We classify and hành phân loại và phân tích đánh giá những tác analyze and evaluate the effects, indicate the dụng, chỉ ra những chức năng của thành ngữ được function of the expressions used by the author tác giả sử dụng trong tác phẩm đĩ. Từ việc làm in this work. From this researcher, we hope to này, chúng tơi hy vọng sẽ gĩp phần khái quát và contribute to generalize and clarify aspects of làm sáng tỏ phương diện biểu hiện về giá trị nghệ expression in artistic value of Vietnam medieval thuật của Văn học Việt Nam trung đại cụ thể là literature, namely the using of the expressions in việc sử dụng thành ngữ trong tác phẩm thơ cổ điển. normatively classical poems. Từ khĩa: thành ngữ; Nguyễn Gia Thiều; Cung Key words: Expressions, Nguyen Gia Thieu, ốn ngâm khúc. Cung oan ngam khuc. 1. Đặt vấn đề1 thơng qua một số phép chuyển nghĩa như ẩn dụ, Việc các văn gia, thi sĩ dùng thành ngữ trong so sánh, các tác phẩm văn chương là điều phổ biến. Vấn Lương Văn Đang - Nguyễn Lực xác định ba đề đặt ra là mỗi người cĩ một nghệ thuật sử dụng đặc tính cơ bản của thành ngữ tiếng Việt: riêng nhằm phát huy tối đa hiệu quả các thành ngữ “a. Về mặt kết cấu hình thái, thành ngữ tiếng đĩ. Ở tiếng Việt, lớp thành ngữ đã phong phú lại Việt phổ biến thuộc loại cụm từ cố định, cũng cĩ càng đa dạng hơn khi được kết hợp với các điển thể cĩ thành ngữ tính cố định cao, kết cấu vững tích thời trung đại. Cĩ thể khẳng định rằng hầu hết các nhà thơ Việt Nam trung đại đều dẫn, chuyển ý chắc, đạt mức một ngữ cú cố định. của thành ngữ vào mạch thơ của mình. Nghiên cứu b. Ngồi kết cấu hình thái, cịn cần phải xem vấn đề này, Trần Đình Sử trong Thi pháp truyện về mặt biểu hiện nghĩa của thành ngữ. Mặt này rất Kiều đã cĩ phần đề cập đến. Riêng Cung ốn ngâm phức tạp. ( ) Cĩ người xem nghĩa của thành ngữ khúc, theo tầm bao quát tài liệu của chúng tơi, đến cĩ tính chất biểu trưng. nay việc khảo sát, chỉ ra giá trị của các thành ngữ c. Xem xét quá trình vận động và sử dụng của mà Nguyễn Gia Thiều đưa vào khúc ngâm này thành ngữ tiếng Việt cũng là một vấn đề phức tạp chưa cĩ cơng trình nào hệ thống, hồn chỉnh. ( )” (Lương Văn Đang và Nguyễn Lực 1978, tr. Tìm hiểu nghệ thuật sử dụng thành ngữ qua các 7 – 11). ngâm khúc hình thức song thất lục bát cũng nhằm Đỗ Hữu Châu trong giáo trình Từ vựng ngữ gĩp phần giảng dạy và học tập những tác phẩm cổ điển ở thể loại này hiệu quả và sâu sắc hơn. nghĩa tiếng Việt đưa ra khái niệm thành ngữ (trong phần ngữ cố định) như sau: “Do sự cố định hĩa, do 2. Cac khai niêm về thành ngữ tính chất chặt chẽ mà các ngữ cố định ít hay nhiều Đề cập đến thành ngữ, nhiều khái niệm được đều cĩ tính thành ngữ. Tính thành ngữ được định các nhà ngơn ngữ, các nhà nghiên cứu văn học đưa nghĩa như sau: cho một tổ hợp cĩ ý nghĩa S do các ra. Ở đây chúng tơi chỉ nêu lại một số quan điểm: đơn vị A, B, C mang ý nghĩa lần lượt s1, s2, Sách giáo khoa Ngữ văn 7, tập 1 trong mục Ghi s3, tạo nên; nếu như ý nghĩa s1, s2, s3 thì tổ hợp nhớ viết: A, B, C cĩ tính thành ngữ. Thí dụ: hết nước hết cái Thành ngữ là cụm từ cĩ cấu tạo cố định, biểu là tổ hợp thành ngữ vì ý nghĩa quá dài, quá mức thị một ý nghĩa hồn chỉnh. chịu đựng, bực dọc, sốt ruột của nĩ khơng thể giải Nghĩa của thành ngữ cĩ thể bắt nguồn trực tiếp thích được bằng các ý nghĩa của hết, nước, cái, ” từ nghĩa đen của các từ tạo nên nĩ nhưng thường (Đỗ Hữu Châu 1981, tr. 61-62) 1 Thạc sĩ, Trường THPT Mai Thanh Thế, Sĩc Trăng Lê Văn Đức đưa ra cả hai khái niệm: Số 15, tháng 9/2014 75
  2. 76 Diễn đàn trao đổi Thành ngữ: “Lời nĩi ngắn gọn, cĩ sẵn, được Địi những kẻ thiên ma bách chiết, nhiều người dùng đã lâu, để diễn một ý hay một Hình thì cịn bụng chết địi nau! trạng thái cho cĩ màu mè. Dốt đặc cán mai, Nĩi Bửu Kế giải thích thiên ma bách chiết một cách toạc mĩng heo đều là thành ngữ ” (Lê Văn Đức cặn kẻ rằng: thiên = ngàn; ma = mài; bách = trăm; 1970, tr. 1512) chiết = gãy. Nghĩa trọn vẹn của thành ngữ này là: Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Bị biết bao điều khổ sở như nghìn lần mài, trăm lần Phi trong Từ điển thuật ngữ văn học đưa ra khái gãy vậy! Tác giả dùng để tỏ bày thái độ về nhân niệm thành ngữ: “cụm từ cố định, bền vững, cĩ tình thế thái. tính nguyên khối về ngữ nghĩa khơng nhằm diễn Ở một đoạn khác, ơng viết: trọn một ý, một nhận xét như tục ngữ, mà nhằm Cảnh hoa lạc nguyệt minh hơm ấy, thể hiện một quan niệm dưới một hình thức sinh động, hàm súc. Ví dụ: Vui như mở cờ trong bụng; Lửa hồng hơn như cháy tấm son. Đen như cột nhà cháy; Ý nghĩa của thành ngữ Thành ngữ hoa lạc nguyệt minh với nét nghĩa khơng phải là tổng số nghĩa của các thành tố cấu là trăng mờ, hoa rụng dùng để tả cảnh cung phi thành nĩ, tức là khơng cĩ nghĩa đen. Thành ngữ phải chịu lắm nỗi bi thương thê thảm khi chịu cảnh hoạt động như một từ trong câu. chăn đơn gối chiếc trong cung cấm. Dù ngắn hay dài, xét về nội dung ý nghĩa cũng 3.1.2. Thành ngữ thuần Việt như về chức năng ngữ pháp, thành ngữ cũng chỉ Cùng với những thành ngữ Hán Việt, những tương đương như từ, nhưng là từ đã được tơ điểm thành ngữ thuần Việt được nhà thơ sử dụng phổ và nhấn mạnh nghĩa bằng sự diễn đạt sinh động, biến trong khúc ngâm này. cĩ nghệ thuật. Giĩ đơng thơi đã cợt đào ghẹo mai. Chẳng hạn, thành ngữ Cị bay thẳng cánh tương Càng gay gắt điệu, càng tê tái lịng. đương với từ “rộng” được nhấn mạnh (cĩ nghĩa là Tác giả dùng cợt đào ghẹo mai để diễn tả sự “rất rộng”), (Lê et al. 2007, tr. 297 – 298). thiếu chín chắn bởi men tình đã ngất say. Chúng tơi sử dụng khái niệm của các tác giả Hay như: Từ điển thuật ngữ văn học làm cơ sở khoa học để Muơn hồng nghìn tía đua tươi, khảo sát hiện tượng sử dụng thành ngữ của Nguyễn Gia Thiều trong tác phẩm Cung ốn ngâm khúc. Chúa xuân nhìn hái một hai bơng gần. 3. Khảo sát thành ngữ trong Cung ốn ngâm khúc Muơn hồng nghìn tía với nét nghĩa chỉ mùa xuân. Hình ảnh ẩn dụ của thành ngữ này giúp người 3.1. Phân loại thành ngữ trong Cung ốn đọc liên tưởng đến chốn thâm cung với nhiều vĩc ngâm khúc ngọc da ngà đang đợi chờ chúa xuân ban ơn mưa 3.1.1. Thành ngữ Hán Việt mĩc. Nhưng chúa chỉ với tay tới một hai bơng Thê nao la tư Han Viêt? Theo cách nhận diện ở gần mà thơi, cịn lại thì chịu cảnh phịng khơng đơn giản mà đảm bảo độ tin cậy, Phan Ngọc cho lạnh lùng. rằng: một âm tiết Hán Việt là một âm tiết người Việt 3.1.3. Thành ngữ điển tích thấy cĩ nghĩa nhưng khơng thể hoạt động thành từ Lê Văn Đức đưa ra khái niệm Thành ngữ điển đơn tiết mà chỉ đĩng vai trị một bộ phận để tạo nên tích như sau: “Lời nĩi ngắn gọn cĩ sẵn được nhiều những từ đa nghĩa. Và ngược lại, bất kỳ âm tiết nào người dùng do một việc xảy ra lâu, được nổi tiếng: cĩ thể hoạt động thành từ đơn tiết đều được xem Ơng già Ba Tri; Hỏa hồng Nhựt Tảo, đều là thành là từ thuần Việt. Phan Ngọc, cơng thức hố thành: ngữ điển tích”. (Lê Văn Đức 1970, tr. 1512). từ đơn tiết (hình thức) = thuần Việt (nội dung). Về thành ngữ chúng tơi đã nêu ở phần đầu bài Trên cơ sở này, Lã Nhâm Thìn xác lập từ đa tiết viết, cịn ở khái niệm điển tích, Từ điển văn học (hình thức) = Hán Việt (nội dung). Cĩ thể xem đây (bộ mới) cho rằng: “điển cố là thuật ngữ của giới như, theo cách nĩi của Phan Ngọc, là các “mẹo cần nghiên cứu nhằm mơ tả một trong những đặc điểm thiết để cơng thức hố các thao tác”, các hình thức nổi bật của văn học cổ trung đại phương Đơng hố gọn để giảm bớt thời gian lao động cho người trong phạm vi các nước chịu ảnh hưởng của văn nghiên cứu, khảo sát các hiện tượng ngơn ngữ cụ hố Trung Hoa. thể, nhất là các hiện tượng ngơn ngữ văn học” Do những nguyên nhân khác nhau, đã hình Chung tơi quan niêm răng: Thanh ngư Han Viêt thành một tâm thế, một phong cách của những la thanh ngư chưa toan nhưng tư Han Viêt. người làm văn: trong hành văn thường hay nhắc Trong Cung ốn ngâm khúc, Nguyễn Gia đến sự tích xưa hoặc một vài câu thơ, câu văn cổ để Thiều đã mấy lần sử dụng trọn nguyên thành ngữ diễn tả ý mình, nhưng đây khơng phải là lối trích Hán Việt như vậy. dẫn nguyên văn, mà là lối dùng lại vài chữ cốt gợi Số 15, tháng 9/2014 76
  3. Diễn đàn trao đổi 77 nhớ được điển tích cũ, câu văn cũ ấy. Lối này gọi Thơ của Vương Tăng Nhu, vịnh người hầu yêu chung là dùng điển cố, bao gồm phép dùng điển của mình cũng cĩ câu: Nhất tiếu thiên kim mãi và lấy chữ. (một nụ cười nghìn vàng cũng mua). Dùng điển: nhà văn “sai khiến” các tích cũ chuyện Tiên thi Lý Bạch cũng từng hạ bút Mỹ nhân xưa cho thích hợp vào văn mạch của mình. nhất tiếu hốn thiên kim (nụ cười người đẹp xứng một nghìn lạng vàng). Lấy chữ: là mượn, dùng lại một vài chữ trong các áng văn thơ cổ vào câu văn của mình, gợi cho Trong mạch nghĩa đĩ, Nguyễn Gia Thiều cịn người đọc phải nhớ đến câu thơ, câu văn ở tác cĩ câu thơ khác: phẩm của người xưa”. (Đỗ et al. 2003, tr. 416) Dẫu mà tay cĩ nghìn vàng, Chúng tơi quan niệm, theo nghĩa hẹp: “điển Đố ai mua được một tràng mộng xuân tích, (hay điển cố – chúng tơi cho rằng đây là hai 3.2. Các cách sử dụng thành ngữ thuật ngữ tương đương) là một biện pháp tu từ, ở Khảo sát qua 356 câu thơ của Cung ốn ngâm đĩ nhà văn sử dụng “câu chuyện đĩ” sao cho phù khúc (bản của Tơn Thất Bình chú giải và hiệu hợp với văn mạch mình nhằm tạo tính hàm súc cho đính) chúng tơi nhận thấy Nguyễn Gia Thiều sử lời văn, ý thơ. (Chúng tơi nhấn mạnh điển tích phải dụng thành ngữ ở các dạng cơ bản như sau: cĩ tình tiết của một câu chuyện: chuyện trong sử 3.2.1. Sử dụng nguyên vẹn thành ngữ sách, chuyện hoang đường truyền tụng, ) (Trần Đây là dạng thức những thành ngữ được dẫn Minh Thương 2009) nguyên vào mạch thơ. Tái hiện hồn cảnh cung nữ Như vậy, hiểu một cách ngắn gọn thì thành ngữ khi được tuyển làm cung phi, Nguyễn Gia Thiều điển tích là cụm từ cố định, bền vững gắn liền với dùng thành ngữ nhúng tay thùng chàm để xem như một “câu chuyện” nào đĩ trong sách sử. chuyện đã rồi, khĩ thể đổi dời: Cung ốn ngâm khúc cĩ câu: Càng lâu càng lắm điều hay, Giấc Nam Kha khéo bất bình, Cho cam cơng kẻ nhúng tay thùng chàm. Bừng con mắt dậy thấy mình tay khơng. Hay khi miêu tả nét tài hoa của người cung nữ, nhà thơ dùng thành ngữ cờ tiên rượu thánh để tái Thành ngữ giấc Nam kha được lấy từ chữ: Nam hiện tài sắc đã vang lừng trong nước của nàng. kha mộng, nghĩa là giấc mộng ở cành hướng Nam. Trong một bài ký của Lý Cơng Tá, đời Đường, chép Cờ tiên rượu thánh ai đang, rằng: Thuần Vu Phần chiêm bao đến nước Hoè An Lưu Linh, Đế Thích là làng tri âm. được quốc vương nước này cho làm chức Thái thú Thành ngữ cờ tiên rượu thánh nhắc đến hai và gả con gái cho, hưởng đủ mọi điều vinh hiển; nhân vật: Lưu Linh (một người trong thất hiền trúc nhưng sau bị thua trận, vợ lại chết; vua sinh nghi lâm, Lưu Linh tự Bá Luân (210-270), người đất Bái cho về. Người ấy giật mình tỉnh giấc, thấy mình sống vào cuối thời Ngụy đầu đời Tấn, dung mạo ngủ dưới gốc hoè, dưới nhánh hoè hướng nam cĩ xấu xí, tính tình buơng thả phĩng túng. Nhưng tâm hồn lại thanh khiết, cao siêu. Trong cơn say, Lưu cái hang kiến, mới sự tỉnh biết mình nằm chiêm Linh thường tâm sự với bạn bè về chủ thuyết của bao nơi hang ấy. Từ tích ấy để nĩi rằng mọi thứ mình) và Đế Thích – vị tiên tục danh là Lý Chế, vinh hoa phú quý trên đời này chẳng khác gì giấc người nổi tiếng về uống uống rượu và đánh cờ chiêm bao, cĩ đĩ rồi mất đĩ. khơng ai sánh kịp. Thú vị hơn, Lưu Linh, Đế Thích Để miêu tả chuyện người cung nữ được vua được xem như tri âm với người ở lầu hồng gác tía, yêu khi nàng cịn là đĩa hoa xuân sắc Nguyễn Gia điều đĩ lại giúp độc giả liên tưởng đến thành ngữ Thiều viết: tri âm tri kỷ với một câu chuyện khác: Bá Nha – Tử Gan chẳng đá khơn dường há chuyển Kỳ. Do khuơn khổ bài viết, chúng tơi khơng nhắc lại điển tích này ở đây. Mặt phàm kia dễ đến Thiên thai Cũng cĩ khi ơng lại dùng nguyên hai thành ngữ Hương trời sá động trần ai để đối nhau, như trường hợp: Dẫu vàng nghìn lạng dễ cười một khi. Khi ấp mận ơm đào gác nguyệt, Câu thơ cuối sử dụng ý từ thành ngữ nhất tiếu Lúc cười sương cợt tuyết đền phong thiên kim. Chuyện ấy xuất phát từ việc vua Chu U Nội dung các thành ngữ ấp mận ơm đào và cười Vương mê say nàng Bao Tự nhưng chưa bao giờ sương cợt tuyết đều gợi hành động ân ái của cung thấy nàng cười nên ra lệnh ai làm cho nàng cười sẽ nữ khi nàng cịn được mặt rồng đối tưởng. thưởng nghìn lạng vàng. Nàng vẫn khơng hở mơi. Cuối cùng vua phải đốt phong hỏa đài gạt chư hầu. 3.2.2. Dịch ý của thành ngữ Bao Tự cười nhưng sau đĩ thành nhà Chu nghiêng Như chúng tơi vừa phân tích ở trên, ngồi ngửa, vua Chu phải bỏ mạng. việc sử dụng nguyên vẹn một thành ngữ nào đĩ, Số 15, tháng 9/2014 77
  4. 78 Diễn đàn trao đổi Nguyễn Gia Thiều cũng khơng ít lần dùng ý của 3.3. Chức năng của việc dẫn thành ngữ thành ngữ trong khúc ngâm Cung ốn của mình. 3.3.1. Tính hàm súc Dạng thức này khiến người đọc phải cĩ sự liên Hàm súc là lời ít mà ý nhiều, hàm ý vừa rộng, tưởng mới nhận ra. vừa sâu, người đọc phải cĩ kiến thức uyên bác mới Để diễn tả sự cơ đơn, tủi phận hồng nhan, Ơn hiểu được tận cùng lời nhà thơ muốn nĩi. Cách Như Hầu đã khéo léo sử dụng hình ảnh: dùng dẫn thành ngữ thể hiện rõ chức năng này Tay nguyệt lão chẳng se thì chớ, trong các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại nĩi Se thế này cĩ dở dang khơng? chung và Cung ốn ngâm khúc nĩi riêng. Nguyệt lão se tơ hay ơng tơ bà nguyệt là một Đoạn thơ diễn tả nỗi lịng nhắm mắt đưa chân thành ngữ điển tích liên quan đến chuyện Vi Cố phĩ mặc trời cao dong ruỗi đẩy đưa duyên phận: đời nhà Đường. Điều đáng nĩi là Nguyễn Gia Chữ đồng lấy đấy làm ghi, Thiều chỉ dùng ý của thành ngữ để gợi tả mà thơi. Mượn điều thất tịch mà thề bách niên. Tương tự, chúng ta cịn gặp những trường Ở dịng bát xuất hiện hai thành ngữ, mỗi thành hợp khác: ngữ tác giả chỉ sử dụng một ý để đưa vào. Thất Áng đào kiểm đâm bơng não chúng, tịch gợi người đọc hướng đến thành ngữ Ả Chức chàng Ngưu, hay Ngưu Lang Chức Nữ, cịn bách Khĩe thu ba gợn sĩng khuynh thành niên được tỉnh lược từ thành ngữ bách niên giai Câu thơ sử dụng ý của thành ngữ khuynh quốc lão quen thuộc. Như vậy chỉ với hai cụm từ thất khuynh thành hay nghiêng thành đổ nước. Kinh tịch và bách niên đã kiệm lời gần như tối đa nhưng thi cĩ câu triết phu thành thành, triết phụ khuynh ý tứ thì mở rộng biết dường bao. thành: người đàn ơng giỏi dựng nên một thành trì, Chịu cảnh bướm chán người chường, người người đàn bà giỏi làm nghiêng đổ thành trì. cung nữ tâm niệm quy y nương nhờ cửa Phật, khi Lý Diên Niên đời Hán, khi tả người con gái đĩ nàng thể hiện ý định: đẹp đã viết: Bắc phương hữu giai nhân; Tuyệt thế Lấy giĩ mát trăng thanh kết nghĩa, nhi độc lập; Nhất cố khuynh nhân thành; Tái cố khuynh nhân quốc (Phương bắc cĩ người đẹp/ Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên Một mình nhất thời gian/ Nhìn một cái thì nghiêng Thành ngữ hoa đàm đuốc tuệ cĩ nguồn gốc từ thành của người ta/ Nhìn hai cái thì nghiêng nước ngơn ngữ nhà Phật. Ưu đàm là loại hoa thiêng, ba người ta). nghìn năm mới nở một lần. Hoa Nghiêm kinh cĩ dẫn lời Phật nĩi rằng ngọn lửa trí tuệ (tuệ hỏa) Ý thành ngữ cũng xuất hiện ở đoạn thơ khác: sẽ đem chúng sinh ra khỏi chướng ngại khổ đau. Má hồng khơng thuốc mà say Hoa đàm đuốc tuệ với nét nghĩa chỉ cửa Phật sẽ Nước kia muốn đổ, thành này muốn long! đưa những kiếp người bất hạnh ra khỏi bến mê. 3.2.3. Tách chiết thành ngữ Nguyễn Gia Thiều dùng thành ngữ này ở đây cũng với nét nghĩa như vậy. Một dạng thức nữa trong cách sử dụng thành ngữ của Nguyễn Gia Thiều chúng tơi khảo sát 3.3.2. Tính trang nhã được là việc ơng tách chiết một thành ngữ nào đĩ Văn chương trung đại đậm tính ước lệ. Đặc ra thành hai phần để đưa vào ý thơ của mình. điểm đĩ gĩp phần làm cho lời thơ thêm trang Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn, nhã. Nĩi khác đi khi gặp những vấn đề tế nhị liên quan đến bản năng các nhà thơ trung đại thường Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa. dùng biện pháp nĩi tránh. Ngay cả việc miêu tả Thành ngữ chim sa cá lặn hay thành ngữ trầm “tứ khối” của con người, các nhà Nho ngày trước ngư lạc nhạn được tách ra và dùng bằng cách cũng sử dụng những điển tích để biểu đạt: chuyển dịch ý của nĩ đặt vào hai dịng thơ khác Cơm Phiếu Mẫu, gối Trần Đồn nhau giúp người đọc cảm nhận vẻ đẹp gần như tuyệt đối của đối tượng được miêu tả. Ngửa nghiêng gối phương, nhẹ nhàng Ở trường hợp khác: nương long. Trên gác phượng, dưới lầu oanh, Trở lại với Cung ốn ngâm khúc, khúc ngâm diễn tả các cung bậc từ sung sướng đến thất vọng Gối du tiên hãy rành rành song song. của người cung nữ khi được sủng ái rồi thất sủng, Mượn hình ảnh gác phượng lầu oanh rồi tách tất nhiên khơng thể thiếu được những cảnh chiếu ra để diễn tả một khơng gian rộng hơn để thể hiện chăn. Nguyễn Gia Thiều khéo léo dùng những sự tượng tưởng của phi nữ những lúc mới vào cung thành ngữ để gợi nhắc vừa diễn tả được hành động nội, chúa yêu chiều hầu như mọi lúc mọi nơi. Tách ân ái vừa đảm bảo yếu tố trang nhã: chiết thành ngữ ra nhằm mở rộng chủ thể mà đối tượng hướng đến, xem ra đây là một nghệ thuật tài Bĩng gương lấp lống trong mành, hoa mà tinh tế của thi nhân vậy. Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa Số 15, tháng 9/2014 78
  5. Diễn đàn trao đổi 79 Chữ mây mưa liên quan đến thành ngữ Võ đã lìa đời. Mãi về sau, khi nhận được phong đỉnh Giáp non thần. Tích xưa kể rằng: vua thư của Võ cột vào chân chim nhạn mang đến. Hán Tương Dương nước Sở đi chơi ở đầm Vân Mộng đế mới rõ nguồn cơn, buộc Hung Nơ phải thả Tơ gần núi Vu Sơn chiêm bao thấy người con gái rất Võ về cố quốc. đẹp chung chạ chăn gối với vua và tự xưng là Vu 3.4. Vị trí thành ngữ Sơn thần nữ. Nàng cịn nĩi với vua rằng: buổi sớm 3.4.1. Thành ngữ trong lời thoại của nhân vật mai thần nữ làm mây, buổi chiều thần làm mưa ở núi. Về sau, Tương Dương nghiệm xem thì quả Lời khẩn nguyện thiết tha của người cung nữ thật đúng như lời trong mộng, vua bèn lập đền thờ để mong chúa xuân một lần đối hồi, vọng tưởng: ở chân núi. Từ đĩ người đời dùng thành ngữ đỉnh - Phải duyên hương lửa cùng nhau, Giáp non Thần hay các chữ mộng Vu Sơn, mây Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào mưa, vân vũ, để ví cảnh trai gái chung chạ, ấp Duyên hương lửa lấy ý từ thành ngữ hương lửa yêu. Trong tác phẩm đang nĩi cịn cĩ những câu ba sinh. Thành ngữ này được ghép từ hai chữ ba khác mang dáng dấp của thành ngữ này: sinh và hương lửa. - Mây mưa mấy giọt chung tình, Ba sinh nguyên thủy từ Truyền đăng lục, sách Đình trầm hương khĩa một cành mẫu đơn. này chép: cĩ một người mộng đi đến chân núi đá, - Tình rầu rĩ làm ngây nhĩ mục, thấy một nhà sư ngồi trước mắt cĩ một cây hương. Chốn phịng khơng như giục mây mưa. Nhà sư này nĩi với người kia rằng: cây hương này chính là của ơng kết nguyện đĩ. Hương cịn cháy 3.3.3. Tính thuyết phục mà ơng đã trải qua ba đời rồi. Muốn thuyết phục người khác khơng gì bằng Hương lửa bắt nguồn từ một phong tục của việc dẫn giải ý của người đi trước. Sử dụng thành người Hán xưa. Mỗi khi trai gái thề nguyền nhân ngữ điển tích hoặc thành ngữ cĩ nguồn gốc từ thơ, duyên phối ngẫu thường dùng hương lửa để cúng từ của văn học Trung Quốc xưa là điều mà các nhà vái quỷ thần. Nĩi duyên hương lửa nghĩa là sự văn Việt Nam thường dùng. Mượn thành ngữ cĩ phối ngẫu tơ tình đã định từ kiếp trước. sẵn của người để nĩi ý mình như một sự khẳng định chắc chắn khơng thể bàn cãi. Theo mạch thơ trên, người cung nữ thầm ước nếu phải cĩ tiền duyên thì dê sẽ dừng xe, chúa sẽ Nĩi về cuộc đời chìm nổi người ta thường hay ghé ngự ở cung của nàng. nhắc đến chuyện bãi bể hĩa nương dâu. Tác giả của Cung ốn ngâm khúc cũng dùng phương thức Rồi niềm hạnh phúc cũng đến, nhưng tiếc rằng nĩ như vậy. ngắn chẳng tày gang, người cung nữ lại thổn thức: Khĩc vì nỗi thiết tha sự thế, Khi trướng ngọc, lúc rèm ngà, Ai bày trị bãi bể nương dâu. Mảnh xuân y hãy sờ sờ dấu phong. Bãi bể nương dâu được chuyển ngữ từ thương Bây giờ đã ra lịng ruồng rẫy, hải tang điền trong Thần tiên truyện. Theo đĩ, cứ Để thân này nước chảy hoa trơi. ba năm lại cĩ một lần thay đổi, biển cả hĩa thành Các thành ngữ trướng ngọc rèm ngà; nước chảy ruộng dâu, ruộng dâu hĩa thành biển cả (tam thập hoa trơi được dùng đắc địa trong trường hợp này. niên vi nhất biến, thương hải biến vi tang điền) 3.4.2. Thành ngữ trong lời trần thuật, lời miêu tả hàm ý chỉ sự thay đổi lớn lao của vạn vật. của nhà thơ Ta cũng cĩ thể gặp bĩng dáng của thành ngữ Với đặc trưng nghệ thuật của thể loại ngâm này lần nữa trong khúc ngâm được chọn khảo sát khúc hình thức song thất lục bát, nhà thơ khá nhiều với chi tiết tang thương: lần sử dụng lời trần thuật để tả cảnh, tả tình. Phong trần đến cả sơn khê, Trần thuật lại hồn cảnh bi đát của người cung Tang thương đến cả hoa kia cỏ này. nữ khi mang tiếng là gái cĩ chồng nhưng phịng Người cung nữ ở chốn phịng khuê từng giây khơng gối chiếc: từng khắc ngĩng chờ hình bĩng đấng quân vương. Tranh tỷ dực nhìn ưa chim nọ, Nguyễn Gia Thiều khéo léo miêu tả: Đồ liên chi lần trỏ hoa kia. Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng, Câu thơ đầu sử dụng hình ảnh tranh tỷ dực tức Đêm năm canh tiếng lắng chuơng rền. là bức tranh vẽ chim chấp cánh. Đĩ chính là ý trong Tin nhạn hay tin hồng đều mang nét nghĩa chỉ thành ngữ chim liền cánh, cây liên cành. Sách Nhĩ tin tức. Nĩ gắn với điển tích Tơ Võ chăn dê. Vị Nhã chép: ở phương nam cĩ lồi chim mỗi con chỉ tướng nhà Hán họ Tơ khi đi sứ sang đất Hung Nơ cĩ một cánh, khi bay, hai con phải chấp cánh vào thì bị đày chăn dê tại đây gần hai mươi năm trời. nhau. Ý của chim chấp cánh được ẩn dụ chỉ nghĩa Hán Võ Đế nhiều lần dị hỏi nhưng lại tưởng Tơ vợ chồng keo sơn gắn kết. Số 15, tháng 9/2014 79
  6. 80 Diễn đàn trao đổi Qua bao sự thay đổi thăng trầm người cung Trương Lệ Hoa ở đã sai thợ chừa một cửa trịn phi giờ đành an phận cho một kiếp hồng nhan nơi lớn khảm tấm thủy tinh pha lê hình mặt trăng. Lại trướng gấm màn loan. Nguyễn Gia Thiều thuật lại cho trồng trước sân cây quế lớn, tượng trưng cho nỗi niềm đĩ: ý cây quế trong trăng, như cung Quảng của Hằng Nơi lạnh lẽo nơi xem gần gặn, Nga vậy. Há phai son lạt phấn ru mà Nguyễn Gia Thiều dùng thành ngữ này với dụng ý chỉ nơi ở sang trọng của cung nhân khi Thành ngữ phai son lạt phấn thay cho lời diễn được vua yêu chìu. đạt biết bao tâm sự cảm cảnh u hồi. Để rồi tiếp theo nhà thơ triết luận về chuyện 3.4.3. Thành ngữ trong lời trữ tình ngoại đề trời đất hay ghen ghét má hồng qua thành ngữ Các tác giả Từ điển thuật ngữ văn học giải hồng nhan bạc mệnh mà Tình sử đã ghi tự thuở thích: “trữ tình ngoại đề là một trong những yếu tố nào: Tạo vật đố hồng nhan! ngồi cốt truyện, một bộ phận của ngơn ngữ người Chính việc đặt những thành ngữ vào lời trữ tình kể chuyện trong các tác phẩm thuộc loại hình tự ngoại đề nên quan điểm của tác giả về con người sự, trong đĩ, tác giả hoặc là người kể chuyện trực và cuộc đời được bộc lộ đầy đủ, khéo léo, tránh tiếp bộc lộ những tư tưởng, tình cảm quan niệm được sự hơ hào, khiên cưỡng. của mình đối với cuộc sống và nhân vật được trình 4. Kết luận bày qua cốt truyện” (Lê et al. 2007, tr. 375). Cung ốn ngâm khúc là một trong những tuyệt Cung ốn ngâm khúc, cũng cĩ dạng trữ tình tác trong văn học Việt Nam trung đại bởi ngồi nội ngoại đề đĩ: dung trăn trở về thân phận của những người cung Trải vách quế giĩ vàng hiu hắt, phi nĩi riêng và phận đàn bà nĩi chung, tác phẩm Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, này cịn thể hiện sự kỳ tài diệu bút của thi nhân. Việc sử dụng thành ngữ vừa chuyển tải nội dung Oán chi những khách tiêu phịng, một cách sống động vừa làm cho một tác phẩm Mà xui phận bạc nằm trong má đào. điển phạm mang sắc thái dân gian. Nĩi khơng quá Đoạn thơ dẫn ý hai thành ngữ. Ở dịng đầu gợi khi cho rằng thành ngữ là một phần quan trọng nhắc đến thành ngữ nguyệt trung đơn quế, với tích trong việc bắc nhịp cầu vững chắc cho tác phẩm chép trong sách Nam Bộ yên hoa ký: vua Trần Cung ốn ngâm khúc đến với đơng đảo độc giả Hậu chúa khi dựng cung điện cho người phi là Việt Nam qua bao thế hệ xưa nay. Tài liệu tham khảo Đỗ, Đức Hiểu, Nguyễn, Huệ Chi, Phùng, Văn Tửu và Trần, Hữu Tá (chủ biên). 2003. Từ điển văn học (Bộ mới). Hà Nội: Nhà xuất bản Thế giới. Đỗ, Hữu Châu. 1981. Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt. NXB Giáo dục. Đỗ, Thị Kim Liên. 2006. Tục ngữ Việt Nam dưới gĩc nhìn ngữ nghĩa - ngữ dụng. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà Nội. Lê, Bá Hán, Trần, Đình Sử, Nguyễn, Khắc Phi (đồng chủ biên). 2007. Từ điển thuật ngữ văn học. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục. Lê, Văn Đức. 1970. Việt Nam tự điển. Sài Gịn: Nhà sách Khai Trí. Lương, Văn Đang, Nguyễn, Lực. 1978. Từ điển thành ngữ tiếng Việt. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội. Phan, Trọng Luận (chủ biên). 2006. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11, tập 1. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục. Tơn, Thất Lương. 1950. Cung ốn ngâm khúc. Sài Gịn: Nhà xuất bản Sách giáo khoa Tân Việt. Nguyễn, Khắc Phi. 2003. Sách giáo khoa Ngữ văn 7. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục. Trần, Minh Thương. 2009. “Điển tích qua các tác phẩm ngâm khúc hình thức song thất lục bát trong văn học Việt Nam trung đại”. Tạp chí Ngơn ngữ, số 5 (240), tr 68 – 73. Số 15, tháng 9/2014 80