Những mối đe doạ đối với đa dạng sinh học

doc 31 trang ngocly 1690
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Những mối đe doạ đối với đa dạng sinh học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docnhung_moi_de_doa_doi_voi_da_dang_sinh_hoc.doc

Nội dung text: Những mối đe doạ đối với đa dạng sinh học

  1. NHỮNG MỐI ĐE DOẠ ĐỐI VỚI ĐA DẠNG SINH HỌC Những hoạt động của con người đã làm cho rất nhiều loài bị tuyệt chủng. Kể từ năm 1600 đến nay khoảng 21% các loài động vật và 1,3% các loài chim trên thế giới đã bị tuyệt chủng. Tốc độ tuyệt chủng của các loài trở nên ngày càng cao. Những loài còn sống sót thì cũng có nguy cơ đứng bên bờ của sự tuyệt chủng. Hơn 99% những sự tuyệt chủng thời cận đại là do con người gây ra . Những loài sống trên các đảo đặc biệt rất dễ tuyệt chủng vì chúng chỉ sống được trên một hay một số ít hòn đảo. Mô hình sinh địa của đảo được sử dụng để dự báo rằng với tốc độ phá hủy nơi cư trú như hiện nay thì mỗi năm sẽ có 25.000 loài sẽ bị tuyệt chủng trong vòng 10 năm tới. Nhiều quần xã sinh học đang dần dần bị mai một bởi những sự tuyệt chủng cục bộ của loài. Hạn chế việc gia tăng dân số loài người là một giải pháp hữu hiệu giải quyết cuộc khủng hoảng của đa dạng sinh học. Hơn nữa những hoạt động quy mô lớn của công nghiệp khai thác gỗ và nông nghiệp thường dẫn đến việc hủy hoại môi trường tự nhiên không cần thiết, làm ảnh hưởng đến việc khai thác dài hạn các nguồn lợi thiên nhiên. Những nỗ lực nhăm hạn chế sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở những nước cộng nghiệp phát triển và việc xóa đói giảm nghèo tại các nước đang phát triển đóng vai trò rất quan trọng trong chiến lược tống thể bảo vệ đa dạng sinh học. Nguy cơ lớn nhất đe dọa đa dạng sinh học là việc mất các nơi cư trú; bởi vậy việc làm quan trọng nhất để bảo vệ đa dạng sinh học là bảo tồn các nơi cư trú. Các nơi cư trú đặc biệt đang bị đe dọa hủy hoại là các khu rừng mưa, rừng khô nhiệt đới, các vùng đất ngập nước ở tất cả các vùng khí hậu, các vùng đồng cỏ ôn đới, rừng ngập mặn, và các dải san hô. Nơi cư trú bị chia cắt là quá trình mà những khu vực rộng lớn, liên tục của nơi sinh sống bị giảm về diện tích hay bị chia cắt xé lẻ nơi ra làm hai hay nhiều phần nhỏ. Việc việc chia cắt xé lẻ nơi cư trú có thể dẫn đến sự mất mát nhanh chóng của các loài còn lại bởi vì chúng tạo ra những rào chắn ngăn cản việc phát tán, việc định cư và kiếm mồi của các loài động vật. Môi trường sống trong phần bị chia cắt xé lẻ sẽ bị thay đổi và các côn trùng gây hại sẽ trở nên phổ biến hơn. Sự ô nhiễm môi trường loại bỏ rất nhiều loài ra khỏi quần xã sinh học của chúng kể cả ở những nơi mà cấu trúc quần xã không bị ảnh hưởng lớn. Sự ô nhiễm môi trường bao gồm: sử dụng quá mức thuốc trừ sâu, các chất thải công nghiệp, phân bón hóa học và ô nhiễm không khí gây ra mưa axit, nitơ bị lắng đọng quá mức, các khí quang hóa và khí ôzôn. Như chúng ta đã biết khí hậu địa cầu có thể bị thay đổi trong thế kỷ XXI bởi vì lượng khí cacbonnic thải vào khí quyên quá lớn do quá trình đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch. Mức độ tăng nhiệt độ dự kiến sẽ nhanh đến mức nhiều loài không thê nào điều chỉnh được biên độ sống của chúng và sẽ bị tuyệt chủng. Hiện nay tình trạng nghèo khó vẫn diễn ra ở nông thôn. Việc cải tiến đạt hiệu quả cao hơn các phương pháp săn bắn và hái lượm, quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế đã thúc đẩy sự khai thác quá mức đối với rất nhiều loài, đẩy chúng đến sự tuyệt chủng. Các nền văn minh của các xã hội trước đây có những truyền thống, thói quen hạn chế khai
  2. thác tài nguyên quá mức, nhưng ngày nay, những truyền thống đó đã bị phá vỡ và con người vô tình hoặc hữu ý đã chuyển hàng ngàn loài đến những vùng đất mới trên thế giới. Một số loài nhập cư đã có tác động xấu đối với các loài bản địa dẫn đến dịch bệnh và động vật sống ký sinh thường gia tăng khi các loài động vật bị nuôi nhốt tại những khu bảo tồn thiên nhiên và không thể di chuyển đi lại trong một địa bàn rộn lớn. Động vật bị nuôi nhốt thường có tỷ lệ bị mắc bệnh cao và các bệnh dịch đôi khi lan truyền giữa các loài động vật có quan hệ họ hàng với nhau. Các loài động vật dễ bị tuyệt chủng có những đặc điểm nhất định như: có vùng phân bố địa lý hẹp, chỉ có một hay ít quần thể, kích thước quần thể nhỏ, quần thể bị suy giảm về số lượng và có giá trị kinh tế đối với con người dẫn đến việc bị khai thác quá mức . Các nhà sinh học đã nhận thấy rằng các quần thể nhỏ có nguy cơ bị tuyệt chủng cao hơn nhiều so với các quần thể lớn. Kích thước tối thiểu của quần thế (Minimum viable population) chính là số lượng cá thê cần đủ để đảm bảo cho một quần thể có khả năng sống sót cao trong tương lai gần. Có ba nguyên nhân chính dẫn đến sự tuyệt chủng của các quần thể nhỏ: sự mất đi khá năng trao đổi gen và suy giảm sức sống do giao phối gần; sự dao động về số lượng cá thể; sự biến đối môi trường do thiên tai. Các hệ quả tổng hợp của các yếu tố trên được so sánh như yếu tố chính làm cho các quần thể nhỏ bị tuyệt chủng. Để tính toán số lượng quần thể tối thiểu có thể sống sót của một quần thể và khả năng chống chịu của quần thể đó trong một môi trường nhất định, ta phải sử dụng các số liệu về chủng quần học, gen, môi trường, thiên tai trong phân tích khả năng sống sót của quần thể. Các nhà sinh học bảo tồn cũng khẳng định rằng bằng cách quan trắc các quần thể của một loài có nguy cơ bị đe dọa, có thể biết được hiện trạng số lượng, của loài đó hoặc đang ổn định, đang tăng lên, đang dao động hay đang suy giảm. Thường thì điều chủ yếu để bảo vệ và quản lý một loài quý hiếm hay có nguy cơ tuyệt chủng chính là phải hiểu được lịch sử tự nhiên của loài đó. Một số loài qúy hiếm được mô tả một cách chính xác hơn như là các quần thể biến thái trong đó một nhóm các quần thể tạm thời được nối kết với nhau do sự di cư, sự nhập cư và sự xâm chiếm. Các quần thể mới của các loài quý hiếm và quần thể loài có nguy cơ tuyệt chủng có thể được tái phục hồi trong tự nhiên bằng cách sử dụng các cá thể hoặc được nuôi hay bị bắt ở ngoài tự nhiên. Trước khi thả ra tự nhiên, chim và thú được nuôi trong chuồng có thể phải được huấn luyện về tập tính săn mồi và sau khi được thả ra, chim và thú đó cũng thường phải được duy trì sự chăm sóc ở một mức độ nhất định. Việc tái lập phục hồi đưa vào các loài thực vật đòi hỏi phải có một phương thức khác do yêu cầu về môi trường chuyên hoá tại các giai đoạn gieo hạt và nảy mầm. Một số loài đang có nguy cơ tuyệt chủng ở ngoài thiên nhiên có thể được duy trì ở các vườn thú, các vườn thực vật các bể nuôi; cách thức này được biết như là phương pháp bảo tồn ngoại vi. Đôi khi các loài được nuôi chiếm ưu thế có thể được sử dụng về sau để tái lập các loài đó ở ngoài thiên nhiên. Nhằm nêu bật tình trạng của các loài nằm trong mục đích bảo tồn IUCN đã đưa ra năm mức báo tồn chính: tuyệt chủng, có nguy cơ, dễ bị tổn thương, quý hiếm và chưa có thông tin đầy đủ. Hệ thống phân loại này ngày nay được sử dụng rộng rãi để đánh giá tình trạng của các loài và lập các ưu tiên về bảo tồn.
  3. Hiện nay một số những đạo luật có hiệu quả về bảo vệ các loài Đang có Nguy cơ Tuyệt chủng được ban hành ở nhiều quốc gia trên thế giới. Những đạo luật này thường là trung tâm của các cuộc tranh cãi giữa các lợi ích về môi trường, và lợi ích kinh tế . Một sự thật hết sức hiển nhiên là một số loài sinh vật có khả năng di cư xuyên biên giới cho nên việc kiểm soát các loài cần phải có sự liên kết giữa các quốc gia. Các hoạt động buôn bán quốc tế về các sản phẩm sinh học, tầm quan trọng quốc tế của các lợi ích về đa dạng sinh học và tính quốc tế của các mối đe dọa đối với tính đa dạng nên cần thiết phải có các công ước và thỏa thuận quốc tế về bảo vệ đa dạng sinh học. Công ước Quốc tế về buôn bán các loài đang có nguy cơ tuyệt chủng (CITES) đã được ban hành nhằm kiểm soát và quan trắc việc buôn bán các động vật có nguy cơ bị đe doạ; ngày càng được xem là một cứu cánh lớn nhất của NHÂN LOẠI trong việc bảo tồn đa dạng sinh học của hành tinh chúng ta. RỪNG Việt Nam được coi là một trong những nước thuộc vùng Đông nam Á giàu về đa dạng sinh học. Ở Việt Nam do sự khác biệt lớn về khí hậu từ vùng gần Xích đạo tới giáp vùng cận nhiệt đới, cùng với sự đa dạng về địa hình đã tạo nên sự đa dạng về thiên nhiên và cũng do đó mà Việt Nam có tính đa dạng sinh học cao. Một dải rộng các thảm thực vật bao gồm nhiều kiểu rừng phong phú đã được hình thành ở các độ cao khác nhau như các rừng thông chiếm ưu thế ở vùng ôn đới và cận nhiệt đới, rừng hỗn loại lá kim và lá rộng, rừng khô cây họ Dầu ở các tỉnh vùng cao, rừng họ Dầu địa hình thấp rừng ngập mặn cây Đước chiếm ưu thế ở ven biển châu thô sông Cửu Long và sông Hồng rừng Tràm ở đồng bằng Nam bộ và rừng hỗn loại tre nứa ở nhiều nơi. Mặc dù có những tổn thất quan trọng về diện tích rừng trong một thời kỳ kéo dài nhiều thế kỷ, hệ thực vật rừng Việt Nam vẫn còn phong phú về chủng loại. Cho đến nay đã thống kê được 10.484 loài thực vật bậc cao có mạch. khoảng 800 loài rêu và 600 loài nấm. Theo dự đoán của các nha thực vật học số loài thực vật bậc cao có mạch ít nhất sẽ lên đến 12.000 loài, trong đó có khoảng 2.300 loài đã được nhân dân dùng làm nguồn lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thức ăn cho gia súc, lấy gỗ, tinh dầu và nhiều nguyên vật liệu khác. Chắc chắn rằng hệ thực vật Việt Nam còn nhiều loài mà chúng ta chưa biệt công dụng của chúng. Cũng có thể có rất nhiều loài có tiềm năng như một nguồn cung cấp dược liệu hết sức quan trọng. Hệ thực vật Việt Nam có mức độ đặc hữu cao. Tuy rằng hệ thực vật Việt Nam không có các họ đặc hữu và chỉ có khoảng 3% số chi là đặc hữu (như các chi Ducampopinus, Colobogyne) nhưng số loài đặc hữu chiếm khoảng 33% số loài thực vật ở miền Bắc Việt Nam và hơn 40% tổng số loài thực vật toàn quốc (Thái Văn Trừng, 1970). Phần lớn số loài đặc hữu này tập trung ở bốn khu vực chính: khu vực núi cao Hoàng Liên Sơn ở phía Bắc, khu vực núi cao Ngọc Linh ở miền Trung, cao nguyên Lâm Viên ở phía Nam và khu vực rừng mưa ở phần Bắc Trung Bộ. Nhiều loài là đặc hữu địa phương chỉ gặp trong một vùng rất hẹp với số cá thể rất thấp. Các loài này thường rất hiếm vì các khu rừng ở đây thường bị chia cắt thành những mảnh nhỏ hay bị khai thác một các mạnh mẽ.
  4. Bên cạnh đó, do đặc điểm cấu trúc, các kiểu rừng nhiệt đới ẩm thường không có loài chiếm ưu thế rõ rệt nên số lượng cá thể của từng loài thường hạn chế và một khi đã bị khai thác, nhất là khai thác không hợp lý thì chúng chóng bị kiệt quệ. Đó là tình trạng hiện nay của một số loài cây gỗ quý như Gõ đỏ ( Afzelia xylocarpa) Gụ mật (Sindora siamensis) nhiều loài cây làm thuốc như Hoàng liên chân gà ( Coptis chinensis), Ba kích (Morinda officinalis) thậm chí có nhiều loài đã trở nên hiếm hay có nguy cơ bị tiêu diệt như Thông nước (Glyptostrobus pensilis), Hoàng đàn (Cupressus terbulosa), Bách xanh (Calocedrus macolepis), Cẩm lai Bà Rịa (Dalbergia bariaensis), Pơmu (Fokiena hodginsii) v.v. Hệ động vật Việt Nam cũng hết sức phong phú. Hiện đã thống kê được 275 loài thú, 828 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài ếch nhái, 472 loài cá nước ngọt, khoảng 2.000 loài cá biển và thêm vào đó có hàng chục ngàn loài động vật không xương sống ở cạn, ở biển và nước ngọt (Đào Văn Tiến, 1985; Võ Quý, 1997; Đặng Huy Huỳnh, 1978). Hệ động vật Việt Nam không những giàu về thành phần loài mà còn có nhiều nét độc đáo, đại diện cho vùng Đông nam á. Cũng như thực vật giới động vật giới Việt Nam có nhiều dạng đặc hữu: hơn 100 loài và phân loài chim và 78 loài và phân loài thú là đặc hữu. Có rất nhiều loài dộng vật có giá trị thực tiễn cao và nhiều loài có ý nghĩa lớn về bảo vệ như: Voi, Tê giác Giava, Bò rừng, Bò tót, Trâu rừng, Bò xám, Nai cà tông, Hổ, Báo, Cu ly, Vượn, Voọc vá, Voọc xám, Voọc mũi hếch, Sếu cổ trụi, Cò quắm cánh xanh, Cò quắm lớn, Ngan cánh trắng, nhiều loài trĩ, cá sấu, trăn, rắn và rùa biển Theo tài liệu (Review of the Protected Areas System in the Indo - Malayan Realm, MacKinnon, MacKinnon, 1986) thì Việt Nam khá giàu về thành phần loài và có mức độ cao về tính đặc hữu so với các nước trong vùng phụ Đông Dương. Trong số 21 loài khỉ có trong vùng phụ này thì ở Việt Nam có 15 loài, trong đó có 7 loài đặc hữu của vùng phụ (Eudeyl 1987). Có 49 loài chim đặc hữu trong vùng phụ, ở Việt Nam có 33 loài trong đó có 10 loài đặc hữu của Việt Nam, so với Miến Điện, Thái Lan, Malaixia, Hải Nam, mỗi nơi chỉ có 2 loài, Lào một loài và Campuchia không có loài đặc hữu nào cả. Khi xem xét về sự phân bố của các loài ở trong vùng phụ Đông Dương nói chung, số loài thú và chim và các hệ sinh thái có ngụy cơ bị tiêu diệt nói riêng và sự phân bố của chúng. Chúng ta có thể nhận rõ rằng Việt Nam là một trong những vùng xứng đáng có ưu tiên cao về vấn đề bảo vệ. Không những thế, hiện nay ở Việt Nam vẫn còn có những phát hiện mới rất lý thú. Chỉ trong hai năm 1992 và 1994 đã phát hiện được ba loài thú lớn, trong đó có hai loài thuộc vùng rừng Hà Tĩnh là loài Sao la (Pseudoryx nghetinhensis) và loài Mang lơn hay còn gọi là Mang bầm (Megamuntiacus vuquangensis), nơi mà trước đây không lâu đã phát hiện loài trĩ cuối cùng trên thế giới, loài Gà lam đuôi trắng hay còn gọi là Gà lừng (Lophura hatinhensis). Ngày 21 tháng 10 năm 1994 một loai thú lớn mới thứ ba là loài (Pseudonovibos spiralis) ở Tây Nguyên, tạm gọi là loài Bò sừng xoắn được công bố và năm 1997 một loài thú lớn mới nữa cho khoa học được mô tả đó là loài Mang Trường Sơn (Caninmuntiacus truongsonensis) tìm thấy lân đầu tiên ở vùng Hiên, thuộc tỉnh Quảng Nam. ở khu vực Vũ Quang trong những năm gần đây phát hiện được thêm một loài cá mới cho khoa học: Opsarichthys vuquangensis. Chúng ta tin rằng ở Việt Nam chắc chắn còn rất nhiều loài động, thực vật chưa được các nhà khoa học biết đến.
  5. Nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có về sinh giới này, có thể đáp ứng những nhu cầu hiện tại và tương lai của nhân dân Việt Nam trong quá trình phát triển, cũng như đã đáp ứng những nhu cầu ấy trong quá khứ. Nguồn tài nguyên thiên nhiên này không những là cơ sở vững chắc của sự tồn tại của nhân dân Việt Nam thuộc nhiều thế hệ đã qua mà còn là cơ sở cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam trong những năm sắp tới. Tuy nhiên thay vì bảo tồn nguồn tài nguyên này, nhân dân Việt Nam dưới danh nghĩa Phát triển kinh tế đang khai thác quá mức và phí phạm nguồn tài nguyên quý giá này. Nhiều loài hiện đã trở nên hiếm một số loài đang có nguy cơ bị diệt vong. Nếu biết sử dụng đúng mức và quản lý tốt nguồn tài nguyên sinh học của Việt nam có thể trở thành nguồn tài nguyên tái tạo rất có giá trị thế nhưng nguồn tài nguyên này đang suy thoái nhanh chóng. Nếu bạn là một con người tâm huyết bạn sẽ nghĩ gì ? Việt Nam Việt Nam được quốc tế công nhận là một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh học cao nhất thế giới, với nhiều kiểu rừng, đầm lầy, sông suối, rạn san hô tạo nên môi trường sống cho khoảng 10% tổng số loài chim và thú hoang dã trên thế giới. Việt Nam được Quỹ Bảo tồn động vật hoang dã (WWF) công nhận có 3 trong hơn 200 vùng sinh thái toàn cầu; Tổ chức bảo tồn chim quốc tế (Birdlife) công nhận là một trong 5 vùng chim đặc hữu; Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) công nhận có 6 trung tâm đa dạng về thực vật. Việt Nam còn là một trong 8 "trung tâm giống gốc" của nhiều loại cây trồng, vật nuôi, trong đó có hàng chục giống gia súc và gia cầm. Đặc biệt các nguồn lúa và khoai, những loài được coi là có nguồn gốc từ Việt Nam, đang là cơ sở cho việc cải tiến các giống lúa và cây lương thực trên thế giới. Hệ sinh thái của Việt Nam rất phong phú, bao gồm 11.458 loài động vật, hơn 21.000 loài thực vật và khoảng 3.000 loài vi sinh vật, trong đó có rất nhiều loài được sử dụng để cung cấp vật liệu di truyền. Trong 30 năm qua, nhiều loài động thực vật được bổ sung vào danh sách các loài của Việt Nam như 5 loài thú mới là sao la, mang lớn, mang Trường Sơn, chà vá chân xám và thỏ vằn Trường Sơn, 3 loài chim mới là khướu vằn đầu đen, khướu Ngọc Linh và khướu Kon Ka Kinh, khoảng 420 loài cá biển và 7 loài thú biển. Nhiều loài mới khác thuộc các lớp bò sát, lưỡng cư và động vật không xương sống cũng đã được mô tả. Về thực vật, tính từ năm 1993 đến năm 2002, các nhà khoa học đã ghi nhận thêm 2 họ, 19 chi và trên 70 loài mới. Tỷ lệ phát hiện loài mới đặc biệt cao ở họ Lan. Để bảo vệ và duy trì hệ sinh thái này, trong những năm qua, Việt Nam đã tăng cường đầu tư cho các chương trình, dự án bảo tồn sinh học. Theo báo cáo môi trường Việt Nam 2005, tổng kinh phí đầu tư cho bảo tồn đa dạng sinh học năm 2005 đạt xấp xỉ 51,8 triệu USD, gấp 10 lần so với một thập kỷ trước.
  6. Pec Mơ Sự kiện tuyệt chủng kỷ Permin-kỷ Trias Kỷ Permi kết thúc với sự kiện tuyệt chủng rộng lớn nhất được ghi lại trong cổ sinh vật học: Sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-kỷ Trias. 90% đến 95% các loài sinh vật biển đã tuyệt chủng, cũng như khoảng 70% loài sinh vật trên cạn. Ở mức độ riêng rẽ, có lẽ tới 99,5% số lượng các loại sinh vật khác nhau đã biến mất do hậu quả của sự kiện này. Ở đây cũng có các chứng cứ đáng kể cho thấy sự ngập lụt rộng khắp gây ra bởi đá bazan nóng chảy từ sự phun trào macma đã gây ra sức ép môi trường và dẫn tới sự tuyệt chủng hàng loạt. Sự suy giảm môi trường sống ven biển và độ khô cằn tăng lên cũng góp phần vào sự kiện này. Một giả thuyết khác cho rằng đó là do sự phun trào khí sulfua hiđrô từ lòng biển cả. Các phần của đại dương bị mất ôxy hòa tan trong nước theo chu kỳ đã cho phép các chủng loại vi khuẩn sống không cần ôxy có thể phát triển mạnh mẽ và tạo ra một lượng lớn khí sulfua hiđrô. Nếu một lượng lớn khí này được tích lũy trong khu vực thiếu ôxy thì nó có thể thoát ra ngoài khí quyển. Các loại khí có tính ôxi hóa trong khí quyển có thể triệt tiêu loại khí độc này nhưng sulfua hiđrô có lẽ đã tiêu thụ hết tất cả khí trong khí quyển có thể chuyển hóa nó. Nồng độ sulfua hiđrô đã tăng lên một cách đáng kể trong vài trăm năm. Mô hình hóa sự kiện như thế đã chỉ ra rằng khí này có thể tiêu hủy ôzon trong các tầng trên của khí quyển, làm cho bức xạ tia cực tím lại tiếp tục giết chết nốt các loài đã sống sót sau sự phun trào khí độc này (Kump và những người khác, 2005). Tất nhiên, còn tồn tại những loài có thể chuyển hóa sulfua hiđrô. Thậm chí người ta còn đưa ra một giả thuyết mang tính suy đoán nhiều hơn là các bức xạ mãnh liệt từ các siêu tân tinh cận kề là nguyên nhân gây ra sự tuyệt chủng này. Trùng ba lá đã phát triển thịnh vượng kể từ kỷ Cambri, cuối cùng đã bị tuyệt chủng trước khi kỷ Permi kết thúc. Năm 2006, một nhóm các nhà khoa học Hoa Kỳ từ Đại học quốc gia Ohio thông báo rằng có chứng cứ cho thấy tồn tại một hố do thiên thạch (hố vùng đất Wilkes) gây ra với đường kính khoảng 500 km tại châu Nam Cực. Hố này nằm ở độ sâu 1,6 km phía dưới lớp băng của khu vực vùng Wilkes ở miền đông châu Nam Cực. Các nhà khoa học đã suy đoán là va chạm mạnh này có thể đã gây ra sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-kỷ Trias, mặc dù niên đại của nó là dao động trong khoảng 100-500 triệu năm trước. Họ cũng suy doán là nó cũng góp phần bằng một cách thức nào đó đối với sự chia tách của Australia ra khỏi khối đất Nam Cực, mà khi đó cả hai đều là các phần của siêu lục địa Gondwana.
  7. GHI NHẬN Số lượng sự tuyệt chủng loài đã được ghi nhận những thế kỷ vừa qua là nhỏ hơn rất nhiều so với sự dự đoán cho những thập kỷ sắp tới . Sự khác biệt này, một phần là do sự gia tăng tốc độ mất nơi cư trú trong những thập kỷ gần đây, một phần cũng do những khó khăn của việc ghi nhận sự tuyệt chủng. Phần lớn các loài vẫn chưa được miêu tả, và nhiều loài có thể đã biến mất trước khi chúng được các nhà khoa học biết đến. Hơn thế nữa, các loài nói chung thường không được công bố bị tuyệt chủng cho đến sau khi chúng được nhìn thấy lần cuối cùng - do đó những tính toán đối với sự tuyệt chủng là chỉ có mức độ. Cuối cùng, một số loài mà quần thể của chúng bị giảm sút do việc mất nơi cư trú dưới ngưỡng cần thiết để suy trì sự sống sót lâu dài có thể vẫn tồn tại trong vài thập kỷ mà không có hy vọng phục hồi khi quần thể của chúng bị suy thoái, chúng được gọi là "living dead". Sự tuyệt chủng, đặc biệt các quần thể riêng biệt, là quá nhiều . Năm 1990, rái cá đã biến mất ở Hà Lan, và đến 1991 nước Anh đã công bố loài dơi tai chuột bị tuyệt chủng. Tại đông Thái Bình Dương, nhiệt độ nước biển nâng cao trong những năm 1980 đã dẫn đến sự tuyệt chủng của một loài san hô thuỷ tức. Trong thập kỷ qua, ít nhất 34 loài thực vật và động vật có xương sống hoặc các quần thể độc lập của chúng đã bị tuyệt chủng ở Mỹ trong khi đang chờ sự bảo vệ của chính phủ. Trên toàn thế giới, trên 700 sự tuyệt chủng động vật có xương sống, không xương sống và thực vật có mạch đã được ghi nhận từ năm 1600. Còn bao nhiêu loài đã bị tuyệt chủng nữa bị bỏ qua ? Việc mất nơi cư trú không chỉ làm gia tăng sự tuyệt chủng loài, mà còn cho thấy sự suy giảm đa dạng sinh học nơi đó. Ở nhiều nước, chỉ còn tương đối ít các thảm thực vật tự nhiên chưa bị bàn tay con người đặt tới . Tại Bangladesh, chỉ có 6% thảm thực vật nguyên thuỷ còn tồn tại . Các cánh rừng xung quang Địa Trung Hải đã từng có diện tích gấp 10 lần diện tích hiện nay, và ở Hà Lan, Anh chỉ còn ít hơn 4% vùng đầm lầy đất thấp là chưa bị phá huỷ. Suy giảm đa dạng di truyền Suy giảm loài và hệ sinh thái đều đe doạ nghiêm trọng đến đa dạng di truyền. Trên toàn thế giới, có khoảng 492 quần thể các loài cây khác biệt về di truyền (bao gồm cả những loài trọn vẹn) đang bị đe doạ. Ở đông bắc Mỹ, 159 quần thể cá đại dương di cư khác biệt về di truyền đang ở các mức đe doạ tuyệt chủng cao hoặc vừa phải, nếu không muốn nói chúng đã rơi vào lãng quên. Suy giảm đa dạng sinh truyền có thể đẩy nông nghiệp vào tình trạng nguy hiểm. Rất khó có thể nói bao nhiêu cơ sở di truyền đã bị suy giảm, nhưng từ những năm 1950, việc phổ cập các giống ngô, lúa mì, lúa gạo và các giống cây trồng khác trong "cách mạng xanh" hiện đại đã thực sự gây sức ép đối với các giống cây trồng bản địa . Các giống hiện đại được chấp nhận trên 40% các đồng lúa châu á trong 15 năm mà chúng được đưa ra, và ở Philippin, Indonesia và một số nước khác, hơn 80% người nông dân hiện nay đã trồng các giống mới . Tại Indonesia, 1500 giống lúa gạo địa phương đã bị tuyệt chủng từ 15 năm trước. Một điều tra hiện nay ở các vùng của Kenya về giống cà phê hoang dã đã cho
  8. thấy rằng các cây cà phê ở hai vùng đã biến mất, ba vùng đang bị đe doạ nghiêm trọng, và sáu vùng khác có thể bị đe doạ. Chỉ có hai vùng là được an toàn. ảnh hưởng của suy giảm đa dạng di truyền như vậy thường được ghi nhận ngay lập tức. Năm 1991, sự giống nhau về di truyền của các cây cam Braxin đã gây ra sự bùng nổ tồi tệ nhất của bệnh thối mục thân cây đã được ghi nhận ở nước này . Năm 1970, các nông dân Mỹ đã mất khoảng 1 tỷ đô la cho một dịch bệnh lan truyền ở các giống ngô nhạy cảm và đồng nhất về di truyền. Cũng tương tự như vậy, sự khan hiếm khoai tây Irish năm 1846, sự mất mùa của lúa mì Sô viết trên một vùng rộng lớn năm 1972, và sự bùng nổ bệnh thối mục cây cam ở Florida năm 1984, tất cả đều xuất phát từ việc suy giảm đa dạng di truyền. Tại một số nước như Bangladesh khoảng 62% các giống lúa gạo có nguồn gốc từ một giống cây mẹ duy nhất, Indonesia (74%), và Sri Lanka (75%), những sự bùng nổ bệnh dịch như vật có thể xảy ra bất kỳ thời điểm nào . Ngân hàng gen là giải pháp có thể làm chậm quá trình suy giảm di truyền, nhưng việc khôi phục theo định kỳ hạt giống có chi phí cao và nguy cơ hỏng hóc thiết bị có thể khiến ngân hàng trở nên kém an toàn hơn. Năm 1980, các chuyên gia đã ước tính rằng ở các nước phát triển khoảng 1/2 đến 2/3 các hạt giống được thu thập trong các thập kỷ trước đã bị mất đi . Năm 1991, đại diện của 13 ngân hàng gen quốc gia ở châu Mỹ La tinh đã thống kê được khoảng 5 đến 100% hạt giống ngô đã thu thập từ 1940 đến 1980 đã không còn giá trị. Đa dạng di truyền là tất cả các gen di truyền khác nhau của tất cả các cá thể thực vật, động vật, nấm, và vi sinh vật. Đa dạng di truyền tồn tại trong một loài và giữa các loài khác nhau . Đa dạng di truyền là sự đa dạng về thành phần gen giữa các cá thể trong cùng một loài và giữa các loài khác nhau; là sự đa dạng về gen có thể di truyền được trong một quần thể hoặc giữa các quần thể. Đa dạng di truyền là biểu hiện sự đa dạng của các biến dị có thể di truyền trong một loài, một quần xã hoặc giữa các loài, các quần xã. Xét cho cùng, đa dạng di truyền chính là sự biến dị của sự tổ hợp trình tự của bốn cặp bazơ cơ bản, thành phần của axit nucleic, tạo thành mã di truyền. Một biến dị gen xuất hiện ở một cá thể do đột biến gen hoặc nhiễm sắc thể, ở các sinh vật sinh sản hữu tính có thể được nhân rộng trong quần thể nhờ tái tổ hợp. Người ta ước tính rằng, số lượng các tổ hợp có thể giữa các dạng khác nhau của các trình tự gen ở người cũng như ở ruồi giấm đều lớn hơn số lượng các các nguyên tử trong vũ trụ. Các dạng khác của đa dạng di truyền có thể được xác định tại mọi cấp độ tổ chức, bao gồm cả số lượng DNA trong mỗi tế bào, cũng như số lượng và cấu trúc nhiễm sắc thể. Tập hợp các biến dị gen trong một quần thể giao phối cùng loài có được nhờ chọn lọc. Mức độ sống sót của các biến dị khác nhau dẫn đến tần suất khác nhau của các gen trong tập hợp gen. Điều này cũng tương tự trong tiến hoá của quần thể. Như vậy, tầm quan
  9. trọng của biến dị gen là rất rõ ràng: nó tạo ra sự thay đổi tiến hoá tự nhiên cũng như chọn lọc nhân tạo . Chỉ một phần nhỏ (thường nhỏ hơn 1%) vật chất di truyền của các sinh vật bậc cao là được biểu hiện ra ngoài thành các tính trạng kiểu hình hoặc chức năng của sinh vật; vai trò của những DNA còn lại và tầm quan trọng của các biến di gen của nó vẫn chưa được làm rõ. Ước tính cứ 109 gen khác nhau phân bố trên sinh giới thì có 1 gen không có đóng góp đối với toàn bộ đa dạng di truyền. Đặc biệt, những gen kiểm soát quá trình sinh hóa cơ bản, được duy trì bền vững ở các đơn vị phân loại khác nhau và thường ít có biến dị, mặc dù những biến dị này nếu có sẽ ảnh hưởng nhiều đến tính đa dạng của sinh vật. Đối với các gen duy trì sự tồn tại của các gen khác cũng tương tự như vậy . Hơn nữa, một số lớn các biến dị phân tử trong hệ thống miễn dịch của động vật có vú được quy định bởi một số lượng nhỏ các gen di truyền. Sự tuyệt chủng trong quá khứ Tốc độ tuyệt chủng hàng loạt Tốc độ tuyệt chủng thay đổi nhiều theo lịch sử sự sống của trái đất. Các nhà cổ sinh vật học phân biệt ra năm thời kỳ "tuyệt chủng hàng loạt", các giai đoạn tương đối ngắn (1 triệu đến 10 triệu năm), trong thời kỳ đó một phần lớn các loài của hàng loạt các đơn vị phân loại bị tuyệt chủng. Sự tuyệt chủng hàng loạt quan trọng nhất ước lượng khoảng 77 đến 96% số loài xảy ra vào giai đoạn cuối của kỷ Pecmi (250 triệu năm trước đây). Ngoài những tuyệt chủng hàng loạt này ra, tốc độ tuyệt chủng là không cố định. Ví dụ, từ 250 triệu năm trước, tốc độ tuyệt chủng tương đối cao đã xảy ra 9 lần, giữa các khoảng thời gian từ 26 đến 28 triệu năm. Hai trong số 9 thời kỳ này đã diễn ra sự tuyệt chủng hàng loạt, một vào cuối kỷ Triat, 220 triệu năm trước, và một vào cuối kỷ Creta, 65 triệu năm trước. Đa dạng sinh học toàn cầu gần đạt giá trị cao nhất từ trước tới nay . Ví dụ, đa dạng thực vật, đạt được mức cao nhất kể từ hàng chục nghìn năm trước đây . Cũng tương tự như vậy, đa dạng động vật ở biển đạt đỉnh so với vài triệu năm trước. Loài người góp phần vào sự tuyệt chủng các loài Sự góp phần quan trọng đầu tiên của con người vào tốc độ tuyệt củng toàn cầu xảy ra và khoảng 15.000 đến 25.000 năm trước đây, việc săn bắn một số lượng lớn thú đã gây ra hoặc góp phần vào sự tuyệt chủng quan trọng ở Bắc, Nam Mỹ và Australia . Ba lục địa này đã mất 74 đến 86% giống thú lớn, thú lớn hơn 44 kg, vào thời điểm này . Nguyên nhân của những tuyệt chủng này vẫn là một vấn đề cần bàn luận, thậm chí nếu con người không phải chịu trách nghiệm hoàn toàn, nhưng rõ hàng nghìn năm qua, con người đã gây những biến đổi quan trọng sinh cảnh với rất nhiều những ảnh hưởng được
  10. đối với động, thực vật bản địa . Từ ít nhất 50.000 năm, những vụ cháy có chủ ý đã xảy ra ở các thảo nguyên châu Phi . Cách đây ít nhất 5.000 năm, ở châu Âu, và khoảng 4000 năm ở Bắc Mỹ, việc phá rừng và biến đổi các vùng đất tự nhiên thành các bãi chăn gia súc đã xuất hiện tác động đến cấu trúc các quần xã rừng, tạo cơ hội cho các loài cỏ dại và các loài ăn cỏ như bò rừng Bizon mở rộng phạm vi phân bố và gây ra sự tuyệt chủng của các loài địa phương. ở Trung Mỹ, rừng đã thực sự biến mất trên một diện tích lớn từ trước khi người Tây Ban Nha tới . Quá trình định cư thời tiền sử trên các lục địa của loài người và những sự hội sinh của họ đã ảnh hưởng căn bản đến tính đa dạng của các loài lục địa . Các hoá thạch chứng minh rằng 98 loài chim đặc hữu đã hiện diện ở các đảo Hawaii 400 năm trước công nguyên khi các đảo này lần đầu tiên được người Polynesi định cư. Khoảng 50 loài trong số đó đã bị tuyệt chủng trước khi những người châu Âu bắt đầu có quan hệ vào năm 1778. Phần lớn các chuyên gia đều tin rằng nguyên nhân sự tuyệt chủng này là sự kết hợp giữa việc phá huỷ những vùng rừng rộng nơi đất thấp để canh tác nông nghiệp, gây sự xáo trộn cho việc nhập nội các loài (các loài chuột Polynesi, lợn nhà, chó nhà), săn bắn và ăn thịt. Cũng tương tự như vậy, việc định cư của con người ở New Zealand 1000 năm trước công nguyên, việc nhập nội các loài chó nhà và chuột Polynesi, kết hợp với việc đốt rừng trên diện tích lớn và săn bắn tập trung vào các loài chim lớn, đã dẫn đến sự tuyệt chủng của 13 loài chim Moa (loài chim lớn không biết bay) và 16 loài chim bản địa khác trước khi người châu Âu đặt chân tới . Loài người được cho rằng là nguyên nhân gây ra những sự tuyệt chủng khác do việc định cư ở Madagascar 500 năm trước công nguyên và đảo Chatham 1000 năm trước công nguyên. Sự định cư sớm của con người ở các đảo ngoài đại dương cũng đưa đến sự tuyệt chủng của 1/4 số loài chim đã tồn tại từ vài triệu năm trước đây . Cuộc chiến giữa các loài bản địa và nhập nội Vào thế kỷ 15 và 16, việc phổ cập toàn cầu văn hoá châu Âu cùng với các giống vật nuôi, cây trồng, cỏ dại, các dịch bệnh đã làm gia tăng việc huỷ diệt các loài động, thực vật trên các đảo và gây thêm sự đe doạ đối với các loài trên lục địa . Những thế kỷ sau đó, sự tăng trưởng của du lịch và thương mại xuyên đại dương đã dẫn đến việc lan truyền một số lượng lớn các loài đến các vùng mới trên trái đất và việc định cư của con người tại các đảo vốn không có người ở. Từ năm 1840 đến 1880, hơn 60 loài thực vật đã được đưa vào Australia . Từ 1800 đến 1980, số lượng các loài côn trùng nhập nội và Mỹ tăng từ 36 lên tới 1200 loài . Nhiều sự định cư của người châu Âu đã có tác động quan trọng đối với các loài động, thực vật bản địa .Ở Hawaii, các nhà thám hiểm châu Âu đặt chân đến đã mang theo các loài mèo, hai loài chuột mới, cú lợn, cầy ấn Độ nhỏ, và một số dịch bệnh của chim. Hai thế kỷ tiếp theo, sự phá huỷ nơi cư trú, dịch bệnh và việc săn bắn đã gây ra sự biến mất của 17 loài chim bản địa, làm suy giảm 31% tính đa dạng của khu hệ chim bản địa được
  11. xác định vào năm 400 trước công nguyên; nhiều loài giờ đang đứng ven bờ của sự tuyệt chủng. Những người châu Âu đầu tiên đặt chân đến các đảo Mascarene không có người ở (Mauritius, Reunion và Rodrigues) vào đầu những năm 1500 đã đưa đến những đảo này lợn và khỉ. Vào giữa những năm 1600, người Hà Lan định cư trên các đảo, và trong 300 năm tiếp theo, 20 loài chim, gồm cả chim Dodo, và 8 loài bò sát đã biến mất. Tính nhạy cảm của các loài bản địa trên đảo được minh hoạ bởi sự huỷ diệt của chim hồng tước Stephen Island không biết bay, loài này đã bị con mèo duy nhất của người trông hải đăng ở một hòn đảo nhỏ ngoài khơi New Zealand săn đuổi đến tuyệt chủng Các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp Sự suy giảm đa dạng sinh học hiện nay có cả các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp. Các nguyên nhân trực tiếp bao gồm sự phá vỡ và mất nơi cư trú, sự xâm lấn của các sinh vật nhập nội, sự khai thác quá mức các nguồn tài nguyên sống, sự ô nhiễm, sự biến đổi khí hậu toàn cầu và các hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, lâm nghiệp. Nhưng đây không phải là bản chất của vấn đề. Kiệt quệ sự sống là một kết quả không thể tránh khỏi của các cách mà loài người đã và đang lạm dụng môi trường trong quá trình gia tăng sự thống trị của mình. Khi con người nhận thức được sự phá huỷ của mình và sự phát triển không bền vững đang ngày càng tác động đến cuộc sống và tương lai của con người, thì việc nghiên cứu các hướng giải quyết sẽ phải tập trung vào chính loài người . Bản chất của sự khủng hoảng đa dạng sinh học là không nằm ngoài các khu rừng hay các thảo nguyên, mà gắn liền với cách mà chúng ta sống. Đó là sự gia tăng dân số loài người, là cách mà loài người ngày càng mở rộng nơi cư trú sinh thái của mình và sử dụng ngày càng nhiều năng suất sinh học của trái đất, là sự tiêu thụ không hợp lý và quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên, liên tục giảm số lượng các sản phẩm thương mại có nguồn gốc từ nông nghiệp và ngư nghiệp, các hệ thống kinh tế thiếu sự định giá thích hợp cho môi trường, các cấu trúc xã hội không hợp lý, và những yếu kém trong hệ thống pháp lý và nhà nước. Đa dạng sinh học là một nguồn tài nguyên quan trọng cho phát triển bền vững, việc tìm kiếm những phương thức sống bền vững là rất cần thiết nếu muốn đa dạng sinh học được bảo tồn. Các nguyên nhân suy giảm đa dạng sinh học Loài có thể bị tiêu diệt do một loạt các ảnh hưởng và tác động của con người . Có thể chia thành 2 loại chính: trực tiếp (săn bắn, hái lượm, thuần hoá) và gián tiếp (phá huỷ và biến đổi nơi cư trú). Săn bắn quá mức là một trong những nguyên nhân trực tiếp rõ ràng nhất gây nên sự tuyệt chủng của nhiều loài động vật, và ảnh hưởng đến một số loài thú lớn, nổi tiếng. Tuy nhiên, trong toàn bộ sự suy giảm đa dạng sinh học, chắc chắn nguyên nhân này không quan trọng bằng các nguyên nhân gián tiếp như phá huỷ và biến đổi nơi cư trú. Săn bắn
  12. chỉ ảnh hưởng chọn lọc đối với các loài đã hoặc đang là những nguồn tài nguyên có thể thu hoạch được, điều này rất quan trọng đối với quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Đa dạng di truyền, biểu hiện bởi sự khác biệt về gen di truyền giữa các quần thể riêng biệt của một loài hoang dã, có thể bị giảm sút do việc loài cùng chịu tác động của những nhân tố giống nhau . Đa dạng di truyền, biểu hiện qua các quần thể vật nuôi, cây trồng, có thể bị giảm sút do việc tạo ra một số lượng lớn; với mức độ đồng nhất cao . Hầu như bất kỳ dạng hoạt động nào của con người cũng gây biến đổi môi trường tự nhiên. Sự biến đổi này sẽ tác động đến sự phong phú tương đối của loài và trong nhiều trường hợp đặc biệt sẽ dẫn đến sự tuyệt diệt. Kết quả này cũng có thể do nơi cư trú trở nên không thích hợp đối với loài (ví dụ, chặt sạch cây rừng hoặc ô nhiễm nước sông), hoặc do nơi cư trú bị phá vỡ. Ngoài ra còn có ảnh hưởng của sự chia cắt các quần thể loài liền kề trước đây thành các quần thể con nhỏ hơn. Nếu những quần thể này đủ nhỏ, cùng với sự thay đổi các tiến trình, sẽ đưa đến việc gia tăng xác suất tuyệt diệt trong một thời gian tương đối ngắn. Một số nguyên nhân chính Sự suy giảm đa dạng sinh học là một vấn đề đang được các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách rất quan tâm. Các loài đang bị tuyệt chủng với tốc độ nhanh nhất được biết đến trong lịch sử địa chất và phần lớn những tuyệt chủng này là do các hoạt động của con người . Mất và phá huỷ nơi cư trú: thường là kết quả trực tiếp do các hoạt động của con người và sự tăng trưởng dân số, là nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm loài, quần thể và hệ sinh thái Sự thay đổi trong thành phần hệ sinh thái: chẳng hạn như mất hoặc suy giảm của một loài có thể dẫn đến sự suy giảm đa dạng sinh học. Ví dụ, nỗ lực loại trừ chó sói châu Mỹ ở miền nam California dẫn đến viêck giảm sút các quần thể chim hót trong vùng. Khi quần thể chó sói châu Mỹ giảm sút, quần thể con mồi của chúng, gấu trúc Mỹ, sẽ tăng lên. Do gấu trúc Mỹ ăn trứng chim, nên khi số lượng chó sói ít hơn thì số lượng gấu trúc ăn trứng chim lại nhiều lên, kết quả là số lượng chim hót sẽ ít đi . Sự nhập nội các loài ngoại lai: có thể phá vỡ toàn bộ hệ sinh thái và ảnh hưởng đến các quần thể động vật hoặc thực vật bản địa . Những kẻ xâm chiếm này có thể ảnh hưởng bất lợi cho các loài bản địa do quá trình sử dụng các loài bản địa làm thức ăn, làm nhiễm độc chúng, cạnh tranh với chúng hoặc giao phối với chúng. Khai thác quá mức (săn bắn quá mức, đánh cá quá mức, hoặc thu hoạch quá mức) một loài hoặc một quần thể có thể dẫn tới sự suy giảm của loài hoặc quần thể đó. Gia tăng dân số: Đe dọa lớn nhất đối với đa dạng sinh học là số lượng và tốc độ gia tăng dân số của loài người . Ngày lại ngày, ngày càng nhiều nhiều đòi hỏi ngày càng nhiều
  13. không gian sống, tiêu thụ ngày càng nhiều tài nguyên và tạo ra ngày càng nhiều chất thải trong khi dân số thế giới liên tục gia tăng với tốc độ đáng báo động. Ô nhiễm do con người gây ra có thể ảnh hưởng đến mọi cấp độ của đa dạng sinh học. Biến đổi khí hậu toàn cầu có thể làm thay đổi các điều kiện môi trường. Các loài và các quần thể có thể bị suy giảm nều chúng không thể thích nghi được với những điều kiện mới hoặc sự di cư. Gia tăng dân số Đe dọa lớn nhất đối với đa dạng sinh học là số lượng và tốc độ gia tăng dân số của loài người . Ngày lại ngày, ngày càng nhiều người, đòi hỏi ngày càng nhiều không gian sống, tiêu thụ ngày càng nhiều tài nguyên và tạo ra ngày càng nhiều chất thải trong khi dân số thế giới liên tục gia tăng với tốc độ đáng báo động. Sự gia tăng dân số loài người sẽ làm giảm đa dạng sinh học theo các hướng sau: Gây biến đổi nơi cư trú do sự phát triển nông nghiệp, đô thị, công nghiệp, và khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Gây ô nhiễm đất, nước, và không khí Khai thác quá mức các nguồn tài nguyên làm giảm cả về kích cỡ và đa dạng di truyền của các quần thể loài thương mại, chẳng hạn như cá. Nhập nội các loài ngoại lai làm phá huỷe các nguồn tài nguyên đất, nước và đôi khi còn đem đến cả những dịch bệnh cùng với những loài này . Ngoài ra, chúng có thể cạnh tranh với những loài động, thực vật bản địa về thức ăn và nơi cư trú. Một số loài động vật, như mèo và cáo, còn trực tiếp tiêu diệt các loài bản địa . Gây ra sự ấm toàn cầu do tăng phát thải lượng cacbon dioxit và các khí khác vào khí quyển, chúng làm biến đổi các hệ sinh thái tự nhiên ở mọi nơi . Một trong các nguyên nhân của việc tăng mức cacbon dioxit là do đốt các nhiên liệu có nguồn gốc cacbon như than, dầu và gas. Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đối với đa dạng sinh học Có rất nhiều tài liệu về sự hiện diện và ảnh hưởng của các chất gây ô nhiễm trong môi trường, nhưng rất ít nói đến ảnh hưởng của chúng đối với đa dạng sinh học, ngoại trừ một vài nhóm chất gây ô nhiễm. Để giúp cho các nghiên cứu trong tương lai và cho việc
  14. hoạch định chính sách, một khung phân loại các hợp chất nguy hại theo mức độ tác động tương đối của chúng đối với đa dạng sinh học đã được đề xuất. Khung này dựa cơ sở trên hệ thống phân loại đất đã có của Canada, cùng với các ảnh hưởng nguy cấp và bất lợi tại các vùng sinh thái . ảnh hưởng đối với đa dạng sinh học được sắp xếp theo 3 cấp độ đa dạng sinh học - di truyền, quần thể và hệ sinh thái . Những đặc tính quan trọng ảnh hưởng đến tác động của một chất gây ô nhiễm tại một vùng sinh thái là tính chọn lọc, phạm vi phát tán và tính bền của nó. Các tác động về mặt di truyền của các chất gây ô nhiễm là khó đánh giá nhất, bởi lẽ có rất ít những nghiên cứu về các ảnh hưởng này trong các quần thể tự nhiên. Thuốc trừ sâu rõ ràng tạo ra những biến đổi về gen di truyền, chẳng hạn như sự xuất hiện của các giống thực vật và động vật có tính đề kháng. Sự phát triển của tính đề kháng này có thể phải trả giá bằng sự suy giảm tính đa dạng, do làm giảm khả năng đề kháng của sinh vật đối với các tác nhân khác. Đối với các tác động của các chất gây ô nhiễm lên quần thể, điểm khó là phân biệt chúng với các thay đổi bất thường tự nhiên. Ngoại trừ với một vài loài chim và thú, có rất ít những hiểu biết để có thể phân biệt được giữa hai biến đổi trên. Ảnh hưởng đối với hệ sinh thái của các chất gây ô nhiễm là sự thay đổi hướng phát triển của hệ sinh thái khác với hướng phải theo . Một minh hoạ cho việc sắp xếp các nhóm chất gây ô nhiễm theo ảnh hưởng của chúng đối với đa dạng sinh học: hydrocacbon (đặc biệt là dầu thô), chất hữu cơ bị halogen hoá (thuốc trừ sâu và các chất khác như các hợp chất PCB), nuclit phóng xạ, chất axit lắng đọng, kim loại, chất dinh dưỡng, thuốc trừ sâu phi clo hữu cơ. Trong số này, chất axit lắng đọng và chất dinh dưỡng được xếp vào loại đe doạ nguy hiểm nhất đối với mức vùng sinh thái . Sự biến đối khí hậu Thực vật và động vật rất nhạy cảm với thời tiết. Khi thời tiết biến đổi, các loài không thể sống sót được ở một số vùng và sẽ di cư đến các vùng mới . Nếu không có vị trí nào thích hợp, loài sẽ bị tuyệt chủng khi không thể thích nghi kịp. Khí hậu trong quá khứ đã có những thay đổi rất đột ngột. Những phản ứng của các quần xã sinh vật trước những biến đổi này đã được tìm hiểu qua việc phân tích các vòng tuổi
  15. cây, lõi băng, các trầm tích của phấn hoa, than chì, động vật không xương sống và các nguyên tố hoá học. Một số các biến đổi thời tiết bất ngờ, xảy ra trong một vài thập kỷ hoặc thế kỷ, một số trong đó có liên quan đến những thời kỳ có sự tuyệt chủng hàng loạt. Những sự chuyển dịch quan trọng về ranh giới giữa các rừng lãnh nguyên và rừng phương bắc, giữa vùng rừng và vùng đồng cỏ, giữa vùng Hồ Lớn - rừng St. Lawrence và vùng rừng phương bắc đã xảy ra từ thời kỳ băng hà trước đây . Những sự chuyển dịch này tương ứng với những biến đổi khí hậu và có thể được coi là sự biểu hiện của các trường hợp biến đổi khí hậu toàn cầu . Lửa là một sự xáo trộn có liên quan đến khí hậu, gây ra những biến đổi chính đối với các khu rừng ở phía bắc. Những trận cháy là công cụ để tạo nên hình dạng của thảm thực vật của vùng Quebec ở phía bắc, và những trận cháy này cũng có phần lớn nguyên nhân do khí hậu . Khí hậu hiện nay, cùng sự thất thường và khắc nghiệt của nó, hiển nhiên có những ảnh hưởng đối với các hệ sinh thái . Ví dụ, mùa hè năm 1988, được chứng minh là một trong những trận hạn hán tồi tệ nhất trong lịch sử, đặc biệt ở các thảo nguyên của Canada, và số lượng chim nước đã giảm rất nhiều trong suốt thời kỳ khô hạn của những năm 1980. Gần đây, sự phóng xạ của các tia tử ngoại tăng lên do những biến đổi của tầng ô zôn trong tầng bình lưu đã được phát hiện, và đã có những chứng cứ ban đầu về gây tổn hại đối với mùa màng nông nghiệp, đối với thực vật, động vật ở các vùng đất ngập nước, các ao nông và các môi trường biển gần bờ. Các nhà khoa học đã có những thống nhất chung về việc khí hậu toàn cầu sẽ ấm lên bởi sự tăng lên về nồng độ của các khí "nhà kính", như cacbon dioxit, metan, là kết quả các hoạt động của con người . Xu hướng ấm lên của khí hậu trong tương lai này làm gia tăng sự nghi ngờ về tính ổn định của nhiều quần xã sinh vật ở Canada và các hoạt động quản lý được tiến hành trong phạm vi tính biến thiên khí hậu hiện nay . Các nghiên cứu trước mắt về các ảnh hưởng có thể của sự biến đổi khí hậu đối với các hệ sinh thái Canada đã đưa đến 2 kết luận chính. Thứ nhất, tốc độ dự đoán của quá trình ấm lên toàn cầu là tương đối nhanh, có thể so sánh với thời kỳ địa chất trước đây, kết quả gây thiệt hại trong phạm vi lớn đối các quần xã thực vật sinh trưởng chậm, không thể thích nghi trong cùng một khoảng thời gian. Ví dụ, vùng rừng phương bắc có thể mất đi một triệu cây số vuông. Thứ hai, cùng với sự ấm lên toàn cầu sẽ đưa đến sự thay đổi, thường là tăng, về tần số xuất hiện của những xáo trộn do khí hậu khắc nghiệt chẳng hạn như cháy, côn trùng, bệnh tật, hạn hán và sương giá. Các trường hợp này được cho rằng quan trọng hơn những biến đổi nhiệt độ trung bình toàn cầu trong những ảnh hưởng kết hợp đối với đa dạng sinh học. Thay đổi khí hậu còn là phương tiện của sự phát tán các chất gây ô nhiễm. Sự ô nhiễm không khí một mình hoặc kết hợp với sự biến đổi khí hậu có khả năng gây ra những ảnh hưởng bất lợi cho đa dạng sinh học ở mọi cấp độ. Các ảnh hưởng này, không giống sự phá huỷ nơi cư trú, khó phát hiện, có mối tương quan với nhau và khó đánh giá. Axit lắng đọng là chất ô nhiễm không khí gây ra những biến đổi lớn nhất ở phạm vi rộng đối với đa
  16. dạng sinh học ở Canada . Những ảnh hưởng đối với đa dạng sinh học của những chất ô nhiễm không khí khác như ôzôn, nitrogen oxit, hợp chất hữu cơ dễ bay hơi, các hoá chất độc hại thường ít được biết đến. 4. Những hành động toàn diện để bảo tồn đa dạng sinh học 4.1 Xây dựng ngân hàng gen quốc gia Công nghệ hiện nay cho phép bảo quản các loại hạt, mô của các loài cây, trừng, noãn và tinh trùng động vật ở nhiệt độ dưới 0 trong nhiều năm hoặc trong một vài trường hợp nhất định. Đây sẽ là sự lường trước sáng suốt thêm một khả năng thứ ba cho công tác bảo tồn và tạo nên ngân hàng gen cho các loài đặc sản hiếm. Có một số nhu cầu rõ ràng là phải xác định một cơ quan có thẩm quyền nắm vai trò lãnh đạo trong lĩnh vực này, xây dựng một chiến lược bảo tồn ngân hàng gen quốc gia, chi phí hoạt động của chương trình và khuyến khích và theo dõi sự thực hiện một chiến lược như thế. Hoạt động này được mô tả trong dự án C1. Chương trình phải phối hợp chặt chẽ với những nỗ lực để tiến hành gây nuôi các loài hiếm, và không cần chuyển những nguồn tài nguyên từ những cố gắng bảo tồn nội vi . MOSTE đã có một cơ quan điều phối để bảo vệ tài nguyên gen di truyền. Một cơ quan tương tự cần có cho tài guyên động vật. 4.2 Bảo quản tính đa dạng sinh học trong nông nghiệp Gia súc, hoa quả, rau và màu đã được xây dựng hàng trăm năm nay ở mọi miền của Việt Nam. Mỗi loài có một đặc thù riêng và ưu điểm riêng. Một số loài đã thích nghi với cuộc sống lạnh, khô, cao, đầm lầy hoặc các điều kiện địa phương đặc biệt khác, có một số loài rất cứng, một số loài khác sinh sản hoặc phát triển rất nhanh, một số loài vẫn còn trụ lại được đối với những loài sâu bệnh đặc biệt của địa phương, một số loài được chọn để đáp ứng những khẩu vị riêng. Nhìn chung, những loài đa dạng này là kết quả của kinh nghiệm chọn lựa trong ba nghìn năm thuần hoá ở Việt Nam. Chúng là những thành phần của đa dạng sinh học rất quan trọng đối với con người Việt Nam. Chúng rất quan trọng đối với sự tồn tại của loài người do cả đóng góp trực tiếp là lương thực, quần áo và nhiên liệu cũng như gián tiếp đóng góp vào nông nghiệp ổn định bằng việc sản xuất phân hoá học, kiểm soát bãi chăn thả và giúp cải tạo đất. Tuy nhiên, rất nhiều giống đang gặp nguy hiểm vì đang bị mất đi . Giống lợn bụng lang nổi tiếng của Việt Nam nay có vẻ thấy nhiều ở Anh và California hơn là ở trong những gia đình nông dân Việt Nam. Để đáp ứng các nhu cầu bảo tồn những giống tăng gia truyền thống, được nhận biết ở Việt Nam. Những hoạt động nhằm vào duy trì cơ sở nuôi tạo hiện có cho đến khi chúng đóng góp vào đa dạng của các gia súc có thể được đánh giá. Một chính sách quốc gia đang được xây dựng và sẽ dấn đến kết quả là kế hoạch hành động cho chương trình này
  17. cũng đa dạng và in ấn áp phích và tập gấp xác định rõ ràng về những loài này (dự án P2 bao trùm vấn đề này). Các vùng trọng điểm nơi cần phải kiểm soát kinh doanh là cảng Hồ Chí minh, Nha trang và Hải phòng, các sân bay quốc tế, các chợ ở thành phố Hồ Chí Minh, Buôn Ma Thuột và Hà Nội, cửa khẩu biên giới Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai và biên giới Lào và Campuchia (dự án P10). 4.4 Kiểm soát cháy rừng Cần phải có các hoạt động sau đây phòng cháy rừng: Đề ra luật và quy chế bảo vệ rừng; Phát động chiến dịch truyền thông và các chương trình phổ cập; Chương trình canh tác trên đất dốc để giảm du canh (chỉ làm sau khi nghiên cứu văn hoá xã hội kỹ càng); Xây dựng các uỷ ban cấp làng, huyện, tỉnh chống cháy rừng gồm cả đội chữa cháy công cộng và tuần tra vào mùa cháy; Dự báo cháy, trồng rừng hoặc vành đai xanh cản lửa, xây dựng hồ chứa nước, tháp canh lửa; Tiến hành những biện pháp phòng cháy khác nhau như chuyển những vật dễ cháy đi nơi khác, dọn quang hoặc đốt trước những vành đai dễ cháy . Những quy chế cụ thể và đào tạo áp dụng kỹ thuật chữa cháy . Chương trình khá thành công và diện tích rừng bị cháy trong những năm qua ít hơn nhiều những năm trước. BAP không cần đề xuất thêm dự án bổ sung. Mỗi tỉnh cần phải thành lập kế hoạch chống cháy riêng của mình phù hợp với điều kiện và tài nguyên của địa phương. Việc bảo vệ cuộc sống của nhân dân và đội chống cháy phải được ưu tiên và kế hoạch phải có dự phòng để xử lý nhanh những người bị nạn. 4.5 Khôi phục sinh cảnh tự nhiên Trong những khu vực mà sinh cảnh quan trọng đối với bảo tồn đa dạng sinh học bị mất, hay ở nơi nào những mối liên kết sinh kết phải được phục hồi, thì phải thực hiện một chương trình phục hồi sinh cảnh thiên nhiên. Những hành động sau phải được thực hiện: i) Xác định khu vực: Công tác này phải được quyết định bởi việc xem xét về phương diện sinh học và những vấn đề về dân số học như mật độ dân cư, những khu vực dân tộc hay những ranh giới hành chính. Đặc tính của thảm thực vật và khu hệ động vật và khu vực gần diện tích có tầm quan trọng về sinh học hàng đầu bao gồm những khu rừng đặc dụng cũng cần phải được xem xét.
  18. Được đề xuất rằng những mảng tối thiểu cỡ 500 ha được coi là mảng nhỏ đòi hỏi được đầu tư quản lý nhiều hơn. Tuy nhiên giới hạn này có thể thay đổi theo điều kiện thực hiện của địa phương. Để thiết kế việc sử dụng đất trong tương, cần phải có những quyết định theo những tiêu chuẩn sau: a. Điều kiện thảm thực vật. a. Điều kiện thổ nhưỡng: Phải được xác định đặc điểm tốt hay xấu tuỳ thuộc vào đất có bị xuống cấp hay không do đã từng bị làm cho bạc màu . a. Tính dễ tiếp cận khu vực: Mức độ gần của khu vực tiếp cận với những trung tâm dân cư. a. Mức độ tập trung của những diện tích rừng bị phá, xuống cấp hay đất trồng: Nếu mảng tường trên 60% toàn bộ diện tích thì nó sẽ được quản lý sâu về phương diện kinh tế. ii) Đối với từng khu vực quản lý có những hành động thích hợp quyết định bởi: a. Xác định tính chất của những hệ thống đất và xác định tiềm năng sử dụng đất. a. Chọn lựa những đất thích hợp nhất sử dụng những giải pháp tiềm năng khác nhau trên cơ sở những nhân tố và hạn chết về kinh tế, tổ chức và xã hội . Một số phương pháp sử dụng đất hữu hiệu là: Rừng được quản lý Cây lớn ngắn ngày và rừng trồng lâu dài Tổ hợp nông lâm kết hợp Khai thác rừng có quản lý dẫn đến việc hình thành rừng nguyên sinh tự nhiên hoặc bán tự nhiên. Những khu không được xử lý cũng có thể mang lại hiệu quả trong một phương diện, ví dụ bãi cỏ chăn thả gia súc. Tiếp theo việc thiết kế việc sử dụng đất thích hợp, một bản đề xuất và kế hoạch phát triển cần được xây dựng để thực hiện. iii) Những giải pháp quản lý nguyên tắc hiện có là: Không xử lý Sản lượng tăng thông qua việc xử lý việc khai thác rút ngắn chu kỳ không hiệu quả. Sản lượng tăng thông qua phát triển và sử dụng lâm sản ngoài gỗ. Chuyển sang trồng rừng và nông lâm kết hợp.
  19. iv) Sự can thiệp cơ bản của kỹ thuật liên quan đến: Cải thiện đất đã khai thác thông qua những can thiệp về lâm sinh và những biện pháp khác. Phát triển những cây hữu ích trên đất thoái hoá và đất trồng thông qua việc trồng tăng cường và khai thác chọn. Cần phải tiến hành nghiên cứu chọn những loài sẽ túc đẩy việc hình thành thảm thực vật hữu ích (dự án C4). Có vè là phương pháp được thông qua chính là phương pháp quan tâm đến thành công "tự nhiên". Vì vậy cần phải được xem xét việc lựa chọn những loài thích hợp cần được thúc đẩy trước khi xem xét xác định loài cụ thể. Một khi đã xác định loài lựa chọn, những loài địa phương có thể được chọn theo cho có hiệu quả hay vì những giá trị khác do dân địa phương chỉ định. Việc thực hiện những hoạt động phục hổi cần phải: Dân địa phương tham gia và mang lại lợi ích cho họ Những nghĩa vụ nhiều mặt cải thiện đất kết hợp với những quyền lợi chủ đất được khai thác chúng và những đất khác theo thực tiến điều hoà. Tạo điều kiện đóng góp nhiều tài liệu và những đầu tư khác phù hợp với phương thức tốt nhất tạo thuận tiện thiết kế sử dụng đất. 4.6 Chương trình giảm sát đang dạng sinh học Một chương trình kiểm tra đa dạng sinh học cần được quyết định xem có áp dụng những quy chế và phương thức quản lý tiên tiến tác động tích cực đến bảo tồn đa dạng sinh học hay không. Chương trình kiểm tra bao gồm bảy nhân tố chính sau: Giám sát môi trường sống Viện đều tra quy hoạch (FIPI) sẽ tiếp tục giám sát những thay đổi hàng năm về độ che phủ rừng và mật độ rừng trên toàn đất nước bằng phương pháp điều tra viễn thám. Chương trình điều tra viễn thảm này kiểm chứng lại hàng loạt điều tra trên mặt đất của hơn 5000 khu vực điều tra phương vị trên toàn quốc. Để công việc này thành công. Viện điều tra quy hoạch rừng cần phải hợp tác và phối hợp với rất nhiều bộ và cơ quan điều tra các lĩnh vực có liên quan. Giám sát các điều kiện trên mặt đất Mỗi khu bảo tồn chính sẽ tiến hành một chương trình điều tra riêng theo chỉ đạo quốc gia . Một chương trình điều tra rừng trên 5000 khu vực mẫu đang được triển khai và phải được tiếp tục. Loại hình giám sát này vì thế là một bộ phận của những dự án rừng đặc dụng cá thể được trình bày trong BAP trong chương 3.2. Giám sát về các loài chỉ thị
  20. Việc điều tra các loài cụ thể phải được tiếp tục tiến hành về tình trạng và phân bố của các loài chủ yếu và bức xúc. Những điều tra như thế sẽ được phối hợp giữa Bộ Lâm nghiệp và Viện điều tra quy hoạch rừng nhưng sẽ được tiến hành bởi các nhà khoa học. Một danh mục những yếu tố điều tra phải được xây dựng. Giám sát các dữ liệu Một chương trình cần phải được vạch ra cùng với rất nhiều loại thông tin khác nhau và kết quả phân tích dữ liệu cho một cái nhìn sâu vào xu hướng và những chỉ dẫn về quản lý. Vì vậy cần phải xây dựng trung tâm dữ liệu đa dạng sinh học (dự án C 6) đảm bảo duy trì cơ sở dữ liệu về tổng thể các loài, môi trường sống, vị trí gắn với việc lập bản đồ và khả năng của hệ thống thông tin địa lý. Một bộ phận đặc biệt có thể là cơ sở dữ liệu đa dạng sinh học biển như mô tả trong dự án C7. Trung tâm này sẽ bao gồm một mạng lưới gắn những cơ sở hiện có tại Viện Điều tra quy hoạch rừng, Bộ ài chính, Viện sinh thái và tài nguyên sinh học và một văn phòng điều phối mới phải được thành lập trong Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường. Ba dự án quốc tế sẽ là phương tiện giúp đõ xây dựng mạng lưới này - việc đào tạo hệ thống thông tin địa lý trong khuôn khổ dự án GEF; được hỗ trợ thông qua dự án của ngân hàng thế giới xem xét lại hệ thống các khu vực bảo vệ của khu vực IndoưMalayan; và vùng RAS/93/102 với bộ phận chung dữ liệu xuyên biên giới của nó. Giám sát về quản lý Cần phải Giám sát kỹ hơn và đánh giá về hiệu quả quản lý. Mỗi luận chứng kinh tế kỹ thuật phải bao gồm một chương trình phù hợp cho việc Giám sát như thế và xem xét lại quá trình khi nào những thủ tục hành chính được xem xét lại và sửa đổi nếu cần thiết. Trong hầu hết mọi trường hợp, hình thức Giám sát mạnh nhất phải được thiết kế trên cơ sở tuần tra định kỳ và báo cáo chức năng của lực lượng kiểm lâm. Kiểm lâm phải thường xuyên tuần tra khảo sát và các mẫu báo cáo phải được lập để ghi chép lại ba loại thông tin chính - thông tin về điều kiện sống, thông tin về sự phong phú và vị trí của các loài động vật hoang dại và thông tin về mức độ hoạt động của con người . Giám sát về trữ lượng cá Trong khi Ban bảo vệ tài nguyên thuỷ sản tiến hành điều tra về sản lượng đánh bắt cả toàn diện ở quy mô địa phương, thì sẽ có hiệu quả hơn nếu các nhà khoa học cũng tích cực tham gia vào việc điều tra về ngư nghiệp, tập trung vào các loài bị khai thác quá mức hoặc bị suy giảm và tại các khu vực dễ bị thương tổn nơi làm ngư nghiệp rất dễ tác động bất lợi do khai thác quá độ hoặc làm suy giảm môi trường. Điều này phải được gắn với Cơ sở dữ liệu đa dạng sinh học biển được đề xuất xây dựng dự án C7. Giám sát về các thông số vật chất
  21. Cục môi trường quốc gia trong Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường sẽ điều phối một chương trình Giám sát quốc gia để Giám sát về các biểu hiện vật chất của môi trường. Một chương trình như vậy phải gồm: Giám sát khí hậu gồm những dự báo địa cầu, mức độ CO2, khí nhà kính, mưa a xít. Ô nhiễm không khí - bụi và khí. Nước tải phù sa ra sông và vừng nước ven biển. Ô nhiễm nước - kim loại, chất độc, dẫn điện. Các mô hình dòng chảy, mạch nước ngầm. Các phòng ban và tổ chức khác nhau phải tham gia vào việc làm mẫu và thu thập dữ liệu nhưng những thông tin như thế phải được tập hợp lại để phân tích tại trung tâm quy hoạch dữ liệu môi trường trong tương lai Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường. Chương trình này không phải là một bộ phận của BAP, nhưng kiểm soát ô nhiễm được bao trùm trong dự án P4. 4.7 Chương trình nghiên cứu Uỷ Ban khoa học kỹ thuật nhà nước (nay là MOSTE) đã có một số tiến bộ trong việc nghiên cứu về đa dạng sinh học và bảo tồn đa dạng sinh học. Từ năm 1980 đến nay, hai kế hoạch 5 năm đã ưu tiên một số đề tài đa dạng sinh học trong phạm vi các Bộ Lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm, Bộ Hải sản, Bộ Y tế do nhu cầu của những Bộ này về các nguồn tài nguyên sinh học và Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường cũng vậy . Các hệ sinh thái quan trọng đã được nghiên cứu: - hệ sinh thái rừng ngập mặn (Minh hải), hệ sinh thái rừng Khộp, (cao nguyên miền trung), phân loại thảm thực vật, khôi phục tổ chức một số rừng, đặc điểm sinh thái của một số loài cá. Từ năm 1987, một số viện nghiên cứu khoa học đã tham gia vào việc bảo vệ chung và giám sát các hệ sinh thái suốt cả nước. Một hệ sinh thái tự nhiên chưa được nghiên cứu cụ thể là những cảnh quan hệ núi đá vôi của Việt Nam. Dự án C 18 tập trung hệ núi đã vôi tại Kẻ Bàng thuộc tỉnh Quảng Bình. Từ năm 1991, khoa học biển và việc sử dụng tài nguyên biển đã được hai hai viện hải dương học Hải Phòng (HIO) và Nha Trang (IOOC) nghiên cứu . Cũng có những dự án nhỏ hơn cấp tỉnh về những vấn đề sản xuất và sử dụng một số loài cụ thể. Những dự án các khu bảo vệ biển đang được bắt đầu xuất hiện ở quy mô địa phương. Các hoạt động nghiên cứu này do nhà nước và một số tổ chức quốc tế cấp vốn, nhưng vẫn còn thiếu hụt trong nhiều lĩnh vực vì vậy kết quả là nghiên cứu không tập trung vào một số tổ chức tổng thể để áp dụng chung. Các kết quả nghiên cứu như thế phân tán và
  22. thường không được cung cấp cho những nhà quản lý đa dạng sinh học, những người cần tài liệu này . Nghiên cứu tại chỗ chắc chắn sẽ được tiếp tục nhưng ngoài ra ra Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường cùng với Bộ Lâm nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Bộ Hải sản, Bộ Y tế và các tổ chức khoa học và trường đại học khái phải đề ra một kế hoạch nghiên cứu với các đề tài dự án được cho là ưu tiên nhất. Khi thảo BAP, các ưu tiên nghiên cứu được thấy là: Các hệ sinh thái nước và đất liền. Các đặc điểm sinh học động vật biển và động vật rừng. Bảo tồn nguồn gen Nghiên cứu có lựa chọn và sử dụng trong nước một số loài hoang dại có giá trị kinh tế cao . Dân tộc thiểu số Chiến dịch truyền thông thành công. Những vấn đề xã hội Thành công của những dự án vi mô của Việt Nam về mức độ xã hội và kỹ thuật. 4.8 Nhu cầu bảo tồn ngoại vi Giá trị bảo tồn duy nhất của việc duy trì một loài bằng hình thức nuôi nhốt với mục đích của một chương trình gây nuôi ngoại vi là việc thả lại nguồn dự trữ gây nuôi nhốt vào sinh cảnh tự nhiên của loài . Vì vậy, bảo tồn ngoại vi chỉ có thể là một bộ phận của cả một chiến lược bảo tồn, khi mà việc gây nuôi gắn với bảo tồn sinh cảnh tự nhiên. DO chỉ trong môi trường hoang dại, một loài mới có thể tiếp tục phát triển thông qua quá trình chọn lọc tự nhiên, hoàn thành vai trò sinh thái tự nhiên của chúng và duy trì tính thích ứng về gen của chúng. Năm 1992, việc xem xét lại của Hội đồng nghiên cứu quốc gia đã nói rằng một số loài bị đe doạ tuyệt chủng do sự phá huỷ sinh cảnh và thiếu hiểu biết về sinh học cơ sở của chúng, cũng như chi phí (về tiền, năng lực và mối quan tâm thường xuyên của con người) tham gia vào việc duy trì loài ngoài sinh cảnh của chúng, bảo tồn nội vi là thực tế nhất, hiệu quả đáng giá và độc lập với tính rộng lớn của thành viên. Vì thế bảo tồn ngoại vi chỉ nên tiến hành như "khả năng cuối cùng". Trong khi chấp nhận rằng bảo tồn ngoại vi có ích đối với quản lý khủng hoảng, vấn đề nảy sinh là xác định loài nào cần được xem xét ở Việt Nam 7 điểm khởi đầu có thể xem xét nhóm được biết đáp ứng ba tiêu chí: Rằng nhóm có tính đặc hữu hạn chế trong phạm vi dưới 50.000 km2 (như được xác định bởi Terborgh and Winter (1983). Rằng nhóm bị đe doạ nghiêm trọng như được định nghĩa bởi Mace et at. (1993). Rằng bảo tồn nội vi thất bại làm cho quẩn thể suy giảm.
  23. Chương trình nuôi dưỡng Việc lập sổ sinh bạ của các cá thể của các loài hiếm đang nuôi nhốt là rất quan trọng để những giống thích hợp nhất có thể đạt được. Việc này có thể cần nghiên cứu các nguồn DNA để giám sát tính đa dạng gen trong quần thể nuôi nhốt (dự án C9). Cần phải theo những nguyên tắc sau khi thực hiện chương trình nuôi nhốt: Hạn chế nghiêm ngặt bắt vật nuôi từ nguồn hoang dã. Nuôi nhốt chỉ là một phần trong kế hoạch sinh tồn của cả loài . Mục tiêu lâu dài luôn luôn là xây dựng những quy mô quần thể để trả lại cho thiên nhiên. Phải duy trì sổ sinh bạ và các cặp được chọn theo hướng đa dạng tối đa gen của quần thể nuôi nhốt. Quy chế và việc kiểm soát phải được áp dụng để tách bảo tồn ra khỏi các hoạt động thương mại . Chiến lược quốc gia về vườn động vật Các tiêu chuyển vườn thú ở Việt Nam rất tồi . Cũng thiếu bảo vệ những con thú được trưng bày trước quần chúng được giáo dục kém thường đến trêu chọc động vật, dùng que cù ném chúng, ném đồ vật vào chúng và cho chúng ăn những thức ăn nguy hiểm. Mức độ chết ở hai vườn thú ở Việt Nam rất cao và tốc độ sinh sản của bất kỳ các loài là rất chậm. Điều này có nghĩa là vườn thú phải tiếp tục tìm kiếm thêm động vật về nuôi để duy trì bộ sưu tập trưng bày và mạng lưới săn trộm và bán thú hoang. Cả hai vườn thú Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cũng như một số bộ sưu tập làm giảm sút nghiêm trọng một số loài quý hiếm trong nguồn tài nguyên quốc gia và là một mối đe doạ lớn đối với công tác bảo tổn. Chiến lược về vườn thú khẩn thiết phải làm cho vườn thú có sức mạnh tích cực chứ không phải tiêu cực đối với bảo tồn. Chiến lược vườn thú cần phải được ưu tiên nhằm trợ giúp cho vườn thú phần nào tự hỗ trợ được về quỹ động vật của họ. Việc này cần quan tâm cải thiện nhà cửa và chuồng trại và phương tiện gây nuôi sinh sản, các tiêu chuẩn về chăm sóc và các điều kiện cho động vật. Các vườn thú cũng cần phải được khuyến khích nhận vai trò giáo dục quần chúng nhận thức được rằng động vật rất quý, thú vị và đang cần bảo vệ; hơn là chỉ trưng bày như một thực thể của tạo hoá để chơi và trêu chọc. Chiến lược quản lý và phát triển cho vườn thú này ở Việt Nam được mô tả trong dự án C 10. Chiến lược quốc gia về vườn bách thảo
  24. Mục tiêu cơ bản của chiến lược cần phải tiến hành để đảm bảo xây dựng cho các quần thể ngoại vi của tất cả các loài có nguy cơ bị tuyệt chủng ở Việt Nam. Việc soạn thảo Sách đỏ vừa qua các loài thực vật cung cấp những mô tả và phân bố của loài . Để an toàn, các quần thể như thế cần phải tách để nếu xảy ra bão hoặc cháy ở một vườn thì bị huỷ hoại toàn bộ dự trữ của một loài . Một mục tiêu khác cũng cần phải làm là có biện pháp phát triển tốt hơn các loài hiếm như là dùng mô, hom, v.v các phương thức chuyên chở và bảo quản tốt hơn dự trữ và các văn bản quy chế phải được thẻo để các vườn bách thảo trong nước và quốc tế có thể dễ dàng trao đổi nguồn gen. Quy chế về chăn nuôi các loài hoang dại Một số loài hoang dại được nuôi nhằm mục đích thương mại ở quy mô lớn tại Việt Nam. Các ví dụ bao gồm cả khỉ dành cho nghiên cứu y sinh, hươu Sika lấy nhung làm thuốc, chồn lấy tuyến xạ làm thuốc và chất đinh hương, trăn và cá sấu lấy da, ba ba và ếch làm thức ăn. Một số loài đang bị đe doạ bởi bị thu thập để chân nuôi và cần có quy chế để kiểm soát và Giám sát tình hình tốt hơn. Các trại nuôi thường được dùng như tấm bình phong cho việc chào bán những con thú hoang bắt được và dán nhãn là sản phẩm nuôi nhốt. Cần phải thông qua những nguyên tắc chỉ đạo bao gồm: Không được bắt động vật hoang dã về chăn nuôi ngoại trừ có giấy phép của cơ quan lâm nghiệp địa phương. Giấy phép đó không được cấp trừ khi loài đang được quan tâm được coi là "không nguy hiểm" trong thiên nhiên và quần thể hoang phải được Giám sát. Các giấy phép chỉ được cấp cho những đơn vị hoặc cá nhân ngay thẳng, những người này được ghi nhận nuôi thành công và vẫn duy trì các phương tiện để cán bộ lâm nghiệp địa phương kiểm tra công khai và đáp ứng những chuẩn do Bộ Lâm nghiệp đưa ra . Giấy phép sẽ bị thu hồi đối với những đơn vị, cá nhân bị phát hiện vi phạm luật bằng hình thức treo nhầm biển cho vật nuôi (loài hay đã giải thích là sản phẩm vật nuôi nhưng thực chất động vật hoang bắt về), mua hoặc bán động vật không có giấy phép, kinh doanh loài bị cấm. Ngoài ra, cần phải quan tâm để có những chuẩn hợp lý về những phúc lợi của động vật và chấm dứt những bạc đãi đối với động vật. Dự án C12 cho ý kiến hướng dẫn cho những dự án chăn nuôi các loài hoang dại . 4.9 Chương trình giáo dục và truyền thông Chương trình soạn thảo để dùng cho các khoá học cho học sinh tiểu học và trong học và là một phần trong chương trình của các trường đại học và chuyên nghiệp đã được thảo
  25. nhưng vẫn chưa có chỉ đạo về tính bắt buộc hoặc chưa được rộng rãi trong cả nước. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phải có quyết nghị về việc này . Khuyến nghị là cần phải xem xét lại những tác độc và thành công của các khoá hiện tại; để điều chỉnh chúng trên cơ sở này cùng với sự phối hợp những tài liệu mới lấy từ những khoá tương tự thực hiện tại các nước châu á khác (như Ấn Độ v.v ) và cuối cùng phải có tính nghĩa vụ đối với tất cả các trường và viện đào tạo trong cả nước. Cần phải có giáo dục bắt buộc về đang dạng sinh học trong chương trình giáo dục môi trường. Các chiến dịch truyền thông Nâng cao nhận thức cho quần chúng rõ ràng được ưu tiên cao nhưng vẫn chưa được bất cứ tổ chức cụ thể nào thực hiện và chưa có một chương trình hay ngân sách cụ thể nào cho công tác này . Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường phải nắm vai trò lãnh đạo trong việc xây dựng một bộ phận tuyên truyền với chức năng cụ thể về tiến hành tiếp chiến dịch nâng cao nhận thức cho dân ở mọi cấp về vấn đề đa dạng sinh học và môi trường. Một chiến dịch như thế phải sử dụng mọi biện pháp để đến được với dân, báo chí, tranh ảnh thông tin công cộng, đài, vô tiến truyền hình và các sự kiện và phương thức truyền thông đặc biệt. Ngoài ra, chiến dịch phải phối hợp với các hoạt động phổ cập khác như phổ cập lâm nghiệp và chương trình truyền thống về sức khoẻ (sinh đẻ có kế hoạch). UNDP đang hỗ trợ cho việc xây dựng trung tâm tài nguyên để chuẩn bị và thực hiện những chương trình truyền thông BAP sẽ cộng tác cùng những trung tâm này trong việc xây dựng chương trình quốc gia để nâng cao nhận thức theo chuyên đề về đa dạng sinh học (dự án C 14). Một lĩnh vực đặc biệt cần thực hiện công tác truyền thông là đa dạng sinh học biển, và công tác truyền thông này có thể là một dự án riêng (dự án C 16). Ngoài ra, được đề xuất xây dựng 3 trung tâm truyền thông tại ba nơi để dạy những nhà ra quyết định và cán bộ nhà nước về đa dạng sinh học (dự án C 15). 4.10 Vấn đề kinh tế xã hội của chương trình đa dạng sinh học Tất cả các hình thức phát triển vẫn còn đạt được những tác động về kinh tế xã hội . Vấn đề quan trọng là phải xem xét những tác độ nào ảnh hưởng đến chương trình đa dạng sinh học sẽ có trong các điều kiện kinh tế xã hội của đất nước và lường trước những tác động ngược trở lại để có biện pháp khắc phục. Vấn đề cốt yếu của Chương trình đa dạng sinh học là thiết kế để sao mang lại lợi ích lâu dài và lâu bền cho nhân dân Việt Nam nhưng không cần thiết phải đảm bảo về lợi ích cân bằng và có thể thiếu hụt về thu nhập hoặc khả năng thu thập cho một số nhóm người, đặc biệt là trong thời gian ngắn. Khi toàn bộ chương trình thành công sẽ tạo được cơ sở do được dân nông thôn sống gần các sinh cảnh tự nhiên chấp nhận và hỗ trợ, điều này rất quan trọng để đảm bảo rằng những nhóm này sẽ cảm thấy được lợi nhiều hơn là mất. Điều này trở nên trách nhiệm của nhà nước thu thuế của khu vực kinh tế phát triển trong môi trường mới để trả cho
  26. những chi phí về bảo vệ chất lượng môi trường và những lợi ích lâu dài của quốc gia, tuy nhiên những thuế thu như thế có thể không phổ biến. Các cộng đồng nông thôn địa phương quanh các khu vực có dự án bảo tồn sẽ có những lợi ích lâu dài có giá trị như: Cảnh quan hấp dẫn và khí hậu tốt lành Rừng để khai thác củi và các lâm sản khác Nguồn nước sạch và an toàn Quần thể cá phong phú để khai thác Khả năng công ăn việc làm Các ngành công nghiệp phụ (hướng dẫn du lịch, nhà nghỉ, cung ứng thực phẩm, đồ lưu niệm, v.v ) Khả năng bảo quản những truyền thống tốt đẹp. Nhưng họ có thể có những hạn chế khó chịu như kiểm soát săn bắn, hạn chế khai phá đất mới, mất khả năng khai thác gỗ, v.v Vì vậy, điều quan trọng là sử dụng các kiến thức chung làm cho họ tin tưởng và hoan nghênh những lợi ích trên và hiểu rằng cần phải mất những cở thích đó. Hơn nữa, nhà nước cần phải năng động hơn trong việc hỗ trợ dân về hình thức dự án xây dựng vùng đệm để cáng đáng được những thiếu hụt trong thu nhập trước mắt mà những cộng đồng địa phương này có thể phải trả qua . Giúp đỡ vùng đệm như thế rõ ràng phải là một phần trong tổng thể chương trình bảo vệ đa dạng sinh học và phải có những phúc lợi xã hội như trường học được cải thiện, trạm xá, hệ thống thuỷ lợi, giếng nước, điện, giống, dịch vụ thú vệ sinh, giúp bảo vệ mùa màng khỏi động vật hoang dại và đầu tư cho nông lâm nghiệp kết hợp. Thái độ một số Bộ lưỡng lự đầu tư vào bên trong "đất lâm nghiệp" phải được khắc phục. Nhiều đất lâm nghiệp có nhiều dân sống và phải được mở ra để đầu tư kinh tế hỗ trợ xã hội, không thể chỉ bỏ mặc cho vấn đề khó khăn lâm nghiệp. Để giúp dân làn hiểu về khái niệm của đa dạng sinh học và giúp họ xây dựng những hành động bảo tồn thích hợp, BAP đề xuất tổ chức những uỷ ban đa dạng sinh học là sẽ hướng dẫn cho những bước động viên ban đầu . 4.11 Phát triển hợp tác quốc tế Việt Nam đã phải trải qua một thời gian bị cô lập quốc tế và mức hợp tác và hỗ quốc tế đã rất thấp. Tuy nhiên với việc bỏ cấm vận về kinh tế và uy tín Việt Nam tăng lên thu hút thêm nhiều trợ giúp, hợp tác và đầu tư quốc tế. Điều quan trọng là qui mô hợp tác quốc tế sẽ tăng lên trong lĩnh vực môi trường nếu việc bảo vệ môi trường có thể sánh kịp với đà phát triển. Việt Nam sẽ tiếp tục tham gia vào các công ước và thoả thuận quốc tế về đa dạng sinh học, phát triển vườn quốc gia (đất và biển); tăng cường điều tra và bảo tồn vùng biên
  27. giới; và xây dựng một diễn đàn về hợp tác khu vực và các vấn đề đa dạng sinh học (dự án P 10). Một điểu cũng quan trọng nữa là việc tăng mức độ hợp tác quốc tế cần phải được phối hợp nhịp nhàng, và nhà nước phải liên lạc với UNDP để tổ chức những hội đàm thường kỳ và hội đàm tập trung vào chủ đề với các nhà tài trợ đang hoạt động trong lĩnh vực môi trường. Phần lớn những quỹ tín dụng lớn như Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển châu á cũng như các tổ chức đa năng khác như UNDP và những chương trình viện trợ song phương hiện nay đang tiến hành bảo vệ môi trường sâu rộng hơn. Những chương trình của họ cam kết dành nhiều mối quan tâm hơn nữa vào môi trường và trong danh mục dự án của họ có một tỷ lệ cao hơn những dự án bảo vệ môi trường Việt Nam có thể vận dụng xu hướng này để có được sự hợp tác quốc tế nhiều hơn để thực hiện nhiều lĩnh vực của Kế hoạch hành động da dạng sinh học. Một điều cũng sáng suốt đối với Việt Nam đưa Kế hoạch hành động đa dạng sinh học của mình tiếp cận chặt chẽ với rất nhiều chương trình khác đang được xây dựng theo Công ước đa dạng sinh học của Liên hiệp quốc và những chương trình khác của UNDP. Đề cương những dự án ưu tiên Trong thời gian soạn thảo kế hoạch hành động đa dạng sinh học, có hơn 50 đề cương dự án được hoàn thành bao trùm toàn bộ các khía cạnh của kế hoạch. Toàn bộ những phác thảo dự án được nêu trong những trang tiếp theo . Mặc dù nhiều dự án đã được đề xuất và xem xét, chỉ có những nét đặc trưng mang ính khẩn cấp và tính ưu tiên cao mới được liệt kê nên dự án chưa được thảo thành văn kiện đầy đủ. Chương đề cương các dự án bắt đầu bằng một bảng thống kê cho thấy mối quan hệ và giai đoạn thực hiện của toàn bộ động vật đã được thảo . Tiếp theo đó là mô tả tóm tắt cùng với quy mô để cấp vốn. Để dễ dàng so sánh, các dự án được liệt kê cùng các quy mô lớn, vừa và nhỏ: L, dự án lớn trên 10 triệu USD M, dự án vừa từ 1 triệu đến 10 triệu USD S, dự án quy mô nhỏ đến 1 triệu USD Phân hạng dự án Những dự án được chuẩn bị bởi những chương trình chính sách (P), những chương trình quản lý và bảo tồn tại hiện trường (M) và những hành động toàn diện (C). Việc soạn thảo này dựa trên cơ sở những luận cứ giới thiệu từ chương 2 đến chương 4 của văn kiện BAP. Những chương trình chính sách được giới thiệu, như nêu trong Bảng 6 ở những trang sau, bởi những phương thức phân loại rộng:
  28. Công cụ chính sách Tăng cường bảo tồn đa dạng sinh học trong toàn bộ tổ chức và quy chế nhà nước. Sự tham gia và những thành viên tham gia được mở rộng Mở rộng phạm vi cho các tổ cức và nhân dân tham gia vào công tác bảo tồn tính đa dạng sinh học. Những phương thức truyền thống sử dụng những kỹ năng và kiến thức truyền thống trong văn hoá và xã hội Việt Nam. Những vấn đề biển Mở rộng phạm vi bảo tồn tính đa dạng sinh học vượt ra ngoài phạm vi đất liền. Đa dạng sinh học vùng Kết nối những vấn đề đa dạng sinh học quốc gia với những chương trình bảo tồn của những nước láng giềng và khu vực. Việc quản lý và những dự án bảo tồn, xương sống của bảo tồn đa dạn sinh học, được nêu trong năm nhóm có quan hệ qua lại . Bảo tồn và quản lý Cải thiện việc thực hiện ở những khu rừng đặc dụng như một phương pháp cơ bản để duy trì tính đa dạng sinh học. Xây dựng các khu rừng đặc dụng Lấp những chỗ "trống" và mở rộng các khu bảo vệ các hệ sinh thái thông qua việc xây dựng những khu rừng đặc dụng mới . Vùng đệm và những dự án cộng đồng Thu hút các cộng đồng nông thôn tham gia trực tiếp vào bảo tồn đa dạng sinh học thông qua những phương thức tham gia vào việc quản lý những khu rừng đặc dụng và sử dụng các nguồn tài nguyên một cách bền vững. Phục hồi Nuôi dưỡng sự tái tạo tự nhiên của những hệ sinh thái quan trọng. Nhân tố con người Phát triển năng lực cho những người bảo tồn chuyên trách, những ngưởi ra quyết định và quần chúng nhân dân thông qua việc đào tạo, phổ cập và nghiên cứu cơ bản. Những hoạt động toàn diện cũng được đề xuất, thực hiện chương trình bảo tồn đa dạng sinh học rộng lớn đề xuất trong BAP. Những dự án được giới thiệu theo bốn nhóm: Bảo tồn ngoại vi và những phương pháp khoa học Nhìn xa trông rộng là một phương pháp quan trọng để bảo quản các loài và tính đa dạng sinh học bằng kỹ thuật. Những biện pháp truyền thống Thăm dò và kiểm tra những biện pháp truyền thống để duy trì và bảo quản tính đa dạng sinh học về mặt kinh tế. Cơ sở dữ liệu và những giám sát về môi trường sống Một công cụ cơ bản để đánh giá diễn thế của tình trạng đa dạng sinh thái quốc gia . Truyền thông Hỗ trợ bảo tồn đa dạng sinh học thông qua quần chúng đã được giáo dục có nhận thức về môi trường.
  29. IV. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ÐỘNG VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 1. Dân số Dân số nước ta gia tăng quá nhanh với tỉ lệ gia tăng hằng năm là 2,1%, cao hơn mức trung bình toàn thế giới (1,7%). Mỗi năm có thêm 1,5 triệu nhân khẩu. Ðiều này gây một áp lực thực sự to lớn cho vấn đề sản xuất lương thực, tài nguyên và môi trường. Cho nên, nhất thiết phải giảm đà gia tăng dân số để trong vài thập niên tới dân số có thể đạt được mức ổn định. 2. Sản xuất lương thực Trong 50 năm qua, nông nghiệp nước ta phát triển chậm về sản lượng lương thực, năng suất cây trồng và bình quân lương thực tính theo đầu người còn ở khoảng hơn 300 kg, tức còn rất thấp, và là mối đe dọa thường xuyên của mọi người. Cho nên trong thời gian tới, cần gia tăng sản lượng lương thực bằng cách giải phóng sức sản xuất nông nghiệp, khai thác và sử dụng hợp lý tiềm năng đất đai, sức lao động, vốn và kinh nghiệm sản xuất của nông dân. Cần cân nhắc kỷ việc khai khẩn đất mới, phá rừng trồng lúa, sao cho có hiệu quả kinh tế đồng thời bảo vệ môi trường. 3. Trồng rừng và bảo vệ sinh học TOP Trong mấy chục năm qua, rừng và đa dạng sinh học của nước ta bị tàn phá nghiêm trọng. Năm 1943, rừng che phủ 44% tổng diện tích, đến nay chỉ còn 20 đến 28% tức là rất thấp so với mức an toàn sinh thái (bằng hay trên 1/3 tổng diện tích). Hàng năm có từ 160-200 ngàn ha rừng bị mất đi. Rừng bị mất kéo theo sự giảm đa dạng sinh học vốn rất phong phú và đa dạng. Nhiều loài đã và đang bị tuyệt chủng. Trong 4 thập niên qua, có ít nhất là 200 loài chim và 120 loài thú bị diệt vong (Báo cáo của CHXHCNVN, 1992). Biện pháp bảo vệ rừng và đa dạng sinh học là cấp thiết sống còn của đất nước. Chúng ta cần thực hiện các biện pháp trước mắt và lâu dài như sau: - Cấm phá rừng nguyên sinh, rừng đầu nguồn. - Ổn định dân số, giảm nghèo đói cho dân vùng rừng núi và các vùng nông thôn. - Có chính sách giao đất, giao rừng bảo đảm lợi ích nông dân và lợi ích quốc gia - Trồng lại rừng và cây phân tán ở tất cả các nơi.
  30. - Kiểm soát việc săn bắt, buôn bán và tiêu thụ động vật hoang dã. - Cấm các phương tiện đánh bắt có tính cách hủy diệt sự sống (chất độc, bom mìn, điện, lười diệt chủng ). - Củng cố và mở rộng các vườn quốc gia, các khu bảo tồn tài nguyên. 4. Phòng chống ô nhiễm TOP Môi trường nước, không khí và đất đã bị ô nhiễm, có khi đến mức trầm trọng cả ở thành thị lẫn nông thôn. Rác thải, nước thải và khí thải ở các đô thị là vấn đề phức tạp nhất. Ở nông thôn, tập quán ở theo kinh rạch, không đủ điều kiện vệ sinh, lạm dụng phân bón và nông dược làm cho môi trường nông thôn cũng ô nhiễm, đặc biệt là khan hiếm nước sạch. Ðiều đáng nói là nước ta chưa có hệ thống sử lý chất thải, cho nên những thứ dơ bẩn điều vứt trực tiếp ra môi trường. Ðể từng bước cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường cần có các biện pháp sau đây: - Nâng cao dân trí, làm cho mọi người thấy rằng môi trường xung quanh và các công trình công cộng là của chúng ta, chớ không phải của chúng nó. - Các tiêu chuẩn quốc gia và địa phương về chất thải phải được mọi người tuân thủ. Do đó, nhà máy, xí nghiệp phải tự giảm thiếu chất thải bằng qui trình công nghệ và xây dựng hệ thống xử lý chất thải của cơ sở. - Khuyến khích công nghệ sạch (sử dụng phân hữu cơ thay thế một phần phân hóa học, biện pháp quản lý tổng hợp dịch hại (IPM) ở nông thôn; công nghệ ít chất ô nhiễm trong công nghiệp ). - Xây dựng nhà máy xử lý chất thải sinh hoạt. 5. Quản lý và qui hoạch môi trường - Thành lập Bộ Khoa học - Công nghệ - Môi trường và các Sở Khoa học - Công nghệ - Môi trường ở các tỉnh. - Xây dựng chính sách và pháp luật về môi trường. - Ban hành tiêu chuẩn môi trường và cách đánh giá tác đông môi trường. - Xây dựng hệ thống quan trắc (monitoring system) quốc gia. - Ðẩy mạnh nghiên cứu về môi trường nhằm giải quyết các vấn đề cấp bách, đồng thời hướng tới việc phát triển bền vững. - Tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực trong việc bảo vệ và qui hoạch môi trường.
  31. 6. Tăng cường các biện pháp hỗ trợ : giáo dục, đào tạo TOP - Nâng cao dân trí tổng quát và cải thiện điều kiện sống của quần chúng. - Ðưa chương trình giáo dục về môi trường, tình yêu thiên nhiên vào các lớp học chính khóa và ngoại khóa (du khảo, tham quan). - Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng. - Ðào tạo đội ngũ cán bộ có kiến thức cơ bản về khoa học môi trường và có khả năng đề xuất các ý kiến xử lý và bảo vệ môi trường. Tất cả chương trình hành động trên có thể làm cơ sở để chúng ta phát triển, đồng thời sử dụng và bảo vệ tài nguyên và môi trường của mỗi địa phương, quốc gia và góp phần bảo vệ trái đất, cái nôi của sự sống