Hướng dẫn học môn Kinh tế vĩ mô
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Hướng dẫn học môn Kinh tế vĩ mô", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- huong_dan_hoc_tap_kinh_te_vi_mo.pdf
Nội dung text: Hướng dẫn học môn Kinh tế vĩ mô
- HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG - - - - - - - - - - - - - - SÁCH HƯỚNG DẪN HỌC TẬP KINH TẾ VĨ MÔ Biên soạn : Ths. TRẦN THỊ HÒA Lưu hành nội bộ HÀ NỘI - 2006
- LỜI NÓI ĐẦU Kinh tế vĩ mô là một môn kinh tế cơ sở, đề cập đến các lý thuyết và các phương pháp phân tích sự vận động của các mối quan hệ kinh tế trên bình diện tổng thể nền kinh tế. Là môn khoa học nền tảng, cơ sở cho các khoa học kinh tế chuyên ngành khác. Nền kinh tế quốc dân, bao gồm nhiều thị trường, nhiều thành phần kinh tế, nhiều bộ phân cấu thành có liên quan mật thiết với nhau. Mỗi biến động của một thị trường, một thành phần, một bộ phận đều tác động đến các cân bằng tổng thể của nền kinh tế. Kinh tế vĩ mô quan tâm đến những mối quan hệ tổng thể này nhằm phát hiện, phân tích và mô tả bản chất của các biến đổi kinh tế, tìm ra các nguyên nhân gây nên sự mất ổn định ảnh hưởng tới hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Cũng từ đó kinh tế vĩ mô nghiên cứu, đưa ra các chính sách và công cụ tác động vào nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế của nền kinh tế như: tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế và phân phối công bằng. Với tập tài liệu “Sách hướng dẫn học tập môn kinh tế vĩ mô cho đối tượng đại học đào tạo từ xa” được kết cấu thành 8 chương: - Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về kinh tế học - Chương 2: Khái quát về kinh tế học vĩ mô - Chương 3: Tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân - Chương 4: Tổng cầu và chính sách tài khoá - Chương 5: Tiền tệ và chính sách tiền tệ - Chương 6: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh - Chương 7: Thất nghiệp và lạm phát - Chương 8: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở Nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản của kinh tế học vĩ mô, tập tài liệu này được trình bày theo cách tiếp cận từ từ, phân tích kinh tế được tiến hành với nền kinh tế khép kín đến nền kinh tế mở. Mỗi chương được kết cấu thành 4 phần: Phần giới thiệu chương nhằm giới thiệu khái quát nội dung của chương và yêu cầu đối với người học khi nghiên cứu chương đó. Phần nội dung chương, được biên soạn theo trình tự, kết cấu nội dung của môn học một cách cụ thể, chi tiết, đơn giản giúp cho người học có thể nắm bắt nội dung một cách nhanh chóng. Phần tóm tắt nội dung và những vấn đề cần nghi nhớ, nhằm mục đích nhắc lại các thuật ngữ then chốt, nội dung cốt lõi của chương. Phần bài tập và câu hỏi củng cố lý thuyết, phần này gồm các câu hỏi củng cố lý thuyết, câu hỏi lựa chọn câu trả lời đúng, giải thích và bài tập. Đây là phần luyện tập khi học viên đã nghiên cứu song nội dung của mỗi chương. Tập tài liệu hướng dẫn học tập môn kinh tế vĩ mô cho đối tượng đại học từ xa, lần đầu tiên được biên soạn, nên không tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của bạn đọc và các thày cô giáo. Xin trân trọng cám ơn! Tác giả Ths Trần Thị Hoà
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về kinh tế học CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KINH TẾ HỌC GIỚI THIỆU Chương này cung cấp những kiến thức cơ bản về một số khái niệm, quy luật, công cụ phân tích quan trọng của kinh tế học hiện đại, nhằm giúp cho sinh viên có được kiến thức ban đầu về môn học như: Kinh tế học là gì? các đặc trưng, đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của kinh tế học, sự khác biệt giữa kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô, sự khác biệt trong phương pháp nghiên cứu của kinh tế học với các khoa học kinh tế khác. Cách thức tổ chức của một nền kinh tế hỗn hợp, các chức năng cơ bản của một nền kinh tế trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế như sản xuất cái gì?; sản xuất như thế nào?; sản xuất cho ai? Các tác nhân trong nền kinh tế hỗn hợp, vai trò của các tác nhân trong nền kinh tế và sự ảnh hưởng qua lại giữa chúng trong nền kinh tế hỗn hợp. Trong chương này cũng nhằm trang bị cho sinh viên một số khái niệm cơ bản của kinh tế học như “các yếu tố sản xuất”, “giới hạn khả năng sản xuất”, “chi phí cơ hội”. Một số quy luật kinh tế như “quy luật chi phí tương đối ngày càng tăng”; “quy luật thu nhập có xu hướng giảm dần”; Trang bị cho sinh viên phương pháp phân tích cung – cầu hạt nhân của phân tích kinh tế. Việc xác định giá cả, sản lượng thông qua cung, cầu; xác định mức sản lượng và giá cả cân bằng; các nhân tố ảnh hưởng đến cung, cầu, sự thay đổi điểm cân bằng khi cung, cầu thay đổi. Sau khi nghiên cứu chương này sinh viên cần phải đạt được các yêu cầu sau: 1. Sinh viên phải nắm vững các khái niệm, phạm trù lý thuyết 2. Phải vận dụng lý thuyết để giải quyết các bài tập dưới các dạng: - Phân tích giới hạn khả năng sản xuất - Xác định chi phí cơ hội của các quyết định kinh tế - Phân tích cung cầu NỘI DUNG 1.1. KHÁI NIỆM, NHỮNG ĐẶC TRƯNG VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU CỦA KINH TẾ HỌC. 1.1.1. Khái niệm kinh tế học. Kinh tế học là môn khoa học ra đời cách đây hơn hai thế kỷ. Từ đó đến nay kinh tế học đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, do đó cũng đã xuất hiện khá nhiều các định nghĩa về kinh tế học. Sau đây xin trình bày 3 khái niệm về kinh tế học được nhiều nhà kinh tế hiện nay sử dụng. 5
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về kinh tế học (1). Kinh tế học là môn học nghiên cứu xem xã hội sử dụng như thế nào nguồn tài nguyên khan hiếm để sản xuất ra những hàng hoá cần thiết và phân phối cho các thành viên trong xã hội. (2). Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu hoạt động của con người trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. (3). Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu việc lựa chọn cách sử dụng hợp lý nhất các nguồn lực để sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ nhằm thoả mãn cao nhất nhu cầu cho mọi thành viên trong xã hội. Kinh tế học có quan hệ chặt chẽ với nhiều môn khoa học khác như: triết học, kinh tế chính trị học, sử học, xã hội học, và đặc biệt có liên quan chặt chẽ với toán học và thống kê học. Kinh tế học được chia làm 2 phân ngành lớn là kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô - Kinh tế vĩ mô nghiên cứu hoạt động của toàn bộ tổng thể rộng lớn của toàn bộ nền kinh tế như: Tăng trưởng kinh tế, sự biến động của giá cả (lạm phát), việc làm của cả quốc gia (thất nghiệp), cán cân thanh toán và tỷ giá hối đoái, Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam năm 2004 tăng trưởng 7,2%, lạm phát 8%, cán cân thương mại cân bằng, Đây là tín hiệu phản ánh nền kinh tế của Việt Nam đang trên đà phát triển, ” - Kinh tế vi mô nghiên cứu sự hoạt động của các các tế bào kinh tế trong nền kinh tế là các doanh nghiệp, hộ gia đình, nghiên cứu những yếu tố quyết định giá cả, số lượng sản phẩm, trong các thị trường riêng lẻ. Ví dụ: Trên thị trường Hà Nội, vào dịp tết nguyên đán 2005, hàng thuỷ sản được tiêu thụ mạnh, do đó giá có thể tăng nhẹ. Tuỳ theo cách thức sử dụng, kinh tế học được chia thành hai dạng kinh tế học là kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc. Kinh tế học thực chứng là để trả lời câu hỏi: Là bao nhiêu? là gì? Như thế nào?; còn kinh tế học chuẩn tắc là để trả lời câu hỏi: Nên làm cái gì?, Làm như thế nào? Mỗi vấn đề kinh tế cụ thể đều thường được tiến hành từ kinh tế học thực chứng rồi chuyển sang kinh tế học chuẩn tắc. Kinh tế học thực chứng là việc mô tả và phân tích sự kiện, những mối quan hệ trong nền kinh tế .Ví dụ: hiện nay, tỷ lệ lạm phát là bao nhiêu? nếu tăng trưởng kinh tế là 8% thì tỷ lệ lạm phát sẽ thay đổi thế nào? Kinh tế học chuẩn tắc đề cập đến cách thức, đạo lý được giải quyết bằng sự lựa chọn. Ví dụ: Tỷ lệ lạm phát đến mức nào thì có thể chấp nhận được? Có nên tăng tỷ lệ lãi suất ngân hàng không? 1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế học (1) Kinh tế học nghiên cứu sự khan hiếm các nguồn lực một cách tương đối với nhu cầu kinh tế xã hội. Đây là đặc trưng kinh tế cơ bản gắn liền với tiền đề nghiên cứu và phát triển của môn kinh tế học. Không thể sản xuất một loại hàng hoá nào đó để thoả mãn đầy đủ mọi nhu cầu của con người được.Vì nhu cầu thì đa dạng, còn nguồn lực thì hữu hạn do đó cần phải cân đối, lựa chọn. 6
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về kinh tế học (2) Tính hợp lý của kinh tế học Đặc trưng này thể hiện ở chỗ, khi phân tích hoặc lý giải một sự kiện kinh tế nào đó, cần phải dựa trên các giả thiết hợp lý nhất định và diễn biến của sự kiện kinh tế này. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tính chất hợp lý chỉ có tính chất tương đối vì nó phụ thuộc vào điều kiện môi trường của sự kiện kinh tế. Ví dụ 1: Muốn phân tích hành vi người tiêu dùng muốn mua thứ gì? số lượng là bao nhiêu? thì kinh tế học giả định họ tìm cách mua được nhiều hàng hoá dịch vụ nhất trong số thu nhập hạn chế của mình. Ví dụ 2: Để phân tích xem doanh nghiệp sẽ sản xuất cái gì, bao nhiêu? bằng cách nào? có thể giả định rằng doanh nghiệp sẽ tìm cách tối đa hoá lợi nhuận trong giới hạn nguồn lực của doanh nghiệp. (3) Kinh tế học là một bộ môn nghiên cứu mặt lượng Với đặc trưng này kinh tế học thể hiện kết quả nghiên cứu kinh tế bằng các con số có tầm quan trọng đặc biệt. Khi phân tích kết quả của các hoạt động chỉ nhận định nó tăng lên hay giảm đi thì chưa đủ mà phải thấy được sự biến đổi của nó như thế nào là bao nhiêu? Ví dụ: Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp A năm 2005 là khả quan, chưa đủ, chưa thấy được điều gì. Mà khả quan như thế nào? phải được lượng hoá thông qua các chi tiêu kinh tế như: Doanh thu tăng 20% so với năm 2004 với mức tăng 400 tỷ đồng; lợi nhuận tăng 22% so với năm 2004, mức tăng tăng là 150 tỷ đồng, (4) Tính toàn diện và tính tổng hợp Đặc trưng này của kinh tế học là khi xem xét các hoạt động và sự kiện kinh tế phải đặt nó trong mối liên hệ với các hoạt động, sự kiện kinh tế khác trên phương diện của một nền kinh tế thậm chí có những sự kiện phải đạt trong mối quan hệ quốc tế. Ví dụ: “Trong giai đoạn 2000- 2005 nền kinh tế Việt Nam có mức tăng trương cao ổn định”. Để có cơ sở của nhận định này nhà nghiên cứu phải có số liệu lý giải, chứng minh điều đó là tốc độ tăng trường bình quân hàng năm của Việt Nam là 7%, lạm phát từ 6-8%/ năm, và tốc độ tăng trưởng của các nước khác trong khu vực và trên thế giới. (5) Kết quả nghiên cứu của kinh tế học chỉ xác định được ở mức trung bình. Vì các kết quả này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác nhau ảnh hưởng tới chỉ tiêu kinh tế nghiên cứu, trong đó có rất nhiều yếu tố chỉ có thể xác định được xu hướng ảnh hưởng mà không thể xác định được mức độ ảnh hưởng. 1.1.3. Phương pháp luận nghiên cứu kinh tế học Có thể khái quát phương pháp luận nghiên cứu của kinh tế học thông qua 4 giai đoạn như sau: (1). Khi nghiên cứu các hiện tượng kinh tế các nhà kinh tế thường dùng phương pháp quan sát. Vì các hiện tượng kinh tế hết sức phức tạp, thường xuyên biến động, chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khách quan và chủ quan. Các quan hệ kinh tế rất vô hình, mà chung ta chỉ có thể suy đoán thông qua các biểu hiện bên ngoài thị trường của nó 7
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về kinh tế học Ví dụ: Muốn nghiên cứu về lạm phát của thời kỳ nào đó, thì phải quan sát sự thay đổi giá cả của tất các hàng hoá đang được giao dịch trên thị trường của thời kỳ đó. (2). Thu thập các số liệu phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu Ví dụ: Muốn biết lạm phát hiện nay là bao nhiêu, đã phải là nguy cơ chưa thì cần phải có số liệu, căn cứ ban đầu để phân tích. Số liệu để tiến hành nghiên cứu lạm phát là số liệu về nền kinh tế tăng trưởng hay suy thoái, mức giá cả chung của các hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế, (3) Tiến hành phân tích với các phương pháp phân tích thích hợp Mỗi một sự kiện kinh tế, mỗi một chỉ tiêu kinh tế sẽ có cách phân tích khác nhau, có thể dùng phương pháp phân tích này hay phương pháp phân tích khác, hoặc kết hợp của một số phương pháp phân tích. Kinh tế học ngoài những phương pháp của các khoa học kinh tế nói chung, thì kinh tế học sử dụng các phương pháp pháp phân tích đặc thù. Đó là những phương pháp trừu tượng hoá, bóc tách các nhân tố không định nghiên cứu (cố định các nhân tố này) để xem xét các mối quan hệ kinh tế giữa các biến số cơ bản liên quan trực tiếp tới sự kiện nghiên cứu. Ví dụ như là phương pháp thông kê, mô hình toán, kinh tế lượng, phương pháp cân bằng tổng thể và cân bằng bộ phận, (4) Rút ra các kết luận đối chiếu với thực tế, phát hiện ra điểm bất hợp lý, đề ra các giả thiết mới rồi lại kiểm nghiệm bằng thực tế. Quá trình này lặp đi lắp lại tới khi nào kết quả rút ra sát thực với thực tế, khi đó quá trình nghiên cứu mới kết thúc. 1.2. TỔ CHỨC KINH TẾ CỦA MỘT NỀN KINH TẾ HỐN HỢP 1.2.1. Ba chức năng cơ bản của một nền kinh tế Tất cả các nền kinh tế quốc dân, trong mọi giai đoạn phát triển đều phải thực hiện ba chức năng cơ bản sau: (1) Sản xuất ra những hàng hoá và dịch vụ nào? với số lượng bao nhiêu? Cơ sở của chức năng này là sự khan hiếm các nguồn lực so với nhu cầu của xã hội. Nhiệm vụ chủ yếu mà của bất kỳ nền kinh tế nào cũng cần phải giải quyết là giảm đến mức tối thiểu sự lãng phí trong việc sản xuất ra những sản phẩm không cần thiết, và tăng cường đến mức tối đa những sản phẩm cần thiết. (2) Các hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra như thế nào Việc giải quyết đúng đắn vấn đề này thông thường đồng nghĩa với việc sử dụng số lượng đầu vào ít nhất để sản xuất ra số lượng sản phẩm đầu ra nhất định. (3) Hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra cho ai? hay sản phẩm quốc dân được phân phối thế nào cho các thành viên trong xã hội. Ba vấn đề nêu trên là những chức năng năng mà bất kỳ nền kinh tế nào cũng phải thực hiện, bất kể hình thức hay trình độ phát triển của nó như thế nào. Tất cả các chức năng này đều mạng tính lựa chọn, vì các nguồn lực để sản xuất ra sản phẩm đều khan hiếm. Cơ sở cho sự lựa chọn này là: - Tồn tại các cách sử dụng khác nhau các nguồn lực trong việc sản xuất ra các sản phẩm khác nhau. Ví dụ: Sản xuất sản phẩm dệt may cần đầu vào là (lao động ngành dệt may, máy may, vải, sợi, ); còn sản xuất ô tô cần (lao động ngành cơ khí chế tạo, thép, ). 8
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về kinh tế học - Tồn tại các phương pháp khác nhau để sản xuất ra sản phẩm cụ thể. Ví dụ cũng là may mặc nhưng phương pháp thủ công khác với tự động hoá. - Tồn tại các phương pháp khác nhau để phân phối hàng hoá và thu nhập cho các thành viên trong xã hội. Ví dụ: Tham gia sản xuất ra sản phẩm, người lao động nhận được tiền công tiền lương; doanh nghiệp nhận được lợi nhuận, Nhà nước thu được các khoản thuế. Các thành viên trong xã hội nhân được bao nhiêu là do cơ chế phân phối ở mỗi thời kỳ, mỗi quốc gia. Những cách thức để giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản trên trong một nước cụ thể sẽ tuỳ thuộc vào lịch sử, hệ tư tưởng, và chính sách kinh tế cuả Quốc gia này. 1.2.2. Tổ chức kinh tế của một nền kinh tế hỗn hợp Các hệ thống kinh tế khác nhau có những cách tổ chức kinh tế khác nhau để thực hiện ba chức năng cơ bản của nền kinh tế. Lịch sử phát triển của loài người cho thấy có các kiểu tổ chức sau: (1) Nền kinh tế tập quán truyền thống: kểu tổ chức này tồn tại dưới thời công xã nguyên thuỷ. Trong xã hội này, các vấn đề kinh tế cơ bản là sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? phân phối cho ai? được quyết định theo tập quán truyền thống từ thế hệ trước sang thế hệ sau. Tự cung, tự cấp; cần cái gì thì sản xuất cái đó bằng tư liệu sản xuất của chính mình, không cần trao đổi. (2) Nền kinh tế chỉ huy (kế hoạch hoá tập trung): là nền kinh tế giải quyết ba vấn đề kính tế cơ bản đều do Nhà nước quyết định, cân đối. Việc sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? phân phối cho ai đều được thực hiện theo kế hoạch tập trung thống nhất của Nhà nước. (3) Nền kinh tế thị trường: trong nền kinh tế ba chức năng cơ bản là sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? được thực hiện thông qua cơ chế thị trường, do thị trường quyết định. Trong đó các cá nhân người tiêu dùng, và các doanh nghiệp tác động qua lại lẫn nhau trên thị trường để xác định một hệ thống giá cả, thị trường, lợi nhuận, thu nhập, (4) Nền kinh tế hỗn hợp: các hệ thống kinh tế hiện nay, không mang những hình thức kinh tế thuần tuý như thị trường, chi huy hay tự nhiên, mà là sự kết hợp các nhân tố của các loại hình kinh tế. Và điều đó gọi là nền kinh tế hỗn hợp. Trong nền kinh tế hỗn hợp các thể chế công cộng và tư nhân đều có vai trò kiểm soát kinh tế. Thông qua bàn tay “vô hình” của thị trường và bàn tay “hữu hình” của Nhà nước. Các nhà kinh tế chia các tác nhân trong nền kinh tế hỗn hợp thành 4 nhóm, nhằm giải thích hành vi và phương thức thực hiện các chức năng chủ yếu của từng nhóm. Các nhóm này tác động qua lại lẫn nhau tạo thành một hệ thống kinh tế hỗn hợp. Trong nền kinh tế hỗn hợp, cơ chế thị trường sẽ xác định giá cả và sản lượng trong nhiều lĩnh vực còn Chính phủ sẽ điều tiết thị trường thông qua thuế, chi tiêu của Chính phủ, luật pháp, Mô hình kinh tế hỗn hợp của từng nước có thể khác nhau, tuỳ thuộc vào mức độ can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế, và đối với thị trường. 1.2.2.1. Người tiêu dùng cuối cùng Người tiêu dùng cuối cùng là tất cả các cá nhân và hộ gia đình, họ mua hàng hoá và dịch vụ để thoả mãn những nhu cầu tiêu dùng của họ: Ví dụ như mua lương thực, thực phẩm để ăn, mua quần áo để mặc, Người tiêu dùng cuối cùng có ảnh hưởng rất lớn đến việc quyết định sản xuất 9
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về kinh tế học cái gì trong nền kinh tế vì họ mua và tiêu dùng phần lớn các sản phẩm của nền kinh tế. Hành vi mua của người tiêu dùng bị thúc đẩy bởi một số yếu tố chung nào đó, và người ta có thế dự đoán với mức độ tin cậy nhất định. Yếu tố cơ bản trong yếu tố chung đó là người tiêu dùng muốn thoả mãn tối đa nhu cầu của họ với thu nhập hạn chế. 1.2.2.2. Các doanh nghiệp Các doanh nghiệp là người sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ cung cấp cho xã hội, mục đích của họ khi thức hiện ba chức năng cơ bản sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? là thu được lợi nhuận cao nhất trong giới hạn nguồn lực của mình. 1.2.2.3. Chính phủ Trong nền kinh tế hỗn hợp Chính phủ đồng thời vừa là người sản xuất và vừa là người tiêu dùng nhiều hàng hoá dịch vụ. Chính phủ tiêu dùng phục vụ vai trò quản lý điều hành của Chính phủ. Chính phủ là người sản xuất cũng giống như doanh nghiệp tư nhân, nhưng nó phức tạp hơn nhiều bởi vai trò quản lý kinh tế của Chính phủ và có thể phác hoạ thông qua 3 chức năng chủ yếu sau: (1). Chức năng hiệu quả: + Để bảo đảm cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có hiệu quả, sản xuất phát triển thì Nhà nước phải đưa ra các đạo luật như là chống độc quyền, chống ép giá, thuế, + Để hạn chế tác động từ bên ngoài thì Chính phủ, càn phải đặt ra các luật lệ ngăn chặn các tác động tiêu cực như: ô nhiễm môi trường, huỷ hoại tài nguyên, (2). Chức năng công bằng Trong nền kinh tế thị trường hàng hoá được phân phối cho người có nhiều tiền mua nhất chứ không phải cho người có nhu cầu lớn nhất. Do vậy, để bảo đảm sự công bằng trong xã hội, thì Chính phủ phải đưa ra các chính sách phân phối lại thu nhập. Ví dụ như hệ thống thuế thu nhập, bảo hiểm, trợ cấp, (3). Chức năng ổn định Chính phủ còn phải thực hiện chức năng kinh tế vĩ mô là duy trì sự ổn định kinh tế. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản cho thấy có thời kỳ tăng trưởng thì lạm phát tăng vọt, trong thời kỳ suy thoái nặng nề thì thất nghiệp lại cao dẫn đến những sự thăng trầm của chu kỳ kinh tế. Chính phủ có thể sử dụng các chính sách, công cụ của mình để tác động đến sản lượng và việc làm, làm giảm bớt các giao động của chu kỳ kinh doanh. 1.2.2.4. Người nước ngoài Các cá nhân, các doanh nghiệp, Chính phủ nước ngoài tác động đến các hoạt động kinh tế diễn ra ở một nước thông qua việc mua bán hàng hoá và dịch vụ, vay mượn, viện trợ và đầu tư nước ngoài. Trong một số nước có nền kinh tế khá mở thì người nước ngoài có vai trò khá quan trọng. 10
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về kinh tế học 1.3. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA KINH TẾ HỌC 1.3.1. Yếu tố sản xuất, giới hạn khả năng sản xuất, chi phí cơ hội 1.3.1.1. Các yếu tố sản xuất Yếu tố sản xuất là đầu vào của quá trình sản xuất và được phân chia thành 3 nhóm: (1). Đất đai và tài nguyên thiên nhiên: bao gồm toàn bộ đất dùng cho canh tác, xây dựng nhà ở, đường sá, các loại nhiên liệu, khoảng sản, cây cối, (2). Lao động Là năng lực của con người được sử dụng theo một mức độ nhất định trong quá trình sản xuất. Người ta đo lường lao động bằng thời gian của lao động được sử dụng trong quá trình sản xuất. (3) Tư bản: Là máy móc, đường sá, nhà xưởng, được sản xuất ra rồi được sử dụng để sản xuất ra các hàng hoá khác. Việc tích luỹ các hàng hoá tư bản trong nền kinh tế có một vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của sản xuất. 1.3.1.2. Giới hạn khả năng sản xuất Khi xem xét một nền kinh tế với số lượng các yếu tố sản xuất và trình độ công nghệ cho trước. Khi quyết định sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào?, nền kinh tế phải lựa chọn xem các yếu tố hạn chế này được phân phối như thế nào giữa rất nhiều các hàng hoá khác nhau được sản xuất ra. Để đơn giản, giả sử rằng toàn bộ nguồn lực của nền kinh tế chỉ tập trung vào sản xuất 2 loại hàng hoá là thức ăn và quần áo. Để sử dụng hết nguồn lực của nền kinh tế, thì có thể có các cách lựa chọn tổ hợp thức ăn và quần áo trong bảng 1.1 sau đây để sản xuất. Bảng 1.1 Những khả năng sản xuất thay thế khác nhau Khả năng Lương thực (tấn) Quần áo (ngàn bộ) A 0 7,5 B 1 7 C 2 6 D 3 4,5 E 4 2,5 F 5 0 Biểu diễn những khả năng này trên đồ thị và nối những điểm này lại ta được đường giới hạn khả năng sản xuất. 11
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về kinh tế học Quần áo A B 7.5 c N c C c D c c M E c F c c 5 Thực phẩm Hình 1.1: Đường giới hạn khả năng sản xuất Phương án lựa chọn A là phương án toàn bộ nguồn lực chỉ sản xuất quần án, tại đây số lượng quần áo được sản xuất ra là nhiều nhất, còn thực phẩm bằng 0. Tại phương án F toàn bộ nguồn lực chỉ tập trung sản xuất lương thực và thực phẩm bằng 5 là nhiều nhất còn quần áo bằng không. Dọc theo đường cong từ phương án A đến phương án F thì quần áo giảm đi và lương thực tăng lên. Phương án sản xuất A,B,C,D,E,F là những phương án có hiệu quả vì sử dụng hết nguồn lực, và tại đó muốn tăng một đơn vị sản phẩm đầu ra là quần áo thì phải cắt giảm đi những đơn vị sản phẩm đầu ra là lương thực. Phương án M là phương án sản xuất không có hiệu quả vì chưa sử dụng hết nguồn lực và tại M muốn tăng quần áo thì không cần phải cắt giảm lương thực vì còn nguồn lực. Phương án N là phương án không thể đạt được của nền kinh tế vì xã hội không đủ nguồn lực. Vậy đường giới hạn khả năng sản xuất là một đường biểu diễn tập hợp tất cả các phương án sản xuất có hiệu quả; phương án sản xuất có hiệu quả là phương án mà tại đó muốn tăng một đơn vị sản phẩm đâu ra nào dó thì buộc phải cát giảm đi những đơn vị sản phẩm đầu ra khác. Trong một khoảng thời gian nhất định, mỗi một nền kinh tế có một đường giới hạn khả năng sản xuất. Khi các yếu tố sản xuất thay đổi thì đường giới hạn khả năng sản xuất cũng thay đổi theo. Nếu nguồn lực được mở rộng thì đường giới hạn khả năng sản xuất dịch chuyển sang bên phải, khi nguồn lực sản xuất bị thu hẹp lại thì đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ dịch chuyển về phía bên trái. 1.3.1.3. Chi phí cơ hội Trong một giới hạn nguồn lực, tại một thời điểm có thể có nhiều phương án để lựa chọn đó là các cơ hội có thể có. Khi chúng ta lựa chọn một phương nào đó và tiến hành thực hiện theo 12
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về kinh tế học phương án đó thì sẽ có các phương án khác, cơ hội khác bị bỏ qua. Trong các cơ hội bị bỏ qua cơ hội nào mạng lại thu nhập lớn nhất, cơ hội đó chính là chi phí cơ hội của phương án đã lựa chọn.Vậy chi phí cơ hội là chi phí lớn nhất của các phương án bị bỏ lỡ. Ví dụ: một người có lượng tiền là 100 triệu đồng, người này có các cơ hội sử dụng số tiền này là: Phương án 1: tiết kiệm để ở gia đình và thu nhập tăng thêm bằng 0; phương án 2: gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng, thu nhập tăng thêm 6 triệu đồng; phương án 3: sử dụng tiền để mua trái phiếu, thu nhập trái phiếu là 8 triệu đồng; phương án 4: góp vốn kinh doanh dự kiến cuối năm thu được 10 triệu đồng lợi nhuận. Người này chọn phương án 2 là gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng, vậy các phương án bị bỏ qua là phương án 1,3,4. Chi phí cơ hội của việc lựa chọn phương án 2 là phương án 4 với chi phí là 10 triệu đồng. 1.3.2. Quy luật thu nhập giảm dần và quy luật chi phí tương đối ngày càng tăng. (1). Quy luật thu nhập giảm dần được phát biểu như sau: Số lượng sản phẩm đầu ra có thêm sẽ ngày càng giảm nếu liên tiếp bỏ thêm từng đơn vị yếu tố đầu vào biến đổi nào đó với các yếu tố đầu vào khác chưa thay đổi. (2). Quy luật chi phí tương đối ngày càng tăng được phát biểu như sau: để có thêm một số bằng nhau về một mặt hàng nào đó thì xã hội phải hi sinh ngày càng nhiều số lượng mặt hàng khác. 1.4. PHÂN TÍCH CUNG - CẦU 1.4.1. Phân tích cầu 1.4.1.1. Khái niệm cầu Cầu là số lượng hàng hoá và dịch vụ nào đó mà người mua muốn mua, có khả năng mua, sẵn sàng mua ứng với từng mức giá trong một khoảng thời gian nào đó với các nhân tố ảnh hưởng đến cầu khác chưa thay đổi. 1.4.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu là các nhân tố, khi bản thân nó thay đổi, thì sẽ làm cho lượng cầu thay đổi theo. Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu được chia là 2 nhóm. - Nhóm nội sinh: là các nhân tố khi thay đổi làm cho bản thân đường cầu thay đổi. Các nhân tố này là nhân tố quyết định hình dạng, xu hướng của đường cầu. Ví dụ như nhân tố giá (P) - Nhóm ngoại sinh: Là nhóm nhân tố khi thay đổi, thì bản thân đường cầu không thay đổi mà chỉ dịch chuyển sang phải nếu lượng cầu tăng hoặc sang trái nếu lượng cầu giảm. Ví dụ như: thu nhập; tâm lý người tiêu dùng; chính sách của Nhà nước, giá cả hàng hoá liên quan; 1.4.1.3. Hàm số cầu Cầu là một hàm số biểu diễn mối quan hệ giữa lượng cầu và các nhân tố ảnh hưởng đến cầu: D Q = f (P, Pliênquan, TN, CS, TL, ) Trong đó: QD là lượng cầu; P giá cả của bản thân hàng hoá; Pliênquan là giá cả hàng hoá liên quan 13
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về kinh tế học TN: thu nhập của dân chung CS: chính sách của Chính phủ TL: tâm lý thói quen của người tiêu dùng. 1.4.1.4. Biểu cầu Biểu cầu là một bảng số liệu mô tả mối quan hệ giữa lượng hàng hoá mà người tiêu dùng mua ứng với từng mức giá. Ví dụ: Biểu cầu về sản phẩm A trên thị trường Hà Nội thánh 12 năm 2005 Giá bán (P) đơn vị tính (triệu đồng) 50 40 30 20 10 Lượng cầu (Q) đơn vị tính (sản phẩm) 18 20 24 30 40 1.4.1.5. Đường cầu Đường cầu là đường biểu diễn mối quan hệ giữa lượng cầu và giá cả của một hàng hoá, dịch vụ nào đó trên một trục toạ độ. Trục tung phản ánh giá, trục hoành phản ánh lượng cầu. Nói cách khác đường cầu mô tả biểu cầu trên đồ thị. Ví dụ: Mô tả biểu cầu của sản P phẩm A trên thị trường Hà Nội tháng 12 năm 2005 bằng đồ thị, thì đây là đường cầu sản phẩm A trên thị trường Hà Nội 50 tháng 12 năm 2005. Đường cầu có độ dốc âm thể hiện khi giá cả tăng thì lượng 40 cầu giảm và ngược lại. Đường cầu dịch chuyển sang trái (D’) khi các nhân tố 30 ngoại sinh làm giảm lương cầu. Đường cầu dịch chuyển sang phải (D’’) khi các 20 D’ D D’’ nhân tố ngoại sinh thay đổi làm cho 10 lượng cầu tăng. 1.4.1.6. Luật cầu 0 10 20 30 40 Q Luật cầu thể hiện mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa giá cả và lượng cầu đối với hàng hoá thông thường (PKJ QL; PL J QK) 1.4.2. Phân tích cung (1). Khái niệm cung: cung là số lượng hàng hoá, dịch vụ nào đó mà doanh nghiệp có khả năng sản xuất và bán ra ứng với từng mức giá và trong một giới hạn nguồn lực nhất định. (2). Các nhân tố ảnh hưởng đến cung: các nhân tố ảnh hưởng đến cung là các nhân tố khi nó thay đổi sẽ làm cho lượng cung thay đổi theo. Các nhân tố ảnh hưởng đến cung có thể chia ra làm 2 nhóm: 14
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về kinh tế học Nhóm nhân tố nội sinh: là những nhân tố quyết định đường cung của doanh nghiệp. Nhân tố này thay đổi thì đường cung cũng thay đổi theo. Nhóm nhân tố ngoại sinh: là những nhân tố khi nó thay đổi thì chỉ làm đường cung dịch chuyển sang phải nếu lượng cung tăng; làm đường cung dịch chuyển sang trái nến nó làm cho lượng cung giảm. (3). Hàm số cung: Cung là một hàm số biểu diễn mối quan hệ giữa lượng cung và các nhân tố ảnh hưởng đến cung. S Q =f (P, PĐâuvào, CN, L,CS, ) Trong đó: QS: lượng cung sản phẩm nào đó P: giá cả của bản thân hàng hoá PĐầuvào: giá cả của các yếu tố đầu vào CN: công nghệ sản xuất L: lực lượng lao động CS: chính sách của Chính phủ tác động vào nền kinh tế. (4). Biểu cung: Biểu cung là một bảng số liệu mô tả mối quan hệ giữa lượng hàng hoá mà doanh nghiệp có thể sản xuất và bán ra với từng mức giá. Ví dụ: Biểu cung về sản phẩm A trên thị trường Hà Nội thánh 12 năm 2005 Giá bán (P) đơn vị tính (triệu đồng) 10 20 30 40 50 Lượng cung (Q) đơn vị tính (sản phẩm) 0 10 20 30 40 (5). Đường cung: đường cung là đường biểu diễn mối quan hệ giữa lượng cung và giá cả trên một trục toạ độ trục tung phản ánh giá cả, trục hoành phản ảnh lượng cung. Đường cung chính là phản ánh biểu cung trên đồ thị (P,Q). Ví dụ: Mô tả đường cung của sản phẩm trên thị trường Hà Nội tháng 12 năm 2005 15
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về kinh tế học P 50 S’ S S’’ 40 30 20 10 0 10 20 30 40 Q Đường cung của sản phẩm có độ dốc dương giá tăng thì lượng tăng, khi các nhân tố khác thay đổi làm cho lượng cung giảm thì đường cung dịch chuyển sang trái; khi các nhân tố khác thay đổi làm cho lượng cung tăng thì đường cung dịch chuyển sang phải. (6) Luật cung: phát biểu giá cả và lượng cung có mối quan hệ tỷ lệ thuận. Giá tăng thì lượng cung tăng (PKJ QK; PL J QL). 1.4.3. Cân bằng cung cầu Khái niệm điểm cân bằng: Điểm cân bằng là điểm mà tại đó lượng cung bằng với lượng cầu xác định mức giá cả chung, giá cả thị trường. Q* = QS = QD; P* = PS = PD Có thể biểu diễn đường cung và đường cầu trên một trục toạ độ (P,Q), khi đó điểm cân bằng là điểm vừa nằm trên đường cung và vừa nằm trên đường cầu. P D S P1 A B E P* P2 C D * O QCB B QBAB QP P QB B QBDB Q 16
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về kinh tế học Cân bằng của thị trường chỉ là một trạng thái E(P*,Q*), trên thực tế khi giá cả cao hơn giá * thị trường P1 > P khi đó lượng cung là QB,B lượng cầu là QA; QB>B QA có một lượng dư thừa hàng hoá trên thị trường là UQ = QB - QA chính lượng dư thừa này dẫn đến cạnh tranh giữa người bán * * với người bán làm giá cả giảm xuống tới P . Nếu giá trên thị trường là P2 < P , khi đó lượng cầu (QC) nhỏ hơn lượng cung (QD). QC< QD một mức UQ = QD – QC, đây là lượng thiếu hụt hàng hoá trên thị trường dẫn đến cạnh tranh giữa người mua với người mua làm cho giá cả tăng lên từ * P2 tới P . TÓM TẮT NỘI DUNG 1. Khái niệm kinh tế học: Kinh tế học là môn học nghiên cứu xem xã hội sử dụng như thế nào nguồn tài nguyên khan hiếm để sản xuất ra những hàng hoá cần thiết và phân phối cho các thành viên trong xã hội. 2. Kinh tế học có quan hệ chặt chẽ với nhiều môn khoa học khác như: Triết học, kinh tế chính trị học, sử học, xã hội học, và đặc biệt có liên quan chặt chẽ với toán học và thống kê học. 3. Kinh tế học được chia làm 2 phân ngành lớn là kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô 4. Tuỳ theo cách thức sử dụng, kinh tế học được chia thành hai dạng kinh tế học là kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc. 5. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế học: - Kinh tế học nghiên cứu sự khán hiếm các nguồn lực một cách tương đối với nhu cầu kinh tế xã hội. - Tính hợp lý của kinh tế học - Kinh tế học là một bộ môn nghiên cứu mặt lượng - Tính toàn diện và tính tổng hợp - Kết quả nghiên cứu của kinh tế học chỉ xác định được ở mức trung bình. - Phương pháp luận nghiên cứu kinh tế học 6. Có thể khái quát phương pháp luận nghiên cứu của kinh tế học thông 4 giai đoạn như sau: - Khi nghiên cứu các hiện tượng kinh tế các nhà kinh tế thường dùng phương pháp quan sát. - Thu thập các số liệu phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu - Tiến hành phân tích với các phương pháp phân tích thích hợp - Rút ra các kết luận đối chiếu với thực tế, phát hiện ra điểm bất hợp lý, đề ra các giả thiết mới rồi lại kiểm nghiệm bằng thực tế. Quá trình này lặp đi lắp lại tới khi nào kết quả rút ra sát thực với thực tế, khi đó quá trình nghiên cứu mới kết thúc. 7. Tổ chức kinh tế của một nền kinh tế hỗn hợp - Tất cả các nền kinh tế quốc dân, trong mọi giai đoạn phát triển đều phải thực hiện ba chức năng cơ bản sau: + Sản xuất ra những hàng hoá và dịch vụ nào? với số lượng bao nhiêu? 17
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về kinh tế học + Các hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra như thế nào + Hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra cho ai? hay sản phẩm quốc dân được phân phối thế nào cho các thành viên trong xã hội. - Nền kinh tế hỗn hợp: các hệ thống kinh tế hiện nay, không mang những hình thức kinh tế thuần tuý như thị trường, chi huy hay tự nhiên, mà là sự kết hợp các nhân tố của các loại hình kinh tế. Và điều đó gọi là nền kinh tế hỗn hợp. Trong nền kinh tế hỗn hợp các thể chế công cộng và tư nhân đều có vai trò kiểm soát kinh tế. Thông qua bàn tay “vô hình” của thị trường và bàn tay “hữu hình” của Nhà nước. Các nhà kinh tế chia các tác nhân trong nền kinh tế hỗn hợp thành 4 nhóm, nhằm giải thích hành vi và phương thức thực hiện các chức năng chủ yếu của từng nhóm. Các nhóm này tác động qua lại lẫn nhau tạo thành một hệ thống kinh tế hỗn hợp. a. Người tiêu dùng cuối cùng: Người tiêu dùng cuối cùng là tất cả các cá nhân và hộ gia đình, họ mua hàng hoá và dịch vụ để thoả mãn những nhu cầu tiêu dùng của họ. b. Các doanh nghiệp: Các doanh nghiệp là người sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ cung cấp cho xã hội, mục đích của họ khi thức hiện ba chức năng cơ bản sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? là thu được lợi nhuận cao nhất trong giới hạn nguồn lực của mình. c. Chính phủ: Trong nền kinh tế hỗn hợp Chính phủ đồng thời vừa là người sản xuất và vừa là người tiêu dùng nhiều hàng hoá dịch vụ. Chính phủ tiêu dùng phục vụ vai trò quản lý điều hành của Chính phủ. Chính phủ là người sản xuất cũng giống như doanh nghiệp tư nhân, nhưng nó phức tạp hơn nhiều bởi vai trò quản lý kinh tế của Chính phủ d. Người nước ngoài: Các cá nhân, các doanh nghiệp, Chính phủ nước ngoài tác động đến các hoạt động kinh tế diễn ra ở một nước thông qua việc mua bán hàng hoá và dịch vụ, vay mượn, viện trợ và đầu tư nước ngoài. 8. Các yếu tố sản xuất:Yếu tố sản xuất là đầu vào của quá trình sản xuất và được phân chia thành 3 nhóm: - Đất đai và tài nguyên thiên nhiên - Lao động - Tư bản 9. Giới hạn khả năng sản xuất: Đường giới hạn khả năng sản xuất là một đường biểu diễn tập hợp tất cả các phương án sản xuất có hiệu quả; phương án sản xuất có hiệu quả là phương án mà tại đó muốn tăng một đơn vị sản phẩm đâu ra nào đó thì buộc phải cắt giảm đi những đơn vị sản phẩm đầu ra khác. 10. Chi phí cơ hội: Chi phí cơ hội là chi phí lớn nhất của các phương án bị bỏ lỡ. 11. Quy luật thu nhập giảm dần được phát biểu như sau: Số lượng sản phẩm đầu ra có thêm sẽ ngày càng giảm nếu liên tiếp bỏ thêm từng đơn vị yếu tố đầu biến đổi vào nào đó với các yếu tố đầu vào khác chưa thay đổi. 12. Quy luật chi phí tương đối ngày càng tăng được phát biểu như sau: để có thêm một số bằng nhau về một mặt hàng nào đó thì xã hội phải hi sinh ngày càng nhiều số lượng mặt hàng khác. 13. Khái niệm cầu: Cầu là số lượng hàng hoá và dịch vụ nào đó mà người mua muốn mua, có khả năng mua, sẵn sàng mua ứng với từng mức giá trong một khoảng thời gian nào đó với các nhân tố ảnh hưởng đến cầu khác chưa thay đổi. 18
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về kinh tế học 14. Hàm số cầu: Cầu là một hàm số biểu diễn mối quan hệ giữa lượng cầu và các nhân tố D ảnh hưởng đến cầu: Q = f (P, Pliênquan, TN, CS, TL, ) Trong đó: QD là lượng cầu; P giá cả của bản thân hàng hoá; Pliênquan là giá cả hàng hoá liên quan TN: thu nhập của dân chung CS: chính sách của Chính phủ TL: tâm lý thói quen của người tiêu dùng. 15. Biểu cầu: Biểu cầu là một bảng số liệu mô tả mối quan hệ giữa lượng hàng hoá mà người tiêu dùng mua ứng với từng mức giá. 16. Đường cầu: Đường cầu là đường biểu diễn mối quan hệ giữa lượng cầu và giá cả của một hàng hoá, dịch vụ nào đó trên một trục toạ độ. Trục tung phản ánh giá, trục hoành phản ánh lượng cầu. Nói cách khác đường cầu mô tả biểu cầu trên đồ thị. 17. Luật cầu: Luật cầu thể hiện mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa giá cả và lượng cầu đối với hàng hoá thông thường (PKJ QL; PL J QK) 18. Khái niệm cung: Cung là số lượng hàng hoá, dịch vụ nào đó mà doanh nghiệp có khả năng sản xuất và bán ra ứng với từng mức giá và trong một gới hạn nguồn lực nhất định. 19. Hàm số cung: Cung là một hàm số biểu diễn mối quan hệ giữa lượng cung và các nhân tố ảnh hưởng đến cung. S Q =f (P, PĐâuvào, CN, L,CS, ) Trong đó: QS: lượng cung sản phẩm nào đó P: giá cả của bản thân hàng hoá PĐầuvào: giá cả của các yếu tố đầu vào CN: công nghệ sản xuất L: lực lượng lao động CS: chính sách của Chính phủ tác động vào nền kinh tế. 20. Biểu cung: Biểu cung là một bảng số liệu mô tả mối quan hệ giữa lượng hàng hoá mà doanh nghiệp có thể sản xuất và bán ra với từng mức giá. 21. Đường cung: đường cung là đường biểu diễn mối quan hệ giữa lượng cung và giá cả trên một trục toạ độ trục tung phản ánh giá cả, trục hoành phản ảnh lượng cung. Đường cung chính là phản ánh biểu cung trên đồ thị (P,Q). 22. Luật cung: Phát biểu giá cả và lượng cung có mối quan hệ tỷ lệ thuận. Giá tăng thì lượng cung tăng (PKJ QK; PL J QL) 23. Cân bằng cung cầu: Điểm cân bằng là điểm mà tại đó lượng cung bằng với lượng cầu xác định mức giá cả chung, giá cả thị trường. 19
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về kinh tế học CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP CÂU HỎI LÝ THUYẾT 1. Kinh tế học là gì? sự khác nhau giữa kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô. 2. Thế nào là nền kinh tế hỗn hợp? Các tác nhân trong nền kinh tế hỗn hợp, tác động qua lại giữa chúng? 3. Giới hạn khả năng sản xuất là gì? cho ví dụ minh hoạ. 4. Chi phí cơ hội, ý nghĩa kinh tế của chi phí cơ hội? cho ví dụ minh hoạ? BÀI TẬP 5. Hình dưới đây mô tả khả năng sản xuất về sản phẩm A và sản phẩm B a. Hãy xét xem trong số những kết hợp của 2 hàng hoá dưới đây, điểm nào là điểm có hiệu quả, không hiệu quả, hoặc không thể đạt được. B 1. 60 sản phẩm B và 200 sản phẩm A. 2. 60 sản phẩm B và 80 sản phẩm A 3. 300 sản phẩm A và 40 sản phẩm B 80 4. 300 sản phẩm A và 35 sản phẩm B 60 5. 200 sản phẩm B và 80 sản phẩm A. 40 20 100 200 300 400 A b. Giả sử nền kinh tế đang sản xuất dược 300 sản phẩm A và 40 sản phẩm B, nhưng lại muốn sản xuất thêm 20 sản phẩm B nữa. Trên đường giới hạn khả năng sản xuất, hãy xác định số lượng sản phẩm A bị cắt giảm để có thể sản xuất thêm được số lượng sản phẩm B. c. Nếu tiếp tục sản xuất thêm 20 sản phẩm B nữa, thì phải hi sinh thêm bao nhiêu sản phẩm A mới có thể sản xuất thêm được số lượng sản phẩm B tăng thêm. d. Có thể rút ra kết luận gì khi so sánh kết quả trả lời của câu b và c 6. Hình dưới đây chỉ ra sự lựa chọn của xã hội giữa các dịch vụ xã hội do Chính phủ cung cấp và hàng hoá cá nhân trên đường giới hạn khả năng sản xuất. Ba điểm A,B,C biểu hiện sự can thiệp của Chính phủ thông qua các dịch vụ xã hội. Hãy tìm các điểm cho thích hợp với các câu hỏi sau: 20
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về kinh tế học Dịch vụ xã hội a. Một nền kinh tế mà Chính phủ can thiệp càng ít càng tốt, chỉ cung cấp khối lượng các dịch vụ cần thiết và tối thiểu. 80 . A b. Nền kinh tế mà Chính phủ chịu trách nhiệm rất nhiều, 60 cung cấp dịch vụ ở mức tối đa. c. Nền kinh tế ở đó có sự kết hợp vai trò chi phối của 40 . B Chính phủ, và kinh tế tư nhân phát triển. 20 C Hàng hoá cá nhân 7. Giả sử rằng biểu cung và cầu về sản phẩm A trên thị trường Việt Nam tháng 12 năm 2004 như sau Giá sản phẩm A đơn Lượng cầu sản phẩm Lượng cung sản phẩm A vị tính (1.000VND) A (1000 sản phẩm) (1000 sản phẩm) 16 60 180 14 80 140 12 100 100 10 120 60 8 140 20 a. Hãy biểu diễn các đường cung, cầu sản phẩm A trên đồ thị. Hãy xác định giá và sản lượng cân bằng. b. Chỉ ra ảnh hưởng của giá sản phẩm đầu vào để sản xuất ra sản phẩm A giảm đến giá và sản lượng cân bằng của sản phẩm A. Minh hoạ kết quả bằng đồ thị. c. Chỉ ra ảnh hưởng của việc tăng giá sản phẩm thay thế với sản phẩm A đến giá và sản lượng cân bằng của sản phẩm A. Minh hoạ bằng đồ thị. 8. Hãy đánh dấu (X) vào những ô tại đó có những yếu tố ảnh hưởng tới đường cung, cầu (khi nghiên cứu yếu tố nào đó giả định các yếu tố khác không đổi) Sự dịch Sự di Sự dịch Sự di chuyển chuyển chuyển chuyển trên Các yếu tố ảnh hưởng đường tên đường đường đường cầu cầu cung cung (a) (b) (c) (d) Giá hàng thay thế thay đổi Áp dụng công nghệ sản xuất mới Hàng hoá này trở thành mốt Thu nhập thay đổi Gá đầu vào của sản xuất thay đổi 21
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về kinh tế học HÃY LỰA CHỌN CÂU TRẢ LỜI ĐÚNG VÀ GIẢI THÍCH 9. Ba vấn đề kinh tế: Sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai chỉ áp dụng: a. Chủ yếu cho các xã hội mà nền kinh tế hoạt động theo nguyên tắc kế hoạch hoá tập trung. b. Chỉ áp dụng cho các xã hội tư bản chủ nghĩa c. Chỉ áp dụng cho xã hội kém phát triển d. Cho tất cả các xã hội, trong mọi giai đoạn phát triển hay mọi thể chế chính trị. e. Không nhất thiết áp dụng với các xã hội nêu trên, bởi vì chúng là các vấn đề nẩy sinh đối với doanh nghiệp tư nhân hoặc gia đình chứa không phải đối với xã hội. 10. Đường cầu hàng hoá X cho biết: a. Số tiền chi mua hàng hoá X sẽ thay đổi như thế nào khi giá của nó thay đổi. b. Bao nhiêu hàng hoá X sẽ được người mua tại mức giá cân bằng c. Số lượng hàng hoá X được cung cấp trong từng thời kỳ theo mỗi mức giá, khi các nhân tố tác động đến lượng bán được giữ không đổi. d. Một số lượng hàng hoá X được mọi người mua trong từng thời kỳ, theo mỗi mức giá, khi các nhân tố tác động đến cầu được coi như không đổi. 11. Nếu đường cầu dịch chuyển sang trái, thì một cách giải thích hợp lý nhất đối với sự dịch chuyển đó là: a. Về một lý do nào đó làm lượng cung hàng hoá X giảm xuống b. Thị hiếu người tiêu dùng thay đổi theo hướng họ thích hàng hoá này hơn và họ muốn mua nhiều hơn đối với mọi mức giá. c. Mức giá hàng hoá X tăng lên làm cho mọi người quyết định mua ít hàng hoá này hơn so với trước d. Vì một lý do nào khác không phải lý do nêu trên 12. Chi phí cơ hội là: a. Là các chi phí cần phải chi ra để thực hiện phương án kinh doanh nào đó b. Là khoản chi phí tăng thêm để sản xuất ra hàng hoá dịch vụ tăng thêm d. Là chi phí lớn nhất của các phương án bị bỏ lỡ e. Là chi phí không được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. 22
- Chương 2: Khái quát về kinh tế học vĩ mô CHƯƠNG II: KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ HỌC VĨ MÔ GIỚI THIỆU Mục tiêu chủ yếu của chương này là nhằm giới thiệu đối tượng nghiên cứu của kinh tế Vĩ mô, mục tiêu và các chính sách kinh tế vĩ mô, cũng như công cụ chủ yếu được sử dụng trong phân tích kinh tế vĩ mô. Kinh tế Vĩ mô nghiên cứu hoạt động của toàn bộ nền kinh tế Quốc dân nói chung và quan tâm đến những vấn đề mà bất cứ một quốc gia nào trong cơ chế thị trường đều gặp phải đó là: Làm thế nào để tăng trưởng nhanh và ổn định; Làm thế nào để kiềm chế lạm phát; Làm thế nào để tạo ra nhiều việc làm cho người lao động; Làm thế nào để ổn định tỷ giá hối đoái và cân bằng cán cân thanh toán; làm thế nào để phân bổ nguồn lực một cách hợp lý và phân phối của cải một cách công bằng giữa các thành viên trong xã hội. Muốn giải quyết được các vấn đề nêu trên một cách có căn cứu khoa học, kinh tế vĩ mô cố gắng mô tả và giải thích sự vận động của guồng máy kinh tế quốc dân bằng cách nghiên cứu mối quan hệ giữa các tổng lượng kinh tế vĩ mô chủ yếu như: tổng sản phẩm quốc dân, mức giá cả chung, lãi suất, tỷ giá hối đoái, Với phương pháp cơ bản mà kinh tế vĩ mô sử dụng là phương pháp phân tích cân bằng tổng thể, phương pháp mô hình hoá và phân tích thống kế số lớn. Mục tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản là được sự ổn định trong nắng hạn, tăng trưởng nhanh trong dài hạn và phân phối của cải công bằng. Để đạt được mục tiêu ổn định, Nhà nước cần phải sử dụng các công cụ là các chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách thu nhập, Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, thì Nhà nước thường phải sử dụng các chính sách như chính sách tiết kiệm, chính sách đầu tư, chính sách công nghệ, chính sách giáo dục và dân số, Phân tích tổng cung – tổng cầu là phương pháp phân tích kinh tế vĩ mô cơ bản nhằm lý giải vì sao có những giao động trong giá cả và sản lượng và làm thế nào mà Nhà nước có thể ổn định được nền kinh tế. Cân bằng dài hạn đạt được khi tổng cầu bằng với tổng cung dài hạn. Nền kinh tế đạt được sản lượng cao nhất vì khi đó lao động được thu hút vào sản xuất nhiều nhất, các nguồn lực khác được sử dụng hợp lý, sản lượng đạt được sản lượng tiềm năng, giá cả hầu như không thay đổi, thất nghiệp chỉ là thất nghiệp tự nhiên. Cân bằng ngắn hạn có thể tương ứng với trạng thái lạm phát hoặc thất nghiệp, tuỳ thuộc vào nền kinh tế hoạt động quá mức hay dưới mức tiềm năng. Chính vì nền kinh tế thị trường luôn luôn gặp phải những vấn đề như tăng trưởng chậm, lạm phát cao, thất nghiệp, kinh tế vĩ mô tập trung vào nghiên cứu mối quan hệ giữa 3 biến số này. Các nghiên cứu cho thấy giữa tăng trưởng và tổng sản phẩm và vấn đề thất nghiệp có mối quan hệ cố hữu với nhau. Tăng trưởng trưởng nhanh thì thất nghiệp giảm và ngược lại. Nhà kinh tế học Okun đã lượng hoá mối quan hệ này bằng quy luật Ohun. Quy luật Okun cho thấy khi sản lượng thực tế lớn hơn sản lượng tiềm năng 2,5% thì tỷ lệ thất nghiệm giảm đi 1%. 23
- Chương 2: Khái quát về kinh tế học vĩ mô Các nhà kinh tế cũng đã tìm ra trong ngắn hạn lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ tỷ lệ nghịch. Muốn giảm lạm phát thì hầu như các quốc gia đều phải thu hẹp sản xuất làm cho thất nghiệp cao hơn và ngược lại. Tuy vậy trong dài hạn cho đến nay người ta chưa tìm thấy lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ nào. Sau khi nghiên cứu song chương này, người học cần phải nắm được lý thuyết và sử dụng lý thuyết để giải quyết các bài tập giả định dưới các dạng như: - Phân biệt các yếu tố tác động đến tổng cầu, tổng cung của nền kinh tế, và biểu thị sự tác động đó trên đồ thị tổng cung, tổng cầu. - Hiểu ý nghĩa và cách xác định tỷ lệ tăng trưởng, tỷ lệ lạm phát, chỉ số giá và mức giá chung. - Vận dụng quy luật Okun để dự đoán tỷ lệ tăng trưởng, tỷ lệ thất nghiệp, khi biết các yếu tố còn lại. NỘI DUNG 2.1. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA KINH TẾ HỌC VĨ MÔ 2.1.1. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế học Vĩ mô Kinh tế vĩ mô là một phân ngành của kinh tế học nghiên cứu sự vận động và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất nước trên bình diện toàn bộ nền kinh tế Quốc dân. Những vấn đề then chốt được kinh tế học Vĩ mô quan tâm nghiên cứu bao gồm mức sản xuất, thất nghiệp, mức giá cả chung và cán cân thương mại của một nền kinh tế. Phân tích kinh tế vĩ mô hướng vào giải đáp câu hỏi: Điều gì quyết định giá trị hiện tại của các biến số này? Điều gì quyết định sự thay đổi của các biến số này trong ngắn hạn và dài hạn?. Nói một cách khác, kinh tế vĩ mô nghiên cứu sự lựa chọn của mối quốc gia trước những vấn đề kinh tế và xã hội cơ bản như: Tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, xuất nhập khẩu hàng hoá và tư bản, sự phân phối nguồn lực và phân phối thu nhập giữa các thành viên trong xã hội. Một quốc gia có thể có những lựa chọn khác nhau tuỳ thuộc vào các ràng buộc về nguồn lực kinh tế và hệ thống chính trị – xã hội. Song sự lựa chọn đúng đắn nào cũng cần đến sự hiểu biết sâu sắc về các hoạt động mang tính khách quan về hệ thống kinh tế. 2.1.2. Phương pháp nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô Trong khi phân tích các hiện tượng và mỗi quan hệ kinh tế quốc dân, kinh tế vĩ mô sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cân bằng tổng thể. Theo phương pháp này, kinh tế vĩ mô xem xét sự cân bằng đồng thời của tất cả các thị trường, của thị trường hàng hoá, thị trường các yếu tố đầu vào, thị trường tài chính. xem xét đồng thời khả năng cung cấp sản lượng của toàn bộ nền kinh tế, khả năng tiêu dùng của toàn bộ nền kinh tế, từ đó xác định đồng thời mức giá cả và sản lượng cân bằng của nền kinh tế. Đây là nhân tố quyết định đến hiệu quả của hệ thống kinh tế. Thực chất việc khảo sát mỗi biến số này trong những khoảng thời gian khác nhau hiện tại, ngắn hạn, dài hạn. Mỗi khoảng thời gian đòi hỏi chúng ta phải sử dụng các mô hình thích hợp để tìm ra các nhân tố quyết định đến các biến số kinh tế vĩ mô này. Kinh tế học vĩ mô sẽ cung cấp 24
- Chương 2: Khái quát về kinh tế học vĩ mô những kiến thức và công cụ phân tích kinh tế thích hợp. Những kiến thức và công cụ phân tích này đã được đúc kết từ nhiều công trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa học kinh tế thuộc nhiều thế hệ khác nhau. Ngoài ra kinh tế vĩ mô còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu, phân tích phổ biến như tư duy trừu tượng, phân tích thống kê số lớn, mô hình toán và đặc biệt là các mô hình kinh tế lượng chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong phân tích kinh tế vĩ mô. 2.2. HỆ THỐNG KINH TẾ VĨ MÔ 2.2.1. Mô tả hệ thống kinh tế Vĩ mô Có nhiều cách mô tả hoạt động của một nền kinh tế, theo cách tiếp cận hệ thống, thì nền kinh tế được xem như là một hệ thống gọi là hệ thống kinh tế vĩ mô. Hệ thống này theo nhà kinh tế học P.A Samuelson mô ta được đặc trưng bởi 3 yếu tố: Đầu vào, đầu ra và hộp đen kinh tế vĩ mô (1). Các yếu tố đầu vào gồm: Những tác động từ bên ngoài của một nền kinh tế bao gồm chủ yếu là các biến số phi kinh tế: Thời tiết, dân số, chiến tranh, Những tác động từ chính sách của Chính phủ ở mỗi quốc gia bao gồm: Các công cụ của Nhà nước nhằm điều chỉnh hộp đen kinh tế vĩ mô, hướng vào các mục tiêu đã định trước. (2). Các yếu tố đầu ra của nền kinh tế: bao gồm sản lượng sản xuất, việc làm, giá cả, xuất nhập khẩu, đó là các biến số đo lường kết quả hoạt động của hộp đen kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ. (3). Hộp đen kinh tế vĩ mô: đây là yếu tố trung tâm của hệ thống được coi là nền kinh tế vĩ mô (Macroeconomy). Hoạt động của hộp đen như thế nào sẽ quyết định đến chất lượng của các biến số đầu ra. Hai lực lượng chủ yếu quyết định đến hoạt động của hộp đen kinh tế vĩ mô là tổng cung và tổng cầu. Tổng cung và tổng cầu là hai thuật ngữ được các nhà kinh tế sử dụngthường xuyên trong phân tích kinh tế vĩ mô. Chúng là các lực lượng làm cho nền kinh tế thị trường hoạt động. Chúng quyết định sản lượng hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra và mức giá cả chung của nền kinh tế. Nếu muốn biết một chính sách kinh tế hay một biến cố ảnh hưởng đế nền kinh tế như thế nào, thì trước hết phải xem nó ảnh hưởng đến tổng cầu và tổng cung như thế nào. Mô hình tổng cầu và tổng cung chỉ ra cách thức mà tổng cầu, tổng cung quyết định mức giá cả và sản lượng trong một nền kinh tế. Hai biến số được mô hình tập trung giải thích tổng hàng hoá và dịch vụ được đo bằng (GNP) hoặc (GDP) thực tế và mức giá cả chung được đo bằng chỉ số giá (PI) hoặc chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Các nhà kinh tế thường sử dụng đồ thị đề biểu diễn tổng cung và tổng cầu trong đó trục hoành biểu thị sản lượng (GNP) hoặc (GDP), trục tung biểu thị mức giá cả (PI) hoặc (CPI). 2.2.2. Tổng cung của nền kinh tế (Aggregate Supply -AS) (1). Khái niệm tổng cung: Tổng cung là tổng khối lượng sản phẩm quốc dân mà các hãng kinh doanh sẽ sản xuất và bán ra trong từng thời kỳ tương ứng với mức giá cả chung và khả năng sản xuất. 25
- Chương 2: Khái quát về kinh tế học vĩ mô (2). Mức sản lượng tiềm năng: Đó là mức sản lượng tối đa mà nền kinh tế có thể sản xuất ra trong điều kiện toàn dụng nhân công, mà không gây nên lạm phát. Sản lượng tiềm năng phụ thuộc vào việc sử dụng các yếu tố sản xuất đặc biệt là yếu tố lao động. (3). Đường tổng cung trong ngắn hạn và dài hạn. Đường tổng cung là đường biểu diễn mối quan hệ giữa sản lượng sản xuất ra và mức giá cả chung. Cần phân biệt giữa đường tổng cung dài hạn và ngắn hạn. Đường tổng cung dài hạn (ASLR) là liên hệ giữa sản lượng và mức giá trong thời gian đủ dài để giá cả và các yếu tố đầu vào khác hoàn toàn linh hoạt. Đường tổng cung ngắn hạn (AS) là quan hệ giữa sản lượng và giá cả chung với giả thiết là giá cả các yếu tố đầu vào cố định chưa thay đổi. Đường tổng cung dài hạn là đường thẳng đứng còn đường tổng cung ngắn hạn là đường có độ dốc dương. IP PI ASLR ASSR’ ASSR AS SR’’ Y* GNP Y* GNP Hình 2.1: Đường tổng cung dài hạn Hình 2.2: Đường tổng cung ngắn hạn a. Đường tổng cung trong dài hạn: Đường tổng cung trong dài hạn là đường song song với trục tung và cắt trục hoành tại mức sản lượng tiềm năng. Vì trong dài hạn khi giá cả điều chỉnh đủ mạnh để mọi thị trường, không chỉ thị trường tài chính, thị trường hàng hoá mà cả thị trường các yếu tố sản xuất đều ở trạng thái cân bằng. Cân bằng thị trường các yếu tố sản xuất có nghĩa là mọi nguồn lực được sử dụng đầy đủ và hiệu quả, nên sản lượng không tăng nữa. Khi đó cung về hàng hoá và dịch vụ chỉ phụ thuộc vào cung các yếu tố sản xuất như tư bản, tài nguyên thiên nhiên, lao động và trình độ công nghệ của nền kinh tế. Mà không phụ thuộc vào giá cả (giá tăng nhưng tổng cung không đổi và bằng sản lượng tiềm năng Y*) Đường tổng cung dài hạn biểu thị mức sản lượng tạo ra khi các nguồn lực được sử dụng hết đầy đủ và được gọi là sản lượng tiềm năng. Do đó bất kỳ yếu tố sản xuất nào thay đổi sẽ làm sản lượng tiềm năng thay đổi và làm dịch chuyển đường tổng cung dài hạn. b. Đường tổng cung trong ngắn hạn: Về mặt ngắn hạn, đường tổng cung ban đầu tương đối nằm ngang, khi vượt qua mức sản lượng tiềm năng thì đường tổng cung sẽ dốc ngược lên. Điều này nói nên rằng khi ở dưới mức sản lượng tiềm năng một sự thay đổi nhỏ về giá cả đầu ra 26
- Chương 2: Khái quát về kinh tế học vĩ mô sẽ khuyến khích các doanh nghiệp tăng nhanh mức sản lượng để đáp ứng nhu cầu đang tăng lên. Sở dĩ các doanh nghiệp hành động như vậy vì trong khoảng thời gian ngắn hạn, đứng trước các đầu vào cố định họ có thể huy động đầu vào lao động còn dư để tăng sản lượng. Còn vượt qua mức sản lượng tiềm năng các yếu tố sản xuất đã được sử dụng hết, sản lượng không tăng mà chỉ có giá tăng. (Hình 2.2) Sự dịch chuyển đường tổng cung ngắn hạn được gọi là cú sốc cung. Những nhân tố làm dịch chuyển đường tổng cung dài hạn cũng sẽ làm dịch chuyển đường tổng cung ngắn hạn. Bên cạnh các nhân tố đó thì đường tổng cung ngắn hạn còn dịch chuyển khi giá cảc các yếu tố đầu vào thay đổi. Nếu mức giá đầu vào tăng thì làm tăng chi phí sản xuất làm cho AS dịch chuyển sang trái sang ASSR’ trên hình 2.2 (thu hẹp khả năng sản xuất). Nếu mức giá đầu vào giảm làm cho chi phí sản xuất giảm làm cho khả năng sản xuất mở rộng ra đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển sang phải ASSR’’ (hình 2.2) 2.2.3. Tổng cầu của nền kinh tế (Aggregate Demand - AD) (1). Khái niệm về tổng cầu: Tổng cầu là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà các tác nhân trong nền kinh tế sẵn sàng và có khả năng mua ứng với từng mức giá cả chung, thu nhập và các biến số khác không đổi. Tổng cầu bao gồm chi tiêu của hộ gia đình, chi tiêu của doanh nghiệp, chi tiêu của Chính phủ và xuất khẩu ròng, và có rất nhiều biến số quyết định đến mức sản lượng mà các tác nhân trong nền kinh tế sử dụng. Khi các nhân tố này thay đổi thì sẽ làm cho tổng cầu thay đổi. (2). Đường tổng cầu: Đường tổng cầu là đường biểu diễn mối quan hệ giữa tổng sản phẩm và mức giá cả chung mà các tác nhân trong nền kinh tế chi tiêu. Với trục tung biểu thị mức giá cả chung, trục hoành biểu thị mức sản lượng thì đường tổng cầu dốc xuống (có độ dốc âm) PI PI AD AD’ AD AD’’ PI1 A PI2 B Y Y Y1 Y 2 Hình 2.3: Mô hình đường tổng cầu Hình 2.4: Mô hình dịch chuyển đường tổng cầu 27
- Chương 2: Khái quát về kinh tế học vĩ mô Đường cầu có độ dốc âm, điều này có nghĩa khi mức giá cả chung giảm đi thì tổng cầu tăng và ngược lại.Trên hình 2.3 cho thấy nếu mức giá là PI1 thì Lượng tổng cầu là Y1, khi mức giá giảm xuống PI2 thì tổng cầu là Y2 (Y1 > Y2). Tổng cầu sẽ di chuyển từ điểm A đến điểm B trên đường tổng cầu. Khi các nhân tố ảnh hưởng tới các thành phần chi tiêu của tổng cầu như thay đổi trong tiêu dùng cá nhân, đầu tư của doanh nghiệp, chi tiêu của Chính phủ, xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ thì sẽ làm cho đường tổng cầu dịch chuyển. Nếu làm cho tổng cầu tăng thì đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang phải. Nếu làm cho tổng cầu giảm thì đường tổng cầu dịch chuyển sang bên trái. Trên hình 2.4 cho thấy nếu tổng cầu tăng làm cho đường tổng cầu dịch chuyển tới AD’’, làm cho đường tổng cầu giảm thì AD sẽ dịch chuyển sang AD’. 2.2.3. Mô hình cân bằng tổng cung - tổng cầu (AS - AD) Nếu biểu diễn cả đường tổng cung và đường tổng cầu trên một trục toạ độ , trục tung là mức giá cả chung, trục hoành mức sản lượng. Tổng cung là đường dốc lên, tổng cầu là đường dốc xuống thì AD cắt AS tại mức sản lượng là Y* khi đó mức giá cả chung là PI* điểm E (Y*,PI*) là điểm cân bằng của nền kinh tế. Tại điểm cân bằng bao nhiêu sản phẩm sản xuất ra thì tiêu dùng hết bấy nhiêu, không có sản phẩm dư thừa hay thiếu hụt. Trạng thái cân bằng không có nghĩa là một trạng thái tối ưu hay trang thái đang mong muốn của nền kinh tế. Nó có thể tương ứng với trạng thái phát triển quá nóng (khi sản lượng cao hơn mức sản lượng tiềm năng và lạm phát cao) hoặc nền kinh tế đang lâm vào suy thoái (khi sản lượng thấp hơn mức sản lượng tiềm năng). Trạng thái cân bằng chỉ đơn giản phản ánh xu thế mà nền kinh tế sẽ tồn tại trong những điều kiện nhất định. PI PI ASLR AS0 PI2 AS PI0 A AS1 PI0 E PI1 B PI1 PI2 C AD0 AD AD1 Y0 Y * Y1 Y Y Hình 2.6: Ảnh hưởng của sự cắt giảm Hình 2.5: Mô hình cân bằng AD – AS tổng cầu đến sản lượng và mức giá 28
- Chương 2: Khái quát về kinh tế học vĩ mô 2.2.4 Nguyên nhân gây ra biến động kinh tế ngắn hạn Khi phân tích cách thức tác động của sự kiện kinh tế nào đó tới thị trường thường được tiến hành theo ba bước cơ bản sau: Thứ nhất: Xác định xem sự kiện xảy ra tác động tới đường tổng cung hay tổng cầu hay cả hai. Thứ hai: Xác định các đường này dịch chuyển sang phải hay sang trái. Thứ ba: Sử dụng đồ thị đường tổng cung tổng cầu để xem xét sự dịch chuyển đó tác động tới mức giá cả và sản lượng cân bằng như thế nào. a. Các cú sốc cầu: Khi đường tổng cung có độ dốc dương, các nhân tố ngoại sinh tác động đến tổng cầu sẽ làm dao động sản lượng và mức giá. Sự dao động của sản lượng xung quanh mức sản lượng tiềm năng được gọi là chu kỳ kinh doanh. Chính phủ có thể tác động đến tổng cầu thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô để ổn định nền kinh tế. Ví dụ: Giả sử nền kinh tế của một quốc gia đang ở trạng thái cân bằng tại mức sản lượng * tiềm năng trên hình 2.6 AD0 x ASLR tại A(Y,PI0) . Nếu các doanh nghiệp và hộ gia đình đột nhiên trở nên thấy bi quan về triển vọng phát triển của nền kinh tế dó đó chi tiêu ít hơn, làm cho đường tổng cầu AD0 dịch chuyển đến AD1. Trong thời gian ngắn hạn tổng cung ban của nền kinh tế được biểu thị bởi đường AS0, AS0 xAD0 tại điểm A. Khi tổng cầu dịch chuyển tới AD0 điểm * cân bằng mới là B(Y1,PI1) giao điểm của AD1 và AS0. Sản lượng cân bằng giảm từ Y đến Y1, mức giá giảm từ P0 xuống P1. Sự cắt giảm sản lượng cho thấy nền kinh tế đang lâm vào suy thoái. Các doanh nghiệp phản ứng lại bằng cách cắt giảm một số việc làm và thất nghiệp trong nền kinh tế sẽ tăng. Chính phủ có thể dùng chính sách của mình (chính sách tài khoá hay chính sách tiền tệ) để tác động tổng cầu làm cho đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 tới AD0 sản lượng cân bằng sẽ dịch chuyển từ B tới A. Nếu Chính phủ không áp dụng các chính sách điều tiết nền kinh tế thì, tự bản thân nền kinh tế cũng sẽ tự điều chỉnh phục hồi sau một khoảng thời gian. Dưới sức ép của thất nghiệp tiền lương có thể giảm xuống làm cho chi phí giảm đường tổng cung dịch chuyển dần về bên phải tới AS1 Nền kinh tế đạt cân bằng tại điểm C. Tại điểm C thì sản lượng bằng với sản lượng tiềm năng * (Y ) nhưng giá cả đã giảm tới PI2 thấp hơn PI0 (mô tả trên hình 2.6). b. Các cú sốc cung Các cú sốc cung xẩy ra do sự thay đổi giá cả các yếu tố đầu vào hay sự thay đổi các nguồn lực trong nền kinh tế. Các cú sốc làm giảm tổng cung gọi là các cú sốc bất lợi. Ngược lại các cú sốc làm tăng tổng cung gọi là các cú sốc có lợi. 2.3. MỤC TIÊU VÀ CÔNG CỤ TRONG NỀN KINH TẾ Ở phần 2.2 đã mô tả một cách khái quát sự hoạt động của hệ thống kinh tế vĩ mô. Trong hệ thống đó Nhà nước sử dụng các công cụ chính sách để tác động đến tổng cung và tổng cầu một cách có chủ đích nhằm đạt được mục tiêu nhất định 29
- Chương 2: Khái quát về kinh tế học vĩ mô 2.3.1 Các mục tiêu kinh tế vĩ mô Kết quả kinh tế của một nước thường được đánh giá theo ba dấu hiệu chủ yếu là: Ổn định, tăng trưởng và công bằng xã hội: - Sự ổn định kinh tế là kết quả của việc giải quyết tốt những vấn đề kinh tế cấp bách trong thời kỳ ngắn hạn như: Lạm phát, suy thoái, thất nghiệp. - Tăng trưởng kinh tế đỏi hỏi giải quyết tốt những vấn đề dài hạn có liên quan tới việc phát triển kinh tế - Công bằng trong phân phối vừa là vấn đề xã hội vừa là vấn đề kinh tế Để đạt được sự ổn định, tăng trưởng và công bằng các chính sách kinh tế vĩ mô phải hướng tới các mục tiêu cụ thể sau: 1. Mục tiêu sản lượng: - Đạt mức sản lượng cao tương ứng với mức sản lượng tiềm năng. Để đạt được điều này thì nền kinh tế phải tận dụng và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực. - Tốc độ tăng trưởng cao và vững chắc. 2. Mục tiêu việc làm - Tạo ra nhiều việc làm tốt. - Hạ thấp được tỷ lệ thất nghiệp và duy trì tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. 3. Mục tiêu ổn định giá cả: - Hạ thấp được tỷ lệ lạm phát - Kiểm soát được lạm phát trong điều kiện thị trường tự do. 4. Mục tiêu kinh tế đối ngoại - Ổn định tỷ giá hối đoái - Cân bằng cán cân thanh toán. 5. Phân phối công bằng: thông qua chính sách phân phối lần đầu và phân phối lại của nền kinh tế. Các mục tiêu trên thể hiện một trạng thái lý tưởng, trong đó sản lượng đạt mức sản lượng tiềm năng, mức thất nghiệp bằng thất nghiệp tự nhiên, lạm phát thấp có thể kiểm soát được, cán cân thanh toán cân bằng, tỷ giá hối đoái hầu như không đổi. Trong thực tế, thì các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm tối thiểu hoá các sai lệch thực thế so với trạng thái lý tưởng. Các mục tiêu thường bổ sung cho nhau, trong chừng mực hướng vào việc bảo đảm việc tăng trưởng kinh tế. Song trong một số trường hợp xuất hiện những xung đột, mâu thuẫn cục bộ, các nhà làm chính sách cần phải lựa chọn thứ tự ưu tiên và đôi khi cần phải chấp nhận hi sinh nào đó trong thời kỳ ngắn hạn. Trong dài hạn thứ tự ưu tiên để giải quyết các mục tiêu kinh tế vĩ mô trên cũng khác nhau giữa các nước. Với các nước đang phát triển thì mục tiêu tăng trưởng thường được ưu tiên số một. 30
- Chương 2: Khái quát về kinh tế học vĩ mô 2.3.2 Các chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu 2.3.2.1. Chính sách tài khoá Chính sách tài khoá nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của Chính phủ nhằm hướng nền kinh tế vào một mức sản lượng và việc làm mong muốn. Chính sách tài khoá có hai công cụ chủ yếu đó là chi tiêu của Chính phủ và thuế. - Chi tiêu của Chính phủ có ảnh hưởng trực tiếp đến chi tiêu công cộng, do đó nó tác động trực tiếp đến tổng cầu và sản lượng. - Thuế làm giảm các khoản thu nhập, do đó làm giảm chi tiêu của khu vực tư nhân, từ đó cũng tác động đến tổng cầu và sản lượng. Thuế cũng có thể tác động đến đầu tư và sản lượng về mặt dài hạn. Trong ngắn hạn 1 đến 2 năm chính sách tài khoá có tác động đến sản lượng thực tế và lạm phát phù hợp với các mục tiêu ổn định nền kinh tế. Về mặt dài hạn chính sách tài khoá có thể có tác dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế giúp cho sự tăng trưởng và phát triển lâu dài. 2.3.2.2. Chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ chủ yếu nhằm tác động đến đầu tư tư nhân, hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và việc làm mong muốn. Chính sách tiền tệ có hai công cụ chủ yếu là kiểm soát mức cung tiền và kiểm soát lãi suất. Khi ngân hàng Trung ương thay đổi lượng cung tiền thì lãi suất sẽ tăng hoặc giảm tác động đến đâù tư tư nhân, do vậy ảnh hưởng đến tổng cầu và sản lượng. Chính sách tiền tệ có tác động lớn đến tổng sản phẩm quốc dân về mặt ngắn hạn, song do tác động đến đầu tư nên nó cũng có ảnh hưởng lớn đến GNP trong dài hạn. 2.3.2.3. Chính sách thu nhập Chính sách thu nhập gồm các biện pháp mà Chính phủ sử dụng nhằm tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả để kiềm chế lạm phát. Chính sách này sử dụng nhiều công cụ, từ những công cụ có tính chất cứng rắn như ấn định mức tiền công và giá cả đến những công cụ mềm dẻo như là những hướng dẫn, kích thích bằng thuế thu nhập. 2.3.2.4. Chính sách kinh tế đối ngoại Chính sách kinh tế đối ngoại trong các nước có thị trường mở nhằm ổn định tỷ giá hối đoái, và giữ cho thâm hụt cán cân thanh toán ở mức có thể chấp nhận được. Chính sách này bao gồm các biện pháp giữ cho thị trường hối đoái cân bằng, các quy định về hàng rào thuế quan, bảo hộ mậu dịch và cả những biện pháp tài chính tiền tệ khác, có tác động vào hoạt động xuất nhập khẩu. 2.4. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ QUAN HỆ GIỮA CÁC BIẾN SỐ KINH TẾ VĨ MÔ CƠ BẢN 2.4.1. Tổng sản phẩm quốc dân và tăng trưởng kinh tế 2.4.1.1. Tổng sản phẩm Quốc dân (GNP) Tổng sản phẩm quốc dân là giá trị của toàn bộ hàng hoá và dịch vụ mà một quốc gia sản xuất ra trong một đơn vị thời gian thường là một năm. 31
- Chương 2: Khái quát về kinh tế học vĩ mô Trong đó: n - GNP là tổng sản phẩm quốc dân GNP= ∑ Qi P i - Qi: Số lượng sản phẩm loại i i= 1 - Pi: Giá cả bình quân sản phẩm loại i - n: là số loại sản phẩn được sản xuất trong nền kinh tế Tổng sản phẩm quốc dân là thước do kinh tế cơ bản về hoạt động của nền kinh tế: - Tổng sản phẩm quốc dân tính theo giá hiện hành là tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa (GNPDN). - Tổng sản phẩm quốc dân tính theo giá cố định của một thời điểm nào đó là tổng quốc dân thực tế (GNPTT). Ví dụ: Có bảng số liệu về mức giá cả chung và tổng sản phẩm sản xuất của một quốc gia qua các năm như sau: Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Qi Q00 Q01 Q02 Q03 Q04 Q05 Pi P00 P01 P02 P03 P04 P05 Qua bảng số liệu trên ta xác định được tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa và tổng sản phẩm quốc dân thực tế Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 GNPDN Q00.P00 Q01.P01 Q02.P02 Q03.P03 Q04.P04 Q05.P05 GNPTT Q00.P00 Q01.P00 Q02.P00 Q03.P00 Q04.P00 Q05.P00 Tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa thường tăng nhanh hơn tổng sản phẩm quốc dân thực tế. Sự khác nhau căn bản của tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa và tổng sản phẩm quốc dân thực tế là: - Sự thay đổi tổng sản phẩm quốc dân thực tế là do biến động về sản lượng sản xuất ra của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ. - Sự thay đổi tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa là do cả sự biến động về sản lượng và cả mức biến động về mức giá cả chung trong một thời kỳ nào đó của mối một quốc gia. 2.4.1.2. Tăng trưởng kinh tế a. Khái niệm: Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng mức sản xuất mà nền kinh tế tạo ra theo thời gian. 32
- Chương 2: Khái quát về kinh tế học vĩ mô b. Cách xác định tỷ lệ tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế được tính bằng (%) thay đổi của sản lượng thực tế thời kỳ sau so với thời kỳ trước (GNPtt1− GNP− ) Dt = TT TT *100% t1− GNPTT Trong đó : Dt là tốc độ tăng trưởng thời kỳ t t GNPTT : là tổng sản phẩm quốc dân thực tế thời kỳ t t-1 GNPTT : là tổng sản phẩm quốc dân thực tế thời kỳ t-1 c. Mục tiêu của tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu số một trong chính sách vĩ mô của mỗi một quốc gia. Tăng trưởng cao, tăng năng suất lao động, nâng cao mức sống, khả năng phát triển ở nước ngoài, sự ổn định chi phí và giá cả là các mục tiêu kinh tế của các Chính phủ ở các nước. Sự tăng trưởng tạo điều kiện để nâng cao mức sống và đảm bảo an ninh quốc gia. Nó kích thích các doanh nghiệp táo bạo trong đầu tư, khích lệ sự đổi mới về mặt kỹ thuật và quản lý. Hơn nữa một nền kinh tế đang tăng trưởng tạo thuận lợi cho tính năng động về mặt kinh tế, xã hội. d. Các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế: - Số lượng và chất lượng lao động - Tích luỹ tư bản - Tài nguyên thiên nhiên - Công nghệ và tri thức 2.4.2. Chu kỳ kinh doanh và sự thiếu hụt sản lượng Nền kinh tế của tất cả các nước thường phải đối mặt với chu kỳ kinh doanh. liên quan đến chu kỳ kinh doanh đó là sự đình trệ sản xuất, lạm phát và thất nghiệp. Chu kỳ kinh doanh là sự dao động của tổng sản phẩm quốc dân thực tế xung quanh xu hướng tăng lên của sản lượng tiềm năng. Độ chênh lệch giữa sản lượng tiềm năng và sản lượng thực tế gọi là sự thiếu hụt sản lượng. Thiếu hụt sản lượng = Sản lượng tiềm năng – sản lượng thực tế Nếu mức thiếu hụt > 0 nền kinh tế đang trong thời kỳ thiếu hụt sản lượng, các nguồn lực chưa được sử dụng hết nhất là nguồn lực về lao động. Nếu mức thiếu hụt < 0 Nền kinh tế đang trong thời kỳ phát đạt sản lượng thực tế đã vượt khỏi sản lượng tiềm năng, giá cả tăng nhanh Nghiên cứu sự thiếu hụt sản lượng giúp cho việc tìm ra những biện pháp chống lại chu kỳ kinh doanh nhằm ổn định nền kinh tế. 33
- Chương 2: Khái quát về kinh tế học vĩ mô 2.4.3. Tăng trưởng và thất nghiệp Khi nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong các nguyên nhân quan trọng là sử dụng tốt nguồn lực về lao động -> tăng trưởng nhanh thì tỷ lệ thất nghiệp giảm. Mối quan hệ giữa tỷ lệ tăng trưởng và tỷ lệ thất nghiệp được lượng hoá bởi quy luật Okun. Quy luật Okun được phát biểu như sau Nếu GNP thực tế tăng 2,5% trong vòng một năm so với GNP tiềm năng của năm đó thì tỷ lệ thất nghiệp giảm đi đúng bằng 1%. Quy luật này là quy luật thống kê, do đó nó chỉ có tính gần đúng và cho một nhận định khái quát về mối quan hệ giữa tăng trưởng và thất nghiệp ở nước có thị trường phát triển. 2.4.4. Tăng trưởng và lạm phát Sự kiện lịch sử của nhiều nước cho thấy, những thời kỳ mà nền kinh tế phát đạt. tăng trưởng cao thì lạm phát có xu hướng tăng lên và ngược lại. Song giữ tăng trưởng và lạm phát có mối quan hệ như thế nào, đâu là nguyên nhân đâu là kết quả? thì kinh tế vĩ mô chưa có câu trả lời rõ ràng. Nhưng điều rõ ràng là muốn giảm lạm phát trong thời kỳ ngắn hạn, thì các chính sách kinh tế đều hướng vào việc thắt chặt chi tiêu, giảm tổng cầu và do đó nền kinh tế phải trải qua một thời kỳ đình trệ, suy thoái và thất nghiệp. 2.4.5. Lạm phát và thất nghiệp Lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ như thế nào, đây là một trong các chủ đề bàn luận của các nhà kinh kế học trong nhiều thập kỷ qua. Ngày nay nhiều nhà kinh tế cho rằng trong thời kỳ ngắn hạn lạm phát cao, thì thất nghiệp giảm. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp được mô tả trong đồ thị được gọi là đường cong Phillips. Đường cong Phillips là hàm số biểu thị mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa lạm phát và thất nghiệp. Đây là mối quan hệ thực nghiệp chứ không phải là quy luật. Còn trong dài hạn đến nay chưa thấy có mối quan hệ nào giữa lạm phát và thất nghiệp. TÓM TẮT NỘI DUNG 1. Đối tượng của kinh tế học vĩ mô: Những vấn đề then chốt được kinh tế học Vĩ mô quan tâm nghiên cứu bao gồm mức sản xuất, thất nghiệp, mức giá cả chung và cán cân thương mại của một nền kinh tế. Phân tích kinh tế vĩ mô hướng vào giải đáp câu hỏi: điều gì quyết định giá trị hiện tại của các biến số này? điều gì quyết định sự thay đổi của các biến số này trong ngắn hạn và dài hạn?. 2. Phương pháp nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô: Kinh tế vĩ mô sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cân bằng tổng thể. Ngoài ra kinh tế vĩ mô còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu, phân tích phổ biến như tư duy trừu tượng, phân tích thống kê số lớn, mô hình toán và đặc biệt là các mô hình kinh tế lượng chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong phân tích kinh tế vĩ mô. 3. Hệ thống kinh tế vĩ mô: Theo cách tiếp cận hệ thống, thì nền kinh tế được xem như là một hệ thống gọi là hệ thống kinh tế vĩ mô được đặc trưng bởi 3 yếu tố: Đầu vào, đầu ra và hộp đen kinh tế vĩ mô 34
- Chương 2: Khái quát về kinh tế học vĩ mô - Các yếu tố đầu vào gồm: Những tác động từ bên ngoài của một nền kinh tế bao gồm chủ yếu là các biến số phi kinh tế: Thời tiết, dân số, chiến tranh, và biến chính sách bao gồm: các công cụ của Nhà nước nhằm điều chỉnh hộp đen kinh tế vĩ mô, hướng vào các mục tiêu đã định trước. - Các yếu tố đầu ra của nền kinh tế: bao gồm sản lượng sản xuất, việc làm, giá cả, xuất nhập khẩu, đó là các biến số đo lường kết quả hoạt động của hộp đen kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ. - Hộp đen kinh tế vĩ mô: Đây là yếu tố trung tâm của hệ thống được coi là nền kinh tế vĩ mô (Macroeconomy). Hoạt động của hộp đen như thế nào sẽ quyết định đến chất lượng của các biến số đầu ra. Hai lực lượng chủ yếu quyết định đến hoạt động của hộp đen kinh tế vĩ mô là tổng cung và tổng cầu. 4. Tổng cung của nền kinh tế (Aggregate Supply –AS): Tổng cung là tổng khối lượng sản phẩm quốc dân mà các hãng kinh doanh sẽ sản xuất và bán ra trong từng thời kỳ tương ứng với mức giá cả chung và khả năng sản xuất. 5. Mức sản lượng tiềm năng: Đó là mức sản lượng tối đa mà nền kinh tế có thể sản xuất ra trong điều kiện toàn dụng nhân công, mà không gây lên lạm phát. Sản lượng tiềm năng phụ thuộc vào việc sử dụng các yếu tố sản xuất đặc biệt là yếu tố lao động. 6. Tổng cầu của nền kinh tế (Aggregate Demand – AD): Tổng cầu là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà các tác nhân trong nền kinh tế sẵn sàng và có khả năng mua ứng với từng mức giá cả chung, thu nhập và các biến số khác không đổi. Tổng cầu bao gồm chi tiêu của hộ gia đình, chi tiêu của doanh nghiệp, chi tiêu của Chính phủ và xuất khẩu ròng. Và có rất nhiều biến số quyết định đến mức sản lượng mà các tác nhân trong nền kinh tế sử dụng. Khi các nhân tố này thay đổi thì sẽ làm cho tổng cầu thay đổi. 7. Đường tổng cầu: Là đường biểu diễn mối quan hệ giữa tổng sản phẩm và mức giá cả chung mà các tác nhân trong nền kinh tế chi tiêu. Với trục tung biểu thị mức giá cả chung, trục hoành biểu thị mức sản lượng thì đường tổng cầu dốc xuống (có độ dốc âm) 8. Sản lượng cân bằng: Tại điểm cân bằng bao nhiêu sản phẩm sản xuất ra thì tiêu dùng hết bấy nhiêu, không có sản phẩm dư thừa hay thiếu hụt. 9. Trạng thái cân bằng không có nghĩa là một trạng thái tối ưu hay trang thái đang mong muốn của nền kinh tế. Nó có thể tương ứng với trạng thái phát triển quá nóng (khi sản lượng cao hơn mức sản lượng tiềm năng và lạm phát cao) hoặc nền kinh tế đang lâm vào suy thoái (khi sản lượng thấp hơn mức sản lượng tiềm năng). 10. Nguyên nhân gây ra biến động kinh tế ngắn hạn: - Các cú sốc cầu:Khi đường tổng cung có độ dốc dương, các nhân tố ngoại sinh tác động đến tổng cầu sẽ làm dao động sản lượng và mức giá. Sự dao động của sản lượng xung quanh mức sản lượng tiềm năng được gọi là chu kỳ kinh doanh. Chính phủ có thể tác động đến tổng cầu thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô để ổn định nền kinh tế. - Các cú sốc cung: Các cú sốc cung xẩy ra do sự thay đổi giá cả các yếu tố đầu vào hay sự thây đổi các nguồn lực trong nền kinh tế. Các cú sốc làm giảm tổng cung gọi là các cú sốc bất lợi. Ngược lại các cú sốc làm tăng tổng cung gọi là các cú sốc có lợi. 35
- Chương 2: Khái quát về kinh tế học vĩ mô 11. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô: Kết quả kinh tế của một nước thường được đánh giá theo ba dấu hiệu chủ yếu là: Ổn định, tăng trưởng và công bằng xã hội Để đạt được sự ổn định, tăng trưởng và công bằng các chính sách kinh tế vĩ mô phải hướng tới các mục tiêu cụ thể sau - Mục tiêu sản lượng - Mục tiêu việc làm - Mục tiêu ổn định giá cả - Mục tiêu kinh tế đối ngoại - Phân phối công bằng thông qua chính sách phân phối lần đầu và phân phối lại của nền kinh tế. Các mục tiêu trên thể hiện một trạng thái lý tưởng, trong đó sản lượng đạt mức sản lượng tiềm năng, mức thất nghiệp bằng thất nghiệp tự nhiên, lạm phát thấp có thể kiểm soát được, cán cân thanh toán cân bằng, tỷ giá hối đoái hầu như không đổi. Trong thực tế, thì các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm tối thiểu hoá các sai lệch thực thế so với trạng thái lý tưởng. 12. Các chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu: - Chính sách tài khoá: Chính sách tài khoá nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của chíh phủ nhằm hướng nền kinh tế vào một mức sản lượng và việc làm mong muốn. Chính sách tài khoá có hai công cụ chủ yếu đó là chi tiêu của Chính phủ và thuế. - Chính sách tiền tệ: Chính sách tiền tệ chủ yếu nhằm tác động đến đầu tư tư nhân, hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và việc làm mong muốn. Chính sách tiền tệ có hai công cụ chủ yếu là kiểm soát mức cung tiền và kiểm soát lãi suất. - Chính sách thu nhập: Chính sách thu nhập gồm các biện pháp mà Chính phủ sử dụng nhằm tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả để kiềm chế lạm phát. Chính sách này sử dụng nhiều công cụ, từ những công cụ có tính chất cứng rắn như ấn định mức tiền công và giá cả đến những công cụ mềm dẻo như là những hướng dẫn, kích thích bằng thuế thu nhập. - Chính sách kinh tế đối ngoại: Chính sách này bao gồm các biện pháp giữ cho thị trường hối đoái cân bằng, các quy định về hàng rào thuế quan, bảo hộ mậu dịch và cả những biện pháp tài chính tiền tệ khác, có tác động vào hoạt động xuất nhập khẩu 13. Tổng sản phẩm Quốc dân (GNP): Tổng sản phẩm quốc dân là giá trị của toàn bộ hàng hoá và dịch vụ mà một quốc gia sản xuất ra trong một đơn vị thời gian thường là một năm. Tổng sản phẩm quốc dân tính theo giá hiện hành là tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa (GNPDN). Tổng sản phẩm quốc dân tính theo giá cố định của một thời điểm nào đó là tổng quốc dân thực tế (GNPTT). 14. Tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng mức sản xuất mà nền kinh tế tạo ra theo thời gian. Cách xác định tỷ lệ tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế được tính bằng (%) thay đổi của sản lượng thực tế thời kỳ sau so với thời kỳ trước 36
- Chương 2: Khái quát về kinh tế học vĩ mô 15. Chu kỳ kinh doanh là: Chu kỳ kinh doanh là sự dao động của tổng sản phẩm quốc dân thực tế xung quanh xu hướng tăng lên của sản lượng tiềm năng. 16. Mức thâm hụt sản lượng: Độ chênh lệch giữa sản lượng tiềm năng và sản lượng thực tế gọi là sự thiếu hụt sản lượng. 17. Tăng trưởng và thất nghiệp: Khi nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong các nguyên nhân quan trọng là sử dụng tốt nguồn lực về lao động -> tăng trưởng nhanh thì tỷ lệ thất nghiệp giảm. 18. Tăng trưởng và lạm phát: Sự kiện lịch sử của nhiều nước cho thấy, những thời kỳ mà nền kinh tế phát đạt, tăng trưởng cao thì lạm phát có xu hướng tăng lên và ngược lại. 19. Lạm phát và thất nghiệp: Ngày nay nhiều nhà kinh tế cho rằng trong thời kỳ ngắn hạn thì lạm phát cao, thì thất nghiệp giảm. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP CÂU HỎI LÝ THUYẾT 1. Hãy liệt kê các mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu của nền kinh tế mở. Giải thích ngắn gọn tại sao những mục tiêu đó là quan trọng? 2. Bạn hiểu như thế nào về nền kinh tế vĩ mô và vì sao lại có thể coi các chính sách kinh tế như là các đầu vào của nền kinh tế? 3. Nêu ý nghĩa và nội dung của mô hình AD – AS một mô hình cơ bản của lý thuyết kinh tế học vĩ mô. 4. Nêu lên tác động của mỗi sự kiện dưới đây đến vị trí của đường tổng cầu và tổng cung trong mô hình AD –AS a. Giá dầu trên thế giới tăng mạnh b. Giảm đáng kể chi tiêu cho quốc phòng c. Vụ mùa bội thu 5. Nêu tác động của mối sự kiện dưới đây đến tổng mức cung hay tổng mức cầu của nền kinh tế. a. Tăng thuế sử dụng đất đai b. Giảm thuế thu nhập c. Giảm lãi suất tiền gửi tiết kiệm BÀI TẬP 6. Giả sử bạn là người vạch ra chính sách kinh tế và nền kinh tế đang ở trạng thái cân bằng dài hạn với mức giá P=100, Y=3.000. Mục tiêu của bạn là giữ ổn định giá cả dù sản lượng thế nào cũng được. bạn chỉ có công cụ tác động làm dịch chuyển đường AD và không thể tác động làm dịch chuyển AS. Với các công cụ và mục tiêu đó, bạn sẽ ứng phó như thế nào từng tình huống sau: a. Tăng đột biến về chi tiêu cho đầu tư b. Giá dầu tăng mạnh c. Chi tiêu cho quốc phòng bị cắt giảm 37
- Chương 2: Khái quát về kinh tế học vĩ mô d. Năng suất lao động giảm. 7. Giả sử GNP tiềm năng tăng 4% năm, muốn cho tỷ lệ thất nghiệp không thay đổi thì GNP thực tế phải tăng bao nhiêu % một năm 8. Giả sử trong một nền kinh tế tỷ lệ thất nghiệp thực tế là 8% và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là 6%. Biết GNP thực tế là 40.000 tỷ USD a. Hãy ước tính GNP tiềm năng b. Giả sử GNP tiềm năng tăng với tốc độ 3% năm, GNP tiềm năng trong hai năm nữa sẽ là bao nhiêu c. GNP thực tế phải tăng với tốc độ nào để đạt được GNP tiềm năng cuối năm đó HÃY LỰA CHỌN CÂU TRẢ LỜI ĐÚNG VÀ GIẢI THÍCH 9. Chính sách tài khoá và tiền tệ mở rộng sẽ làm dịch chuyển: a. Đường tổng cầu sang phải b. Đường tổng cầu sang trái c. Đường tổng cung sang phải d. Đường tổng cung sang trái 10. Ý định tăng lãi suất của ngân hàng sẽ a. Dịch chuyển đường AS lên trên b. Dịch chuyển đường AS xuống dưới c. Dịch chuyển đường AD lên trên d. Dịch chuyển đường AD xuống dưới 11. Câu nào trong những câu trả lời ở bài 10 là đúng khi a. Tăng chi tiêu cho quốc phòng b. Giảm thuế thu nhập cá nhân c. Giảm thuế đối với đầu vào của sản xuất 12. Đường tổng cầu dịch chuyển sang bên phải khi a. Giá cả các yếu tố sản xuất giảm b. Mặt bằng giá cả chung có xu hướng giảm xuống c. Khả năng sản xuất được mở rộng d. Chi tiêu cho tiêu dùng cá nhân tăng e. Không có trường hợp nào ở trên là đúng. 38
- Chương 3: Tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân CHƯƠNG III: TỔNG SẢN PHẨM VÀ THU NHẬP QUỐC DÂN GIỚI THIỆU Trong chương này, chúng ta sẽ nghiên cứu các chỉ tiêu kết quả quan trọng của nền kinh tế quốc dân như tổng sản phẩm quốc dân, tổng sản phẩm quốc nội, tổng sản phẩm quốc dân ròng, thu nhập quốc dân, thu nhập quốc dân có thể sử dụng. Nghiên cứu các chỉ tiêu kết quả này và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô có liên quan khác như lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng tạo thành xương sống của hệ thống hách toán thu nhập quốc dân (viết tắt là SNA) được tất cả các nước có nền kinh tế định hướng theo thị trường vận dụng. Phần 3.1 tập trung trình bày các khái niệm, ý nghiã của tổng sản phẩm quốc dân, tổng sản phẩm quốc nội, phân biệt sự khác nhau giữa tổng sản phẩm quốc dân, tổng sản phẩm quốc nội. Cách tính tính tỷ lệ lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số điều chỉnh GDP, tỷ lệ tăng trưởng, sự khác nhau giữa GNP danh nghĩa và GNP thực tế. Phần 3.2 trình bày ba phương pháp xác định GDP thường được các quốc gia sử dụng đó là phương pháp luồng sản phẩm cuối cùng (phương pháp thị trường), phương pháp chi phí hoặc thu nhập, phương pháp sản xuất (tính GDP theo phương pháp giá trị gia tăng). Vì GNP và GDP không phải là thước đo duy nhất phản ánh thành tựu của một nền kinh tế trong một giai đoạn. Do vậy trong phần 3.3 chương này trình bày bổ sung thêm một số chỉ tiêu phản ánh kết quả của nền kinh tế như tổng sản phẩm quốc dân ròng, thu nhập quốc dân, thu nhập quốc dân có thế sử dụng, thuế và chuyển khoản của Chính phủ. Trong phần này cũng nêu nên cách xác định các chỉ tiêu và mối quan hệ giữa các chỉ tiêu phản ánh kết quả của nền kinh tế. Các khái niệm, ý nghĩa của chỉ tiêu GNP, GDP, NNP, Y, YD, cũng như phương pháp xác định các chỉ tiêu đó là tinh thần chủ yếu của hệ thống tài khoản quốc gia được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế thị trường. Hệ thống tài khoản quốc gia giúp các cơ quan Nhà nước theo dõi và thống kê một cách chính xác các hoạt động kinh tế diễn ra trong một thời kỳ của mỗi một nền kinh tế. Mục tiêu không phải chỉ ghi chép và thống kê các khoản mục này mà quan tâm nhiều hơn đến việc sử dụng các chỉ tiêu, số liệu ghi chép được để phân tích mối quan hệ ràng buộc của các tác nhân trong nền kinh tế. Quan tâm đế những vấn đề nằm ở đằng sau các con số và các mối quan hệ lượng hoá đó. Một trong các vấn đề quan trọng đó là các đồng nhất thức kinh tế vĩ mô cơ bản, xuất hiện từ các nguyên lý tính toán các chỉ tiêu kết quả của nền kinh tế. Vấn đề đó được trình bày trong phần 3.4. Sau khi nghiên cứu chương này sinh viên cần phải nắm được các vấn đề lý thuyết về hạch toán thu nhập quốc dân. Và vận dụng các lý thuyết đó vào giải quyết các câu hỏi, bài tập với những nội dung cơ bản sau: - Xác định GDP, GNP theo phương pháp luồng sản phẩm cuối cùng, phương pháp thu nhập hoặc chi tiêu, và theo phương pháp giá trị gia tăng. 39
- Chương 3: Tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân - Xác định được các chỉ tiêu GNP,GDP danh nghĩa và thực tế, tính toán chỉ số giá tiêu dùng, lạm phát, - Phân biệt các chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc dân, tổng sản phẩm quốc nội, tổng sản phẩm quốc dân ròng, thu nhập quốc dân, thu nhập quốc dân có thể sử dụng. - Phân biệt các chỉ số giá CPI,D, PPI. NỘI DUNG 3.1. TỔNG SẢN PHẨM QUỐC DÂN THƯỚC ĐO THÀNH TỰU CỦA MỘT NỀN KINH TẾ 3.1.1. Tổng sản phẩm quốc dân và tổng sản phẩm quốc nội (tổng sản phẩm trong nước) 3.1.1.1. Tổng sản phẩm quốc dân (Gross National Product - GNP) Khái niệm: Tổng sản phẩm quốc dân là chỉ tiêu đo lường tổng giá trị bằng tiền của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng của người dân quốc gia đó sản xuất ra trong một thời kỳ (thường là một năm) bằng các yếu tố sản xuất của mình. Như vậy, tổng sản phẩm quốc dân đánh giá kết quả của hàng triệu các giao dịch và hoạt động kinh tế do công dân của một nước tiến hành trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Đây là con số đạt được khi dùng thước đo tiền tệ để tính toán giá trị của các hàng hoá khác nhau mà các hộ gia đình, các hãng kinh doanh, Chính phủ mua sắm và chi tiêu trong khoảng thời gian tính toán. Các hàng hoá và dịch vụ được chi tiêu đó là hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình; thiết bị nhà xưởng mua sắm và xây dựng lần đầu của các hãng kinh doanh; nhà mới xây dựng, hàng hoá và dịch vụ mà các cơ quan quản lý Nhà nước mua sắm và phần hàng hoá chênh lệch xuất khẩu và nhập khẩu. Dùng thước đo tiền tệ để đo lường giá trị sản phẩm là thuận lợi vì thông qua giá cả thị trường chúng ta có thể cộng các loại hàng hoá có hình thức và nội dung vất chất khác nhau (muối, gạo, xăng dầu, ô tô, dịch vụ du lịch, y tế, bưu điện ) Nhờ vậy có thể do lường kết quả sản xuất của toàn bộ nền kinh tế bằng một tổng lượng duy nhất. Giá cả lại là một thước đo thay đổi theo thời gian, nhu cầu của người mua, do đó GNP tính bằng thước đo tiền tệ cần phải loại bỏ sự biến động về giá cả (lạm phát). 3.1.1.2. Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product - GDP) Khái niệm: Tổng sản phẩm quốc nội là giá trị thị trường của tất cả của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm) Để hiểu thấu đáo khái niệm này cần phải lưu ý tới nội dung chuyền tải của các cụm từ trong khái niệm (1). “GDP là giá trị thị trường”: Hàm ý là mọi hàng hoá và dịch vụ tạo ra trong nền kinh tế đều dược quy về giá trị tính bằng tiền hay tính theo giả cả của hàng hoá được người mua và người bán chấp nhận trên thị trường hàng hoá và dịch vụ. 40
- Chương 3: Tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân (2). Cụm từ “Tất cả ”: GDP tìm cách tính toàn thể tất cả các hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra và bán hợp pháp trên thị trường. GDP không tính tới các giá trị giao dịch ngầm (bất hợp pháp) như ma tuý, (3). Cụm từ “Cuối cùng”: nhấn mạnh rằng GDP chỉ bao gồm giá trị những hàng hoá cuối cùng: Các hàng hoá và dịch vụ được chi tiêu đó là hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình; thiết bị nhà xưởng mua sắm và xây dựng lần đầu của các hãng kinh doanh; nhà mới xây dựng, hàng hoá và dịch vụ mà các cơ quan quản lý Nhà nước mua sắm và phần hàng hoá chênh lệch xuất khẩu và nhập khẩu. GDP không bao gồm các giá trị trung gian dùng để sản xuất ra các hàng hoá khác. Tuy nhiên, phần hàng trung gian nhưng được dùng làm dự trữ và được đưa vào hàng tồn kho thì cũng được coi là hàng hoá cuối cùng. (4). “Hàng hoá và dịch vụ”: Hàm ý GDP bao gồm cả hàng hoá hữu hình và cả hàng hoá như: quần áo, thực phẩm, xe máy, ô tô, ) và cả hàng hoá vô hình như: (dịch vụ du lịch, vận chuyển, bưu điện, ngân hàng, bảo hiểm, ) (5). “Được sản xuất ra”: Nghĩa là GDP bao gồm giá trị của tất cả các hàng hoá và dịch vụ mới được tạo ra ở thời kỳ hiện hành chứ không liên quan đến các giá trị giao dịch của những hàng hoá đã được tạo ra trong thời kỳ trước đó. Điều này rất quan trọng, vì nếu không xác định chính xác đâu là hàng hoá mới, thì GDP có thể sẽ bị tính trùng tính lại của thời kỳ trước. Ví dụ một chiếc xe máy sản xuất năm 2005 và được bán ra năm 2005 thì giá trị của chiếc xe này được tính vào GDP của 2005. Nhưng đến năm 2006 chủ sở hữu chiếc xe này lại bán cho một người khác thì giá trị giao dịch của chiếc xe không được tính vào GDP của năm 2006. (6). “Trong phạm vi lãnh thổ Quốc gia”: Tất cả các hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ kinh tế của quốc gia đều được tính vào GDP. Bất kể đó được tạo ra bởi công dân nước nào và doanh nghiệp được sở hữu trong nước hay nước ngoài. (7). “Trong một thời kỳ nhất định”: Nghĩa là GDP phản ánh giá trị sản lượng tạo ra trong một khoảng thòi gian cụ thể. Thông thường, GDP được tính cho thời kỳ một năm hoặc theo các quý trong năm. 3.1.1.3. Sự khác nhau giữa GNP và GDP GNP và GDP đều là chỉ tiêu đo lường tổng sản phẩm cuối cùng của một quốc gia sản xuất ra trong một thời kỳ. GNP thống kê sản phẩm được sản xuất ra của một quốc gia trên cơ sở nguồn lực, nghĩa là tính theo người dân quốc gia đó. Người dân quốc gia đó dù sinh sống ở đâu trong nước hay nước ngoài tạo ra hàng hoá và dịch vụ thì đều được tính vào GNP của quốc gia đó. Còn GDP thống kê sản phẩm được sản xuất ra của một quốc gia tính trên phạm vi lãnh thổ kinh tế của quốc gia đó, dù đó là người trong nước hay người nước ngoài, là doanh nghiệp trong nước hay doanh nghiệp thuộc sở hữu của người nước ngoài. Vậy GNP và GDP khác nhau phần giá trị hàng hoá và dịch vụ mà người dân quốc gia đó sản xuất ra ở nước ngoài và phần giá trị hàng hoá và dịch vụ mà người nước ngoài sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ kinh tế của quốc gia đó. Phần này được gọi là thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài bằng chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và dịch vụ mà người dân quốc giá đó sản xuất ra ở nước ngoài trừ đi phần giá trị hàng hoá và dịch vụ mà người nước ngoài sản xuất ra trong lẫnh thổ kinh tế của quốc gia đó. 41
- Chương 3: Tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân GNP = GDP + Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài. GDP = GNP - Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài. GDP hay GNP chỉ tiêu nào lớn hơn, thì tuỳ thuộc vào mỗi một quốc gia và tuỳ vào từng thời kỳ. 3.1.2. GDP danh nghĩa và GDP thực tế và chỉ số điều chỉnh GDP GDP phản ánh chỉ tiêu cho hàng hoá và dịch vụ thực hiện trên thị trường của một quốc gia. Ở đây cần phân biệt hai chi tiêu GDP danh nghĩa (Nominal GDP – GDPn) và GDP thực tế (Real GDP – GDPr) 3.1.2.1. GDP danh nghĩa và GDP thực tế a. GDP danh nghĩa: Là giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ tính theo giá hiện hành. Sản phẩm sản xuất ra trong thời kỳ nào thì lấy giá của thời kỳ đó ttt GNPn = ∑ Qii P Trong đó: i: Biểu thị loại sản phẩm thứ i với i =1,2,3 ,n t: Biểu thị thời kỳ tính toán Q: Số lượng sản phẩm từng loại mặt hàng; Qi: số lượng sản phẩm loại i P: Giá của từng mặt hàng; Pi giá của sản phẩm thứ i. Nếu số liệu thống kê cho thấy GDP danh nghĩa năm sau cao hơn năm trước, điều này cho thấy có thể nền kinh tế đã sản xuất ra số lượng sản phẩm lớn hơn năm trước hoặc giá bán năm sau cao hơn năm trước hoặc cả số lượng sản phẩm lớn hơn và giá bán của năm sau cao hơn năm trước. GDP danh nghĩa không cho chúng ta biết chi tiết sự gia tăng của nó chủ yếu là do đóng góp của sự tăng về giá cả hay số lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ được tạo ra trong nền kinh tế. Nghiên cứu biến động kinh tế theo thời gian các nhà kinh tế muốn tách riêng hai hiệu ứng biến động về giá cả và biến động về sản lượng. Cụ thể là muốn có một chỉ tiêu về tổng lượng hàng hoá và dịch vụ được nền kinh tế tạo ra mà không bị tác động bởi sự thay đổi của giá cả của các hàng hoá và dịch vụ này. Để làm được điều đó các nhà kinh tế sử dụng chỉ tiêu DGP thực tế. b. GDP Thực tế: Là giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ hiện hành của nền kinh tế được tính theo mức giá cố định của năm cơ sở (năm gốc) tt0 0 GDPr = ∑ Qii P với Pi là giá của năm cơ sở hay năm gốc Nếu thống kê GDP thực tế cho thấy GDPr năm sau cao hơn năm trước, thì đây chỉ thuần tuý là sự biến động về sản lượng năm sau lớn hơn năm trước, còn giá cả được giữ cố định ở năm cơ sở (năm gốc). Mục tiêu tính toán GDP là nhằm để nắm bắt được hiệu quả hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. GDP thực tế phản ánh lượng hàng hoá và dịch vụ được tạo ra trong nền kinh tế nên nó cũng 42
- Chương 3: Tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân cho biết năng lực thoả mãn các nhu cầu và mong muốn của dân cư trong nền kinh tế. Do đó GDP thực tế phản ánh kết quả của nền kinh tế tốt hơn là GDP danh nghĩa. Sau khi đã loại trừ ảnh hưởng của biến động giá cả, thì tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP growth rate – g) đó là tỷ lệ % thay đổi của GDP thực tế của thời kỳ này so với thời kỳ trước. GDPtt1− GDP − gt = rr*100% t1− GDPr 3.1.2.2. Chỉ số điều chỉnh GDP (GDP Defator - DGDP) Chỉ số giá điều chỉnh đo lường mức giá trung bình của tất cả các hàng hoá và dịch vụ được tính trong GDP. Chỉ số điều chỉnh GDP được tính bằng tỷ số giữa GDP danh nghĩa và GDP thực tế. Nó phản ánh mức giá hiện hành so với mức giá năm cơ sở. Chỉ số giá điều chỉnh cho biết sự biến động về giá làm thay đổi GNP danh nghĩa. t t GDPn D GDP = t *100% GDPr 3.1.3. Chỉ số giá tiêu dùng và lạm phát 3.1.3.1. Khái niệm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) Đo lường mức giá trung bình của giỏ hàng hoá và dịch vụ mà một người tiêu dùng điển hình mua. Chỉ số giá tiêu dùng là một chỉ tiêu tương đối phản ánh xu thế và mức độ biến động của giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng trong sinh hoạt của dân cư và các hộ gia đình. Bởi vậy nó được dùng để theo dõi sự thay đổi của chi phí sinh hoạt theo thời gian. Khi chỉ số giá tiêu dùng tăng có nghĩa là mức giá trung bình tăng. Kết quả là người tiêu dùng phải chi tiêu nhiều hơn để có thể mua được một lượng hàng hoá và dịch vụ như cũ nhằm duy trì mức sống trước đó của họ. 3.1.3.2. Xây dựng chỉ số giá tiêu dùng Trước hết, để xây dựng chỉ số giá tiêu dùng các nhà thống kê kinh tế chọn năm cơ sở/ kỳ gốc. Tiếp đó tiến hành các cuộc điều tra trên khắp các vùng của đất nước để xác định “giỏ” hàng hoá và dịch vụ điển hình. t t 0 0 0 CPI = (ΣPi qi / ΣPi qi ) Trong đó: CPIt: chỉ số giá tiêu dùng thời kỳ t t pi : Giá của sản phẩm loại i trong giỏ hàng hoá điển hình thời kỳ t 0 pi : Giá của của sản phẩm loại i trong giỏ hàng hoá điển hình kỳ gốc 0 qi : Số lượng hàng hoá loại i trong giỏ hàng hoá điẻn hình năm kỳ gốc 43
- Chương 3: Tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân 3.1.3.3. Xác định tỷ lệ lạm phát (Π) Lạm phát là sự gia tăng liên tục của mức giá chung. Do vậy, tỷ lệ lạm phát là (%) thay đổi mức giá chung so với thời kỳ trước đó. Có thể tính tỷ lệ lạm phát thông qua chỉ số giá tiêu dùng như sau: Πt =(CPIt – CPIt-1) / CPIt-1 x100% Trong đó: Πt: tỷ lệ lạm phát thời kỳ t CPIt: là chỉ số giá tiêu dùng thời kỳ t CPIt-1: là chỉ số giá tiêu dùng thời kỳ trước t 3.1.4. Ý nghĩa của các chỉ tiêu GNP và GDP trong phân tích kinh tế vĩ mô Các quốc gia luôn tìm cách đo lường kết quả hoạt động của mình trong mỗi thời kỳ nhất định. Thành tựu kinh tế của một quốc gia, phản ánh quốc gia đó sản xuất ra được bao nhiêu sản phẩm, nó đã sử dụng các yếu tố sản xuất của mình đến mức độ nào để tạo ra sản phẩm phục vụ cho đời sống nhân dân của quốc gia mình. Chỉ tiêu GNP và GDP là những thước đo tốt về thành tựu kinh tế của một quốc gia. Ngân hàng thế giới hay quỹ tiền tệ quốc tế cũng như các nhà kinh tế thường sử dụng các chỉ tiêu này để so sánh quy mô sản xuất của các nước khác nhau trên thế giới. Sau khi tính chuyển số liệu GNP và GDP tính bằng các đồng tiền khác nhau của các nước và đồng đô la Mỹ. Sự tính chuyển đó thông qua tỷ giá hối đoái chính thức giữa các nước và đồng Đô la Mỹ. GNP và GDP thường được sử dụng để phân tích những biến đổi về sản lượng của một đất nước trong các thời gian khác nhau. Trong trường hợp này người ta thường tính GNP hoặc GDP thực tế nhằm loại trừ sự biến động về giá cả. Các chỉ tiêu GNP, GDP còn được sử dụng để phân tích sự thay đổi mức sống dân cư. Để làm việc đó người ta thường tính GNP, GDP bình quân đầu người. GDP bình quân đầu người = GDP/ tổng dân số GNP bình quân đầu người = GNP/ tổng dân số Như vậy, mức sống dân cư của một nước phụ thuộc vào số lượng hàng hoá được sản xuất ra và quy mô dân số của quốc gia đó. Sự thay đổi về GDP, GNP bình quân đầu người phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ tăng dân số và năng suất lao động. Mức sống của dân cư của một nước phụ thuộc vào đất nước đó giải quyết vấn đền dân số trong mối quan hệ với năng suất lao động như thế nào. Vì GNP bao gồm GDP và phần thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài nên GNP bình quân đầu người là thước đo tốt hơn nếu xét theo khía cạnh số lượng hàng hoá và dịch vụ mà mồi người dân quốc gia đó có thể mua được. Còn GDP bình quân đầu người là thước đo tốt hơn về số lượng hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra tính bình quân cho một người dân. Các Chính phủ của các nước trên thế giới đều phải dựa vào số liệu về GDP và GNP để xây dựng các kế hoạch, chiến lược phát triển cho nền kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn. 44
- Chương 3: Tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân 3.2. PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GDP 3.2.1. Sơ đồ luồng luân chuyển kinh tế vĩ mô Một nền kinh tế hoàn chỉnh bao gồm hàng triệu các đơn vị kinh tế: các hộ gia đình, các hãng kinh doanh, các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Các đơn vị kinh tế này tạo nên một mạng lưới các giao dịch kinh tế trong quá trình tạo ra tổng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Chi tiêu hàng hoá và dịch vụ Hàng hoá và dịch vụ HỘ HÃNG GIA KINH ĐÌNH DOANH Dịch vụ, yếu tố sản xuất Thu nhập từ các yếu tố sản xuất Để tìm được vấn đề cốt lõi bên trong của các giao dịch và đưa ra các phương pháp tính toán tổng sản phẩm một cách khoa học, chính xác, chúng ta hãy bắt đầu bằng trường hợp giản đơn nhất: Bỏ qua khu vực Nhà nước và các giao dịch với người nước ngoài, xem xét một nền kinh tế khép kín, giản đơn chỉ bao gồm hai tác nhân đó là hộ gia đình và các hãng kinh doanh. Các hộ gia đình sở hữu lao động và các yếu tố đầu vào khác của sản xuất như vốn, đất đai, Các hộ gia đình cung cấp các yếu tố đầu vào cho các hàng kinh doanh. Các hãng kinh doanh dùng các yếu tố này sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ bán cho các hộ gia đình. Dòng bên trong là sự luân chuyển các nguồn lực thật: Hàng hoá và dịch vụ từ các hãng kinh doanh sang hộ gia đình và dịch vụ về yếu tố sản xuất từ hộ gia đình sang các hãng kinh doanh. Dòng bên ngoài là các giao dịch thanh toán bằng tiền: Các hãng kinh doanh trả tiền cho các dịch vụ yếu tố sản xuất tạo nên thu nhập của các hộ gia đình; các hộ gia đình thanh toán các khoản chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ cho các hãng kinh doanh để mua sản phẩm. Những giao dịch hai chiều đó tạo nên dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô được mô tả ở trên. Sơ đồ dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô gợi ý hai cách tính khối lượng sản phẩm trong một nền kinh tế. - Theo cung trên, chúng ta có thể tính tổng giá trị của các hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế. - Theo cung dưới, có thể tính tổng mức mức thu nhập từ các yếu tố sản xuất. 45
- Chương 3: Tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân Nếu giả định toàn bộ thu nhập của gia đình được đem chi tiêu hết để mua hàng hoá và dịch vụ; các hãng kinh doanh bán được hết sản phẩm sản xuất ra và dùng tiền thu được để tiếp tục sản xuất; lợi nhuận của các hãng kinh doanh cũng là một khả thu nhập, thì kết quả thu được từ hai cách tính trên phải bằng nhau. Thông qua dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô cũng cho thấy chính các hộ gia đình sẽ quyết định mức chi tiêu trong nền kinh tế. 3.2.2. Phương pháp xác định GDP 3.3.2.1. Phương pháp xác định GDP theo luồng sản phẩm cuối cùng Sơ đồ dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô cho ta thấy có thể xác định GDP theo giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong nền kinh tế gọi tắt là phương pháp luồng sản phẩm. Tuy nhiên ở sơ đồ dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô quá đơn giản. Ở đây chúng ta mở rộng sơ đồ đó tính tới cả khu vực Chính phủ và xuất nhập khẩu. Theo phương pháp luồng sản phẩm, GDP bao gồm toàn bộ giá trị thị trường của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng mà các hộ gia đình, các hãng kinh doanh, Chính phủ mua và khoản xuất khẩu ròng được thực hiện trong một đơn vị thời gian (thường là một năm). a. Tiêu dùng của hộ gia đình (C) Tiêu dùng của hộ gia đình bao gồm tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng của hộ gia đình mua trên thị trường để chi dùng phục vụ đời sống hàng ngày. Như vậy GDP chỉ bao gồm những sản phẩm được giao dịch trên thị trường, còn các sản phẩm mà các hộ gia đình tự sản xuất để sử dụng thì bị bỏ sót không thể tập hợp được. Chú ý: GDP chỉ bao gồm hàng hoá mới được sản xuất và bán ra. Hàng hoá mới là hàng hoá lần đầu tiên được giao dịch , mua bán trên thị trường. b. Chi tiêu của doanh nghiệp hay đầu tư (I) Chi tiêu của doanh nghiệp bao gồm giá trị các hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp mua để tái sản xuất mở rộng. Đó là các trang thiết bị, các tài sản cố định, nhà ở, văn phòng mới và chênh lệch hàng tồn kho của các hàng kinh doanh. Hàng tồn kho hay dự trữ là những hàng được giữ lại để sản xuất hay tiêu dùng sau. Thực chất hàng tồn kho là một loại tài sản lưu động. Đó là những nguyên nhiên vật liệu hay các đầu vào được sử dụng hết trong kỳ sản xuất hoặc là các bán thành phẩm, các sản phẩm dự trữ bán trong thời gian tới. Trong thành phần của (I) có thành phần dùng để mua sắm máy móc, trang thiết bị, tài sản cố định mới trừ đi phần khấu hao được gọi là đầu tư ròng. Đầu tư là một khái niệm chỉ rõ phần tổng tài sản quốc nội hay một phần khả năng sản xuất của xã hội. Phần chi tiêu này để tạo khả năng tiều dùng trong tương lai. Đầu tư là phần giảm tiêu dùng hiện tại để tăng tiêu dùng trong tương lai. Và nếu nền kinh tế là nền kinh tế giản đơn thì : GDP = C + I c. Chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ của Chính phủ (G) 46