Giáo trình Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ (Phần 2)

pdf 49 trang ngocly 2620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_phuong_phap_phat_trien_ngon_ngu_cho_tre_phan_2.pdf

Nội dung text: Giáo trình Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ (Phần 2)

  1. CHƯƠNG IV PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ I. KHÁI NIỆM PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ Phát triển vốn từ cho trẻ là giúp trẻ nắm được nhiều từ, hiểu nghĩa của từ và biết sử dụng từ trong các tình huống trong giao tiếp. Quá trình hình thành, củng cố và tích cực hoá vốn từ phải liên quan chặt chẽ với quá trình nhận thức của trẻ để hình thành cho trẻ biểu tượng về thế giới xung quanh. Bởi vì từ là một thể thống nhất giữa âm thanh và nội dung ý nghĩa. Cô giáo không phải cung cấp từ qua âm thanh (rỗng) mà cung cấp cho trẻ những biểu tượng từ - khái niệm. Để làm được tốt công việc đó phải cho trẻ chơi trực tiếp với đồ vật, đồ chơi tự nhiên và các hoạt động thực tiễn xung quanh trẻ. Ví dụ: Quả cam: tròn vàng (xanh), vỏ sần sùi, có múi tép, hột trắng. II. ĐẶC ĐIỂM VỐN TỪ CỦA TRẺ 1. Vốn từ xét về mặt số lượng Từ 12 tháng trở đi, bên cạnh các âm bập bẹ xuất hiện các từ chủ động đầu tiên. ở 18 tháng tuổi, số lượng từ bình quân là 11 từ, cháu ít nhất là 0 từ, nhiều nhất là 25 từ (trường hợp đặc biệt có đến 45 từ) trẻ bắt chước người lớn lặp lại một số từ đơn giản gần gũi: mẹ, bố ,bà Từ 19-21 tháng, số lượng từ tăng nhanh. Đến 21 tháng trẻ đạt tới 220 từ. Giai đoạn 21- 24 tháng, tốc độ chậm lại, chỉ đạt 234 từ vào tháng 24, sau đó lại tăng tốc: 30 tháng đạt 434 từ, 36 tháng đạt 486 từ. Đến năm thứ ba, trẻ đã sử dụng trên 500 từ, phần lớn là danh từ, động từ và tính từ và các loại khác rất ít. Danh từ chỉ đồ dùng đồ chơi, đồ dùng quen thuộc gần gũi như: mèo, chó, chim Động từ chỉ hoạt động gần gũi của cháu với những người xung quanh. Trẻ 4 tuổi có thể nắm xấp xỉ 700 từ. Ưu thế vẫn thuộc về danh từ, động từ. Hầu hết các loại từ xuất hiện trong vốn từ của trẻ. Từ 5-6 tuổi vốn từ của trẻ tăng bình quân đến 1030 từ, tính từ và từ loại khác chiếm tỷ lệ cao hơn. Tốc độ tăng vốn từ ở các độ tuổi khác nhau, chậm dần theo độ tuổi: cuối 3 tuổi so với và đầu 3 tuổi vốn từ tăng nhanh vốn từ tăng10,7%; cuối 4 tuổi so với đầu 4 tuổi vốn từ tăng 40,58%, cuối 5 tuổi so với đầu 5 tuổi vốn từ tăng chỉ 10,40%, cuối 6 tuổi so với đầu 6 tuổi cũng chỉ tăng10,01%. Chúng ta có thể nhận ra quy luật tăng số lượng từ của trẻ như sau: - Số lượng từ của trẻ tăng theo thời gian. - Sự tăng tốc độ không đồng đều, có giai đoạn tăng nhanh, có giai đoạn tăng chậm. 54
  2. - Trong năm thứ ba tốc độ tăng nhanh nhất. - Từ 3- 6 tuổi tốc độ tăng vốn từ giảm dần. 2. Cơ cấu vốn từ xét về mặt từ loại Cơ cấu từ loại trong vốn từ của trẻ là một tiêu chí để đánh giá chất lượng vốn từ. Tiếng Việt có 9 từ loại: Danh từ, động từ, tính từ, đại từ, số từ, phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ, trợ từ. Số lượng từ loại càng nhiều bao nhiêu thì càng tạo điều kiện cho trẻ diễn đạt thuận lợi bấy nhiêu. Các từ loại xuất hiện dần dần trong vốn từ của trẻ. Ban đầu chủ yếu là danh từ, sau đó là động từ và tính từ, các loại từ khác xuất hiện muộn hơn. Đến 3- 4 tuổi, về cơ bản vốn từ của trẻ đã có đủ các loại từ. Tuy nhiên tỷ lệ danh từ và động từ cao hơn nhiều so với các loại khác: danh từ chiếm 38%, động từ chiếm 32%, còn lại là tính từ 6,8%, đại từ 3,1%, phụ từ 7,8%, tình thái từ 4,7%, và số từ còn xuất hiện ít (số từ 2,5 %, quan hệ từ 1,7%). Giai đoạn 5- 6 tuổi cũng là giai đoạn hoàn thiện một bước cơ cấu từ loại trong vốn từ của trẻ. Tỷ lệ danh từ, động từ giảm đi (chỉ còn khoảng 50%) nhường chỗ cho tính từ và các loại từ khác tăng lên: tính từ đạt tới15%. 3. Khả năng hiểu nghĩa từ của trẻ mẫu giáo a. Khả năng hiểu nghĩa từ của trẻ mẫu giáo Theo Fedorendo (Nga), ở trẻ em có 5 mức độ hiểu nghĩa khái quát của từ như sau: + Mức độ Zêro (mức độ chưa có sự khái quát): mỗi sự vật có tên gọi gắn với nó. Trẻ hiểu được ý nghĩa gọi tên này: mẹ, bố, bàn, bát + Mức độ 1: ý nghĩa biểu niệm ở mức độ thấp, tên gọi chung của các sự vật cùng loại: búp bê, bóng, cốc, nhà + Mức độ 2: Khái quát hơn: quả (quả cam), xe (xe đạp, xe ôtô), con (con gà, con chó). + Mức độ 3: ở mức độ cao hơn mà trẻ 5-6 tuổi có thể nắm được: các phương tiện giao thông (ôtô, tàu thuỷ, máy bay ); đồ vật (đồ chơi, đồ nấu ăn, đồ dùng học tập). + Mức độ 4: Khái quát tối đa, gồm những khái niệm trừu tượng: số lượng, chất lượng, hành động Đối với trẻ em lứa tuổi mầm non, khi ở tuổi nhà trẻ, trẻ hiểu được nghĩa biểu danh (mức độ zêro và mức độ 1). Mức độ 2 và mức độ 3 chỉ dành cho trẻ mẫu giáo,đặc biệt là mẫu giáo lớn. b. Đặc điểm lĩnh hội vốn từ của trẻ mẫu giáo Khi còn bé, những đồ vật hiện tượng xung quanh trẻ cũng như tên gọi của chúng chỉ thu hút sự chú ý của trẻ khi mà người lớn cho trẻ tiếp xúc trực tiếp với chúng. Trẻ sờ mó, nghe, cầm, nắm Ngay cả khi trẻ được 2 tuổi, trẻ cũng rất khó nhớ tên đồ vật nếu được nhìn mà không được tiếp xúc với nó. Từ mà trẻ sử dụng như là tên gọi riêng của từng 55
  3. đồ vật cụ thể, cần được củng cố, rèn luyện dần dần mà trẻ có thể sử dụng được như là một từ có ý nghĩa khái quát chung. M.M. Kosoba- một nhà sư phạm Nga đã quan sát quá trình hiểu nghĩa khái quát của từ của trẻ từ 12- 15 tháng.Với một nhóm trẻ, với quyển sách người ta tổ chức cho trẻ hành động 20 lần kèm theo từ “sách” (Hãy cầm quyển sách, hãy đặt sách xuống đây ). Còn với nhóm trẻ thứ hai thì người ta chỉ nói: Đây là quyển sách và cho trẻ nhìn vào 20 quyển sách khác nhau mà không cho trẻ hành động với chúng. Kết quả là ở nhóm trẻ thứ nhất, từ “sách” trở thành từ có ý nghĩa khái quát, với nhóm trẻ thứ hai thì không có được kết quả như vậy. E.I.Tikhiva đã nói: Trong sự phát triển ngôn ngữ trẻ em, các giác quan đóng vai trò quan trong bậc nhất.Tri giác vật thể là hoạt động chính của trí tuệ trẻ em. Sự phát triển ngôn ngữ và cảm giác trẻ em liên hệ chặt chẽ với nhau.Vì vậy không nên tách rời công tác giáo dục ngôn ngữ với việc giáo dục cảm giác và tri giác. Nhiệm vụ của trường mầm non là phải dạy trẻ hiểu được nghĩa chung của từ trên cơ sở tri giác trực tiếp với sự vật hiện tượng cụ thể. Quá trình lĩnh hội từ của tiếng mẹ đẻ được diễn ra cùng lúc với việc trẻ tìm hiểu vật phù hợp với từ đó. Trẻ xem xét vật, sờ mó vuốt ve, lắng nghe, ngửi vật mà trẻ quan tâm đến trẻ sẽ đi vào nhận thức của trẻ qua các giác quan. Sự nhận thức cảm tính này sẽ phát triển những xúc cảm tương ứng kèm theo (thích, không thích ). Sau đó sự nhận thức cảm tính này cùng với từ sẽ được củng cố trong trí nhớ của trẻ như là một biểu tượng về vật. Khi nghe từ gọi vật đó trước hết sẽ gợi lên ở trẻ tất cả những xúc cảm, cảm giác mà trẻ đã trải qua khi tiếp xúc với vật. Sau khi trẻ đã thu nhận cơ sở cảm xúc của từ, trẻ sẽ có khả năng hiểu nghĩa của từ. Chính vì vậy việc làm giàu vó từ cho trẻ cần phải được tổ chức trong quá trình cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh, trong sinh họat xã hội, lao động của con người. III. NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ Để phát triển vốn từ cho trẻ từ 0- 6 tuổi cô giáo cần thực hiện các nhiệm vụ sau: 1. Làm giàu vốn từ cho trẻ Làm giàu vốn từ cho trẻ là làm phong phú vốn từ cho trẻ, giúp trẻ làm quen với từ mới thông qua việc tổ chức hướng dẫn làm quen với thế giới xung quanh có chủ động. Như vậy ở giai đoạn đầu ta cần cung cấp cho trẻ những từ ngữ mang ý nghĩa cụ thể như các đồ vật trong gia đình, các con vật nuôi gần gũi, tên gọi người thân trong gia đình.Ví dụ: cô chú, bố, mẹ, cây, hoa, chuối,cam,lợn, mèo Các động từ biểu thị hành động, trạng thái của con người hay con vật. Ví dụ: đi, nhạy, nói, hát, nằm, ngủ Các tính từ chỉ đặc điểm bên ngoài của sự vật.Ví dụ: to, nhỏ, đẹp, xấu 56
  4. ở giai đoạn sau ta cung cấp cho trẻ những từ mang ý nghĩa khái quát hơn (mức độ khái quát thứ hai, thứ ba), các từ láy âm, các tượng thanh, tượng hình có tác dụng làm cho người nghe hình dung được tiếng động, hình dáng của vật và làm quen với các từ ghép chính phụ Khó khăn lớn đối với trẻ là những từ chỉ số lượng, những từ trừu tượng Đối với trẻ mẫu giáo nhỡ và mẫu giáo lớn cần cho trẻ biết một từ có thể mang nhiều nghĩa. Trên cơ sở nghĩa vốn có, có thể phát triển thêm nhiều nghĩa mới của từ. Như vậy việc làm giàu vốn từ có ý nghĩa khái quát trừu tượng phải gắn liền với việc quan sát phân loại sự vật hiện tượng, hình ảnh trực quan cụ thể. Ví dụ: - Bạn Hoa đã đánh đổ nước ra bàn như thế là bạn ấy chưa cẩn thận. - Bạn Dũng rất dũng cảm, ngã đau mà bạn ấy không khóc. 2.Củng cố, chính xác hoá vốn từ cho trẻ Củng cố, chính xác hoá vốn từ cho trẻ là giúp cho trẻ hiểu, nắm được ý nghĩa của từ trên cơ sở đối chiếu chính xác chúng với các đồ vật xung quanh; giúp trẻ lĩnh hội ý nghĩa của từ trên cơ sở phân biệt được những dấu hiệu đặc trưng của sự vật hiện tượng; thâm nhập vào thế giới hình tượng của lời nói và biết cách sử dụng chúng. Củng cố vốn từ đặt ra yêu cầu cao đối với trẻ, trẻ phải hiểu nghĩa từ và nhớ từ để sử dụng từ một cách phù hợp. Để hiểu từ, nhận thức của trẻ không chỉ dừng lại ở mức độ cảm giác về sự vật hiện tượng xung quanh mà các sự vật này phải trở thành biểu tượng . Như vậy trẻ phải quan sát tỷ mỷ và phải được nghe lời giảng giải của người lớn hay cô giáo để hiểu rõ nghĩa của từ. Ví dụ: Chảy máu cam là chảy máu mũi. Chạy một mạch là chạy không dừng lại. Quá trình này kéo dài suốt lứa tuổi mẫu giáo. Trẻ sẽ dần dần nắm được tính đa nghĩa của từ, nghĩa chính, nghĩa phụ, các lớp từ đồng nghĩa với những sắc thái tình cảm khác nhau, những từ biểu hiện khái niệm thời gian, không gian Và cũng cần nhắc lại nhiều lần ý nghĩa của từ để củng cố vững chắc vốn từ cho trẻ. 3. Tích cực hoá vốn từ cho trẻ Tích cực hoá vốn từ cho trẻ là giúp trẻ biết lựa chọn từ để sử dụng một cách chính xác, biểu cảm làm cho ngôn ngữ của trẻ mang sắc thái tu từ cũng như giúp trẻ biết sử dụng các phương tiện diễn cảm của từ. Ví dụ: Tắm – rửa (Tắm là quá trình cọ rửa toàn thân. Rửa chỉ là một hành động của tắm). Giáo viên cần giúp trẻ biết lựa chọn từ ngữ để sử dụng một cách chính xác. Trẻ không những còn hiểu mà còn biết sử dụng từ một cách thành thạo. Từ ngữ của trẻ bình thường không phải là ít nhưng trẻ phải biết sử dụng các vốn từ ngữ này khi cần thiết. Cần phải giúp trẻ có một trí nhớ tốt linh hoạt để tìm ra những từ 57
  5. cần thiết cho sự diễn đạt. Tích cực hoá vốn từ giúp trẻ vận dụng từ ngữ thụ động chuyển sang chủ động. Trong quá trình tích cực hoá vốn từ cho trẻ, cô giáo giúp cho trẻ hiểu một số biện pháp tu từ. Những biện pháp tu từ, đặc biệt là so sánh và nhân cách hoá, trẻ có thể tiếp thu và sử dụng từ ngữ một cách hồn nhiên: Một đoàn máy bay Mỹ Như một bầy quạ đen. (Hoan hô chú bộ đội) Hay: Trăng tròn như mắt cá. Tóm lại: Ba nhiệm vụ của công tác phát triển vốn từ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhiệm vụ này được tiến hành trên cơ sở nhiệm vụ kia. Nếu không làm giàu vốn từ cho trẻ thì trẻ không thể lựa chọn và sử dụng một cách linh hoạt trong mọi hoàn cảnh giao tiếp. IV. NỘI DUNG VỐN TỪ CẦN CUNG CẤP CHO TRẺ THEO ĐỘ TUỔI 1. Các nguyên tắc cung cấp vốn từ cho trẻ Trên cơ sở đặc điểm tư duy của trẻ, việc làm giàu vốn từ cho trẻ cần tiến hành theo các nguyên tắc sau: - Việc mở rộng vốn từ phải gắn liền với việc tích cực cho trẻ tìm hiểu môi trường xung quanh, sử dụng trực tiếp các giác quan để cảm nhận sự vật. - Việc mở rộng vốn từ phải được tiến hành từ dễ đến khó, từ gần đến xa, từ cụ thể đến trừu tượng. 2. Nội dung vốn từ cần cung cấp cho trẻ theo độ tuổi a. Trẻ 0-1 tuổi Dạy trẻ tên gọi một vài sự vật, hành động gần gũi, quen thuộc đối với trẻ. Ví dụ: bà, bố, mẹ, đi, gà, ăn (măm), chào (ạ) Đến cuối năm thứ nhất, dạy trẻ cùng một lúc nhận ra 2 đồ vật quen thuộc có hình dáng khác hẳn nhau, để ở vị trí khác nhau. Dạy trẻ biết tên mình, một vài tên bạn trong nhóm. Dạy trẻ biết một làm một số động tác: đứng lên, ngồi xuống, bắt tay, vỗ tay 2. Trẻ 1 -2 tuổi a. Trẻ 12 - 18 tháng Dạy trẻ tên gọi một số đồ dùng đồ chơi, đồ dùng quen thuộc gần gũi với trẻ (ô tô, em bé, gà, thỏ, bát thìa, cốc, áo, dép ), biết tên gọi một số bộ phận mình, cơ thể búp bê và các con vật (mắt, mồm, tay, chân ) Tiếp tục dạy trẻ biết tên gọi của mình, của một số bạn bè trong lớp, biết thực hiện một số yêu cầu của cô (nhìn, đi, ngồi, nằm, ăn, đưa, lấy ), biết một số hành động thường gặp (đi, nằm, ăn, nhìn ). b. Trẻ 18-24 tháng Dạy trẻ biết tên gọi của các sự vật mà trẻ tiếp xúc, hoạt động hàng ngày theo các chủ đề khác nhau. 58
  6. Ví dụ: Về áo quần: áo, quần Về đồ dùng để ăn uống: bát thìa, cốc chén Về đồ chơi: ôtô, búp bê, em bé Dạy trẻ biết tên gọi của một số hành động với các đồ vật mà trẻ sử dụng hàng ngày. Ví dụ: Bế em bé (búp bê), ru bé ngủ. Xúc cháo (cháo) Mặc áo (quần) Đội mũ Tiếp tục dạy trẻ tên gọi của các bộ phận của một số động vật. Dạy trẻ tên gọi của một số màu sắc (xanh, đỏ, vàng), tên gọi kích thước (to, nhỏ, bé) của một số đồ vật. Dạy trẻ biết tên gọi của một số công việc của cô giáo (chơi với cháu, cho cháu ăn, hát, múa ). c. Trẻ 2-3 tuổi Tiếp tục mở rộng sự hiểu biết của trẻ về các sự vật hiện tượng gần gũi trẻ nhìn thấy trên đường phố, công viên và những nơi trẻ đi qua. Dạy trẻ hiểu sâu hơn về các sự vật: biết tên gọi các phần chi tiết, biến dạng kích thước, màu sắc, mùi vị, đặc điểm và tính chất của vật. Dạy trẻ phân biệt các nhóm đồ vật và biết khái quát bằng 1 từ, không phụ thuộc vào màu sắc, kích thước. Dạy trẻ biết tên nhà trường mầm non, biết tên cô giáo trong lớp và tên bố mẹ, địa chỉ gia đình. Dạy trẻ những từ biểu thị công việc của cô giáo, bác sĩ và bác cấp dưỡng. d. Trẻ 3 - 4 tuổi Gọi tên chính xác các đồ dùng ăn uống, các phương tiện giao thông khác nhau đã quen thuộc với trẻ. Trong những từ biểu thị tính chất, đặc điểm của sự vật, phân biệt các phần, chi tiết của vật và kích thước của chúng (ví dụ: to hơn, nhỏ hơn, rộng hơn, dài hơn, ngắn hơn ). Dạy trẻ phân biệt mối quan hệ không gian, thời gian, các buổi trong ngày( ví dụ: sáng, chiều, tối, trước, sau, phải trái ). Mở rộng vốn từ biểu thị tên gọi về màu sắc, hình dáng, mùi vị của các con vật, đồ vật với những từ biểu thị tính chất (nhẹ, nặng, nóng, lạnh, mượt ), đặc điểm (dễ gãy, dễ vỡ, dễ đứt ). Dạy trẻ biết phân biệt một số từ biểu thị đồ vật quen thuộc theo dấu hiệu đặc trưng, trên cơ sở nắm vững những từ khái quát biểu thị những đồ vật. Ví dụ: Ghế (ghế con, ghế đẩu, ghế nhựa ) Thìa (to, nhỏ, nhôm, nhựa ) Giầy (to, nhỏ, vải, da ) 59
  7. Làm quen với các nghề nghiệp: cô giáo, hiệu trưởng, người bán hàng, công nhân xây dựng và đưa vào những từ chỉ tính chất của lao động (ví dụ: làm việc nhanh, cẩn thận, đoàn kết, vui vẻ ). e. Trẻ 4 - 5 tuổi Đưa vào vốn từ chủ động của trẻ tên gọi tất cả các sự vật mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống, những từ biểu thị khái niệm (rau, quả, quần áo, đồ chơi, đồ dùng ăn uống) trên cơ sở phân tích, tổng hợp những đặc điểm đặc trưng. Làm quen với nghề nghiệp của bố mẹ, chú lái xe Đưa vào các từ biểu thị tính chất hoạt động, biểu thị quan hệ của con người lao động, những từ biểu thị tên gọi dụng cụ lao động (cuốc, xẻng, cày, dao ). Đưa vào vốn từ của trẻ những từ mang tính chất văn học, những từ tượng hình, tượng thanh, từ đồng nghĩa, trái nghĩa đơn giản. g. Trẻ 5 - 6 tuổi Tiếp tục đưa vào vốn từ của trẻ những từ biểu thị đặc điểm, tính chất, biểu thị mức độ, tính chất của sự vật (đỏ thẩm, đo đỏ, xanh thẫm, xanh lá cây, hơi chua, chua loét ) Tiếp tục tăng cường những từ biểu thị nghề nghiệp, thái độ của con người trong lao động (cẩn thận, thích thú, biết làm, cố gắng ), những từ văn học V. PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ * Một số điều cần lưu ý: - Đối với những từ mới và từ khó, giáo viên cần phát âm to và rõ ràng để trẻ dễ tiếp thu; cần lắng nghe các cháu nhác lại từng từ và nếu cần thì sửa lỗi ngay. - Dạy trẻ cần phải kèm theo với cho trẻ xem vật thật hoặc đủ dùng , tranh minh hoạ. - Đặt từ mới trong cấu trúc câu (ngữ cảnh) để trẻ thấy được sự liên hệ của các từ ấy với các từ khác. 1. Nhóm phương pháp trực quan a. Hướng dẫn trẻ quan sát Dạy trẻ quan sát là dạy trẻ biết xem xét, phân tích, so sánh để tìm ra những đặc điểm, thuộc tính của đối tượng quan sát, và về các mối quan hệ của nó với môi trường xung quanh. Trong quá trình quan sát các giác quan được huy động (tai nghe, mắt nhìn, tay sờ mó ) Hướng dẫn trẻ quan sát là quá trình có mục đích, có kế hoạch, thứ tự đi từ phân tích mặt này đến sự phân tích mặt kia, vừa đưa ra từ mới vừa củng cố từ cũ. Ví dụ: quan sát xe ôtô tải, hướng dẫn trẻ nhìn tổng thể có các bộ phận: buồng lái, thùng xe, các bánh xe. Đi vào quan sát buồng lái trước – thùng xe – gầm xe (bao gồm các bánh xe) * Chuẩn bị cho trẻ quan sát: 60
  8. + Chọn đối tượng phù hợp: Với trẻ thì cần chọn đối tượng phải đẹp, hấp dẫn lôi cuốn sự chú ý. + Chọn những kiến thức cần thiết: xe tải to, nặng (có cả xe tải nhỏ và xe tải to), để chở đồ đạc, hành lý + Chọn các từ ngữ phù hợp (những từ mới cần cung cấp, những từ khó cần giải thích ). + Chọn những bài hát, trò chơi để tăng sự hấp dẫn cho hoạt động. *Tổ chức quan sát: + Bắt đầu bằng một số bài thơ, câu đố, bài hát phù hợp. + Bắt đầu quan sát, cô cho trẻ các cháu tự do trao đổi những nhận xét đầu tiên và lắng nghe, chú ý đến vốn từ của trẻ được sử dụng như thế nào. + Cô tiến hành hướng dẫn sự quan sát của trẻ theo mục đích đã đặt ra. Ví dụ: Khi đi thăm công viên cô dự kiến nội dung quan sát là: cổng, đường đi, cầu, hồ, các tượng đài Tri giác của trẻ cần gắn liền với các từ ngữ (cô đã chuẩn bị đã chuẩn bị trước) Tuy nhiên, cô cũng không hạn chế các từ ngữ do trẻ tự sử dụng. + Cô chú ý cho trẻ quan sát kỹ và được nói nhiều, các từ ngữ mới nêu được nhắc đi nhắc lại, kết hợp với tri giác với các sự vật hiện tượng. + Cần lưu ý cung cấp cả những từ thể hiện tính chất của sự vật: vải mềm, cứng; da dày, mỏng * Củng cố kiến thức: Bằng các bài thơ, câu đố, bài hát. Cần củng cố các kiến thức học được ở các tiết học sau. b. Cho trẻ xem tranh Trẻ nhỏ rất thích xem tranh, những tranh đẹp vừa có nội dung vừa phát triển vốn từ vừa có tác dụng giáo dục thẩm mỹ nghệ thuật cho trẻ. Khi miêu tả bức tranh, trẻ tiếp thu những từ mới, đồng thời huy động cả vốn từ cũ nữa. Khi xem tranh trẻ thường chú ý một cách tản mạn, trẻ chỉ tập trung vào những gì thích thú nhất. Nhiệm vụ của cô giáo hướng dẫn sự quan sát của trẻ đi theo trình tự. Đầu tiên nhìn toàn bộ bức tranh để hiểu bức tranh vẽ gì, sau đó mới quan sát từng chi tiết. Để làm được vậy cô giáo cần phải hiểu nội dung bức tranh. Có thể dùng các câu hỏi sau : + Chúng mình đặt tên cho bức tranh này là gì? + Bức tranh vẽ ai, cái gì? + Cháu hãy kể một câu chuyện về bức tranh. c. Sử dụng đồ chơi để phát triển vốn từ Đồ chơi là vật dụng gần gũi đối với trẻ. Sử dụng đồ chơi để phát triển vốn từ cũng rất thuận lợi. Vì vậy phải lựa chọn đồ chơi phù hợp với lứa tuổi. ở lớp bé đồ chơi cần đơn giản, một khối.Trẻ có thể sử dụng các đồ chơi lắp ghép nhiều bộ phận đơn giản. 61
  9. Có thể sử dụng nhiều đồ chơi khác nhau một lúc. Ban đầu chúng được dấu kín ở trong túi, sau được đưa ra lần lựơt cho trẻ xem, sử dụng, trao đổi về nó. Trẻ phải gọi tên chính xác đồ chơi, màu sắc và các bộ phận của nó. 2. Nhóm phương pháp dùng lời a. Nói chuyện với trẻ Đây là phương pháp chính hướng dẫn trẻ làm quen với thế giới xung quanh. Các câu hỏi có tác dụng hướng sự chú ý của trẻ tới đối tượng cần nhận thức, dạy trẻ biết quan sát đối tượng một cách tổng thể cũng như quan sát tỉ mỉ các đối tượng, các đặc điểm, tính chất, mối quan hệ của các sự vật, hiện tượng thiên nhiên. Các câu hỏi cũng đồng thời kích thích trẻ nói, gọi tên hoặc mô tả các đối tượng quan sát. Qua đó, vốn từ của trẻ ngày càng mở rộng hơn. Cần chú ý sao cho câu hỏi đa dạng buộc trẻ trả lời bằng các từ loại khác nhau: hỏi về tên gọi, đặc điểm, tính chất, công dụng, hoạt động Ví dụ: - Câu hỏi về tên gọi các loại quả, cây cối, con vật: cây gì đây? con gì đây? Quả gì? - Câu hỏi về công dụng của các đồ vật: Cái này dùng để làm gì? - Câu hỏi về tính chất, đặc điểm của các sự vật, hiện tượng: như thế nào? Khi trò chuyện, cô giáo có thể sử dụng nhiều phối hợp một số thủ thuật: nói mẫu, nhắc laị, giảng giải, khen ngợi. b. Biện pháp sử dụng lời kể của cô giáo: Lời kể của cô giáo dễ gây hứng thú cho trẻ khi cho trẻ quan sát và giúp trẻ tri giác toàn bộ đối tượng, thấy được mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng; điều này làm cho trẻ hiểu đầy đủ ý nghĩa của từ hơn. Lời kể của cô giáo còn tạo ra sự mẫu mực về ngôn ngữ để trẻ nói theo (giọng nói, ngữ điệu, điệu bộ). c. Cho trẻ kể chuyện là một biện pháp tích cực hoá vốn từ cho trẻ. Khi trẻ tự kể chuyện, trẻ sẽ gọi tên, kể ra các đặc điểm của sự vật hiện tượng trẻ quan sát được, nghe được. d. Biện pháp quan sát kết hợp với lời giải thích. Để giải thích cho trẻ hiểu nghĩa của từ trước hết cần lựa chọn từ có nghĩa cụ thể. Có như vậy thì thì việc sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp với lời giải thích mới có hiệu quả. Ví dụ: Trong bài thơ “Giữa vòng gió thơm” có thể lựa chọn một số từ có ý nghĩa cụ thể có thể giải thích: “Khép rủ” trong câu “Cánh màn khép rủ”. “Phe phẩy” trong câu “Phe phẩy quạt nan”. “Rung rinh” trong câu “Rung rinh góc màn”. Để giải thích được những từ này cô cần phải lựa chọn đồ dùng trực quan phù hợp với từ đó, kết hợp với lời giải thích. Lời giải giảng của cô cần phải ngắn gọn, cô đọng, dễ hiểu và hấp dẫn đối với trẻ. 62
  10. Ví dụ: Trong bài thơ: “ Giữa vòng gió thơm” Giải thích từ “ Khép rủ” trong “ Cánh màn khép rủ” cô cho trẻ quan sát một bức tranh vẽ một căn nhà nhỏ có một giường, có người nằm bên trong, màn thì vẫn buông xuống, hai cánh màn khép lại. Cô vừa chỉ lại vào bức tranh và dùng lời giải thích cho trẻ hiểu là bà bị ốm nằm trên giường, màn thì buông xuống, cánh màn khép lại, chỉ “khép rủ” tác giả muốn nói tới cảnh bà bị ốm, không gian ảm đảm và buồn bã. e. Biện pháp đối chiếu so sánh với những từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa. Đây là biện pháp nhằm giúp trẻ hiểu sâu nghĩa của từ hoặc làm nổi bật nghiã của từ. Khi lựa chọn cách giải thích này cô cần lựa chọn những từ trẻ đã biết phù hợp với khả năng nhận biết của trẻ. Nếu cô dùng những từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa mà trẻ chưa biết thì thì trẻ sẽ không hiểu được nghĩa của từ. Ví dụ: Để giải nghĩa của từ “chịu khó” thì chúng ta có thể dùng từ "chăm chỉ”. f. Biện pháp dùng lời để định nghĩa khái niệm, nêu lên những nét đặc trưng trong nghĩa của từ. Sử dụng biện pháp này là dưạ vào cách miêu tả ngôn ngữ như các từ điển học vẫn được sử dụng trong các từ điển để giải thích.Dùng định nghĩa để giải thích nghĩa của từ, giáo viên có thể cung cấp cho trẻ nghĩa của từ một cách tương đối đầy đủ, thấy được cấu trúc bên trong của từ. Ví dụ: Để giúp trẻ hiểu được từ “tiền tuyến” trong câu thơ “ Chú đi tiền tuyến nửa đêm chú về” thì giáo viên có thể dùng cách giải thích ngắn gọn nhất là: nơi có giặc f. Biện pháp đặt từ vào ngữ cảnh giao tiếp có thể giúp trẻ hiểu bằng cách đưa từ đó vào những ngữ cảnh cụ thể quen thuộc đối với trẻ. Ngữ cảnh đó có chứa các từ cần giải thích, hay là một tình huống giao tiếp cụ thể. Trẻ có thể dựa vào vốn từ đã có của mình, dựa vào những kết hợp ngôn ngữ, nhờ hoàn cảnh ngôn ngữ, nhờ những mối liên tưởng nhất định và cũng nhờ mối quan hệ với các từ khác trong câu mà trẻ hiểu nghĩa của từ. Giáo viên không giải thích lòng vòng hay dùng ngay văn cảnh để giải thích. Ví dụ: Hôm nay các con chơi có thích không? – Thích ạ. 3. Phương pháp trò chơi Ngôn ngữ và tư duy có quan hệ chặt chẽ với hoạt động của con người. Hoạt động chủ đạo là trẻ là hoạt động chơi.Vì vậy trò chơi là một phương pháp phát triển từ rất tốt cho trẻ. Trong khi chơi, trẻ tái tạo những biểu tượng mà trẻ đã tri giác được bằng cách hành động thực tiễn và bằng ngôn ngữ. Mỗi vật có tên riêng, mỗi hành động có một động từ riêng biểu thị. Giáo viên cần tổ chức cho trẻ có điều kiện tăng cường hoạt động ngôn ngữ. Để củng cố và tích cực hoá vốn từ cho trẻ ta thường dùng các loại trò chơi sau: 63
  11. a. Chơi gọi từ: trò chơi nhằm giúp trẻ tên gọi tên đồ vật, đồ chơi, hiện tượng. Qua đó củng cố một số danh từ cho trẻ. Trò chơi này thường sử dụng ở mẫu giáo bé. Ví dụ: - Con gì biết nhảy? - Con gì biết bay? - Con gì bắt chuột? b. Chơi miêu tả vật thể: Trò chơi yêu cầu trẻ miêu tả hình dáng, kích thước, màu sắc, tính chất Việc miêu tả thường gắn liền với việc sử dụng động từ, tính từ Trò chơi tuỳ mức độ có thể dùng cho 3 lứa tuổi. Ví dụ: * Trò chơi Cái túi kỳ diệu: cho từng trẻ thò tay vào túi lấy ra một vật, gọi tên và miêu tả vật đó (đặc điểm, công dụng) hoặc trò chơi chọn định ngữ cho vật thể. Cô nói: Quả bóng, trẻ sẽ nói tên màu sắc chất liệu hoặc công dụng: to, nhỏ, bay , thổi Hoặc trò chơi: Chọn vị ngữ cho vật thể. Cô nói: Con ngựa, trẻ nói: Kéo, chạy, hí, phi * Trò chơi so sánh sắc thái của từ: Cô nói: Nhà; trẻ sẽ nói: To, bé, rộng hẹp c. Trò chơi phân loại vật thể: có tác dụng củng cố từ có tính chất khái quát cao. Trò chơi này thường áp dụng cho trẻ mẫu giáo nhỡ và lớn. Ví dụ: Cô hỏi: Phương tiện giao thông gồm những loại nào? Trẻ trẻ lời: Ôtô, xe máy, xe đạp, máy bay d. Trò chơi so sánh sự vật hiện tượng: trò chơi này sẽ giúp trẻ hiểu sâu hơn nghĩa của từ, biết tìm ra những từ có ý nghĩa đối lập để sử dụng Ví dụ: Cô nói: to. Trẻ sẽ nói : nhỏ. Cô nói : lớn. Trẻ sẽ nói: bé đ. Trò chơi đố giải: cũng là một hình thức chơi bằng từ rất tốt, giúp trẻ củng cố và nhận thức vốn từ và sử dụng từ. Khi lựa chọn câu đố cô cần dựa vào khả năng hiểu biết của trẻ, hoặc phải chuẩn bị trước kiến thức cho trẻ. Ví dụ: - Trái gì vừa nhẳn vừa tròn Bé chuyền bé đá lon ton suốt ngày. (Quả bóng) - Cái gì đỏ ối Mọc ở phương đông Toả ánh nắng hong Lung linh sương sớm. (Mặt trời) e. Trò chơi đóng kịch: là một phương tiện tốt để phát triển vốn từ cho trẻ: phát triển và tích cực hoá vốn từ.Trong mỗi vai đóng trẻ phải thuộc lời thoại, biết được ngữ điệu, hành động của nhân vật. Qua đó trẻ sẽ hiểu sâu hơn nghĩa của từ và biết cách sử dụng chúng. V. CÁC HÌNH THỨC PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ 1. Đối với trẻ 0-3 tuổi 64
  12. a. Phát triển vốn từ thông qua tiết Nhận biết tập nói (độ tuổi nhà trẻ) * Tiết Nhận biết tập nói là tiết học nhằm hướng dẫn trẻ xem xét sự vật hiện tượng xung quanh gần gũi với trẻ, giúp trẻ nhận biết được sự vật với những đặc điểm, cấu tạo của sự vật, hành động với sự vật. Trên cơ sở đó cung cấp những từ ngữ tương ứng. * Yêu cầu của tiết Nhận biết tập nói: - Phải có trực quan - Mỗi biểu tượng được cung cấp ngay một từ tương ứng. Tiết học phải đựơc tiến hành từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ ngoài vào trong, từ gần đến xa, từ cụ thể đến trừu tượng. * Phương pháp hướng dẫn thực hiện tiết Nhận biết tập nói. Tiết này thực hiện ở tất cả các nhóm trẻ ở các độ tuổi nhà trẻ. ở mỗi độ tuổi có một nội dung và phương pháp hướng dẫn khác nhau. Tuy nhiên hiện nay ở trường mầm non chỉ có nhóm trẻ từ 12 tháng đến 36 tháng. - Nhóm trẻ từ 12- 18 tháng: Nhóm này tiếp tục cho trẻ tiếp tục phát triển khả năng hiểu lời nói, tăng vốn từ chủ động cho trẻ. Cho trẻ tiếp xúc với vật thật ( đồ chơi, tranh ảnh ), dạy trẻ nhận biết vật đó, tên gọi, đồng thời dạy trẻ nhận biết tên gọi và 2-3 đặc điểm, chi tiết của vật.Cô có thể cho trẻ được cầm vật cần dạy để trẻ quan sát , xem xét nhận biết hoạt động với nó. Sau đó cô hỏi trẻ: Con gì đây? Cái gì đây? Mắt (mồm, chân, tay ) đâu? Trong khi daỵ, nếu trẻ không chú ý, cô có thể sử dụng thủ pháp dấu vật để thu hút sự chú ý của trẻ.Thời gian dành cho hoạt động này 5- 7 phút. Khi dạy cô cần sử dụng những câu nói ngắn gọn, dễ hiểu - Nhóm trẻ từ 18 -24 tháng: ở nhóm này tiếp tục phát triển vốn từ cho trẻ, phát triển khả năng nói, dạy trẻ biết sử dụng từ trong một câu trọn vẹn (câu khoảng 4- 6 từ). Trong độ tuổi này cô có thể dạy cho trẻ theo 4 chủ đề: hoa, quả, con vật, đồ vật. Mỗi chủ đề làm quen với 4-5 đối tượng, trên một tiết học cho trẻ làm quen với một đối tượng, biết tên gọi, 4-5 chi tiết hoặc công dụng. Cô có thể cho trẻ được quan sát đối tượng, giới thiệu tên gọi, chi tiết, công dụng, hoạt động và đồng thời dạy nói cho trẻ. Thời gian dạy là 10- 12 phút, dạy trên nhóm trẻ 5-6 cháu. - Nhóm trẻ 24 - 36 tháng: Cô dạy cho trẻ theo từng chủ đề, mỗi chủ đề hai loại bài: Loại 1: Dạy trẻ từng vật riêng lẻ, dạy trẻ tên gọi của vật, các chi tiết của vật ( 4-5 đặc điểm, chi tiết, cấu tạo, công dụng ). Loại 2: Dạy trẻ ở mức độ khái quát theo thể loại Ví dụ: Các loại hoa, các loại quả, các phương tiện giao thông Trên tiết học có thể thực hiện trên 6-8 trẻ và thời gian là 12- 18 phút. * Cấu trúc tiết Nhận biết tập nói: - Chuyển từ hoạt động chơi sang hoạt động học 65
  13. - Cô giới thiệu vật cần dạy: cô giới thiệu ngắn gọn, hấp dẫn thông qua việc bắt chước tiếng kêu, dấu vật để trẻ tìm, đoán hoặc có thể trực tiếp cho trẻ cầm, nắm, ngửi vật hoặc chơi với vật. - Cô hướng dẫn trẻ nhận biết tập nói: đầu tiên cô giới thiệu tên gọi của vật bằng (nếu đồ vật mà trẻ quen thuộc thì, cô có thẻ hỏi trẻ: cái gì đây?), sau đó giới thiệu các chi tiết, đặc điểm của vật, rồi cô cho trẻ nhận biết và tập nói bằng các câu hỏi: + (Vật) đâu? (cô gọi tên vật). Ví dụ: Gà đâu? Ôtô đâu? + (Chi tiết) đâu? Ví dụ: Chân gà đâu? Bánh ôtô đâu? + Cháu hãy nói “ ”. cô dùng phương pháp bắt chước. Ví dụ: Cháu nói đi: “Ô tô” + Cái gì đây? + Màu gì đây? + Vật (kêu) chạy như thế nào? Ví dụ: Ôtô kêu như thế nào? Nếu trẻ không trả lời được, cô có thể cho mỗi trẻ cầm một vật để trẻ được hoạt động, được chơi với đồ vật đó. Cô kết hợp vừa cho trẻ chơi vừa hỏi trẻ. Cô cần động viên khen ngợi trẻ ngay trong quá trình dạy, phải phát huy tính cực của trẻ. - Củng cố: Cô nhắc lại tên gọi của vật, của các chi tiết, đặc điểm của vật. - Kết thúc tiết học của trẻ: Sau khi củng cố, cô khen trẻ, cô có thể khéo léo nhắc những trẻ chưa chú ý đi học. Nhất là đối với trẻ nhóm 24- 36 tháng, khi trẻ đã phần nào hiểu biết được yêu cầu với cô. b.Phát triển vốn từ trong giao tiếp Giờ chơi chiếm nhiều thời gian trong tất cả các hoạt động trong này của trẻ, vì thế trong gìơ chơi, cô giáo có rất nhiều điều kiện để phát triển vốn từ cho trẻ. Cô tăng cường trò chuyện với trẻ trong khi chơi, đồng thời dạy trẻ nói thông qua việc tiếp xúc với đồ chơi. 2. Với trẻ 3 - 6 tuổi a. Phát triển vốn từ thông qua giao tiếp tự do Trẻ 3 tuổi đang ở giai đoạn đầu tiên của các câu hỏi. Trẻ muốn biết tên gọi của tất cả những gì mà trẻ nhìn thấy. Sự tò mò của trẻ ở giai đoạn này trước hết mang tính chất ngôn ngữ học. Trẻ thích thú các từ cũng như thích thú bản chất của sự vật, hiện tượng được gọi bằng từ đó. Cô cần có kế hoạch đưa thêm các từ mới bằng cho trẻ chơi thêm các đồ chơi . Đối với trẻ 4-5 tuổi và 5- 6 tuổi trong giao tiếp tự do, cô có thể sử dụng câu đố để củng cố, tích cực hoá vốn từ cho trẻ, giúp trẻ hiểu rõ ý nghĩa của từ. 66
  14. c. Phát triển ngôn ngữ thông qua các tiết học - Tiết học “Làm quen với Môi trường xung quanh” cung cấp một số lượng lớn các từ. Để những tiết học này có hiệu quả cao trong việc phát triển vốn từ cho trẻ, cô cần phải thực hiện tốt những yêu cầu chung của tiết học. - Tiết “Làm quen với tác phẩm văn học” cung cấp cho trẻ những từ có hình ảnh. Trên những tiết học này cô cần chú ý giải thích những từ của tác giả. Nhưng phải giải thích, giảng giải rõ ràng,dễ hiểu, có thể dùng trực quan. Những từ tượng hình, có ý nghĩa khái quát cao. Cô cố gắng không nên giải thích. Trẻ có thể hiểu dần dần thông qua việc hiểu toàn bộ nội dung của tác phẩm, thông qua việc cảm nhận tác phẩm. VII. MỘT SỐ YÊU CẦU CẦN ĐẠT ĐƯỢC KHI PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ 1. Gọi tên Trẻ lứa tuổi nhà trẻ và mẫu giáo, biểu tượng về các sự vật hiện tượng đang được hình thành. Cho nên để phát triển vốn từ cho trẻ, giáo viên cần cho trẻ quan sát các sự vật hiện tượng xung quanh trẻ. Trong quá trình tri giác, người lớn giúp trẻ gọi tên các sự vật hiện tượng đó. Từ đó trẻ xác định được mối quan hệ giữa lời nói với những sự vật hiện tượng mà trẻ thấy. Trẻ học gắn từ ngữ với các hành động mà trẻ tiếp xúc hàng ngày. Đó là bước quan trọng trong việc hình thành cơ chế phức tạp để phát triển lời nói cho trẻ. Lúc đầu trẻ bắt chước các từ, mặc dù chưa hiểu nghĩa của từ, dần dần trẻ hiểu nghĩa của từ qua các sự vật hiện tượng. Hiểu và trả lời các câu hỏi: Con gì? cái gì? đâu? Đi đâu? Của ai? 2. Miêu tả Trong quá trình trẻ tri giác các sự vật hiện tượng, tuỳ theo khả năng nhận thức của trẻ theo từng lứa tuổi mà chúng ta cung cấp cho trẻ các từ chỉ đặc điểm, phẩm chất của sự vật hiện tượng để trẻ có thể miêu tả được đặc điểm sự vật hiện tượng đó. Ví dụ: Quả cam có hình tròn, da sần, ăn có vị chua Trong quá trình quan sát, cô không nói ngay tên gọi, đặc điểm của vật mà đặt những câu hỏi đơn giản, dễ hiểu, ngắn gọn chính xác để định hướng sự chú ý của trẻ và phát huy chủ động tích cực của trẻ. Nếu trẻ không trả lời được thì cô nói cho trẻ biết và đặt câu hỏi để trẻ trả lời lại. Trong khi luyện tập, cô nên đưa ra nhiều dạng câu hỏi khác nhau để trẻ miêu tả sự vật hiện tượng Để trẻ có thể miêu tả lại được tốt thì cô giáo cần chú ý lựa chọn các đồ vật, đồ chơi phù hợp, gần gũi có đặc điểm nổi bật, màu sắc đẹp, hấp dẫn đối với trẻ. Dần dần chúng ta cung cấp cho trẻ những từ trừu tượng, từ tượng thanh, tượng hình. Ví dụ: Gió thổi vù vù. Cái cốc thuỷ tinh trong suốt. 3. So sánh 67
  15. Với trẻ mẫu giáo nhỡ và lớn, cần cung cấp cho trẻ những từ so sánh để trẻ luyện kỹ năng so sánh các sự vật hiện tượng. Trẻ so sánh tốt thì tư duy mới phát triển được. Mức độ so sánh đơn giản là so sánh sự vật này với sự vật kia về kích thước, hình dạng, về màu sắc. Ví dụ: Con búp bê này to hơn con búp bê kia. Quả nhanh chua hơn quả cam. Dần dần dạy trẻ so sánh ví von trong các mối liên quan với các sự vật hiện tượng quen thuộc. Ví dụ: Mặt trời đỏ như lửa. Trăng đêm rằm tròn như quả bóng. Trăng khuyết trông giống con thuyền trôi. So sánh trong hệ thống cùng nghĩa ở mức độ khác nhau. Ví dụ: đo đỏ, đỏ thắm, đỏ rực chua chua, chua loét 4. Phân loại Phân loại vật thể cho trẻ mẫu giáo bé và tập trung nhiều vào mẫu giáo nhỡ và mẫu giáo lớn. Biết phân loại vật thể sẽ góp phần giúp trẻ phát triển vốn từ có ý nghĩa khái quát. Ví dụ: - Phân loại đồ dùng gia đình, có: + Phân loại đồ dùng theo công dụng: Bát, đĩa, thìa, đũa - Đồ dùng để ăn Quần áo , giày dép - Đồ dùng để mặc Ca, cốc, ly,chém, tách - Đồ dùng để uống. + Phân loại đồ dùng theo chất liệu: Giường, tủ, bàn, ghế - Đồ gỗ Bát, đĩa, chén - Đồ dùng bằng sứ Cốc, ly, chai, lọ dùng bằng thuỷ tinh. - Phân loại các phương tiện giao thông Tàu thuỷ, canô, xà lan, thuyền là phương tiện giao thông đường thuỷ Tàu hoả, xe đạp, xe máy, xích lô, ôtô, tac-xi, xe lam là phương tiện giao thông đường bộ. VIII. MỘT SỐ DẠNG BÀI TẬP THAM KHẢO CHO CÁC ĐỘ TUỔI 1. Trò chơi “Nói nhanh tên con vật” * Mục đích yêu cầu: Trẻ nhớ từ và phản ứng nhanh về ngôn ngữ. * Hướng dẫn: - Chơi tập thể cả lớp hoặc theo nhóm 5- 7 trẻ. 68
  16. - Cô và trẻ đứng thành vòng tròn. Cô đập nhẹ vào vai trẻ đứng bên phải cô, trẻ đó phải nói nhanh tên một con vật bất kỳ. Sau đó trẻ này lại đập tiếp vào vai của bạn đứng bên phải mình, trẻ đó nói tên một con vật khác. Trò chơi tiếp tục cho đến hết vòng. - Mỗi trẻ nói tên một con vật nhưng không được nói trùng tên con vật mà bạn trước đó đã nói. Trẻ nào không nói được tên con vật thì khi hết lượt chơi phải hát một bài. - Cô có thể đổi tên gọi con vật bằng tên gọi đồ vật, cây, hoa, quả 2. Trò chơi: Bạn thích gì? * Mục đích yêu cầu: - Làm phong phú vốn từ của trẻ - Trẻ nói được những câu đơn giản. * Chuẩn bị: - Hoạ báo, tranh ảnh về thức ăn, quần áo, động vật, đồ chơi - Mỗi nhóm 3-4 trẻ, 1cái kéo và lọ hồ dán. - Mỗi trẻ 1 tờ giấy khổ A4, phía trên có ghi tên cả trẻ. * Hướng dẫn: - Cô chia lớp thành các nhóm 3-4 trẻ. Cô phát hoạ báo, tranh ảnh, kéo, hồ dán, và giấy trắng cho trẻ. Trẻ xem hoạ báo (hoặc tranh ảnh) rồi cắt 3-4 ảnh mình thích và dán vào tờ giấy trắng. - Sau đó, trẻ nói về bộ sưu tập của mình. Ví dụ: “Cháu thích ăn những quả na, chuối, bưởi Cháu thích nhất ăn nhất quả na.” - Cô yêu cầu trẻ đổi các tranh cho nhau. Trẻ xem tranh và nói về sở thích của nhau: “Bạn Sơn thích ăn quả cam, quý, dứa ” rồi hỏi bạn: “Bạn Sơn thích ăn quả gì nhất?” Tóm lại: Phát triển vốn từ cho trẻ là nội dung quan trọng trong phát triển lời nói cho trẻ. Phát triển vốn từ được mở rộng dần dần từ những sự vật gần gũi nhất đến môi trường xung quanh mà trẻ được tiếp xúc. Việc phát triển vốn từ phải được tiến hành thường xuyên, mọi lúc và mọi nơi. Từ cung cấp cho trẻ luôn được gắn liền với ngữ cảnh để giúp trẻ hiểu được nghĩa của từ và cách sử dụng nó trong hoàn cảnh cụ thể một cách chính xác. Phương pháp để phát triển vốn từ cho trẻ là trực quan kết hợp với dùng lời, giảng giải, trò chơi học tập để dạy trẻ bắt đầu gọi tên sự vật hiện tượng đến miêu tả đặc điểm và cuối cùng biết dùng từ khái quát để phân loại các sự vật hiện tượng đó. CÂU HỎI TỰ HỌC 1. Trình bày đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ mầm non. 69
  17. 2. Phân tích các nhiệm vụ phát triển vốn từ cho trẻ mầm non. 3. Trình bày hệ thống các phương pháp phát triển vốn từ cho trẻ mầm non. 4. Chỉ ra các hình thức giáo dục nhằm phát triển vốn từ cho trẻ mầm non. HƯỚNG DẪN TỰ HỌC 1. Trình bày có ví dụ minh hoạ về đặc điểm vốn từ của trẻ: - Số lượng vốn từ trẻ nắm được ở các độ tuổi. - Khả năng hiểu nghĩa của từ và tỷ lệ sử dụng từ loại của trẻ theo độ tuổi. - Khả năng sử dụng vốn từ một cách chủ động, tích cực trong quá trình giao tiếp. 2. Phân tích được vai trò, nội dung các nhiệm vụ phát triển vốn từ cho trẻ: - Làm giàu vốn từ cho trẻ thông qua quá trình tổ chức cho trẻ tìm hiểu thế giới xung quanh một cách có chủ định. - Củng cố, chính xác hoá vốn từ cho trẻ là giúp trẻ nắm được nghĩa của từ, cách sử dụng từ trong giao tiếp. - Tích cực hoá vốn từ là tạo điều kiện, kích thích trẻ tích cực chủ động sử dụng vốn từ hiệu quả khi nói năng. 3. Nắm được hệ thống các phương pháp và cách thức sử dụng các phương pháp này trong quá trình tổ chức các hoạt động phát triển vốn từ cho trẻ: - Phương pháp trực quan (tranh ảnh, vật thật, đồ chơi). - Phương pháp dùng lời (trò chuyện, đàm thoại, giảng giải, kể chuyện ). - Phương pháp thực hành (trò chơi phát triển vốn từ). 4. Nắm và biết vận dụng phù hợp, có hiệu quả các hình thức phát triển vốn từ cho trẻ thông qua hoạt động giáo dục có chủ đích (Nhận biết tập nói, làm quen với thơ truyện, Khám phá khoa học ) và thông qua hoạt động ngoài giờ học (vui chơi, giải trí, lao động và các sinh hoạt khác) . 70
  18. CHƯƠNG V PHƯƠNG PHÁP DẠY TRẺ NÓI ĐÚNG NGỮ PHÁP I. KHÁI NIỆM Dạy trẻ nói đúng ngữ pháp là luyện cho trẻ lời nói đúng cấu trúc ngữ pháp tiếng Việt, giúp cho lời nói của trẻ có nội dung thông báo rõ ràng, dễ hiểu, lôgic. Việc dạy trẻ nói đúng ngữ pháp có liên quan mật thiết đến việc luyện phát âm và phát triển vốn từ. Trẻ phải phát âm đúng, biết nhiều từ, hiểu từ mới có thể nói đúng ngữ pháp và biểu cảm. Ngoài ra việc dạy trẻ cần tính đến đặc điểm phát triển ngôn ngữ và khả năng tư duy của trẻ. Bởi vì khả năng sắp xếp các sự kiện, lựa chọn từ ngữ, sắp xếp câu để diễn đạt một ý trọn vẹn một nội dung nào đó có liên quan đến đến sự nhận thức tư duy trừu tượng của trẻ. Do đó đặt ra yêu cầu cho trẻ theo lứa tuổi cần phải tuân theo nguyên tắc giáo dục chung, từ đơn giản đến phức tạp. Ví dụ: dạy trẻ mẫu giáo biết nói câu đơn giản, không nói câu thiếu thành phần. Dạy trẻ mẫu giáo lớn sử dụng thành thạo câu đơn, câu mở rộng và một số câu phức. II. ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP CỦA TRẺ TỪ 1- 6 TUỔI 1. Sự hình thành và phát triển các kiểu câu của trẻ xét theo cấu trúc ngữ pháp a. Giai đoạn từ 1-3 tuổi Từ sau 12 tháng, nhu cầu giao tiếp của trẻ với thế giới xung quanh ngày càng phát triển. Trẻ không chỉ dùng những âm bập bẹ mà đã bắt đầu nắm được một số từ. 15 tháng tuổi trẻ đã biết dùng những câu đầu tiên. Câu đầu tiên xuất hiện ở trẻ là câu 1 từ. Câu 1 từ là loại câu có đặc điểm, có cấu trúc đơn giản chỉ gồm 1 từ. Câu gắn một từ gắn liền với hoàn cảnh. Nhờ văn cảnh, cùng với ngữ điệu câu nói, nét mặt, cử chỉ của trẻ mà người nghe hiểu được điều mà trẻ muốn nói. Ví dụ: Đi. (Trẻ đòi đi chơi) Nước. (Trẻ muốn uống nước) Sau câu 1 từ là sự xuất hiện của câu cụm từ. Câu cụm từ là hình thức câu xuất hiện đầu tiên được tạo thành do sự liên kết các từ (trẻ có thể liên kết 2, 3, 4 từ thành câu cụm từ). Đặc điểm của câu cụm từ là chưa phân biệt được các thành phần câu. Ví dụ: Anh Thành; mẹ Hương Tiếp sau có cụm từ là sự xuất hiện của các loại câu đơn hai thành phần chính. Đó là thành phần chủ ngữ và thành phần vị ngữ. Ví dụ: Hà ngủ. Lan khóc. 71
  19. Đến cuối 3 tuổi, các dạng câu đơn của trẻ phong phú hơn. Câu đơn của trẻ đã được mở rộng các thành phần khác: Bổ ngữ, định ngữ, trạng ngữ. Ví dụ: Cháu ăn kẹo. Cái áo của cháu màu xanh. Mai cháu đi đu quay. Để diễn tả được nội dung, những yêu cầu ngày càng phức tạp hơn, đến cuối 3 tuổi trẻ đã bắt đầu sử dụng các loại câu ghép. Loại câu trẻ sử dụng đầu tiên là câu ghép mô tả các sự vật hiện tượng. Ví dụ: Bác cho cháu ăn kẹo, anh Thành cho cháu ăn kẹo. Cùng với các loại câu ghép, trẻ đã dần biết sử dụng các câu ghép chính phụ chỉ mục đích, nguyên nhân, điều kiện. Ví dụ: Nếu cháu ngoan dì sẽ cho cháu đi xe máy. Cháu đánh anh Thành nên bố cháu đánh cháu. Qua điều tra vốn ngôn ngữ của trẻ, các nhà nghiên cứu đã rút ra nhận xét: Tỉ lệ nói câu đúng ngữ pháp, câu mở rộng thành phần, câu ghép tăng dần theo lứa tuổi. Các câu có cấu trúc đơn giản giảm dần. Điều này hoàn toàn phù hợp với nhận thức của trẻ. Trẻ càng lớn, sự hiểu biết của trẻ càng tăng, do vậy biểu hiện trao đổi càng nhiều. Từ đó dần đến sự thay đổi càng đa dạng trong cấu trúc câu nhằm thoả mãn nhu cầu giao tiếp của trẻ. Trẻ 13- 18 tháng câu 1 từ chiếm 50%; câu cụm từ chiếm 46,21% Trẻ 19-24 tháng tuổi câu cụm từ chiếm 42,21%; câu chủ ngữ - vị ngữ chiếm 24, 29%. Trẻ 25- 30 tháng tuổi câu chủ vị chiếm 29,42%; câu chủ ngữ - vị ngữ - bổ ngữ chiếm 24,84%. Trẻ 31- 36 tháng câu chủ -vị chiếm 19, 57%; câu chủ ngữ - vị ngữ - bổ ngữ chiếm 22,84%; câu ghép đẳng lập chiếm 25, 57%. Mặc dù đã có những tiến bộ lớn trong việc tiếp nhận và sử dụng các loại câu trong hệ thống câu tiếng Việt, song trẻ còn mắc một số lỗi khi tạo câu. Chẳng hạn: - Từ trong câu sắp xếp sai trật tự từ, như: Mẹ gắp cho con tôm hai con to. - Thiếu từ trong câu: Ông bà bánh. (Ông đưa bánh cho bà.) b. Giai đoạn từ 4- 6 tuổi So với trẻ 3 tuổi thì trẻ từ 4 - 6 tuổi rất ít khi sử dụng câu 1 từ mà thường sử dụng các loại câu: câu cụm từ, câu đơn đầy đủ hai thành phần (C-V), câu đơn mở rộng thành phần, câu ghép đẳng lập và câu ghép chính phụ. Xét về loại hình câu, số lượng không tăng nhưng thành phần trong từng loại câu có sự mở rộng và phát triển. Nếu trẻ 3 tuổi có câu đơn 2 thành phần như: áo đẹp; thì trẻ từ 4-6 tuổi đã nói câu có một nhóm từ (ngữ) làm chủ ngữ và vị ngữ. Ví dụ: Quả bóng này rất nảy. 72
  20. Thành phần trạng ngữ và bổ ngữ cũng được mở rộng. Ví dụ: Hôm nay ở lớp con thích ăn cơm với rau cải. Các loại câu phức mà trẻ sử dụng cũng được mở rộng. Trẻ biết cấu tạo các câu hoàn chỉnh để kể lại nội dung câu chuyện hoặc diễn tả sự hiểu biết, diễn tả điều mong muốn của cá nhân. Ví dụ: Cháu được bố mẹ cho đi chơi công viên. Cháu thích ngồi xem con hổ. Các câu phức chính phụ của trẻ cũng có đủ các quan hệ từ, ý của câu cũng được diễn đạt rõ ràng, mạch lạc hơn. Ví dụ: Bố đánh cháu vì cháu đánh anh Hùng. Tuy đã có bước tiến xa trong việc sử dụng các loại câu so với tuổi nhà trẻ nhưng trẻ mẫu giáo vẫn còn có hạn chế: từ dùng còn thiếu chính xác, khi thừa, khi thiếu, vị trí sắp xếp các từ của câu cũng chưa chính xác nên câu dài mà tối nghĩa. 2. Sự xuất hiện và phát triển các kiểu câu xét theo mục đích nói Xét theo mục đích nói, các câu nói của tiếng Việt chia ra 4 loại: câu tường thuật, câu nghi vấn, câu mệnh lệnh, câu cầu khiến, câu cảm thán. Trong các loại câu trên, câu tường thuật xuất hiện sớm nhất và có số lượng cao nhất ở các độ tuổi. Trẻ sử dụng loại câu này nhiều lần để diễn đạt các hoạt động của bản thân hoặc của những người xung quanh, để nêu các sự vật hiện tượng xung quanh mà trẻ được tiếp xúc. Câu tường thuật của trẻ ngày càng mở rộng nội dung phản ánh phát triển của từng độ tuổi. ở trẻ 3 tuổi câu tường thuật mơí dừng lại ở mức độ kể về các sự vật, đặc điểm của nó, về thời gian hành động, địa điểm, trạng thái. Ví dụ: Áo siêu nhân của cháu rất đẹp. Cháu đi nhà bà nội. Lúc nãy con được ăn kẹo ở lớp. Câu tường thuật của trẻ 4 -6 tuổi, nội dung phản ánh khả năng đánh giá về tính chất của hành động, sự vật, nhận ra dấu hiệu đặc trưng của đồ vật (Nước hoa thơm lắm), mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng trong thiên nhiên ( Ông ơi, có ông sấm trời mưa đấy.) Câu nghi vấn là loại câu tăng nhanh và khá phong phú về nội dung do nhu cầu tìm hiểu về thế giới xung quanh của trẻ rất cao. Trẻ dưới 3 tuổi thường sử dụng câu hỏi về tên gọi sự vật hiện tượng (cái gì đây, con gì đây), hỏi về hành động ( Bà làm gì đấy? Mẹ ăn gì đấy?), hỏi về nơi chốn ( Cô đi đâu?), hỏi về chủ thể hành động (Ai làm đổ nứơc ra bàn đây?). Trẻ từ 4- 6 tuổi còn thêm các loại câu hỏi về thời gian (Hôm nay về bà chơi mẹ nhỉ?), hỏi về số lượng (mấy tiền đây mẹ?), hỏi về nguyên nhân (Tại sao mẹ ốm?), hỏi về nguồn gốc (Cô ơi, nặn củ cà rốt như thế nào ạ?), hỏi về mối quan hệ họ hàng 73
  21. Các loại câu mệnh lệnh, cảm thán trẻ có sử dụng nhưng số lượng không nhiều và sự phát triển của nó không rõ rệt như các loại câu trên. 3. Một số hạn chế trong câu nói của trẻ Trong quá trình học nói trong việc tiếp và sử dụng đúng các từ các câu mà người lớn thường dùng, trẻ còn sử dụng một số từ, câu chưa đúng. Bởi vì việc tiếp thu ngôn ngữ của trẻ không chỉ là bắt chước lại, lặp lại những mô hình sẳn có mà nó phải trải qua quá trình biến đổi để trở thành vốn riêng của trẻ. Quá trình đó tạo nên những nét riêng trong ngôn ngữ của trẻ.Sau đây là một số lỗi sai trong câu nói của trẻ. a. Hạn chế về từ Về tính từ: đối với trẻ dưới 3 tuổi các tình từ chỉ màu sắc xuất hiện với số lượng ít và chưa chính xác.Ví dụ: với trẻ 28 tháng, tất cả các màu đều nói một màu nào đó, hoặc trẻ 33 tháng: màu trắng nói màu xanh, màu vàng nói màu đỏ Về danh từ chỉ thời gian cũng chưa chính xác. Ví dụ: để chỉ khoảng thời gian quá khứ dù đã xảy ra lâu hoặc chưa lâu các cháu cũng đều dùng từ: hôm qua, có cháu lại dùng hồi trước, hồi nhỏ Về phụ từ chỉ thời gian các từ chỉ thời gian xa gần trẻ vẫn chưa phân biệt được. Về số từ: tuy trẻ đã dùng các số từ một, hai, ba nhưng thực tế trẻ chưa biết chính xác về số lượng (đối với trẻ 3 tuổi). Từ 4 - 6 tuổi là thời kỳ trẻ trẻ tiếp thu các số lượng từ mới rất lớn. Vì vậy trong quá trình tiếp thu và sử dụng từ có một số trẻ nhớ nhưng không nắm được nghĩa của từ trong các hoàn cảnh giao tiếp nên sử dụng từ chưa đúng nghĩa với câu. Ví dụ: Khách đến nhà chơi, mình là chủ quán không phải chào. Lá cây gãy nhiều qua mẹ nhỉ. Con chán xếp hình rồi, mẹ có vui xếp không? b. Về câu Việc tiếp thu và sử dụng các loại câu của trẻ ở các lứa tuổi đều có những khó khăn. Do đó số lượng câu nói chưa đúng của trẻ cho đến 6 tuổi vẫn còn chiếm tới 24,44%. Các câu nói chưa đúng của trẻ bao gồm các loại: - Câu rút gọn thành phần: Rút gọn câu nói là hiện tượng phổ biến trong ngôn ngữ của trẻ ở tất cả các độ tuổi. Câu rút gọn của trẻ có thể là câu rút gọn một thành phần hoặc nhiều thành phần. Ví dụ: - Rút gọn vị ngữ: Anh Tân . xe của bố. (nghịch) - Rút gọn chủ ngữ: . lấy máy bay. (Anh) - Rút gọn bổ ngữ: Cháu cầm cho cô.(ô tô) 74
  22. Trẻ sử dụng câu rút gọn một phần là dựa vào văn cảnh cụ thể. Những gì mà trẻ và người đối thoại cùng nhìn thấy thì bị rút gọn đi. Dựa vào văn cảnh ta có thể khôi phục lại thành phần mà trẻ rút gọn. Ngoài ra trẻ sử dụng câu rút gọn sẽ làm hạn chế khả năng biểu đạt. Khi phản ánh mối quan hệ phụ thuộc giữa các sự vật, hành động chính còn các từ biểu thị mối quan hệ phụ thuộc giữa các sự vật của quan hệ đó thì không được biểu thị. Ví dụ: Vì sao con khóc? (Con rôm) Cô Lan đi chợ thịt cá. ( để mua) Em vẽ đồng hồ chú. (cho) Rút gọn câu nói là một hình thức làm cho câu trở nên đơn giản trong ngôn ngữ nói. Song câu rút gọn không có khả năng truyền cảm rộng rãi, nhất là đối với trẻ em trong quá trình học nói. - Câu sai trật tự từ: Trong ngôn ngữ tiếng Việt, trật tư từ có ý nghĩa ngữ pháp rất quan trọng, nó quy định các thành phần trong câu. Song một số trường hợp do vội vàng hoặc do nhận thức của trẻ không rõ ràng nên trẻ phản ánh bằng ngôn ngữ cũng rời rạc, lộn xộn. Ví dụ: Cất thìa mẹ đi Cài cô cúc đi. - Những câu nói có cấu trúc không mạch lạc: Ví dụ: Một hôm cô giáo bị ngã, cô buộc tóc rất xinh, đeo hoa tai, rất đẹp. Những câu nói không mạch lạc, sai trật tự từ thể hiện điều trẻ nhận thức được và muốn nói nhưng sắp xếp và lựa chọn từ chưa được, do đó câu nói của trẻ lộn xộn. Từ những câu nói chưa đúng của trẻ chúng ta thấy được những khó khăn mà trẻ gặp phải trong giai đoạn tiếp thu và sử dụng. Vì vậy chúng ta cần giúp trẻ nhận thức biết diễn đạt suy nghĩ của mình rõ ràng hơn, mạch lạc hơn, đúng hơn, hay hơn. III. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP DẠY TRẺ NÓI ĐÚNG NGỮ PHÁP 1.Nội dung Tìm hiểu quá trình xuất hiện và phát triển các loại câu ở trẻ trước tuổi đi học ở trường phổ thông ta thấy: ở mỗi độ tuổi thường có một loại câu đặc trưng, các loại câu và chất lượng của các loại câu được phát triển theo sự phát triển của trẻ qua các lứa tuổi. Trẻ càng lớn thì loại câu càng phong phú, nội dung, cấu trúc thành câu được mở rộng hơn. Tuy vậy ở các lứa tuổi việc nắm vững và sử dụng các phương tiện diễn đạt của trẻ vẫn còn những thiếu sót cần khắc phục. Do vậy, trong nội dung dạy trẻ nói đúng ngữ pháp, chúng ta cần quan tâm tới những vấn đề sau: a. Nội dung dạy trẻ nói đúng ngữ pháp 75
  23. - Dạy trẻ nói đúng cấu trúc ngữ pháp Luyện cho trẻ nói đúng theo các quy tắc ngữ pháp tiếng Việt, trẻ biết nói câu đầy đủ các thành phần chính như chủ ngữ, vị ngữ và các thành phần phụ trạng ngữ, bổ ngữ, định ngữ. Từ ngữ phải biết sắp xếp theo trật tự từ trong câu tiếng Việt. Từ đó giúp cho nội dung diễn đạt của trẻ đúng, rõ ràng, mạch lạc. - Dạy trẻ biết mở rộng thành phần câu để diễn đạt các nội dung càng ngày phong phú. Cụ thể : + Dưới 3 tuổi dạy cho trẻ biết sử dụng thành thạo các loại câu đơn, câu mở rộng thành phần và bước đầu sử dụng các loại câu ghép. + Ở trẻ 4- 6 tuổi dạy cho trẻ biết sử dụng thành thạo các câu đơn mở rộng thành phần, sử dụng đúng và ngày càng phong phú các kiểu câu ghép. b. Phương pháp, biện pháp dạy trẻ nói đúng ngữ pháp Việc tiếp thu vốn từ ở trẻ khác với việc tiếp thu và sử dụng vốn ngữ pháp. Khi học từ trẻ tiếp nhận ở phía người lớn từng đơn vị cụ thể (trẻ tiếp nhận ở người lớn từng từ). Khi học câu, trẻ không thể học hết tất cả các câu cụ thể, riêng lẻ rồi vận dụng vào trong trường hợp giao tiếp vì nội dung của những câu nói là vô cùng. Do vậy dạy nói cho trẻ nói đúng ngữ pháp là dạy trẻ nói đúng các mô hình câu, các thành phần câu cũng như vị trí của các thành phần câu, mà phải bằng cách cho trẻ thường xuyên được nghe, được nói theo các mô hình câu chuẩn để từ đó dần dần nắm được cách cấu tạo các loại câu của tiếng mẹ đẻ. - Xây dựng mẫu câu: Mẫu câu mà giáo viên cho trẻ tiếp nhận phải đạt được các yêu cầu: + Câu phải đầy đủ các thành phần chính (chủ ngữ- vị ngữ). + Từ ngữ trong câu phải chính xác, sắp xếp đúng trật tự của câu tiếng Việt. + Nội dung câu thông báo của câu phải đơn giản, rõ ràng. + Mẫu câu đưa ra phải từ những mẫu đơn giản đến những mẫu câu phức tạp (chú ý đến yêu cầu của độ tuổi). Ví dụ: Mẫu câu có cấu trúc C – V: Gà gáy. Cờ bay. Mẫu câu có cấu trúc C-V- B: Cháu ăn kem. Cháu ăn phở. Muốn giúp trẻ làm quen với các mô hình câu, giáo viên phải thường xuyên cho trẻ tập nói theo mẫu của mình. - Tập nói theo mẫu Để hình thành các mẫu câu, giáo viên đặt cá câu hỏi. Mô hình câu hỏi sẽ ứng mô hình câu cần dạy trẻ (câu hỏi của cô là sự định hướng về nội dung và định hướng về mẫu câu). Sau khi đặt câu hỏi, cô giáo trả lời hoặc một vài câu rồi giảng giải trẻ tập nói. Ví dụ: Dạy trẻ mô hình câu C -V, cô giáo có thể đặt câu hỏi: 76
  24. Lá cờ màu gì? Lá cờ màu đỏ. Cái ca màu đỏ. Dạy mô hình câu C-V nên cô giáo phải đặt câu hỏi: Vì sao bạn Hà được cô khen? Vì bạn Hà ngoan nên cô giáo khen. Điều quan trọng của việc dạy trẻ nói theo mẫu câu là giáo viên cần lặp đi, lặp lại một cách có ý thức những mô hình câu. Trẻ nghe và hiểu nhiều lần sẽ bắt chước, ghi nhớ và khi cần giao tiếp trẻ sẽ vận dụng một cách tự nhiên. Việc dạy trẻ các mô hình câu cho trẻ trước tuổi đến trường phổ thông sẽ có hiệu quả cao hơn nếu người giáo viên biết tạo sự hứng thú, tự nhiên trong quá trình học nói của trẻ bằng các biện pháp: - Thường xuyên trò chuyện với trẻ các sinh hoạt hàng ngày theo các mô hình câu. - Quan sát- đàm thoại theo các chủ đề. - Cho trẻ xem tranh, mô hình, đồ dùng, đồ chơi rồi gợi ý cho trẻ trả lời theo các kiểu câu. - Dạy trẻ kể chuyện. Lưu ý: Khi dạy trẻ làm quen với các mô hình câu ghép, cô giáo cần giảng giải để trẻ hiểu được mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng trong thế giới xung quanh để trẻ liên kết các sự vật hiện tượng đó trong câu. Ví dụ: Để tạo thành câu ghép “Vì bạn Nga cho cháu mượn đồ chơi nên cô khen bạn ấy”, giáo viên cần giảng giải để trẻ hiểu: Bạn Nga rất ngoan, bạn Nga đã biết nhường đồ chơi cho bạn khi bạn mượn chơi. Những người biết nhường bạn, giúp bạn đều là người ngoan và đều đáng được khen. Cô giáo đặt ra câu hỏi gợi ý: Ai cho cháu mượn đồ chơi? Vì sao bạn nghe được khen? Sau đó hướng dẫn trẻ trả lời thành câu ghép. - Sửa lỗi: + Sửa lỗi dùng từ sai Trong quá trình dùng từ để cấu tạo câu, trẻ thường mắc phải lỗi dùng từ thiếu chính xác, trật tự từ trong câu sắp xếp không đúng với trật tự từ trong câu tiếng Việt. Để giúp trẻ sửa chữa những lỗi này, cô giáo cần giảng giải lại để trẻ hiểu đúng nghĩa của từ cần dùng. Phân tích để trẻ hiểu đúng nghĩa của từ cần dùng. Phân tích để trẻ hiểu được giữa các hành động, sự việc, trên cơ sở đó giúp trẻ biết cách xếp thứ tự các từ để diễn đạt nội dung mình muốn thông báo. Giáo viên nói mẫu câu đúng và yêu cầu trẻ nói lại. + Sửa câu nói thiếu thành phần chính chủ ngữ- vị ngữ 77
  25. Khi trẻ nói câu thiếu thành phần chủ ngữ hoặc vị ngữ, giáo viên đặt ra câu hỏi về thành phần thiếu, sai sau khi trẻ trả lời giáo viên giúp trẻ nói câu đủ thành phần. Ví dụ: Trẻ nói: Uống nước. Cô hỏi: Ai uống nước? Trẻ trả lời: Cháu uống nước. Biện pháp sửa sai nên sử dụng ở tuổi nhà trẻ và đầu tuổi mẫu giáo, giáo viên nên nói mẫu câu đúng rồi yêu cầu trẻ nói lại. CÂU HỎI TỰ HỌC 1. Phân tích đặc điểm về khả năng sử dụng câu của trẻ mầm non. 2. Trình bày các nội dung dạy trẻ nói đúng ngữ pháp. 3. Trình bày các phương pháp, biện pháp dạy trẻ nói đúng ngữ pháp. HƯỚNG DẪN TỰ HỌC 1. Cần nắm vững đặc điểm lời nói của trẻ về mặt ngữ pháp ở mỗi độ tuổi, từ đó giúp xác định các nội dung rèn luyện kỹ năng diễn đạt câu cho trẻ: - Khả năng sử dụng câu xét theo cấu tạo. - Khả năng sử dụng câu xét theo mục đích phát ngôn. 2. Nắm được các nội dung dạy trẻ nói đúng ngữ pháp là: - Dạy trẻ nói câu đầy đủ các thành phần chính (chủ ngữ và vị ngữ). - Dạy trẻ nói câu đúng trật từ sắp xếp các từ. - Dạy trẻ nói câu có mở rộng thành phần phụ. 3. Nắm và biết vận dụng các phương pháp, biện pháp để thiết kế hoạt động nhằm luyện trẻ nói câu đúng: - Phương pháp nói mẫu thông qua trò chuỵên, đàm thoại, kể chuyện. - Phương pháp cho trẻ thực hành nói theo mẫu. - Phương pháp sửa lỗi sai về câu cho trẻ. 78
  26. CHƯƠNG VI PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ MẠCH LẠC CHO TRẺ I. KHÁI NIỆM NGÔN NGỮ MẠCH LẠC VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ MẠCH LẠC 1. Ngôn ngữ mạch lạc Ngôn ngữ mạch lạc không phải là phép cộng đơn thuần của những câu, những từ mà đó là những suy nghĩ có liên quan đến nhau về một chủ đề nhất định được diễn đạt bởi từ ngữ chính xác, có hình ảnh, trong những câu được xây dựng theo quy luật ngữ pháp, có liên kết với nhau. 2. Phương pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc Phương pháp pháp triển ngôn ngữ mạch lạc là luyện cho trẻ lời nói có nội dung thông báo rõ ràng, đầy đủ, lôgíc, có hình ảnh. Khi nói trẻ diễn đạt rõ ràng, không ê a ấp úng, ngắt nghĩ giọng đúng chỗ, giọng nói có sắc thái biểu cảm. II. HAI KIỂU NGÔN NGỮ MẠCH LẠC 1. Ngôn ngữ hội thoại Ngôn ngữ hội thoại là ngôn ngữ của hai hay nhiều chủ thể nói năng. Ngôn ngữ hội thoại rất đơn giản cả về mặt ngôn ngữ và mặt tâm lý.Trong ngôn ngữ hội thoại các nhân vật hội thoại sử dụng các câu có cấu trúc ngữ pháp đơn giản, tỉnh lược các thành phần, có thể chỉ là một từ hay một mệnh đề. Vì ngôn ngữ hội thoại được sự ủng hộ của đối tượng giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp nên nó không phức tạp về mặt tâm lý. Trong ngôn ngữ hội thoại các phương tiện biểu cảm phi ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng. 2. Ngôn ngữ độc thoại Ngôn ngữ độc thoại là câu chuyện của một chủ thể nói năng trước một hoặc nhiều đối tượng giao tiếp. Hình thức ngôn ngữ này rất phức tạp về mặt tâm lý và ngôn ngữ. Trong ngôn ngữ độc thoại các từ ngữ phải được sử dụng ở mức độ chính xác rất cao. Các câu phải được xây dựng đúng theo cấu trúc ngữ pháp và theo quy luật diễn đạt như ngôn ngữ viết. Các từ nối phải được sử dụng một cách linh hoạt để câu chuyện được mạch lạc, trôi chảy. Ngôn ngữ độc thoại phức tạp về cả mặt tâm lý. Chủ thể nói năng phải chuẩn bị trước lời nói của mình một cách cẩn thận và phải có trí nhớ tốt, phải có ý thức kiểm tra lời nói của mình.Người nói phải có tính tự tin để trình bày thuyết phục người nghe. Các phương tiện biểu cảm phi ngôn ngữ trong ngôn ngữ độc thoại cũng đóng vai trò quan trọng. 3. Nguyên nhân hình thành ngôn ngữ độc thoại- một hình thức ngôn ngữ phức tạp của trẻ. a. Nguyên nhân bên ngoài (nguyên nhân xã hội) Phạm vi giao tiếp của trẻ ngày càng được mở rộng đáng kể vượt ra ngoài phạm vi giao tiếp trong gia đình, trẻ được vui chơi ở trường mầm non, được tham 79
  27. gia vào các hoạt động xã hội, được tri giác sự vật hiện tượng xung quanh. Trẻ được làm quen với cuộc sống xã hội, được tri giác sự vật hiện tượng xung quanh, được nghe các câu chuyện do người lớn kể. Từ nhu cầu giao tiếp đơn giản dần dần phức tạp hơn. Chính nhu cầu giao tiếp đó là nguyên nhân làm xuất hiện ngôn ngữ bậc cao. Chẳng hạn: cuộc sống phát triển trong nhóm trẻ làm nảy sinh nhu cầu cần thiết phải bàn luận để thống nhất ý kiến chung trong hoạt động, trong quá trình chơi - học Trên cơ sở này ngôn ngữ hội thoại tiếp tục phát triển, làm xuất hiện những hình thức mới như: chỉ dẫn, đánh giá, bàn luận Hay sự hình thành lối sống, các mối quan hệ với bạn bè với người lớn dẫn đến sự đa dạng hoá, chuyên biệt hoá các hình thức và chức năng ngôn ngữ nên ở trẻ xuất hiện những nhiệm vụ giao tiếp mới: trẻ muốn truyền đạt cho người lớn những ấn tượng, tâm trạng, suy nghĩ của mình. Như vậy ngôn ngữ độc thoại xuất hiện (trẻ kể về những kinh nghiệm, cái đã nhìn thấy .). b. Nguyên nhân bên trong (nguyên nhân tâm lý). Ngôn ngữ đầu tiên phản ánh nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh thông qua cơ quan cảm giác. Những ngôn ngữ này xuất hiện dưới hình thức là những từ đơn lẻ, tách biệt. Đến tuổi mẫu giáo nhỡ, đầu tuổi mẫu giáo lớn, tư duy trực quan hình tượng, tư duy lôgic được hình thành và phát triển với sự phát triển của các quá trình tâm lý bậc cao. Kết quả của những tiến bộ vượt bậc này là vốn tri thức ngày càng mở rộng về chiều rộng lẫn chiều sâu.Tức là trẻ vừa có tri thức về đặc điểm bên ngoài vừa có đặc điểm bên trong, bản chất, mối quan hệ của sự vật hiện tượng. Vốn hình thức ngôn ngữ này đòi hỏi một hình thức ngôn ngữ cao hơn, phức tạp hơn so với trước xuất hiện. Ngôn ngữ độc thoại xuất hiện. Như vậy ngôn ngữ độc thoại xuất hiện cùng với sự xuất hiện của tư duy lôgic cùng với sự xuất hiện trong hoạt động trí tuệ. Ngôn ngữ độc thoại là phương tiện nhận thức lý tính, là phương tiện tiến hành các hoạt động trí tuệ, là phương tiện tiến hành các hoạt động trí tuệ, là phương tiện phát triển các hình thức tư duy bậc cao và các quá trình tâm lý bậc cao: tưởng tượng, ghi nhớ, điều khiển, phân tích, so sánh, tổng hợp và khái quát hoá. III. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ MẠCH LẠC CỦA TRẺ 1. Trẻ từ 0-3 tuổi Đầu năm thứ nhất, trẻ chưa hiểu được ngôn ngữ của người lớn. Từ 2 tháng tuổi có thể cảm nhận được ngữ điệu giọng nói của người lớn khi nựng yêu. Đến 3 - 4 tháng tuổi, trẻ có thể đáp ứng lại người lớn nói chuyện bằng những âm a, ư và những cử động của chân tay, nét mặt. Cuối năm thứ nhất, trẻ có thể hiểu được những yêu cầu đơn giản của người lớn, hiểu được ngữ điệu giọng nói của người lớn. Giai đoạn này, trẻ bắt đầu có ngôn ngữ chủ động. Nhưng ngôn ngữ của trẻ rất đơn giản. Trẻ chỉ dùng từ có cấu tạo âm thanh đơn giản để trả lời câu hỏi đơn giản của người lớn hoặc biểu thị ý muốn của mình. Khi nói, trẻ sử dụng kết hợp cả cử chỉ, nét mặt. 80
  28. Sang năm thứ hai, trẻ hiểu được nhiều hơn và có thể làm theo một số chỉ dẫn đơn giản của người lớn. Đầu năm thứ hai trẻ vẫn sử dụng câu một từ là chủ yếu. Muốn hiểu trẻ người lớn phải dựa vào ngữ cảnh cụ thể. Trẻ có thể trả lời được một số câu hỏi đơn giản của người lớn. Cuối năm thứ hai, ngôn ngữ của trẻ phát triển hơn. Trẻ có thể sử dụng câu trọn vẹn để trả lời người lớn. Bắt đầu biết tham gia trò chuỵên với người lớn, với bạn những ở mức độ và nội dung đơn giản. Trẻ năm thứ ba, ngoài việc hiểu được ngôn ngữ của người lớn khi trò chuyện với mình, trả lời các câu hỏi của người lớn, trẻ có thể hiểu được những tác phẩm văn học có nội dung đơn giản, có thể kể lại theo trình tự hơn, người nghe dễ hiểu. 2. Trẻ từ 3 - 6 tuổi a. Trẻ từ 3 - 4 tuổi Trẻ hiểu và trả lời những câu hỏi của người lớn. Nhưng trẻ chỉ đàm thoại được những gì trẻ đang tri giác. Trẻ bắt đầu biết trình bày sự hiểu biết của mình một cách có liên kết. Trẻ có thể hiểu được lời của người lớn khi đọc hay kể về điều phù hợp với nhận thức của trẻ. Những ngôn ngữ của trẻ còn mang nặng tính ngữ cảnh, trẻ còn nói năng láu táu, chưa rõ ràng, còn phải sử dụng đến nhiều cử chỉ, điệu bộ trong khi diễn đạt. b. Trẻ 4-5 tuổi Trẻ mẫu giáo nhỡ có vốn từ phong phú hơn trẻ mẫu giáo bé về số lượng cũng như từ loại. Trẻ sử dụng nhiều mẫu câu khác nhau. Tư duy của trẻ phát triển hơn, trẻ biết so sánh nhận ra đặc điểm giống và khác nhau của sự vật hiện tượng.ở trẻ bắt đầu khả năng tổng quát đưa ra kết luận. Những đặc điểm đó của tư duy ảnh hưởng rất lớn đến ngôn ngữ mạch lạc của trẻ. Ngôn ngữ của trẻ rõ ràng hơn, có nội dung hơn, người nghe dễ hiểu hơn. Trong ngôn ngữ độc thoại, trẻ thường dùng những câu, những đoạn ngắn. Trẻ thích được trò chuyện với người lớn. Trẻ không chỉ đàm thoại về những gì đang tri giác mà còn biết đàm thoại về về những nội dung mà trẻ đã biết và đưa ra nhận xét của bản thân. Mặc dù không phải lúc nào trẻ cũng đưa ra những nhận xét đúng. Trẻ có thể kể lại những câu chuyện mà trẻ biết hoặc đã được nghe kẻ, có thể kể theo tranh hoặc đồ vật, đồ chơi. c. Trẻ từ 5 -6 tuổi. Ở mẫu giáo lớn, trẻ tích cực trò chuyện với người lớn, với bạn bè. Trẻ có thể đàm thoại về những gì mà trẻ biết hay đã được nghe. Trẻ có thể tranh luận, đưa ra ý kiến của bản thân. Tư duy của trẻ phát triển hơn, trẻ có thể nhận biết được những đặc điểm đặc trưng, có thể đưa ra phân tích đầy đủ về sự vật, hiện tượng. Bằng ngôn ngữ trẻ có thể diễn đạt rõ ràng, mạch lạc ý nghĩa, sự hiểu biết của mình. Trẻ biết xây dựng câu chuyện tương đối liên tục, rõ ràng, phong phú 81
  29. theo đề tài sẵn có hoặc theo tranh, đồ vật, đồ chơi. Nhưng trẻ vẫn cần có mẫu câu của cô giáo. IV. NHIỆM VỤ, NỘI DUNG PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ MẠCH LẠC CHO TRẺ 1. Nhiệm vụ: a. Trẻ từ 0 - 3 tuổi - Hình thành kỹ năng nghe, hiểu lời nói của người lớn, thực hiện những yêu cầu đơn giản của người lớn. - Dạy trẻ biết trả lời những câu hỏi đơn giản về những sự vật hiện tượng xung quanh trẻ. - Dạy trẻ hiểu nội dung những câu chuyện đơn giản, biết trả lời những câu hỏi cô đặt ra theo nội dung câu chuyện. b. Trẻ từ 3- 6 tuổi * Trẻ từ 3 - 4 tuổi - Tiếp tục hình thành kỹ năng nghe hiểu lời nói của người khác trong khi giao tiếp, biết trả lời câu hỏi của người lớn. - Dạy trẻ biết chào hỏi, trò chuyện với những người xung quanh, khi nói kèm theo cử chỉ, điệu bộ, nét mặt phù hợp với nội dung diễn đạt. - Bước đầu dạy trẻ biết kể chuyện có sự gợi ý của cô. * Trẻ từ 4 -5 tuổi - Tiếp tục dạy trẻ biết nghe hiểu và trả lời câu hỏi của người lớn, biết trò chuyện với những người xung quanh. - Dạy trẻ biết kể chuyện theo tranh, đồ vật, đồ chơi theo mẫu của cô. Kể có trình tự, diễn cảm. * Trẻ từ 5- 6 tuổi - Tiếp tục dạy trẻ biết nghe, hiểu ngôn ngữ của người lớn, biết trò chuyện đàm thoại, biết diễn đạt theo nguyện vọng và sự hiểu biết của mình. - Dạy trẻ biết kể chuyện theo tranh, đồ chơi, đồ vật, kể chuyện sáng tạo. Kể có trình tự, diễn cảm, rõ ràng, mạch lạc, không lắp, không ngọng. 2. Nội dung Căn cứ vào các nhiêm vụ phát triển vốn từ cho trẻ cần giúp trẻ thực hiện các yêu cầu sau: a. Lựa chọn nội dung nói - Lựa chọn nội dung cần nói: giúp cho lời nói của trẻ có nội dung thông báo ngắn gọn, rõ ràng. Xác định sự việc chính trong nhiều sự việc, xác định những đặc điểm cơ bản, nổi bật trong những đặc điểm của con vật, của cây, bức tranh , xác định cốt truyện cơ bản cuả tác phẩm văn học. - Sắp xếp nội dung đã lựa chọn giúp cho lời nói của trẻ được rõ ràng, đầy đủ, logic Ví dụ: Nếu kể chuyện hay sự kiện thì có mở đầu, diễn biến, kết thúc. 82
  30. Trẻ mẫu giáo chưa hoàn toàn có khả năng lựa chọn nội dung diễn đạt, vì vậy cần hướng dẫn và giúp đỡ trẻ. b. Lựa chọn từ ngữ Sau khi đã lựa chọn nội dung, trẻ cần lựa chọn từ ngữ để diễn đạt chính xác nội dung của mình cần thông báo.Việc lựa chọn từ ngữ giúp cho lời nói của trẻ rõ ràng và có sắc thái biểu cảm. Việc lựa chọn từ ngữ được đặt ra ở hai mức độ: + Mức độ 1: Chọn từ ngữ phù hợp Ví dụ: Lan chạy vội vàng. Hoa cà màu tím. + Mức độ 2: Chọn từ ngữ mang sắc thái tu từ Ví dụ: Lan chạy vội vội vàng vàng. Hoa cà tim tím. Mưa rơi nhè nhẹ Như bụi mây bay. Việc lựa chọn từ ngữ là một việc khó đối với trẻ mẫu giáo, cô giáo cần hướng dẫn, làm mẫu cho trẻ bắt chước, đặc biệt là lựa chọn từ có sắc thái tu từ. c. Sắp xếp cấu trúc lời nói Là sự liên kết các câu lại với nhau thành chuỗi lời nói nhằm diễn đạt trọn vẹn một ý, một nội dung nào đó giúp người nghe hiểu được. Đây là sự sắp xếp toàn bộ nội dung thông báo một cách lôgic, nội dung nào trước, nội dung nào sau. Để diễn đạt một ý, một nội dung nào đó thì việc sắp xếp cấu trúc lời nói có nội dung nào đó thì việc sắp xếp cấu trúc lời nói là đơn giản đối với trẻ. Nhưng nếu yêu cầu trẻ kể lại hay tự sáng tác, miêu tả những hiện tượng xảy ra trong đời sống thì trẻ gặp khó khăn, cần luyện tập dần cho trẻ. c. Ngừng nghỉ, ngắt giọng đúng khi nói: Ngừng nghỉ giọng đúng chỗ khi nói làm cho việc diễn đạt của trẻ rõ ràng, trẻ không bị không bị ê a, ậm ừ. Ngắt nghỉ, ngắt nghỉ còn giúp trẻ có điều kiện để nhớ tiếp nội dung, sự kiện tiếp theo. V. PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ MẠCH LẠC 1. Phương pháp phát triển ngôn ngữ hội thoại a. Trò chuyện Đó là hình thức nói miệng đơn giản nhất được sử dụng để trao đổi thông tin, tình cảm, ý nghĩa của người lớn với trẻ và giữa trẻ với người lớn trong sinh hoạt hàng ngày. Nói chuyện mang tính xúc cảm hoàn cảnh lớn. Người nói chuyện, ngoài ngôn ngữ còn sử dụng các phương tiện biểu cảm khác như: cử chỉ, nét mặt, giọng nói Ngôn ngữ nói chuyện thường đơn giản, thường là những câu đơn hoặc câu không trọn vẹn (câu chỉ có chủ ngữ hoặc vị ngữ). Trong giao tiếp tự do, trẻ tham gia giao tiếp với cô giáo, với các bạn. - Yêu cầu chung khi trò chuyện với trẻ: 83
  31. + Cô phải tổ chức trò chuyện thường xuyên ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoạt động, mọi hoàn cảnh cô phải chuẩn bị trước về mặt chủ đề trò chuyện, ghi ngắn gọn nội dung trò chuyện. + Trò chuyện phải dựa trên sự hiểu biết của trẻ. + Cô phải để cho trẻ tự do suy nghĩ, tự do nói. + Giọng nói, nét mặt của cô phải thu hút, phải coi trẻ như bạn. + Trong quá trình trò chuyện không nên làm trẻ mất hứng. Đối với trẻ nhà trẻ và mẫu giáo bé, trò chuyện phải được kết hợp với trực quan, hướng sự chú ý của trẻ vào đối tượng, sau đó gợi nhớ lại bằng những câu hỏi đơn giản.ở lứa tuổi này cần trò chuyện dựa trên hoạt động chính của trẻ hàng ngày. Đối với trẻ mẫu giáo nhỡ và lớn, cô hướng vào việc trò chuyện, tiếp xúc một cách tự nhiên. Cô nghe trẻ nói làm cho cuộc nói chuyện nhẹ nhàng, thoải mái bằng những câu hỏi gợi ý. Trò chuyện với trẻ có tác dụng rất lớn trong việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ, cho việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp, đồng thời có tác dụng mở rộng hiểu biết cho trẻ. b. Đàm thoại Đàm thoại là những cuộc nói chuyện có xu hướng và được chuẩn bị trước giữa giáo viên và trẻ theo một đề tài nhất định nhằm làm chính xác hoá cũng như hệ thống hoá tất cả những biểu tượng và kiến thức mà trẻ đã thu lượm được. - Ý nghĩa của đàm thoại + Đàm thoại ở trường mầm non giúp chính xác hoá những kiến thức, đào sâu và hệ thống hoá kiến thức cho trẻ. + Đàm thoại giúp phát triển các quá trình tư duy: đầu tiên là quan sát, sau đó là bàn bạc, thảo luận, suy luận, phân tích, tổng hợp và đánh giá vấn đề. + Đàm thoại giúp phát triển ngôn ngữ: phát triển vốn từ cho trẻ, đặc biệt là củng cố vốn từ và phát triển vốn từ tổng hợp khái quát, phát triển các kỹ năng ngôn ngữ mạch lạc, nói năng trôi chảy có sức thuyết phục. + Đàm thoại giúp trẻ có ý thức tập thể, trao đổi thống nhất ý kiến, giúp phát triển khả năng tổng hợp vấn đề và nhận biết quan điểm của người khác qua ngôn ngữ. - Yêu cầu của đàm thoại + Đàm thoại phải được chuẩn bị kỹ, đầy đủ về nội dung cũng như phương pháp. + Đàm thoại phải nhẹ nhàng thoải mái, không áp đạt trẻ, nội dung đàm thoại phải đầy đủ các ý nghĩa. + Trong đàm thoại không nhồi nhét kiến thức kiến, không đi lệch khỏi đề tài đàm thoại. + Không đặt quá nhiều câu hỏi vụn vặt. 84
  32. + Phải khuyến khích trẻ tư duy, nêu nhận xét, trình bày ý kiến của bản thân. - Cấu trúc của đàm thoại: 3 phần + Mở đầu đàm thoại có hướng sự chú ý của trẻ vào đề tài đàm thoại. Có nhiều cách, cô có thể dùng câu hỏi, câu đố, đọc thơ, cho trẻ xem tranh Việc hướng sự chú ý của trẻ vào đàm thoại phải thật hấp dẫn, lôi cuốn, thu hút trẻ, giọng nói của cô cần truyền cảm. + Phát triển đề tài đàm thoại là phần chính và là phần khó nhất. Trong phần này cô sử dụng câu hỏi là chính. Câu hỏi phải có tính hệ thống, lôgic, chính xác, rõ ràng. Câu hỏi phải kích thích được trẻ trình bày được sự hiểu biết, suy nghĩ của mình. Không nên đặt quá nhiều câu hỏi vụn vặt nhưng cũng không nên gộp nhiều câu hỏi lại với nhau. Một câu hỏi có thể hỏi nhiều trẻ. Trong quá trình đàm thoại, cô có thể sử dụng khi cần thiết với mục đích minh hoạ, gợi mở cho đàm thoại. Không nên quá lạm dụng việc sử dụng trực quan Làm như vậy sẽ giảm đi suy nghĩ và tư duy cho trẻ. Cô là người nên đưa đến kết luận cuối cùng về nội dung đàm thoại. + Phần kết thúc đàm thoại: cô nhận xét, động viên khuyến khích trẻ, nhắc những trẻ còn chưa tích cực trên hoạt động. - Các hình thức đàm thoại ở trường mầm non: + Đàm thoại mở đầu: được tiến hành trước một hoạt động tập thể nào đó như trước một buổi chơi, một buổi lao động tập thể, trước khi tham quan, trước một hoạt động sáng tạo Hình thức đàm thoại này thường mang tính ngắn gọn, mang tính biểu cảm nhằm gây hứng thú để tổ chức trẻ bắt đầu vào hoạt động sắp tới. Ví dụ: Đàm thoại trước khi đi tham quan lăng Bác Hồ. + Đàm thoại kết hợp với hoạt động quan sát: Hướng dẫn trẻ tri giác đối tượng một cách tổng hợp và toàn diện một cách có mục đích, tổ chức các hoạt động khảo sát và hoạt động nhận thức của trẻ. Ví dụ: Cho trẻ quan sát các loại quả cho trẻ nhìn, sờ, ngửi, nắm và đặt câu hỏi đàm thoại cùng với trẻ. + Đàm thoại tổng hợp, tổng kết một vấn đề: Nhằm trao đổi, bàn bạc thảo luận giữa cô và trẻ về một chủ đề nào đó theo một hệ thống câu hỏi – trả lời, có tác dụng tổng hợp, tổng kết một vấn đề. Hình thức đàm thoại này tương đối khó, giáo viên chỉ nên thực hiện ở cuối tuổi mẫu giáo. Chủ đề đàm thoại có tính tổng hợp cao. Ví dụ: Đàm thoại về Bác Hồ, về các ngày tết thiếu nhi, ngày 8- 3 - Những phương thức giáo dục được sử dụng trong quá trình tổ chức đàm thoại: 85
  33. + Phương thức chủ yếu trong đàm thoại là những câu hỏi. Đặc biệt quan trọng là những câu hỏi đòi hỏi trẻ phải bàn luận, phải tìm được mối liên hệ giữa các đối tượng và đưa ra những kết luận. + Trong đàm thoại có thể sử dụng kết hợp trực quan. Điều đó sẽ giúp trẻ chú ý hơn và chính xác hoá và củng cố biểu tượng cho trẻ. c. Trò chơi Luyện nói cho trẻ thông qua trò chơi bao gồm nhiều nội dung: - Chơi tự do: chơi tự do có nhiều cách để luyện nói cho trẻ + Trẻ tự do trong khi chơi. Đặc biệt trong trò chơi phân vai, khi chơi trẻ phải nói bằng ngôn ngữ nhân vật, phải trao đổi, do đó việc tập nói của trẻ được tự nhiên và hiệu quả hơn. + Cô có thể luyện nói cho trẻ nói đúng ngữ pháp, nói các mẫu câu bằng các trò chơi với lời nói. - Chơi đóng kịch Cô giáo cần tổ chức các trò chơi đóng kịch. Nội dung kịch, cô nên chuyển thể từ tác phẩm văn học mà trẻ đã được làm quen. Việc tổ chức cho trẻ đóng kịch là một phương pháp tốt giúp trẻ phát triển ngôn ngữ đàm thoại và nói đúng ngữ pháp. Trẻ làm quen với các mẫu câu văn học đã được gọt giũa, chọn lọc, cách sử dụng từ tinh tế. Trẻ phải học nói diễn cảm theo đúng ngữ điệu của nhân vật mà trẻ đóng, giúp cho ngôn ngữ của trẻ có sắc thái biểu cảm rõ rệt. 2. Phương pháp phát triển ngôn ngữ độc thoại Ngôn ngữ độc thoại bắt đầu dạy một cách có hệ thống từ mẫu giáo nhỡ. Nhưng sự chuẩn bị cho việc đó bắt đầu ngay từ tuổi nhà trẻ (trẻ cuối năm thứ hai) khi cô đọc kể cho trẻ nghe. Cái khó của ngôn ngữ độc thoại đối với trẻ là đòi hỏi ở trẻ cùng một lúc phải chú ý đến sự kiện có ý nghĩa với chúng, mặt khác trẻ phải biết ghi nhớ sự vật hiện tượng, mối quan hệ giữa chúng.Điều đó kích thích trí nhớ làm việc. Chính hoạt động của trí não là phương tiện để phát triển ngôn ngữ độc thoại. Trước khi cho trẻ kể lại một nội dung nào đó, cô giáo cần cho trẻ nắm vững được nội dung đó. Trong khi trẻ kể, cô giáo có thể sử dụng nhiều câu hỏi, gợi mở, nếu như trẻ quen. Để phát triển ngôn ngữ độc thoại cho trẻ mẫu giáo, cô sử dụng phương pháp kể chuyện theo tri giác, kể lại tác phẩm văn học a. Dạy trẻ ngôn ngữ độc thoại trong giao tiếp tự do Trong giao tiếp tự do, cô có thể dạy trẻ kể lại thông báo của cô. Đề tài thông báo rất đa dạng, phong phú: có thể là những sự kiện rất khác nhau cô gặp trên đường về làm về, có thể miêu tả một con vật, một bông hoa, một cành cây Cô cần sắp xếp nội dung thông báo có trình tự, lôgic, súc tích trước khi kể cho trẻ. Trong lời nói mẫu của cô cô chỉ sử dụng kiến thức vốn từ, các mẫu câu quen thuộc để trẻ nghe và dễ hiểu. Bằng giọng nói tin tưởng gần gũi như kể chuyện với bạn hay ngược lại, bằng giọng hài hước, vui vẻ trẻ có thể kể lại cho 86
  34. trẻ nghe. Như vậy, cô sẽ gây ấn tượng mạnh mẽ đối với trẻ. Trẻ sẽ rất thoải mái khi trẻ kể cho người khác nghe. Cô có thể đề nghị cho trẻ kể lại những gì trẻ đã gặp. Trong khi trẻ kể, cô chú ý gợi mở, bổ sung những từ trẻ không nhớ, thay những từ hay hơn, cô cùng các trẻ khác phải làm chăm chú nghe lời kể của trẻ. Cô đề nghị cha mẹ lắng nghe con mình kể lại những gì trẻ gặp ở trên con đường, trẻ được học, chơi ở trong trường. Gợi cho trẻ hứng thú kể lại chuyện. b. Phát triển ngôn ngữ độc thoại trên tiết học + Kể lại tác phẩm văn học + Kể chuyện theo tranh + Kể về đồ chơi, đồ vật + Kể theo trí nhớ + Kể chuyện sáng tạo. * Các phương thức dạy trẻ kể chuyện: - Kể chuyện mẫu: Là phương thức học tập, trước hết là để cho trẻ bắt chước. Cũng như bất kỳ một câu chuyện kể nào, chuyện mẫu phải có nội dung giáo dục, gợi ý trẻ mô tả trong truyện của mình những hành động về tình đoàn kết Chuyện kể mẫu có thể không thể giải quyết toàn bộ vấn đề. Trẻ tự bổ sung nội dung mới, hoặc cô giáo cho những chỉ dẫn, câu hỏi bổ sung giúp trẻ đặt một câu chuyện. - Cấu tạo tập thể một câu chuyện Trẻ tự phân tích thứ tự dàn ý của câu chuyện của giáo viên, nghe những câu trả lời, phân tích những câu trả lời nào đạt. Giáo viên nhắc lại ý của trẻ nên xem câu chuyện bắt đầu như thế nào, sau đó chọn những cau trả lời cho những câu hỏi sau. Giáo viên liên kết từng câu vào hệ thống và thêm những câu cảm xúc của bản thân mình. Kết thúc cô hoặc trẻ nhắc lại câu chuyện. - Cấu tạo câu chuyện theo từng phần Phương thức này dễ làm cấu tạo câu chuyện. Giờ học trở nên hứng thú, chuyện kể đầy đủ và sâu sắc hơn. Giáo viên có thể hỏi được số trẻ nhiều hơn. Đưa ra một đề tài cho trẻ, giáo viên chia ra từng phần nhỏ. Sau đó mỗi phần nên lập một dàn ý. - Câu hỏi trong khi kể chuyện Câu hỏi trong việc dạy trẻ kể lại chuyện giữ vai trò quan trọng. Những câu hỏi nhằm gợi ý, dẫn dắt trẻ trong khi kể chuyện. - Đánh giá của giáo viên Sự đánh giá của giáo viên không chỉ có ảnh hưởng đến một trẻ, một câu chuyện mà còn có tác dụng với những câu chuyện sau và của trẻ khác. Không nhất thiết phải sử dụng phương thức đánh giá làm phương thức giáo dục trong mỗi chuyện kể, nhưng trong một số truyện kể nên chỉ chỗ nào có giá 87
  35. trị. Như vậy mới có thể đưa ra nhận xét cái gì mới, cái gì tốt trong nội dung câu chuyện, hình thức kể chuyện. Trên đây là một số phương thức dạy kể chuyện. Giáo viên cần phải biết nhiều biết nhiều phương thức khác nhau để dạy trẻ kể chuyện và tuỳ theo hoàn cảnh chọn những phương thức nào là chủ yếu. * Dạy trẻ kể lại chuyện - Các tác phẩm dùng để kể lại: + Câu chuyện không nên quá dài, cần phải chú ý đến đặc điểm về trí nhớ và sự chú ý của trẻ. Các câu chuyện phải phù hợp về nội dung, phát triển ở trẻ những đặc tính cần thiết của nhân cách. + Chủ đề của câu chuyện cần phải rõ ràng, các sự kiện cần diễn ra với một trình tự nhất định. Từ ngữ cần phải dễ hiểu, chính xác, các cấu trúc ngữ pháp không phức tạp, hành văn phải sáng sủa giàu hình ảnh. Sau khi nghe, trẻ có thể kể lại và thể hiện được thái độ tình cảm đối với các sự kiện trong truyện. - Yêu cầu đối với việc trẻ kể lại: + Hiểu đầy đủ câu chuyện. + Truyền đạt lại đầy đủ nội dung câu chuyện, có thể bỏ sót một vài khía cạnh, tình tiết nhưng không làm mất tính lôgic của các sự kiện trong truyện. + Các chi tiết phải được kể theo một trình tự nhất định. + Sử dụng các từ ngữ của tác giả, hoặc thay thế các từ ngữ của tác giả nhưng phải đạt. + Trẻ phải kể với một nhịp điệu liên tục, không ngắt quảng. + Trong lúc kể chuyện, trẻ phải thể hiện sự lịch thiệp: bình tĩnh, rõ ràng, hướng về phía người nghe. Những yêu cầu trên liên quan đến nhau không thể bỏ qua yêu cầu nào. - Phương pháp dạy trẻ kể lại chuyện: Kể lại chuyện không phải là ghi nhớ máy móc một tác phẩm văn học mà đó là sự tái tạo mang tính sáng tạo. Trong khi kể trẻ phải biết sử dụng ngôn ngữ tác giả một cách chính xác và vốn từ văn học nghệ thuật dần dần hình thành ở trẻ. Đây là nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ thông qua việc cho trẻ làm quen tác phẩm văn học. Dạy trẻ kể lại tác phẩm văn học được trình bày rất kỹ về nội dung cũng như phương pháp trong môn “Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học”. Cho nên phần này chỉ trình bày những nội dung còn lại. * Kể chuyện theo tranh. - Trẻ mẫu giáo chưa biết đọc những rất thích xem tranh vẽ. Tranh vẽ thể hiện thế giới xung quanh bằng các màu sắc một cách hình ảnh và có tính biểu tượng rất cao. Tranh vẽ là phương tiện, là dụng cụ trực quan phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ. Trong quá trình phát triển ngôn ngữ, qua sử dụng tranh, chúng ta đề ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: 88
  36. Dạy trẻ hiểu nội dung bức tranh: hiểu các nhân vật trong tranh, các hành động của nhân vật (cây cối, con vật) và các mối quan hệ của các hiện tượng trong tranh. Phát triển các vốn từ tương ứng thể hiện nội dung đã nói ở trên, phát triển vốn từ miêu tả (mở rộng vốn từ, tích cực hoá vốn từ, làm chính xác hoá vốn từ, đặc biệt là vốn từ đồng nghĩa). Giáo dục cho trẻ thái độ đúng đắn đối với nội dung bức tranh (màu sắc, cấu trúc của bức tranh). Giáo dục thẩm mỹ, hình thành năng lực cảm thụ và kỹ năng diễn đạt điều này bằng ngôn ngữ của mình. Phát triển ngôn ngữ mạch lạc: kể chuyện về bức tranh, kỹ năng xây dựng câu chuyện. - Các hình thức dạy trẻ kể chuyện theo tranh như sau: + Dạy trẻ xây dựng một câu chuyện có nội dung theo bộ tranh có nội dung trình tự. + Dạy trẻ lập truyện theo một tranh + Dạy trẻ lập câu chuyện theo tranh tự vẽ. - Các bước thực hiện dạy trẻ kể chuyện theo tranh: + Bước 1: Quan sát kết hợp với đàm thoại về nội dung bức tranh. + Bước 2: Cô kể mẫu + Bước 3: Cho trẻ kể + Bước 4: Cô nhận xét sửa sai cho trẻ. Tượng tự chúng ta có thể sử dụng vật thật, đồ chơi để dạy trẻ kể chuyện.Có thể thực hiện các bước như dạy trẻ kể chuyện theo tranh. * Dạy trẻ kể chuyện theo kinh nghiệm (Trí nhớ) - Ý nghĩa: Trí nhớ cũng như tri giác là quá trình phản ánh thực tế những trí nhớ phản ánh những gì tri giác được từ trước. Kể theo trí nhớ là rèn luyện trí nhớ có chủ định, trong đó có quá trình hình dung lại, nhớ lại. Trước khi bắt đầu hoạt động, giáo viên nên thu hút trẻ sự chú ý của trẻ vào đối tượng để sau này trẻ nhớ lại được chính xác. Khi đó trí nhớ của trẻ sẽ tốt hơn những gì đã tri giác được trước đó. Trong tâm lý ghi nhớ xúc cảm là loại tình xảm ghi nhớ mạnh nhất. Vì vậy cần chọn những chủ đề mà trẻ yêu thích nhất gây ấn tượng mạnh trong ý thức và tình cảm của trẻ. - Ở trường mầm non chúng ta dạy trẻ kể chuyện thao trí nhớ là dạy trẻ kể về những điều trẻ trải nghiệm trong cuộc sống của cá nhân trẻ hay của cả lớp. - Các bước dạy trẻ kể chuyện theo trí nhớ: 89
  37. + Bước 1: Đàm thoại với trẻ làm sống lại những biểu tượng, những kinh nghiệm mà trẻ đã trải nghiệm, tổ chức sắp xếp cấu trúc các sự kiện của câu chuyện (có thể sử dụng tranh minh hoạ). + Bước 2: Cô có thể kể mẫu. + Bước 3: Hướng dẫn trẻ tự kể. + Bước 4: Cô nhận xét sửa sai cho trẻ. Đây là hình thức kể chuyện kể đối với trẻ vì trẻ phải dưạ vào trí nhớ và phải tự sắp xếp trình tự câu chuyện. Câu chuyện mẫu của cô ở giai đoạn đầu là rất cần thiết. Dần dần chúng ta yêu cầu trẻ sáng tạo và tự kể ngày càng cao hơn phù hợp với sự phát triển của trẻ. * Dạy trẻ kể chuyện sáng tạo Dạy trẻ kể sáng tạo được tổ chức ở lớp mẫu giáo lớn. Trẻ tự do kể câu chuyện theo trí tưởng tượng của mình, có đầu, có cuối, đúng ngữ pháp và diễn cảm. Trước khi trẻ kể cô gợi ý đề tài, nội dung câu chuyện. Ví dụ: Mẹ bảo cháu mang quà biếu bà. Cháu quên lời mẹ dặn, bỏ đi chơi. Lúc về mẹ hỏi, cháu xin lỗi mẹvà hứa lần sau không như thế nữa. Sau khi gợi ý đề tài, nội dung, cô kể mẫu theo một đề tài. Sau đó tự trẻ sáng tác một câu chuyện theo đề tài cô gợi ý. Về cấu trúc câu chuyện thì theo truyện mẫu của cô. Cô giúp trẻ kể, gợi ý phải dùng những từ, những câu hay, chú ý sửa lỗi sai của trẻ. Kết thúc cô nhận xét. Kết luận Phát triển ngôn ngữ mạch lạc là mục đích cuối cùng của việc phát triển ngôn ngữ mạch cho trẻ như là phương tiện giao tiếp. Nó là sự tổng hoà toàn bộ nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ trước tuổi học, đồng thời nó tạo ra cơ sở cho việc chuẩn bị cho việc học tập ở trường phổ thông, đặc biệt là môn tiếng Việt. Việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ không chỉ được thực hiện trong giao tiếp tự do mà còn phải có những tiết học với mục đích phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ (giờ đàm thoại, dạy trẻ kẻ chuyện). Đó là tiết học khó, đòi hỏi cô giáo phải chuẩn bị cẩn thận và nắm vững phương pháp này. CÂU HỎI TỰ HỌC 1. Trình bày đặc điểm ngôn ngữ mạch lạc của trẻ mầm non. 2. Trình bày nội dung dạy trẻ ngôn ngữ mạch lạc. 3. Phương pháp phát triển ngôn ngữ đối thoại cho trẻ mầm non. 4. Trình bày hệ thống phương pháp phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ mầm non. 5. Trình bày hệ thống phương pháp phát triển ngôn ngữ độc thoại cho trẻ mầm non. HƯỚNG DẪN TỰ HỌC 90
  38. 1. Cần nắm được đặc điểm ngôn ngữ mạch lạc của trẻ từ 0 – 6 tuổi. - Đối với trẻ từ 0 – 3 tuổi: trẻ có khả năng nghe, hiểu lời nói đơn giản của người lớn; biết trò chuyện với người xung quanh về những đề tài gần gũi quen thuộc; bước đầu biết kể chuyện dựa theo sự gợi ý của người lớn. - Đối với trẻ từ 3 – 6 tuổi: trẻ coá khả năng giao tiếp với mọi người xung quanh, biết lại câu chuyện đã được nghe, kể chuyện theo tranh, theo trí nhớ, kể sáng tạo 2. Các nội dung dạy trẻ nói mạch lạc: - Dạy trẻ biết lựa chọn nội dung cần nói. - Dạy trẻ biết lựa chọn từ ngữ phù hợp. - Dạy trẻ sắp xếp cấu trúc lời nói. - Dạy trẻ biết cách ngững nghỉ, ngắt giọngj đúng lúc, đúng chỗ. 3. Nắm được hệ thống các phương pháp phát triển ngôn ngữ hội thoại cho trẻ và biết cách thức sử dụng phương pháp đó: - Phương pháp trò chuyện - Phương pháp đàm thoại - Phương pháp thực hành – trò chơi. 4. Nắm được hệ thống các phương pháp phát triển ngôn ngữ độc thoại cho trẻ và biết cách thức sử dụng phương pháp đó: - Phương pháp dạy trẻ kể lại chuyện - Phương pháp dạy trẻ kể chuyện theo tri giác ( kể theo tranh, theo đồ vật, đồ chơi). - Phương pháp dạy trẻ kể chuyện theo tri giá - Phương pháp dạy trẻ kể chuyện sáng tạo. 91
  39. CHƯƠNG VII PHƯƠNG PHÁP DẠY TRẺ LÀM QUEN CHỮ CÁI I. Ý NGHĨA VÀ NHIỆM VỤ CỦA VIỆC DẠY TRẺ LÀM QUEN CHỮ CÁI 1. Ý nghĩa Làm quen với chữ cái là nội dung có vai trò quan trọng trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo lớn (5-6 tuổi). Đó là hoạt động giúp hình thành và phát triển các năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc học đọc, học viết cho trẻ ở trường tiểu học. Cụ thể: - Năng lực hoạt động trí óc như: bước đầu hình thành các thao tác tư duy để nhận ra mặt chữ cái, bước đầu hiểu được sự tương ứng giữa ký hiệu chữ cái và âm: nghe âm tìm chữ cái, nhìn chữ cái đọc được âm tương ứng. Từ đó hình thành cho trẻ các tri thức và biểu tượng ban đầu về các âm và chữ cái tiếng Việt. - Năng lực hoạt động ngôn ngữ như khả năng nghe hiểu ngôn ngữ tiếng Việt khi chơi các trò chơi chữ cái, bắt chước cách đọc diễn cảm các bài thơ, đồng dao, ca dao nhằm giúp trẻ tiến tới hoàn thiện ngôn ngữ nói, chuẩn bị cho việc hình thành năng lực đọc và viết ở bậc tiểu học. - Khả năng điều khiển ngón tay, bàn tay Các thao tác xếp hột hạt, cắt xé chữ cái, tô màu trong tranh, tô trùng khít các nét chữ lên các các chữ cái in mờ đã thể hiện khả năng biết phối hợp các tốt các hoạt động tai mắt của trẻ. Các thao tác đó đã được tập dượt nhiều lần trong các gì làm quen chữ cái giúp trẻ phát triển tâm thế vận động, biết định hướng không gian và thời gian (tô các nét chữ cái từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, biết tri giác về đúng hướng chữ cái qua các bước so sánh các chữ cái trong nhóm). 2. Nhiệm vụ Các bài học làm quen chữ cái cần giải quyết các nhiệm vụ sau: - Về kiến thức: hình thành ở trẻ các biểu tượng về 29 chữ cái tiếng Việt giúp trẻ để hiểu và ghi âm tiếng mẹ đẻ chúng ta có thể dùng các chữ cái. - Về kỹ năng: hình thành và rèn luyện ở trẻ các kỹ năng sau: + Nghe âm tìm được chữ cái tương ứng + Nhìn chữ cái đọc được âm tương ứng + Tìm chữ cái trong từ + Tô được các nét chữ cái. - Phát triển: + Phát triển ở trẻ khả năng chú ý có mục đích, trí nhớ, thính giác tinh tế chính xác, khả năng quan sát, kỹ năng phân tích, so sánh, tổng hợp. + Rèn luyện sự cử động khéo léo các ngón tay. + Hình thành và phát triển tâm thế chuẩn bị đi học. 92
  40. - Về giáo dục: + Thói quen ngồi học nghiêm túc. + Biết hành động theo yêu cầu chung. + Biết lắng nghe ý kiến, mạnh dạn phát biểu, trả lời câu hỏi rõ ràng mạch lạc. II. CƠ SỞ XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH DẠY TRẺ LÀM QUEN CHỮ CÁI 1. Cở sở tâm lý học Chương trình dạy trẻ làm quen chữ cái được xây dựng trên những đặc điểm của quá trình nhận thức của trẻ mẫu giáo lớn. Đó là những đặc điểm sau: - Trẻ mẫu giáo suy nghĩ bằng hình thức tư duy trực quan hình tượng. Điểm xuất phát của sự hình thành đó là hành động thực với đối tượng vật chất. Vì vậy dạy trẻ làm quen với chữ cái phải sử dụng đồ thật, tranh ảnh, đồ chơi, động tác, giọng nói nhằm làm phong phú biểu tượng cảm tính của trẻ, thiết lập mối quan hệ giữa tranh vẽ với chữ cái đi kèm. Như vậy trong phương pháp dạy trẻ làm quen với chữ cái cần quán triệt quan điểm tư duy cụ thể là chủ yếu. Ví dụ: Dạy trẻ làm quen chữ cái a, nếu cô chỉ định đưa chữ cái “a” đơn thuần để giới thiệu với trẻ thì sẽ không có hiệu quả. ở đây chúng ta dùng bức tranh vẽ quả na có từ “quả na” đi kèm để giới thiệu với trẻ. Bằng cách này, tranh quả na là hệ thống tín hiệu thứ nhất, từ “quả na” là hệ thống tín hiệu thứ hai, sự kết hợp giữ hai hệ thống này được lặp đi lặp lại nhiều lần giúp trẻ thiết lập mối liên hệ tạm thời trên võ não Từ đó trẻ sẽ nhận ra ký hiệu chữ cái một cách dễ dàng. - Trẻ mẫu giáo lớn tri giác sự vật theo kiểu trực quan toàn bộ, tổng thể. Chúng nhìn nhận sự vật theo kiểu chụp ảnh, phân biệt sự vật theo dạng tổng quát. Với đặc điểm sự vật này, chương trình cho trẻ làm quen chữ cái trước hết là cho trẻ nhận biết chữ cái thông qua từ, ví dụ: chữ “a” trong từ “quả na”, hay trong một câu đồng dao Sau khi trẻ nhận được mặt chữ cái rồi mới tiến hành cho trẻ sắp sếp so sánh các chữ cái trong nhóm. - Tư duy của trẻ mẫu giáo gắn liền với yếu tố tình cảm, hành động và suy nghĩ thì theo trước mắt. Trẻ ghi nhớ những gì gây ấn tượng mạnh: một bức tranh màu sắc tươi sáng, một câu thơ êm ái, nhẹ nhàng, một câu chuyện gây hứng thú Vì vậy khi dạy trẻ làm quen chữ cái cô giáo phải tổ chức giờ học phù hợp với yêu cầu và hứng thú của trẻ: có dùng đồ thật, tranh ảnh Quan trọng là cô giáo cho trẻ chơi với đồ vật, tranh ảnh đẹp mắt. 2. Cơ sở ngôn ngữ học Chương trình dạy trẻ làm quen chữ cái xây dựng trên đặc điểm ngữ âm và chữ viết của tiếng Việt. Hiện nay chữ viết của tiếng Việt là chữ viết ghi âm. Nguyên tắc của chữ viết ghi âm là một chữ cái ghi một âm và một âm ghi bằng một chữ cái (có một số trương hợp ngoại lệ). Để dạy chữ cái cho trẻ, chương 93
  41. trình đã lấy bảng chữ cái tiếng Việt làm căn cứ. Dựa vào dặc điểm hình dáng con chữ, chương trình sắp xếp thành các nhóm khác nhau để xây dựng thành các bài học. 3. Cơ sở thực tiễn Một trong những nhiệm vụ của lớp mẫu giáo lớn là chuẩn bị một số kỹ năng, thói quen để trẻ có thể thuận lợi khi bước vào lớp Một. Dạy trẻ làm quen chữ cái nằm trong chương trình chuẩn bị đó nên đã xây dựng đúng tầm tư duy của trẻ, từng bước giúp trẻ tiến tới một khả năng tư duy trừu tượng, tư duy logic. Điều đó cũng có nghĩa là trẻ mẫu giáo lớn sẽ có cơ hội để chuyển sang một giai đoạn mới trong cuộc đời – giai đoạn hoạt động chủ đạo là học tập. III. YÊU CẦU, NỘI DUNG VÀ PHÂN PHỐI CHƯƠNG TRÌNH 1. Yêu cầu - Nhận biết 29 chữ cái ghi âm tiếng Việt - Phát âm đúng các âm của 29 chữ cái tiếng Việt. - Biết ngồi đúng tư thế và cách cầm bút khi tập tô các chữ cái theo mẫu. 2. Nội dung - Dạy trẻ nhận biết các chữ cái ghi âm tiếng Việt theo kiểu chữ in thường, viết thường thông qua các trò chơi. Đây là nội dung giúp trẻ tri giác biểu tượng chữ cái, tri giác bằng mắt, bằng tay để trẻ làm quen và nhận dạng chữ cái.Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi, cô giáo đóng vai trò hướng dẫn trẻ tìm chữ cái trong từ, gắn đồ dùng trực quan với trò chơi: nhận chữ, tìm chữ, nối chữ - Dạy trẻ nhớ được tên âm chữ cái: cô giáo giúp trẻ nhớ được tên chữ cái qua thẻ chữ, qua trò chơi. Đây là nội dung giúp trẻ 5- 6 tuổi chuẩn bị học ghép vần thành tiếng ở bậc tiểu học. - Dạy trẻ làm quen với tư thế ngồi và cách cầm bút viết khi tập tô chữ cái: Muốn giúp trẻ ngồi đúng tư thế và biết cách cầm bút tập tô, người lớn phải chuẩn bị bàn ghế đúng quy cách, vở tập tô, bút chì mềm Cô dạy trẻ cách ngồi, cách cầm bút đúng trước khi dạy trẻ tập tô các chữ cái theo mẫu. Đây là một nội dung không thể thiếu được trong việc chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo lớn lên lớp Một. - Dạy trẻ kỹ năng tô các nét cơ bản: nét xiên, nét thẳng đứng, nét móc, nét cong và kỹ năng tô 29 chữ cái tiếng Việt: tô theo mẫu, tô theo hướng dẫn nét nào trước, nét nào sau. 3. Phân phối chương trình Trong chương trình dạy trẻ làm quen chữ cái, các bài dạy được phân phối theo các nhóm chữ cái. Những chữ cái có đặc điểm giống và khác nhau rõ nét về hình dạng và cách phát âm được xếp thành một nhóm (mỗi nhóm có 2-3 chữ cái), 29 chữ cái được chia thành 12 nhóm. Các nhóm được phân bố như sau: + o,ô, ơ + a, ă, â + e, ê 94
  42. + u, ư + i, t,c + d, đ, b + l, m, n + h, k + p, q + g, y + s, x + v, r Dạy trẻ làm quen với chữ cái theo nhóm giúp trẻ so sánh được đặc điểm giống và khác nhau của các chữ cái trong nhóm. Khi so sánh trẻ phải quan sát đầ đủ, chính xác từng chữ cái để phân biệt các dấu hiệu khác nhau về hình dạng, về cách phát âm, giúp trẻ nhận ra chữ cái một cách chính xác và không bị nhầm lẫn khi phát âm. Mỗi nhóm chữ cái dạy theo hai loại tiết: Làm quen chữ cái mới và tập tô chữ cái. IV. PHƯƠNG PHÁP DẠY TRẺ LÀM QUEN CHỮ CÁI 1. Phương pháp dạy trẻ làm quen chữ cái mới ` - Dạy trẻ làm quen với từng chữ cái qua tranh ảnh, vật thật có gắn từ chứa chữ cái cần làm quen. Cô giáo treo tranh (hoặc đưa vật thật) có kèm từ. Cô chỉ cho trẻ xem tranh (vật thật) và hỏi trẻ đây là tranh gì? Tranh gì đây? cái gì đây? Sau khi trẻ trả lời cô chỉ vào từ dưới tranh. Ví dụ: Đây là tranh vẽ quả na, dưới tranh có từ “quả na”. Cô đọc cho trẻ từ dưới tranh. - Dạy trẻ làm quen với chữ cái qua thẻ chữ rời, sau khi trẻ đọc từ dưới tranh, cô dùng thẻ chữ rời ghép thành từ giống từ dưới tranh. Cô giới thiệu chữ cái mới bằng cách: cho trẻ tìm chữ cái đã học, chọn chữ cái giống nhau, tìm chữ cái chưa học. Cô rút thẻ chữ cái cần làm quen ở tiết học này và giới thiệu chữ cái mới. - Dạy trẻ làm quen với chữ cái qua cách phát âm: cô đổi thẻ chữ cái vừa mới giới thiệu thành chữ cái to hơn để trẻ dễ thấy và giới thiệu chữ cái mới. Cô cần phát âm chuẩn to, rõ ràng khi đọc tên âm chữ cái.Cô cho trẻ đọc tên âm chữ cái mới (cô cho cả lớp đọc rồi đến tổ và cuối cùng là cá nhân đọc). - Dạy trẻ làm quen với chữ cái mới qua cách so sánh 2 chữ cái: Sau khi dạy trẻ làm quen với từng chữ cái theo 3 bước trên, cô giáo tiến hành hướng dẫn trẻ so sánh điểm giống nhau và khác nhau giữa hai chữ cái về hình dạng và về cách phát âm (nếu chữ cái đó có thể so sánh được, trong trường hợp 2 chữ cái hoàn toàn khác nhau về chữ viết và cách phát âm thì không cần so sánh). Ví dụ: Cô hướng dẫn trẻ so sánh chữ m và chữ n giống và khác nhau ở điểm nào? Giống nhau: cùng có một nét thẳng đứng, cùng có một nét móc. 95
  43. Khác nhau: Chữ n có hai nét (một nét thẳng đứng và một nét móc), chữ m có ba nét (nột nét thẳng đứng và hai nét móc). - Phương pháp dạy trẻ chơi các trò chơi chữ cái: Các trò chơi chữ cái gồm các trò sau: + Trò chơi tìm chữ cái trong từ + Trò chơi tìm chữ cái theo hiệu lệnh của cô + Trò chơi xếp hột hạt theo hình dạng chữ cái + Trò chơi tìm đúng nhà bé + Trò chơi biểu diễn, đọc thơ, ca dao để luyện phát âm + Trò chơi hái hoa. + Trò chơi quay sổ số + Trò chơi tìm lá cho hoa + Trò chơi tô màu chữ cái và tô màu tranh + Trò chơi tập nối chữ cái trong cuốn “Bé tập tô” Trong khi tổ chức các trò chơi với chữ cái, cô giáo cần lưu ý lựa chọn các trò chơi theo nguyên tắc tĩnh và động. Nghĩa là các trò chơi cho trẻ phải có hoạt động “tĩnh” và hoạt động “động” giúp cho giờ chơi được sinh động, hấp dẫn tạo cảm giác dễ chịu, không căng thẳng. Phương pháp tổ chức trò chơi làm quen chữ cái: * Cô giới thiệu tên trò chơi * Cô giới thiệu cách chơi từng trò chơi * Cô cho trẻ chơi và theo dõi sửa sai cho trẻ. - Phương pháp dạy trẻ tô các chữ cái theo mẫu: Phương pháp dạy trẻ tô các chữ cái theo mẫu là phương pháp giúp trẻ mẫu giáo làm quen với một số thao tác, kỹ năng của hoạt động học tập, nhằm chuẩn bị tốt cho trẻ tập viết ở lớp một phổ thông. + Cho trẻ tìm chữ cái trong từ, thẻ chữ (qua tranh ảnh, trò chơi) Ví dụ: Trò chơi hái nấm. Mỗi cái nấm mang tên một chữ cái cần tô, cô cho trẻ hái nấm và đọc tên chữ cái trong nấm, cả lớp cùng đọc. + Cô cho trẻ quan sát thẻ chữ cái: cô đổi thẻ chữ nhỏ thành chữ cái to để trẻ dễ quan sát. + Cô hướng dẫn trẻ tô màu chữ cái in rỗng bằng bút chì màu, tô đều phần màu vào phần rỗng của chữ cái, tô từ trên xuống, từ trái qua phải. + Cô hướng dẫn trẻ tô liền chữ cái bằng bút chì đen. Cô tô mẫu trước, hướng dẫn trẻ chú ý điểm đặt bút và tô đúng chiều mũi tên hướng dẫn. + Cho trẻ thực hành tô chữ cái. Trước khi cho trẻ thực hành tô chữ cái theo mẫu, cô giáo nhất thiết phải dạy trẻ ngồi đúng, giúp trẻ làm quen với các thao tác và kỹ năng học tập là hết sức quan trọng và cần thiết. Nó giúp trẻ hình thành những thói quen tốt như ngồi ngay ngắn, khong tỳ ngực vào bàn, không cúi sát mặt vào vở. 96
  44. + Khi ngồi tô chữ cái, trẻ phải ngồi ngắn, lưng thẳng, đầu hơi cúi, mắt cách vở 25- 30 cm, không tỳ ngực vào bàn. Tay phải cầm bút điều khiển bút bằng 3 ngón tay (ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa), kết hợp với cổ tay, cánh tay và khuỷu tay, tay trái giữ vở. CÂU HỎI TỰ HỌC 1. Ý nghĩa và nhiệm vụ của chương trình dạy trẻ làm quen với chữ cái. 2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng chương trình cho trẻ làm quen chữ cái. 3. Nội dung dạy trẻ làm quen chữ cái? 4. Trình bày phương pháp dạy trẻ làm quen với nhóm chữ cái mới. 5. Trình bày phương pháp dạy trẻ tập tô chữ cái. HƯỚNG DẪN TỰ HỌC 1. - Ý nghĩa của chương trình dạy trẻ làm quen chữ cái là: Hình thành và rèn luyện năng lực hoạt động trí óc để trẻ chuẩn bị học đọc học viết ở trường tiểu học; khả năng thực hành ngôn ngữ; kỹ năng vận động bàn tay ngón tay . - Nhiệm vụ của chương trình: + Về kiến thức: hình thành ở trẻ các biểu tượng về 29 chữ cái tiếng Việt giúp trẻ để hiểu và ghi âm tiếng mẹ đẻ chúng ta có thể dùng các chữ cái. + Về kỹ năng: hình thành và rèn luyện ở trẻ các kỹ năng sau: + Nghe âm tìm được chữ cái tương ứng + Nhìn chữ cái đọc được âm tương ứng + Tìm chữ cái trong từ + Tô được các nét chữ cái. - Phát triển: + Phát triển ở trẻ khả năng chú ý có mục đích, trí nhớ, thính giác tinh tế chính xác, khả năng quan sát, kỹ năng phân tích, so sánh, tổng hợp. + Rèn luyện sự cử động khéo léo các ngón tay. + Hình thành và phát triển tâm thế chuẩn bị đi học. - Về giáo dục: + Thói quen ngồi học nghiêm túc. + Biết hành động theo yêu cầu chung. + Biết lắng nghe ý kiến, mạnh dạn phát biểu, trả lời câu hỏi rõ ràng mạch lạc. 2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng chương trình dạy trẻ làm quen chữ cái: - Cơ sở tâm lý học - Cơ sở ngôn ngữ học - Cơ sở thực tiễn. 97
  45. 3. Nội dung của chương trình dạy trẻ làm quen chữ cái: - Dạy trẻ nhận biết các chữ cái ghi âm tiếng Việt theo kiểu chữ in thường, viết thường thông qua các trò chơi. - Dạy trẻ nhớ được tên âm chữ cái. Đây là nội dung giúp trẻ 5- 6 tuổi chuẩn bị học ghép vần thành tiếng ở bậc tiểu học. - Dạy trẻ làm quen với tư thế ngồi và cách cầm bút viết khi tập tô chữ cái: - Dạy trẻ kỹ năng tô các nét cơ bản: nét xiên, nét thẳng đứng, nét móc, nét cong và kỹ năng tô 29 chữ cái tiếng Việt. 4. Trình bày phương pháp dạy trẻ làm quen với nhóm chữ cái mới, gồm các bước cơ bản: - Dạy trẻ làm quen với từng chữ cái qua tranh ảnh, vật thật có gắn từ chứa chữ cái cần làm quen. C - Dạy trẻ làm quen với chữ cái qua thẻ chữ rời. - Dạy trẻ làm quen với chữ cái qua cách phát âm. - Dạy trẻ làm quen với chữ cái mới qua cách so sánh 2 chữ cái: 5. Trình bày phương pháp dạy trẻ tập tô chữ cái, gồm các bước cơ bản: + Cho trẻ tìm chữ cái trong từ, thẻ chữ (qua tranh ảnh, trò chơi) + Cô cho trẻ quan sát thẻ chữ cái: cô đổi thẻ chữ nhỏ thành chữ cái to để trẻ dễ quan sát. + Cô hướng dẫn trẻ tô màu chữ cái in rỗng. + Cô hướng dẫn trẻ tô liền chữ cái bằng bút chì đen. + Cho trẻ thực hành tô chữ cái. 98
  46. TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 1. Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo, Nguyễn Xuân Khoa, NXBĐHQG Hà Nội, 1999. 2. Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dưới 6 tuổi, Hoàng Thị Oanh, Phạm Thị Việt, Nguyễn Kim Đức, NXBĐHQG Hà Nội, 2000. 3. Phương pháp phát triển lời nói cho trẻ, Đinh Hồng Thái, NXBĐHSP, 2005. 4. Phát triển ngôn ngữ trẻ em, E.I.Tikhêva, NXB Giáo dục, 1977. 5. Từ hoạt động đến ngôn ngữ trẻ em, Nguyễn Huy Cẩn, NXBGD, 1999. 6. Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ từ 3-36 tháng. 7. Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ 3-4 tuổi, 4-5 tuổi, 5-6 tuổi. 8. Tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non - Lê Thu Hương - Bùi Thị Kim Tuyến - Lưu Thị Lan - Vũ Thị Hồng Tâm - Đặng Thu Quỳnh, NXBGD, 2007. 9. Các hoạt động làm quen chữ cái theo hướng tích hợp – Lê Thị Ánh Tuyết - Đặng Thu Quỳnh, NXBGD, 2005. 100
  47. MỤC LỤC Chương I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BỘ MÔN PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ I. Đối tượng nghiên cứu của bộ môn 1 II. Vai trò của ngôn ngữ trong sự phát triển trẻ em 9 III. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình học nói của trẻ 14 IV. Các giai đoạn phát triển ngôn ngữ của trẻ em 16 V. Các lý thuyết về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em 18 VI. Các chức năng ngôn ngữ của trẻ 28 Chương II NHIỆM VỤ, PHƯƠNG PHÁP VÀ CÁC HÌNH THỨC PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ I. Nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ cho trẻ 30 II. Các phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 34 III. Các hình thức phát triển ngôn ngữ cho trẻ 39 IV. Các yêu cầu chung đối với hoạt động giáo dục có nội dung phát triển ngôn ngữ. 43 V. Những phương tiện và điều kiện thực hiện chương trình 46 Chương III PHƯƠNG PHÁP LUYỆN PHÁT ÂM CHO TRẺ I. Khái niệm phương pháp luyện phát âm cho trẻ 45 II. Đặc điểm ngữ âm của trẻ từ 0- 6 tuổi 46 III. Nội dung, phương pháp luyện phát âm cho trẻ ở từng lứa tuổi 53 IV.Tổ chức công tác luyện phát âm cho trẻ 62 V. Một số dạng bài tập luyện phát âm cho trẻ 63 Chương IV PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ 66 I. Khái niệm phương pháp phát triển vốn từ cho trẻ 66 II. Đặc điểm vốn từ của trẻ 66 III. Nhiệm vụ phát triển vốn từ cho trẻ 54 101