Giáo trình Tài chính học

doc 231 trang ngocly 500
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tài chính học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docgiao_trinh_tai_chinh_hoc.doc

Nội dung text: Giáo trình Tài chính học

  1. LỜI NÓI ĐẦU Giáo trình tài chính học được biên soạn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn mới về tài chính của kinh tế thị trường trong nước và quốc tế để người học và người đọc dễ hình dung những vấn đề tài chính của nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển, mở cửa và hội nhập. Giáo trình tài chính học được biên soạn nhằm cung cấp những vấn đề lý luận cơ bản về tài chính, hệ thống tài chính, thị trường tài chính và những nội dung chủ yếu ở các lĩnh vực khác nhau của hoạt động tài chính như: Ngân sách nhà nước, bảo hiểm, tín dụng, tài chính doanh nghiệp, tài chính quốc tế. Qua đó giúp cho người học và người đọc có phương pháp tiếp cận dễ dàng về vấn đề lý thuyết và thực tiễn mới về tài chính của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang trong quá trình phát triển, mở cửa và hội nhập. Đồng thời giúp cho người học có nền tảng kiến thức cơ sở để tiếp cận học các môn học thuộc chuyên ngành kinh tế. Do đó, Tập thể tác giả đã tiến hành biên soạn “Giáo trình tài chính học”, nhằm phù hợp với mục tiêu và nội dung chương trình đào tạo của Trường Cao đẳng Kinh tế - Kế hoạch Đà Nẵng là phục vụ chủ yếu cho giảng dạy của giáo viên và việc học tập của sinh viên trong trường. Giáo trình tài chính học có 6 chương. Tham gia trực tiếp biên soạn các chương gồm có: NCS. Ths. Nguyễn Văn Huỳnh biên soạn chương 3 và chương 4 NCS.Ths. Nguyễn Thị Quỳnh Nhi biên soạn chương 1 và chương 2 TS. Nguyễn Thị Thu Đông biên soạn chương 5 và chương 6 Trong quá trình biên soạn, tập thể tác giả đã có nhiều cố gắng sưu tầm tài liệu, tổng hợp và chắt lọc toàn bộ nội dung liên quan đến tài chính trong thời đại mới. Tuy nhiên vấn đề tài chính là một vấn đề phức tạp, chứa đựng nhiều nội dung phong phú vì vậy, thiếu sót trong quá trình biên soạn là khó tránh khỏi. 1
  2. Nhóm tác giả mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của bạn đọc để tiếp tục hoàn thiện. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn! 2
  3. Chương I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH I. Khái quát sự ra đời và phát triển của tài chính Tài chính ra đời và tồn tại trong những điều kiện kinh tế xã hội, lịch sử nhất định khi mà ở đó xuất hiện nền sản xuất hàng hóa – tiền tệ và xuất hiện Nhà nước. Kinh tế chính trị Mác-LêNin đã chỉ rõ, tài chính là một phạm trù kinh tế khách quan, thuộc phạm trù phân phối. Quá trình tái sản xuất xã hội gồm 4 khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Tài chính thuộc về phạm trù phân phối, các quan hệ phân phối được thực hiện dưới hình thức giá trị. Như mọi phạm trù kinh tế khách quan khác, tài chính có lịch sử phát sinh, phát triển của nó. Như vậy, tài chính cũng đồng thời là một phạm trù lịch sử. Qua việc tổng kết các quá trình phát sinh, phát triển của tài chính gắn liền với nhiều hình thái kinh tế- xã hội khác nhau cho phép xác định tài chính ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với nền sản xuất hàng hoá, tiền tệ và hoạt động của Nhà nước. Nói cách khác, tài chính ra đời và phát triển dựa trên hai tiền đề, đó là tiền đề nền sản xuất hàng hoá - tiền tệ và tiền đề Nhà Nước. 1. Tiền đề sản xuất hàng hoá và tiền tệ Trước khi nền kinh tế hàng hóa xuất hiện, nền kinh tế hoạt động theo mô hình tự cung tự cấp, do vậy không có hoạt động trao đổi các sản phẩm tạo ra, phạm trù tài chính chưa xuất hiện. Khi có sự phân công lao động xã hội, chế độ tư hữu xuất hiện, quá trình chuyên môn hóa trong sản xuất đã dẫn đến sự hình thành nền kinh tế hàng hóa từ đó nẩy sinh hoạt động trao đổi các sản phẩm tạo ra. Quá trình trao đổi đầu tiên được thực hiện dưới hình thức trực tiếp - hàng đổi hàng, tức phân phối bằng hiện vật. Khi nền kinh tế hàng hóa ngày càng phát triển, thì hình thức trao đổi trực tiếp không còn phù hợp. Hoạt động trao đổi hàng hóa đòi hỏi phải có vật đơn nhất, đồng nhất đóng vai trò đo lường giá trị của tất cả hàng hóa. Ban đầu để trao đổi hàng hóa được dễ dàng thì con người đã biết chọn thứ gì đó để làm vật 3
  4. ngang giá chung. Chính yêu cầu đó đã làm xuất hiện tiền tệ. Ban đầu người ta sử dụng các loại hàng hóa thông thường như vỏ sò, vỏ hến, hay bộ lông thú, sau đó sử dụng các kim loại như đồng, chì, kẽm, bạc và vàng làm vật ngang giá, đóng vai trò là tiền tệ. Nói cách khác, trao đổi hàng hóa gắn liền với sự phát triển của các hình thái giá trị đã dẫn tới sự xuất hiện của tiền tệ. Tiền tệ ra đời nhanh chóng thúc đẩy các hoạt động giao lưu kinh tế, đồng thời làm nên cuộc cách mạng trong phân phối từ phân phối hiện vật sang phân phối giá trị. Trên cơ sở trao đổi hàng hoá gắn liền với sự phát triển của các hình thái giá trị, tiền tệ trở thành phương tiện không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của nền sản xuất đó. Với chức năng thước đo giá trị của thế giới hàng hoá, tiền tệ giúp các sản phẩm sản xuất ra được mang đi trao đổi một cách dễ dàng, thông qua giá cả. Sản phẩm được trao đổi liên tục nên dẫn đến sự vận động của tiền tệ làm phát sinh thu nhập của người sản xuất hàng hoá, các khoản thu nhập là nguồn hình thành các quỹ tiền tệ của các chủ thể kinh tế. Sự phát triển liên tục của quá trình sản xuất hàng hoá đòi hỏi các quỹ tiền tệ phải được tạo lập, phân phối, sử dụng và đây chính là cơ sở làm nảy sinh phạm trù tài chính. Tiền đề sản xuất hàng hóa và tiền tệ là tiền đề đầu tiên cho sự ra đời của tài chính. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa và sự đa dạng các hình thái tiền tệ, hoạt động phân phối tài chính diễn ra thường xuyên hơn, rộng hơn ở các chủ thể trong nền kinh tế, thỏa mãn nhiều lợi ích, nhu cầu khác nhau của các chủ thể đó đã thúc đẩy tài chính phát triển. Vì vậy, tiền đề nền sản xuất hàng hóa - tiền tệ là tiền đề khách quan cho sự ra đời và phát triển phạm trù tài chính của mỗi quốc gia. 2. Tiền đề Nhà nước Lịch sử phát triển của xã hội còn cho thấy rằng, khi chế độ tư hữu xuất hiện, xã hội loài người có sự phân chia giai cấp và có sự đấu tranh giai cấp, chính sản xuất và trao đổi hàng hóa – tiền tệ là nguyên nhân thúc đẩy mạnh mẽ sự phân chia giai cấp và từ đó phạm trù Nhà nước xuất hiện. Nhà nước ra đời đã làm nảy sinh quan hệ kinh tế gắn với việc hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ riêng có của mình để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, 4
  5. hình thành lĩnh vực hoạt động tài chính theo nguyên tắc bắt buộc hay tự nguyện. Bằng các chính sách, cơ chế, luật pháp luôn tác động, thúc đẩy kinh tế hàng hoá - tiền tệ phát triển, tác động tới sự vận động độc lập của các nguồn tài chính và tạo ra môi trường thuận lợi cho sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong xã hội. Ngoài ra, Nhà nước xuất hiện với tư cách là người có quyền lực chính trị, Nhà nước nắm lấy việc in tiền, đúc tiền và lưu thông đồng tiền, đã tạo ra môi trường pháp lý cho việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động phân phối dưới hình thức giá trị của tài chính. Như vậy có thể nói, đây là tiền đề chủ quan có tính chất định hướng, tạo môi trường pháp lý cho hoạt động phân phối của tài chính gắn với việc tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ của chủ thể kinh tế - xã hội. Sự ra đời và tồn tại của nền sản xuất hàng hoá - tiền tệ và Nhà nước được coi là những tiền đề phát sinh và phát triển của tài chính, tài chính cũng đã phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Các quan hệ tài chính ngày càng phát triển đa dạng, biểu hiện dưới nhiều hình thức và bắt rễ sâu rộng trong đời sống kinh tế xã hội. Nhà nước bằng chính sách, văn bản, cơ chế, luật pháp luôn tác động tới sự vận động của tiền tệ và tạo môi trường thuận lợi cho sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong xã hội, từ đó thúc đẩy các quan hệ tài chính nẩy sinh, tồn tại và phát triển. II. Bản chất của tài chính 1. Biểu hiện bên ngoài của tài chính Đó là sự vận động độc lập tương đối của các nguồn tài chính gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Tài chính luôn gắn liền với sự vận động của các quỹ tiền tệ. Hoạt động phân phối của tài chính nhất định phải kèm theo sự vận động của vốn tiền tệ và có hình thức biểu hiện đặc biệt là các nguồn tài chính. Nguồn tài chính là một yếu tố cơ bản của phạm trù tài chính. Đó là toàn bộ của cải xã hội được biểu hiện dưới hình thức giá trị. Nguồn tài chính là khả năng tài chính mà các chủ thể trong xã hội có thể khai thác, sử dụng nhằm thực hiện các mục đích của mình. Nguồn tài chính không chỉ biểu hiện bằng tiền toàn bộ giá trị của cải xã hội mà 5
  6. còn biểu hiện toàn bộ tài sản quốc gia, tổng sản phẩm quốc dân ở dạng vật chất tiềm năng có khả năng tiền tệ hoá. Nguồn tài chính thường xuyên vận động trong nền kinh tế quốc dân giúp cho các chủ thể thực hiện quan hệ tài chính và tạo nên các dòng vật chất và sự vận động này là độc lập, mang tính tất yếu khách quan. Khi vận động, các nguồn tài chính đó được hình thành ở các chủ thể kinh tế và Nhà nước dưới hình thức các quỹ tiền tệ, các khoản thu nhập. Các quỹ tiền tệ, khoản thu nhập này lại tiếp tục được sử dụng cho những mục đích nhất định của các chủ thể để đáp ứng nhu cầu của mình. Nói cách khác, việc hình thành và sử dụng các nguồn tài chính được thực hiện về cơ bản thông qua các quỹ tiền tệ có những mục đích nhất định. Bởi vậy, dấu hiệu đặc biệt quan trọng của phạm trù tài chính, khác biệt với các phạm trù phân phối khác là ở chỗ, các quan hệ tài chính luôn luôn gắn liền với sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định. Quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ gắn liền với sở hữu và tính mục đích của các chủ thể trong nền kinh tế, như: Nhà nước, doanh nghiệp, hộ gia đình, các ngân hàng và các công ty tài chính, tổ chức chính trị, xã hội Chính các chủ thể đó đã tham gia trực tiếp vào quá trình phân phối các nguồn tài chính thông qua các hoạt động thu, chi bằng tiền, thông qua đó hình thành các quỹ tiền tệ gắn liền với chủ sở hữu nhất định và được sử dụng theo mục đích riêng của chủ sở hữu đó. Trong một xã hội bao gồm các quỹ tiền tệ như sau: Quỹ tiền tệ của Nhà nước Quỹ tiền tệ của các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, cung ứng dịch vụ. Đây là quỹ tiền tệ của khâu trực tiếp sản xuất kinh doanh Quỹ tiền tệ của các tổ chức tài chính trung gian Quỹ tiền tệ của hộ gia đình và cá nhân Quỹ tiền tệ của các tổ chức chính trị, xã hội Các quỹ tiền tệ có các đặc trưng sau: Một là, Các quỹ tiền tệ luôn luôn biểu hiện quan hệ sở hữu. 6
  7. Sự vận động của các quỹ tiền tệ có thể diễn ra trong phạm vi một hình thức sỡ hữu hoặc giữa các hình thức thức sở hữu nhưng khi kết thúc quá trình tạo lập và sử dụng thì mỗi chủ thể của hình thức sở hữu này hay hình thức sở hữu khác sẽ nhận được cho mình một phần nguồn lực tài chính, được xem là kết quả tất yếu của quá trình phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Còn quá trình phân phối bao giờ cũng chịu sự chi phối quyền sở hữu như là yếu tố cơ bản của quan hệ sản xuất xã hội. Việc sử dụng quỹ tiền tệ cũng phụ thuộc quyền sở hữu, phụ thuộc vào quy ước, nguyên tắc sử dụng quỹ, ý chí chủ quan của người sở hữu trong quá trình phân phối. Hai là, Các quỹ tiền tệ luôn mang tính mục đích của nguồn tài chính. Đây là đặc điểm chủ yếu của các quỹ tiền tệ, phần lớn các quỹ tiền tệ đều có mục đích sử dụng cuối cùng là tích luỹ hay tiêu dùng. Việc hình thành các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong nền kinh tế là nhằm thõa mãn các nhu cầu khác nhau của từng chủ thể. Ví dụ: Đối với Nhà nước, tài chính được sử dụng để huy động các nguồn thu cho Chính phủ và chi tiêu để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội. Các doanh nghiệp huy động các nguồn thu tài chính để đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh hay dịch vụ để tạo ra thu nhập tăng thêm. Các hộ gia đình cũng cần các khoản thu nhập tài chính để thõa mãn nhu cầu tiêu dùng về vật chất và tinh thần. Như vậy, có thể thấy tài chính là cách thức phân bổ nguồn lực của các chủ thể trong nền kinh tế để thỏa mãn nhu cầu. Ba là, Các quỹ tiền tệ thường xuyên vận động. Biểu hiện của sự vận động là các quỹ tiền tệ luôn được tạo lập, bổ sung và sử dụng. Sự vận động của quỹ tiền tệ chủ yếu gắn với việc thực hiện chức năng phương tiện lưu thông của đồng tiền, còn việc thực hiện chức năng phương tiện cất trữ của đồng tiền chỉ mang tính chất tạm thời. Sự vận động của các quỹ tiền tệ luôn gắn với mục đích cụ thể của nó, các quỹ lớn được chia thành các quỹ nhỏ hơn hoặc các quỹ nhỏ hơn có thể được khuếch trương nhờ tập trung các quỹ tiền tệ nhỏ tương ứng. Ví dụ ngân sách 7
  8. Nhà nước được chia thành các quỹ dùng cho phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế xã hội, quốc phòng an ninh ; các quỹ tập trung của các tổng công ty được tạo nên từ các quỹ tương ứng của các xí nghiệp trực thuộc hạch toán kinh tế độc lập. Tóm lại, biểu hiện bên ngoài của nguồn tài chính là gắn liền với việc tạo lập và sử dụng những quỹ tiện tệ nhất định. Sự tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nêu trên cho mục đích tích lũy và tiêu dùng phản ánh kết quả của quá trình phân phối. Quá trình đó phát sinh hàng loạt các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị dựa vào sự vận động độc lập tương đối của đồng tiền trong phân phối các nguồn tài chính. 2 Nội dung kinh tế - xã hội của tài chính Qua việc phân tích hình thức biểu hiện bên ngoài của tài chính ta thấy, các nguồn tài chính vận động gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ không phải diễn ra một cách ngẫu nhiên mà luôn chứa đựng những mối quan hệ kinh tế - xã hội nhất định. Nguồn tài chính trong xã hội luôn vận động một cách liên tục trong mối quan hệ đan xen, đa dạng giữa các chủ thể trong xã hội dẫn tới việc làm thay đổi lợi ích kinh tế của các chủ thể đó. Các hiện tượng - biểu hiện bên ngoài của tài chính là sự thể hiện và phản ánh các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong quá trình phân phối các nguồn tài chính, quá trình phân phối của cải dưới hình thức giá trị. Các quan hệ kinh tế như thế được gọi là các quan hệ tài chính. Các quan hệ tài chính biểu hiện mặt bản chất bên trong của tài chính ẩn dấu sau các biểu hiện bên ngoài của tài chính. Như vậy, quan hệ tài chính đó là các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị nảy sinh thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau trong đời sống kinh tế xã hội. Các mối quan hệ đó bao gồm: - Quan hệ kinh tế giữa Nhà Nước với các cơ quan, đơn vị kinh tế, dân cư. - Quan hệ kinh tế giữa các tổ chức tài chính trung gian với các cơ quan, tổ chức kinh tế phi tài chính, dân cư. - Quan hệ kinh tế giữa các cơ quan, đơn vị kinh tế, dân cư với nhau và các quan hệ kinh tế trong nội bộ của các chủ thể đó. 8
  9. - Quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau trên thế giới 3. Bản chất của tài chính Trên cơ sở phân tích biểu hiện bên ngoài và nội dung bên trong của phạm trù tài chính, bản chất của tài chính được hiểu như sau: Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế gắn với việc phân phối sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị, thông qua đó tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng yêu cầu tích luỹ và tiêu dùng của các chủ thể trong nền kinh tế. Tài chính phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối giá trị của cải xã hội trong những không gian, thời gian cụ thể. Từ bản chất có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của các quan hệ tài chính: - Các quan hệ tài chính luôn luôn gắn liền với sự vận động độc lập tương đối của đồng tiền để tiền hành phân phối các nguồn tài chính. - Các quan hệ tài chính luôn luôn gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong xã hội. Để hiểu rõ hơn bản chất của tài chính, cần phân biệt phạm trù tài chính với một số phạm trù giá trị khác như phạm trù tiền tệ, giá cả, tiền lương. Thứ nhất: Phân biệt phạm trù tài chính với phạm trù tiền tệ. Nhìn bề ngoài, tài chính được người ta cảm nhận như những quỹ tiền tệ của các chủ thể khác nhau trong xã hội. Nhưng giữa phạm trù tài chính và phạm trù tiền tệ có sự khác biệt cơ bản. Về bản chất tiền tệ là vật ngang giá chung trong trao đổi hàng hoá. Tài chính là sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ trong lĩnh vực phân phối nhằm tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Thứ hai: Phân biệt phạm trù tài chính và phạm trù giá cả. Giá cả cũng là một phạm trù giá trị, ở giá cả việc chuyển dịch giá trị không xảy ra vì giá cả xuất hiện trong quan hệ trao đổi, mua bán theo nguyên tắc ngang giá. Giá trị mà người mua và người bán có được đều bảo tồn chỉ thay đổi hình thái biểu hiện từ tiền biến thành hàng và ngược lại. Điều này có ý nghĩa trong quan hệ trao đổi mua bán ngang giá của phạm trù giá cả không diễn ra hoạt động phân phối dưới hình thức giá trị. 9
  10. Trong thực tế nếu việc trao đổi mua bán diễn ra không theo nguyên tắc ngang giá thì cũng diễn ra sự chuyển dịch giá trị từ chủ thể này sang chủ thể khác, biểu hiện ở phần chênh lệch giá này chuyển dịch từ người bán sang người mua, người mua được hưởng lợi và ngược lại. Trong phân phối dưới hình thức giá trị của phạm trù giá cả đều được thực hiện kèm theo quá trình trao đổi mua bán với sự vận động ngược chiều của các hình thái giá trị khác đó là giá trị và giá trị sử dụng, không giống như sự vận động của tài chính không kèm theo sự vận động ngược chiều nào của giá trị. Thứ ba: Phân biệt phạm trù tài chính với phạm trù tiền lương. Tiền lương cũng là phạm trù phân phối dưới hình thức giá trị. Tiền lương phân phối theo nguyên tắc phân phối theo lao động được tính tương đương với giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động. Tiền lương được thực hiện thông qua phân phối của tài chính để hình thành nên quỹ tiền lương của các tổ chức kinh tế xã hội, các cơ quan nhà nước trước khi trả cho người lao động. Tiền lương được biểu hiện bằng một lượng giá trị được chuyển dịch từ quỹ tiền lương của các chủ thể chi trả khác nhau đến các quỹ tiền tệ cho người được hưởng. Đây chính là biểu hiện của hoạt động phân phối tài chính. Giữa tiền lương và tài chính có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tài chính là phương tiện để thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động của tiền lương trong lĩnh vực bù đắp sức lao động. Phạm vi tác động của tiền lương hẹp hơn so với tài chính. III. Chức năng của tài chính 1. Chức năng phân phối của tài chính 1.1. Khái niệm Phân phối của tài chính đó là sự phân chia tổng sản phẩm quốc dân theo những tỷ lệ và xu hướng nhất định cho tiết kiệm và tiêu dùng nhằm tích tụ tập trung vốn để đầu tư phát triển kinh tế và thoả mãn các nhu cầu chung của Nhà nước, xã hội và các cá nhân. Hoạt động của tài chính là hoạt động phân phối - phân phối các nguồn giá trị. Do vậy, chức năng phân phối là chức năng vốn có của tài chính, thể hiện bản 10
  11. chất của tài chính trong đời sống kinh tế, xã hội khi phân phối giá trị của cải xã hội. Nhờ vào chức năng này mà các nguồn lực đại diện cho những bộ phận của cải xã hội được đưa vào những mục đích sử dụng khác nhau, đảm bảo những nhu cầu khác nhau và những lợi ích khác nhau. Người ta dễ dàng nhận diện thấy tác động hiện thực của chức năng phân phối tài chính thông qua các hoạt động thu, chi tài chính, qua đó tài chính thực hiện huy động một phần thu nhập của các tổ chức, các hộ gia đình, các cá nhân để hình thành các quỹ tiền tệ nhằm thực hiện những mục tiêu đã định của các chủ thể. 1.2. Đối tượng của phân phối Đối tượng phân phối của tài chính là toàn bộ của cải xã hội được biểu hiện dưới hình thức giá trị, là tổng thể các nguồn tài chính có trong xã hội, bao gồm: * Nếu xét về thời gian, nguồn tài chính bao gồm: + Bộ phận của cải xã hội mới được sáng tạo ra trong kỳ. Đó là tổng sản phẩm trong nước (GDP). + Bộ phận của cải xã hội còn lại từ thời kỳ trước, đó là phần tích luỹ quá khứ của cải xã hội và dân cư. * Nếu xét về phạm vi, nguồn tài chính bao gồm: + Nguồn tài chính tạo ra từ trong nước + Nguồn tài chính di chuyển từ nước ngoài vào * Nếu xét về hình thức biểu hiện: + Nguồn tài chính hữu hình là nguồn tài chính tồn tại dưới hình thái giá trị hoặc hiện vật. Dưới hình thái giá trị, nguồn tài chính có thể tồn tại dưới hình thức tiền, vàng và ngoại tệ. Dưới hình thái hiện vật, nguồn tài chính có thể tồn tại dưới dạng bất động sản, tài nguyên, đất đai. + Nguồn tài chính vô hình là nguồn tài chính không có hình thái vật chất cụ thể như: phần mềm, dữ liệu, thông tin, hình ảnh, phát minh, sáng chế, bí quyết kỹ thuật, thương hiệu Những sản phẩm kể trên, bản thân chúng có giá trị và trong điều kiện kinh tế thị trường chúng có thể chuyển thành tiền thông qua mua 11
  12. bán. Do đó, chúng được coi là một bộ phận cấu thành của tổng thể các nguồn tài chính trong xã hội. 1.3. Chủ thể phân phối: Chủ thể phân phối của tài chính là những người có thể tham gia trực tiếp vào quá trình phân phối các nguồn lực tài chính trong xã hội. Các chủ thể phân phối phải thoả mãn một trong các tiêu thức sau: + Có quyền sở hữu các nguồn tài chính: Chủ thể ở đây là những người chủ “đích thực” của vốn tiền tệ. Vì là người có quyền sở hữu nguồn tài chính nên họ có quyền chủ động trong quá trình sử dụng nguồn tài chính để đáp ứng yêu cầu hoạt động của mình. + Có quyền sử dụng nguồn tài chính: Chủ thể ở đây là những người không có quyền sở hữu vốn tiền tệ nhưng họ đươc trao quyền sử dụng vốn tiền tệ. Ví dụ họ là người đi vay vốn tín dụng để hoạt động. Quyền sở hữu nguồn tài chính thuộc về người cho vay nhưng quyền sử dụng thuộc về người đi vay nên người đi vay có thể trực tiếp tham gia vào quá trình phân phối. + Có quyền lực chính trị: Đây là tiêu thức biểu hiện chủ thể phân phối là Nhà nước. Vì có quyền lực chính trị, Nhà nước có thể huy động, phân phối và sử dụng một phần các nguồn lực tài chính từ các chủ thể khác nhau trong xã hội để đáp ứng yêu cầu thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. + Có sự ràng buộc của các quan hệ xã hội: Chính sự ràng buộc các quan hệ xã hội làm nảy sinh nhu cầu huy động, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính của các chủ thể phân phối. Sự ràng buộc của các quan hệ xã hội là tiền đề cho sự vận động của các nguồn tài chính từ chủ thể này sang chủ thể khác trong quá trình phân phối của tài chính. Chủ thể muốn đề cập ở đây là các tổ chức chính trị, các tổ chức xã hội khi họ nhận được sự đóng góp, ủng hộ của các cá nhân, tổ chức trong xã hội thì họ sẽ trực tiếp phân phối nguồn tài chính đó. Như vậy, chủ thể phân phối có thể là Nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian (ngân hàng, Bảo hiểm, tổ chức tín dụng khác ), các tổ chức xã hội, các hộ gia đình và cá nhân dân cư. 12
  13. Khi thực hiện chức năng phân phối tài chính các chủ thể phải đảm bảo các yêu cầu sau: + Phân phối tài chính phải xác định quy mô tỷ trọng của đầu tư trong tổng sản phẩm quốc dân phù hợp với khả năng và sự tăng trưởng kinh tế ở mỗi thời kỳ nhất định. + Phân phối tài chính phải giải quyết thỏa đáng các quan hệ về lợi ích kinh tế của những chủ thể tham gia phân phối. + Phân phối tài chính giải quyết thoả đáng các mối quan hệ cân đối trong nền kinh tế quốc dân cũng nhưng trong từng khâu tài chính riêng biệt. + Phân phối tài chính đảm bảo giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư. + Phân phối tài chính phải đảm bảo tạo lập và chu chuyển nguồn vốn đảm bảo quá trình tái sản xuất xã hội bình thường. 1.4 Kết quả phân phối Phân phối tài chính luôn làm chuyển dịch giá trị từ quỹ tiền tệ này sang quỹ tiền tệ khác. Kết quả phân phối của tài chính là sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định cho những mục đích khác nhau của các chủ thể trong xã hội. 1.5. Đặc điểm phân phối - Phân phối tài chính luôn gắn liền với việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định. Phân phối tài chính được biểu hiện bằng sự vận động của các nguồn tài chính từ quỹ tiền tệ này sang quỹ tiền tệ khác. Điều này liên quan đến việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ khác nhau: Có thể có nhiều quỹ tiền tệ được tạo lập gắn liền với việc sử dụng một quỹ tiền tệ (Ví dụ như doanh nghiệp chi trả lương cho người lao động) hay ngược lại việc tạo lập một quỹ tiền tệ liên quan đến việc sử dụng nhiều quỹ tiền tệ khác (ví dụ, nhiều doanh nghiệp cùng nộp thuế cho Nhà nước). - Phân phối tài chính chỉ diễn ra dưới hình thức giá trị, không kèm theo sự thay đổi hình thái giá trị. Tài chính ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với nền sản xuất hàng hoá và tiền tệ, phân phối tài chính là hoạt động phân phối các nguồn lực tài chính trong xã hội, do đó chỉ thực hiện bằng giá trị thông qua chức 13
  14. năng phương tiện thanh toán của tiền tệ. Khác với phân phối trong phạm trù giá cả, phân phối tài chính làm cho các nguồn lực tài chính vận động một chiều từ quỹ tiền tệ được sử dụng sang quỹ tiền tệ được tạo lập mà không kèm theo sự thay đổi các hình thái giá trị hay sự vận động ngược chiều của các hình thái giá trị. + Phân phối tài chính diễn ra trong một chu trình khép kín bao gồm quá trình phân phối lần đầu và phân phối lại. Phân phối lần đầu là quá trình phân phối chỉ diễn ra ở lĩnh vực sản xuất, cho những người có tham gia vào quá trình sản xuất. Chủ thể phân phối lần đầu bao gồm doanh nghiệp (người sản xuất), người lao động, Nhà nước (đại diện cho tài sản của Nhà nước mà doanh nghiệp đang sử dụng), các trung gian tài chính như Ngân hàng, bảo hiểm, Tổ chức tín dụng (với tư cách là người sở hữu vốn cho doanh nghiệp vay). Thông qua quá trình phân phối lần đầu đã hình thành nên phần thu nhập cơ bản của chủ thể phân phối. Vì phân phối lần đầu diễn ra ở lĩnh vực sản xuất nên toàn bộ giá trị sản phẩm xã hội trong khu vực sản xuất được phân chia thành các quỹ tiền tệ như sau: + Một phần bù đắp những chi phí vật chất đã tiêu hao trong quá trình sản xuất hay thực hiện các dịch vụ. Phần này bù đắp chi phí khấu hao tài sản cố định và chi phí mua nguyên, nhiên, vật liệu đã bỏ ra trong quá trình sản xuất, tiêu thụ hàng hoá và kinh doanh dịch vụ. + Một phần hình thành quỹ tiền lương để trả lương cho người lao động. + Một phần hình thành các quỹ bảo hiểm . + Một phần hình thành thu nhập của những người sở hữu các nguồn lực tài chính để phục vụ sản xuất kinh doanh như nộp thuế cho ngân sách nhà nước, trả nợ tiền vay ngân hàng và các tổ chức khác, phân chia thu nhập cho các thành viên góp vốn * Phân phối lại là quá trình tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản đã hình thành qua phân phối lần đầu ra phạm vi toàn xã hội để đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau, thoả mãn nhiều lợi ích khác nhau trong xã hội. Khi tiến hành 14
  15. phân phối lại, đã làm chuyển quyền sở hữu cũng như thay đổi quyền sử dụng nguồn tài chính của các chủ thể. So với phân phối lần đầu, phân phối lại diễn ra trên phạm vi rộng hơn, ở tất cả các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, hơn nữa phân phối lại diễn ra thường xuyên liên tục ở tất cả các chủ thể phân phối. Chính phân phối lại mới là biểu hiện chủ yếu của chức năng phân phối tài chính. Cần chú ý rằng, việc phân biệt giữa phân phối lần đầu và phân phối lại chỉ mang tính chất tương đối. Nếu xét trên tổng thể thì quá trình phân phối diễn ra liên tục, đan xen vào nhau, khó có thể tách rời hai quá trình phân phối lần đầu và phân phối lại. 2. Chức năng giám đốc tài chính Chức năng giám đốc cũng là chức năng vốn có của tài chính, đó là khả năng khách quan để sử dụng tài chính làm công cụ kiểm tra, giám đốc bằng đồng tiền với việc sử dụng các chức năng phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ tiền tệ. Chức năng giám đốc có quan hệ biện chứng với chức năng phân phối tài chính. 2.1. Khái niệm Giám đốc tài chính là quá trình kiểm tra, giám sát, đôn đốc các hoạt động tài chính nhằm phát hiện các ưu điểm để phát huy và những tồn tại cần khắc phục trong toàn bộ quá trình phân phối nguồn tài chính. 2.2. Đối tượng giám đốc Là toàn bộ quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, quá trình vận động của các nguồn tài chính. Chính sự vận động của các nguồn tài chính trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ thông qua việc thực hiện chức năng phân phối làm nảy sinh nhu cầu và khả năng kiểm tra, giám sát toàn bộ hoạt động này. 2.3. Chủ thể giám đốc Chủ thể giám đốc cũng là chủ thể của phân phối. Trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của mình các chủ sở hữu thực hiện việc kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền một cách thường xuyên, liên tục ở mọi nơi, mọi lúc diễn ra 15
  16. hoạt động phân phối của tài chính. Chủ thể giám đốc tài chính có thể là Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội hay cá nhân, hộ gia đình. 2.4. Kết quả của giám đốc tài chính Trước hết, giám đốc tài chính đảm bảo tính hợp lý của quá trình phân phối tài chính, đảm bảo sự đúng đắn của việc tạo lập và tính hiệu quả của việc sử dụng các quỹ tiền tệ. Hoạt động phân phối tài chính gắn liền với hoạt động của con người nên nó mang tính chủ quan trong một chừng mực nhất định. Nhờ chức năng giám đốc, quá trình phân phối được thực hiện phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan do đó vừa đảm bảo tính hợp lý của quá trình phân phối, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng chúng theo những mục đích đã định. Thông qua giám đốc tài chính, phải phát hiện được những mặt được và chưa được của quá trình phân phối để điều chỉnh kịp thời việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ theo mục đích đã định. Ngoài ra, giám đốc tài chính còn góp phần thúc đẩy việc chấp hành các chính sách, chế độ, pháp luật của Nhà nước. 2.5. Đặc điểm của chức năng giám đốc - Chức năng giám đốc của tài chính không đồng nhất với mọi khả năng giám đốc bằng đồng tiền nói chung trong xã hội. Ví dụ, giá cả là một phạm trù giá trị có khả năng giám đốc bằng đồng tiền nhưng hoàn toàn khác biệt với phạm trù tài chính. Trong quan hệ mua bán, trao đổi của giá cả trước hết nhờ vào chức năng thước đo giá trị của tiền tệ để đo lường giá trị của hàng hoá nhằm đảm bảo nguyên tắc ngang giá, ngoài ra còn dựa vào nhiều chức năng khác của tiền tệ. Ở phạm trù tài chính, chức năng giám đốc được thực hiện khi tài chính được sử dụng như một công cụ phân phối, gắn với việc tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ, do đó chủ yếu dựa vào chức năng phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ của tiền tệ. - Giám đốc tài chính có tính thường xuyên, liên tục, toàn diện, rộng rãi và kịp thời. Tính thường xuyên, liên tục được thể hiện rất rõ nét vì hoạt động phân 16
  17. phối của tài chính cũng có tính thường xuyên, liên tục. Giám đốc tài chính mang tính chất rộng rãi vì hoạt động phân phối của tài chính diễn ra trên phạm vi rất rộng. Tính toàn diện và kịp thời biểu hiện ở chỗ, chức năng giám đốc được thực hiện trước, trong và sau quá trình phân phối của tài chính. Hai chức năng của tài chính có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau, làm tiền đề và bổ sung cho nhau. Chức năng phân phối là tiền đề của chức năng giám đốc. Hoạt động phân phối tạo ra khả năng và nhu cầu giám sát bằng đồng tiền đối với toàn bộ quá trình phân phối. Chức năng giám đốc giúp cho việc thực hiện chức năng phân phối phù hợp với các qui luật kinh tế khách quan, nâng cao tính hiệu quả của phân phối. Chức năng giám đốc được thực hiện trước, trong và sau quá trình phân phối. IV. Hệ thống tài chính 1.Khái niệm và sơ đồ hệ thống tài chính 1.1 Khái niệm hệ thống tài chính Trong nền kinh tế, các quan hệ tài chính xuất hiện rất đa dạng và phức tạp, tuy nhiên chúng không hề tồn tại và hoạt động tách biệt nhau, giữa chúng luôn có mối quan hệ tương tác qua lại lẫn nhau theo những nguyên tắc, qui luật nhất định, hình thành nên một hệ thống thống nhất. Hệ thống tài chính có thể xem xét trên 2 khía cạnh: chủ thể tài chính và luồng luân chuyển vốn. Tuy nhiên trong giáo trình này, chỉ đề cập đến quan niệm hệ thống tài chính trên góc độ chủ thể tài chính và ở đó có các quỹ tiền tệ, tạo thành “tụ điểm” từ các nguồn tài chính, thì hệ thống tài chính khái quát như sau: Hệ thống tài chính là tổng thể các bộ phận khác nhau trong một cấu trúc tài chính, mà ở đó các quan hệ tài chính hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau nhưng có mối liên hệ tác động lẫn nhau theo những quy luật nhất định. Ở mỗi lĩnh vực hoạt động khác nhau có những quỹ tiền tệ đặc thù được hình thành và được sử dụng cho những mục đích khác nhau. Các hoạt động tài chính ở đó cũng có đặc điểm và vai trò riêng, nghĩa là ở đó hình thành các bộ 17
  18. phận tài chính độc lập. Tính đa dạng, độc lập đó bắt nguồn từ tính đa dạng, phong phú của các hoạt động kinh tế xã hội mà hoạt động tài chính là một bộ phận trong đó. Tuy có sự đa dạng, khác nhau nhưng các hoạt động tài chính trong các lĩnh vực, các bộ phận tài chính lại có mối quan hệ chặt chẽ, ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau trong sự vận động không ngừng của các nguồn tài chính. Điều đó, kết hợp với nhau và cấu thành một hệ thống tài chính. Hệ thống tài chính của một quốc gia là một thể thống nhất do nhiều bộ phận tài chính hợp thành. Bộ phận tài chính là nơi hội tụ các nguồn tài chính, nơi diễn ra việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ gắn liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chủ thể trong lĩnh vực hoạt động. Việc xác định có bao nhiêu bộ phận tài chính của hệ thống đó là tuỳ thuộc vào việc chỉ ra một cách đúng đắn các căn cứ lư thuyết để xác định thế nào là một bộ phận tài chính. Các căn cứ xác định các bộ phận tài chính: + Bộ phận tài chính phải là một điểm hội tụ của các nguồn tài chính là nơi vừa thu hút các nguồn tài chính (tạo lập quỹ tiền tệ từ các quỹ tiền tệ khác) đồng thời cũng là nơi cung ứng nguồn tài chính (sử dụng quỹ tiền tệ để hình thành các quỹ tiền tệ khác) + Một bộ phận tài chính nếu ở đó hoạt động tài chính, sự vận động của các nguồn tài chính, việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ luôn gắn liền với một chủ thể phân phối cụ thể, xác định. + Được xếp vào một bộ phận tài chính nếu các hoạt động tài chính có cùng tính chất đặc điểm, vai trò có tính đồng nhất về hình thức các quan hệ tài chính và tính mục đích của các quỹ tiền tệ trong lĩnh vực hoạt động. Từ những căn cứ trên có thể xác định hệ thống tài chính theo chủ thể bao gồm các bộ phận tài chính sau: - Tài chính Nhà nước. - Tài chính doanh nghiệp. - Tài chính của các tổ chức tài chính trung gian (Bảo hiểm, Tín dụng) - Tài chính các tổ chức chính trị - xã hội và tài chính hộ gia đình 18
  19. 1.2. Sơ đồ hệ thống tài chính Hệ thống tài chính bao gồm các bộ phận tài chính và bộ phận dẫn vốn, được tổ chức theo sơ đồ sau: Tài chính Nhà nước Tài chính THỊ TRƯỜNG Các trung gian Doanh nghiệp TÀI CHÍNH tài chính Tài chính hộ gia đình và tổ chức xã hội Giữa các bộ phận của hệ thống tài chính có mối quan hệ ràng buộc trong việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ hợp thành một hệ thống tài chính thống nhất. Đây là những mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, tác động vào nhau một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua thị trường tài chính. Thêm vào đó, với xu hướng quốc tế hóa, hệ thống tài chính của mỗi quốc gia xây dựng có những nét tương đồng, phù hợp với thông lệ quốc tế. 2. Đặc điểm các bộ phận của hệ thống tài chính 2.1. Tài chính Nhà nước Tài chính Nhà nước là tổng thể các hoạt động thu chi bằng tiền do Nhà nước tiến hành trong quá trình tạo lập, sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước nhằm phục vụ việc thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Tài chính Nhà nước phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể khác nhau trong xã hội nẩy sinh trong quá trình Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính. Tài chính Nhà nước có các đặc trưng sau: 19
  20. Tài chính Nhà nước là một khâu có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống tài chính. Tài chính Nhà nước đảm bảo cung ứng nguồn tài chính đáp ứng yêu cầu tồn tại và hoạt động của bộ máy Nhà nước, đảm bảo quốc phòng an ninh, thực hiện các chức năng quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước, thực hiện đường lối đối ngoại của Nhà nước. Tài chính Nhà nước được phân theo các tiêu thức sau: - Căn cứ vào tính chất đặc điểm của hoạt động tài chính Nhà nước : + Tài chính chung của Nhà nước + Tài chính của các cơ quan hành chính Nhà nước + Tài chính của các đơn vị sự nghiệp Nhà nước + Tài chính của các doanh nghiệp Nhà nước - Căn cứ nội dung quản lý hay mục và cơ chế hoạt động của các quỹ thuộc tài chính Nhà nước, tài chính Nhà nước bao gồm ngân sách Nhà nước, tín dụng Nhà nước, các quỹ ngoài ngân sách Nhà nước gồm quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ hưu trí, quỹ quốc gia giải quyết việc làm, quỹ chuyên dùng khác. Trong tài chính Nhà nước thì quỹ ngân sách Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Quỹ ngân sách Nhà nước được tạo lập từ các khoản huy động mang tính chất bắt buộc hoặc mang tính tự nguyện, có thể tạo lập một cách trực tiếp thông qua huy động nguồn tài chính từ các khâu tài chính khác hoặc gián tiếp thông qua thị trường tài chính. Ngân sách Nhà nước thực hiện nhiệm vụ cụ thể sau: o Động viên tập trung các nguồn tài chính cho việc tạo lập quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước đó là quỹ ngân sách. o Phân phối và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước cho việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội. o Giám đốc kiểm tra đối với các bộ phận tài chính khác và với mọi hoạt động kinh tế - xã hội gắn liền quá trình thu, chi ngân sách. 2.2. Tài chính Doanh nghiệp 20
  21. Tài chính doanh nghiệp là khâu cơ sở trong hệ thống tài chính quốc gia. Đặc trưng của tài chính doanh nghiệp là gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ. Tài chính doanh nghiệp là nơi thu hút nguồn tài chính từ các khâu khác để hoạt động, đồng thời cũng chính là nơi tạo ra nguồn tài chính để cung cấp cho các khâu tài chính khác nhau. Nhiệm vụ của tài chính doanh nghiệp: + Bảo đảm vốn và phân phối vốn hợp lý cho các nhu cầu của sản xuất kinh doanh. + Tổ chức vốn chu chuyển một cách liên tục và có hiệu quả. + Phân phối doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp theo đúng các quy định của nhà nước. + Kiểm tra mọi hoạt động, mọi quá trình vận động của các nguồn tài chính trong doanh nghiệp, đồng thời kiểm tra mọi hoạt động sản xuất kinh doanh gắn liền quá trình đó. 2.3. Tài chính của các tổ chức tài chính trung gian Các trung gian tài chính là các tổ chức có hoạt động chủ yếu là cung cấp các dịch vụ và các sản phẩm tài chính cho khách hàng để đảm bảo các hoạt động giao dịch của họ thuận lợi và hiệu quả hơn so với việc tự thực hiện trên thị trường tài chính. Các trung gian tài chính phổ biến là các ngân hàng, các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, tổ chức tín dụng khác Hoạt động của các trung gian tài chính chủ yếu cung cấp các sản phẩm tài chính bao gồm hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng, dịch vụ thanh toán Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các trung gian tài chính ngày càng được hoàn thiện và đa dạng. Đặc trưng chung của bộ phận tài chính trung gian là cầu nối giữa những người có khả năng cung ứng và những người có nhu cầu sử dụng tạm thời các nguồn tài chính. Bộ phận tài chính trung gian có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với các khâu khác trong hệ thống tài chính. Trong nền kinh tế hiện đại, các trung gian tài chính không chỉ thực hiện chức năng lưu chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi 21
  22. thiếu mà còn cung cấp nhiều phương tiện khác nhằm giúp phân bổ hiệu quả các nguồn lực tài chính của nền kinh tế. 2.4. Tài chính hộ gia đình và tài chính các tổ chức chính trị- xã hội - Tài chính hộ gia đình: Thực chất đây là ngân quỹ của hộ gia đình. Quỹ tiền tệ của hộ gia đình được hình thành từ các khoản thu nhập thường xuyên hoặc không thường xuyên của các thành viên trong gia đình và được sử dụng chủ yếu vào mục đích tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình. Đối với các hộ gia đình có nguồn thu nhập lớn, ngoài chi tiêu thường xuyên có thể có một phần tích luỹ được sử dụng để tham gia vào việc tạo lập nên các khâu tài chính khác một cách trực tiếp hay gián tiếp thông qua thị trường tài chính. - Tài chính các tổ chức chính trị - xã hội bao gồm tài chính của các tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ Nguồn hình thành nên quỹ này là từ sự đóng góp của các hội viên, quyên góp, ủng hộ của các tổ chức quốc gia và quốc tế cũng như sự trợ cấp của ngân sách nhà nước. Các quỹ tiền tệ này được sử dụng chủ yếu là đảm bảo nhu cầu của các tổ chức kinh tế - xã hội, trong trường hợp các quỹ này chưa sử dụng, số vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi có thể tham gia trên thị trường tài chính để cung ứng vốn cho các khâu tài chính khác. 2.5. Thị trường tài chính Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các tài sản tài chính nhằm chuyển dịch vốn từ người có khả năng cung ứng vốn sang những người cần vốn. Đây không phải là một bộ phận trong hệ thống tài chính, mà là môi trường cho các bộ phận tài chính và nguồn tài chính hoạt động. 22
  23. TÓM TẮT CHƯƠNG 1 1. Sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa và sự xuất hiện của tiền tệ là tiền đề cho sự ra đời của tài chính. Sự hình thành của Nhà nước là nhân tố có tính chất định hướng tạo môi trường pháp lý cho hoạt động phân phối của tài chính, thúc đẩy tài chính thêm phát triển đa dạng. 2. Tài chính được hiểu là quá trình phân phối các nguồn tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu của các chủ thể trong nền kinh tế. Hoạt động của tài chính được thực hiện thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. 3. Tài chính có hai chức năng cơ bản là chức năng phân phối và chức năng giám đốc, trong đó chức năng phân phối là chức năng cơ bản vốn có của tài chính, phản ánh bản chất của tài chính; còn chức năng giám đốc là yêu cầu khách quan của hoạt động phân phối tài chính. Giữa hai chức năng có mối quan hệ chặc chẽ, hữu cơ với nhau, làm tiền để và bổ sung cho nhau. 4. Trong nền kinh tế, các quan hệ tài chính xuất hiện rất đa dạng và phức tạp, tuy nhiên chúng không hề tồn tại và hoạt động tách biệt nhau, giữa chúng luôn có mối quan hệ tương tác qua lại lẫn nhau theo những nguyên tắc, qui luật nhất định, hình thành nên một hệ thống thống nhất. Hệ thống tài chính có thể xem xét trên 2 khía cạnh: chủ thể tài chính và luồng luân chuyển vốn. Câu hỏi chương 1: 1. Tại sao sự ra đời và phát triển của hàng hóa – tiền tệ là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời của tài chính? 2. Tài chính là gì? Nêu hình thức thể hiện quan hệ tài chính giữa Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước? 3. Trình bày các chức năng của tài chính? 4. Phân biệt nguồn tài chính và quỹ tiền tệ 5. Phân tích mối quan hệ cơ bản giữa các khâu trong hệ thống tài chính? 23
  24. Chương II NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC I. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của Ngân sách Nhà nước 1. Khái niệm ngân sách Nhà nước Nhìn lại lịch sử ra đời và phát triển của tài chính có thể thấy, khi Nhà nước xuất hiện thì đồng thời xuất hiện các khoản chi tiêu về quản lý hành chính, tư pháp, an ninh quốc phòng nhằm duy trì quyền lực chính trị của Nhà nước và những khoản chi tiêu này được tài trợ từ các nguồn tài chính đóng góp của xã hội như thuế, công trái từ đây phạm trù tài chính Nhà nước bắt đầu xuất hiện như một khái niệm dùng để phản ánh những hoạt động tài chính gắn liền với chủ thể là Nhà nước. Tài chính Nhà nước được xem là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận hợp thành. Nếu căn cứ vào chủ thể quản lý hay tính chất, đặc điểm hoạt động của tài chính Nhà nước thì tài chính Nhà nước bao gồm ngân sách Nhà nước, tín dụng Nhà nước và các quỹ ngoài ngân sách Nhà nước. Trong đó, Ngân sách Nhà nước là khâu quan trọng nhất, giữ vị trí chủ đạo trong tài chính Nhà nước. Thu ngân sách Nhà nước được huy động từ mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội dưới nhiều hình thức và phương pháp khác nhau trong đó, thuế là h́nh thức thu phổ biến và chủ yếu. Chi của ngân sách Nhà nước nhằm duy trì sự tồn tại của bộ máy Nhà nước và phục vụ thực hiện các chức năng của Nhà nước. Theo luật Ngân sách Nhà nước của Việt Nam (Luật số 01/2002/QH11 do Quốc hội khóa 11, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 16/12/2002) thì ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Theo khái niệm trên thì ngân sách Nhà nước là một bảng kế hoạch tài chính, gắn liền với quyền lực của Nhà nước, là công cụ vật chất của Nhà nước để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Ngân sách Nhà nước là một bảng kế hoạch tài chính vĩ mô được cơ quan có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một thời gian nhất định, thường là 1 năm, năm đó người ta gọi là năm ngân sách hay năm tài chính. Đây là giai 24
  25. đoạn mà trong đó dự toán thu chi tài chính được phê chuẩn của Quốc hội có hiệu lực thi hành. Ở hầu hết các quốc gia, năm ngân sách thường có độ dài là 12 tháng, tuy nhiên thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc ở mỗi nước có khác nhau. Chẳng hạn ở Việt Nam, Bỉ, Pháp, Hà Lan, Trung Quốc, Malaysia, Lào năm ngân sách trùng với năm dương lịch tức bắt đầu từ ngày 1/1 năm nay và kết thúc vào 31/12 năm nay. Một số nước như Anh, Nhật, Hồng Kông, Ấn Độ năm ngân sách bắt đầu từ 1/4 năm nay và kết thúc 31/3 năm sau. Ở Mỹ bắt đầu từ 1/10 năm nay và kết thúc 30/9 năm sau; ở Úc thì từ 1/7 năm nay đến 30/6 năm sau. Việc qui định năm ngân sách thường là do ý chủ quan của Nhà nước và phụ thuộc vào 2 yếu tố: + Đặc điểm hoạt động của nền kinh tế liên quan đến nguồn thu ngân sách. + Đặc điểm hoạt động của cơ quan lập pháp. - Về mặt bản chất, ngân sách Nhà nước là hệ thống các quan hệ tài chính giữa Nhà nước và xã hội, phát sinh, gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước khi Nhà nước huy động và sử dụng nguồn tài chính quốc gia nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng quản lý và điều hành nền kinh tế - xã hội của mình trên cơ sở luật định. Mối quan hệ tài chính giữa Nhà nước và xã hội là các quan hệ kinh tế thể hiện dưới hình thức giá trị phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước, mối quan hệ đó bao gồm: - Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các doanh nghiệp được biểu hiện dưới hình thức như nộp thuế, cấp phát kinh phí, hỗ trợ giá . - Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các cơ quan quản lý Nhà nước; quản lý kinh tế xã hội được biểu hiện dưới các hình thức như cấp phát kinh phí. - Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với dân cư. - Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các tổ chức tài chính quốc tế, chính phủ nước khác dưới các hình thức như vay nợ, viện trợ . Đặc trưng cơ bản của các quan hệ trong tạo lập và sử dụng ngân sách Nhà nước là mang tính pháp lý cao gắn liền với quyền lực chính trị của Nhà nước. 25
  26. Không giống các loại quỹ tiền tệ khác, ngân sách Nhà nước là một quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước, hoạt động của Ngân sách Nhà nước được tiến hành trên cơ sở luật định rõ ràng và mang tính chất hoàn trả không trực tiếp. 2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước Các hoạt động của ngân sách Nhà nước luôn gắn với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Vì vậy, mà hoạt động của nó rất đa dạng, liên quan đến mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội và tác động tới mọi chủ thể trong xã hội. Chính nét đặc thù đó là nhân tố có ảnh hưởng quyết định tới các đặc điểm của ngân sách Nhà nước. Những đặc điểm của Ngân sách Nhà nước bao gồm: Thứ nhất, Ngân sách Nhà nước thuộc sở hữu Nhà nước, do đó Nhà nước là chủ thể duy nhất quyết định việc sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước. Hoạt động ngân sách Nhà nước luôn luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế - chính trị của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên những cơ sở luật lệ nhất định. Đặc điểm này là đảm bảo quyền lãnh đạo tập trung thống nhất của Nhà nước, loại trừ chia rẽ, phân tán quyền lực trong việc điều hành Ngân sách Nhà nước. Thứ hai, quy mô quỹ ngân sách Nhà nước và các hình thức thu, chi ngân sách Nhà nước đều bị quyết định bởi quy mô, tốc độ, chất lượng phát triển của mỗi ngành, mỗi vùng, mỗi địa phương. Hay nói cách khác, sự phát triển kinh tế sẽ là cơ sở cho sự hình thành nguồn thu của ngân sách Nhà nước; sự phát triển của xã hội về cơ bản sẽ đặt ra những đòi hỏi về nhu cầu chi của ngân sách Nhà nước, song các nhu cầu này chỉ có khả năng đáp ứng khi kinh tế có sự phát triển. Tuy nhiên, khi đưa vào sử dụng, quỹ ngân sách Nhà nước luôn được phân chia thành các quỹ tiền tệ nhỏ hơn. Quá trình phân chia quỹ Ngân sách Nhà nước chính là quá trình cấp phát kinh phí từ Ngân sách Nhà nước để hình thành các loại quỹ nhằm thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của các lĩnh vực, các ngành theo yêu cầu quản lý của Nhà nước. cụ thể, tương ứng với các cấp ngân sách, quỹ ngân sách Nhà nước được chia thành: quỹ ngân sách của Chính phủ Trung ương; quỹ ngân sách của chính quyền cấp tỉnh và tương đương; quỹ ngân sách của chính quyền cấp huyện và tương đương; quỹ ngân sách của chính quyền cấp 26
  27. xã và tương đương. Phục vụ thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của chính quyền Nhà nước các cấp, quỹ ngân sách lại được chia thành nhiều phần nhỏ để sử dụng cho các lĩnh vực khác nhau, như: phần dùng cho phát triển kinh tế; phần dùng cho phát triển văn hoá, giáo dục, y tế; phần dùng cho hoạt động của các lĩnh vực xã hội, an ninh, quốc phòng Thứ ba, Chi tiêu của ngân sách Nhà nước là việc phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô. Tính hiệu quả hoạt động ngân sách Nhà nước được xem xét trên tầm vĩ mô, tức là nó phải được xem xét dựa trên cơ sở đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đặt ra mà các khoản chi của ngân sách Nhà nước phải đảm nhận. Đặc điểm này có ý nghĩa trong việc định hướng và có biện pháp sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước, tập trung vào việc xử lý các vấn đề kinh tế vĩ mô. Ví dụ như cấp phát kinh phí cho giáo dục đào tạo nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài; hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, trợ giá các mặt hàng nhằm ổn định thị trường, giá cả, kìm chế lạm phát . Thứ tư, các hoạt động của ngân sách Nhà nước phải được công khai, minh bạch. Đây vừa là đặc điểm vừa là yêu cầu đặt ra đối với các hoạt động thu, chi ngân sách Nhà nước. Ở đâu làm tốt được công khai, minh bạch ngân sách, thì ở đó công tác xã hội hóa huy động nguồn thu ngân sách sẽ đạt tốt và chi tiêu ngân sách sẽ ít bị thất thoát, lãng phí. 3. Vai trò của ngân sách nhà nước Vai trò của ngân sách Nhà nước được thiết lập trên cơ sở các chức năng và nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn nhất định. Vai trò của ngân sách Nhà nước thể hiện trên các mặt sau: 3.1. Ngân sách Nhà nước giữ vai trò huy động nguồn tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước Đây là vai trò truyền thống của ngân sách Nhà nước. Khi Nhà nước xuất hiện, nhằm có đủ nguồn lực tài chính để duy trì tổ chức bộ máy Nhà nước và thực hiện các chức năng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của mình, bằng 27
  28. quyền lực chính trị, Nhà nước đã kêu gọi sự đóng góp của xã hội dưới hình thức thuế, công trái, trái phiếu .Nhờ có hoạt động thu này mà Nhà nước có đủ nguồn lực để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của mình. Tuy nhiên, khi tiến hành huy động nguồn lực tài chính vào quỹ ngân sách Nhà nước, Nhà nước cần chú ý đến mức độ động viên nguồn tài chính. Tỷ lệ động viên vào ngân sách Nhà nước đối với tổng sản phẩm quốc nội căn cứ vào chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ. Mức động viên các nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước của các chủ thể trong xã hội thông qua thuế và các khoản thu khác phải hợp lý vừa thúc đẩy kinh tế xã hội vừa đảm bảo duy trì sự tồn tại và tăng cường sức mạnh của bộ máy Nhà nước. 3.2. Vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô các hoạt động kinh tế - xã hội Đây là vai trò được xuất phát từ những điều kiện kinh tế- xã hội cụ thể trong một giai đoạn phát triển nhất định. Không những sự phát triển về kinh tế - chính trị của một chế độ Nhà nước được thể hiện vai trò của ngân sách Nhà nước mà những cuộc cải cách kinh tế cũng có ảnh hưởng nhất định đến vai trò của ngân sách Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân. Thay đổi kinh tế bằng cải cách kinh tế đã tác động trực tiếp đến ngân sách Nhà nước. Mỗi cơ chế kinh tế đều có đặc điểm riêng, ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng các công cụ tài chính. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế chủ yếu tuân theo sự điều tiết của các quy luật vốn có của thị trường. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh tế - xã hội đó mà chỉ sử dụng luật pháp và các công cụ tài chính, giá cả, tiền tệ để quản lý. Cũng trong nền kinh tế thị trường, nhiều thành phần kinh tế tồn tại và được tự do cạnh tranh, tự do liên kết hoạt động. Nền kinh tế được phát triển đa dạng và hình thành nhiều thị trường mà trước đây chưa có như thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường sức lao động Kinh tế thị trường tạo ra động lực phát triển mạnh mẻ. Bên cạnh những ưu điểm trên thì nền kinh tế thị trường vẫn còn tồn tại các khuyết tật như: Xuất hiện độc quyền trong sản xuất kinh doanh gây tác hại đến nền kinh tế buộc Nhà nước phải tham gia điều tiết dưới hình thức tài trợ, thuế. Do chạy theo lợi nhuận, các chủ thể 28
  29. kinh tế cũng đã có những hành vi vi phạm luật pháp như buôn lậu, trốn thuế, gian lận thuế , lạm dụng tài nguyên huỷ hoại môi trường. Cũng như nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, hiện tượng phân hóa xã hội luôn tồn tại trong nền kinh tế thị trường và dễ gây ra các mâu thuẩn tiêu cực. Để khắc phục những khuyết tật đó, Nhà nước đã sử dụng hàng loạt các công cụ tài chính trong đó ngân sách Nhà nước được coi là một trong những công cụ chủ yếu để điều tiết quản lý vĩ mô nền kinh tế xã hội. Vai trò điều chỉnh vĩ mô của ngân sách Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế - xã hội thể hiện trên 3 mặt tương ứng với 3 nội dung cơ bản sau: * Về mặt kinh tế: Kích thích sự tăng trưởng kinh tế theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của ngân sách Nhà nước. Vai trò này được thực hiện nhờ vào việc vận dụng chức năng huy động và phân bổ nguồn lực tài chính của Nhà nước vào hoạt động thực tiễn. Thông qua hoạt động của ngân sách nhà nước góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần hình thành và hoàn thiện cơ cấu sản xuất và cơ cấu kinh tế - xã hội, đảm bảo các tỷ lệ cân đối của nền kinh tế, từ đó thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Cụ thể, thông qua các khoản thuế và chính sách thuế sẽ đảm bảo vai trò định hướng đầu tư kích thích hoặc hạn chế kích thích kinh doanh. Thuế, một mặt tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, một mặt góp phần kích thích sản xuất phát triển, thu hút doanh nghiệp tư nhân bỏ vốn đầu tư vào các ngành nghề cần thiết và điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo định hướng phát triển kinh tế. Để thuế phát huy được tác dụng đó thì Nhà nước phải xây dựng một hệ thống thuế bao quát các hoạt động kinh tế; thuế suất xây dựng phải phù hợp với ngành nghề cần khuyến khích hoặc hạn chế phát triển. Nhà nước nên thống nhất áp dụng các loại thuế đối với các chủ thể, sử dụng các loại thuế linh hoạt nhằm: (i) Tạo môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, thành phần kinh tế; (ii) Đảm bảo sự tồn tại và phát triển của sản xuất; (iii) Tạo ra sức ép để các doanh nghiệp quan tâm đến công nghệ, tiếp cận thị trường nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất. Việc đưa ra các mức 29
  30. thuế suất khác nhau của từng loại thuế phải tính toán phù hợp với khả năng đóng góp về thuế của các chủ thể. Ngoài ra, để tạo thêm nguồn vốn cho nền kinh tế, Nhà nước nên tranh thủ các nguồn vốn vay trong và ngoài nước phục vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển. Việc sử dụng vốn vay phải đảm bảo nguyên tắc: (1) Vốn vay không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển; (2) Nhà nước phải có kế hoạch thu hồi vốn vay; (3) phải đảm bảo cân đối ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Bên cạnh hoạt động thu, hoạt động chi ngân sách Nhà nước cũng có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế thông qua việc cung cấp nguồn kinh phí để đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt, trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Cấp phát vốn để hình thành các doanh nghiệp Nhà nước, đây được xem là một trong những biện pháp căn bản để chống độc quyền. Trong những trường hợp cần thiết, Nhà nước tiến hành hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp đảm bảo cho sự ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị chuyển đổi sang cơ cấu mới hợp lý hơn * Về mặt thị trường: Ngân sách Nhà nước là công cụ để bình ổn giá cả, ổn định thị trường và chống lạm phát. Sự phát triển ổn định của một nền kinh tế được đánh giá trên những tiêu chí như: Đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý và bền vững; duy trì cơ cấu kinh tế đã xác định; thực hiện được cân đối cán cân thanh toán quốc tế; hạn chế sự tăng giá đột ngột; duy trì tỷ lệ lạm phát có thể kiểm soát được v.v Trong nền kinh tế thị trường, qui luật cung cầu chi phối mạnh đến giá cả khiến giá cả luôn biến động ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của nhà sản xuất. Nhà sản xuất sẽ di chuyển lĩnh vực đầu tư từ nơi có thu nhập thấp đến nơi có thu nhập cao. Chính điều này dễ dẫn đến cơ cấu kinh tế bị thay đổi, mất cân đối giữa các ngành, lĩnh vực, phát triển kinh tế không bền vững. Để đảm bảo lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp và xã hội, giữ vững cơ cấu kinh tế đã xác định và góp phần giữ vững ổn định của nền kinh tế, thông qua hoạt động của ngân sách, Nhà nước 30
  31. sử dụng các biện pháp như tạo lập các quỹ dự trữ về hàng hóa và tài chính nhằm đề phòng và ứng phó với những biến động của thị trường, tạo lập quỹ bình ổn giá, tạo lập và sử dụng quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm Trong trường hợp nền kinh tế có lạm phát có thể sử dụng biện pháp cắt giảm chi tiêu ngân sách Nhà nước, tăng thuế tiêu dùng, giảm thuế đầu tư, phát hành công trái, trái phiếu Kho bạc hoặc sử dụng công cụ tín dụng và lãi suất để thu hút lượng tiền thừa trong lưu thông làm giảm sự căng thẳng trong quan hệ hàng - tiền. * Về mặt Xã hội: Ngân sách Nhà nước là công cụ điều chỉnh thu nhập, tạo sự công bằng trong xã hội, giảm phân hóa giàu nghèo. Vai trò này được thể hiện thông qua việc sử dụng các công cụ thu - chi của ngân sách Nhà nước để điều chỉnh thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, giảm bớt những bất hợp lý trong phân phối, đảm bảo công bằng trong phân phối và góp phần giải quyết những vấn đề xã hội đáp ứng các mục tiêu xã hội của kinh tế vĩ mô. Cụ thể: - Sử dụng thuế thu nhập một cách hợp lý để điều tiết và phân phối lại thu nhập của những người có thu nhập cao cho người có thu nhập thấp - Thông qua thuế gián thu nhằm hướng dẫn tiêu dùng một cách hợp lý hơn - Tăng chi đầu tư cho các lĩnh vực văn hóa - xã hội hay xây dựng các công trình phúc lợi công cộng, chi đảm bảo xã hội (trợ cấp khó khăn, xây nhà tình nghĩa ), trợ giá các mặt hàng Ngày nay, nhu cầu tài chính để giải quyết các vấn đề xã hội rất lớn. Để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước và thực hiện tốt các vấn đề xã hội. Cần quán triệt phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Những khoản chi của Nhà nước cho lĩnh vực này phải tiết kiệm có hiệu quả. 3.3. Vai trò kiểm tra của ngân sách Nhà nước Ngân sách Nhà nước có mối quan hệ với các khâu tài chính khác thể hiện ở chỗ các khâu tài chính khác đều phải làm nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước mặt khác các khâu tài chính này lại nhận được sự tài trợ, hỗ trợ của ngân sách Nhà nước dưới những hình thức khác nhau một cách trực tiếp hay gián tiếp. 31
  32. Xuất phát từ lợi ích chung, ngân sách Nhà nước kiểm tra các hoạt động tài chính khác không chỉ trong việc làm nghĩa vụ nộp thuế và các khoản phải nộp, trong việc sử dụng các nguồn tài chính của Nhà nước, sử dụng các tài sản quốc gia mà còn trong việc thực hiện các pháp luật, chính sách về ngân sách cũng như chính sách, pháp luật có liên quan. II. Nội dung của ngân sách Nhà nước 1. Thu ngân sách Nhà nước 1.1 Khái niệm và đặc điểm của thu ngân sách Nhà nước Thu ngân sách Nhà nước là tiền đề cần thiết để duy trì quyền lực chính trị và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Về mặt hình thức, thu ngân sách Nhà nước bao gồm tất cả các khoản tiền Nhà nước huy động vào Ngân sách để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Phần lớn các khoản thu mang tính bắt buộc (những khoản thu có tính chất thuế), phần còn lại là các khoản thu khác của Nhà nước (thu ngoài thuế). Về mặt bản chất, thu ngân sách Nhà nước là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính để hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Vậy, thu ngân sách Nhà nước là sự động viên nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội dựa trên quyền lực của Nhà nước, nhằm giải quyết hài hòa các lợi ích kinh tế, xuất phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của bộ máy Nhà nước cũng như yêu cầu thực hiện các chức năng nhiệm vụ kinh tế xã hội của Nhà nước. Qua khái niệm về thu ngân sách Nhà nước ta có thể khái quát những đặc điểm của thu ngân sách Nhà nước như sau : - Thu ngân sách Nhà nước chứa đựng các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị dựa trên cơ sở quyền lực Nhà nước nhằm tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước. -Thu ngân sách Nhà nước luôn gắn chặt với thực trạng kinh tế và sự vận động của của các phạm trù giá trị khác như: giá cả, thu nhập, lãi suất 32
  33. 1.2. Nội dung các khoản thu ngân sách Nhà nước Thu ngân sách Nhà nước bao gồm: (1) Thu từ thuế, lệ phí, phí do các tổ chức, cá nhân nộp theo quy định. * Thuế là hình thức động viên bắt buộc một phần thu nhập của các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức cho Nhà nước nhằm đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Thuế ra đời và phát triển gắn với sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Những loại thuế đầu tiên trong lịch sử loài người xuất hiện cùng với Nhà nước chiếm hữu nô lệ. Ban đầu thuế được thu bằng hiện vật, sau đó, khi nền kinh tế hàng hóa tiền tệ phát triển hơn, thuế được thu dưới hình thức giá trị. Nhà nước sử dụng thuế thông qua hệ thống thuế, một mặt để huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, mặt khác coi thuế là công cụ phân phối quan trọng tác động vào quá trình quản lý và điều tiết hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Đặc điểm quan trọng nhất của thuế là tính bắt buộc, tính không hoàn trả trực tiếp và tính pháp lý cao. Hiện nay, hệ thống thuế của Việt Nam bao gồm các sắc thuế chủ yếu sau: Thuế giá trị gia tăng Thuế tiêu thụ đặc biệt Thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu Thuế tài nguyên Thuế sử dụng đất nông nghiệp Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp Thuế bảo vệ môi trường Thuế thu nhập doanh nghiệp Thuế thu nhập cá nhân Thuế môn bài. * Phí và lệ phí: Phí là khoản thu do Nhà nước quy định nhằm bù đắp một phần chi phí của ngân sách Nhà nước đầu tư, xây dựng, mua sắm, bảo dưỡng và quản lý tài sản, tài nguyên hoặc chủ quyền quốc gia để phục vụ các tổ chức, cá nhân hoạt động sự nghiệp, hoạt động công cộng hoặc lợi ích công cộng theo yêu cầu, không 33
  34. mang tính kinh doanh. Ví dụ như học phí, viện phí, phí qua cầu, phà, phí bảo vệ môi trường . Lệ phí là khoản thu do Nhà nước quy định đối với tổ chức, cá nhân để Nhà nước phục vụ công việc quản lý hành chính Nhà nước theo yêu cầu hoặc theo quy định của pháp luật. Ví dụ như lệ phí hộ tịch, lệ phí trước bạ, lệ phí chứng thư, lệ phí cấp giấy phép hành nghề đăng ký kinh doanh . Hiện nay, trong phạm vi cả nước, ở tất cả các bộ ngành ở Trung ương và các tỉnh, thành phố có khoảng 300 loại phí, khoản phí được phép thu do Chính phủ quy định trong Danh mục chi tiết ban hành kèm theo Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí. (2) Các khoản thu từ các hoạt động kinh tế của Nhà nước. Nhà nước tham gia hoạt động kinh tế và thu được lợi nhuận trên phần vốn đầu tư của mình. Các khoản thu này tồn tại dưới nhiều hình thức, biểu hiện hoạt động kinh tế đa dạng của nhà nước. Bao gồm tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế; thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi); thu nhập từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế, kể cả thu từ lợi nhuận sau khi thực hiện nghĩa vụ về thuế của các tổ chức kinh tế có sự tham gia góp vốn của Nhà nước theo quy định của Chính phủ. (3) Các khoản thu từ việc khai thác tài nguyên thuộc sở hữu Nhà nước dưới các hình thức như tiền sử dụng đất, thu từ hoa lợi công sản và đất công ích; tiền cho thuê đất, thuê mặt nước; phần nộp ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật từ tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước (4) Các khoản thu viện trợ, đóng góp ủng hộ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Bao gồm: Đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước như đóng góp cho quỹ phòng chống thiên tai, ủng hộ đồng bào bão lụt, quỹ an ninh . Các khoản viện trợ không hoàn lại bằng tiền hoặc bằng hiện vật của Chính phủ các nước, các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài cho Chính phủ, các cấp chính quyền và các cơ quan, đơn vị của Nhà nước. 34
  35. (5) Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật như các khoản di sản Nhà nước được hưởng; thu từ tiền phạt, tịch thu, tịch biên tài sản; thu hồi dự trữ Nhà nước, thu chênh lệch giá, phụ thu . Để thuận tiện trong quản lý và điều hành ngân sách Nhà nước. Người ta tiến hành phân loại thu ngân sách Nhà nước theo các tiêu chí sau: * Theo nội dung kinh tế. Việc phân loại theo tiêu thức này nhằm thấy rõ sự phát triển của nền kinh tế, tính hiệu quả của nền kinh tế. Theo cách phân loại này, thu ngân sách Nhà nước bao gồm - Nhóm thu thường xuyên có tính chất bắt buộc (như thuế, phí, lệ phí) - Nhóm thu không thường xuyên bao gồm: các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước, thu từ hoạt động sự nghiệp, tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước; các khoản thu viện trợ, đóng góp ủng hộ và các thu khác * Theo sự phân cấp ngân sách nhà nước bao gồm thu ngân sách trung ương và thu ngân sách các cấp chính quyền địa phương. - Nguồn thu của ngân sách trung ương gồm: + Các khoản thu ngân sách trung ương hưởng 100%: như Thuế giá trị gia tăng hàng hóa nhập khẩu; Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hóa nhập khẩu; Thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành; Các khoản thuế và thu khác từ dầu khí theo quy định của Chính phủ; Tiền thu hồi vốn của ngân sách trung ương tại các tổ chức kinh tế, thu hồi tiền cho vay của ngân sách trung ương (cả gốc và lãi), thu từ quỹ dự trữ tài chính của trung ương, thu nhập từ vốn góp của Nhà nước; Viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các cá nhân ở nước ngoài cho Chính phủ Việt Nam; Các khoản phí, lệ phí nộp vào ngân sách trung ương; Thu kết dư ngân sách trung ương; Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật; + Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương: bao gồm Thuế giá trị gia tăng, không kể thuế giá trị gia tăng hàng hóa nhập khẩu; Thuế thu nhập doanh nghiệp, không kể thuế thu 35
  36. nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành; Thuế thu nhập cá nhân; Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, không kể thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài từ lĩnh vực dầu, khí; Thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hàng hóa, dịch vụ trong nước; Phí xăng, dầu. Tỷ lệ phân chia do Chính phủ quyết định và tỷ lệ này được áp dụng thống nhất đối với tất cả các khoản thu được phân chia. - Nguồn thu của ngân sách địa phương gồm: + Các khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100%: bao gồm Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; Thuế tài nguyên (không kể thuế tài nguyên thu từ dầu, khí); Thuế môn bài; Thuế sử dụng đất nông nghiệp; Tiền sử dụng đất; Tiền cho thuê đất; Tiền cho thuê và tiền bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước; Lệ phí trước bạ; Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;Thu hồi vốn của ngân sách địa phương tại các tổ chức kinh tế, thu từ quỹ dự trữ tài chính của địa phương, thu nhập từ vốn góp của địa phương; Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các cá nhân ở nước ngoài trực tiếp cho địa phương; Các khoản phí, lệ phí, thu từ các hoạt động sự nghiệp và các khoản thu khác nộp vào ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật; Thu từ quỹ đất công ích và thu hoa lợi công xã khác; Huy động từ các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật; Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong nước và ngoài nước; Thu kết dư ngân sách địa phương; Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. + Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. + Thu bổ sung từ ngân sách trung ương bao gồm: Thu bổ sung để cân đối ngân sách là mức chênh lệch giữa dự toán chi được giao và dự toán thu từ các nguồn thu được phân cấp (các khoản thu 100% và các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm). Số bổ sung cân đối này được xác định từ năm đầu của thời kỳ ổn định ngân sách và được giao ổn định từ 3 đến 5 năm. Thu bổ sung có mục tiêu là các khoản bổ sung theo từng năm để hỗ trợ xã thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể. 36
  37. + Thu từ huy động đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo quy định. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh. 1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân sách Nhà nước Những nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân sách Nhà nước bao gồm: - Thu nhập GDP (tổng sản phẩm quốc nội) bình quân đầu người. Đây là nhân tố quan trọng quyết định khách quan đến mức động viên của ngân sách Nhà nước. Nếu thoát ly chỉ tiêu này khi ấn định mức động viên của ngân sách Nhà nước sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến vấn đề tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của khu vực tư nhân. - Khả năng xuất khẩu tài nguyên: Xuất khẩu tài nguyên là yếu tố góp phần tăng thu ngân sách Nhà nước. Đối với nước ta hiện nay thu ngân sách Nhà nước từ thuế còn chiếm tỷ lệ thấp vì vậy nguồn thu ngân sách Nhà nước từ xuất khẩu tài nguyên chiếm tỷ trọng tương đối lớn. Vì vậy xuất khẩu tài nguyên là nhân tố ảnh hưởng lớn đến thu ngân sách Nhà nước. - Tỷ suất lợi nhuận trong nền kinh tế. Tỷ suất lợi nhuận trong nền kinh tế phản ảnh hiệu quả của đầu tư phát triển kinh tế. Tỷ suất doanh lợi càng lớn thì tài chính càng dồi dào. Trên cơ sở tỷ suất doanh lợi để xác định tỷ suất thu ngân sách Nhà nước. - Mức độ trang trải các các khoản chi phí của Nhà nước. Nhu cầu chi tiêu của Nhà nước để thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước càng lớn thì đòi hỏi mức độ huy động nguồn thu càng tăng. Vì vậy thu ngân sách Nhà nước phụ thuộc vào mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước. - Tổ chức bộ máy thu nộp. Tổ chức bộ máy thu nộp ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thu. Nếu tổ chức bộ máy thu nộp hợp lý sẽ tạo điều kiện cho việc thu ngân sách Nhà nước đúng đủ, kịp thời các nguồn thu vào ngân sách Nhà nước. Ngược lại tổ chức bộ máy thu nộp không hợp lý cồng kềnh dẫn đến hiệu quả của việc thu nộp khá cao, gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Do đó khi cải cách công tác thu ngân sách Nhà nước cần phải cải cách từ bộ máy thu nộp. 37
  38. 1.4. Những nguyên tắc thiết lập hệ thống thu ngân sách Nhà nước Thiết lập một hệ thống thu ngân sách nhà nước không chỉ nhằm mục đích duy trì và đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước mà còn phải chứa đựng các mục tiêu kinh tế xã hội khác. Những nguyên tắc thiết lập hệ thống thu ngân sách Nhà nước đó là: + Nguyên tắc ổn định và lâu dài: Nguyên tắc này tạo thuận lợi cho công tác kế hoạch hóa ngân sách và kích thích nộp thuế, cải tiến phương pháp sản xuất kinh doanh. Yêu cầu của nguyên tắc này là phải ổn định mức thu, ổn định các sắc thuế, không được gây xáo trộn trong hệ thống thuế. Đồng thời phải lựa chọn đối tượng tính thuế ít biến động. + Nguyên tắc đảm bảo sự công bằng: Nguyên tắc này đòi hỏi không phân biệt địa vị xã hội, thành phần kinh tế, công bằng đối với mọi người chịu thuế. + Nguyên tắc rõ ràng và chắc chắn: Nguyên tắc này đòi hỏi các điều luật của các sắc thuế phải rõ ràng cụ thể rành mạch về mức thuế cũng như căn cứ tính thuế. + Nguyên tắc đơn giản: Mỗi sắc thuế đòi hỏi phải hạn chế số lượng thuế suất, xác định rõ ràng mục tiêu chính. Khi thiết lập hệ thống thu nếu đảm bảo các nguyên tắc trên không những tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước mà cần nuôi dưỡng và phát triển được nguồn thu. + Nguyên tắc phù hợp với thông lệ quốc tế: Trong điều kiện hiện nay, với xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, việc thiết lập hệ thống thu ngân sách Nhà nước còn phải đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. 2. Chi ngân sách Nhà nước 2.1. Khái niệm và đặc điểm chi ngân sách Nhà nước Về mặt pháp lý, chi NSNN là những khoản chi tiêu của Chính phủ nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. 38
  39. Về mặt bản chất, chi ngân sách Nhà nước thể hiện các quan hệ tiền tệ hình thành trong quá trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước nhằm trang trải cho các chi phí của bộ máy Nhà nước và thực hiện chức năng kinh tế xã hội của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định. Trong thực tế, chi ngân sách Nhà nước là sự kết hợp giữa 2 quá trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước. Quá trình phân phối là quá trình cấp phát vốn, kinh phí từ ngân sách Nhà nước để hình thành các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng. Quá trình sử dụng là quá trình trực tiếp chi dùng các khoản vốn, kinh phí được cấp phát từ ngân sách Nhà nước. Do đó thực hiện các khoản chi ngân sách Nhà nước luôn gắn liền với quan hệ kinh điển đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ trong phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp. Nhà nước trong bất kỳ chế độ xã hội nào cũng đều đòi hỏi phải có cơ sở vật chất để đảm bảo điều kiện cho Nhà nước tồn tại và thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình. Nhà nước sử dụng công cụ tài chính để phân phối các nguồn tài chính trong xã hội cho những nhu cầu chi tiêu xác định và tổ chức quản lý các khoản chi đó. Chi ngân sách Nhà nước có các đặc điểm sau: - Chi ngân sách Nhà nước gắn với bộ máy Nhà nước và chức năng nhiệm vụ của Nhà nước. Trong từng thời kỳ nhất định, khi bộ máy Nhà nước được mở rộng và đảm đương nhiều nhiệm vụ hơn thì mức độ và phạm vi chi ngân sách Nhà nước càng lớn hơn. - Cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước là chủ thể duy nhất quyết định cơ cấu, nội dung mức độ các khoản chi của ngân sách Nhà nước. Do đó, chi ngân sách Nhà nước mang tính pháp lý cao làm cho ngân sách Nhà nước trở thành công cụ có hiệu lực trong quá trình điều hành và quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước. 39
  40. - Chi ngân sách Nhà nước mang tính chất không hoàn trả trực tiếp và được xem xét hiệu quả trên tầm vĩ mô tức là xem xét toàn diện dựa vào sự hình thành các mục tiêu kinh tế xã hội. - Các khoản chi ngân sách Nhà nước luôn gắn chặt với sự vận động của phạm trù giá trị khác như: Tiền lương, giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái Mối quan hệ giữa chi ngân sách Nhà nước với các chính sách tiền tệ, chính sách tài chính có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu của kinh tế vĩ mô như: tăng trưởng, công ăn, việc làm, giá cả .v.v. 2.2. Nội dung chi ngân sách Nhà nước Chi ngân sách Nhà nước là quá trình phân phối có kế hoạch các nguồn tài chính đã được tập trung vào ngân sách Nhà nước để Nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Vì vậy, nội dung chi ngân sách Nhà nước rất đa dạng, phong phú gồm nhiều khoản mục, cho nhiều mục đích khác nhau. Để tổ chức sử dụng có hiệu quả các khoản chi ngân sách Nhà nước ta phải tiến hành phân loại. Hiện nay có các cách phân loại chi ngân sách Nhà nước sau: 2.2.1. Phân loại chi ngân sách Nhà nước theo tính chất và phương thức quản lý ngân sách Nhà nước Cách phân loại này được áp dụng phổ biến trên thế giới, cho phép xem xét đánh giá được mối quan hệ chi ngân sách nhà nước cho tăng trưởng kinh tế và duy trì hoạt động thường xuyên của nhà nước trong từng thời kỳ nhất định. Theo tiêu thức phân loại này, toàn bộ khoản chi ngân sách Nhà nước được chia thành các nhóm: - Các khoản chi thường xuyên: Bao gồm các chi nhằm đảm bảo cho các hoạt động thường xuyên của Nhà nước gắn liền với chức năng quản lý kinh tế - xã hội của nhà nước. Các khoản chi thường xuyên mang tính ổn định khá rõ nét. Tính ổn định của chi thường xuyên bắt nguồn từ tính ổn định trong từng hoạt động cụ thể mà mỗi bộ phận cụ thể thuộc guồng máy của Nhà nước phải thực hiện. Đại bộ phận các khoản chi thường xuyên mang tính chất tiêu dùng. Chi thường xuyên của ngân sách Nhà nước được chia làm 2 bộ phận cơ bản. Một bộ phận vốn được sử dụng để đáp ứng nhu cầu quản lý kinh tế - xã hội chung của 40
  41. Nhà nước và một bộ phận để đáp ứng các nhu cầu của dân cư trong lĩnh vực phát triển văn hóa, xã hội, có mối quan hệ trực tiếp với thu nhập của dân cư và nâng cao mức sống dân cư. Chi thường xuyên của nhà nước bao gồm: * Chi cho hoạt động quản lý hành chính Nhà nước: Đây là các khoản chi nhằm đảm bảo sự hoạt động của hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, các cơ sở hoạt động của Đảng và hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội. Đây là khoản chi mang tính chất tiêu dùng, mặc dù khoản chi này không liên quan trực tiếp đến sản xuất, nhưng rất cần thiết cho xã hội. Khoản chi này đảm bảo kinh phí hoạt động cho các cơ quan hành chính và cơ quan chính quyền Nhà nước. Qui mô chi phụ thuộc vào bộ máy quản lý hành chính (tức đội ngũ công chức, viên chức nhà nước). Bộ máy nhà nước càng cồng kềnh thì khoản chi này càng chiếm tỷ trọng cao và ngược lại. * Chi sự nghiệp văn hóa - xã hội là các khoản chi của ngân sách cho các nhu cầu của xã hội về đào tạo, giáo dục, y tế, văn hóa, thông tin, phúc lợi xã hội và trợ cấp xã hội nhằm nâng cao trình độ văn hoá, chăm lo bảo vệ sức khoẻ cho quần chúng nhân dân; xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho quần chúng nhân dân cũng như thực hiện các nhiệm vụ thông tin tuyên truyền các đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Đây là khoản chi cần thiết không thể thiếu đối với xã hội vì khoản chi này liên quan trực tiếp đến việc nâng cao dân trí, đảm bảo sức khoẻ cho nhân dân mà những vấn đề này lại có mối quan hệ mật thiết với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Qui mô chi cho sự nghiệp văn hóa xã hội phụ thuộc vào: Khả năng của ngân sách Nhà nước; Chính sách xã hội của Nhà nước. Ngoài ra, chi sự nghiệp văn hóa – xã hội còn là phương tiện để Nhà nước thực hiện quá trình phân phối lại thu nhập nhằm mục tiêu công bằng xã hội. * Chi cho hoạt động sự nghiệp kinh tế: Đây là những khoản chi nhằm phục vụ cho yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Bao gồm chi cho hoạt động khảo sát, thiết kế, thăm dò; hoạt động tuyên truyền phổ biến khoa học kỹ thuật, hoạt động nông lâm nghiệp, thuỷ lợi, công cộng 41
  42. Hoạt động sự nghiệp kinh tế mang tính chất phục vụ chứ không nhằm mục đích kinh doanh lấy lãi, do đó hoạt động của các đơn vị sự nghiệp kinh tế không theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh mà được đảm bảo bởi kinh phí ngân sách Nhà nước. * Chi quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội: Là khoản chi nhằm củng cố nền an ninh chính trị quốc gia. Bao gồm các khoản chi đầu tư xây dựng các công trình quốc phòng, chi mua sắm, bảo dưỡng các phương tiện kỹ thuật phục vụ cho hoạt động quốc phòng, chi trang bị cho quân đội, chi nuôi quân và chi phí khác Qui mô khoản chi phụ thuộc vào: Tình hình chính trị và an ninh quốc phòng của mỗi nước trong từng thời kỳ. Chi an ninh quốc phòng thường được gọi là chi tiêu dùng đặc biệt, khoản chi này thường là gánh nặng cho ngân sách Nhà nước nhưng không thể không duy trì lực lượng phòng thủ quốc gia. Tuy nhiên mỗi quốc gia chỉ nên duy trì ở mức chi cần thiết. * Các khoản chi thường xuyên khác theo qui định của pháp luật: Bao gồm trợ giá theo chính sách của Nhà nước; phần chi thường xuyên thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án Nhà nước; . - Chi đầu tư phát triển: Đây là những khoản chi nhằm tạo ra cơ sở vật chất cho các lĩnh vực, nhất là cơ sở kinh tế của Nhà nước và làm tăng sản phẩm quốc nội (GDP). Các khoản chi này có tác dụng góp phần làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Đây là khoản chi lớn của ngân sách Nhà nước nhưng không mang tính ổn định. Đại đa số các khoản chi đầu tư phát triển mang tích chất tích lũy. Đối tượng đầu tư của Nhà nước thường là các công trình thuộc kết cấu hạ tầng, các ngành kinh tế mũi nhọn then chốt và những công trình kinh tế không thể dựa vào đầu tư tư nhân nhưng hoạt động của chúng cần thiết cho xã hội. Việc đầu tư phát triển kinh tế thường đòi hỏi số vốn đầu tư lớn thời gian dài, và thường chúng không mang lại lợi nhuận trực tiếp mà hiệu quả của chúng thể hiện ở sự phát triển kinh tế nói chung. Chi đầu tư phát triển kinh tế không chỉ có chi đầu tư mới còn bao gồm cả chi đầu tư mở rộng và đầu tư chiều sâu. Trong đó đặc biệt chú ý đầu tư chiều sâu vì hiệu quả kinh tế của chúng thường lớn hơn hiệu quả đầu tư theo chiều rộng vì: 42
  43. + Nhu cầu vốn đầu tư nhỏ hơn. + Thời gian đầu tư ngắn hơn. + Thời gian thu hồi vốn cũng ngắn hơn. Chi đầu tư phát triển bao gồm những khoản chi cơ bản sau: + Chi đầu tư xây dựng cơ bản hay nói cách khác là chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng - kinh tế xã hội không có khả năng thu hồi vốn, các công trình thuộc các doanh nghiệp Nhà nước theo kế hoạch được duyệt, các dự án quy hoạch vùng lãnh thổ. + Chi đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của Nhà nước + Chi góp vốn cổ phần, góp vốn liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước + Chi đầu tư phát triển thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án Nhà nước. + Chi bổ sung dự trữ Nhà nước + Các khoản chi đầu tư phát triển khác. - Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền tiền do Chính phủ vay: Chi trả nợ bao gồm : Trả nợ trong nước là những khoản nợ mà Nhà nước vay của các tầng lớp dân cư, tổ chức kinh tế - Xã hội bằng việc phát hành các loại chứng khoán của Nhà nước như: trái phiếu chính phủ, trái phiếu công trình, tín phiếu Kho Bạc Trả nợ nước ngoài các khoản nợ nước ngoài mà Nhà nước vay của Chính phủ các nước, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, tài chính, tiền tệ quốc tế. 2.2.2. Phân loại chi ngân sách Nhà nước theo mục đích chi tiêu: ngân sách Nhà nước chia thành hai loại chi cho tích lũy và chi cho tiêu dùng - Chi cho tích lũy là những khoản chi của ngân sách Nhà nước làm gia tăng cơ sở vật chất và tiềm lực cho nền kinh tế, góp phần tăng trưởng kinh tế. Các khoản chi tích lũy gồm có: + Chi đầu tư xây dựng cơ bản. + Chi cấp vốn lưu động cho các doanh nghiệp. 43
  44. + Chi dự trữ vật tư chiến lược của Nhà nước. + Các khoản chi tích lũy khác. - Chi tiêu dùng của ngân sách Nhà nước: Là các khoản chi không tạo ra sản phẩm vật chất - cơ sở vật chất. Chi tiêu dùng bao gồm: + Chi cho sự nghiệp kinh tế + Chi cho sự nghiệp văn hóa, giáo dục xã hội. + Chi cho sự nghiệp y tế, khoa học, kỹ thuật + Chi cho quản lý hành chính Nhà nước + Chi cho quốc phòng an ninh. + Chi cho ngoại giao, cho phát triển quan hệ quốc tế + Chi tiêu dùng khác Cách phân loại này giúp cho việc nghiên cứu phân tích đánh giá quá trình phân phối kinh phí góp phần giải quyết mối quan hệ cân đối lớn trong nền kinh tế là quan hệ cân đối giữa tích lũy và tiêu dùng. 2.2.3. Phân loại chi ngân sách Nhà nước theo nội dung chi tiêu, lĩnh vực chi cụ thể. Theo cách phân loại này chi ngân sách Nhà nước gồm: + Chi cho phát triển kinh tế + Chi cho phát triển giáo dục, đào tạo + Chi cho khoa học - công Nghệ môi trường + Chi cho y tế + Chi cho văn hóa, thể dục thể thao +Chi cho xã hội + Chi cho quản lý Nhà nước các cấp + Chi cho quốc phòng, an ninh + Chi viện trợ Cách phân loại này giúp ta phân tích đánh giá hiệu quả, tính đúng đắn của việc phân phối ngân sách Nhà nước gắn với các hoạt động của Nhà nước, thông qua đó xem xét tỷ trọng của các loại chi ngân sách Nhà nước và sự biến đổi của 44
  45. nó qua các thời kỳ để đánh giá tính đúng đắn của việc phân phối sử dụng nguồn tài chính của Nhà nước. 2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến chi ngân sách Nhà nước Nội dung, cơ cấu chi ngân sách Nhà nước của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ nhất định chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau: Chế độ xã hội: Chế độ xã hội quyết định bản chất và nhiệm vụ kinh tế xã hội của Nhà nước, do đó nó ảnh hưởng quyết định đến nội dung, cơ cấu chi ngân sách Nhà nước. - Sự phát triển của lực lượng sản xuất, yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Nhân tố này vừa tạo ra khả năng và điều kiện hình thành nội dung, cơ cấu chi một cách hợp lý, vừa đặt ra yêu cầu thay đổi nội dung, cơ cấu chi trong từng thời kỳ nhất định. - Khả năng tăng trưởng nền kinh tế, khả năng tích luỹ của nền kinh tế càng lớn thì mức chi cho đầu tư phát triển càng lớn. - Trình độ tổ chức quản lý chi ngân sách Nhà nước (tổ chức phân phối quỹ ngân sách Nhà nước, trình độ tổ chức giải ngân ) Ngoài ra, nội dung, cơ cấu chi ngân sách Nhà nước còn chịu ảnh hưởng bởi sự biến động của các nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội và các nhân tố liên quan đến giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái 2.4. Những nguyên tắc tổ chức chi ngân sách Nhà nước Chi ngân sách Nhà nước là quá trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước nhằm thực hiện chức năng nhiệm vụ của Nhà nước, chi ngân sách Nhà nước là động lực phát triển kinh tế, văn hóa giáo dục xã hội Vì vậy khi tổ chức các khoản chi ngân sách Nhà nước phải dựa trên những nguyên tắc nhất định. - Gắn chặt khả năng thu để bố trí các khoản chi ngân sách Nhà nước: Mục đích là nhằm đảm bảo tính cân đối của ngân sách Nhà nước, tránh tình trạng bội chi ngân sách Nhà nước. - Đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và có hiệu quả trong việc bố trí các khoản chi tiêu của ngân sách Nhà nước. 45
  46. - Tuân thủ nguyên tắc “Nhà nước và nhân dân cùng làm” nhất là các khoản chi mang tính chất phúc lợi xã hội. Mục đích là nhằm giảm nhẹ gánh nặng trong chi tiêu ngân sách Nhà nước. - Khi tổ chức chi ngân sách Nhà nước phải thực hiện tập trung vào chương trình trọng điểm, tập trung vào các ngành mũi nhọn, những ngành này làm cơ sở cho việc thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa. Mục đích là nhằm đảm bảo tính mục đích và khả năng tiết kiệm các khoản chi ngân sách Nhà nước. - Phân biệt rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của các cấp theo luật pháp để bố trí các khoản chí cho thích hợp. Mục đích là nhằm tránh việc bố trí các khoản chi chồng chéo, khó kiểm tra, giám sát, nâng cao trách nhiệm và tính chủ động của các cấp. - Kết hợp chặt chẽ các khoản chi ngân sách Nhà nước với khối lượng tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hối đoái 3. Cân đối ngân sách Nhà nước Cân đối ngân sách Nhà nước là một trong những cân đối vĩ mô quan trọng của nền kinh tế, phản ánh sự điều chỉnh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi ngân sách Nhà nước nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế- xã hội mà Nhà nước đã đề ra ở tầm vĩ mô cũng như trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể. Mối tương quan giữa thu và chi ngân sách Nhà nước trong một năm tài chính được biểu hiện qua 3 trạng thái sau: - Ngân sách Nhà nước cân bằng (cân đối): Nhà nước huy động nguồn thu vừa đủ để trang trải nhu cầu chi tiêu. - Ngân sách Nhà nước bội thu (thặng dư): Thu ngân sách Nhà nước lớn hơn chi ngân sách Nhà nước. - Ngân sách Nhà nước bội chi (thâm hụt): Chi ngân sách Nhà nước lớn hơn thu ngân sách Nhà nước. Bội thu hay bội chi ngân sách Nhà nước không hẳn là biểu hiện của tình trạng kinh tế tốt hay xấu. Song bội chi ngân sách Nhà nước là tình trạng được quan tâm đặc biệt. Bởi vì nó biểu hiện cho sự thiếu hụt nguồn lực so với nhu 46
  47. cầu, có tác động đa chiều đối với nền kinh tế và chứa đựng nhiều mâu thuẫn nội tại. Bội chi kéo dài sẽ làm cho nợ công gia tăng, tạo sức ép đối với chính sách quản lý nợ và chèn ép đầu tư của khu vực tư, áp lực gia tăng lạm phát Nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước Việt Nam: Thực hiện cân đối ngân sách Nhà nước có thể tiến hành theo một trong hai nguyên tắc sau. Nguyên tắc thứ nhất: Thu ngân sách nhà nước (không kể khoản vay nợ) – Chi thường xuyên của ngân sách Nhà nước > 0 Nguyên tắc thứ hai Thu ngân sách Nhà nước – Chi thường xuyên = Chi đầu tư + Chi trả nợ Theo các nguyên tắc này, thu ngân sách Nhà nước không bao gồm các khoản vay nợ của Nhà nước. Việc loại bỏ các khoản vay ra khỏi khoản thu ngân sách Nhà nước nhằm phản ánh đúng số thực thu của Nhà nước, thể hiện chính xác số bội chi và tỷ lệ bội chi, nhằm tránh sự lẫn lộn giữa thực tế thu và số đi vay để chi của Nhà nước. Thu ngân sách Nhà nước chủ yếu từ thuế phí lệ phí và các khoản thu ngoài thuế khác trước hết phải đảm bảo cho nhu cầu chi thường xuyên và còn để chi đầu tư phát triển và trả nợ. Cân đối ngân sách nhà nước là một trong các nội dung cơ bản nhất của nền tài chính quốc gia và là điều kiện tiên quyết để đảm bảo sự ổn định lành mạnh cho nền tài chính quốc gia. Theo luật ngân sách Nhà nước số 01/2002/QH11 thì Ngân sách nhà nước phải được cân đối theo nguyên tắc tổng thu về thuế, phí và lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và dành một phần tích luỹ ngày càng cao cho đầu tư phát triển. Bội chi được bù đắp bằng nguồn vay nợ trong và ngoài nước. Ngân sách địa phương được cân đối theo nguyên tắc tổng số chi không vượt quá tổng số thu. Cân đối ngân sách Nhà nước xảy ra khi tổng thu ngân sách bằng với tổng chi ngân sách. Bội chi ngân sách là số chênh lệch giữa chi lớn hơn thu. Bội chi ngân sách có thể xảy ra do thay đổi chính sách thu chi của ngân sách Nhà nước 47
  48. gọi là bội chi cơ cấu. Bội chi ngân sách có thể xảy ra do thay đổi của chu kỳ kinh tế gọi là bội chi chu kỳ. Tuy nhiên số thu ngân sách Nhà nước có hạn, trong khi đó, nhu cầu chi của Nhà nước không ngừng tăng lên dẫn đến bội chi ngân sách Nhà nước. Bội chi ngân sách, cùng với lạm phát trở thành phổ biến đối với hầu hết các quốc gia với những mức độ khác nhau: Bội chi ngân sách Nhà nước trên quy mô lớn được coi là một nguyên nhân trực tiếp gây ra lạm phát có thể tạo ra những tác động, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội và đời sống các tầng lớp nhân dân Các giải pháp khống chế bội chi, kiềm chế lạm phát gồm các giải pháp sau: (1) Các giải pháp kích cầu nền kinh tế: tăng thu giảm chi ngân sách Nhà nước. (2) Vay nợ trong và ngoài nước để bù đắp bội chi (phát hành trái phiếu, tín phiếu ) (3) Phát hành tiền giấy để bù đắp Xét 3 giải pháp trên, trước hết, nếu Chính phủ phát hành tiền giấy để chi tiêu cho ngân sách Nhà nước vượt quá yêu cầu lưu thông tiền giấy sẽ làm giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng lên, lạm phát xảy ra. Thứ hai, vay nợ là giải pháp tối ưu. Nhưng nếu đầu tư không hiệu quả có thể dẫn đến tình trạng không trả được nợ, khi đó phải tăng thuế hoặc vay nợ mới để trả nợ cũ. Vấn đề này tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng tài chính và suy giảm uy tín của quốc gia. Vì vậy, khi tiến hành vay nợ, Nhà nước nên cân nhắc qui mô vay, lựa chọn hình thức vay, lãi suất vay, các điều kiện kèm theo của các khoản vay, tổ chức quản lý sử dụng có hiệu quả tiền vay Như vậy, tăng thu giảm chi là giải pháp tốt nhất để cân đối ngân sách Nhà nước nhằm ổn định hình hình tài chính vĩ mô. Tuy vậy, việc tăng thu và giảm chi đều có giới hạn. Việc tăng thu ngân sách phải nằm trong mức chịu đựng của nền kinh tế, Chính phủ tăng thu bằng các biện pháp khai thác mọi nguồn thu, thay đổi và áp dụng các sắc thuế mới nhưng đồng thời phải có chế độ bồi dưỡng, nuôi dưỡng nguồn thu, chính sách thuế mới phải mang tính khuyến khích, tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế. Đối với giảm chi, có những khoản chi 48
  49. cắt giảm được, nhưng cũng có những khoản chi không thể cắt giảm, nếu cắt giảm quá mức, xét về lâu dài sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường cho tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị xã hội. Như vậy, giải pháp để có nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước hợp lý là kết hợp tăng thu, giảm chi và các nguồn vay nợ trong, ngoài nước. Xét về lâu dài, để giảm tỷ lệ bội chi, cải thiện tình trạng thâm hụt thì Nhà nước cần phải đảm bảo tính hợp lý của các khoản thu và tính hiệu quả của các khoản chi. III. Hệ thống ngân sách Nhà nước và phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước 1. Hệ thống ngân sách Nhà nước Hệ thống ngân sách Nhà nước là tổng thể các cấp ngân sách gắn bó hữu cơ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu chi ngân sách Nhà nước và được tổ chức theo một cơ cấu nhất định. Khi tổ chức hệ thống ngân sách Nhà nước ta phải dựa trên hai nguyên tắc sau đây : - Nguyên tắc tập trung và thống nhất Nguyên tắc này bắt nguồn từ yêu cầu của việc tổ chức hệ thống chính quyền và đặc điểm hình thành nguồn tài chính trong điều kiện xã hội hoá nền sản xuất. - Nguyên tắc đảm bảo tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp Ngân sách Nguyên tắc này xuất phát từ yêu cầu nâng cao trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc thực hiện các nhiệm vụ chung của toàn quốc gia Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, hệ thống ngân sách Nhà nước được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức bộ máy quản lý hành chính Nhà nước. Đối với Việt Nam, trên cơ sở Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và luật ngân sách Nhà nước, ngân sách Nhà nước Việt Nam bao gồm Ngân sách trung ương và Ngân sách địa phương. Hệ thống ngân sách Nhà nước của Việt Nam được thể hiện qua sơ đồ sau: 49
  50. Ngân sách Nhà nước Ngân sách Trung ương Ngân sách địa phương Ngân sách Tỉnh, thành phố thuộc TW Ngân sách quận,huyện, thành phố, thị xã thuộc Tỉnh Ngân sách xã phương,thị trấn Ngân sách trung ương gồm các đơn vị dự toán của các cơ quan trung ương: Bộ, Cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ. Tổ chức xă hội thuộc trung ương, Tổ chức đoàn thể trung ương Ngân sách trung ương là nguồn tài chính quan trọng đảm bảo cho việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của Nhà nước trên tất cả lĩnh vực: Kinh tế, xã hội, chính trị, quốc phòng và an ninh, quan hệ quốc tế. Đồng thời ngân sách trung ương còn là nguồn hỗ trợ tài chính cho ngân sách địa phương. Ngân sách địa phương là ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, bao gồm: + Ngân sách các tỉnh, thành phố thuộc trung ương (gọi chung là Ngân sách Tỉnh) gồm ngân sách cấp tỉnh và ngân sách của các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; + Ngân sách huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là ngân sách huyện), gồm ngân sách cấp huyện và ngân sách các xã, phường, thị trấn; + Ngân sách các xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp xã). Ngân sách địa phương là nguồn tài chính quan trọng đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ của chính quyền địa phương. 50
  51. 2. Phân cấp ngân sách Nhà nước 2.1. Khái niệm Ngân sách Nhà nước là một thể thống nhất gồm nhiều cấp ngân sách, mỗi cấp ngân sách chịu sự ràng buộc bởi các chế độ thể lệ chung vừa có tính độc lập tự chịu trách nhiệm thì phân cấp ngân sách Nhà nước được hiểu là phân định trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ và lợi ích của các cấp chính quyền Nhà nước trong quản lý ngân sách Nhà nước. Như vậy, phân cấp ngân sách Nhà nước là giải quyết các mối quan hệ giữa chính quyền nhà nước trung ương với các cấp chính quyền địa phương trong việc xử lý các vấn đề của hoạt động ngân sách Nhà nước. Khi phân cấp ngân sách Nhà nước phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Đảm bảo tính thống nhất của ngân sách Nhà nước: Phân cấp quản lý để phát huy quyền dân chủ, tính chủ động sáng tạo của các cấp chính quyền trong khai thác, bồi dưỡng, huy động nguồn thu; tính toán chặt chẽ sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các khoản chi ngân sách Nhà nước, không phải sự cắt khúc ngân sách Nhà nước. - Phân cấp ngân sách Nhà nước phải phù hợp với phân cấp các lĩnh vực khác của Nhà nước, tạo ra một sự đồng bộ trong thực hiện và quản lý các ngành, các lĩnh vực của Nhà nước. - Nội dung phân cấp ngân sách Nhà nước phải phù hợp với hiến pháp và luật pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cấp chính quyền, bảo đảm mỗi cấp ngân sách có các nguồn thu các khoản chi, quyền và trách nhiệm về ngân sách tương xứng nhau. - Nguồn thu và nhiệm vụ chi cho mỗi các cấp chính quyền được ổn định theo luật. - Xác định rõ mối quan hệ giữa ngân sách cấp trên và ngân sách cấp dưới, quan hệ giữa trung ương và địa phương. - Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan chính quyền Nhà nước trong lĩnh vực ngân sách Nhà nước. - Ổn định tỷ lệ điều tiết và bổ sung từ 3 đến 5 năm. 51
  52. 2.2. Nội dung phân cấp ngân sách Nhà nước Phân cấp ngân sách là việc xác định rõ phạm vi trách nhiệm và quyền hạn của các cấp chính quyền. Trong việc lập và chấp hành quyết toán ngân sách. Phạm vi và trách nhiệm và quyền hạn của các cấp chính quyền trong việc lập và chấp hành ngân sách được thể hiện trong những nội dung: - Giải quyết các mối quan hệ quyền lực giữa các cấp chính quyền trong việc ban hành các chính sách chế độ thu chi quản lý ngân sách Nhà nước. Nội dung này phải dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện nền tài chính quốc gia thống nhất, hạn chế tối đa hành vi cục bộ địa phương, tùy tiện trong việc ban hành chính sách chế độ ngân sách Nhà nước. - Giải quyết mối quan hệ vật chất trong quá trình phân cấp thực hiện thu chi ngân sách và cân đối ngân sách Nhà nước. Thực hiện nội dung này phải xây dựng chế độ phân cấp chi tiết cụ thể các nguồn thu, các khoản chi cho từng các cấp ngân sách, thực chất là việc phân chia “lợi ích vật chất” của các cấp chính quyền. - Giải quyết mối quan hệ trong quá trình lập, quá trình chấp hành và quyết toán ngân sách (chu trình ngân sách) Phân cấp ngân sách là phải xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các cấp chính quyền trong việc lập và chấp hành và quyết toán ngân sách, mức vay trong dân, các khoản phụ thu bổ sung cho ngân sách cấp dưới, thời hạn lập, xét duyệt, báo cáo ngân sách ra Hội đồng nhân dân và gửi lên cho cấp trên để vừa nâng cao trách nhiệm của chính quyền Trung ương, vừa phát huy tính năng động, sáng tạo của chính quyền cơ sở. 2.3. Các nguyên tắc phân cấp ngân sách Nhà nước Nhằm giải quyết các mối quan hệ trên, trong phân cấp ngân sách cần phải thực hiện một số nguyên tắc nhất định: - Phân cấp ngân sách Nhà nước phải được tiến hành đồng bộ với phân cấp kinh tế và tổ chức bộ máy hành chính. Tuân thủ nguyên tắc này tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết mối quan hệ vật chất giữa các cấp chính quyền, xác định rõ nguồn thu trên địa bàn và quy định nhiệm vụ chi của các cấp. 52
  53. - Đảm bảo thể hiện vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương và vị trí độc lập của ngân sách địa phương trong hệ thống ngân sách Nhà nước thống nhất. Ngân sách Trung ương thực tế là ngân sách của cả nước, tập trung đại bộ phận của cải quốc gia và thực hiện các khoản chi trọng yếu của quốc gia.Vị trí độc lập của ngân sách địa phương được thể hiện: có quyền lập, chấp hành và quyết toán ngân sách của mình trên cơ sở chính sách, chế độ đã ban hành. - Đảm bảo nguyên tắc công bằng trong phân cấp ngân sách. IV. Chu trình quản lý Ngân sách Nhà nước Dự toán ngân sách gắn với năm ngân sách, khi năm ngân sách này kết thúc lại bắt đầu một năm ngân sách mới nên hoạt động ngân sách có tính chu kỳ, hình thành nên các chu trình ngân sách liên tục. Chu trình ngân sách Nhà nước là quá trình nối tiếp nhau bao gồm các khâu: hình thành ngân sách, chấp hành ngân sách và quyết toán ngân sách. 1. Hình thành ngân sách Nhà nước Hình thành ngân sách Nhà nước là quá trình bao gồm các công việc: lập ngân sách, phê chuẩn ngân sách và thông báo ngân sách. Trong chu trình ngân sách, lập ngân sách là công việc khởi đầu có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ các khâu của chu trình quản lý ngân sách Nhà nước. Lập ngân sách Nhà nước thực chất là dự toán các khoản thu - chi của ngân sách trong một năm ngân sách. Trong thực tế để phát huy vai trò tích cực của kế hoạch ngân sách, trong thực tiễn, khi lập ngân sách phải đáp ứng các yêu cầu nhất định: - Bảo đảm việc xây dựng dự toán thu - chi ngân sách Nhà nước dựa trên hệ thống chế độ, chính sách và tiêu chuẩn định mức đúng đắn phù hợp với thực tiễn kinh tế - xă hội. - Xây dựng dự toán thu chi ngân sách tiến hành đúng với trình tự và thời gian quy định. - Bảo đảm mối quan hệ đúng đắn giữa kế hoạch hiện vật và kế hoạch giá trị thông qua việc thiết lập dự toán thu chi của ngân sách Nhà nước trong bối cảnh cung cầu giá cả có sự biến động. 53
  54. Để dự toán ngân sách biến thành hiện thực khi lập dự toán phải dựa vào những căn cứ sau: - Dựa vào phương hướng, chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng của Đảng và Nhà nước trong năm tài chính và những năm sau. - Lập dự toán ngân sách Nhà nước phải dựa vào hệ thống các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức thu - chi của ngân sách Nhà nước. - Lập dự toán ngân sách Nhà nước phải căn cứ vào kết quả phân tích việc thực hiện dự toán ngân sách trong thời gian qua. 2. Chấp hành ngân sách Nhà nước - Tổ chức chấp hành dự toán thu: Không ngừng bồi dưỡng phát triển nguồn thu, tìm mọi biện pháp động viên khai thác, đảm bảo tỷ lệ động viên chung mà Quốc hội đã phê chuẩn, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước đã được hoạch định trong dự toán chi. Để tổ chức chấp hành dự toán thu phải thực hiện đồng bộ các biện pháp sau: +) Xác lập, hoàn thiện hệ thống chính sách, chế độ động viên thích hợp vừa đảm bảo khuyến khích hoạt động sản xuất kinh doanh, vừa đảm bảo mức động viên của nhà nước. +) Nâng cao công tác tuyên truyền chính sách, chế độ thu làm mọi người thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước. +) Kiện toàn tổ chức bộ máy thu theo nguyên tắc thống nhất, nâng cao hiệu lực của bộ máy, đảm bảo gọn nhẹ, hiệu quả cao. - Tổ chức chấp hành dự toán chi: Mục đích đảm bảo đầy đủ, kịp thời nguồn kinh phí của ngân sách cho hoạt động của bộ máy Nhà nước và thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội đã được hoạch định trong năm kế hoạch. Để đạt được mục đích trên cần phải thực hiện các yêu cầu sau: +) Thực hiện cấp kinh phí trên cơ sở thống nhất các định mức, tiêu chuẩn, bổ sung những định mức mới, xóa bỏ những định mức lạc hậu. +) Bảo đảm việc cấp kinh phí theo theo kế hoạch được duyệt 54