Một cố gắng diễn giải bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ (Chương trình Ngữ văn 10)

pdf 8 trang ngocly 2140
Bạn đang xem tài liệu "Một cố gắng diễn giải bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ (Chương trình Ngữ văn 10)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfmot_co_gang_dien_giai_bai_hoat_dong_giao_tiep_bang_ngon_ngu.pdf

Nội dung text: Một cố gắng diễn giải bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ (Chương trình Ngữ văn 10)

  1. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 32, Số 3 (2016) 35-42 Một cố gắng diễn giải bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ (Chương trình Ngữ văn 10) Lê Thời Tân, Nguyễn Đức Can* Trường Đại học Giáo dục, ĐHQGHN, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 26 tháng 5 năm 2016 Chỉnh sửa ngày 08 tháng 9 năm 2016; Chấp nhận đăng ngày 26 tháng 9 năm 2016 Tóm tắt: Bài viết là một sự diễn giải cụ thể đối với bài học Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ (Sách giáo khoa Ngữ văn 10). Việc diễn giải này được thực hiện trên cơ sở giả định bản thân người viết đang phải soạn bài và có thể vấp phải các câu hỏi như thế nào từ phía người học. Giả định đó chắc chắn sẽ giúp ích cho việc hiểu sâu hơn bài học này để từ đó tiến hành việc dạy học tốt hơn. Từ khóa: Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, Ngữ văn 10, hệ thống câu hỏi, diễn giải. Bài viết này cơ bản không phải để nhận xét 1. Dẫn liệu đầu tiên của bài học là một câu 1 việc biên soạn bài HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP ca dao. Trình bày của bài học như sau BẰNG NGÔN NGỮ (phần II- LUYỆN TẬP) 1. Phân tích các nhân tố giao tiếp thể hiện [1]. Nêu tiêu đề “Một cố gắng diễn giải”, tác giả trong câu ca dao dưới đây theo câu hỏi. bài viết chỉ muốn đặt mình trong địa vị người Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng: dạy và người học để thực hiện công việc quen - Tre non đủ lá đan sàng nên chăng? gọi là chuẩn bị bài - tức cố gắng đọc hiểu bài a) Nhân vật giao tiếp ở đây là những người học, giả định các câu hỏi có thể có trong giờ như thế nào? (về lứa tuổi, giới tính) học nhằm mục đích giúp ích ít nhiều cho việc b) Hoạt động giao tiếp này diễn ra vào thời dạy học trong thực tế. Trình tự trình bày của bài điểm nào? Thời điểm đó thường viết này từ đầu đến cuối luôn tuân theo định thích hợp với những cuộc trò chuyện như hướng như thế.* thế nào? c) Nhân vật “anh” nói về điều gì? Nhằm Như ta thấy - toàn bộ bài học được biên mục đích gì? soạn theo cách lần lượt nêu dẫn liệu kèm theo d) Cách nói của “anh” có phù hợp với nội các câu hỏi với dụng ý dắt dẫn tiếp cận và diễn dung và mục đích giao tiếp không? giải dẫn liệu theo chủ đích chung của bài học. Vậy ta hãy xem xét lần theo trình tự dẫn dụng Có vẻ như dẫn liệu 1 (và cả dẫn liệu 2) phần dẫn liệu của SGK. II - LUYỆN TẬP này là một sự tiếp tục minh họa thêm cho dẫn liệu 1 đoạn trích “Hội nghị Diên Hồng” ở phần lí thuyết I - THẾ NÀO LÀ ___ ___ * Tác giả lên hệ. ĐT.: 84-912179225 1 Các đoạn trích dẫn bài học SGK đều được đặt trong Email: cannd@vnu.edu.vn khung để phân biệt với lời văn của bài viết này. 35
  2. 36 L.T. Tân, N.Đ. Can / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 32, Số 3 (2016) 35-42 HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN với các bô lão ở Điện Diên Hồng mùa đông NGỮ. Nói cách khác câu ca dao, đoạn đối 1284) là không thể hiện trong văn bản dẫn liệu thoại giữa một em nhỏ tên A Cổ với một ông “Đối thoại Diên Hồng”. Tất nhiên cũng có già, vua nhà Trần với các bô lão đều là những trường hợp câu hỏi cho thấy dường như nhân tố “văn bản” mà SGK dùng làm dẫn liệu minh họa giao tiếp vừa thể hiện trong mà cũng tồn tại bên cho cùng một dạng thức hoạt động giao tiếp nói ngoài “văn bản”. Ví dụ câu hỏi a) dẫn liệu năng của con người trong cuộc sống. Tất nhiên I.2 - Thông qua văn bản đó [bài Tổng quan văn ở đây ta phải chấp nhận giả định (không tránh học Việt Nam], hoạt động giao tiếp diễn ra giữa khỏi việc đơn giản hóa) rằng các “văn bản” các nhân vật giao tiếp nào? (Ai viết? Ai đọc? (thực tế là truyện và ca dao) đó “ghi lại”2 được Đặc điểm của các nhân vật đó về lứa tuổi, vốn những đối thoại chuyện trò hỏi han có thể dẫn sống, trình độ hiểu biết, nghề nghiệp, ?). Dĩ làm ví dụ minh họa cho sự khái quát lí thuyết nhiên nhân tố nhân vật giao tiếp người đọc-học một dạng thức “hoạt động giao tiếp bằng ngôn sinh này là một sự khái quát hóa “lứa học sinh ngữ” mà người biên soạn (NBS) muốn trình lớp 10” đông đảo chứ không phải là một nhóm bày. Để có thể yên nhiên soạn các câu hỏi a), các bô lão, một em bé A Cổ hay một cô gái đêm b), c), d) trên ta cần mặc định: 1) “Câu ca dao” trăng thanh Dù sao “lứa học sinh lớp 10” này dẫn ra đó là một phần của hội thoại hỏi đáp. Ở tuy đông nhưng chắc chắn không đông bằng số đó người hỏi tự xưng là “anh” (ngôi thứ nhất) độc giả bài thơ Hồ Xuân Hương (dẫn liệu 3 chứ không phải là trần thuật của một tác phần LUYỆN TẬP). Và trường hợp dẫn liệu giả - “nhà thơ” dân gian (tính chất trần thuật sẽ giao tiếp Hồ Xuân Hương với người đọc này lại nổi bật lên nếu “anh” được thay bằng “chàng”); cho thấy có lúc có thể nói đến nhân tố giao tiếp 2) Có thể có một giao tiếp nói năng hỏi đáp “thể hiện trong” văn bản nhưng thay vì hỏi về 3 dạng lục bát như thế trong thực tế. nhân vật giao tiếp “em” (bánh trôi ) thì NBS lại Tiếp theo, người dạy cũng phải lường trước hỏi đến nhân vật giao tiếp là tác giả bài thơ - Hồ tình huống học sinh có thể sẽ tập trung sự chú ý Xuân Hương (người mà trong bài thơ khác từng vào cụm từ “thể hiện trong ” và nêu câu hỏi - trực tiếp xưng “chị”!). Và như ta thấy ở trường “Có thể đề cập đến trường hợp các nhân tố giao hợp hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ - “làm tiếp thể hiện ngoài được không?”. Dĩ nhiên thơ” này SGK không đặt các câu hỏi trực tiếp đây chính là lúc người dạy thực sự đối diện với về những nhân tố giao tiếp như hoàn cảnh-nội việc phải giới thuyết vấn đề thế nào là một “văn dung giao tiếp. bản”. Trả lời hay không thì người dạy cũng nên Khi so dẫn liệu II.1 này với dẫn liệu I.1 ta nhớ rằng theo cách hiểu của sách giáo khoa thấy ở I.1, nhân tố giao tiếp thực ra phải được (SGK) nói chung tất cả các dẫn liệu được dẫn “nhận diện” một cách gián tiếp (qua lời của chủ dụng đều là “văn bản”. Theo diễn đạt trong các thể trần thuật, qua nhiều “văn bản” mà người câu hỏi trong bài này ta thấy các nhân tố giao đọc có thể đã biết từ trước (Đại Việt sử kí toàn tiếp có lúc thể hiện trong nhưng cũng có lúc thư, truyện kể lịch sử, sự phổ cập từ “hội nghị” cũng hiện diện “bên ngoài” văn bản. Ví dụ câu hình thành cụm từ “Hội nghị Diên Hồng”, ) hỏi c) dẫn liệu I.1 - Hoạt động giao tiếp trên mà cũng có thể được nhận diện một cách trực diễn ra trong hoàn cảnh nào? (Ở đâu? Vào lúc tiếp từ chính lời của nhân vật giao tiếp (“bệ hạ”, nào? Khi đó ở nước ta có sự kiện lịch sử gì? “thưa ”). Trong lúc ở II.1 văn bản câu ca dao Thực vậy, nhân tố hoàn cảnh giao tiếp (đất chỉ có mỗi lời trực tiếp. Đó có lẽ là nguyên do nước đứng trước cuộc xâm lăng lần thứ hai của quân Nguyên, cuộc gặp mặt giữa vua nhà Trần ___ 3 “Bánh trôi” ở đây cũng như “mận”, “đào” trong cao dao ___ vường hồng có lối chẳng hạn đương nhiên - nói như tinh 2 Hãy nhớ lại cũng từ “ghi lại” này ở câu hỏi cho dẫn liệu thần bài CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ (Ngữ văn 6) là được đối thoại giữa vua nhà Trần với các bô lão: a) Hoạt động nhân hóa chứ không thể giao tiếp bằng ngôn ngữ như giao tiếp được văn bản trên ghi lại diễn ra giữa các nhân “anh” và “nàng” trong dẫn liệu 1 phần II bài HOẠT vật giao tiếp nào?. ĐỘNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ này!
  3. L.T. Tân, N.Đ. Can / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 32, Số 3 (2016) 35-42 37 tại sao mà NBS khi nêu dẫn liệu này lại dùng ra vào thời điểm nào? Thời điểm đó thường cụm từ “các nhân tố giao tiếp thể hiện trong thích hợp với những cuộc trò chuyện như thế câu ca dao”. Gạt qua một bên tâm lí cho rằng nào? quả thực cho thấy NBS muốn xem câu ca những giả định trên đây là quá ư chi li cũng như dao là một trường hợp trò chuyện thực sự. Liên việc có sẵn lòng đối phó với các câu hỏi đó hay quan đến từ “trò chuyện” người dạy cũng nên không, các thầy cô dạy bài này đều thấy chúng dự tính trước về câu trả lời của người được hỏi ta cần tham khảo nhiều hơn lí thuyết về “văn (thiếp xin thưa). Dự tính này sẽ cho ta thấy ở bản” và tăng cường cho mình các tri thức ngữ đây SGK chỉ dẫn có một nửa “bài” ca dao (hoặc dụng học. cũng có thể nói - SGK đã chỉ dùng ½ “văn Tiếp theo ta thấy học sinh cũng có thể tập bản”), tức cũng có nghĩa ở đây chỉ là hỏi còn để trung sự chú ý vào cụm từ “câu ca dao”. Người đợi đáp. Người dạy phải chú ý đến điều này vì dạy đều biết ngay sau bài này là bài VĂN BẢN khung GHI NHỚ đầu bài học có ghi: “Mỗi hoạt khái quát hóa các loại văn bản. Theo SGK, đối động giao tiếp gồm hai quá trình: tạo lập văn thoại nói năng là một HOẠT ĐỘNG GIAO bản (do người nói, người viết thực hiện) và lĩnh TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ gồm hai quá trình hội văn bản (do người nghe, người đọc thực tạo lập và lĩnh hội văn bản và bài học HOẠT hiện). Hai quá trình này diễn ra trong quan hệ ĐỘNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ đã tương tác”. dùng dẫn liệu câu ca dao như là một văn bản đã Bây giờ ta hãy thử giả định một câu trả lời được tạo lập trong giao tiếp. Ở đây học sinh chung cho tất cả các câu a) b) c) liệt ra dưới dẫn cũng có thể nêu câu hỏi “câu ca dao” này là văn liệu câu ca dao này như sau: bản thuộc phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hay “Thưa cô/thầy, Nhân vật giao tiếp ở đây là văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ những người chắc chắn khác giới tính, cả hai có thuật? Và phân loại theo phương thức biểu đạt thể cùng lứa tuổi từ thiếu niên (ngày xưa lấy vợ thì câu ca dao này phải chăng sẽ thuộc loại văn lấy chồng sớm, cá biệt có trường hợp con trai bản biểu cảm? Mặc dù toàn bài học không có ý bé tuổi hơn vợ) đến thanh niên Nhưng cũng trình bày HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP BẰNG không loại trừ trường hợp “anh” ở đây tuổi NGÔN NGỮ theo nhóm-loại và thực tế diễn trung niên thậm chí già, tức “anh” cũng không giải dẫn liệu câu ca dao này của SGK cũng là tre non5. Và Hoạt động giao tiếp này diễn ra không công nhiên xác chỉ đây là hoạt động giao vào thời điểm “đêm trăng thanh”, chồng “ỡm ờ” tiếp ngôn ngữ cụ thể nào nhưng căn cứ vào một với vợ một chút mà cũng có thể là đêm trăng số từ và cụm từ trong các câu hỏi a), b), c) ta có thanh trai gái vừa làm việc chung vừa hát thể đoán định NBS muốn dẫn câu ca dao như là đối - một chàng trai muốn đặt vấn đề yêu một ví dụ cho giao tiếp trò chuyện sinh hoạt. đương- hôn nhân với cô gái. Còn như vấn đề Nếu vậy thì người dạy dù sao cũng phải chuẩn “nói về điều gì” và “nhằm mục đích gì” thì còn bị đối diện với những câu hỏi kiểu trên của học tùy vào việc tưởng tượng bối cảnh và cắt nghĩa 4 sinh . Câu hỏi b)Hoạt động giao tiếp này diễn thích đáng các hình tượng ẩn dụ. Riêng câu hỏi cuối d) Cách nói của “anh” có phù hợp với nội ___ dung và mục đích giao tiếp không? thì chúng 4 Tất nhiên cách giải quyết tiện lợi là “rút” lại dẫn liệu này. Dù vậy câu hỏi cần nêu vẫn là - vậy phải tiếp cận thực liệu này như thế nào cho phù hợp? Khả năng xác đáng nhất là phải quan sát lại “đời sống” thực của câu ca chuyện vợ chồng hay lứa đôi hỏi đáp với nhau bằng dao: được hát ru, được hát đối đáp, được “lẩy” dùng vào “mượn” ca dao. Vậy mà một khi muốn dẫn câu ca dao để trong sinh hoạt nói năng, được đọc hiểu như một tác phẩm minh họa “giao tiếp nói năng” - người dạy cũng có thể vấp văn chương “thơ” “trữ tình” dân gian (sưu biên thành văn phải phản ứng từ học sinh cho rằng - chả có đôi anh ả nào bản trong một tổng tập, thành bài thành câu, in đọc) Nói nói chuyện “văn vẻ” “dở hơi” thế. chung cần nhìn thấy câu ca dao “sinh tồn” trong những 5 Chúng ta sẽ cố tránh câu hỏi “tri thức” thực tế kiểu thế diễn ngôn, dụng ngữ, liên văn bản hết sức phức tạp, Ta nào là tre non đủ lá và có việc đan sàng bằng tre non đủ hoặc sẽ xem đây là câu chuyện sinh hoạt văn hóa dân gian lá hay không (tương tự như chuyên tránh trả lời câu hỏi có (hát đối, lẩy lời ca dao nói chung) hoặc tạm coi đó là việc bầu và bí chung một giàn hay không vậy!).
  4. 38 L.T. Tân, N.Đ. Can / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 32, Số 3 (2016) 35-42 em biết cần trả lời là “có phù hợp”, nhưng thực nói của ông già đều có hình thức của câu hỏi sự chúng em không hiểu là với một nội dung và nhưng không phải đều dùng để hỏi. Cụ thể mục mục đích giao tiếp như thế thì “nói thẳng” ra có đích giao tiếp của câu A Cổ hả? là chào đáp. bị xem là “không phù hợp” hay không?”. Còn câu Lớn tướng rồi nhỉ? là để thực hiện mục Giả định câu trả lời như trên chắc hẳn sẽ đích giao tiếp khác là khen6”. Không biết trả lời khiến cho thực tế cuộc giao tiếp bằng ngôn ngữ như thế có đúng “đáp án” không, nhưng cách giữa thầy cô và học sinh trong tiết học sẽ sinh nói cho rằng chào đáp hay khen là mục đích động lên rất nhiều! giao tiếp có lẽ là không ổn. Ở đây, người dạy cũng phải dự trù trước một số câu hỏi mà học sinh có thể nêu lên. Chẳng hạn: 2. Dẫn liệu đoạn đối thoại hai người. Trình SGK nhắc tới vấn đề “thực hiện bằng ngôn ngữ bày dẫn liệu thứ 2 của bài là như sau những hành động nói cụ thể” - Vậy có thể nêu “hành động viết” như là một đối lập tương đương với “hành động nói” hay không? Nếu 2. Đọc đoạn đối thoại (giữa một em nhỏ A có thì nên quy nạp chúng như thế nào vào Cổ với một ông già) và trả lời trong cái gọi là HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP câu hỏi. BẰNG NGÔN NGỮ? A Cổ sung sướng chào: Vì rằng, một khi đã nêu vấn đề “hành động - Cháu chào ông ạ! nói” thì lẽ tự nhiên cũng khiến cho học sinh đối Ông vui vẻ nói: lập “hành động” thực hiện bằng tay (trong đó - A Cổ hả? Lớn tướng rồi nhỉ? Bố cháu có có “hành động viết”?) với“hành động nói” thực gửi pin đài lên cho ông không? hiện bằng “miệng”. Câu hỏi tiếp theo có thể - Thưa ông có ạ! là - các “hành động nói” vừa nhắc trong dẫn (Bùi Nguyên Thiết, Người du kích trên núi liệu trên có thể được gọi tên cụ thể là hành chè tuyết) động nói chào, hành động nói khen, hành động a) Trong cuộc giao tiếp trên, các nhân vật nói trả lời-đáp, hành động nói hỏi hay không? đã thực hiện bằng ngôn ngữ những Và rốt cuộc thì giao tiếp ngôn ngữ có tổng cộng hành động nói cụ thể nào? Nhằm mục đích bao nhiêu hành động nói cụ thể? gì? (Chọn trong các từ: chào, Việc trả lời rành mạch các câu hỏi đó là chào đáp, hỏi, đáp lời, khen để gọi tên mỗi không dễ, nhưng nếu để tâm phân tích cách dẫn hành động cho phù hợp.) giải tiếp cận dẫn liệu của SGK người dạy ít b) Cả ba câu trong lời nói của ông già đều nhiều đều cảm thấy ở đây các câu hỏi a) b) có hình thức của câu hỏi, nhưng có c)này dường như đã cùng lúc đề cập tới nhiều phải các câu đều dùng để hỏi hay không, bình diện nghiên cứu ngôn ngữ quan hay để thực hiện những mục đích giao tiếp trọng - hành vi tại lời (Speech act Theory) [2], khác? Nêu mục đích giao tiếp của mỗi câu. ngữ dụng học (pragmatics), phân loại câu theo c) Lời nói của các nhân vật bộc lộ tình 7 cảm, thái độ và quan hệ trong giao tiếp mục đích nói năng [3] . Và việc không “tách như thế nào? ___ 6 Quả thực SGK không hiếm chỗ nêu những câu hỏi mà Suy nghĩ đồng thời cả hai câu hỏi a) và b) ta người trả lời càng “bám sát” vào câu chữ lời hỏi thì lại sẽ thấy: ở câu hỏi a) dường như NBS cho rằng càng làm bộc lộ một cách sâu đậm cái cảm giác bất đắc dĩ trong việc soạn bài. Câu trả lời giả định trên đây có thể chào, chào đáp, hỏi, đáp lời, khen là hành động là không ổn nhưng cái cách mà nó cố gắng “đáp thẳng” nói cụ thể. Nhưng sang đến câu hỏi b) các hành vào câu hỏi ít nhiều cũng đã bộc lộ một vẻ “bất khả động nói chào, chào đáp, hỏi, đáp lời, khen này chấp” nào đó. 7 lại cũng được coi là “mục đích giao tiếp”. Thực Ví dụ, câu “Cháu chào ông ạ!” chứa động từ ngữ vi “chào” là một hành vi ngôn trung (Lí thuyết hành vi ngôn tế giáo án soạn bài của giáo viên thường vẫn trả ngữ của J.L.Austin) trong lúc câu Lớn tướng rồi nhỉ? lại lời câu hỏi b) này như sau: “Cả ba câu trong lời được xem là câu chuyện “phân loại câu theo mục đích
  5. L.T. Tân, N.Đ. Can / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 32, Số 3 (2016) 35-42 39 bạch” trong tiếp cận các bình diện này đã khiến NGÔN NGỮ. Nếu ý thức đầy đủ tới những cho người chuẩn bị bài trở nên lúng túng hơn điều như thế ta sẽ thấy suy cho cùng mượn dẫn bao giờ hết. một “đoạn đối thoại” từ một ngôn bản trần thuật Đi vào cụ thể ta thấy - chẳng hạn Lớn tướng như trên rồi nêu yêu cầu tìm hiểu “Lời nói của rồi nhỉ trong “văn bản” thấy dùng dấu hỏi các nhân vật bộc lộ tình cảm, thái độ và quan hệ (hoặc nói như NBS là “có hình thức câu hỏi”). trong giao tiếp như thế nào?” kể cũng là một Nhưng rõ ràng là ta cũng không loại trừ khả chuyện vạn bất đắc dĩ. Ở đây câu chuyện liên năng nó sẽ được xem là một phát ngôn với ngữ quan đến hạn chế tự thân của cách tiếp cận và điệu tán thán (khen). Thực ra, suy cho cũng vì dẫn dụng ngữ liệu (SGK thường vẫn gọi chung đây là một lời “được” thuật dẫn (thuật dẫn “lời là “văn bản”). trực tiếp”) nên thậm chí sau nó cũng có thể không chỉ là dấu hỏi, dấu than mà cũng có thể là dấu chấm lửng biểu thị những sắc điệu nói 3. Tiếp theo ta hãy nói sang dẫn liệu thứ ba tinh tế mà chỉ người trong cuộc mới cảm nhận của bài học. Trình bày của SGK như sau được. Tương tự, Bố cháu có gửi pin đài lên cho ông không dễ dàng được xem là câu hỏi nhưng A Cổ hả được xem là chào đáp mà cũng có thể 3. Đọc bài thơ sau và trả lời câu hỏi. vẫn được xem là câu hỏi thực sự. Và nếu A Cổ BÁNH TRÔI NƯỚC thấy ông già sau bao năm không gặp có ý ngờ Thân em vừa trắng lại vừa tròn, ngợ về cậu thì cậu có thể đáp lời Vâng, đúng Bảy nổi ba chìm với nước non. cháu - thằng A Cổ đây mà! Hoặc có khi - đơn Rắn nát mặc dầu tay kể nặn, giản hơn là chỉ vì ông già mắt kém lại chói Mà em vẫn giữ tấm lòng son. nắng nên quả thực không nhận ra cậu bé! (Hồ Xuân Hương) Bây giờ ta hãy tiếp tục tìm hiểu riêng câu hỏi c) Lời nói của các nhân vật bộc lộ tình cảm, a) Khi làm bài thơ này, Hồ Xuân Hương thái độ và quan hệ trong giao tiếp như thế nào? đã “giao tiếp” với người đọc về vấn đề gì? Nói chung người dạy-học đều tìm cách trả lời Nhằm mục đích gì? Bằng các phương tiện câu hỏi này theo giả định tích cực rằng em bé từ ngữ, hình ảnh như thế nào? thì lễ phép kính trọng còn người ông thì vui vẻ b) Người đọc căn cứ vào đâu (từ ngữ, hình trìu mến. Giả định đó đương nhiên được củng ảnh trong bài thơ; cuộc đời, cố thêm nhờ thông tin thuyết minh đọc thấy từ thân phận tác giả, ) để lĩnh hội (hiểu và lời trần thuật “(A Cổ) sung sướng chào” cảm nhận) bài thơ? “(Ông) vui vẻ nói”. Nhưng thực ra, nếu chỉ từ mỗi bản thân “lời nói của các nhân vật” thì rất Điều dễ thấy trước tiên là tính chất “đặc khó để nói chuyện “tình cảm, thái độ và quan biệt” của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ thể hệ trong giao tiếp” này. Và một điều nữa là - hiện ở dẫn liệu “bài thơ” này. Phần đông các mặc dù những yếu tố đặc trưng của kiểu lời giáo viên đều muốn biết dẫn liệu bài thơ Hồ thoại như “ ạ”, “thưa ” được coi là dùng để Xuân Hương này là để minh họa hay đại diện biểu thị sự lễ phép, kính trọng nhưng sự biểu cho kiểu/dạng/hình thức/loại HOẠT ĐỘNG hiện “tình cảm, thái độ và quan hệ” trong thực GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ nào? Tất tế nói năng là hết sức cá biệt và tinh tế. Một câu nhiên như ta thấy bài học này dường như chỉ trước “thưa” sau “ạ” đầy đủ nhưng có thể được đặt nhiệm vụ giới thuyết chung nhất về HOẠT nói với đủ sắc thái tình cảm từ trang trọng cho ĐỘNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ nên tới châm biếm. Và đó mới chính là “sự thực” việc người dạy muốn có một sự hệ thống hóa của HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP (BẰNG) các loại hình “GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ” là điều vượt ra khỏi yêu cầu của chương trình SGK. Mặc dù vậy, ngay cả khi chỉ đặt vấn phát ngôn” (“hình thức của câu hỏi” nhưng không phải là “dùng để hỏi”). đề “THẾ NÀO LÀ HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP
  6. 40 L.T. Tân, N.Đ. Can / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 32, Số 3 (2016) 35-42 BẰNG NGÔN NGỮ”, với dẫn dụng bài thơ lĩnh hội (hiểu và cảm nhận) bài thơ? xứng đáng này ta vẫn muốn biết “trường hợp dẫn dụng bài được quan tâm kĩ hơn một chút. Trong đối sánh thơ của Hồ Xuân Hương này đã cho ta thêm với các dẫn liệu II.1, II.2 đã dẫn dụng ta có thể một ví dụ ra sao về HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP tự hỏi câu hỏi b) này có phải chỉ là câu hỏi dẫn BẰNG NGÔN NGỮ? Câu hỏi đầu tiên mà giải riêng cho “giao tiếp” văn chương-tiếp nhận SGK nêu ra là a) Khi làm bài thơ này, Hồ Xuân tác phẩm văn học không? Tại sao đối với giao Hương đã “giao tiếp” với người đọc về vấn đề tiếp chào hỏi sinh hoạt hay viết thư, viết thông gì? Nhằm mục đích gì? Bằng các phương tiện báo thì không nêu câu hỏi như này? từ ngữ, hình ảnh như thế nào? Chúng ta có thể nói thực ra nếu SGK đặt rõ vấn đề sáng tác văn chương như là một loại dụng ngữ đặc biệt, nêu 4. Bài học này kết thúc với việc dẫn dụng rõ vấn đề tiếp nhận văn học và tìm cách quy dẫn liệu bức thư Bác Hồ gửi học sinh cả nạp vào trong hệ thống gọi là HOẠT ĐỘNG nước nhân ngày khai giảng năm học đầu tiên GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ thì chắc ở của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. SGK đây NBS đã không phải đặt từ giao tiếp này vào diễn giải trong dấu “”. (chính việc đặt trong nháy này cho ta thấy tính chất “đặc biệt” của hoạt động giao Viết thư là một hoạt động giao tiếp. Khi tiếp tác giả-tác phẩm-bạn đọc. Thực tế thì ở các viết thư, dù ý thức rõ hay không, người dẫn liệu đã nêu, chẳng phải là tác giả Lê Vân viết vẫn cần để ý đến các nhân tố giao tiếp với Hội nghị Diên Hồng hay Bùi Nguyên Khiết sau đây: với Người du kích trên núi chè tuyết và thậm a) Thư viết cho ai, người viết có quan hệ chí cả tác giả dân gian bài ca dao “Đêm trăng như thế nào với người nhận? thanh đan sàng” ấy cũng đang thực hiện cái b) Hoàn cảnh cụ thể của người viết và hành động mà đến lượt bài thơ Hồ Xuân Hương người nhận thư khi đó như thế nào? SGK lại để trong nháy (“giao tiếp”) đó thôi? c) Thư viết về vấn đề gì? Như ta đã thấy ở dẫn liệu 2, SGK có nhắc tới d) Thư viết để làm gì? vấn đề “hành động nói” (cũng là tên học ở Ngữ e) Nên viết như thế nào? văn 8). Vậy đến đây học sinh có thể hỏi có thể nêu vấn đề “hành động viết” như là một đối Hoàn toàn có thể gọi người nhận thư và hoàn sánh song song với “hành động nói” hay cảnh viết-nhận thư là hai “nhân tố giao tiếp”, không? Phải chăng là ta có thể nói là các tác giả nhưng một khi đã nói rõ “Khi viết thư, dù ý thức Hội nghị Diên Hồng, Người du kích trên núi rõ hay không, người viết vẫn cần để ý đến các chè tuyết “đang viết” (truyện) cũng như Hồ nhân tố giao tiếp sau đây” thì tiếp theo không Xuân Hương thì đang “làm bài thơ”? Có thể nên diễn đạt như ta đọc thấy: a) Thư viết cho ai, chưa cần thiết phải đi sâu phân biệt “giao tiếp” người viết có quan hệ như thế nào với người thơ trữ tình với “giao tiếp” tự sự, nhưng ta hoàn nhận? b) Hoàn cảnh cụ thể của người viết và toàn có thể và cũng phải sớm nêu vấn đề “viết” người nhận thư khi đó như thế nào? Thật khó (thiên) truyện/(bài) thơ như là một cách tham tưởng tượng một người cầm bút viết thư mà lại gia hoạt động giao tiếp (bằng ngôn ngữ) với còn suy nghĩ “người viết có quan hệ như thế “viết” (bức) thư (e-mail)/(bản) thông báo khác nào với người nhận”, “hoàn cảnh cụ thể của nhau cơ bản ở chỗ nào? Không thực hiện sự đối người viết và người nhận thư khi đó như thế lập này thì phân tích HOẠT ĐỘNG GIAO nào?” (!). Đúng ra ở đây, chính chúng ta (NBS TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ rất dễ trở thành một và người học) mới là người đặt ra các vấn đề sự mô tả chung chung. đó. Hoặc giả, NBS dường như đã không ý thức Dẫn liệu 3 chỉ có hai câu hỏi. Câu hỏi b) rõ rằng phía trước nói tới “người viết thư” Người đọc căn cứ vào đâu (từ ngữ, hình ảnh nhưng liệt kê các câu hỏi tiếp theo thì chính là trong bài thơ; cuộc đời, thân phận tác giả, ) để đang nêu vấn đề với người tìm hiểu việc viết
  7. L.T. Tân, N.Đ. Can / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 32, Số 3 (2016) 35-42 41 thư như là một dẫn chứng cho hoạt động giao trường hợp riêng, không tiêu biểu cho giao tiếp tiếp bằng ngôn ngữ? Nhân tiện cũng nên thấy rõ thư từ nói chung8. rằng bức thư gửi học sinh cả nước của Chủ tịch HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN Hồ Chí Minh một khi đã dẫn dụng vào bài học NGỮ trong Ngữ văn 10 là một bài dài và quan SGK thì nó liền đã ở vào trong một thế tạm gọi trọng. Bài đã được trình bày vào trong SGK là “giao tiếp kép”: giao tiếp giữa vị Chủ tịch thành hai đơn vị bài học (phần I - lí thuyết và nước với “các em học sinh” cả nước mùa thu phần II - luyện tập). Bài viết này như đã nói rõ 1945 và giao tiếp giữa học sinh lớp 10 ngày từ đầu - chỉ giới hạn vào phần luyện tập và hôm nay với bức thư từng gửi đi đó. Nói cách được viết trong tư thế giả định bản thân người khác, ở đây ta cũng có thể tiếp cận với dẫn liệu viết cũng là người sẽ dạy học bài đó. Việc giả bức thư như cách mà SGK đã tiếp cận dẫn liệu định đó yêu cầu một sự đọc hiểu toàn bộ bài I.2 - bài Tổng quan văn học Việt Nam ở phần I học. Cái gọi là “diễn giải cụ thể đối với bài - THẾ NÀO LÀ HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP học ” mà chúng tôi nêu rõ trong nhan đề chính BẰNG NGÔN NGỮ của cùng bài học này vậy. là kết quả cụ thể của công việc đọc hiểu này. Vậy mà suy cho cùng với tư cách kẻ thứ ba Chúng tôi tin rằng việc trình bày các kết quả (người tìm hiểu cái hoạt động giao tiếp thư từ), đọc hiểu cụ thể thành bài viết với nhan đề ở đây ta có thể trả lời ngay được câu hỏi a) và như trên cũng chính là cách tham gia vào hoạt b) nhờ vào những dữ liệu thông tin “thuyết động giao tiếp bằng ngôn ngữ trong ngữ cảnh minh” từ bên ngoài đã được công bố về bối đặc biệt - dạy học trong trường lớp cụ thể. Hi cảnh giao thiệp (giới thiệu rõ đây là bức thư vọng những diễn giải đó có ích cho giáo viên Bác Hồ gửi học sinh cả nước nhân ngày khai và học sinh. giảng năm học đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Nhưng với câu hỏi c), d), e) thì trừ phi được người viết và người nhận thư Tài liệu tham khảo nói cho biết còn thì dĩ nhiên là chỉ còn cách là được đọc bức thư (chắc chắn có những bức thư [1] Ngữ văn 10, tập 1, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà ta không hiểu được các nhân tố giao tiếp đó vì Nội, 2012. ta không phải là người trong cuộc). Chả trách [2] John Lyons, Ngữ nghĩa học dẫn luận (Người NBS ở đây đã chọn dẫn liệu bức thư “công dịch: Nguyễn Văn Hiệp), khai” (gửi chung học sinh cả nước). Và như ta [3] Bùi Mạnh Hùng, Bàn về vấn đề " Phân loại câu theo mục đích phát ngôn, Tạp chí Ngôn ngữ, số đều thấy, các “công thư” nên được xem là một 2, năm 2003. j8 ___ 8 “Nguồn” dẫn bức thư được ghi là “Theo văn bản trong Tiếng Việt 5, tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006”. Một người quan tâm đến vấn đề “văn bản gốc” (hoặc gọi thủ cảo) của bức thư này hẳn cũng phải suy nghĩ lại những vấn đề mà SGK đã đề cập - “Thư viết về vấn đề gì?” / “Nên viết như thế nào?”.
  8. 42 L.T. Tân, N.Đ. Can / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 32, Số 3 (2016) 35-42 An Attempt to Analyze “Communication by Language” (Vietnamese Language and Literature 10 Program) Le Thoi Tan, Nguyen Duc Can VNU University of Education, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Abstract: This article attempts to provide a specific analysis of the lesson on “Communication by language” (Vietnamese Language and Literature 10 Textbook). This analysis is based on the imagination that the authors envisage possible questions from the learners preparing for the lesson. This supposition is expected to provide a better understanding of the lesson and facilitate the teaching process. Keywords: Communication by Language, Vietnamese Language and Literature 10, set of questions, analysis.