Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược (Phần 2) - Dương Văn Vượng

pdf 79 trang ngocly 2750
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược (Phần 2) - Dương Văn Vượng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftan_bien_nam_dinh_tinh_dia_du_chi_luoc_phan_2_duong_van_vuon.pdf

Nội dung text: Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược (Phần 2) - Dương Văn Vượng

  1. TÂN BIÊN NAM ĐỊNH TỈNH ĐỊA DƯ CHÍ LƯỢC Tập Hạ PHONG TỤC (Tất là thiếu thốn rất nhiều, bản này chỉ chép những điểm biết được trong thời hạn 8 tháng). Về việc chép phong tục này đáng tiếc là hơi muộn, vì do tân trào xô đẩy làm cho cựu lệ đắm chìm, cưỡi ngựa xem hoa hẳn là có sự sai cũng thường. Nhiều khi có tục lệ tốt đẹp, là quan phụ mẫu không nghĩ khơi dậy mà ham thói lạ kiểu gợi tình, thích chuyện người điều bỏ lễ, quên đi nếp nhớ ơn tiên tổ, lời ghi việc mở mang, trên đã bỏ rơi dưới theo từ tạ, cho là không hợp thời nghĩ chẳng nên nhắc lại, cổ hủ quê mùa, ngây ngô man rợ, quanh chốn mái tranh nhãng sớm lúc nào càng hay ! Đại lược xin kê ra dưới đây: Chiều 30 tết, chiều ngày trừ tịch, bỏ hết chân nhang trên bàn thờ đốt đi, nhưng bớt lại một cái chân nhang đẹp nhất, đốt thêm tro bỏ đầy vào, cắm chân nhang cho nghiêm rồi đặt lên bàn thờ, sau khi đã quét nơi thờ tự sạch sẽ. Ra bãi tha ma thắp hương tiên tổ và thân thích rồi về, dựng cây nêu ở phía trước nhà, dán câu đối treo tranh ảnh, quét trong nhà ngoài sân khắp chốn, trả các nợ nần, sửa lại cổng khoá then, sắp đặt nơi an nghỉ cho ông bà cha mẹ nghiêm trang ấm áp, làm cơm đặt ở nơi thờ thổ công, gia tiên, đặt vàng hương, ra sân thắp hương lễ thổ thần. Vào nhà kê bàn giữa nhà đặt lễ tiễn ông Đương niên cũ, và sắp lễ chuẩn bị đón ông Đương niên mới dưới chữ “Thiên quan tích phúc” (Quan nhà trời cho phúc). Cấm kị: Không làm chuồng xí, tưới bẩn thỉu phía đông, dễ bị ô uế nguồn nước, hướng nam cũng vậy. Phải thông cống rãnh không để ứ đọng. Cổng không làm thông vào gian giữa nhà chính mà chỉ nên đi một cổng hoặc có cổng phụ ra ngoài đồng, phải cài then khoá chặt chẽ. Không thắp hương mả mới, không thờ vong nhân chưa đủ ba năm ở nơi vốn thờ gia tiên, có đại tang chưa mãn không nên đến nhà ai từ chiều 30 tết đến hết mồng 3 năm mới. Không nên hà tiện quên treo đèn trước cửa nhà và trước bếp. Đốt pháo phải chú ý để xa nhà, chiều 30 và lúc giao thừa đốt pháo nên treo lên một cái cần ngoài sân mà đốt, nên đốt pháo tép cho có nhiều tiếng lại ít gây hoả hoạn, không cho trẻ con chơi pháo. không nên để cho bếp nước ô uế ruồi nhặng tối tăm. Nuôi lợn gà ở riêng một góc vừa phải ăn nước giếng khơi, không tụ hội cờ bạc, không đi đâu khi đã hết giờ Tuất (từ 10 giờ tối trở đi là không nên đi đâu nữa) và phải xem xét cổng trước sau then khoá cẩn thận. Không tụ hội ăn uống nhiều người khề khà say sưa không dứt. Làng phải thắp đèn ở các nơi khuất khúc. Giao thừa: Trước khi giờ Tý đến làm lễ đón Đương niên mới, đến đầu giờ Tý thì xong. Đốt pháo rồi đặt lễ gia tiên, đặt nên thì vừa đúng lúc giao thừa, đến giữa giờ Tý thì ăn uống nếu là hương hào thì ra xông đền hay túc trực ở đền tuỳ ý, nhưng sau khi đã sắp xếp việc nhà đầy đủ. ở đền lễ cũng tương tự như ở nhà do ông thủ từ lo lắng, chùa miếu tĩnh am đều thế. Từ đền họ cũng phỏng theo đền miếu mà dùng lễ, nơi công cộng thì có chiêng trống chuông mõ, mà nhà thì giản lược đi thôi. Đốt hương thì dùng số lẻ, vì số lẻ thuộc dương chủ về sinh sản phát đạt. Lễ bái xong ăn uống trọn thì phải nghỉ ngơi, nhà tư thì từ đầu giờ Thìn mới nên mở cửa vì lúc ấy đang có khí tiết trung hoà (Thìn thuộc
  2. thổ, thổ sinh vạn vật) mới nên xuất hành. Nước ta ảnh hưởng văn hoá Bắc Quốc cũng có tục kiêng ngày thụ tử sát chủ Ngày giờ sung với tuổi mình như Thìn Tuất, Sửu Mùi, Dần Thân, Tị Hợi, Tý Ngọ, Mão Dậu. Phương thì có phương tài thần hỷ thần mới nên dùng, còn kị đi phương ngũ quỷ. Mồng một : Là con gái con trai, cháu nội cháu ngoại đều đến bái niên (mừng tuổi) ông bà cha mẹ, không phân biệt chính thứ xa gần, xong xuôi mới về đi đến việc khác, nhưng đối với tuổi mình ngày này cũng tốt, không thì kén chọn ngày sau. Lúc xuất hành là lúc đi ra ngoài đi hái lộc rồi về, hái lộc ở nơi sạch sẽ và lại là nơi hoang hoá không thuộc một nhà cai quản, rồi đi bái niên những nơi chính yếu. Sau đó về cử người ra lễ Thành hoàng ngoài đền, rồi về nhà lễ tiên tổ tại gia trước giờ Ngọ, hoặc phân công ai có vị trí chính thứ lễ tại gia, lễ trưa ngày đầu năm là không thể thiếu được với người chủ gia đình, sau đó mới đi chúc tết anh em xa gần tuỳ ý. Lệ bái niên xưa mừng ai chỉ có bằng tiền mà chỉ có một đồng, lấy ý chỉ có một vốn mà sinh, nó mới tròn trặn và đi lối nào thì lại về lối ấy, nếu bái niên người nhiều tuổi thì mừng mười đồng, trăm đồng với ý mọi sự đầy đủ vẹn cả trước sau. Ngày mồng hai thì đi chúc tết tiếp, hoặc lễ bái cầu phúc đầu năm xin xăm đoán quẻ, chơi bời cảnh vật đón xuân. Bái niên ông trưởng tộc coi giữ từ đường, thầy học. Mồng ba, bốn, năm thì hoá vàng đưa tiễn tiên tổ, riêng đồ lễ ông táo thì đến ngày 22 tháng chạp mới đốt. Mời anh em đến ăn uống rủ nhau đi hội. Từ ngày 2 đến ngày 10 chọn ngày tháng tốt tế tổ ở từ đường, từ ngày 10 đến 20 thì chọn ngày tốt cử xuân tế ở đền miếu, từ ngày 5 đến 25 chọn ngày lễ giải hạn dâng sao ở nhà và lễ cầu thân giải hạn ở đền chùa, lễ giải hạn ở nhà thì tháng nào cũng phải lễ vì sao chiếu mệnh, mỗi tháng xuống hạ giới một lần. Bỏ cây nêu thì chọn ngày tốt của tuần đầu của tháng Giêng để bỏ (tuần có 10 ngày, tháng có 3 tuần: Tuần đầu, tuần giữa, tuần cuối). Ông Táo là vị thần được thượng đế phân công cai quản ở một nhà, cũng là người coi giữ cảnh thổ của gia đình ấy, khi lễ bái phải kêu với ông Táo trước, để ông biết rõ ý định của gia chủ rồi mới lễ gia tiên. Nếu nhà nào có lễ tiền chủ thì phải cất riêng một nơi ở sân vườn để lễ cúng như cúng thổ thần vậy. Thường thì vào chiều ngày 22 tháng chạp, lễ tế ông Táo, để sáng 23 ông Táo lên chầu trời, bày tỏ mọi sự tại gia hạt cai quản, đến trưa ngày 30 thì ông Táo đã có mặt ở nhà rồi. Lễ ông Táo thì thường dùng mũ, áo, vàng, hia, cá chép và cây mía để làm gậy, lúc khát nước lại còn ăn được, từ trưa ngày 14 đến hết đêm rằm tháng Giêng có lệ treo đèn kết hoa gọi là hội hoa đăng. Đèn có nhiều loại, loại đèn kéo quân, đèn phụng tổ phụng thần thì có các chữ: “Phong điều vũ thuận, hải yến hà thanh, tứ thông bát đạt, nhất bản vạn lợi ” (Gió hoà mưa thuận, biển lặng sông trong, bốn phương thông tám ngả suốt, một vốn muôn lời). Đèn chúc nhau có các chữ : “Nội an ngoại thuận, bách phúc lai thành, nhân khang vật tịnh, lãi thiếu bình an” (Trong ấm ngoài êm, mọi phúc đều nên, người yên của tốt, già trẻ yên vui ). Đèn kéo quân thì để chơi, đèn phụng thần đến hết ngày thì hoá giá. Ai mua được thì khao làng, đèn chúc nhau thì đêm 14 đem đi mừng đi đến tận nhà treo ở cửa. Lệ bói đầu năm từ mồng một đến mồng bảy, mồng một gọi là ngày gà, 2 là ngày chó, 3 là ngày lợn, 4 là ngày dê, 5 là ngày trâu, 6 là ngày ngựa, 7 là ngày người. Các ngày này nếu trời đẹp tốt là thứ ấy đẹp, âm u mưa gió là ngày xấu. Vào ngày 7 nếu gặp 91
  3. ngày đẹp trời là người khoẻ mạnh, tụ hội con cháu uống rượu bách giải để trừ dịch lệ. Còn đốt pháo để xua đuổi tà ma. Cắm cành đào là bùa trừ quái dị. Yến Lão: Thường đến 60 tuổi thì lên lão, không kể lão ông lão bà chọn vào ngày tốt của tháng 2 kết nạp, chọn cụ nào cao tuổi nhất kể là cụ ông làm trưởng, cụ bà làm phó, nhưng còn minh mẫn làm trưởng hội phó hội, ba năm tổ chức yến lão một lần, có nơi mỗi năm một lần. Về ngày có nơi lại chọn yến lão vào tháng giêng hay tháng tám. Cỗ thì phân ra 60 đến 69 một mâm, 70 đến 79 một mâm, 80 đến 89 một mâm, từ 90 trở lên mỗi cụ một mình một mâm. Cỗ nhất dành cụ cao niên nhất, cỗ nhì biếu hào mục. Xã phải trích ruộng để làm lễ trước. Văn hội: Ai có chức sắc nhất mà có khoa mục nhiều tuổi nhất thì làm hội trưởng, nếu không minh mẫn thì bầu một người kém hơn làm đồng hội trưởng. Võ hội cũng thế. Hội tế bần: Ai có văn học nhiều tuổi mà đứng đắn nhất sẽ làm hội trưởng, hội khuyến học cũng thế. Hội văn, võ, tế bần, khuyến học, xã phải trích ruộng làm lễ cũng như hội lão. Các phần ruộng này không phải nạp thuế cho người quốc gia. Nhưng sau này thì khác. Ruộng tế thành hoàng ở đền, mỗi làng xã chỉ để có một đền, tuỳ theo lệ cũ không phải nạp thuế, còn ruộng phật tự đều phải nạp thuế công không quyên miễn. Ruộng tế Thần nông là ruộng để riêng theo lệ từ thời Lý, mỗi năm đến ngày thì làng lấy đó làm vốn mà làm. Cứ đến ngày 1 tháng 2 là tiết Trung hoà, các nơi ở trong nước tế thần Câu Mang, nhà nước ban nông thư do nông quan soạn thảo. Lệ Đông chí đến, kể từ Đông chí đến ngày thứ 106 là Thanh Minh, dân gian đi dẫy cỏ đắp lại phần mộ đã cải táng, thắp hương và tế lễ ở nhà thờ để truy tư. Thực ra lúc sống kèn cựa, mưu tính chống phá lẫn nhau, cuối rốt “trăm năm còn có gì đâu, chẳng qua nấm mộ cổ khâu (đống đất cũ) xanh rì” rồi “nhật chí hồ ly niên trủng thượng, dạ lai nhi nữ tiếu đăng tiền” (sáng ra cáo ngủ trong hầm mộ, đêm về trai gái trước đèn cười). Trước Thanh Minh một ngày là tiết Hàn thực. Sau tiết Lập Xuân ngày Mậu thứ 5 là Xuân xã, sau tiết Lập Thu ngày Mậu thứ 5 là Thu xã, dân gian vẫn có lễ bái tiên tổ. Mồng 3 tháng 3 gọi là tiết Thượng tị. Ngày Canh thứ ba sau ngày Hạ Chí là tiết Sơ Phục, ngày Canh thứ tư là ngày Trung Phục, sau ngày Lập Thu gặp ngày Canh là ngày Mạt Phục. Tháng tư có lúa gọi là tiết Mạch Thu, ngày 8 tháng 4 sinh Phật Thích Ca lễ ở chùa. Ngày 5 tháng 5 gọi là tiết Đoan Dương, dân gian đi hái thuốc lá đem về để dùng dần, hoặc còn dùng cả ngày 6 tháng 6 (tiết Thiên Huống). Lệ cổ mỗi khi đến ngày Đoan Dương thì lấy xương bồ thái lát ngâm rượu uống để giải ôn dịch do vậy còn gọi là ngày tiết Xương Bồ, cũng gọi là tiết Thiên Trung (giờ Ngọ ngày 5 tháng 5). Mỗi khi vào đầu mùa hạ, thường thấy ở đền miếu lập đàn chuẩn bị minh khí lễ giải trừ ôn dịch, ngày thì chọn ngày tốt có trực trừ, khao tiễn thì có thuyền bè, quần áo, vàng tiền, có khi tới ba ngày ba đêm thật là một sự lú lẫn. Các nhà thường dùng lá ngải khô tán với bột thương truật, xương bồ, quế chi, xuyên khung, bạch chỉ rải rắc khắp nơi chỗ ở để tịch uế thì còn có lý. Mồng 5 tháng 5 chế bài thuốc Bồ đề hoàn để lâm thời thì dùng, bài thuốc khí vị ít công phạt cảm mạo phong hàn, sốt rét, ngã nước, nôn mửa bụng 92
  4. đau hoặc do ăn uống đau bụng đều dùng được. Các nhà nghèo thiếu cũng có năng lực dự trữ, ấy là việc tốt. Ngày rằm tháng bảy, tương truyền người ở trên đời không mấy ai là có đạo đức tròn vẹn, không tội nhiều thì ít đều vướng ngục hình, ngày này được tha về đoàn tụ với con cháu nên tục có lễ cơm canh, đốt vàng mã, nhưng phải có cấp phó qua sự kiểm duyệt của Vũ lâm sứ giả, nhà phật gọi là tiết Vu Lan. Mồng bảy tháng bảy (thất tịch). Tục tề hài ký: ở phía đông Thiên hà có Chức Nữ là cháu của vua trời, một mình chăm chỉ dệt vải không nghỉ ngơi để trang điểm được, vua thương cô quạnh, bèn gả cho Khiên Ngưu Lang ở phía tây Thiên hà. Từ khi hai người lấy nhau, Chức Nữ sinh ra lười biếng rồi bỏ việc. Vua giận bắt trở lại phía đông, duy chỉ có đêm mồng bảy tháng bảy thì cho quạ bắc cầu để cho hai người gặp nhau ở bên tây bờ, anh chị gặp nhau tự tình thương khóc như mưa gió, con gái ngày xưa có lệ khất xảo (xin khéo) dùng kim khâu hàng ngày hướng về phía mặt trăng xâu chỉ, có khi dùng kim chín lỗ, chỉ 5 sắc để xâu, xâu được là được khéo, làm ăn có việc nhiều. ở nơi thành thị đêm 7 tháng 7 hay có lệ này. Tiết trung thu (ngày 15 tháng tám âm lịch): Các nhà đặt lễ trông trăng ngoài sân, ở hiên treo đèn các kiểu chơi bời, ăn uống, thưởng nguyệt, nếu trời có nhiều mây hay mưa gió thì đầu năm năm tới có nhiều mưa gió trở ngại đến việc trồng cấy. Mồng 9 tháng 9 (trùng cửu) có tục kéo nhau lên núi rừng, tìm nơi sạch sẽ hữu tình uống rượu cúc (rượu có hoa cúc, mộc tặc, màn kinh, xuyên khung, xương bồ, thương truật, phòng phong, cam thảo) ngâm thơ hay chơi bời nơi đền chùa thư giãn. Tục truyền ở đất Nhữ Nam có Hoàn Cảnh thường theo Phí Trường Phòng đi chơi, hôm mồng 9 tháng 9, Phòng bảo Cảnh hôm nay nhà ngươi có nạn, nếu khâu túi mang thù du và bình rượu cúc lên núi uống thì sẽ tránh được. Cảnh nghe theo đi, đến chiều về nhà bị thất hoả, gia súc chết hết, Phòng nói thế là qua rồi! Vào tháng 9 chọn ngày tốt làm lễ tế thần tổ có cơm mới gọi là tiết Thường Tân. Bài thơ của ông Bùi ái người xã Đông Duy huyện Vọng Doanh đỗ Cử nhân khoa Giáp Ngọ (1834) là Thường tân tiết: Mỗi phùng tân mễ sơ thung đắc, Hựu thiết đường trung phụng tổ thần, Nhân thế đương tri vô cố bản, Thuỳ quan hậu duệ hưởng thâm ân”. (Tiết cơm mới: Mỗi khi gạo mới giã xong, Thổi cơm dâng trước bát nhang tổ thần, Nếu đời không nghĩ xa gần, Gốc quên con cháu hưởng ân khó lòng). Tế Khổng Tử: Ngày sinh 17 tháng 8, ngày mất 18 tháng 2, tế xuân thu thường chọn vào ngày sinh ngày mất và kết hợp với tế hương hiền. Có nơi chọn vị khai khoa để tế, thường tế tam sinh ở văn chỉ miếu. Các xã tổng huyện tỉnh ở đâu cũng có nơi thờ. Tế ở Võ miếu : Thời xưa thường thờ Quan công, song từ thời Trần trở về sau thì hay thờ Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, còn thờ võ quan sở tại. 93
  5. Y miếu : Thời cổ thường 15 tháng 2 tế Thần Nông, 11 tháng 3 tế Ngô Bản dùng lễ tam sinh, đến thời Lê mạt thì chỉ tế Thần Nông và ông Hải Thượng. Ông Hải Thượng có ngày sinh và ngày mất. Một số nơi có đền thờ tổ nghề thợ mộc. Ông này quê ở nước Lỗ cuối thời Xuân Thu tên là Công Thâu Ban. Lễ thường vào ngày 16 tháng 6. Còn ở vùng ta thì thờ ông Ninh Hữu Hưng tướng thời Đinh Lê, tại xã Ninh Xá huyện Vọng Doanh có đền thờ. Thợ nề thờ tổ cũng thờ ông Lỗ Ban. Ông Đỗ Hựu người xã Đại Nhiễm huyện ý Yên đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất năm Hồng Đức thứ 9 (1478) có bài kiến nhân tự mộc tượng Lỗ Ban công nhân tác nhất luật dĩ chí: Phụ mộ vô tri tháp xổ hương, Thổ trùng hựu chí kiến cao đường. Bắc phương Lỗ quốc Công Thâu tử, Nam địa tòng lai vị kiến khuông, Vạn lý khởi năng lưu ngữ giáo, Thiên niên hà vọng thiếp ân dương. Đinh thì Ninh tướng công do tại, Quảng bá dân gian tức khả tường! (Thấy người thờ ông thợ mộc Lỗ Ban nhân viết một vần : Mồ cha chẳng cắm nén hương chi, Đống mối đền cao giục dựng đi. Bắc quốc Lỗ Ban từ thuở trước, Nam châu nào thấy giúp cho gì. Đường xa sao để lời dăn dạy, Ngàn thuở không hòng lộc tí ti. Ninh tướng thời Đinh công rất lớn, Cùng nhau quảng bá hướng quy y). Tháng một, tiết Đông Chí có lệ hội cả họ đắp mộ thắp hương tế tổ, các việc hôn thú thì đủ 6 lễ mới thành, còn việc chôn cất thì theo gia lễ Thọ Mai. Ngoài ra có việc vui việc buồn thì thường cả chòm xóm túm lại cùng lo, rất là đầm ấm. Tháng chạp ở từ đường, đền miếu, chùa chiền thường chọn ngày tốt để lễ tất niên, các người đi làm xa về thì lễ tạ ơn tổ nghề. Còn các việc cờ quạt, rước tế, giao hiếu là tục riêng của từng vùng tuỳ theo sự thờ tự Thành hoàng của họ. Dân gian có tục xem ngày tốt xấu, nghiệm thuỷ triều thời tiết để làm các việc, khởi sự thì kiêng ngày thụ tử sát chủ, thập ác đại bại, thần hào quỷ khốc ; làm nhà, làm tổ chuồng nuôi gia súc gia cầm, còn kiêng không phòng, ly sào, cô thần quả tú. Cưới vợ, về nhà mới chuyển chỗ ở, kê giường nằm, nhận việc chữa bệnh đều thế cả. Các việc lớn như xây nhà mới, cưới vợ còn kiêng cả kim lâu. Mai táng ngoài việc kiêng thụ sát còn kiêng tang tam sát, trùng tang, trùng phục. Kiêng ngày xấu còn tìm ngày tốt như Thiên nguyệt đức, thiên địa giải, giải thần, hoàng đạo, thiên thành thiên hỷ Phạt mộc còn kiêng Lỗ Ban sát, phủ đầu sát Lợp nhà cất nhà, làm bếp còn kiêng các ngày hoả, dạy học kiêng ngày sát sư, phản sư. Còn các việc cũng có ngày kiêng kị cả đã chép rõ trong sách Ngọc hạp rồi. 94
  6. Ở Trung Hoa, rồi Việt Nam, quan niệm người ta có định mệnh, muốn hiểu rõ phải thấu hiểu âm dương ngũ hành tuần hoàn sinh khắc, người thì dựa vào thời điểm lọt lòng mẹ, việc khác thì xem khắc ứng. Rồi mất đi con cháu được thịnh vượng hay không cũng có tiền định cả, muốn dùng địa lý để mả cũng khó mà đạt được ý trời. Đó là tục cổ, còn từ cuối thời Lê và nhất là sang triều ta, đạo Gia Tô truyền vào nội địa, dần dần phai mờ đi các tục lệ xưa cũ, nhưng gần đây các giáo sỹ phương Tây cũng đi sâu nghiên cứu tục lệ phương Đông, hầu như đã làm quan niệm vô quân vô phụ lung lay rồi thì phải. Đặng Kim Toán người xã Hành Thiện huyện Giao Thủy, đỗ Phó bảng ân khoa Mậu Thân (1848), khi lập tổng Lạc Thiện có viết bài “Lạ thay”: Lạ thay con tạo khéo trêu ngươi, Vô phụ vô quân cũng giống người, Một cõi Tây Thiên chưa đắc ý, Còn sang Đông độ dạo qua chơi. Ngẫm xem không gốc rồi khô ngọn, Mà đã quên thân chắc mất nòi. Ăn uống cái gì mê muội vậy, Chết trong trường dạ gỡ sao ôi! Về hội hè lớn từ xưa, có lệ tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ. Cha tức ông Trần Quốc Tuấn lấy dân làm gốc đánh thắng Bắc quốc, mẹ tức là bà chúa Liễu có gương làm con, làm vợ, làm mẹ rủ lòng nhân từ giúp đỡ người lúc khó khăn. Nhiều vùng trong nước cũng đều hâm mộ. Trên đây là đại yếu một số điều, còn những nét đặc thù xin chép ở dưới hoặc bổ sung nghĩa cho trên. Ở huyện Đại An : Các xã Quỹ Nhất, Bình Hải, Sỹ Hội, Tổng Sỹ Lâm, xã Đồi Trung tổng Đồi Trung, xã Phạm Xá tổng Thanh Khê, xã Đông Cao thượng tổng Trạng Vĩnh có lệ yến lão. Đàn bà đến 65 tuổi, đàn ông đến 60 tuổi, theo lệ hàng năm lý dịch trong xã chuẩn bị áo quần hia mũ mang đến từng nhà, ông lý đưa biếu các cụ, mời các cụ lên kiệu, rước ra nơi đình làng làm lễ vào hội lão, xã trưởng cùng các chức dịch dùng rượu chúc các cụ và đọc bài chúc thọ trước, sau đó đến ông hội trưởng hội lão chúc mừng, từ năm sau trở đi không rước nữa, mà hàng năm duy trì lệ rước ra đình chỉ các cụ từ 70 tuổi trở lên, mới được làng rước đi rước về. Lời chúc : Xin mừng cho lão tới tuần, cả nhà vui vẻ ngày xuân tốt lành, bao năm nay bước tới đình, cho làng chúc tụng lão thành cao niên, nắng sương từng trải đã quen, dựng xây điền sản cháu con vui vầy. Cúc vàng dâng chén xin say, góp cùng ngõ xóm mỗi ngày thêm tươi. Mỗi năm thêm một tuổi trời, nghiệm qua suy tới đứng ngồi dạy con, gió xuân tràn ngập gia môn, lại còn ấm cả hương thôn quê mình! Xã Trạng Vĩnh tổng Trạng Vĩnh và các xã Giáo Phòng, Quỹ Nhất, Bình Hải, Sỹ Lâm tổng Sỹ Lâm rất trọng văn học, những ai theo học thì được miễn trừ các thứ sai dịch, ai thi đỗ lên hương ẩm, vào nhất nhị trường thứ vị đều được ở trên lý trưởng. Xã Đồng Bạn tổng Cổ Liêu có tục mùa xuân tế thần. Trai tráng đua nhau đi bắt chim quốc nấu chín dâng lên khi ăn cỗ, ai gắp được đầu thì năm này sẽ làm ăn phát đạt. Chuyện kể rằng thần khi xưa tị nạn, giặc không tìm được, bỗng có con quốc bay lên, bọn chúng mới đoán rằng nơi đó có người, bèn bao vây bắt được thần. Do thế bắt quốc là để rửa hận cho thần, lúc lễ bái tất không thể thiếu được. 95
  7. Tại xã Tam Đăng tổng Đồi Trung có kho thóc dựng trên khu đất 2 mẫu 5 sào, do các nhà khá giả làm thiện góp vào, khi có ai thiếu thốn khốn nguy thì lấy ra để cấp đỡ hay cho vay, năm Tự Đức có biển khen nhưng rồi sau bị bọn tả đạo đốt cháy cả. Nay chỉ còn ruộng cấp đỡ cho người đi lính. Ở xã Đồi Tam, Dương Hồi, cổ truyền có tục thờ vua Đinh, chuyện kể năm xưa dân sở tại theo vua Đinh đi đánh giặc, thế rồi hàng năm cứ đến ngày 16 tháng 8 là ngày sinh của Tiên đế, thì ngày 15 trẻ em hai xã chặt trúc ở miếu sau đền, chia ra hai bên tập trận cờ lau ước độ nửa ngày. Đến ngày chính kị thì hai xã cùng lo việc. Trong đền có câu đối: Chân vương nhất thống lưu loan giá, Cổ miếu trùng tân xướng phượng đầu (Vị vương chân chính thống nhất đất nước từng lưu lại dấu vết xe loan. Ngôi miếu cổ sửa mới lại trên khu đất có hình đầu con phượng). Bài nói về đất Đồi quê hương của Tam Đăng học sỹ Phạm Văn Nghị, ông tên hiệu là Nghĩa Trai đỗ Tiến sĩ năm Minh Mệnh thứ 19 (1838) là bài Nguồn gốc làng tôi(1): Khi nhàn tựa cửa nghỉ ngơi, Hỏi xem nguồn gốc làng tôi ai tường. Từ khi vua Triệu khai cương(2), Đất Đồi là xứ trung phương có người, Con đường thiên lý ngược xuôi, Dòng sông lên xuống chảy trôi theo mùa. Miễu Tre rừng Sở gò Mua, Đầm Đa bờ Cói sớm trưa đi về. Bắc Hà mười họ là quê(3), Tạ Đồ Đồng Phạm Dương Lê Nguyễn Trần, Gặp khi quân Hán tranh phân, Nam cư các cụ dời chân đất Đồi. Mở làng mở chợ một hồi. Đồi Trung Thượng Hạ Bắc rồi lại Nam, Năm khu vốn cũng một làng, Gái trai trồng cấy vỡ hoang mở đường, Cùng nhau giúp đỡ lo lường, Tính vuông mỗi phía dặm trường tám dư. Hán Ngô Ngụy Tấn Tống Tề, Tuỳ Đường kế tiếp khó bề ở ăn, Chống quân đô hộ tham tàn, Lê Phương Nguyễn Chấn Trần An vẫy vùng, Tuỳ Văn đế Đường Trang tông, Đinh Lâm Tạ Thái đều cùng nổi danh, Đến Tiên Hoàng có Nguyễn Thanh, Phạm Hoà Dương Thiệp tài lành đáng khen, Tiên phong vệ uý chịu liền, Thành hoàng các xóm năm miền thờ chung, 96
  8. Tiếp Lê Lý Trần thuộc Minh, Còn ba bốn vị liều mình bởi dân. Đồng An Đồ Quý Phạm Lâm, Năm mươi đinh tráng đầu quân cánh Chằm, Dẹp tặc đảng đánh loạn thần, Xóm thôn nhớ đức dụng lên đền thờ, Sông dài một dải quanh co, Bốn mùa tám tiết mận mơ xanh vàng, Che nơi phủ lị huyện đường(4), Trần Lê đông đúc các vùng chen vai, Cuối Lê trụ sở chuyển dời, Ra nơi Trạng Vĩnh(5) chỗ thời gần sông, Chỉ còn đất chật người đông, Cảnh nhà nghèo túng vẫn cùng bán buôn, Thủa xưa họ Tạ họ Điền, Họ Lư họ Nguyễn kế truyền quận công(6), Thời Lê nổi tiếng anh hùng, Ba trăm năm trước non sông nhớ người, Biết bao cuộc thế biến dời, Đất quê vẫn thế tình đời khác xưa, Nói ra biết có ai ưa, Không thì ai hiểu xa xưa chuyện nhà, Đôi lời thôi cũng gọi là, Để cho lũ trẻ ngâm nga lúc nhàn. Hai xã này hằng năm có lệ ngày 4 tháng giêng kị ông tổ Phúc An, ngày 5 tháng 5 ngày các tổ từ Bắc Hà về lập ấp, ngày 20 tháng giêng kỉ niệm dân xã theo vua Đinh đi dẹp giặc, thường dùng lễ tam sinh rước kiệu từ đền vua Đinh ra tế các tiên linh xưa theo vua Đinh thờ ở phía đông làng Tam Đăng, rồi rước vào chùa Lở quay trở về quay trở về đền lễ tổ lễ vua Đinh, mọi người đều đến góp tiền gạo, ăn cơm ở sân đền rất là vui vẻ. [Chú thích : (1) Nguyên văn là thơ Nôm. (2) Vua Triệu: ở đây chỉ Triệu Vũ đế. (3) Bắc Hà: Đây chỉ mạn Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh. Mười họ về đất Đồi vào quãng năm 111 trước công lịch kỷ nguyên. (4) Phủ lị huyện đường: Nói địa điểm vườn huyện, cánh đồng màu phía tây nam làng Tam Quang xã Yên Thắng huyện ý Yên hiện nay. Khu này ước mỗi chiều 600 mét. (5) Trạng Vĩnh: Tên làng nay thuộc xã Yên Phúc huyện ý Yên.] (6) Thời Lê Trung Hưng các vị Quận công này đã đóng góp nhiều trong việc tu sửa đền chùa, đắp xây cầu cống trong vùng, làng thôn có đường có ao trải dài theo hướng đông tây từng dong cũng khá đẹp mắt.] Xã Độc Bộ tổng Thanh Khê có lệ thờ thần, thần tên là Triệu Quang Phục, bị Lý Phật Tử đuổi đến ác Hải, cùng đường ngài lội cả ngựa đi xuống biển. Nay hễ đến ngày 13 tháng 8 thì rước kiệu lên thuyền (nhiều thuyền kết lại thành bè lớn) trở ra ngã ba sông tế một tuần, gọi là tam kỳ. Tế xong rước về miếu lại tế tạ. 97
  9. Ba xã Thôi Ngôi, Tướng Loát, Hạc Bổng ở tổng Kim Tông có tục thờ thần, tế lễ thì kiêng hát xướng, đàn nhị, chiêng trống. Truyền rằng vào năm Thành Thái thứ 2 có nhà ông họ Đoàn ở xã Thôi Ngôi sinh được 2 trai một gái, một hôm ba trẻ đi chăn trâu cho người ở Nhuế Dụê, bỗng có một đám con hát đi tới, hát xướng trống phách làm cho trâu sợ chạy lồng lên, một trẻ về đến Hạc Bổng chết, một trẻ về đến Tướng Loát thì chết, một trẻ gái về đến Thôi Ngôi thì chết. Trời mưa gió, mối đùn lên thành mộ, bấy giờ là ngày 12 tháng 7. Ba xã bỗng nhiên tật dịch xảy ra, người của không yên, đến lễ ở đền Chương Đức đại vương thì biết rõ chuyện bèn lập 3 nơi 3 ngôi miếu để thờ, hễ tế lễ thì kiêng ca nhạc đàn sáo chiêng trống. Hạc Bổng Tướng Loát tổng Kim Tông có lệ rước thần, thần vốn là con trai con gái ông Ngô Miễn thời Hồ, dưới thời Trần con trai là Lê Quý Duật theo Đặng Dung đi giúp Trần Quý Khoáng chống Minh. ở trên đê có ngôi miếu thờ ông chú của thần, hàng năm dân làng rước thần lên lễ miếu mãnh, gọi là lễ vọng tổ. Nay mộ thân mẫu thần và mộ của thần vẫn còn. Xã Ngọc Chấn tổng Ngọc Chấn có tục thờ thần thác danh là Tam Đầu Cửu Vĩ bát hải long vương. Thần vốn tên là Đặng Dung xưa kia từng đóng quân ở khúc đê này để ngăn quân Minh vào Thanh Nghệ và cứu dân Ngọc Chấn bị nạn lụt vỡ đê, mỗi khi đến ngày đại lễ thì dân xã chèo thuyền tập trận giả để kỉ niệm ở trên sông Hát. Dân các vùng hai bên sông đều tụ hội rất đông về lễ bái, do khúc sông này giống như dàm con ngựa nên gọi là cửa Mờm và đền cũng gọi là đền Mờm. Hiện đền có bài thơ của Đặng Dung khắc gỗ sơn son thiếp vàng “Kim Tông quân thứ chu trung cảm tác : Tân Mão niên thất nguyệt” : Tinh kỳ nghiêm lập thủy lưu trường, Thân ỷ thuyền lan vọng cố hương, Dân tán quốc nguy thuỳ nhiệm trọng, Binh cơ lợi độn vị năng lường! (Trong thuyền nơi đóng quân trên sông Mờm cảm xúc viết, tháng 7 Tân Mão (1411): Cờ tinh nghiêm chỉnh nước trôi dài, Quê cũ bên thuyền ngóng chờ hoài, Dân tán nước nguy ai gánh vác, Việc quân thắng bại biết chưa rồi) và “Hồng Đức niên ngự chế đối liên”: Tiêm cừu Nam quốc thần do phụ, Đãn hận Bắc xâm nhãn vị thanh. (Câu đối của vua Lê Hồng Đức: Diệt thù vì nước Nam ta, lúc hoá về trời thần vẫn giúp ; Còn giận với quân Bắc nọ, trông đang vướng mắt phải lo trừ). Xã Thanh Khê tổng Thanh Khê có tục đi làm lái lợn, khi mang lợn đi chợ thì dùng vợ làm con mồi, gọi vợ là chị cả, nhưng tối về thì gọi vợ là em tôi. Bùi Huy Phan người xã Thân thượng huyện Đại An đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn (1844) có thơ giễu: Em tôi chị cả khác chi nhau, 98
  10. Vì lợn lừa ai khéo đặt câu, Chớ bảo tổ tiên xưa đã thế, Mình cười sao nỡ để ai đau! Tục phường Giáo Phòng tổng Sỹ Lâm có lệ làm đèn hoa để mừng nhau. Nhà ai có việc dân mang đèn đến mừng treo vào cột từng chuỗi sáng rực, thường những đèn này đã đủ dầu thơm cháy được ba ngày ba đêm. Tử Vinh có đền thờ Sơn Quân, hàng năm cứ đến 10 tháng Giêng lấy tre giấy làm một con hổ đực to, đem đến đền đặt ở bàn giữa phụng sự, đợi đến ngày 21 cùng tháng thì khênh ra cánh đồng đốt đi. Tương truyền vào thời Lê Sơ, có một con hổ cái, thường đến làng lồng lộn khắp nơi phá phách nhà cửa ngô lúa, không ai trừ được. Sau lập đàn cầu Thiên Quan, được chỉ giáo Sơn Quân sống đã lâu năm, không kiếm được chồng, nếu làm con hổ đực lễ đốt đi thì Sơn Quân sẽ không đến phá phách nữa. Xã Vỉ Nhuế có tục thờ nữ thần. Thần tên là Phạm Tiên Nga, quê bố ở xã La Ngạn, quê mẹ ở thôn Nhuế Duệ xã Vỉ Nhuế, bố mẹ dời xuống làng Trần Xá xã Vỉ Nhuế sinh ra thần. Khi thần lớn lên thì thân sinh nối nhau về trời, thần không lấy chồng ở một mình phụng sự đủ lễ. Thần nghĩ nhà khá giả không có chồng con, liền đem tiền của cấp đỡ làng xã, xây dựng đền chùa cầu cống đường xá, khơi sông ngòi cứu giúp người nghèo thiếu, rồi thần đến xã Đồi Trung, lập một ngôi chùa ở bên bờ sông Đào Khê tu hành, lễ phật, qua 6 năm thì về ở đất thân sinh ở cũ để về trời. Khi về trời rồi sở tại nhớ ơn dựng đền thờ, được thần giáng bút xưng là con gái Ngọc Hoàng. Thời Lê Cảnh Trị có sắc phong đệ nhất giáng sinh tầm thanh cứu khổ, Phạm gia lệnh nữ bản cảnh tôn thần, các đời sau này thì phong đệ nhất giáng sinh Liễu Hạnh công chúa. Nay mỗi khi đến ngày kị thì ở La Xuyên, Cát Đằng của huyện Vọng Doanh, cũng rước xuống các đền Vỉ Nhuế, Nhuế Duệ, Đông La, Đồi Trung bái tổ. Xã Quần Liêu tổng Hải Lạng: Xã này do người của họ ông Võ Tố là Võ Thành lập ra, đền thờ sắc phong do vua ban cấp cho ông Võ Thành hãy còn. Ban đầu không có ai theo Gia Tô, sau có một số người ép buộc ông và vận động vợ con ông theo Gia Tô để ép ông. Thế không sao được ông phải mang gia phả thần sắc trơ trọi một mình sang ở tại phường Giáo Phòng không dám trở lại nữa. Ông có giảng với vợ con và người họ về việc tổ tiên khai khẩn, mà họ vẫn phá nơi thờ, trả lời hãy quên đi. Đó là việc năm Quý Dậu thời Tự Đức xã Quần Liêu lập nhà thờ chúa Gia Tô. ở Giáo Phòng cũng bị bọn trở mặt xã Quần Liêu đe doạ quấy rối, sau có người họ Võ quê gốc ở Cổ Liêu tổng Cổ Liêu, đón ông về đất tổ nuôi dưỡng, lấy một vợ 30 tuổi cũng được 5 người con trai rất hiếu thảo. Đỗ Huy Liệu đỗ Giải nguyên khoa Đinh Mão (1867) người xã La Ngạn huyện Đại An có thơ gửi ông Võ Tố “Ký Võ Tố công”: Diệc tự thiên bài khởi tự công, Thủ trì nhất phiến ngự tây phong, Thê nhi dĩ thử ưng tu cải, Khổ hải hà năng đãi khả phòng. (Gửi ông Võ Tố : Vốn tự trời bày chẳng phải ông, Giơ tay cầm quạt chống tây phong, Vợ con đã thế thay đi vậy, 99
  11. Biển khổ mong chi có thể phòng). Thời ấy những người như ông Võ không có nhiều, dù vậy trong việc truyền đạo của thánh Gia Tô không phải là nơi nào họ cũng nghe răm rắp. Ở huyện Vụ Bản, tại xã Bảo Ngũ tổng Bảo Ngũ có lệ để học điền, vào thời Lê có 3 mẫu, sang thời Nguyễn chỉ còn 2 mẫu 5 sào. Hằng năm vào ngày 15 tháng giêng ông hội trưởng văn hội cùng xã trưởng và một số người tụ hội ở đình ra đề bài cho học trò, trò nào ưu sẽ được một cái áo xanh da trời và một thùng thóc, kém thì chỉ có một cái áo, còn dốt thì không có gì. Xã Dương Lai tổng Trình Xuyên, xã trưởng để một nơi đất rộng 2 sào làm ba gian nhà, hằng năm quyên các nhà khá giả giàu có để xây dựng nghĩa thương, thời Lê có trữ tới 250 thùng, các năm đầu cho vay lấy lãi một phân mười một năm, về sau vừa cho vay vừa cấp không cho nhà quá túng, những năm quân Thanh xâm lược vẫn duy trì được, sang thời Nguyễn bị bọn tả đạo phá đốt lúa cháy rụi. Gần đây có dựng lại nhưng vốn còn ít lắm. Xã Khổng Trạch tổng Hào Kiệt có lệ trích một phần mười số thóc công để bổ sung vào quỹ thương, kết hợp với 2 mẫu ruộng lúa để cứu giúp cũng sung vào nghĩa thương. Gặp năm đói kém thì cấp đỡ dân, hoặc nộp tô nộp sưu thay cho các nhà túng bần hàng năm. Ở xã An Thái, Vân Cát tổng Đồng Đội có tục thờ nữ thần Lê Thị Thắng được phong là Mã Vàng công chúa ngày hội ngày thường lễ bái, thường có tục lên đồng, phụ nữ mặc áo quần nhiều màu sặc sỡ nhảy nhót ở trước nơi thờ. Thời Lê tuy đã có, song sang đầu thời Nguyễn thì thịnh hơn, gần đây tuy có kém nhiều mà vẫn không bỏ tục cũ. Các xã An Triền (Yên Duyên) tổng An Cự, Bất Di tổng Bảo Ngũ, Cao Hương tổng Hào Kiệt có tục bé xé ra to, hay đưa nhau đi kiện cáo nơi cửa quan, mặc dù biết bên bị bên nguyên đều tổn hại mà không chịu việc nhường nhịn nhau. Vùng các xã Dư Duệ, Phú Thứ, Côi Sơn tổng Đăng Côi có tục hay chắn đường gây sự với người tứ xứ lúc lạ lẫm đi qua để lấy đồ. Vào thời Lê mạt nơi đây hay có những vụ chém giết nhau, sang thời Nguyễn tuy có giảm bớt nhưng gần đây lại trỗi dậy. Ở Bách Cốc tổng Trình Xuyên có 8 điều kiêng: Không nhờ Bách Cốc tham quan, không vào Bách Cốc xóm làng quanh co (đường xóm có nhiều ngõ khó coi đồ vật mang theo), không chơi Bách Cốc ỡm ờ (lời chào hỏi chỉ bảo không thật), không bạn Bách Cốc lúc phò lúc vui (lúc vui thì bạn chơi, lúc buồn thì bạn tránh), không ăn Bách Cốc gạo hôi (cũng như Chợ Chùa thường vảy nước vào gạo để bán, lúc chào thì đưa gạo tốt, lúc đong thì để gạo xấu vào để lừa), không mua Bách Cốc con người trở tay (mua bán thường bị lừa cả với người già), không vợ Bách Cốc lời hay (gái Bách Cốc lười biếng ỷ lại cho chồng), không ở Bách Cốc riêng tây khó lường (Vào ở đất Bách Cốc, nếu nghèo thì còn ở được, nếu khá giả thì bọn xấu bàn mưu đánh đổ), tám điều Bách Cốc nên kiêng, đất lề quê thói xưa thường ít thay. Xã Vân Cát tổng Đồng Đội và xã Thái Tuyến tổng Bảo Ngũ. Có lệ cùng nhau phụng sự Thánh Mẫu ở phủ Cố Trạch, họ ước với nhau cứ tới ngày kỵ mẫu 3 tháng 3 thì tới làm lễ, ngày 7, 8, 9 thì cùng nhau bàn việc lễ bái. Năm Tự Đức Đinh Tỵ (1857) người làng Vân Cát là Vân Song cư sĩ có viết: Bồng Hồ nào phải xa đâu, 100
  12. Dấu xưa tốt đẹp thực là nơi đây, Ngôi đền cao ngất mây bay, Non xanh như vẽ trông đầy cỏ cây, Thiêng liêng còn đến hôm nay, Khói nhang thờ phụng tháng ngày đông vui, Nghiêm trang khi bước tới nơi, Vọng cầu ai dám buông lơi kính thành. Làng ta lân cận mái tranh, Với nơi sở tại cũng tình anh em, Lấy tâm lấy lẽ duy xem, Lại qua gần gũi thân quen là thường, Thần minh soi xét thiện lương, Ban cho phúc lộc thọ trường trăm năm. Khắc bia đá để điều răn, Làm gương mãi mãi xa gần soi qua. Xã An Thái có tục hội Hoa Trượng: Truyền rằng Trịnh Thái Phi đến cầu ở đền Mẫu, được ứng nghiệm rõ rệt, lúc ấy xã dân đang đắp đê, khơi nước kinh thành, Phi muốn tạ ơn bèn miễn sưu dịch cho dân về hết, bỏ mai cuốc dùng gậy dương biển kéo chữ “Thánh cung vạn tuế, Mã Vàng công chúa, thái bình ca xướng, quốc thái dân an, sở cầu như ý, vạn thế phúc thần, dân lại dĩ an” để đáp lễ đang trong ngày kị. Từ đó thành lệ của đền Vân Cát, đến thời Tự Đức thì Vân Cát ít người không lo được bèn giao cho đền Tiên Hương, đến nay Tiên Hương vẫn giữ lệ này. Lệ của sư chùa Tiên Sơn ở trên núi Gôi thuộc tổng Đăng Côi : Truyền rằng vào thời Lý sư Tế Sinh chùa Phúc Lâm xã Đồi Trung huyện Đại An, tiết đoan ngọ đi hái thuốc lên núi Gôi, nghỉ trưa mơ thấy Phật Bà cho nắm cúc, nắm quất, sư tỉnh lại thấy tay vẫn còn cầm bèn thắp hương lễ tạ rồi về. Mấy năm sau sư Tế Sinh lên ở chùa núi Gôi, song cứ đến mồng 5 tháng 5 thì dẫn các đệ tử về lễ ở chùa Đồi. Từ đó thành lệ năm nào các sư ở chùa Gôi cũng dẫn ước năm mười vị sư và các tín đồ hàng trăm trở lại bái tổ trước tượng phật Bà, từ sáng mồng năm đến sáng mồng sáu mới về. Chùa Gôi vốn là do sư chùa Đồi mở cảnh, hội chùa Đồi và chùa Gôi đều vào tháng 8, sáng 14 rước ảnh vẽ trên gỗ phật Bà từ Gôi về Đồi, rồi sáng 15 lại rước từ Đồi về Gôi, chùa Gôi to có nhiều toà chồng diêm, hành lang tả hữu liên tiếp tượng phật có tới vài trăm pho, còn có tượng thập điện rất uy nghi. Xã Liên Xương thuộc tổng Hoàng Lão có tục thi vật, thôn Bách Cốc, thôn Phú Lão tổng Hoàng Lão có lệ múa rối, Lai Xá tổng Hiển Khánh có phường con gái hát chuốc rượu để mừng đại lễ, phường có từ năm đến mười người đủ đàn sáo nhị trống phách, hát xướng các bài ca ngợi tuỳ sự việc trong đám, thời Lê có Nguyễn Thị Thục được tuyển vào phủ Trịnh Sâm, thời Gia Long có Bùi Thị Hoa được kén vào Huế. Ở huyện Vọng Doanh : Đây là một huyện nghèo, dân trong hạt nhiều nơi không thuần, điêu ngoa như dân Lỗ Xá, vu cáo như Hoằng Nghị, trộm cướp như Cao Bồ, An Lộc và một số nơi có đạo thiên chúa còn thì phần lớn cần kiệm hiếu học. Ninh Xá có lệ kéo lửa thổi cơm thi và lễ hiến xảo các đồ mộc lên đền thờ tổ nghề. Cát Đằng có lệ rước tổ nghề sơn, thi làm đồ khéo và thi vật. 101
  13. Tống Xá có tục không truyền nghề cho con gái, ai tiết lộ nghề cho người ngoài thì phải phạt đuổi khỏi làng. Lũ Phong có tục 15 tháng 3 mở hội tế thần tạ ơn, đinh tráng mặc áo nhiều màu cầm gậy hoa dương cao các chữ “Vạn thọ vô cương, thiên thu hương hoả, lão thiếu quân an, điền hoà phong nẫm”, ba năm một lần rước về Ninh Xá thượng. Mỹ Dương có lệ tế thần, thi lợn thi gà, ai thắng được thưởng một sào ruộng cấy suốt đời và một thùng thóc nếp, một cặp bánh dày giò nặng hai cân. Đô Quan có tục đấu cờ tướng, ai thắng được thưởng bộ quân cờ và một thùng thóc nếp. Ổi Lỗi có tục múa rối nước và hát thi khúc hát nhân hoà thần giáng phúc, ai nhất sẽ được thưởng bộ áo quần màu đỏ và một con gà trống. Khúc hát này có 60 câu đều là ca ngợi cảnh vua anh minh, quan chính trực, gió hoà mưa thuận, dân được mùa no ấm yên vui dưới đời thái bình thịnh trị. Cát Đằng, Văn Cú, La Xuyên, Ninh Xá cũng như vùng tổng Yên Trung của Đại An, ai nghèo khó thì còn yên ổn, nếu có sự khá giả thì tụ tập bàn mưu đánh đổ. Người xưa có câu: “Cơm nước cáy ngáy kho kho, cơm thịt bò lo ngay ngáy”. Xã Vũ Xá có đền thờ Nam Quân đô đốc phủ tả đô đốc Bái quận công Lê Viết Duệ (1602 – 1678) thời Lê Trịnh, đương thời có công giúp dân khốn khó, lúc mất ngày 15 tháng 6 dân dựng đền nhớ ơn. Các nơi được ông cứu hộ, đều trồng kiệu rước về Khả Lang lễ bái một đêm, sáng 16 tháng 6 mới rước trở lại đền tư. Lê Bá Cẩm người xã Tiêu Bảng huyện ý Yên, đỗ Hương cống năm Cảnh Hưng Nhâm Ngọ (1762) có đề bài thơ ở đền là “Vũ Xá Lê công từ” : Lê triều Vũ Xá Bái Quận công, Chung thuỷ nhất tâm bất cải tòng, Dữ quốc trung trinh quan hữu nhất, Đối dân nhân hậu thế vô song. Đồng liêu uý trực tầm phương hại, Hạnh đắc đương vương kiến lý cùng. Chư xứ mỗi phùng sinh kị nhật, Tề lai đính đới bái tư công. (Đền Lê công ở Vũ Xá : Triều Lê Vũ Xá Bái Quận công, Sau trước đều không đổi tấm lòng, Với nước trung trinh quan có một, Cùng dân nhân hậu tướng vô song, Sợ oai liêu hữu tìm phương hại(1), May có đương(2) vương hiểu lẽ cùng. Các sứ hoá sinh khi tới tiết, Đều về cầu đảo nhớ ơn ông). [Chú thích : (1) Liên hữu: bạn cũng làm quan. (2) Đương vương: vị vương đương thời, chỉ Trịnh Tạc. Hiểu lẽ cùng: hiểu thấu được Lý Viết Duệ mất.] 102
  14. Về phong tục của huyện Phong Doanh(1), Hà Trọng Phả người xã Nguyệt Lãng huyện ý Yên đỗ Cử nhân năm Giáp Thân (1883 - 1884) niên hiệu Kiến Phúc có viết: Học hành thì tổng Bồng Xuyên, Thượng Đồng tự cổ vài miền cũng hay, Trộm cướp Ngô Xá cả ngày, Ghét ghen An Lộc còn đây Cát Đằng, Mỹ Dương chớ nghĩ hữu bằng, Vũ Xá bới việc nên chăng lui lời(2). [Chú thích : (1) Huyện có 7 tổng, lời của Trọng Phả có tính khái quát. (2) Câu nói dân Vũ Xá hay bới việc vu vạ để đánh người cứop của.] Huyện ý Yên: Các xã Phú Khê, Dũng Quyết, An Tố, Xuất Cốc, Hưng Nhị, Lật Điền, Nguyệt Lãng, Lạc Chính có lệ để học điền. Chuế Cầu, Dương Hồi, Bình Cách, Thọ Cách có tục để ruộng nghĩa thương. Vạn Điểm, Mặc Tử có ruộng tế bần. Nói chung là một huyện nghèo, xưa có câu “nhân bần trí đoản” (nghèo thì sự suy nghĩ nông cạn) cho nên ít người ở xa tới để giao lưu. Hội chùa Ngô Xá : có lệ 15 tháng Giêng dân tứ xứ đến thắp nhang cầu phúc, hái chiếc lá để bói xem việc cả năm. Ai đi làm khá giả thì về đem tiền cũng vào việc tu sửa. Hội chùa Dưỡng Hối : Ngày 5 tháng giêng có lệ bói quân cờ. Trong chùa có bộ quân cờ đá, ai lễ vua Trần rồi thì ra nhặt lấy một quân rồi vào xem quẻ, dân tứ xứ kéo đến khá đông. Lạc Chính, Dưỡng Hối dân tục không thuần hay sinh nhiều chuyện bất nhân. Huyện Nam Trực: Trí An thuộc Cổ Nông có lệ thi lợn lệ, ai thắng sẽ được cấy 3 sào ruộng mãn đại. Bằng Hưng tổng Duyên Hưng có lệ lan nhai. Phàm con gái đi lấy chồng thì nhà trai xã khác phải nộp cho xã nem trăm gói, rượu trăm chén để đãi dân. Xã Thọ Tung tổng Cổ Gia có tục thờ phụ quốc tướng quân Bùi Ngọc Oánh, mỗi khi năm mới dân tứ xứ hay tới xin thơ giáng bút có nhiều linh dị. Ngày kị có lễ tạ ơn, các nhà đều góp gạo nếp gạo tẻ đồ xôi làm bánh dâng lên và hưởng lộc, nhờ công thần giúp tiền chiêu dân khẩn thêm đất rừng cầy cấy. Phần lớn các xã trong huyện đều chuộng học hành, có để học điền nhiều ít. Thường nghĩ đến việc thiếu đói, nên cũng có ruộng tế bần, song có một số nơi chú trọng duy trì, có phần nhiều chỉ là ghi trong hương lệ. Các xã Bái Dương, Tang Trữ, Hiệp Luật, Cổ Lũng cứ đến 10 tháng Chạp thì làm gỏi cá trắm, kho cá rô để tế Thành hoàng ở miếu. Sa Lung là tổng đông dân: Dao Cù có nhiều quan lại, Tây Lạc chăm chỉ học hành, nhưng nói chung trong tổng hay kiện cáo quấy phá, thường thì việc nhỏ cũng gây sự đưa nhau lên quan. Xã Gia Hoà người dân vốn ưa chém giết nằm ở tổng Thi Liệu. Xã này vốn là trại Vu Điền, thời Trần gọi là Ngân Điền, đến thời Lê Sơ gọi là Ngân Già, khi triều đình dẹp xong giặc cướp thì đổi ra xã Lai Cách, xã bị quân quan chém giết gần hết. Năm Cảnh Hưng 15 (1755) ông Nguyễn Thành Hoá đưa dân xã Cố Đế xuống ở, xã mới có nhiều 103
  15. người lên, bèn đổi làm xã Gia Ngân, rồi sau đổi thành Gia Hoà, nhưng địa phương vẫn quen gọi tên làng Cà từ Lê sơ trước. Dù vậy cái tính ngông cuồng của làng này vẫn chưa đổi được. Xã Vân Chàng có tục thi xôi trong ngày tế tổ ở đình, các giáp đua nhau mang cây xôi ra khoe, ai nhất sẽ được ban tấm vải đỏ trùm tượng, lệ là phải ngon và nhiều, cả tổng Thi Liệu đến xem mỗi người đều góp chút tiền để thưởng. Xã Đồng Côi tổng Thi Liệu : Phàm vợ chồng lấy nhau khi chưa có con thì đem hoa quả, bánh dày, bánh khúc ra lễ ở đền rồi khoản đãi người làng. Bánh đãi dân gọi là “bánh cầu tự”. Lễ tạ ơn của Làng Cà : Thời Lê mạt triều đình làm cỏ dân làng vì tội phản nghịch, năm Cảnh Hưng trước có Nguyễn Thành Hoá, sau có ông Nguyễn Huấn quan đô đốc người Tân Cốc Bắc Ninh đến, hai ông chiêu dụ dân tới phục hoá cấy trồng, nay có lệ xôi vò gấc đưa lễ 2 ông Nguyễn, địa phương gọi lễ này là lễ tạ ơn vào tháng Chạp ngày tốt. Xã Cổ Gia tổng Cổ Gia trước đây có ruộng tế bần kho lúa để cấp cho người nghèo khó. Năm Duy Tân thứ 7 (1914) có ý của quan huyện cấp thóc cho cùng đinh. ở Ngưu Trì cũng có lệ này, nhưng lại lấy hoa lợi của ruộng thần từ phật tự để cấp. Xã Xối Tây tổng Liên Tỉnh có lệ vọng. Ai sinh con trai thì làm hai thúng oản mang đến nơi đình trung để mời các vị trong làng mà ghi ngôi thứ. Xã Đỗ Xá tổng Đỗ Xá có tục đua thuyền. Xã Cổ Chử tổng Đỗ Xá có tục diễn vai hề, múa rối ba năm một lần. Ở các nơi như cố bản tổng Đô Liệu, xã Lạc Chính tổng Bái Dương, xã Thọ Tung tổng Cổ Gia thường hay có nhóm họp bàn nhau đi làm điều bất thiện. Các nơi theo đạo Gia Tô như trang Hưng Nhượng thượng, hạ, trang Duyên Hưng tiền, hậu, xã Nam Hưng và các nơi có ít dân đạo như xã Bách Tính, Thứ Nhất, Cổ Gia, Ngưu Trì, Lạc Na, Gia Hoà, Kinh Lũng, Thi Nam, Sa Trung, Sa Lung, Hà Liễu, Tây Lạc, Yên Lung, Hiệp Luật, Nam Trực, Đạo Quỹ, Ngoại Đê, Phù Ngọc, Trùng Khánh, Xối Tây, Xối Thượng, Xối Trì, Liên Tỉnh nhiều khi hay gây sự cậy thế bắt nạt dân lương. Các nơi như Đông Kĩa, Gia Hoà, Thạch Cầu, có tục tập luyện võ cốt để lấy giải thưởng trong tiết xuân tế Thành hoàng chứ không thượng võ. Huyện Trực Ninh : Phần lớn dân ở Trực Ninh là gốc ở mạn bắc huyện Đại An xuống đây lập ấp, họ rước chân nhang vua Triệu về thờ chung với tổ tiên, các nơi này có tục làm bánh trưng, bánh dày lớn ăn với ruốc thịt lợn để thi, ai được nhất sẽ được miễn thuế thân năm ấy. Cổ Lễ, Quỹ Đê có Văn miếu thờ khổng Tử, xuân thu tế lễ cùng với hương hiền, cả huyện ít nơi sánh được. Ở Ngọc Giả, Cát Hạ, Đàm Xuyên, An Lãng : Hương lệ quy định ai theo học thì được miễn sai dịch, đỗ đạt rước mừng long trọng, còn Cát Hạ ai học thì làng chu cấp cho học phí và tiền giấy bút. Đỗ cao thì xã chi ngàn quan lấy từ tiền quyên tại các nhà, đỗ thấp thì tuỳ giảm. Các xã Ninh Cường, Cát Chử, Liễu Đê có lệ mời thày dạy con em trong hạt, Liễu Đê 1 trường, Cát Chử 1 trường, Ninh Cường 2 trường. ở Cát Chử có lệ mùa xuân mời học quan về chấm bài chia ra làm ba loại lớn, vừa, bé, ai giỏi thưởng 1 sào ruộng, vừa khá được 1 thùng thóc dự hay 1 thùng thóc tẻ thường, cả ba loại đều có 1 104
  16. cặp bánh dày nặng 2 cân. Từ khi nước nhà không yên, tả đạo hoành hành, lòng người chán ngán, lệ tuy chưa bỏ hết, nhưng Cát Chử thì thôi lệ mời quan, nhà học không mời thày nữa bỏ hoang, riêng ở Ninh Cường thì lương dân còn hai nhà học có thầy, giáo dân còn hai nhà học có thầy, nhưng lương dân thì có cơ phế bỏ. Ở Cổ Lễ, Quỹ Đê, Ninh Cường, Cát Chử, Liễu Đê trước có Võ chỉ thờ Trần Hưng Đạo, nhưng gần đây cũng phế bỏ. Ở Cát Chử có y miếu, Thọ miếu. Y miếu thờ ông Hải Thượng, Thọ miếu thờ Thọ tinh, tại hai miếu này có phối thờ người sở tại, gần đây lễ có phần nhạt nhẽo. Y miếu lễ cá chép, Thọ miếu lễ hoa quả, xôi oản đều vào tháng hai chọn ngày lành. Ở Hương Cát có tục thờ thần, nuôi gà chọi tế xuân, ba năm một lần, ai hơn thì được xã miễn cho một suất thuế, lại được thưởng cho một sào lúa cấy suốt đời. Xã có miếu thờ Khổng Tử, các người thi đỗ và phối thờ các thày đồ dạy con em trong xã. Lệ cổ ai dạy học trò, xã làm nhà cho thày ở, trích ruộng 2 mẫu để vợ con thầy cấy không phải chịu thuế, ai có con học thì tuỳ tâm biếu gì thì thày nhận chứ không phải đóng học phí. Việc cấy ruộng phần lớn do các nhà làm giúp. Phương Để thuộc tổng Phương Để được tục ba năm mở hội một lần, người hai thôn chia thành hai bên địch ta đánh trận giả từ sáng đến trưa. Về lệ thờ thần, thờ thì 3 năm mở hội một lần, hay 1 năm một lần mở hội rước thánh ca hát cung phụng, nhưng ở Phượng Tường thì chèo thuyền, Hàn Xuyên thì đấu vật, còn ở Cát Chử lại đánh cờ giật giải, ba nơi có tục giao hiếu với nhau, thờ một vị thần nhưng hình thức tổ chức lại khác. Ở Tuân Lục tổng Thần Khê, ba năm một lần vào đám có lệ đá bóng, bóng làm bằng vải thêu 5 màu. Ở Lương Hàn tổng Văn Lãng phụng thờ Nguyễn Minh Không ba năm rước thần một lần. Giáp nào thắng được, ba năm làm ăn lợi lớn. Lệ khánh lão: Các xã Cát Chử, Quỹ Đê, Trường Hải, Duyên Bình, An Lãng, Liễu Đề, Lạc Quần. Ăn uống có nơi sang trọng làm cỗ ruộng tốt. Lệ mở vào dịp tế thần mùa xuân, cứ đến tuổi 60 thì được dự. 50 gọi là lão 5 người một cỗ, 70 trở lên bốn người một cỗ, 80 trở lên mỗi cụ một cỗ mà có thêm 3 quan tiền. Lệ cưới gả: trai gái làng lấy nhau thì nộp cheo 3 quan với Cát Chử, 5 quan với Hàn Xuyên, 1 quan với Cống Khê. Nếu con gái lấy chồng làng khác thì phải nộp gấp đôi số nói trên. Lễ tang: Để làng cử người lo việc phải nộp số tiền sau, nếu không muốn làm cỗ đãi. Có lễ ở giữa đường thì nộp 2000 quan, có lễ rước lên xe thoi thì 1000 quan, chỉ có lễ an táng thì 800 quan. Tức là đủ cả giữa đường, lên xe an táng thì mất nhiều, còn thì bớt đi, đối với lệ làng Cát Chử. Có ba hạng: hạng một có bánh dầy biếu tất cả hương thân hương hào hương dịch, hạng hai có xôi thịt rượu để biếu các vị, hạng ba nộp 10 quan tiền, đó là lệ làng Hàn Xuyên. Huyện Giao Thuỷ: Đại thể con người có nhiều điều nhân hậu trọng tiết nghĩa, nếu không vì việc công thì không tới chỗ công nha, còn hào mục thì càn rỡ đã thành nếp, chỉ có văn thân thì trung chính nhưng thế kém. Văn học chú trọng thì có Hành Thiện, vũ dũng thì Trà Lũ, Thượng Phúc, Kiên Lao. Điêu toa kiên tụng bất hảo thì Hạc Châu, Thượng Phúc, Lạc Nghiệp, Hoành Đông. 105
  17. Tục ngữ : Văn học Hành Thiện, đơn kiện Hạc Châu, tém mép lái trâu, Sa Cao Liêu Phú (2 xã này hay dối trá). Luôn miệng rao chó, Liên Thuỷ Bùi Chu, chè thuốc phong lưu, kìa làng Hà Cát (bán hết ruộng rồi, không trông vào đâu mà giữ thói phong lưu). Cờ bạc dài rạc, kìa xã Tương Đông, vu khống Phú Nhai, cướp bơi Vạn Lộc. Đầu trọc Dũng Trí, cùng chú Thượng Miêu, đừng có tập theo, mà đi ăn trộm! Thượng Phúc Lạc Nghiệp, Trà Lũ Kiên Lao, Lục Thuỷ hùa vào, một tàu bất hảo, đấu vật Lạc Đạo, Đạo Nghĩa lao nhao, Thuỷ Nhai Ngọc Tỉnh, Liêu Thượng còn tính, bỡn khúc thanh bình. Gái hát thâu canh, Giáo Phòng Hoành Nhị. Cày cấy chăm chỉ, thì nghĩ Lạc Nông. Đi đêm phải phòng, Hoành Đông Khiết Củ. Nếu nghe tôi nhủ, chớ có coi thường, nhớ kỹ sau lường, có đường trở lại. Cũng cần biết phải, mà hãi cơ trời, là vận là thời, muôn đời không đổi. Huyện Mỹ Lộc: Lễ rước ở miếu Trần: Cứ đến chiều ngày 14 tháng 2 thì các nơi đến Bảo Lộc, Lựu Phố, Hậu Bồi, Đệ Tứ, Phương Bông, chùa Tháp, Cố Trạch đều chồng kiệu để sáng 15 rước cả vào sân miếu, thứ tự như sau: Một là chùa Tháp, hai là Bảo Lộc, ba là Lựu Phố, bốn là Cố Trạch, năm là phương Bông, sáu là Đệ Tứ, bảy là Hậu Bồi. Bảy nơi này kiệu đến trước cũng phải đỗ ở ngoài cổng, mỗi nơi đến rước kiệu vào sân rồng và đặt lễ tế xong ra thì nơi khác mới vào. Nơi nào lễ xong thì về ngay. Ngày giỗ Thái Tông lệ cũng như trên. Lễ dùng cá Triều Đẩu (cá quả) cá hoá long (cá chép), trâu dê lợn là chính, còn là phụ cho thêm đẹp mà thôi. Sáng ngày 16 thì lễ tạ ở cả mọi nơi, nhưng tại miếu trần lễ trước, buổi chiều bảy nơi kia mới lễ. Lễ vua Thái Tông thì từ 30 tháng 3 đến 2 tháng 4. Giỗ thành hoàng ở đền Tức Mặc: Sáng mồng 4 chồng kiệu, trưa mồng 4 rước về miếu Trần, tối rước hoàn cung, sáng mồng 5 chính lễ, mồng 6 lễ tạ đều ở tháng giêng cả. Giỗ dùng lễ tam sinh. Thành hoàng thì có 3 vị thờ ở hai nơi, nhưng chỉ rước ở một nơi là Lê Phụ Trần và Cao Mang. Còn bà Thục Côn thì không rước đi đâu. Giỗ An Sinh Vương ở đền Bảo Lộc: Chiều 30 tháng 3 ở đền Cố Trạch chồng kiệu, sáng 1 tháng 4 rước về Bảo Lộc, đến 2 tháng 4 rước về Cố Trạch lễ tạ, chiều 2 tháng 4 ở Bảo Lộc cũng lễ tạ. Lễ Thánh Mẫu cũng vậy. Giỗ Hưng Đạo Vương ở đền Cố Trạch: Chiều 19 tháng 8 tại các nơi như Hữu Bị, Đệ Nhất, phố Nam Mỹ, rước đến trước, sáng 20 tháng 8 các nơi Hậu Bồi, Đệ Tứ, Phương Bông lễ trước, Hữu Bị, Đệ Nhất, Nam Mỹ, Tức Mặc lễ sau, đến chiều 20 thì tản hết. Ngày 21 tháng 8 lễ tạ. Lễ thì đều dùng tam sinh hoa quả để lễ. Hiện nay miếu Trần có 3 mẫu ruộng, Bảo Lộc 3 mẫu, Cố Trạch 2 mẫu, hai miếu thành hoàng mỗi nơi 1 mẫu, không còn được như trước. Đền Bảo Lộc và Cố Trạch có lệ quốc tế, 3 năm một kỳ vào ngày 20 tháng 8, do Tổng đốc chịu thay. Mồng 1 tháng 8 huyện tế Long vương ở bờ sông Hữu Bị, có hình nhân nữ 5 người, vàng bạc và lễ tam sinh. Tế xong thì hình nhân đốt đi còn lễ sinh quẳng hết xuống chỗ cửa Vường. Tức Mặc có lệ 15 tháng giêng đấu vật ở miếu Trần, Thượng Lỗi có lệ thi xôi ngày 5 tháng giêng. Đền Tức Mặc có lệ tế quan vào ngày 5 tháng giêng, tế nữ quan vào ngày 6 tháng giêng tại nơi thờ bà Thục Côn. Phụ Long, Đệ Nhì có lệ thi chèo thuyền vào ngày 18 tháng 7. Phương Bông và Đệ Tứ hát bài bông(1), đánh cờ, bói cá vào ngày 10 tháng 3, 106
  18. ngày này có lệ hát nữ “Thái bình an lạc” buổi tối, ai hơn sẽ được thưởng một mâm xôi đỗ xanh và 10 quan tiền. Phù Hoa(2) có lệ tế tạ ân vào tiết tháng 10, chọn ngày tốt, dùng gạo nếp mới lễ Thái Tông và Nguyên Phi. Bài hát có câu: Nhớ thuở ấy bà phi mở chợ, Trên bắc cầu dưới có thuyền đi Bốn phương tụ hội tuỳ nghi, Để cầu con cháu đều thì yên vui, Mỗi năm đến tháng Mười mở hội, Người đua nhau lui tới bán buôn, Còn xem dân xã bơi thuyền, Bói cơm bói cá cùng chuyền tay nhau(3). Bài hát tại lễ tế thần ở đền chợ Phù Hoa. [Chú thích : (1) Bát dật: Dật là số hàng và số người đều bằng nhau, ban đầu có 6 hàng 6 người, sau này mới có 8 hàng 8 người. Múa hát ca ngợi công lao của thiên tử mới dùng. Phương Bông và Đệ tứ đều thờ Thái Tông và Quang Khải thời Trần. Bài Bông ở đây có 8 đoạn mỗi đoạn có 8 câu ca ngợi sự thay trời trị nước, nhân từ bác ái, tạo dựng cơ nghiệp không phải là dễ của Thái Tông, dân chúng được hưởng ân sâu mãi mãi. (2) Phù Hoa: Nay đổi là Phù Nghĩa thuộc xã Lộc Hạ thành phố Nam Định. (3) Cúng cơm nếp, cúng xong mang xuống không có bụi, cúng cá sống cúng xong cá không chết thì làm ăn chuyển sang vận mới.] Xã Vị Khê tổng Bách Tính có tục tế tổ lập làng là ông Nguyễn Công Thành ngày 22 tháng Chạp năm Mậu Tuất, ngày sinh ngày hoá ông Hổ Mang 10 tháng 7 và 2 tháng giêng, ngày Tô Trung Tự tướng thời Lý mạt dạy dân trồng hoa, 10 tháng giêng, ngày ông Tô mất 4 tháng giêng. Ngày 15 tháng 8 Hoằng Định thứ 10 (1610) Bình An Vương về tái lập làng, ngày sinh hoá của sư Tâm Hảo 23 tháng chạp, 12 tháng 9. Trong các ngày lễ trên thì ngày sinh hoá sư Tâm Hảo là trọng vọng nhất, ngày này cả xã mỗi nhà phải đóng một đấu gạo nếp, đấu gạo tẻ, để chủ nhà ăn tại đình và mang phần về. Ăn ở đình gọi là ẩm phúc, mang về nhà gọi là thụ phúc. Hiện nay ở chùa còn bia nói việc sư Tâm Hảo. Nhưng đông đúc hơn có người tứ xứ tụ hội thì ngày kị ông Hổ Mang, làm lễ ở trên đê hướng về phía cửa biển, khi tế chèo thuyền để tế. Tiết Khánh Hạ 22 tháng chạp có lễ thịt cá, đánh cờ, ca hát, thổi cơm thi, múa rồng lân, bắt đầu từ tối 20 đến hết ngày 22. Xã Mai Xá tổng Hữu Bị có tục thờ nữ tướng làm thuốc thời chống Minh, sách thuốc tuy còn truyền nhưng người lại chuộng lễ thần xin đơn thuốc. Đền xã Cao Đài tổng Cao Đài ngoài việc thờ Trần Quang Khải, công chúa Phụng Dương, còn thờ tướng Triệu Trung người Tống đánh Nguyên ở trận Hàm Tử, ngoài xã Cao Đài ra cả tổng vẫn còn một số nơi thờ. Câu đối của Hà Quang Phan người thôn Sở Thượng huyện Vọng Doanh đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão (1879) thời Tự Đức, làm quan Tri huyện Tiên Lãng, nói về Triệu Trung: Thệ bất đới thiên Triệu tướng huy đao, Hàm Tử Nguyên binh do thức diện; Sơ cư thử địa Trần triều thi huệ, Cao Đường lão ấu thượng tư công. (Không đội trời chung, tướng Triệu vẫy đao, Hàm Tử quân Nguyên còn nhớ mặt; 107
  19. Đất này vừa ở, triều Trần làm đức, Cao Đường già trẻ vẫn ghi công). Thượng Nguyên tứ vật: Vật ẩm Cao Đường tỉnh (không nên uống nước giếng ở Cao Đường), vật thính Thận Vi (không nghe lời người Thận Vi nói, có nhiều sự tráo trở), vật thú Lữ Điền thê (không lấy vợ ở Lữ Điền, bởi lòng không ngay thẳng), vật giao Hư Tả hữu (không kết bạn cùng người quê Hư Tả). Hải Hậu là huyện mới lập nên vốn thuộc đất Trực Ninh có 2 tổng và 7 xã phía nam Giao Thủy, từ năm Đồng Khánh thứ ba, lị sở đặt tại xã Quần Phương Hạ ban đầu đắp luỹ đất trên khu đất mỗi chiều ước 30 trượng nơi quan trưởng làm việc có 4 ngôi, nơi lính đến trú 3 ngôi, trại lệ 1 ngôi, nhà lao một ngôi đều lợp bổi ở trong luỹ cả. Dân tục thuần phác, sinh sống no đủ có phần xa hoa, có lệ thờ thần Triệu Quang Phục, An Dương Vương, ba năm một lần mở hội, ở chùa thờ Nguyễn Minh Không. Vào đám thì ca hát chèo thuyền, đánh cờ, thi lợn thi gà, thi xôi thi thơ, ai hơn có thưởng múa rồng múa lân, rước thần tế trên sông. Ngạn ngữ: Xứ Nam Quần Anh, xứ Thanh Bồng Hải là nói về việc trù phú văn minh. Lễ cưới lễ tang tổng lý sách nhiễu có nhiều phiền trọng, triều đình đã ban chỉ dụ cách chức quan lại huyện tổng hương chức, nhưng do các nhà khá giả biếu xén nịnh hót làm hư, thế nhưng nay đã giảm nhiều. Tổng Kiên Trung có nhiều người thi đỗ quan văn quan võ, tổng lý dịch giàu có vì từ công điền công thổ, nên sinh ra nhiều kiện tụng. Trà Hải trung có lệ thi gà để lễ thần, nhà ai lễ rồi đưa chân ra thi, các giáp lễ rồi đưa chân ra thi, ai hơn được thưởng 3 quan, giáp hơn được thưởng 2 quan. Hà Lạn thờ thần hàng năm vào ngày 8 tháng giêng có tục đấu vật thi chạy ở trước miếu Đô nguyên soái. Tổng Ninh Nhất : 5 xã An Lễ, An Nhân, An Nghiệp, An Phong, An Trạch có lệ giao lân, vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì luân phiên rước thần tập trung về một xã lễ hội đồng, phường hát con gái, con trai đua nhau hát khúc “thiên hạ thái bình”, “dân trung an thái”, “tứ dân lạc nghiệp”, “võ văn cạnh khởi”, “lão thiếu quân an” thâu đêm, ngày xuân vui vẻ. Đều lấy sự hoà hiếu làm cốt yếu, nếu ai vô ý gây nên xích mích hoặc ẩu đả, hoặc lớn hơn thì sẽ bị phạt 20 quan tiền 100 đấu nếp, rồi giải lên quan trên phân xử. Ấp Phú Lễ tổng Ninh Mỹ : mỗi khi nhà hiếu đến báo với lý dịch thì phải nộp một con lợn hai người khiêng nặng và một gánh nặng gạo nếp xã sẽ cử người ra lo việc lại còn ăn uống. Xã Thanh Trà tổng Quế Hải : Mỗi khi có việc tang chỉ nạp 30 quan xã sẽ đốc người lo việc tất cả kèn trống, lễ bái chôn cất, ai vì tham ăn sách nhiễu, xã phạt 3 quan và 1 mâm xôi gà lễ tạ quá ở miếu Thành hoàng. Nếu gia chủ biếu xôi thịt còn nóng xin chia, xã sẽ bớt đi từ 5 quan đến 10 quan hoặc hơn, xã không yêu cầu lễ biếu. Gần đây có một số nơi đã học tập theo. Còn lệ treo cưới thì vẫn còn nặng nề (lan nhai lễ): Tổng Quế Hải thì 500 viên gạch và 2 mâm xôi, tổng Tân Khai thì 1000 gạch và 1 mâm xôi thịt, tổng Quần Phương thì 1 con lợn 1 gánh gạo nếp, tổng Kiên Trung thì 1000 quan, Tổng Ninh Mỹ thì 500 quan, Ninh Nhất thì 1000 gạch và 2 mâm xôi thịt. Đó là nói về đại thể của từng tổng. Dân xã có nhiều người đọc sách “Hải Thượng Tuệ Tĩnh”, ưa dùng thuốc Nam thuốc Bắc, nhiều nhà ghi chép quyển sách có các bài gia truyền rất công hiệu. Vào các 108
  20. thế hệ trước đây khẩu hiệu “Nam dược trị Nam nhân” đã được quảng bá không khác gì Liêu Hải tân ấp của huyện Đại An. Nếu coi về đại thể, thì chỉ có 2 huyện Đại An, Hải Hậu là phong trào tự liệu, còn các huyện khác thì chỉ có nhà chuyên môn vùng vẫy. TÔN GIÁO Việc giáo hoá rất cần để duy trì đạo làm người, củng cố lòng hướng thiện, từ xưa nước ta thường theo Khổng giáo, Phật giáo, theo là tuỳ tâm không ai bắt bẻ, từ quãng niên hiệu Nguyên Hoà (1533 – 1548) các giáo sỹ phương tây qua lại truyền đạo, như Giao Thủy có Bùi Chu, Nam Chân có Ninh Cường, Đại An có Vĩnh Trị, tự xui giục nhau đến triều ta mới thịnh hành, tả ngạn sông hồng có giáo sỹ người Tây Ban Nha, hữu ngạn có giáo sỹ người Pháp Lan Tây, nhân dân sở tại ngày càng xô vào mê muội khó điều cảnh tỉnh, Hoàng thượng đã có chỉ dụ song trở nên vô nghĩa. Đã có người gốc Pháp làm quan ở đất Việt đọc câu Kiều: “Ma dẫn lối quỷ đưa đường, Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi”. Tại tỉnh lị : Theo giáo 3 phần, lương 7 phần, nhà thờ mới có Định Tân 1, Nam Xuyên 1. Đại An: Theo giáo 1 phần, lương 2 phần, nhà thờ có 4 chánh sứ là Vĩnh Trị, Quần Liêu, Lạc Đạo, Quỹ Nhất, xứ phụ thuộc 5 là: Quảng Nạp, Lý Nghiã, Giáo Phòng, Giáo Lạc, Nghĩa Trang. Vụ Bản: Theo lương 7 phần, theo giáo 3 phần. Nhà thờ chánh sứ 3 nơi là: Trình Xuyên, Đại Lộc, Xuân Bảng, phụ thuộc có 2 nơi là Đồng Đội, Phú Thứ. Nam Trực: Theo lương 7 phần, theo giáo 3 phần. Nhà thờ chánh sứ 2 nơi là : Đồng Thượng, Cổ Bi, phụ thuộc 1 nơi là Dương A giáp giáo. Ý Yên: Theo lương 9 phần, theo giáo 1 phần. Nhà thờ có 1 nơi ở Lỗ Xá. Phong Doanh: Theo lương 9 phần, theo giáo 1 phần. Nhà thờ 2 nơi là Ngô Xá, An Lộc. Giao Thủy: Theo lương 2 phần, theo giáo 1 phần. Nhà thờ chánh sứ có 2 nơi là: Bùi Chu, Phú Nhai. Hằng năm tháng 3, tháng 6 có hai lễ lớn, giáo dân các nơi đổ về rất là đông đúc trở thành hội lớn. Trực Ninh: Theo lương 3 phần, theo giáo 1 phần. Nhà thờ chánh sứ có 4 nơi là: Ninh Cường, Trung Lao, Trung Hoà, Tân Lác và 8 nơi phụ là: Ninh Cường, trại Lác Môn, Nam Lạng, An Lãng, Hạ Đồng, Ngọc Giả, Trung Hòa, Cát Hạ. Mỹ Lộc: Theo lương 3 phần, theo giáo 1 phần. Nhà thờ chánh sứ có 2 nơi là: Báo Đáp và Bảo Long. Hải Hậu: Theo lương 3 phần, theo giáo 1 phần. Nhà thờ chánh sứ có 3 nơi là: Thượng Điền, giáp Đông Biên (xã Hạ), giáp Trung Thành (Kiên Trung). Nơi phụ thuộc 2 là: giáp giáo tả và giáp giáo hữu của Liên Phú (xã Thượng). Trong tỉnh vốn có từ cổ : Tỉnh, huyện, tổng, xã đều có văn miếu chỉ thờ khổng Tử và các tiên nho bản xứ, đền thờ các tướng các vị có công với dân với nước, cùng các chùa quán thờ phật thờ tiên, nhưng cuối thời Lê khi đạo Gia Tô dấy lên nhiều nơi đã bị họ phá bỏ đi do bọn xấu xui giục. Đến nay đến cả nơi toàn lương cổ tích cũng không nguyên vẹn. CỔ TÍCH 109
  21. Văn miếu phía tây thành tỉnh dựng lên vào cuối năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) ở địa phận xã Gia Hoà, gồm có 3 toà: Toà giữa chữ đinh thờ Khổng Tử và tứ phối, toà bên trái thờ 72 ông hiền, toà bên phải thờ các vị đỗ đại khoa trong tỉnh, tất cả đều bằng thạch vị. Miếu hội đồng cũng ở ngoài thành, bên bắc trên địa phận xã An Trạch, mỗi khi đến ngày tốt tháng giêng thì rước ở các nơi về tế, do quan đại nhiệm chỉ huy. Trên đặt bát đá thờ thiên quan cao ước 2 thước rưỡi, kính ước 2 thước, dưới có bát nhang Thành hoàng, tả có bát nhang thổ địa, hữu là bát nhang thuỷ bá, bàn thứ 3 ngoài cùng là bát công đồng. Khi rước ở các đền về kiệu để ngoài sân, trên kiệu đều có bát nhang, bồi tế rút mỗi bát nhang trên kiệu một chân hương cắm vào bát nhang công đồng trong miếu, rồi quan trấn thủ mới bước vào chủ tế. Lễ dùng tam sinh hoa quả. Miếu này được dựng từ năm Gia Long thứ 4, trung gian gặp nạn binh hoả, nay đã sửa lại nhưng không được như xưa. Đàn xã tắc, dựng ở ngoài thành phía tây, tại địa phận xã Năng Tĩnh, xây bằng gạch có bát nhang và bệ thờ đều bằng đá, cũng dựng từ năm Gia Long thứ 4 (1805), năm Minh Mệnh 16 (1835) lại xây cho to thêm, trung gian bị giặc phá tán, năm Thành Thái thứ 2 (1890) đã sửa lại nhưng kém trước. Văn miếu của huyện Mỹ Lộc ở địa phận xã Liễu Nha: Xưa kia văn miếu này do Trần Thái Tông dựng lên ở trang Hoa Nha, trong có 3 ngôi nhà, nhà giữa hai nhà bên cũng tựa như văn miếu Gia Hoà sau này nhưng ở chính tẩm thì có tượng Khổng Tử và Tứ phối đều bằng đá, ngoài ra là thạch vị, trung quanh miếu có xây tường mở ra ba cổng, ba cổng đều có cột hoa biểu. Thời lê lấy đó làm Văn từ của phủ Xuân Trường, đầu niên hiệu Gia Long trấn tế ở đó, năm Minh Mệnh thứ 4 mới tế ở nơi mới xây tại xã Gia Hoà. Nay là Văn miếu của huyện, đến khoảng giữa triều ta cũng bị giặc phá, đã sửa lại nhưng nhỏ đi nhiều. Ông Đỗ Văn Thố người xã Lạc Chính huyện ý Yên, đỗ Cử nhân khoa Bính Tuất thời Tự Đức làm quan án sát Thái Nguyên, khi có việc qua đây viết một bài thơ Vãn Trần đại Hoa Nha văn miếu: Trần sơ dĩ tạo thử văn từ, Thạch tượng do truyền nhất đại cơ, Ngoã ốc tam toà môn tự cách, Chư hiền lưỡng trí đối quan hô, Khuyển dương hà nhẫn tương tâm hoại, Công phá thành đôi tụ thử cư, Tà nguyệt xổ thanh ô hoán hiểu, Cự hồi thủ bái ngoại hương lư. (Viếng văn miếu triều Trần ở Hoa Nha: Đầu Trần đã dựng văn từ, Vẫn truyền tượng đá cơ đồ khá to, Chữ môn lợp ngói ba toà , Ông hiền hai dãy đối thờ nghiêm trang, Chó dê sao nỡ phá toang, Nay thành hang chuột một phương lạnh lùng, Sáng rồi quạ réo dưới trăng, 110
  22. Vội về cắm mấy chân nhang phía ngoài). Miếu thành hoàng tại phía tây thành tỉnh ở đất Gia Hoà có ba toà theo kiểu chữ tam, có hành lang tả hữu, thờ Bố Cái đại vương và hai tướng của vương người sở tại Nguyễn Duy Thiện, Lân Thụy Phong, thời Minh Mạnh có sửa lại. Đàn Tiên Nông xây bằng gạch đá mỗi chiều 10 trượng, có 5 bậc, chỗ để bát nhang cao 1 trượng, nền đàn cao 2 thước rưỡi, ở bên ngoài thành phía nam thuộc địa phận xã Năng Tĩnh, năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) có xây 1 cái lầu để trùm lên trên bát nhang, lầu hình vuông đều bằng đá, cao 1 trượng 5 thước, vuông phía dưới 1 trượng 1 thước. Võ miếu dựng lên ở địa phận phố Năng Tĩnh, vào năm Gia Long thứ 10 (1811) thờ Trần Hưng Đạo, cũng xây kiểu chữ môn. Chính miếu xây kiểu chữ nhị, trong 3 gian, ngoài 5 gian. Niên hiệu Thành Thái năm thứ 2, thờ thêm 20 vị có công giữ đất Nam Định, tất cả đều là thạch vị, câu đối khắc ở cổng miếu của Nguyễn Văn Toại, người xã Nguyệt Mại huyện Vụ Bản, đỗ Phó bảng khoa Đinh Mùi (1907): Trần vương trục Bắc phương giữ quốc công cao thần hữu miếu, Chấp tướng thủ Nam thổ vị dân chiến tử nghĩa đương truyền. (Trần vương đuổi quân Nguyên, với nước công to thần ở miếu; Nam thành hai chục tướng, vì dân liều chết nghĩa nên ghi). Phía đông thành, nơi kho lương cũ của tỉnh có đền thờ vị thiên tiên phu nhân. Đền có hiệu là Nguyên thương linh từ, còn bia đá năm Minh Mệnh thứ 5 (1824) ghi việc. Đền Sùng Linh : Đền ở phố Tiền Môn thờ ông Nguyễn Chí Thành người ở Đàm Xá. Từ cổ đã có, năm Gia Long, Minh Mệnh đều sửa lại. Hàm Nghi năm đầu (1855) bị bọn tả đạo tàn phá, dân phố bèn rời về phố Tả Trường nên rước thánh giá thờ ở chỗ đồn Thủy. Năm Thành Thái thứ 3 (1891) mới xây lên ở phố tả Trường. Đền Bản Tỉnh : Đền dựng lên ở xã Năng Lự. Tháng 5 năm Bính Ngọ (1426) thời thuộc Minh, con thứ ông Trần Lựu là Trần Oánh cùng mẹ đẻ là Phạm Thị Hương, đưa 6 gia đình từ Kiện Khê về xã Dương Xá huyện Mỹ Lộc lập trại ở với nhau lúc đầu làm nghề đánh cá. Tháng 11 năm ất Mão (1435) niên hiệu Thiệu Bình, con vợ thứ của Tể tướng Lê Sát là Lê Minh, Lê Đồng cùng cả bọn hơn 50 người từ đất Trì Đông Gia Viễn về cư ngụ rồi đổi ra họ Lâm, mới lập miếu thờ Thủy Tinh công chúa, đặt tên ở của mình là trang Năng Lự. Lúc đó dân trong trang có quãng 140 người. Thuỷ Tinh công chúa vốn tên là Lương Thái Tần quê ở Kiện Khê Thanh Liêm, năm Đinh Dậu (1297) lấy Phạm Ngũ Lão, làm vợ bé, sinh được 4 trai 1 gái, ngày 2 tháng giêng phu nhân mất, đang niên hiệu Đại Trị năm đầu (1358) có mộ để ở núi Nhân Tập nơi quê sinh, duệ hiệu thờ là Đệ nhị phu nhân Thủy Tinh công chúa. Năm Thành Thái Đinh Mùi (1907) lính lệ trong tỉnh và thiện tín rước thần vị Bạch Hoa công chúa từ phố Vĩnh Lạc về làm một gian ở phía trái hậu cung đền thờ bà Thủy Tinh để thờ. Bạch Hoa vốn là con gái của Vệ uý coi kho triều Nguyễn, Nguyễn Kế Hưng, vì thấy cha mình chống giặc thế nguy bèn cầm đao xông vào tham chiến bị chết. Ngày hoá của Kế Hưng và Bạch Hoa 22 tháng 10, được triều ta phong là Công chúa coi kho (Giám thương công chúa), bà có tên thật là Nguyễn Thị Trinh. 111
  23. Hội quán Phúc Triều Huệ ở phố Vĩnh Ninh trước đã có nhưng nhỏ, đến quãng năm Quang Tự Canh Dần (1890) thì xây to lên. Trong thờ Thiên Hậu, Hà Bá và Quan Công. Vào các ngày rằm tháng giêng, thanh minh, trùng cửu là đông nhất, cuối năm ngày 30 có treo đèn lồng, mồng 2 năm sau thì đấu giá, ai mua được thì làm lễ mừng và khao hạ ở nhà. Câu đối thờ khắc gỗ: Tống đại thăng thiên, tái tịch Mân cương trưng thánh tích; Thanh triều phong hậu, biện hương di điểu đáp thần hưu. (Thời Tống lên trời, sách vở đất Mân nêu dấu thánh; Triều Thanh phong hậu, tin chim một nén trả ơn thần). Cùng năm Quang tự còn xây trường học. Hội quán Việt Đông ở phố An Lạc. Hội quán Phúc Triều Huệ và Việt Đông đều do Hoa Kiều dựng lên, làm nơi tụ hội bàn việc và lễ bái của họ. Hội quán Việt Đông có sau hội quán Phúc Triều Huệ, xây dựng theo kiểu hiện nay là do Ma Chính Tráng khởi sướng, tại quả chuông gang khắc chữ năm Đạo Quang thứ 4 (1824) khánh thành. Câu đối tại gian giữa: Lịch kỷ phiên lai vàng hoá cư, Gia Khánh sơ niên dân hữu hội; Tòng thử hậu ưu hoan tụ thủ, Nam châu thiên tải sự nghi truyền. (Từng bao phen buôn bán lại qua, Gia Khánh, năm đầu dân mới hội; Nay về sau vui buồn gặp gỡ, Nam châu ngàn thuở việc nên truyền). Trường thi, ở địa phận xã Năng Tĩnh thuộc phía tây thành, chu vi 214 trượng, có tường cao 5 thước, cả trong nhà có 21 toà nhà, năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) mới dựng nên, dần bị hư hỏng, năm Thành Thái thứ 2 sửa lại nhưng vẫn kém lúc trước. Nhà học ở phía tây ngoài thành, dựng lên từ năm Minh Mệnh 17 (1836), sau bị hỏng, năm Thành Thái thứ 2 (1890) rời về xã Đông Mặc. Huyện lị Mỹ Lộc : Trước ở địa phận xã hữu Bị về khuôn mẫu thành huyện cũng không kém Xuân Trường có chợ, có bến đò. Năm Gia Long 15 (1816) dời đến xã Đông Mặc ở phía bắc thành tỉnh, thành bao bằng lũy tre không có hào sâu, bên trong rộng ước 7, 8 sào, có xây miếu thổ thần. Huyện lị Thượng Nguyên : Thời Trần vốn là huyện Thượng Hiền, sau tránh tên Nguyễn Hiền đổi ra Thượng Nguyên, trước phủ kiêm lý, năm Minh Mệnh thứ 13 (1832) đặt phân phủ. Năm Tự Đức thứ 4 (1851) bỏ phân phủ cho huyện Mỹ Lộc kiêm nhiếp. Huyện lị đặt ở xã An Lá, năm Minh Mệnh thứ 4 (1823) rời về xã Đặng Xá. Năm Minh Mệnh 13 đặt làm phân phủ, nay cho huyện Mỹ Lộc quản trị có một phần, bèn bỏ lị sở ấy. Nhưng vẫn còn chợ còn phố buôn bán đông vui. Đền thờ Hưng Đạo Vương ở phố đồng Lạc đã có từ lâu, năm Tự Đức 21 (1868) Hiệp biện Đặng tướng công sửa lại, nay trở thành nơi lễ bái cầu vọng của tứ dân rất là đông đúc. Ngã ba Hoàng giang : ở về phía tây bắc thành vài dặm, thời Lê xưa thường đóng quân, có đồn binh, có kho lương, ngoài có hào lũy bao bọc, rộng ước 10 mẫu. Thơ của Nguyễn Du: Cổ lai vị kiến thiên niên quốc, Thành lũy không lưu bách chiến danh 112
  24. (Xưa nay chưa có triều đại nào đứng vững được ngàn năm, nơi thành lũy luống còn để lại tiếng từng trải qua việc đánh nhau trăm trận) trong bài Vị Hoàng doanh xiết bao nỗi niềm hoà cổ. Nay còn ngôi miếu bách linh và miếu giang bá. Cột cờ thành Nam Định : ở phía nam điện Kính Thiên, năm Minh Mệnh 14 dựng lên, cao 6 trượng, chân có 3 bậc, bậc dưới mỗi bề 4 trượng có bậc thang 10 cấp ở hai phía đông tây. Bốn mặt mở ra bốn cửa, trên khuôn cửa đông có chữ “nghinh húc” (đón bóng mặt trời buổi sớm), cửa tây có chữ “tường quang” (ánh sáng lành), cửa bắc có chữ “cửu an” (yên ổn lâu dài) cửa đi vào trong thân cột cờ ở bên nam có chữ “hướng minh” (trông về phía nam sáng sủa), bên trong cửa này thờ bà chúa cột cờ, đi trên cao có đường trôn ốc 54 bậc, bên đường xoáy có cửa tò vò để lấy ánh sáng đi lại trông ra. Chùa Thánh Ân : chùa xưa có tên là chùa Thiên Thủy ở địa phận xã Vị Xuyên huyện Mỹ Lộc, tương truyền trước không tại nơi này nhưng vẫn ở trong xã. Câu đối: Lý Trần cố sự thiên thu tại, Thiên Thủy tiền công vạn thế tồn (Từ thời Lý Trần, việc cũ ngàn năm còn để dấu; Hiệu chùa Thiên Thủy, công xưa muôn thủa vẫn ghi truyền). Nay hãy còn bia đá chuông đồng làm năm Cảnh Thịnh thứ 6 (1789). Đền Thánh Bà : Đền ở xã Vị Xuyên huyện Mỹ Lộc thờ ông Đoàn Thượng, bà Dương Thị Mỹ và con là Đoàn Văn, Đoàn Vũ. Bà Mỹ lánh nạn về đây khuyên dân dấy nghề thủ công, mở chợ, sửa chùa từ cuối thời Lý. Câu đối viết năm Minh Mệnh nguyên niên của hội văn 4 giáp cúng tiến: Tế phong vũ dĩ gia môn, đại hưng mộc nghệ; Túc y lương cầu sừ cúc, quảng khuyến thiết công (Che mưa gió có cửa nhà, dấy nghề làm mộc, ; Đủ áo cơm cần cày quốc, khuyên mở việc rèn). Cả chùa và đền đều là cổ tích của huyện. Đền thợ mộc : Đền thuộc phố An Lạc, do đám thợ mộc ở huyện Vọng Doanh dựng lên từ thời Minh Mệnh. Đến năm gần đây thì do đám họ Thái ở Tương Dương, họ Vương ở xã Minh Hương tu sửa lại(1). [Chú thích : (1) Tương Dương: ở Nghệ An. Xã Minh Hương, làng Hoa Kiều ở Nam Định.] Đền hàng Bạc: ở phố Đồng Lạc được dựng to từ niên hiệu Gia Long, thờ ba vị thánh tổ họ Nguyễn, họ Dương, họ Trần. Câu đối: Dương, Trần, Nguyễn thị tam nhân, Đông Sơn tị nạn; Ngân tượng sơ lai thập ốc, Nam địa thành hương (Dương, Trần, Nguyễn thị 3 ông từ đất Đông Sơn(2) về lánh nạn; Thợ bạc 10 nhà mới đến, ở vùng Nam địa lập lên làng). [Chú thích : (2) Đông Sơn: Tên huyện tỉnh Thanh Hoá. Nam địa: tức Nam Định. Đền thuộc phố Hàng Rượu, sửa gần đây vào năm Thành Thái thứ 17 (1904).] Chùa Viên Quang : Chùa thuộc thôn Đoài xã Dương Xá khi Trần Oánh (con của Trần Lựu) năm Bính Ngọ (1426) tìm nơi ở tị nạn, dần mới cải thành Năng Lự (còn phải lo), gần đây bèn đổi ra Năng Tĩnh (đã yên ổn). Chùa thờ Nguyễn Minh Không, trước mặt có sông nhỏ chảy về phía đông nam, bên phải, bên trái, phía trước chùa có hai cây cầu đá xe ngựa qua lại được. 113
  25. Đền Hàng Quỳ: Do dân làng Kiêu Kị xuống đây từ niên hiệu Thiệu Trị thứ 3 (1843). Năm Thành Thái thứ 14 sửa to lên, nay có ước 20 nhà. Đền Hàng Tiện: Người làng Nhị Khê xuống đây từ thời Cảnh Hưng, ban đầu có 8 nhà gồm họ Đinh, Trần, Nguyễn, Đỗ, Lê Duy, Lê Trọng, Bùi, Lý. Đền thờ Huệ Đức tôn thần. Ngày xuống đây là ngày 25 tháng 10 lấy ngày này làm ngày giỗ tổ. Ngày này có tục dâng đồ khéo. Đền Giếng: Phố Đồng Lạc huyện Mỹ Lộc thờ Lưu Quang Trương và thờ Thiên Hậu, thổ địa, do người Hoa từ Nghệ An ra ở dựng nên từ năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749) họ buôn thuốc bán vải là chính, một số người làm mộc làm mã. Đền Hàng Lọng phố Đinh Trung thờ ông Bùi Công Hành quê ở Quất Động, làm quan thời Lê, đi sứ Bắc quốc, khi về dạy dân Ngũ Xá làm lọng. Đền xây từ niên hiệu Thiệu Trị 2 (1842), đến Tự Đức Đinh sửu thì làm to lên, do các họ Lê, Hoàng, Trịnh khởi xướng, dân này đều gốc ở Quất Động, ngày khánh hạ 4 tháng 10. Đền Hàng Thêu : Cũng thờ ông Bùi Công Hành, nhưng dân đây đến làm nghề từ năm Thiệu Trị 6 (1846) do quan phủ Thường Tín Ngô Văn Bạch xướng khởi việc thiên di. Ngày lễ 4 tháng 6. Hàng năm mồng 10 tết có tục hiến xảo, có thưởng. Đền Hàng Thiếc: Thờ ông Nguyễn Hữu Mật làm tổ nghề, giỗ ngày 2 tháng giêng, do người ở vùng Hồ Tây Thăng Long về từ thời Cảnh Hưng, trước đền ở xã An Trạch đến năm Tự Đức mới chuyển về đây. Nghĩa địa Hoa Kiều, ở đất thôn Trọng Đức, từ Cảnh Hưng đã có nhưng chưa xây, đến năm Đồng Trị 10 (1871) ông Vệ Thuật Nông quyên khuyến dựng lên cho có lối có cổng bề thế. Miếu thờ Lệ Trinh nguyên phi: ở xã Phù Nghĩa, nơi này còn tượng. Xưa bà ở đây bắc cầu, mở chợ, sửa chùa, nơi ở gọi là cung Lan Hoa, chợ gọi tên là Phù Hoa, triều ta đổi tên ra Phù Nghĩa nằm trong tổng Đông Mặc. Đền Khải thánh : Đền thuộc xã Bảo Lộc, nay đổi ra xã Hà Lộc thuộc tổng Hữu Bị nằm ở bên bờ sông Liêm, bên phải có lăng thờ. Câu đối của Đinh Đăng Khôi người xã An Cừ huyện ý Yên đỗ Hương cống khoa Kỷ Dậu (1489) niên hiệu Lê Hồng Đức: “Thử địa vi khánh phụ sở cư, thiên cổ do truyền thang ấp xứ; Kim thiên kế tiền nhân chi kiến, vạn niên do lại Lộc hương an” (Đất này nơi thánh phụ ở năm xưa, ngàn thuở vẫn nêu thang ấp đó ; Ngày nay nối tiền nhân từng dựng đặt, muôn năm nhờ cậy lộc hương đây). Tương truyền nơi đây là đất tân bồi, khi thánh phụ ở bèn chiêu dân lập ấp gọi tên là ấp An Lạc. Đền Quốc tế : Đền thuộc xã Tức Mặc tổng Đông Mặc xưa là từ đường họ Trần, niên hiệu Thiệu Long thứ 5 dựng cung Trùng Quang, rồi lại dựng cung Trùng Hoa. Thời thế đổi thay, cung thất không còn, bảo lưu được đến nay có gia từ và nơi ở cũ của Hưng Đạo thân vương Quốc Tuấn. Tự Đức năm thứ 6 sửa lại nhưng chỉ chú trọng nơi gia từ, niên hiệu Thành Thái, Trần Trọng Hàng khuyến giáo sửa nội điện, phía trước nội điện xây phương đình, bên ngoài dựng tế đường và hành lang đông tây. Năm Duy Tân nguyên Tổng đốc Phạm Văn Toán tu sửa ngũ môn lâu. Cũng năm Thành Thái, Trần Trọng Hàng nhân theo lệ tu sửa của tỉnh hiến trước, tu sửa đền thờ Hưng Đạo vương 114
  26. kiểu cách tương tự gia từ, nhưng bề thế kém hơn, hành lang không có, mà chỉ dựng 5 gian cho thủ từ ở lui lại phía trái. Miếu thành hoàng : Thành hoàng của xã có bà Phạm Thị Thục Côn và Lê Phụ Trần. Tương truyền xã Tức Mặc thờ bà Thục Côn vì có công theo Trưng Vương chống Hán, Lê Phụ Trần lấy công chúa Chiêu Thánh dựng nhà ở thôn Thượng Lỗi, đền chính thờ ông Phụ Trần bị lụt lớn nước xoáy sụt xuống đầm, nay thờ phụng vào đền thờ Hưng Đạo thân vương. Nơi thờ bà Thục Côn thuộc thôn Tráng Kiện, trước thời Trần vùng này gọi là xã Khang Kiện, khi vua Trần ở đây mới đổi ra xã Tức Mặc, Khang Kiện xẹp lại thành tên thôn. Chùa Phổ Minh: Chùa ở xã Khang Kiện do Mai Thị ở Hồng Châu về đây, rồi dựng lên trên khu miếu có thế đất hình lực sỹ, phải có nghiên bút, trái có cờ kiếm, sau có cửu tinh thổ phụ(1), minh đường nước chảy vòng vo. Khi Không Lộ đắc đạo sang Bắc quốc khuyến giáo đồng đỏ được 1 túi, về đúc An Nam tứ khí, chùa này được sư để cái vạc nặng ngàn quân. Thời Trần vua Nhân Tông sửa lại xuất gia cư trú. Lúc vua mất Anh Tông xây toà tháp cao 14 tầng gồm 53 thước, chân mỗi bề 10 thước để cất xá lị. Thời Tây Sơn, quan trấn thủ tên là Túc địa phương phá đỉnh tháp lấy hồ lô bằng đồng, khi phá tới tầng thứ ba nơi hòm đá, thì thấy có một vật hình dải lụa đỏ bay lên trời, bèn không phá nữa, còn vạc thì vào thời Hồ mạt quân Minh phá ra đúc vũ khí. Nay còn tượng Nhân Tông nhập nát bàn và Pháp Loa, Huyền Quang thờ trong nội điện. Tương truyền từ khi đào sông Vị Hoàng tháp ấy tự dưng nghiêng đi, ngôi vua cũng dần dần suy đi đến sụp đổ. Bài “Nhàn ngâm” của Trần Nhân Tông: Quan Âm kiều thượng trụ hoa hương, Vọng Nguyệt lâu trung sử khách lương, Khang kiện thiên bồi thuyền dạ bạc, Vĩnh an địa tịch tự chiêu hường. Thủy nhai kinh niệm ngư lai thính, Sơ điểm chung thanh điểu cận tường. Thanh đạm đinh ninh vô hệ lụy, Nam hiên thuấn tức thập niên trường. (Lời ngâm lúc nhàn (1303): Cầu Quan Âm hoa bưởi thơm, Trong lầu Vọng Nguyệt tự nhiên nhẹ người, Neo thuyền đêm dạo bước chơi, Nơi đây yên ổn lâu dài của ta. Niệm kinh cá dỏng tai nghe, Khua chuông chim ở chốn xa bay về. ở ăn thanh đạm không nề, Hiên Nam thấm thoát đã vừa mười năm). Bài đề “Phổ Minh thủy tạ”: Huân tận thiên đầu mãn toạ hương, Thủy lưu sơ khởi bất đa lương, Lão dung ảnh lý tăng quan bế, Đệ nhất thiền thanh thu tứ trường. 115
  27. (Đề thủy tạ ở khu chùa Phổ Minh của vua Minh Tông: Đốt hương thơm nức trong nhà, Triều lên chẳng thấy gì là lạnh thân, Phòng tăng cài chặt cửa ngăn, Đa già trùm bóng thêm phần âm u, Tiếng ve vừa mới kêu thu, Tiết trời xem có ý như quá dài). [Chú thích : (1) Cửu tinh thổ phụ: Đất hình chín ngôi sao, có thể là 9 đống đất nằm rải rác, nay những đống đất đấy không còn, do bị san ra vào quãng thập kỉ sáu bảy mưoi của thế kỉ 20.] Phụ Long kênh sống : Nhà Trần dựng hành cung ở quê hương Tức Mặc, phía đông nam Tức Mặc là xã Phụ Long, từ Phụ Long đến sông Vị Hoàng, xưa kia là một dải đất bằng, chỉ có con ngòi nhỏ từ trang ổ Gà chảy đến cầu Vĩnh Tế thuộc địa phận Đệ Tam Văn Hưng, vòng ra phía sau Tức Mặc, chảy qua Gia Hoà ra kênh Tiểu Cốc. Do nhà Trần bội ước, nên thày địa lý phương bắc bèn xui đào một dòng sông từ địa phận Khoái Đồng đất Vị Hoàng để cho thuyền ngự đến cố cung Tức Mặc được dễ dàng. Không ngờ làm đứt long mạch, cơ nghiệp nhà Trần liền suy từ đó. Sông này thuộc phố Định Trung ở trước cửa trại Giám binh, thường gọi là Bến Ngự, năm Thành Thái thứ 6 (1894) bị phù sa bồi lấp. Dân gian có câu: Hỏi thăm Tức Mặc mà chơi, Nhà Trần thuở ấy mấy đời đế vương, Nếu không kênh sống cắt ngang, Ngàn năm lũy đá thành vàng khôn lay. Đền thành hoàng xã Cao Đường huyện Thượng Nguyên, đền dựng lên trên tư ấp của ông Trần Quang Khải, sau khi ông mất. Hiện còn bài vị linh ứng tứ triều nguyên lão Thượng tướng Thái sư định sách đại vương, Phụng Dương công chúa tôn linh và thờ phụ người Tống theo về Nam triều là Triệu Trung, bài vị đề là Tống triều hiệu trung trợ thuận, nhân từ tế chúng, đức hậu khai minh, Triệu công sắc phong Ngự bắc tướng quân tôn thần. Khu đền ở trong miễu dẻ, có lệ quốc tế. Đền thờ Lữ Suý xã Quang Liệt huyện Mỹ Lộc, một sứ quân theo vua Đinh. Ông Lữ(1) về đây mở thêm đất được dân chúng tri ân, nay còn sự tích chữ Nôm: Thanh nhàn tựa án hiên tây, Ngẫm xem thế sự đời này đời sau, Thoạt tiên có làng Sét đâu, Vì chưng bãi bể hoá dâu đó mà. Bên đông thì giáp sông Đà, Bên tây Nguyễn Xá nay là Huệ thôn, Bên nam giáp với làng Bườn, Chân Ninh đất bắc đường liền cũng xa. Ruộng tư điền cũ kể ra, Có năm trăm mẫu đấy mà ít đâu, Vì chưng sông lở ngày sâu, Vào trong đê nữa hết hầu vài trăm, 116
  28. Còn công điền được bao lăm, Một ngàn có lẻ vài trăm đó mà, Linh tinh cư thổ kể ra, Đồng dân tất cả được và trăm linh. Đoạn này khai sáng phân minh, Quê người tên họ thực tình không sai, Hỏi ông tị tổ là ai, Rằng ông Lã sứ lúc ngoài bốn mươi, Thày trò tất cả năm người, Xuống đây lập ấp quê thời gần Mơ, Hỏi rằng người xuống bao giờ, Rằng thì Đinh thị khai cơ ban đầu, Mười hai sứ quân tranh nhau, Người cùng Đinh chúa ra mầu triệu cơ, Tiền Lê cho đến bây giờ, Thần phong thái ấp miếu thờ còn đây. Khai điền địa phá các cây, Lập làng xóm ở tới nay còn truyền, Cũng tên Quang Liệt như trên, Tục danh là Sét miệng truyền là bia, Tụ người nọ họp người kia, Sở cư thành ấp như chia non Kỳ. Thiên thành đất cũng dị kỳ, Địa linh nhân kiệt điền trì hứa đa(2), Đất tuy lở người càng gia(3), Người gần sông lở chạy mà vào trong, Của cũng nhiều người cũng đông, Thờ thần kính phật mà công đức nhiều, Nào mở chợ nào bắc cầu, Quy mô nhất thống ra mầu cựu dân, Chia làm bốn giáp sự thần, Cùng nhau giúp đỡ có phần vui thay. Miếu thờ tranh vách tạm gây, Lý triều sùng phụng càng ngày càng gia(4), Mời thày lý học tàu ra, Bính trông Nhâm hướng phát khoa lại giàu. Dân ta từ đấy ơn sâu, Rồi hai chùa đó cũng hầu mở ra, Đến nhà Trần càng nguy nga, Ruộng thần từ đó kể là bao nhiêu, Hai mươi bốn mẫu chưa nhiều, Chỉ ban tứ tính Trần đều như ai, Thái bình vô sự còn dài, 117
  29. Hỏi người tri thức có ai biết cùng, Non sông vui thú vẫy vùng, Đều là dòng giống Lạc Hồng nối noi. Lưu truyền để mãi ngàn đời, Làm gương cho chúng ta ngồi mà trông, Biết là có tổ có tông, Biết người làng Sét có công đức nhiều. Lời quê chắp nhặt đôi điều, Xin ai ở đất bản tiêu chớ nhầm. [Chú thích : (1) Lữ Suy: Hay là Lã Suy tức Lã Tá Đường. (2) Điền trì hứa đa: Ruộng ao có nhiều. (3) Người càng gia: Người càng nhiều. (4) Càng Gia: càng thêm.] Đền thôn Đông Nhuệ ở xã Lê Xá(1) tổng Cao Đường huyện Thượng Nguyên, thờ khai quốc công thần triều Lê là Lê Lai, Lê Khôi. Hiện nay dư duệ của các ông còn ở rải rác khắp tổng. [Chú thích : (1) Lê Xá: Theo tộc phả họ Lê ở thôn Dồi, thì xưa đất này có tên là Liễu Trang, khi họ Lê ở Thụy Nguyên ra đây ở đông mới đổi ra Lê Xá. Xã Lê Xá có bốn thôn là Lê Xá, Vị Tục, Đồng Nhuệ, Khả Lực.] Chùa Miễu : Chùa thuộc thôn Mỹ Tục(1) xã Đặng Xá huyện Thượng Nguyên, chùa nhỏ ở gò đất cao này nay còn bài vị có chữ: “Thánh đồng Nguyễn Thế Tăng linh vị”, bài vị bằng đất nung thờ ở trên ngai, nhiều người qua lại cầu cúng, xem chừng cũng có linh khí. [Chú thích : (1) Mỹ Tục: Vốn xưa là Vị Tục (thường gọi là Tuộc). Đông Nhuệ (tên Nôm là Dồi). Khả Lực (tên Nôm là Sức).] Tại Liêm thôn huyện Thượng Nguyên có dòng họ Phạm là dư duệ của Lê triều đại nguyên soái Lai Quận công Phạm Công Khoái, hiện có đền thờ. Câu đối: Khu hoạch khởi vô tài, vạn lý giang sơn tằng lịch duyệt; Công danh nguyên hữu phận, cửu trùng vũ lộ hỷ vinh triêm” (Vạch chia bờ cõi nếu không tài, muôn dặm non sông chân dẫm khắp; Giành giật công danh là có phận, chín trùng mưa móc thầm ơn to). Lăng vua Trần Minh Tông : Lăng này thuộc trang Vạn Kiếp, nay là xã Vạn Diệp tổng Đồng Phù huyện Thượng Nguyên. Khu vực này rộng tới ba mẫu cây cối um tùm. Mỗi khi đến ngày giỗ 19 tháng 2 dân địa phương thổi một niêu cơm, một đĩa muối vừng đặt lên trước tượng. Đền Trung Tấn vương : Vương người xã An Lá tổng Hư Tả huyện Thượng Nguyên, đem quân giúp vua Đinh thống nhất đất nước, được tước Kiến Nghĩa hầu và xã quê làm thực ấp. Khi Lê Hoàn cướp ngôi, ông tổ chức quân chống lại, hơn một năm thì bại chết. Xã lập đền thờ, vua Lý Công Uẩn phong là Trung Tấn vương thượng đẳng phúc thần. Xã Đồng Phù tổng Đồng Phù: Thờ Quế Hoa công chúa tên là Trần Thị Ngọc Chân, con viên Thái thú triều Lê. Ban đầu nhỏ bé, từ quãng năm Cảnh Trị thì xây to lên, nay đền và lăng tẩm đều to rộng. Mỗi năm cứ ngày 10 tháng 3 dân hai xã Vô Hoạn Đồng 118
  30. Phù sắp đặt loan giá, lễ rước, ca hát, đánh cờ, kéo chữ. Thập phương tụ hội chiêm bái khá đông. Mất ngày 13 tháng giêng thọ 21 tuổi. Đền Đức Vua xã Ngô Xá tổng Bách Tính huyện Mỹ Lộc thờ Trần Minh Tông mở ấp ở Ngô Xá, sau Trịnh Kiểm đánh Mạc qua đây cấp tiền khuyên dân chăm chỉ cấy cầy và địa phương ứng nghĩa. Đền Vọng Vân xã Bảo Long huyện Mỹ Lộc. Cuối thời Lý dân cư trôi dạt, đất đai hoang hoá, có lần Trần Nhân Tông vi hành đến khu rừng này nghỉ ngơi, vua liền ban tiền thờ. Câu đối của Dương Bật Trạc người xã Cổ Lễ huyện Trực Ninh, đỗ Tam giáp Tiến sĩ khoa ất Mùi (1715) thời Lê quan án sát sứ Lạng Sơn: Vọng như phụ mẫu sinh thành đức, Vân đáo hoà cốc lẫm thương doanh. (Trông như cha mẹ sinh thành, công to siết kể; Mây đến gió mưa hoà thuận, thóc chứa đầy bồ). Đền thờ tổ xã Vị Khê huyện Thượng Nguyên: Đền thờ ông Nguyễn Công Thành, tiên phong tả tướng của Ngô vương về chiêu dân lập ấp mở chợ. Thời Lý có thái uý Tô Trung Tự dạy dân trồng hoa. Thời Lê mạt có Bình An vương và vương nữ Trịnh Thị Tâm Hảo tái lập làng. Qua các đời hãy còn bảo lưu. Câu đối: Lý đại hữu hoa thôn, cố phả do Truyền Tô thái uý ; Lê triều tái lập xã, bi văn thượng ký Trịnh vương gia. (Thời Lý có làng hoa, phả cũ vẫn truyền Tô Thái uý ; Triều Lê tái lập xã, văn bia còn chép Trịnh vương gia). Mộ Huy Tĩnh hoàng hậu : Hoàng hậu người ở Cao Môn lấy vua Trần Nhân Tông, được ít lâu hậu về sửa chùa đệ nhị đô ở xã Đệ Nhị huyện Mỹ Lộc tu hành, vì hậu không có con nên dân làng xây mộ ở trước chùa, nay có 10 mẫu ruộng làm giỗ vào ngày 1 tháng 5. Ban đầu có mỹ tự là Huy Tĩnh cung phi, lúc mất truy phong Huy Tĩnh hoàng hậu. Đền thôn Miễu xã Đệ Nhất huyện Mỹ Lộc: Đền thờ ông Nguyễn Xuân Bình còn có tên là Dũng Dược tướng vua Hùng thứ 18 có công đánh Thục lấy con gái vua là công chúa Quang Mỹ và Phạm Ngộ, Vĩnh Hựu, Uy Linh tướng thời Trần đóng quân bảo vệ quê vua. Nay có tượng thờ rất là cung kính. Tại ngoài Miễu có miếu thờ công chúa Quang Mỹ còn câu đối: Khuê lý nhân từ thiện hạ hữu, nữ trung quang kiếm thế gian hy. (Tại nơi khuê các tỏ nhân từ, thiên hạ có nhiều gương nghĩa khí; Trong đám quân thoa cầm gươm giáo, thế gian hiếm thấy bậc kiên cường). Đền thôn Đông Mỹ xã Mỹ Lộc huyện Mỹ Lộc thờ tướng Đại Hành từng theo Hưng Đạo vương đánh giặc Nguyên. Đền có câu đối: Phương lưu Mỹ ấp sinh tiền tướng, Vận dực Đông A tử hậu thần. (Nơi Nguyễn ấp vị tướng sinh ra, tiếng thơm còn mãi nơi quê quán; Giúp Đông A công thần rực rỡ, mất rồi dân nhớ vẫn tôn thờ). Thôn Đồng Mai thì thờ Cao Mang họ Lư, có tượng thờ rất là long trọng. Câu đối: Lư gia đông xuất anh hùng tướng, Trần Đại Nam phù thánh triết vương. 119
  31. (Vị tướng họ Lư anh hùng, sinh ở Đông Sơn thuở nọ ; Giúp vua nhà Trần thần thánh, tại miền Nam hải chuyện xưa kia). Chùa Viên Thông : Chùa thuộc xã Vĩnh Trường huyện Mỹ Lộc. Thời cổ gọi là chùa Viên Nguyệt thuộc xã Vĩnh Ninh, đến thời Trần đổi ra xã Vĩnh Bình, thời Lê đổi là Vĩnh Trường. Tương truyền do sư Thủy Vân ở Bích Sơn Gia Viễn về mở cảnh vào thời Lý sơ sư vốn là tướng can gián của Lý Công Uẩn, mới từ giã gia đình về Bích Sơn có tên là Nguyễn Thế Huy, vì ông có lời khuyên ngăn trung trực, sau nghĩ ở thì sẽ mắc vạ, bèn cho con đổi ra họ Chu về ở Yên Mô, còn ông thì tìm nơi non sâu ẩn tích. Câu đối cửa chùa: Xã hiệu Vĩnh Trường, cổ tác Vĩnh Ninh tồn thạch ký ; Tự danh Viên Nguyệt, kim vi Viên Thông tự Lê sơ. Đền thờ Trung Vũ vương : Tại xã Lựu Phố tổng Đệ Nhất ban đầu gọi là Lựu Viên, nơi ông Trần Thủ Độ ở bới việc cho họ Trần kế nghiệp họ Lý. Nơi đây còn thờ công chúa Bạch Hoa là con gái Trần Thuận Tông và bố con thám hoa Hà Nhân Giả. Xã Mai Xá tổng Hữu Bị nơi thờ bà họ Đào, giữ chức quân trung điều hộ thời Bình Định vương chống quân Minh. Dân địa phương nhờ cậy bà giúp tiền gạo, chữa bệnh tật. Lúc hoá có sắc phong là thánh mẫu. Xã Đệ Tam thờ hai anh em họ Nguyễn là Bá Thành và Trọng Thực theo ông Trần Lãm, sau giúp vua Đinh, thời Lê được phong làm thành hoàng làng. Bên phải đền là chỗ ở cũ của hai bố mẹ các ông. Xã Phụ Long tổng Đông Mặc thờ Bố Cái đại vương và ông Lê Nghĩa Thành, Trịnh Công Dụng, làm thành hoàng làng. Bên phải có văn chỉ của xã, thời Tự Đức bị giặc phá, nay chỉ còn đền. Ngày hai ông ứng nghĩa mồng 6 tháng chạp, ngày ông Nghĩa Thành mất 14 tháng 7, ông Công Dụng mất 12 tháng 8, đều dùng lễ tam sinh, có lễ thiên quan và rước vào đền xã Gia Hoà năm Tý Ngọ, ở xã Gia Hoà rước vào Phụ Long vào năm Mão Dậu. Thời Lê thì năm nào cũng rước, cứ năm dương thì Gia Hoà rước trước, năm âm thì Phụ Long rước trước. Đền thôn Giáp Tư xã Trực Chính huyện Nam Trực : Xã này thời Lý có tên là xã Thử Giã (cánh đồng chuột). Thần là con gái, mới chín tuổi đã tham gia chống giặc, khi chết được phong là Bình Khôi công chúa. Thơ của ông nghè Phạm Kim Kính quê ở thôn Cổ Sư Vụ Bản: “Tứ Giáp thôn”: Lý mạt, Trần sơ thương khách chí, Tri an thủy quyết lập gia cư, Dương Lê Đoàn Nguyễn lâm biên trụ, Trần Phạm Bùi Hoàng thủy thượng du. Thiết miếu y quang dân hoạch cát, Phụng thần tư đức đế ban thư. Vu kim khuất chỉ ngũ bách tải, Bất kiến hà nhân thuyết cổ thì. (Thôn Giáp Tứ : Đầu Trần, cuối Lý do thương khách, Đến thấy yên vui ở ấp này, Trần Phạm Bùi Hoàng trên nước ngụ, 120
  32. Dương Lê Đoàn Nguyễn ẩn rừng cây. Lập đền cầu đảo dân cư thịnh, Nhớ cũ thờ thần có sắc mây. Bấm đốt trăm năm xuân sắc đổi, Nào ai còn nhắc việc xưa đây). Nay có lệ mở hội ngày 8 tháng 2. Chùa Đại Bi : Chùa toạ lạc tại thôn Giáp Ba xã Trực Chính, thờ thiền sư Từ Đạo Hạnh. Vào thời Lý thiền sư dựng nên ngôi chùa này, nay cả xã Trực Chính, Vân Chàng đều phụng sự, mở hội vào các ngày từ 20 đến 24 tháng giêng, có lệ ném cầu, múa rối bơi thuyền, các nơi đổ về lễ bái cũng đông. Sở tại có câu: Giàu nghèo cũng cứ chơi xuân, Thắp hương cầu phúc bước chân vui vầy, Thứ nhất thì hội phủ Dày, Vui thì vui vậy không tày chùa Bi. Văn từ huyện Nam Trực ở xã Cổ Nông tổng Cổ Nông, thờ Khổng Tử ở giữa, bên phải thờ Chu Văn An, Trương Hán Siêu, bên trái thờ hương hiền có Lê Hiến Giản, Lê Hiến Tứ, Nguyễn Khắc Thận, Ngô Bật Lượng Xã Thượng Lao huyện Nam Trực có đền thờ Lê Hiến Giản, Hiến Tứ thời cuối Trần, hai ông thường hiển linh giáng bút tiên tri dân sự, được cả vùng ngưỡng vọng. Sinh thời ông Hiến Giản có đào một con sông, phía trên tiếp với Tương Nam sông Tân Khai, phía dưới tiếp với sông Dõng chỗ Liễu Đê, dài như thế mà chỉ có một ngày là xong, nước chảy ra đỏ như máu, trâu ngựa đi qua đều bị chết đuối. Người đương thì gọi là “sự lạ sông Đào”. Dưới thời Quang Trung những người đi theo ông ta không phải là ít, ở vùng Nam Chân cũng có hơn 10 vị, nhưng sống ở nơi quan lại sở tại hà khắc, mà lại có điều nhân đức, thì phải kể đến Anh dũng tướng quân tước Hai Khoan tử Trần Công tên tự Bá Hai ở thôn Nho Lâm xã đồng Quỹ huyện Nam Chân. bài của Tam giáp Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh người Chân Mỹ, Đại An, quan Quốc Tử giám Tế tửu thời Nguyễn viết: “Nho Lâm thôn”: Lê triều Bảo Thái nhị niên, Trần công Minh Đạt nam thiên khả bình, Tị sưu tầm chí lâm đình, Thủy li hà chính hựu kinh nô hình, Mạt thì sung nhập quân doanh, Tòng tư tịch hữu thôn danh biệt hàng. Nhân cư hương ấp bất trường, Thất tuần dĩ đạo cổ thường vị đa, Đế vương lịch đại câu qua, Cố quan thế sự thán ta nhất từ. (Thôn Nho Lâm : Triều Lê Bảo Thái thứ 2 (1721), Trần công Minh Đạt đến nơi đất này, 121
  33. Tránh sưu trú ở rừng cây Mới qua khổ thuế lại hay tội nhờ(1), Cuối thời đánh dẹp trở về, Có tên thôn gọi làng Nho biệt hàng(2), Người ta mấy kẻ cửu trường Bảy mươi đã nói tuổi thường hiếm hoi Đế Vương như ngựa chạy rồi, Than phiền những chuyện trên đời oái oăm). [Chú thích : (1) Tội nhờ: Đến ở khai khẩn nhưng chưa có tên làng, thì phải chịu việc phục dịch tên làng chính ngạch. (2) Đến khi họ Trần có người làm nên thôn mới có trước bạ riêng rẽ không bị nô lệ nữa.] Miễu lớn thiêng liêng : Tự cổ vẫn còn đến nay um tùm rừng cây xanh tốt, ai vào nghỉ ngơi cũng thấy mát mẻ, nếu tuỳ tiện chặt phá thường gặp sự không yên, lại phải đền để tạ lễ Lâm lý tôn thần, Cơ Trí An, Thứ Nhất, Thanh Khê, Y Lư, Tam Trữ, Cổ Tung. Phần lớn các miễu này là cồn đất cao, chỗ vài chục mẫu, chỗ năm sáu mẫu. Trúc xanh đồng bằng : Tại xã Cổ Gia phía sau đền thờ quan trạng có một cái miễu trúc rộng ước 5 mẫu, cây cối xanh tốt, lác đác có mấy cây trúc trắng. Huệ Tộ đại thánh thiền sư : Tại thôn Giáp Nhất xã Trực Chính(1) tại dòng họ Bùi có người 50 tuổi xuất gia năm Đinh Dậu (1573 - 1577) niên hiệu Gia Thái triều Lê đắc đạo ở Tây Thiên, lội nước trèo non ví như chim bay. Sư trú tại chùa Tuỳ Hồng xã Cổ Tung, dựng quán Thừa lương, viết Kế Đăng Lục được vua Thần Tông tôn danh hoà thượng. Niên hiệu Dương Hoà, sư lên hoả đàn tự thiêu, tại chỗ Cổ Tung Trực Chính giáp nhau có một cồn đất, sở tại gọi đó là cồn Thánh hoá. Nay ngoài Thanh Khê, Đô quan, Đông Cao cũng có đền tượng thờ, được dân tín ngưỡng. Ngày kị 10 tháng giêng. [Chú thích : (1) Trực Chính: Tên cổ là Thanh Đàm, thời Trần đổi là Chân Đàm thời Lê đổi là Chân Nguyên, nay là Trực Chính gồm Giáp Nhất, Giáp Ba, Giáp Tư. (Đại Bi tự thánh tổ thực lục).] Xã Thanh Khê vào thời vua Lý có cô gái họ Vũ tên tự là Phương Dung, lúc cha mẹ sinh nàng ra khí lành toả khắp nhà, nàng đi tới đây có đám mây như cái dù che, nắng thì râm lại mưa thì tạnh hẳn. Sau là nguyên phi của vua Lý, có đền thờ còn câu đối: Việt tự Lý triều thiên tích tộ, Nguyên tòng Vũ thị địa chung linh. (Kể tự Lý triều trời để phúc, Vốn dòng Vũ thị đất linh thiêng). Chợ chùa Đại Bi : Thuộc xã Trực Chính, tương truyền thiền sư Từ Đạo Hạnh khi đỗ khoa Bạch Liên rồi về gặp thiền sư Không Lộ, hai ông ra bãi đất trống thắp hương làm lễ kết nghĩa anh em. Hiện còn bãi đất cao có bát nhang đá. Lời khen: Chùa Bi gần với đền Gin, Đất thiêng như vẽ mấy ngàn mùa xuân, Thành Nam thứ nhất Nam Chân, Đường Vàng sông Ngọc quan dân tốt lành, Thiền sư đại tướng nêu danh, Để ơn mưa móc mái tranh dồi dào, Hoá sinh đều có công cao, 122
  34. Giữ gìn thờ tự nói sao hết lời! Đây là nơi mẹ thiền sư ở. Xã Hiệp Luật tổng Bái Dương, có đền thờ sứ quân Kiều Công Hãn. Cuối thời Ngô ông Kiều chiếm cứ Phong Châu tự xưng Kiều Tam chế, bị Đinh Bộ Lĩnh đánh bại. Chạy về phương Nam muốn cùng Phạm Bạch Hổ mưu việc đánh trả. Nhưng tìm đến Phạm thì biết ông Phạm đã theo Đinh công, ông Kiều bèn thúc ngựa chạy đến chợ Bái Dương, gặp một bà già mời ông ăn uống no say. Ông bèn cởi áo chiến quẳng cho bà già rồi chạy ra cái cồn đất gần đó tự vẫn. Đến khi Lê Hoàn chống Tống, ông hiển linh giúp đỡ được Lê Hoàn ban tiền cho dân lập đền thờ và trừ miễn công dịch. Nay bốn xã Hiệp Luật, Bái Dương, Cổ Lũng Tang Trữ đều tôn thờ. Xã Lạc Đạo tổng Đỗ Xá có đền thờ Trần sứ quân. Sứ quân tên là Công Lãm, vốn người nhân đức, làm tướng thời Ngô trấn thủ của biển Kỳ Bố tự xưng Trần Minh Công, nuôi Đinh Bộ Lĩnh quê ở Hoa Lư làm nghĩa tử cho cai quản tất cả quân lính rồi đi chơi sơn thủy. Lần đến xã Lạc Đạo thấy có khu đất đẹp bèn cho dân tiền xây dựng nhà ở. Khi mất sở tại chôn ông ở Mả Râm, Đinh Tiên Hoàng sai người tu sửa to nơi ở thành đền đặt lệ quốc tế. Đời sau đều tặng phong tôn kính, ở trong huyện có xã Vân Cù, ở Thái Bình có Kỳ Bố, Bồ Xuyên hằng năm đều chồng kiệu rước về Lạc Đạo vào đám ba năm một lần, chính kị vào ngày10 tháng 10. Đền Quy Phú: Thờ Trình Thị Cực người xã Từ Quán (nay là xã Từ Quán tổng Nghĩa Xá) lấy chồng là Nguyễn Hinh ở thôn Quán Nhi. Giận chồng bị thái thú Tô Định giết chết bèn khởi quân theo Trưng Trắc đánh quân Hán. Bại trận Trình Thị bèn nhảy xuống biển chỗ Để Sơn Diễn Châu, xác trôi về đến xóm Đông Quy Cực, sở tại kéo lên an táng, rồi đổi chữ Cực thành chữ Phú. Ngày mất 8 tháng 2 năm Qúy Mão. Quan huyện lệnh huyện Giao Thủy Nguyễn Văn Duệ thời Lê sơ, lúc sửa đền có đề thơ: Hoàng bà dũng lược sự do truyền, Hương hoả truy tư tại Quán thôn, Trình Thị bản do phu tử hận, Trưng Vương tự tướng diệc đồng thuyền. (Hoàng bà dũng lược việc còn truyền, Hương khói truy tư ở Quán thôn, Trình Thị giận điều chồng chết uổng, Trưng Vương khởi nghĩa cũng trên thuyền). Đền xã Thụy Thỏ huyện Nam Trực: Thờ Mậu Thìn khoa Tiến sĩ Đông các Đại học sỹ Vệ Thụy hầu Đặng Phi Hiển, lúc sống liêm chính, đánh giặc gìn giữ cõi tây, mặt bắc, lúc thác hiển linh, thường giáng bút cho thơ chữ Hán, chữ Nôm tuỳ theo người lễ hiểu được, sự tiên chi của thần quả là không thể lường hết được. Dân đi thuyền buôn bán Bắc Nam, người sở tại có sự khó thảy được thần chỉ bảo rõ rệt, đều thiên về hướng thiện, thời vua Nguyễn Thiệu Trị đã được ban chữ: Thế đại canh thiên từ nhược tại, Nhân tâm hoán cải đức trường lưu. (Thời cuộc đổi thay đền vẫn thế, Lòng người biến cải đức còn ghi). 123
  35. Thích Ca hoá thân : Thời Lê ngưỡi xã Liên Tỉnh tên là Đặng Đức Long cày ở Đồng Vối thấy một phiến đá vuông ước một thước trên có 21 pho tượng vây xung quanh tượng Phật Thích ca. Đặng nhân thế bèn trên đất ấy dựng một nơi thờ gọi tên là chùa Bồ Đa, phía trước cửa chùa bốn mùa đọng nước cây cỏ xanh tươi. Chỗ cây trũng xuống vẫn không lấp đầy đất được. Bài thơ của Tam giáp Tiến sĩ khoa Mậu Thìn niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) người xã Thuỵ Thỏ Nam Trực : Bồ Đa Tự : Văn đạo thiền quan sắc thị không, Bồ đa ao địa bán đài phong, Phiên phiên hiện thế cao đê thạch, ẩn ẩn năng ngôn hiểu mộ chung, Minh kính đài lưu hồ phiến thuỷ, Kim liên hương khởi thụ vi phong, Phượng tường duy cốt đô như thử, An vấn nhân công dữ hoá công? (Chùa Bồ Đa(1): Nghe nói cửa thiền chuyện sắc không, Bồ Đa đất trũng nửa rêu phong, Chuông kình sớm muộn ra công đấm, Tượng đá lô nhô trước mắt trông. Gương sáng hãy còn hồ nước gợn, Sen vàng khói toả lá cây vòng, Phượng bay để cốt đều như thế, Đừng hỏi nhân công với hoá công?). [Chú thích : (1) Chùa thuộc thôn Trung Vượt xã Nam Trung. Nay tại chùa này có tượng ông bà ông Đặng Đức Long thờ ở bái đường, thổ dân gọi là ông bà ông hậu Long.] Cóc bạc chùa Đông Minh : Vào quãng thời Đinh có người Phương Bắc tên là Đông Minh qua xã Tử Giá (thời Trần đổi ra là Vĩnh Hưng, Nguyễn mạt đổi ra là Hưng Đễ, niên hiệu Thành Thái 1 (1889) tách một phần ra lập xã Hưng Nghĩa) thấy một khu đất rộng rãi, cây cối um tùm tĩnh mịch mát mẻ, phía trước có 2 giếng hình mắt rồng, bèn lập một ngôi chùa lấy tên là Đông Minh làm hiệu. Trong chùa có con cóc đá dài 2 thước rất là thiêng liêng, chẳng ai dám động. Cuối thời Lê người phương Bắc đến chỉ vào con cóc bảo: “Tổ tiên ta để người ở đây đã lâu, trong bụng có chứa kim khí đưa trả cho ta không được giấu giếm”. Bỗng nhiên cóc nghiến răng kèn kẹt, bụng vỡ tung ra trăm lạng bạc. Người khách ấy lấy bạc rồi sửa lại chùa tế lễ mới từ giã. Sư trụ trì sợ mất dấu vết bèn thuê người tạo một con cóc gốm thay vào. Bài Chùa Đông Minh của Tiến sĩ Thụy Thỏ Đặng Phi Hiển: Cổ thuyết Tống nhân tị nạn thời, Giá trang trạch địa kiến liên đài. Sơ lưu dị thạch tàng thâm ốc, Hậu duệ tầm quan phỏng cựu trai, Can phủ sậu tuỳ ngân khách khứ, Tinh thần phân phó ngoã thiềm lai, ư kim mộ đạo tha phương chí, 124
  36. Bất cảm ty hào uý ngộ tai (Tống nhân tị nạn tới đây(2), Giá Trang(3) chọn đất dựng ngay ngôi chùa, Nhà sâu đá lạ giấu thừa, Cháu sau tìm lại hỏi đưa khấn đòi, Ruột gan theo khách đi rồi, Tinh thần cóc ngói còn ngồi chốn thiêng. Nơi xa mộ đạo thắp nhang, Tơ hào chẳng dám coi thường chuyện xưa). [Chú thích : (2) Tống nhân: Người nước Tống, tức người Trung Quốc, tương đương thời Đinh ở Việt Nam. (3) Giá Trang: Tức xã Tử Giá, tên Nôm là làng Mía.] Khánh đá chùa Kim Khai : dưới triều Trần, tại thôn Đông Khánh thượng xã Bách Tính đào giếng được một tảng đá to dài ước 10 thước, gõ vào kêu như tiếng chuông. Dân thôn bỗng nhiên tật dịch, đến lễ ở chùa Đông Minh biết được khánh đó có từ thời Lý, đào tiếp thì thấy có bia cổ ghi Long Phù nhị niên (1102) Nhân Tông hoàng đế tạo, dân thôn bèn nhặt nhạnh đá vỡ gạch dư, đóng tiền góp gạo mua sắm thêm, dựng nên ngôi chùa trước có 5 gian, sau có chuôi vỗ 5 gian tiếp với lầu khánh lầu chuông, lại thêm hành lang tả hữu gồm 6 gian, tất cả đều sơn son thiếp vàng, mới đặt tên là Kim Khai tự. Ngày khánh thành được vua Anh Tông cấp cho 200 lạng bạc. Đến đầu thời Cảnh Hưng dân sở tại theo Gia Tô, nên chùa cảnh bị đập phá. Qua lại không ai không rơi nước mắt. Có thơ ghi: Tạo thành nghi tự bích sơn lai, Xuất tỉnh y niên khánh nhất mai. Hương bỉ cự lôi kinh diệm hoả, Hình lưu sơ nguyệt bán thương đài. Phật tương bảo khí tuỳ yên một, Nhân tích kim thanh bạn thủy nhai. Đáo xứ nhận phi thiên tử trạch, Khanh khanh thuỳ thị hữu tâm tai? (Vốn từ núi biếc tạo tên chăng, Đào giếng lôi lên chiếc khánh bằng, Như sấm kêu vang từ chớp lửa, Tựa trăng đầu tháng nửa rêu phong, Phật cho vật báu theo hương biến, Người tiếc lời vàng quẳng bến trong. Thiên tử dấu xưa đành chẳng nói, Bong bong nào biết có ai không). Tháp cổ ở Thanh Khê : Xã Thanh Khê tổng Thi Liệu có ngôi chùa, bên chùa có cây đa to chu vi có tới vài trượng chẳng biết tự bao giờ. Năm Tự Đức Mậu Dần (1878) người làng đem búa chặt thì nghe thấy tiếng rên rỉ có tiếng yếu ớt. Người làng cho là yêu quái càng thêm quyết tâm chặt, sư cũng không thể ngăn nổi. Đến lúc cây đổ, bên trong bật vỡ ra một ngôi tháp cổ vuông ước một thước, gạt hết vết mốc thấy có hàng 125
  37. chữ: “Dương Hoà thất niên Đàm công danh Phúc Thụ, hiệu Huệ Văn thần đồng bồ tát”, trong có bình sành chứa tro xương. Mọi người hối hận nhưng sự đã muộn, chim chóc bay vòng tiếng kêu ai oán. Sư bản tự bèn xướng suất các cố lão lấy gạch đá xây phong thành am. Sư rơi nước mắt nói: “Sống chết của người rõ rệt có thế, cả đời tu tỉnh nào được cái gì”. Rồi viết bài tứ tuyệt: Y bỉ hà nhân tai Di am tàng xá lị Sinh vi hữu đạo tăng, Tử vi vô tự quỷ (Thương ôi đời biết ai đâu, Để am xá lị chắc nào được yên, Sống làm sư đạo đã nên, Chết thành con quỷ người quên cúng thờ). Chùa Mục Đồng ở ngoài nội cỏ : Tại thôn Tạ Xá xã Liên Tỉnh có ngôi chùa nhỏ, nhà gạch tường quét vôi, bên trong trải được ước nửa cái chiếu. Tương truyền từ thời Lê sơ, bọn trẻ trâu nhặt được pho tượng bằng đồng ước cao 3 tấc, mới nhân tạo ngôi chùa đặt tượng và bát nhang thờ, có một cửa ra vào mà không hề có cửa sổ hay lỗ thông hơi, thờ phụng xem ra cũng nhiều linh dị, già trẻ thường tới đốt nhang. Cuối Tây Sơn giặc lấy mất tượng đồng, chỉ còn bát nhang mà khí thiêng vẫn không đổi. Bài “ Bái Mục đồng dã tử” của Đại An Đông La Kỷ Mão Đình nguyên Đỗ Huy Liệu: Khả quái ngưu nhi khởi dã thiền, Hữu linh tự cổ diệc đa yên. Lê sơ thủy kiến nhân suy vọng, Trịnh mạt tương di khí bất thiên. U hiển nan tri thần phật sự, Vãng lai nguyện đắc thính văn tiền. Hồi đầu khả miễn kim ngôn bạch, Trùng phỏng thành tâm thiểu dĩ điền. (Cũng lạ trẻ trâu dựng cửa thiền, Mà thiêng xưa đã mấy nơi liền. Đầu Lê mới tạo người tôn kính, Cuối Trịnh hầu dời khí vẫn nguyên. U hiển khó hay điều phật thánh, Lại qua xin rõ chuyện đường tiền(1). Quay về lĩnh hội câu vàng dạy, Trở lại thành tâm chút báo đền). [Chú thích : (1) Đương tiền: Sắp tới, bước đi thì gặp phải.] Cây trò ở miếu Thượng Đồng : Bên phải phía trước miếu thờ ông Long Kiều có cây chò chỉ, đứng xa vài ba dặm vấy thấy um ùm cao ngất, trước đây đã mấy lần nước to xoáy thành đầm vực ở chung quanh gốc chò, mà chò vẫn không đổ. Thần báo mộng cho dân lấy gạch đá đổ nhiều ở chung quanh và đóng kè giữ lấy, thủy thần hũng dữ dâng nước làm bão kéo đổ vẫn không thành sự. Năm Tự Đức thứ 9 (1856) đang cuối mùa thu gió bão ập tới, trong cơn nước xoáy gió gào có tiếng chiêng trống rầm rĩ, ai cũng nghe 126
  38. thấy mà chẳng dám ra. Sáng hôm sau trời đất trở lại yên ổn, mọi người ra xem thấy gốc chò và ngọn cành đều có vết rìu búa chặt, cành thì gẫy hết, cá tôm rơi xác chết cũng khá nhiều, mà phần nhiều đều bị nốt dao chém. Thần lại báo mộng cho dân đào sâu ruộng xung quanh cây xây chắc to để phòng thủy thần cướp phá. Bài “Cây chò Thượng Đồng” của Phó bảng khoa Tân Sửu (1841) Đỗ Huy Uyển người xã La Ngạn huyện Đại An : Long Kiều miếu tiền hữu chò thụ Kỷ bách niên lai xổ mẫu âm, Tiên giả thủy thần tham dục thủ, Hậu nhân thổ chủ lực đa truân, Bính Thìn phong vũ xâm chàng phạt, Thánh tướng anh linh ngự phủ cân. bất tri thử sự thùy năng giải, Mục kiến phi ngoa bút tự trần. (Cây Chò trước miếu Long Kiều, Bóng trùm vài mẫu bao nhiêu đời rồi, Lòng tham thần nước không ngơi, Thành hoàng chống cự chẳng rời mối lo. Năm Bính Thìn gió bão to, Giáo gươm thánh tướng chém bừa cá tôm. Hiểu sao cho rõ nguồn cơn, Quả tôi mắt thấy bút biên việc này). Minh Không di tích : Sư Nguyễn Chí Thành quê ở Điềm Xá Gia Viễn thường câu cá tại núi Tai Mèo, rồi chèo thuyền ra cửa biển Thần Phù, để thẳng đến Tây Chân đi bán, thường gánh đá một bên cho cân với cá, đi đường đá bị rơi sư đạp viên đá ra viên đá vỡ còn dấu tại xã Liên Tỉnh xã Tương Đông. Thơ của Dương Bang Bảng người xã An Cừ huyện Thanh Liêm, 33 tuổi đỗ Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân niên hiệu Hồng Đức thứ 15 (1484) đổi quốc tính gọi là Lê Tung. Từng đi sứ, quan Lễ bộ Thượng thư , quốc tử giám tế tửu tước Đôn thư bá. Thọ 63 tuổi, tác phẩm có khá nhiều thơ văn rải rác tại khắp nơi. Bài “Kiến Liên xã thuyết đáo Nguyễn thiền sư nhân tác thi sĩ lưu vu tự bi chi hậu”: Miêu lĩnh thuyền hành xuất hải tần, Thần phù bắc hướng đáo Tây Chân, Bộ trình đảm thạch lưu Liên xã, Khứ mãi lai cư hữu toạ ngân, Tây Lạc thị chiền dân thượng ký, Quần Hàn cổ sát ấp tôn thân. Lý triều chư xứ phương danh tại, Linh khí y nhiên mục tự tân. (Thấy người xã Liên Tỉnh tới nơi Nguyễn thiền sư, nên làm bài thơ khắc vào mặt sau bia chùa: Núi Mèo ra biển cửa Thần Phù, Thuyền hướng Tây Chân chở lướt đi, Liên Tỉnh đá rơi đường chẳng mất, 127