Giáo trình Sinh lý người và động vật - Chương 12: Sinh lý hoạt động thần kinh cấp cao

pdf 13 trang ngocly 2770
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Sinh lý người và động vật - Chương 12: Sinh lý hoạt động thần kinh cấp cao", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_sinh_ly_nguoi_va_dong_vat_chuong_12_sinh_ly_hoat.pdf

Nội dung text: Giáo trình Sinh lý người và động vật - Chương 12: Sinh lý hoạt động thần kinh cấp cao

  1. Chương 12 Sinh lý hoạt động thần kinh cấp cao 12.1. Khái niệm về hoạt động thần kinh cấp cao Một em bé mới sinh có thể kêu khóc khi nhìn thấy chiếc thìa con mà người ta dùng để cho nó uống thuốc đắng trong những lần trước và cũng có khả năng nhận biết được người mẹ của mình. Ở động vật cũng vậy, chúng ta có thể nhận thấy khả năng nhận biết được tiếng nói của người chủ với tiếng nói của người lạ ở chó nuôi, sự mừng rỡ của nó khi chủ về. Người ta gọi những khả năng như vậy là hoạt động thần kinh cấp cao của người và động vật. Hoạt động thần kinh cấp cao là hoạt động của hệ thần kinh trung ương nhằm điều hoà, phối hợp các chức năng của các cơ quan trong cơ thể, đồng thời bảo đảm cho cơ thể thích ứng được với những điều kiện của môi trường sống luôn luôn biến động hay bảo đảm được mối quan hệ phức tạp giữa cơ thể với thế giới bên ngoài. Bên cạnh đó, hệ thần kinh trung ương còn có chức năng điều hoà và phối hợp chức năng của tất cả các cơ quan trong cơ thể thành một khối thống nhất. Hoạt động đó của hệ thần kinh trung ương được gọi là hoạt động thần kinh cấp thấp. Về hoạt động thần kinh cấp cao và cấp thấp, I.P.Pavlov - người phát minh học thuyết phản xạ có điều kiện hay học thuyết hoạt động thần kinh cấp cao viết “ các hoạt động của bán cầu đại não cùng với phần dưới vỏ não bảo đảm cho quan hệ phức tạp và bình thường của toàn bộ cơ thể đối với thế giới bên ngoài có thể thay cho khái niệm “tinh thần” gọi là hoạt động thần kinh cấp cao hay tập tính của con vật. Đối lập với vỏ não, hoạt động của các phần não bộ khác và của tuỷ sống, chủ yếu điều hoà mối quan hệ và tập hợp các phần của cơ thể với nhau được gọi là hoạt động thần kinh cấp thấp”. Hoạt động thần kinh cấp cao được thực hiện dựa trên cơ sở các phản xạ có điều kiện, còn hoạt động thần kinh cấp thấp được thực hiện trên cơ sở các phản xạ không điều kiện. Hai hệ hoạt động này gắn bó và tác dụng lẫn nhau rất chặt chẽ. 12.2. Các phương pháp nghiên cứu hoạt động thần kinh cấp cao 12.2.1. Phương pháp kinh điển nghiên cứu các phản xạ có điều kiện của I.P.Pavlov Các phản xạ có điều kiện bài tiết nước bọt được I.P.Pavlov và cộng sự nghiên cứu đầu tiên trên chó vào những năm đầu của thế kỷ XX. Phương pháp này được coi là phương pháp kinh điển, có thể sử dụng để nghiên cứu hoạt động thần kinh cấp cao trên nhiều đối tượng nghiên cứu khác nhau. Sở dĩ như vậy là vì chó là loài động vật khoẻ mạnh, dẻo dai, đã được thuần hoá lâu đời, là người bạn đồng hành của con người từ thời tiền sử, biết nghe người. Chó cũng có bán cầu đại não phát triển. Các phản xạ bài tiết nước bọt dễ thành lập, không gây tổn hại đến động vật. Lượng nước bọt tiết ra dễ thu nhận, cường độ của phản xạ cũng dễ dàng xác định chính xác bằng giọt hoặc bằng độ chia của ống thu nước bọt.
  2. Để nghiên cứu phản xạ có điều kiện theo phương pháp bài tiết nước bọt, con vật cần được chuẩn bị trước để có thể quan sát được quá trình tiết nước bọt. Muốn vậy, cần phải phẩu thuật tách ống dẫn nước bọt cùng với mảnh màng nhầy xung quanh miệng ống rồi đưa ra ngoài xoang miệng, khâu vào da ở vị trí thích hợp. Thí nghiệm thành lập phản xạ bài tiết nước bọt có điều kiện tiến hành khi vết thương đã lành, ở phòng cách âm có trang thiết bị cần thiết để cố định, cho ăn, thu ghi kết quả, tách biệt với người làm thí nghiệm. Trong phòng thí nghiệm còn bố trí các dụng cụ để gây kích thích có điều kiện như chuông, máy gõ nhịp, máy gãi, bóng điện Kích thích không điều kiện thường được dùng là thức ăn (bột thịt, lạc khô, bột thịt trộn với bột lạc) hoặc dung dịch axit (dung dịch axit HCl 0,1-0,5%). Người làm thí nghiệm thông qua công tắc ở bàn điều khiển đặt ở ngoài phòng cách âm có thể điều khiển các kích thích có điều kiện và không điều kiện.Trước khi thành lập phản xạ có điều kiện cần tập cho cho con chó làm quen với phòng thí nghiệm. Quá trình thành lập phản xạ có điều kiện được được tiến hành như sau: Cố định chó trên giá thí nghiệm, gắn phểu thu nước bọt vào da chó nơi có lỗ nước bọt chảy ra và nối thông phểu với hệ thống ống dẫn nước bọt đến thước đo. Đóng cửa phòng cách âm. Cho kích thích có điều kiện (ánh sáng) tác dụng và sau đó khoảng 2-5 giây cho kích thích không điều kiện (thức ăn) tác dụng. Thức ăn là kích thích thích ứng gây phản xạ tiết nước bọt không điều kiện. Việc cho chó ăn sau khi bật ánh sáng được I.P.Pavlov gọi là sự củng cố tín hiệu có điều kiện bằng kích thích không điều kiện. Sau khoảng 5-10 lần phối hợp bật ánh sáng và cho chó ăn, mỗi lần cách nhau 5 phút, ánh sáng trước đó không có liên quan gì với phản xạ tiết nước bọt, bắt đầu có tác dụng gây tiết nước bọt. Sự xuất hiện phản xạ tiết nước bọt khi bật ánh sáng lên là biểu hiện của sự hình thành phản xạ tiết nước bọt có điều kiện. Như vậy, ánh sáng đã trở thành tác nhân gây tiết nước bọt giống như tác dụng của thức ăn. Hình 12.1. Sơ đồ phòng thí nghiệm nghiên cứu hoạt động phản xạ có điều kiện ở chó theo I.P.Pavlov 11.2.2. Phương pháp thao tác hay cách sử dụng công cụ
  3. Nguyên tắc của phương pháp này là con vật thí nghiệm phải thực hiện một động tác nào đó để sau đó nhận được thưởng (thức ăn, nước uống) hoặc tránh được phạt (điện giật). Trong phương pháp thao tác người ta thường dùng chiếc lồng hay chuồng thí nghiệm, bên trong có để một bàn đạp - dụng cụ để con vật thao tác (dẫm chân lên bàn đạp). Các bước tiến hành như sau: Cho con vật thí nghiệm (chó, mèo ) vào lồng hay chuồng thí nghiệm, bắt con vật đè chân trước lên bàn đạp nằm trước chậu thức ăn hoặc lợi dụng động tác đó một cách ngẫu nhiên và lập tức củng cố bằng thức ăn ngay. Thí nghiệm cứ lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy, con vật sẽ biết tự dẫm chân lên bàn đạp để tìm thức ăn. Sau khi phản ứng dẫm chân lên bàn đạp đã vững chắc, người ta mới tiến hành thành lập phản xạ có điều kiên. Để thành lập phản xạ có điều kiện thông thường người ta cho tác dụng một kích thích có điều kiện nào đó (tiếng chuông, ánh sáng, ) và trong trường hợp kích thích có điều kiện đó trùng với động tác dẫm chân lên bàn đạp của con vật, mới đưa thức ăn cho nó. Nếu động tác dẫm chân không trùng với thời gian có kích thích có điều kiện thì không cho con vật ăn. Lặp lại thí nghiệm nhiều lần thì phản xạ sẽ hình thành: con vật chỉ dẫm chân lên bàn đạp khi có tác dụng của kích thích có điều kiện. Phương pháp nghiên cứu tập tính của động vật trong chuồng mê lộ cũng được xem là một dạng của phương pháp thao tác. Chuồng mê lộ là một chiếc hộp có kích thước to nhỏ khác nhau tuỳ thuộc đối tượng nghiên cứu. trong hộp có các vách ngăn, tạo thành nhiều ngõ ngách, trong đó có một đường có thể chạy từ chỗ xuất phát đến ngăn cuối cùng được gọi là đích. Ở đích có thức ăn hoặc một con vật khác giới để làm tác nhân củng cố. Thời gian con vật chạy trong mê lộ đến đích để nhận thức ăn hay gặp đối tượng khác giới phụ thuộc vào cách chọn đúng đường trong số nhiều ngõ ngách đó. Qua tập dượt nhiều lần con vật sẽ tìm đúng đường chạy đến đích. Phản xạ được thành lập theo phương pháp này được gọi là phản xạ chạy trong mê lộ. Ngoài các phương pháp trên người ta còn sử dụng các phương pháp phụ như cắt bỏ từng phần hay cắt bỏ hoàn toàn vỏ bán cầu đại não, phương pháp kích thích trực tiếp vào vỏ não hoặc các cấu trúc dưới vỏ, phương pháp tác dụng bằng các dược liệu, phương pháp điện sinh lý, phương pháp điều khiển học để nghiên cứu hoạt động thần kinh cấp cao 12.3. Phân loại các phản xạ không điều kiện và có điều kiện Phản xạ từ tiếng La tinh (reflexio) có nghĩa là phản ánh. Hiện nay có thể hiểu phản xạ là sự phản ứng của cơ thể đối với sự kích thích vào các thụ cảm thể và được thực hiện với sự tham gia của hệ thần kinh trung ương, bảo đảm cho cơ thể thích ứng với môi trường sống. Mỗi phản xạ hầu như luôn luôn là phức hợp của các phản xạ không điều kiện và có điều kiện. Hai loại phản xạ này thống nhất với nhau thành một hoạt động phức tạp. Tuy nhiên, theo sự phát sinh của chúng thì hai loại phản xạ này hoàn toàn khác biệt nhau. Các phản xạ không điều kiện là phản xạ bẩm sinh, được di truyền, mang tính chất của loài, tương đối ổn định trong suốt đời sống của cá thể, là phản xạ phát sinh khi có kích thích thích ứng tác động lên các trường thụ cảm nhất định. Các phản xạ có điều kiện là các phản xạ tập nhiễm được trong đời sống của cá thể, mang tính chất của cá thể, có thể bị mất đi khi điều kiện tạo ra nó không còn nữa, là phản xạ có thể được hình thành với các loại kích thích khác nhau tác động lên các trường thụ cảm khác nhau. Toàn bộ các phản xạ không điều kiện theo ý nghĩa chức năng của chúng có thể chia ra thành nhiều nhóm khác nhau, trong đó chủ yếu có các phản xạ dinh dưỡng, phản
  4. xạ tự vệ, phản xạ sinh dục, phản xạ vận động, phản xạ định hướng. Trong số các phản xạ dinh dưỡng có phản xạ nhai, phản xạ nuốt, phản xạ mút, phản xạ tiết các dịch tiêu hoá Các phản xạ tự vệ là các phản ứng tránh kích thích gây đau và có hại cho cơ thể. Trong các phản xạ sinh dục có các phản xạ liên quan với sự thực hiện động tác giao hợp, phản xạ nuôi dưỡng, chăm sóc con cái. Các phản xạ vận động là các phản ứng duy trì tư thế và chuyển dời các bộ phận cũng như toàn cơ thể trong không gian. Phản xạ định hướng là phản xạ phát hiện cái mới. Các phản xạ có điều kiện được thành lập trên cơ sở của bất cứ phản xạ không điều kiện nào, nên có thể phân loại các phản xạ có điều kiện theo các phản xạ không điều kiện. Tuy nhiên, theo cách thức hình thành, theo tính chất của các kích thích có thể phân chia các phản xạ có điều kiện thành các phản xạ có điều kiện tự nhiên, phản xạ có điều kiện nhân tạo. Phản xạ có điều kiện tự nhiên là các phản xạ có điều kiện được hình thành với các dấu hiệu hay đặc điểm tự nhiên của kích thích không điều kiện, ví dụ như mùi của thịt Một lần nào đó chó được ăn thịt, sau đó ngửi thấy mùi thịt, ở chó xuất hiện phản xạ tiết nước bọt. Đặc điểm của phản xạ có điều kiện tự nhiên là bền vững, chúng được hình thành nhanh chóng, chỉ sau một hoặc vài lần con vật nhận được đặc điểm tự nhiên của kích thích có điều kiện. Phản xạ có điều kiện nhân tạo được thành lập với các tác nhân không có các dấu hiệu tự nhiên liên quan với phản xạ không điều kiện. Phản xạ tiết nước bọt có điều kiện ở chó đối với tín hiệu ánh sáng đèn là một ví dụ về một phản xạ có điều kiện nhân tạo. Ánh sáng đèn không có những tính chất có thể gây tiết nước bọt. Các phản xạ có điều kiện nhân tạo là khó thành lập, không bền vững nên phải thường xuyên củng cố. Để có được phản xạ cần phải lặp đi, lặp lại nhiều lần giữa tín hiệu có điều kiện với kích thích không điều kiện. Ví dụ , phối hợp nhiều lần giữa ánh sáng đèn với thức ăn là kích thích không điều kiện gây tiết nước bọt thì ánh sáng đèn mới gây tiết nước bọt. Kích thích không điều kiện được gọi là tác nhân củng cố của tín hiệu có điều kiện. Theo đặc điểm của các thụ cảm thể tiếp nhận kích thích có thể phân chia các phản xạ có điều kiện thành phản xạ có điều kiện đối với các thụ cảm thể ở ngoại vi, phản xạ có điều kiện đối với các thụ cảm thể bản thể và các thụ cảm thể trong các cơ quan nội tạng. Phản xạ có điều kiện đối với các thụ cảm thể ở ngoại vi là các phản xạ có điều kiện được thành lập khi phối hợp các tín hiệu từ môi trường bên ngoài tác động lên các cơ quan phân tích như cơ quan thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, bộ máy tiền đình, nhiệt, đau với một loại kích thích không điều kiện nào đó. Phản xạ có điều kiện đối với các thụ cảm thể bản thể và các thụ cảm thể trong các cơ quan nội tạng là các phản xạ có điều kiện được hình thành khi phối hợp các tín hiệu có điều kiện khác nhau với các kích thích vào các thụ cảm thể bản thể (ở gân, cơ, khớp) và các thụ cảm thể ở dạ dày, ruột, thận, bàng quang, các tuyến, mạch máu Theo các cơ quan thực hiện phản xạ người ta chia ra phản xạ dinh dưỡng có điều kiện, phản xạ vận động - dinh dưỡng có điều kiện, phản xạ vận động - tự vệ có điều kiện Theo mức độ phức tạp khi phối hợp các tín hiệu có điều kiện với kích thích không điều kiện hoặc tín hiệu có điều kiện với các phản xạ có điều kiện đã được hình thành trước đó, người ta chia ra phản xạ có điều kiện bậc I, bậc II, bậc III Phản xạ có điều kiện bậc I là các phản xạ được hình thành khi phối hợp một tín hiệu có điều kiện với một kích thích không điều kiện.
  5. Phản xạ có điều kiện bậc II là phản xạ được hình thành khi phối hợp một tín hiệu có điều kiện thứ hai với phản xạ có điều kiện bậc I. Phản xạ có điều kiện bậc III là phản xạ được hình thành khi phối hợp một tín hiệu có điều kiện thứ ba với phản xạ có điều kiện bậc II. Theo cách thức phối hợp như vậy có thể thành lập được các phản xạ có điều kiện ở các bậc cao hơn. Các phản xạ có điều kiện ở bậc càng cao, càng khó thành lập. Ở chó chỉ có thể thành lập được các phản xạ có điều kiện bậc III, ở khỉ có thể thành lập được phản xạ có điều kiện bậc IV, ở người có thể thành lập được các phản xạ có điều kiện các bậc cao hơn. 12.4. Cơ chế hình thành phản xạ có điều kiện 12.4.1. Các điều kiện thành lập phản xạ có điều kiện Để thành lập phản xạ có điều kiện cần bảo đảm các điều kiện sau đây: - Phải có sự phối hợp đúng lúc kích thích tín hiệu với kích thích củng cố. Kích thích tín hiệu phải bắt đầu trước kích thích củng cố. Nếu kích thích tín hiệu được bắt đầu đồng thời hoặc chậm hơn kích thích củng cố thì nó sẽ mất ý nghĩa tín hiệu và không gây ra được phản xạ có điều kiện. - Kích thích tín hiệu phải là một kích thích vô quan, nghĩa là không có quan hệ gì với phản xạ không điều kiện được phối hợp, đồng thời kích thích đó cũng không được quá mạnh, quá mới lạ. - Cường độ của kích thích tín hiệu phải yếu hơn cường độ của kích thích củng cố, nghĩa là phải bảo đảm sự hưng phấn do kích thích tín hiệu gây ra yếu hơn sự hưng phấn do kích thích củng cố gây ra. - Vỏ não phải toàn vẹn, hệ thần kinh con vật phải ở trạng thái hoạt động bình thường. Nếu khả năng hoạt động của não bộ giảm sút rất khó thành lập phản xạ có điều kiện. - Tiến hành thí nghiệm ở môi trường yên tỉnh, tránh các kích thích lạ vì các kích thích lạ sẽ gây phản xạ định hướng cản trở sự hình thành đường liên hệ tạm thời. 12.4.2. Vị trí hình thành đường liên hệ tạm thời Sự hình thành phản xạ có điều kiện thực chất là hình thành đường liên hệ thần kinh tạm thời. Những công trình nghiên cứu về sinh lý so sánh hoạt động thần kinh cấp cao cho thấy các phản xạ có điều kiện đơn giản được hình thành ở tất cả các động vật có hệ thần kinh. Ở cá, lưỡng cư là những động vật chưa có vỏ não, nhưng cũng có thể thành lập được các phản xạ có điều kiện. Ở chim vỏ não mới kém phát triển, nhưng hoạt động phản xạ có điều kiện ở chúng đạt mức rất cao. Như vậy, ở các động vật chưa có vỏ não hoặc vỏ não kém phát triển vẫn có thể hình thành được các phản xạ có điều kiện. Ở trẻ em mới sinh, trong vài ba tuần đầu, khi vỏ não chưa hoạt động vẫn hình thành được phản xạ có điều kiện. Ở trẻ em sẽ xuất hiện động tác mút nếu trong nhiều ngày trước đó mỗi khi người mẹ sắp cho con bú ta cho tác động một tín hiệu nào đó như ánh sáng chẳng hạn. Từ những kết quả nghiên cứu trên có thể nhận định rằng vỏ não không phải là cấu trúc duy nhất để hình thành các đường liên hệ thần kinh tạm thời. Trong quá trình tiến hoá, ở các động vật chưa có vỏ não, các chức năng cao cấp rõ ràng là được thực hiện bới
  6. các phần khác nhau của não bộ. Ở các động vật có vỏ não, một số chức năng mới, phức tạp được chuyển lên trên vỏ não mới, các cấu trúc dưới vỏ vẫn tiếp tục thực hiện một số chức năng phức tạp có từ trước. Do đó, trong quá trình hình thành các phản xạ có điều kiện nhất định phải có sự tham gia của nhiều cấu trúc khác nhau của não bộ, trong đó có hệ limbic và thể lưới thân não. Nói cách khác, cơ chất của phản xạ có điều kiện, dù là phản xạ có điều kiện đơn giản, phải là một cấu trúc động hình, trong đó gồm nhiều yếu tố khác nhau nằm trong các phần khác nhau của não bộ. Chỉ trên quan điểm như vậy mới có thể hiểu được cơ chế của bức tranh nhiều hình, nhiều vẻ, phức tạp của các phản xạ có điều kiện và mới hiểu được tại sao phản xạ có điều kiện vẫn tồn tại khi ta cắt bỏ vỏ não hoặc các phần khác của não bộ. Đương nhiên, ở các động vật có tổ chức càng cao thì vai trò của các bán cầu đại não và của vỏ não càng lớn hơn trong hoạt động phản xạ có điều kiện. Các đường liên hệ thần kinh tạm thời của các phản xạ thuộc loại tập tính và thích nghi cao đối với các điều kiện sống của môi trường, đặc biệt các phản xạ liên quan với ngôn ngữ ở người nhất định phải được hình thành trong vỏ não. 12.4.3. Cơ chế sinh lý của sự hình thành đường liên hệ thần kinh tạm thời Theo quan điểm của I.P.Pavlov thì sự hình thành đường liên hệ tạm thời là kết quả của sự tác dụng tương hỗ giữa hai vùng vỏ não hưng phấn đồng thời: trung khu tiếp nhận kích thích có điều kiện và trung khu tiếp nhận kích thích không điều kiện, trong đó trung khu không điều kiện hưng phấn mạnh hơn trung khu có điều kiện. Theo nguyên tắc ưu thế Ukhtomski thì trung khu hưng phấn mạnh hơn có khả năng lôi cuốn hưng phấn từ trung khu hưng phấn yếu hơn về phía nó. Sự dẫn truyền hưng phấn từ trung khu có điều kiện đến trung khu không điều kiện đã tạo ra con đường thần kinh tạm thời giữa hai trung khu này. Hình 12.2. Sơ đồ hình thành đường liên hệ thần kinh tạm thời trong phản xạ tiết nước bọt có điều kiện ở chó (theo I.P.Pavlov) 1. Thụ cảm thể vị giác ở lưỡi; 2. Dây thần kinh hướng tâm; 3. Trung khu phản xạ tiết nước bọt không điều kiện; 4. Dây thần kinh ly tâm; 5. Tuyến nước bọt; 6. Trung khu dinh
  7. dưỡng ở vỏ não; 7. Nguồn hưng phấn có điều kiện; 8. Đường liên hệ thần kinh tạm thời; 9. Thụ cảm thể thị giác; 10. Đường hướng tâm từ cơ quan thính giác. Cơ chế sinh lý của quá trình hình thành đường liên hệ tạm thời giống như cơ chế sinh lý của sự hình thành phản ứng ưu thế như Ukhtomski đã phát hiện. Điều này đã được chứng minh bằng các công trình nghiên cứu về điện sinh lý. Trong các thí nghiệm trên thỏ các nhà nghiên cứu đã gây ra trong vỏ não tại vùng vận động đại diện của chân trước một nguồn hưng phấn mạnh và bền vững bằng tác động của dòng điện một chiều yếu trực tiếp vào vùng này, đồng thời tiến hành ghi điện não và phản ứng vận động của chân trước. Kết quả cho thấy hưng phấn trong vùng vỏ não vận động tăng dần lên. Khi đạt đến một mức nhất định, trung khu hưng phấn mạnh và bền vững này trở thành trung khu ưu thế và có khả năng lôi kéo về phía mình các nguồn hưng phấn khác sinh ra ở các vùng khác trong vỏ não. Lúc này, nếu cho một tín hiệu nào đó tác dụng, ví dụ, tín hiệu âm thanh, sẽ ghi được những biến đổi điện thế trong vùng vận động đại diện của chân trước và chân trước của con vật co lại. Điều này chứng tỏ rằng hưng phấn do kích thích âm thanh gây ra đã truyền đến cứ điểm hưng phấn ưu thế và tăng thêm hưng phấn ở cứ điểm này. Kết quả là làm biến đổi điện thế tại cứ điểm ưu thế và gây ra phản ứng vận động chân trước. Những cứ điểm ưu thế được tạo ra trong quá trình hình thành đường liên hệ thần kinh tạm thời duy trì không lâu. Cơ chế ưu thế chỉ có vai trò trong giai đợn “mở đường”, tạo điều kiện cho các xung động thần kinh chạy qua các xinap trước đây chưa hoạt động. Như vậy, cơ chế “mở đường” là cơ chế diễn ra tại các xinap. Còn quá trình duy trì, củng cố đường liên hệ thần kinh tạm thời, nghĩa là “ổn định” con đường xuyên qua các xinap vừa được hình thành, có lẽ được thực hiện theo một cơ chế khác, giống như cơ chế chuyển trí nhớ ngắn hạn thành trí nhớ dài hạn. Theo ý kiến của nhiều tác giả thì việc duy trì đường liên hệ thần kinh tạm thời là do sự xuất hiện những luồng xung động luân lưu liên tục theo các vòng tế bào thần kinh trong vỏ não. Các vòng tế bào thần kinh như vậy có thể là các vòng nối liền các tế bào tháp với các tế bào trung gian bằng các sợi quặt ngược của tế bào tháp và các sợi trục của các tế bào trung gian. Như vậy, cơ chế hình thành đường liên hệ thần kinh tạm thời có thể xem như kết quả của sự tác động qua lại giữa hai trung khu hưng phấn (có điều kiện và không điều kiện) trong vỏ não theo cơ chế ưu thế. Kết quả của sự tác dụng qua lại đó là mở ra con đường nối liền hai trung khu có điều kiện và không có điều kiện với nhau. Trong đó quá trình củng cố con đường này có liên quan với những biến đổi chức năng cũng như cấu trúc tại các xinap và cả trong thân các tế bào thần kinh tham gia vào quá trình hình thành phản xạ có điều kiện. Nhiều công trình nghiên cứu từ 1936 đến nay (tức sau khi I.P.Pavlov từ trần) về cơ chế hình thành phản xạ có điều kiện theo các hướng khác nhau cho thấy trong quá trình hình thành phản xạ có điều kiện có những biến đổi về điện sinh lý, hoá học, cấu trúc - hình thái của các tế bào thần kinh và các xinap trong các cấu trúc khác nhau của não bộ. Các nghiên cứu về điện sinh lý ở mức tế bào phát hiện được sự quy tụ các luồng hưng phấn hướng tâm thuộc các loại cảm giác khác nhau trong các tế bào thần kinh và có thể ghi được các phản ứng điện thế tế bào thần kinh kiểu phản xạ có điều kiện. Số tế bào thần kinh có đặc điểm trên chiếm từ 40 đến 60% tổng số tế bào được nghiên cứu, đặc biệt có nhiều ở các tế bào thần kinh thuộc vùng vỏ não vận động. Từ kết quả nghiên cứu này có thể nhận định rằng đường liên hệ thần kinh được hình thành do sự gặp gỡ và tác động
  8. qua lại giữa các luồng hưng phấn có điều kiện và không điều kiện trong các tế bào thần kinh ở vỏ não và các cấu trúc dưới vỏ. Các nghiên cứu tế bào học đã phát hiện thấy sự tăng số lượng các gai trên các nhánh của tế bào tháp, tăng số lượng các túi xinap và số lượng các xinap hoạt động trong não của những động vật có các phản xạ có điều kiện được thành lập. Điều này chứng tỏ có sự biến đổi cấu trúc và chức năng tại các xinap trong quá trình hình thành phản xạ có điều kiện, đồng thời chứng minh cho nhận định về sự mở đường qua xinap, về vai trò quan trọng của các xinap trong quá trình hình thành các phản xạ có điều kiện. Các nghiên cứu về hoá sinh não bộ cho thấy trong quá trình hình thành phản xạ có điều kiện xuất hiện các protein mới trong các cấu trúc thần kinh, đặc biệt là ở vỏ não. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu về hoá sinh não bộ và giả thuyết về cơ sở hoá học của trí nhớ P.K.Anokhin cho rằng những biến đổi diễn ra trong tế bào thần kinh dưới tác động của các luồng hưng phấn có điều kiện và không điều kiện, đã làm biến đổi mã của ARN và tổng hợp các protein mới. Các protein mới này duy trì đường lên hệ giữa hai luồng hưng phấn nói trên. Như vậy, các protein được tổng hợp trong quá trình hình thành các phản xạ là chất giữ trí nhớ hay cơ chất của phản xạ có điều kiện. Hiện nay các nhà khoa học vẫn đang tiếp tục nghiên cứu để hiểu đầy đủ hơn về cơ chế hình thành các phản xạ có điều kiện. 12.5. Các quá trình ức chế trong hoạt động thần kinh cấp cao Trong vỏ não song song với hưng phấn có quá trình ức chế. Hai quá trình này có thể chuyển đổi nhau, là hai mặt của quá trình hoạt động của vỏ não, thống nhất với nhau. Hưng phấn đưa đến sự thành lập và xuất hiện phản xạ có điều kiện còn ức chế có tác dụng làm giảm cường độ hoặc đình chỉ phản xạ có điều kiện, bảo vệ các tế bào thần kinh của vỏ não và phục hồi năng lượng cho vỏ não. Dựa vào điều kiện phát sinh ức chế trong vỏ não, quá trình ức chế trong vỏ não được chia thành hai loại: ức chế không điều kiện và ức chế có điều kiện. 12.5.1. Ức chế không điều kiện Là loại ức chế có từ khi động vật sinh ra, không cần phải luyện tập. Ức chế không điều kiện thể hiện ở hai dạng: ức chế ngoài và ức chế trên giới hạn. 1). Ức chế ngoài Gọi là ức chế ngoài vì nơi phát sinh ức này không nằm trong cung phản xạ có điều kiện. Ức chế ngoài là đặc tính của tất cả các phần khác nhau của hệ thần kinh, không phải thành lập mà phát sinh ngay trong lần tác dụng đầu tiên của kích thích lạ và mất đi sau khi ngừng kích thích lạ. Do đó, khả năng của các trung khu thần kinh chuyển sang trạng thái ức chế khi có tác dụng của kích thích lạ là tính chất bẩm sinh của hệ thần kinh. Hệ thần kinh có được tính chất này là do xung quanh cứ điểm hưng phấn đã xuất hiện một quá trình ức chế theo cơ chế cảm ứng âm. Làn sóng ức chế đó lan toả đến các trung khu khác, kể cả các tế bào thần kinh thuộc cung phản xạ có điều kiện và kìm hãm việc thực hiện phản xạ có điều kiện đó. Dựa vào tính chất tác dụng của các kích thích mới lạ người ta chia ức chế ngoài ra thành hai loại: ức chế ngoài tạm thời và ức chế ngoài thường xuyên. Các kích thích mới, lạ chỉ có tác dụng kìm hãm phản xạ có điều kiện trong một vài lần xuất hiện của nó, sau đó không còn ảnh hưởng đến phản xạ đang diễn ra nữa. Ví
  9. dụ, trong thời gian thành lập phản xạ tiết nước bọt có điều kiện ở chó, tiếng gõ cửa phòng thí nghiệm chỉ có tác dụng làm ngừng tiết nước bọt trong một vài lần, sau đó bật ánh sáng lên nước bọt vẫn tiếp tục tiết ra như trước, mặc dù cứ tiếp tục gõ vào cửa. Ức chế kiểu như vậy gọi là ức chế ngoài tạm thời. Ý nghĩa của ức chế tạm thời là tạo điều kiện cho con vật có điều kiện tiếp nhận và đánh giá ý nghĩa của tín hiệu lạ để có cách xử lý cho thích hợp. Các kích thích mới, lạ luôn luôn có tác dụng kìm hãm phản xạ có điều kiện. Ví dụ ở chó đã được thành lập phản xạ tiết nước bọt có điều kiện thì mỗi lần có tín hiệu đều có hiện tượng tiết nước bọt. Nếu trong thí nghiệm đồng thời với sự xuất hiện tín hiệu ta đánh mạnh vào mông chó thì chó sẽ ngừng tiết nước bọt đối với tín hiệu mỗi khi ta đánh mạnh vào mông nó. Ức chế này được gọi là ức chế ngoài thường xuyên. Ý nghĩa của ức chế ngoài thường xuyên là tạo điều kiện cho con vật ngừng phản xạ đang diễn ra để có biện pháp xử lý đối với kích thích có hại cho cơ thể. 2). Ức chế trên giới hạn Dạng ức chế này thường phát sinh trong các tế bào hệ thần kinh trung ương khi kích thích có điều kiện có cường độ quá lớn hoặc tác dụng kéo dài. Trong phòng thí nghiệm của I.P.Pavlov người ta đã dùng âm “mi” có cường độ trung bình làm tín hiệu có điều kiện để thành lập phản xạ tiết nước bọt có điều kiện ở chó. Sau khi phản xạ có điều kiện đã được hình thành, người ta cũng dùng âm “mi”, nhưng với cường độ lớn hơn để nghiên cứu hoạt động phản xạ của não bộ. Kết quả cho thấy âm “mi” có cường độ cao hơn cường độ trung bình trước đó một ít có tác dụng gây tiết nước bọt với lượng nhiều hơn. Nếu dùng âm “mi” có cường độ quá lớn, thì lượng nước bọt tiết ra ít hơn so với trường hợp sử dụng âm “mi’ có cường độ trung bình. Hiệu quả của phản ứng yếu đi khi sử dụng âm “mi” cường độ quá lớn không phải vì các tế bào thần kinh mệt mỏi, mà do sự phát triển trong chúng một quá trình ức chế gọi là ức chế trên giới hạn. Nếu không thay đổi cường độ của âm thanh, mà kéo dài thời gian tác dụng của nó cũng quan sát được hiện tượng ức chế tương tự trường hợp tăng cường độ âm thanh. Ý nghĩa của ức chế trên giới hạn là bảo vệ các tế bào thần kinh khỏi bị kiệt quệ vì phải tiếp tục hoạt động trong những điều kiện không thuận lợi, đồng thời tạo điều kiện cho chúng nghỉ ngơi và phục hồi chức năng. 12.5.2. Ức chế có điều kiện Ức chế có điều kiện là ức chế được hình thành trong trong quá trình phát triển cá thể, cần phải luyện tập mới có được. Ức chế trực tiếp phát sinh trong cung phản xạ có điều kiện cho nên gọi là ức chế có điều kiện hay ức chế trong. Phụ thuộc vào các điều kiện phát sinh có thể phân ức chế có điều kiện thành các dạng sau đây: ức chế dập tắt, ức chế phân biệt, ức chế có điều kiện, ức chế trì hoãn. 1). Ức chế dập tắt Ức chế dập tắt là dạng ức chế xuất hiện khi tín hiệu có điều kiện không được củng cố bằng kích thích có diều kiện. Ví dụ, nếu phát tín hiệu có điều kiện lên chó đã được thành lập phản xạ tiết nước bọt có điều kiện bền vững nhiều lần mà không củng cố, nghĩa là không cho chó ăn thì mỗi lần phát tín hiệu sẽ làm cho chó tiết nước bọt ít hơn, thời gian tiềm tàng của phản ứng tiết nước bọt tăng dần và cuối cùng phản ứng tiết nước bọt mất hẳn.
  10. Sự vắng mặt tác nhân củng cố sớm hay muộn nhất định sẽ dẫn đến tình trạng là tín hiệu có điều kiện không còn có ảnh hưởng đến hoạt động tiết nước bọt nữa, nghĩa là phản xạ có điều kiện bị dập tắt. Tuy nhiên, ức chế không làm huỷ hoại mối liên hệ thần kinh tạm thời vì nếu sau khi thành lập ức chế dập tắt ta để cho chó nghỉ ngơi thì qua khoảng 20 phút tác dụng của tín hiệu lại làm xuất hiện phản xạ tiết nước bọt có điều kiện trở lại. Ức chế dập tắt phát triển càng nhanh nếu phản xạ có điều kiện chưa được bền vững và ngược lại. Ức chế dập tắt là một hiện tượng phổ biến và có ý nghĩa sinh học rất lớn trong đời sống của động vật và người. Ức chế dập tắt bảo đảm cho các phản xạ có điều kiện luôn luôn phù hợp với điều kiện sống thường xuyên biến đổi của môi trường. Nhờ ức chế dập tắt mà các phản xạ có điều kiện cũ không phù hợp với điều kiện mới sẽ bị dập tắt đi, nhường chổ cho các phản xạ mới, thích nghi với điều kiện mới hình thành. Chính nhờ ức chế dập tắt mà con người có thể bỏ qua được những thói quen, cách sinh hoạt, quan niệm đã lỗi thời để tiếp thu các quan niệm phù hợp hơn. 2). Ức chế phân biệt Ức chế phân biệt là dạng ức chế phát sinh khi ta cho kích thích có điều kiện tác dụng xen kẽ với một tín hiệu gần giống nó, với điều kiện là kích thích có điều kiện luôn được củng cố, còn tín hiệu gần giống nó thì không được củng cố bằng kích thích không điều kiện. Ví dụ, ta dùng máy gõ nhịp 120 lần/phút làm tín hiệu có điều kiện và cho chó ăn để thành lập phản xạ tiết nước bọt có điều kiện. Sau khi phản xạ có điều kiện đã được bền vững, ta cho máy gõ nhịp 120 lần/phút tác dụng xen kẽ với máy gõ nhịp 100 lần/phút, trong đó máy gõ nhịp 120 lần/phút kèm theo thức ăn, còn máy gõ nhịp 100 lần/phút thì không cho ăn. Lúc đầu chó cũng tiết nước bọt với máy gõ nhịp 100 lần/phút. Sau đó chó chỉ có phản xạ tiết nước bọt khi cho tác dụng của máy gõ nhịp 120 lần/phút, còn máy gõ nhịp 100 lần/phút không gây tiết nước bọt nữa. Ức chế phân biệt phát triển dễ dàng khi sự khác biệt giữa tín hiệu có điều kiện và tín hiệu giống nó càng lớn và ngược lại. Ức chế phân biệt có ý nghĩa quan trọng trong đời sống của người và động vật. Có thể thấy được điều này khi quan sát tập tính của chó con và chó lớn đã được thành lập ức chế phân biệt. Mặc dù được chủ nuôi nấng chăm sóc, nhưng vì chưa có ức chế phân biệt nên chó con vẫn chạy theo người lạ. Ngược lại chó lớn có thể phân biệt giọng nói của người chủ của nó với người khác, không chạy theo người lạ, phân biệt được giọng nói dịu dàng để chạy đến với chủ và giọng nói gắt gỏng để tránh xa. 3). Ức chế có điều kiện Ức chế có điều kiện là dạng ức chế xuất hiện khi ta không củng cố phức hợp tín hiệu + một kích thích phụ khác, trong khi chỉ riêng một mình tín hiệu (vẫn được củng cố) thì vẫn gây ra phản xạ có điều kiện. Kích thích phụ trở thành tác nhân gây ức chế có điều kiện. Ví dụ, ta thành lập phản xạ tiết nước bọt có điều kiện với tín hiệu có điều kiện là tiếng chuông reo. Sau khi phản xạ có điều kiện đã được bền vững, tức là khi cho chuông reo chó tiết nước bọt, ta kết hợp tiếng chuông reo + kích thích phụ là ánh sáng đèn mà không cho chó ăn. Lặp lại một số lần như vậy thì khi chuông reo mà có ánh sáng đèn thì chó không tiết nước bọt. Ánh sáng đèn là tác nhân gây ức chế có điều kiện. Ức chế có điều kiện làm cho phản xạ có điều kiện càng được tinh vi, chính xác, hiệu quả hơn và có ý nghĩa thích nghi sinh học rất lớn trong đời sống của động vật. Ví dụ, con cáo núp trong bụi cây khi nghe có tiếng động lạ thì đề phòng ngay và định chạy trốn. Nhưng luồng gió thoảng qua mang theo mùi con nai - đối tượng không nguy hiểm đã làm
  11. cho con cáo yên tâm nằm ngủ lại. Mùi con nai chính là tác nhân phụ đã kìm hãm phản xạ tự vệ có điều kiện chạy trốn của con cáo. 4). Ức chế trì hoãn Ức chế trì hoãn là dạng ức chế xuất hiện khi ta không củng cố phần đầu tác dụng của tín hiệu có điều kiện. Ở phần đầu không được củng cố đó tín hiệu có điều kiện dần dần đã mất đi ý nghĩa tín hiệu. Biểu hiện của ức chế này là phản xạ đối với tín hiệu có điều kiện bị chậm lại.Ví dụ, trước đây ta cho tín hiệu có điều kiện là ánh sáng tác dụng và sau đó 2-5 giây ta cho chó ăn. Sau một số lần lặp đi lặp lại như vậy, phản xạ tiết nước bọt ở chó xuất hiện ngay sau khi ánh sáng được phát ra. Bây giờ ta bật ánh sáng lên và không cho chó ăn ngay, mà để sau 30 giây mới cho chó ăn. Lúc đầu phản xạ tiết nước bọt có điều kiện ở chó xuất hiện ngay sau khi có ánh sáng, nhưng dần dần về sau phản xạ tiết nước bọt ở chó chỉ xuất hiện vào thời điểm sắp cho chó ăn, nghĩa là sau khi bật đèn lên khoảng 28-29 giây. Ức chế trì hoãn có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống của người và động vật. Nhờ có ức chế trì hoãn con người và động vật thực hiện các phản xạ xảy ra đúng lúc, khớp với thời điểm tác động của các kích thích. 12.6. Đặc điểm hoạt động thần kinh cấp cao ở người Trên cơ sở các công trình nghiên cứu của mình, I.P.Pavlov đã nhận định rằng các quy luật hoạt động phản xạ có điều kiện ở động vật cũng là các quy luật hoạt động thần kinh cấp cao ở người. Tuy nhiên, do ở người có tín hiệu thứ hai nên những biểu hiện của quy luật chung đó trong hoạt động thần kinh cấp cao ở người và động vật có sự khác nhau. Đặc điểm đặc trưng trong hoạt động thần kinh cấp cao ở người là sự có mặt hai hệ thống tín hiệu và sự tác động qua lại giữa chúng. Chính nhờ có sự khác biệt này, thông qua hoạt động thần kinh cấp cao đã tách con người ra khỏi động vật và đặt con người vào vị trí cao hơn mọi động vật. 12.6.1. Hệ thống tín hiệu thứ nhất và thứ hai trong hoạt động thần kinh cấp cao ở người Hoạt động thần kinh cấp cao của người so với động vật có sự khác nhau về mức độ phát triển của quá trình phân tích và tổng hợp. Điều đó không chỉ do sự phát triển và hoàn thiện liên tục trong quá trình tiến hoá các cơ chế hoạt động vỏ não có ở tất cả các loài động vật bậc cao, mà còn do sự xuất hiện trong quá trình phát triển lịch sử của loài người cơ chế mới của hoạt động đó. Cơ chế này được hình thành trong quá trình lao động, đó là tiếng nói - phương tiện giao tiếp giữa người với nhau. Như vậy, ở người trong hoạt động thần kinh cấp cao có sự tham gia của hai hệ thống tín hiệu: một hệ thống tín hiệu gồm các kích thích tự nhiên được I.P.Pavlov gọi là hệ thống tín hiệu thứ nhất có chung ở người và động vật và một hệ thống khác đó là tiếng nói, chỉ có ở người được I.P.Pavlov gọi là hệ thống tín hiệu thứ hai. Sự xuất hiện và phát triển của tiếng nói, hoạt động nói đã làm phát triển mạnh hoạt động thần kinh cấp cao, đã làm phong phú thêm những đặc điểm hoạt động thần kinh cấp cao chỉ có riêng ở người và phức tạp hơn nhiều so với ở động vật. Nhờ có tiếng nói và chữ viết con người có thể hình dung được các sự kiện, hiện tượng của thế giới bên ngoài mà không cần tiếp xúc trực tiếp với chúng. Điều đó nói lên rằng mức độ tư duy của con người khác hẳn so với động vật, chỉ có con người có khả năng tư duy trừu tượng, còn ngay cả ở động vật bậc cao cũng chỉ có khả năng tư duy cụ thể mà thôi.
  12. 12.6.2. Đặc điểm tác dụng sinh lý của tiếng nói - Tiếng nói cũng là một kích thích. Các nhà sinh lý học cho rằng tiếng nói cũng là một kích thích. Tiếng nói được vỏ não tiếp nhận bằng cách thông qua hoạt động của các cơ quan phân tích, trong đó có cơ quan phân tích thính giác, thị giác, xúc giác. Khi nói và viết lại cần có sự tham gia của cơ quan phân tích vận động. Như vậy, tiếng nói là một kích thích, một tín hiệu, nhưng không đơn giản như các tín hiệu tự nhiên như ánh sáng, âm thanh, cơ học - Tiếng nói tác dụng bằng nội dung và ý nghĩa của nó. Đặc điểm này có thể thấy rõ qua thí nghiệm thành lập phản xạ chớp mắt có điều kiện với tiếng “tốt” và củng cố nó bằng cách cho luồng không khí thổi vào mắt ở một học sinh lớp bốn, khoảng 10-11 tuổi. Sau khi phối hợp nhiều lần giữa tiếng “tốt” với luồng không khí thổi vào mắt, ở em học sinh sẽ xuất hiện chớp mắt có điều kiện khi ta nói “tốt”. Tiếp theo, ta dùng câu nói mang ý nghĩa tốt thay cho tiếng “tốt”, ở em học sinh cũng xuất hiện phản xạ chớp mắt. Điều này chứng tỏ tiếng nói không tác dụng bằng âm thanh mà bằng nội dung của nó. - Tiếng nói có khả năng thay thế các kích thích cụ thể. Đặc điểm này của tiếng nói rất dễ nhận thấy trong cuộc sống hàng ngày. Ví dụ, khi ta nói về các loại quả chua trước một số trẻ em, ta sẽ quan sát thấy ở các em nước bọt được tiết ra giống như khi đưa các loại quả chua vào miệng. Tiếng nói gây được tác dụng này vì nó có mối liên hệ chặt chẽ với các đối tượng, hiện tượng nhất định. Các dấu vết của tiếng nói và dấu vết của các sự vật cụ thể được biểu thị bởi tiếng nói liên kết với nhau trong vỏ não thành một cấu trúc động hình. Do đó, cũng như kích thích cụ thể, tiếng nói có khả năng gây hưng phấn trong cấu trúc động hình này. Nhờ khả năng thay thế tác dụng của các kích thích cụ thể của tiếng nói mà sự phản ảnh hiện thực khách quan trong não được thực hiện không chỉ bằng con đường vận dụng các cảm giác trực tiếp, mà còn bằng cách vận dụng tiếng nói nữa. Chính nhờ khả năng này mà trong não người có được khả năng tách rời các sự vật, hiện tượng khỏi thực tiển, nghĩa là tạo ra cho con người khả năng tư duy trừu tượng. Quá trình tư duy trừu tượng giúp cho con người nhận thức được thực tiễn mà không cần tiếp xúc với nó. Tuy nhiên, nhận thức đó đạt đến mức nào còn phụ thuộc vào mức độ phản ánh chính xác và đầy đủ thực tiễn khách quan của tiếng nói. Trong cuộc sống có lúc chúng ta có những nhận thức sai lầm về thực tiễn, vì thực tiễn đó chỉ được phản ánh bằng tiếng nói. Vì thế để đảm bảo tính chính xác của các khái niệm, của tiếng nói chúng ta phải lấy thực tiễn làm thước đo, phải tăng công việc thực hành, phải thường xuyên liên hệ trực tiếp với thế giới khách quan. - Tiếng nói có thể tăng cường, ức chế, thay đổi tác dụng của kích thích cụ thể. Tiếng nói tăng cường, ức chế, thay đổi tác dụng của kích thích cụ thể thường quan sát được trong trường hợp não bị thôi miên hay khi con người bị ám ảnh bởi một ý tưởng nào đó. Ví dụ, ở người bị thôi miên khi ta đưa cho họ xách một chiếc túi nhẹ, nhưng nói với họ rằng đây là một vật rất nặng. Kết quả là họ không thể xách được lâu chiếc túi trên tay. Điều này chứng tỏ rằng tiếng nói đã làm tăng khối lượng của chiếc túi. Ngược lại, đưa cho họ xách một chiếc túi rất nặng và nói với họ rằng vật này rất nhẹ. Kết quả là người bị thôi miên có thể xách được túi xách nặng đó trong thời gian khá lâu. Như vậy, trong trường hợp này tiếng nói đã làm giảm khối lượng của túi xách.
  13. 12.6.3. Sự hình thành tiếng nói ở người Hiện nay các nhà nghiên cứu cho rằng sự hình thành tiếng nói ở người trong quá trình phát triển cá thể giống như sự hình thành các phản xạ có điều kiện. Tiếng nói không phải là bẩm sinh, tiếng nói có được là do trẻ tiếp xúc và học tập được ở người lớn. Chứng minh cho nhận định này là các trường hợp trẻ em bị bỏ rơi hay bị lạc trong rừng được chó sói nuôi dưỡng hoàn toàn không biết nói và không hiểu gì về xã hội loài người. Các phản xạ hình thành tiếng nói bắt đầu xuất hiện ở trẻ em vào những tháng cuối của năm đầu tiên sau khi sinh. Trong thời gian này nhờ tiếp xúc với người lớn mà trẻ em nhận được phức hợp tiếng nói với một kích thích cụ thể nào đó hay một phức hợp nhiều kích thích cụ thể. Ví dụ, người lớn bảo em bé “ông nội”, “bà nội”, đồng thời chỉ vào ông và bà của em bé. Lúc đầu vai trò của tiếng nói chưa có tác dụng như một kích thích độc lập, mà chỉ có tác dụng khi được đi cùng một tác nhân cụ thể nào đó. Tiếng nói chỉ có tác dụng phối hợp với các kích thích cảm giác - vận động (vị trí của cơ thể trong không gian), với kích thích thị giác (hoàn cảnh, hình dạng), với kích thích thính giác (âm thanh và giọng nói). Vì vậy, nếu thay đổi một trong các yếu tố của phức hợp kích thích thì tiếng nói sẽ không gây ra phản ứng ở em bé như trước nữa. nhờ sự lặp đi, lặp lại giữa tiếng nói với các kích thích cụ thể và các hoàn cảnh khác nhau, tiếng nói dần dần sẽ chiếm ưu thế, còn các kích thích cụ thể sẽ giảm dần ý nghĩa của chúng. Lúc này ta hỏi “ông đâu”, “bà đâu”, dù không có ông, bà ở đó và hỏi ở bất cứ chổ nào em bé cũng hiểu được câu hỏi và trả lời. Như vậy, từ lúc chỉ là một thành phần chưa có ý nghĩa quan trọng trong phức hợp kích thích (tiếng nói + các kích thích cụ thể), tiếng nói đã trở thành tín hiệu thay thế được cho toàn bộ phức hợp kích thích. Tiếng nói đã trở thành tín hiệu có điều kiện độc lập, có khả năng thay thế cho cả hệ thống tín hiệu cụ thể. Quá trình chuyển tiếng nói thành kích thích độc lập và giải phóng nó khỏi các yếu tố đồng hành diễn ra khoảng cuối năm đầu, khi đứa trẻ sắp tròn một tuổi. Cơ chế chuyển tiếng nói thành kích thích độc lập liên quan với sự phối hợp tiếng nói với các kích thích cụ thể. Trong quá trình phối hợp, tiếng nói thường được cố định, còn các thành phần khác thì biến động, cho nên hưng phấn do tiếng nói gây ra dần dần trở nên mạnh hơn, tập trung hơn so với hưng phấn do các kích thích cụ thể gây ra. Nhờ vậy mà tiếng nói bắt đầu gây ảnh hưởng theo kiểu cảm ứng âm tính đối với các thành phần khác trong phức hợp kích thích. Ảnh hưởng của tiếng nói sẽ tăng dần và cuối cùng làm mất tác dụng của các thành phần khác trong phức hợp kích thích. Trong quá trình chuyển tiếng nói thành tín hiệu độc lập, thành tín hiệu của các tín hiệu cụ thể các cơ quan phân tích cảm giác (thính giác, thị giác, xúc giác) và các cơ quan phân tích vận động đều có vai trò rất quan trọng. Do đó, các trẻ em bị khiếm khuyết chức năng của các cơ quan phân tích, nhất là chức năng của cơ quan phân tích thính giác sẽ rất khó khăn trong việc hình thành tiếng nói. Sự hình thành tiếng nói còn liên quan với sự hoàn thiện chức năng của các vùng vỏ não, đó là vùng nói (vùng Broca), vùng nghe hiểu tiếng nói (vùng Wernicke), vùng đọc hiểu chữ gyrus angular. Các vùng liên quan với tiếng nói phát triển chức năng rất nhanh trong thời gian từ 1 đến 5 tuổi, có lẽ do có quá trình in vết của tiếng nói trong các cấu trúc nói trên. Nhờ vậy, mà đến 5 tuổi trẻ em đã nói thạo được tiếng mẹ đẻ.