Giáo trình Giáo dục học mầm non (Phần 2)

pdf 56 trang ngocly 1990
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Giáo dục học mầm non (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_giao_duc_hoc_mam_non_phan_2.pdf

Nội dung text: Giáo trình Giáo dục học mầm non (Phần 2)

  1. Chương 3 Tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ ở trường mầm non (LT: 8; Tự học: 20) 3.1. Tổ chức chế độ sinh hoạt hàng ngày cho trẻ 3.1.1. Nguyên tắc thực hiện Khi tổ chức thực hiện chế độ sinh hoạt, cần đảm bảo các nguyên tắc sau: 3.1.1.1. Chế độ sinh hoạt phải đảm bảo thực hiện được mục tiêu chăm sóc- giáo dục trẻ mầm non Mục tiêu giáo dục mầm non được cụ thể hoá thành các nhiệm vụ giáo dục và yêu cầu cần đạt ở từng độ tuổi. Nó là kim chỉ nam cho mọi hoạt động chăm sóc – giáo dục trẻ. Ở mỗi độ tuổi cụ thể cần có chế độ sinh hoạt thích hợp. Vì vậy, khi xây dựng chế độ sinh hoạt hàng ngày cho trẻ và tổ chức thực hiện nó cần phải dựa vào mục tiêu giáo dục. 3.1.1.2. Chế độ sinh hoạt phải đảm bảo phù hợp với sự tăng trưởng và phát triển của độ tuổi Trẻ mầm non là giai đoạn có tốc độ tăng trưởng và phát triển diễn ra cực kì nhanh chóng. Mỗi giai đoạn độ tuổi, nhu cầu về vật chất và tinh thần cũng thay đổi theo, có sự khác biệt khá lớn ở từng độ tuổi. Vì vậy, chế độ sinh hoạt hàng ngày cần phải phù hợp với sự tăng trưởng và phát triển của từng độ tuổi. Cần tránh áp đặt trẻ thực hiện chế độ quá sức của nó. 3.1.1.3. Chế độ sinh hoạt hàng ngày phải đảm bảo sự cân đối hài hoà giữa nuôi và dạy (chăm sóc – giáo dục) Với tốc độ tăng trưởng và phát triển diễn ra rất nhanh nhưng cơ thể trẻ còn non yếu, mọi quá trình tăng trưởng và phát triển của trẻ chưa định hình nên hoàn toàn phụ thuộc vào sự chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục của người lớn. Sự mất cân đối giữa nuôi và dạy sẽ dẫn đến sự mất cân đối trong quá trình tăng trưởng và phát triển của trẻ. Vì vậy, để nuôi dạy trẻ trở thành một con người phát triển cân đối hài hoà về mọi mặt thì người lớn cần phải xây dựng và thực hiện được một chế độ sinh hoạt hợp lí. 3.1.1.4. Chế độ sinh hoạt phải đảm bảo sự điều hoà giữa hoạt động và nghỉ ngơi Trẻ mầm non rất hiếu động song cơ thể còn non nớt, hoạt động thần kinh, cơ bắp còn hạn chế, trẻ dễ bị mệt mỏi, đuối sức khi tham gia vào các hoạt động đòi hỏi phải vận động thần kinh cơ bắp nhiều. Do vậy, việc đảm bảo sự điều hoà giáo dục hoạt động và nghỉ ngơi, giữa thức và ngủ, giữa hoạt động có tính chất động và hoạt động có tính chất tĩnh cần được tính đến khi xây dựng chế độ sinh hoạt hàng ngày cho trẻ. 3.1.1.5. Chế độ sinh hoạt phải đảm bảo trình tự hoạt động ổn định, tránh xáo trộn nhằm hình thành nề nếp, thói quen cho trẻ. Chế độ sinh hoạt phải phù hợp với độ tuổi và cần phải ổn định ở mỗi độ tuổi cụ thể. 68
  2. 3.1.1.6. Chế độ sinh hoạt phải phù hợp với điều kiện thực tế địa phương và khí hậu từng vùng, từng mùa Khi xây dựng chế độ sinh hoạt hàng ngày cho trẻ cần tính đến điều kiện thực tế của địa phương, tính đến khí hậu của từng vùng, miền, và từng mùa trong năm. Cần có sự linh hoạt, mềm dẻo, khi xây dựng chế độ sinh hoạt cho phù hợp với điều kiện từng vùng, miền, địa phương. 3.1.2. Tổ chức và thực hiện chế độ sinh hoạt hàng ngày cho trẻ ở các nhóm lứa tuổi 3.1.2.1. Những nội dung thường có trong chế độ sinh hoạt của trẻ dưới 3 tuổi 3.1.2.1.1. Tổ chức đón trẻ Để việc đón trẻ diễn ra một cách thuận lợi, cô giáo mầm non cần thực hiện những yêu cầu sau: - Chuẩn bị đón trẻ: + Làm vệ sinh, thông thoáng phòng, nhóm (nhóm 3 – 12 tháng cần sắp xếp) giường chiếu vì trẻ đến là ngủ ngay) + Chuẩn bị đồ dùng, quần áo hoặc tã lót, nước uống, nước sinh hoạt trong ngày + Chuẩn bị đồ chơi và góc chơi cho trẻ + Chuẩn bị tư thế sẵn sàng đón trẻ - Trong giờ đón trẻ: cần bố trí 2 cô + Cô đón trẻ đứng đúng nơi quy định, thái độ vui vẻ, niềm nở. Đối với trẻ từ 7 – 8 tháng tuổi trở lên cô tập cho trẻ “ạ”, trẻ lớn hơn tập cho trẻ chào cô, chào bố mẹ. + Cô trao đổi nhanh với phụ huynh về tình hình sức khoẻ của trẻ hoặc về thói quen của những trẻ mới đến nhà trẻ hoặc thông báo những điều cần thiết, nhắc nhở những quy định chung của nhà trẻ. + Nếu trẻ sốt hoặc đang mắc các bệnh lây (hoặc nghi ngờ trẻ đang mắc các bệnh lây như sởi, thuỷ đậu, quai bị ) cần trả trẻ lại gia đình để chăm sóc và cách li đủ thời gian theo quy định mới nhận trẻ trở lại nhóm + Cô cần bao quát được tất cả trẻ đã nhận vào nhóm + Thời gian đầu, trẻ mới đi nhà trẻ, trẻ thường hay khóc vì chưa quen cô, quen bạn. Vì vậy, một vài ngày đầu cô gần gũi, tiếp xúc, làm quen với trẻ khi có cả cha mẹ trẻ, sau đó đón dần trẻ vào nhóm. Khi trẻ vào nhóm cô cần phải nhẹ nhàng, tươi cười, dỗ dành và lấy đồ chơi mà trẻ thích + Đối với trẻ 18 – 36 tháng cô thu dọn phòng nhóm gọn gàng để cho trẻ tập thể dục sáng, tạo điều kiện cho trẻ tắm nắng, tắm không khí trong lành. Có thể cho trẻ tập ở trong nhà, hành lang, hoặc ngoài sân tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của phòng nhóm và thời tiết. Nên cho trẻ tập theo nhạc là tốt nhất. + Cô cần nắm đúng số lượng trẻ đến trong ngày để báo số lượng suất ăn của nhóm với bộ phận cấp dưỡng. 3.1.2.1.2. Tổ chức cho trẻ ăn uống 69
  3. Việc tổ chức ăn uống hợp lý, khoa học là một yêu cầu cực kỳ quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển của trẻ vì khả năng hoạt động của dạ dày, ruột của trẻ còn kém. Nếu thức ăn không khoa học trẻ nhiễm bệnh ngay. + Tốc độ tăng trưởng, phát triển nhanh, nhu cầu dinh dưỡng chia theo trọng lượng với nhu cầu thức ăn rất lớn, giúp trẻ phục hồi sức lực và những năng lượng bị tiêu hao. Vì vậy, cần cung cấp đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho trẻ trong bữa ăn. + Ngoài ra cần chú ý vệ sinh an toàn tuyệt đối : ăn sữa bột, cháo 36 - 370 C, chế biến thức ăn phù hợp (từ thức ăn lỏng đến đặc dần, từ mềm đến rắn ), đủ chất và lượng, đảm bảo vệ sinh. Cần cho trẻ ăn nhiều thức ăn hoa quả tươi, rau tươi, sữa và các loại thức ăn bằng sữa, uống đủ nước + Cần cho trẻ ăn uống hợp lý, ăn đúng giờ, tạo cho trẻ cảm giác muốn ăn và cảm giác ăn ngon miệng. Nếu trẻ không muốn ăn, người lớn cần tìm hiểu nguyên nhân và có những biện pháp xử lý kịp thời. Tránh quát mắng, doạ nạt trẻ khi ăn, không bịt mũi trẻ để cho ăn bột, ăn cháo. Không được cưỡng bức trẻ ăn, uống khi trẻ không muốn, sự cưỡng ép trẻ khi ăn uống thường dẫn đến cảm giác sợ ăn uống + Trước khi ăn không nên cho trẻ ăn nhiều bánh kẹo, cần tập cho trẻ văn hoá vệ sinh khi ăn uống + Mỗi độ tuổi có nhu cầu dinh dưỡng khác nhau, do vậy cần có chế độ ăn uống phù hợp với độ tuổi của trẻ. Nhu cầu tại nhà trẻ Lứa tuổi Chế độ ăn Nhu cầu cả ngày (chiếm 60% - 70% nhu cầu cả ngày) 3 – 6 tháng Bú mẹ hoàn toàn 600 – 800 Kcal 360 – 560 Kcal 6 – 12 tháng Bú mẹ + ăn bột 800 – 900 Kcal 480 – 630 Kcal 12 – 18 tháng Bú mẹ + ăn cháo 900 – 1100 Kcal 540 – 770 Kcal 18 – 24 tháng Ăn cơm nát 1100 – 1300 Kcal 660 – 910 Kcal 24 – 36 tháng Ăn cơm thường 1100 – 1300 Kcal 660 – 910 Kcal Khi cần thay đổi chế độ ăn uống thì nên thay đổi dần dần, từ ít đến nhiều, từ loãng đến đặc, nên tập cho trẻ quen dần với thức ăn mới. Hàng ngày trẻ cần ăn nhiều loại thức ăn khác nhau với đủ các chất dinh dưỡng: đạm, béo, đường, vitamin và muối khoáng. 3.1.2.1.3. Tổ chức cho trẻ ngủ Đối với trẻ nhỏ, khả năng hoạt động của hệ thần kinh yếu, quá trình hưng phấn cao hơn ức chế, nếu không ngủ thì mệt mỏi, thần kinh căng thẳng, quá trình hưng phấn sẽ cao hơn. Mặt khác, giấc ngủ được ví như liều thuốc bổ não, sau giấc ngủ tốt não sẽ được phục hồi khả năng hoạt động của mình. Những trẻ ngủ đủ giấc, ngủ sâu thường vui vẻ, hoạt bát; nếu mất ngủ thì cáu bẳn, hờn dỗi Do vậy, khi tổ chức giấc ngủ cho trẻ cần chú ý một số vấn đề su: 70
  4. - Đảm bảo cho trẻ ngủ đủ giấc và sâu. Thời gian ngủ của trẻ phụ thuộc vào độ tuổi: + Trẻ sơ sinh ngủ hầu như suốt ngày đêm + 2 – 5 tháng cần ngủ 16 –18 h/ ngày + 6 –12 tháng cần ngủ 14 –16 h/ ngày + 1 –2 tuổi cần ngủ 12 – 14 h/ ngày + 2 – 3 tuổi cần ngủ 10 – 12 h/ ngày Trường hợp nếu trẻ ngủ li bì suốt ngày hoặc không chịu ngủ thì cần quan tâm theo dõi. Nếu thấy trẻ gầy còm, ốm yếu cần đưa đến bác sĩ để khám bệnh. Lưu ý đối với trẻ dưới 3 tuổi: - Đảm bảo thời gian ngủ quy chuẩn - Không nên cho trẻ thức quá 8h tối - Tập cho trẻ ngủ đúng giờ, tạo tâm trạng nhẹ nhàng, thoải mái, vui vẻ trước khi đi ngủ. Tạo cho trẻ thói quen lên giường là ngủ ngay. Đặc biệt không để trẻ nô đùa quá mức trước lúc ngủ hoặc người lớn không được dọa nạt trẻ khiến trẻ giật mình. - Tạo cho trẻ cảm giác được an tâm, được âu yếm, được an toàn trong giấc ngủ. - Cho trẻ ngủ trên giường có khung chắn, có đủ chiếu, màn, chăn, gối khô ráo sạch sẽ, thơm tho - Trước khi ngủ, cho trẻ đi vệ sinh, lau rửa mặt mũi, chân tay, quần áo rộng rãi, thoải mái - Cần chú ý đến đặc điểm riêng của từng trẻ. Đối với trẻ có nhu cầu ngủ nhiều nên cho trẻ ngủ sớm hơn và dậy muộn hơn. Đối với trẻ khó ngủ hay quấy khóc cần vỗ về, ru ngủ hoặc cho trẻ ngủ riêng để tránh ảnh hưởng đến giấc ngủ của trẻ khác - Đối với trẻ nhỏ cần vỗ về ru ngủ bằng những khúc hát ru, những bài thơ giàu âm điệu. - Trẻ dưới 4 tháng nên đặt trẻ nằm nghiêng về một phía hoặc nằm ngửa, tránh nằm sấp và ngoẹo đầu gây ngạt thở và ứ đờm dãi. Trẻ lớn ngủ trong tư thế thoải mái - Trẻ 12 – 24 tháng, cô nên động viên khuyến khích, tập cho trẻ làm quen với nơi ngủ và tập cho trẻ tự đi vào chỗ ngủ - Trẻ 24 – 36 tháng đã có những thói quen về nề nếp sinh hoạt, thói quen tự phục vụ nên đến giờ ngủ cô hướng dẫn cùng cô chuẩn bị ngủ (trẻ tự bê gối, tự chuẩn bị chỗ ngủ ), nhắc trẻ tự đi vệ sinh, đến đúng chỗ của mình, tự trèo lên giường nhắm mắt ngủ ngay, không nói chuyện, không trêu chọc bạn - Khi trẻ ngủ, cô phải có mặt thường xuyên trong phòng ngủ để theo dõi giấc ngủ và sửa tư thế ngủ của trẻ, xử lí các sự cố như đái dầm, chăn trùm kín mặt, sặc nước miếng - Khi trẻ thức dậy, nên để trẻ nằm chơi một lúc, sau đó cho trẻ đi vệ sinh, lau mặt cho trẻ tỉnh ngủ. Tránh tình trạng dậy đồng loạt một lúc ảnh hưởng đến giấc ngủ của trẻ và sinh hoạt của lớp. 71
  5. 3.1.2.1.4. Tổ chức vệ sinh cho trẻ - Tập cho trẻ dưới 3 tuổi biết giữ gìn vệ sinh cá nhân là một việc làm hết sức khó khăn, phức tạp đối với người lớn nhưng nó có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với trẻ, giúp trẻ quen dần với nếp sống vệ sinh, sạch sẽ. Việc tập giữ vệ sinh cho trẻ dưới 3 tuổi có một vai trò quan trọng trong việc hình thành tính cách của trẻ. - Người lớn cần chú ý giữ gìn vệ sinh thân thể cho trẻ, vệ sinh răng miệng, mắt mũi, tai, vệ sinh quần áo cho trẻ, luyện tập cho trẻ có thói quen đi đại tiểu tiện đúng giờ, đúng nơi quy định. + Vệ sinh thân thể: da trẻ rất mỏng, dễ bị xây xát và nhiễm trùng gây mụn nhọt, lở ngứa Do đó cần tắm rửa sạch sẽ hàng ngày cho trẻ, nhất là mùa hè. Tập cho trẻ 2 – 3 tuổi có thói quen rửa tay, rửa mặt trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Trong khi chăm sóc vệ sinh cho trẻ cô vừa làm vừa giải thích để trẻ hiểu tại sao phải rửa tay sạch + Vệ sinh răng miệng: Hàng ngày cho trẻ súc miệng bằng nước muối và khi trẻ có 4 răng hàm nên tập cho trẻ đánh răng buổi sáng và buổi tối. Để răng trẻ phát triển bình thường, cần cho trẻ ăn thức ăn đủ chất, nhất là thức ăn có nhiều can xi, ăn rau quả nhiều sinh tố C Không nên cho trẻ ăn thức ăn quá nóng hoặc quá lạnh, quá cứng Phối hợp tuyên truyền với phụ huynh tập cho trẻ 3 tuổi tập đánh răng, không nên cho trẻ ăn quà vặt nhất là kẹo, bánh ngọt Khám định kỳ để phát hiện sớm sâu răng và chữa trị kịp thời. Dạy trẻ có thói quen ngậm miệng khi ngủ, thở bằng mũi để răng miệng không bị khô, nếu răng luôn được ngâm trong nước bọt sẽ khó bị sâu. + Vệ sinh tai – mũi – họng: Viêm họng, viêm phế quản, viêm tai là những bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ, làm ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng và phát triển của trẻ, thậm chí còn gây nguy hại lớn sau này. Để bảo vệ tai, mũi, họng người lớn cần: Giữ ấm cổ, ngực và đôi chân cho trẻ về mùa đông. Không dùng vật cứng để ngoáy tai, mũi cho trẻ. Cần thường xuyên tiêm chủng, phòng bệnh cho trẻ. Nếu phát hiện ra trẻ bị nghễnh ngãng không có phản ứng với âm thanh thì cần phải cho trẻ đi khám kịp thời để tránh hậu quả câm điếc về sau. + Vệ sinh mắt: Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, vì vậy cần giữ gìn cho đôi mắt của trẻ thật lành lặn và trong sáng. Trẻ nhỏ thường đau mắt hột, đau mắt đỏ do vệ sinh không tốt hoặc dùng chung khăn bẩn với người bị đau mắt. Vì vậy cần rửa mặt, lau mắt cho trẻ bằng khăn, nước sạch. Cho trẻ ăn rau xanh, cà rốt, lòng đỏ trứng gà , uống vitamin A đúng liều để phòng bệnh quáng gà, khô mắt. Phòng và chữa dứt điểm bệnh đau mắt đỏ, mắt hột , nên cho trẻ chơi dưới ánh sáng tự nhiên. Không cho trẻ ngồi gần màn hình vô tuyến, máy vi tính, hạn chế thời gian xem vô tuyến. + Vệ sinh quần áo: quần áo là lớp da bảo vệ thân thể trẻ khỏi bị xây xước, khỏi bị bụi bặm và điều hoà nhiệt độ thân thể. Quần áo trẻ mặc phải phù 72
  6. hợp theo mùa, sạch sẽ, thay giặt hàng ngày, phơi nắng khô ráo. Không được cho trẻ mặc quần áo, tã lót ẩm ướt. Chất liệu vải phải phù hợp với khí hậu trong năm, kiểu may đơn giản dễ mặc, dễ cởi không nên cho trẻ mặc vải khó thoát mồ hôi. Ngoài ra cần chú ý đến thói quen đi giày, dép. Giày, dép phải mềm mại, vừa chân, thoải mái khi cử động + Luyện tập cho trẻ thói quen đi đại tiện, tiểu tiện đúng giờ, đúng nơi quy định. Việc luyện tập này đòi hỏi người lớn phải kiên trì, khi trẻ biết ngồi vững có thể tập cho trẻ ngồi bô. Tránh để trẻ ngồi bô lâu quá, như vậy sẽ ức chế và có hại cho cột sống. Không nên đánh mắng khi trẻ đái dầm hay ỉa đùn. Chỉ cho trẻ ngồi bô khi trẻ cần đại tiện hay tiểu tiện, không cho trẻ ngồi bô rồi đi làm việc khác, cần quan sát để đảm bảo trẻ không bị ngã. Sau khi trẻ đi bô cần rửa ngay cho trẻ và dùng khăn khô lau cho trẻ. Rửa sạch tay cô và trẻ bằng xà phòng rồi mới đi làm việc khác. 3.1.2.1.5. Tổ chức chế độ chơi - tập cho trẻ Tổ chức hoạt động chơi - tập cho trẻ là một nội dung quan trọng trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ ở trường mầm non. Tổ chức chơi – tập hợp lí không những làm cho sự tăng trưởng của trẻ diễn ra thuận lợi mà còn giúp cho sự phát triển tâm lí của trẻ diễn ra một cách tích cực. Để tổ chức chế độ chơi - tập cho trẻ có hiệu quả, cô giáo mầm non cần thực hiện một số yêu cầu sau: - Chuẩn bị cơ sở vật chất để trẻ chơi – tập + Bố trí chỗ chơi rộng rãi, thoáng đãng, sạch sẽ, phù hợp với nhu cầu hoạt động của trẻ + Chuẩn bị đủ đồ chơi cho trẻ. Đồ chơi phải phù hợp với mục tiêu yêu cầu của giờ chơi – tập và hấp dẫn đối với trẻ (đồ chơi phải có màu sắc tươi sáng, có thể phát ra âm thanh, phong phú, đa dạng, sạch sẽ, an toàn ). Đối với trẻ cuối 3 tuổi cần tăng cường những đồ chơi nhằm giúp đỡ tham gia vào các trò chơi thao tác vai. - Hướng dẫn trẻ chơi – tập + Người lớn là cầu nối trẻ với thế giới đồ vật. Cô giáo cần hướng dẫn tỉ mỉ để trẻ sử dụng được đồ vật, cô vừa làm mẫu vừa nói để trẻ hiểu hoặc hát khuyến khích trẻ chơi. Những giờ chơi – tập với đồ chơi mới cô cần cùng chơi với trẻ. Đối với trẻ nhỏ, cô cần hướng sự chú ý của trẻ vào những đồ chơi cần thiết, dạy cho trẻ những thao tác đúng + Khi hướng dẫn trẻ chơi – tập, cô không chỉ dạy trẻ biết thực hiện các thao tác với đồ vật mà cần dạy trẻ biết tên gọi của đồ vật, nhận biết được những thuộc tính của nó, tập cho trẻ biết sử dụng một số đồ dùng đơn giản trong sinh hoạt hàng ngày + Nhịp độ chơi – tập, mức độ yêu cầu, thời gian chơi – tập phải phù hợp với độ tuổi và phù hợp với từng trẻ. Đối với những trẻ khoẻ mạnh có thể cho trẻ hoạt động “động” nhiều hơn là hoạt động “tĩnh”, đối với trẻ yếu ớt thì cho 73
  7. trẻ hoạt động “tĩnh” nhiều hơn. Tuy nhiên, dù là trường hợp nào cũng nên tổ chức đan xen, nhịp nhàng giữa hoạt động cơ bắp với hoạt động thần kinh + Cần động viên, khuyến khích trẻ kịp thời, tạo cho trẻ có trạng thái vui tươi, thoải mái trong khi chơi – tập. Đối với trẻ nhỏ, ban đầu những thao tác còn rất vụng về và phạm nhiều sai sót, cô không nên sốt ruột mà làm thay hoặc khiển trách trẻ. Cần an ủi, động viên, hướng dẫn lại cho trẻ tập nhiều lần mới thành quen. + Cần có chế độ chơi – tập riêng cho những trẻ mệt hoặc bị ốm. Tránh tình trạng trẻ hoạt động quá sức bệnh sẽ nặng thêm. - Kết thuc giờ chơi – tập: cô cần dạy trẻ biết thu dọn đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định. Đây là việc làm cần thiết để rèn luyện cho trẻ thói quen gọn gàng, ngăn nắp, giờ nào việc nấy 3.12.1.6. Trả trẻ - Trước khi ra về, cô cho trẻ vệ sinh cá nhân: quần áo, đầu tóc trẻ gọn gàng, sạch sẽ. Trong thời gian chờ đợi bố mẹ đi đón cho trẻ chơi với một số đồ chơi nhẹ nhàng, cô đọc thơ, kể chuyện, cho trẻ xem tranh hoặc chơi các trò chơi dân gian. Nên tạo cho trẻ những ấn tượng tốt với lớp với cô để hôm sau trẻ lại thích đến nhà trẻ, không nên để trẻ ngồi một chỗ chờ bố mẹ đến đón. - Khi gặp bố mẹ, cô hướng dẫn chào bố mẹ, chào cô giáo, chào các bạn khi ra về. Đối với cha mẹ cô nên trao đổi một số thông tin cần thiết trong ngày về cá nhân trẻ cũng như một số hoạt động của lớp cần có sự phối hợp với gia đình. 3.1.2.2. Tổ chức thực hiện chế độ sinh hoạt cho trẻ mẫu giáo Phân phối thời gian trong chế độ sinh hoạt của trẻ mẫu giáo (Theo “Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non” các giai đoạn độ tuổi - NXB GD Việt Nam 2011) Thời gian Hoạt động Mùa hè Mùa đông 6h45 – 8h00 7h00 – 8h20 Đón trẻ, chơi, thể dục sáng 8h00 – 8h 40 8h20 – 9h00 Học 8h40 – 9h20 9h00 – 9h40 Chơi, hoạt động ở các góc 9h20 – 10h00 9h40 – 10h20 Chơi ngoài trời 10h00 – 11h10 10h20 – 11h40 Ăn bữa chính 11h10 – 14h00 11h40 – 14h00 Ngủ 14h00 – 14h40 11h40 – 14h00 Ăn bữa phụ 14h40 – 15h40 14h40 – 15h40 Chơi, hoạt động theo ý thích 15h40 – 17h00 15h40 – 17h00 Trẻ chuẩn bị ra về và trả trẻ 3.1.2.2.1. Đón trẻ, hoạt động tự chọn, thể dục sáng, điểm danh - Đón trẻ. Tiến hành cơ bản như ở các lứa tuổi trước, song cô giáo, cô cần chú ý rèn cho trẻ thói quen tự phục vụ (lấy, cất đồ dùng cá nhân đúng nơi quy định, gọn gàng, ngăn nắp), thói quen vệ sinh 74
  8. Trong giờ đón, cô cần quan tâm tới từng trẻ về mọi mặt (sức khoẻ, tâm trạng ) để có biện pháp chăm sóc, giáo dục phù hợp trong ngày. - Hoạt động tự chọn. Khi trẻ được đón vào lớp, cô cho trẻ tự lấy đồ chơi và chơi theo ý thích của mình. Cô cũng có thể gợi ý, nêu tên một số trò chơi học tâp, lắp ghép hoặc trò chơi dân gian nhẹ nhàng mà trẻ đã biết để trẻ chơi với nhau. Đối với lớp nhỡ và lớp lớn, cô có thể gợi ý cho một số trẻ tham gia làm công việc trực nhật hoặc cùng cô chuẩn bị cho giờ học tới. Trong khi trẻ tự chơi cô luôn quan sát, nhắc nhở trẻ chơi vui, đoàn kết. Gần hết giờ chơi cô nhắc nhở trẻ thu dọn đồ chơi gọn gàng để chuẩn bị tập thể dục buổi sáng. - Thể dục buổi sáng: Thể dục buổi sáng cần được thực hiện thường xuyên và tiến hành trong 5 – 7 phút (lớp bé), 6 -8 phút (lớp nhỡ), 8 – 10 phút (lớp lớn), cho trẻ tập dưới sân là tốt nhất. Những nơi có điều kiện có thể cho trẻ theo hiệu lệnh chung của trường. Riêng những ngày có tiết thể dục thì thể dục buổi sáng được thực hiện dưới hình thức trò chơi, bài hát kết hợp với vận động hoặc số lần tập ít hơn. - Điểm danh: Sau khi tập thể dục buổi sáng cho trẻ điểm danh. Điểm danh nhằm giúp cô nắm được sĩ số của lớp và cô có điều kiện tập cho trẻ biết quan tâm lẫn nhau. Tuỳ từng mục đích điểm danh mà chọn những hình thức điểm danh phù hợp để trẻ đỡ chán. Chằng hạn, đầu năm trẻ chưa nhớ tên các bạn trong lớp, trong tổ thì gọi tên theo danh sách của lớp, khi trẻ đã thân quen nhau cô có thể hỏi sĩ số của tổ, lớp, tạo điều kiện cho trẻ quan tâm đến nhau. Thứ hai đầu tuần, cô nên dành 5- 7 phút (họp mặt) để trẻ trò chuyện với nhau về công việc của mình, của gia đình trong những ngày cuối tuần, tạo không khí thân mật. Trong thời gian này cô có thể nhắc nhở một số nề nếp cần thiết trong ngày, đưa ra hoặc nhắc lại một số tiêu chuẩn thi đua nhằm khích lệ trẻ bước vào một tuần học mới hào hứng hơn, có nề nếp hơn. 3.1.2.2.2. Các tiết học Hoạt động học tập chưa phải là hoạt động chủ yếu của trẻ, do đó các tiết học của trẻ rất ít, nhưng nó có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển trí tuệ của trẻ và góp phần chuẩn bị cho trẻ vào học ở trường tiều học được tốt. Nội dung các tiết học được quy định chặt chẽ trong chương trình giáo dục trẻ. Thời gian học trên tiết và số tiết phụ thuộc vào từng độ tuổi. Các tiết học đều được bố trí vào buổi sáng, thuận lợi hơn cho hoạt đọng trí tuệ của trẻ. Trong ngày cần bố trí các tiết học theo nguyên tắc động – tĩnh (một tiết tĩnh, một tiết động). Trong tuần, ngày đầu tuần và cuối tuần không nên bố trí những tiết học đòi hỏi hoạt động trí tuệ nhiều như toán, làm quen với môi trường xung quanh, có thể bố trí ngày thứ năm không có tiết học. Để các tiết học mang lại hiệu quả cao, cô chuẩn bị chu đáo về nội dung, về phương tiện dạy học, vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, mang màu sắc của hoạt động chủ đạo, giúp cho trẻ tiếp thu tri thức một cách nhẹ nhàng, hứng thú tránh áp đặt, gò bó làm trẻ mệt. 75
  9. 3.1.2.2.3. Hoạt động ngoài trời Đây là một trong hoạt động bổ ích và lí thú đối với trẻ. Ra ngoài trời, trẻ được tận hưởng những điều kiện của tự nhiên như nước, ánh nắng mặt trời, không khí trong lành, được vận động tự do thoải mái, đáp ứng nhu cầu vận động của trẻ. Nhờ đó mà cơ thể được rèn luyện, sức khoẻ được tăng cường. Ra ngoài trời trẻ còn được tiếp xúc với các hiện tuợng tự nhiên, xã hội phong phú, giúp trẻ mở rộng vốn hiều biết về thế giói xung quanh, phát triển tính tò mò ham hiều biết, phát triển những cảm xúc thẩm mĩ. Cô có điều kiện giáo dục cho trẻ những hành vi văn minh trong môi trường xung quanh. * Nội dung hoạt động ngoài trời gồm 3 phần - Hoạt động có mục đích, gồm: + Quan sát, phát hiện ra những thay đổi của các sự vật, hiện tượng trong thiên nhiên xã hội. + Tổ chức củng cố hoặc làm quen với các nội dung giáo dục. + Tổ chức cho trẻ chăm sóc vật nuôi, cây trồng. - Trò chơi vận động. - Chơi tự do (theo ý thích của trẻ). * Hướng dẫn tổ chức hoạt động ngoài trời - Trước khi ra ngoài trời cô cần nói rõ địa điểm, nội dung, mục đích của buổi đi dạo. Nhắc trẻ sửa sang đầu tóc, quần áo, giày dép cho gọn gàng phù hợp với thời tiết ngày hôm đó. Nhắc trẻ chơi đúng nơi quy định, không bẻ cây, hái hoa; khi có hiệụ lệnh của cô, trẻ phải tập trung ngay. Quan tâm tới sức khoẻ của trẻ, cháu nào yếu mệt không nên cho đi dạo. - Khi ra ngoài trời: + Cô tổ chức cho trẻ hoạt động theo ba nội dung trên. Song các nội dung trên cần được thực hiện một cách linh hoạt chứ không theo một trình tự nhất định. Việc thực hiện nội dung nào trước, nội dung nào sau là căn cứ vào hoạt động ở trong nhà trước đó, sao cho đảm bảo nguyên tắc động – tĩnh. Thời gian dành cho từng nội dung là phụ thuộc vào khả năng của cô và cháu, song cần dành thời gian cho trẻ quan sát và chơi tự do nhiều hơn. Với phần hoạt động có mục đích: Cô dùng những câu hỏi gợi ý cho trẻ quan sát các sự vật hiện tượng tự nhiên, xã hội để tự trẻ phát hiện những thay đổi của chúng, làm giàu tri thức cho trẻ. Cô cũng có thể gợi ý cho trẻ vận dụng những hiểu biết của mình vào hoàn cảnh tự nhiên sẵn có để dạy trẻ, củng cố kiến thức cho trẻ dưới hình thức vui chơi Giáo viên có thể thu hút từng nhóm trẻ vào hoạt động có mục đích chứ không nhất thiết cả lớp phải tập trung như một tiết học ngoài trời. Với phần tổ chức trò chơi vận động: Mỗi buổi hoạt động ngoài trời nên cho trẻ chơi 1 – 2 trò chơi vận động, mỗi trò chơi, chơi từ 2 – 3 lần. Phần chơi tự do: Cô không để trẻ chạy nhảy, la hét quá nhiều, hoặc chỉ chơi với đồ chơi có sẵn ngoài trời mà có thể gợi ý cho trẻ mang đồ chơi từ 76
  10. trong lớp ra chơi như vòng, bóng, ôtô đẩy – kéo, phấn vẽ hoặc tận dụng những nguyên liệu trong thiên nhiên như sỏi, đá, hột, hạt, hoa rụng, lá cây hướng dẫn trẻ làm đồ chơi, chơi hứng thú. + Việc chuyển tiếp giữa các phần trên, cô cần khéo léo linh hoạt, nhẹ nhàng không để trẻ bị hẫng hoặc không bị gò ép cứng nhắc. + Cô phải quan sát, xử lí nhanh những tình huống xảy ra để đảm bảo an toàn cho trẻ cũng như trả lời kịp những câu hỏi trẻ đặt ra nhằm phát triển lòng ham hiểu biết cho trẻ. + Mỗi buổi cô nên có trọng tâm giáo dục một số trẻ về một mặt nào đó. + Không nhất thiết ngày nào cô cũng phải thực hiện các nội dung mà cần linh hoạt tổ chức cho trẻ tiếp xúc với tự nhiên, xã hội tạo ra nguồn ấn tượng, cảm xúc cho trẻ lao động ngoài thiên nhiên, làm đồ chơi phục vụ cho trò chơi sáng tạo + Khi về lớp nghỉ ngơi 1 – 2 phút, cô cho trẻ rửa tay (nếu trẻ tiếp xúc đất cát), uống nước. 3.1.2.2.4. Trò chơi sáng tạo Trong thời điểm này cô chủ yếu tôe chức cho trẻ chơi các đồ chơi đóng vai có chủ đề, trò chơi xây dựng, lắp ghép, nhằm giúp trẻ phản ánh lại cuộc sống của người lớn – qua đó trẻ học làm người. Để vui chơi thực sự là một phương tiện cơ bản để giáo dục trẻ ở độ tuổi (vấn đê này đã trình bày ở chương trình: hoạt động vui chơi ). 3.1.2.2.5. Vệ sinh- ăn trưa Trẻ mẫu giáo đã có khả năng tự phục vụ, do đó đến giờ ăn, cô cùng trẻ chuẩn bị bữa ăn như kê bàn ghế sao cho thuận tiện hợp lí. Sau đó, cô cho trẻ rửa tay theo từng bàn để khỏi chờ đợi lâu. Khi rửa tay co hướng dẫn, nhắc nhở cách rửa tay dưới vòi nước chảy hoặc dội nước, tránh để trẻ rửa chung vào chậu nước. Đối với lớp nhỡ và lớp lớn có thể cho trẻ trực nhật lấy bát, thìa, đĩa và bê cơm cho các bạn. Trước khi chia cơm, cô nên giới thiệu các món ăn để trẻ tiết dịch vị và giúp trẻ hiểu biết về một số món ăn. Đồng thời rèn luyện cho trẻ thói quen mời cô và các bạn ăn cơm. Khi trẻ ăn cô bao quát, hướng dẫn nhắc nhỡ trẻ cách ăn hợp vệ sinh (như ăn từ tốn, không làm rơi vãi, không nói chuyện đùa nghịch khi ăn, hò hét hoặc hắt hơi phải biết che miệng ), hướng dẫn trẻ nhặt cơm rơi vãi vào đĩa, động viên trẻ ăn hết suất. Đặc biệt cô quan tâm hơn đến những trẻ yếu, ăn chậm, có thể tiế xúc cho trẻ ăn với những trường hợp cá biệt. Sau khi trẻ ăn xong: cô nhắc nhở trẻ tự cất bát thìa vào nơi quy định, tự cất ghế, lau miệng, uống nước, đi vệ sinh, chơi nhẹ nhàng rồi vào chỗ ngủ. 3.1.2.2.6. Ngủ trưa Đến giờ ngủ trưa, co cùng trẻ chuẩn bị chỗ ngủ, trẻ tự lấy gối. Nơi có điều kiện, cô hướng dẫn cho trẻ tự chuẩn bị ngủ (tự trải chiếu, lấy gối khi ngủ va cất sau khi ngủ dậy). Cô chú ý tạo chỗ ngủ sạch sẽ, ấm áp về mùa đông, 77
  11. thoán mát về mùa hè, có ánh sáng dịu. Tuyệt đối không cho trẻ nằm trực tiếp xuống đất ảnh hưởng đến sức khoẻ của trẻ. Sắp xếp chỗ ngủ hợp lí, có thể xếp trẻ dễ ngủ cạnh trẻ khó ngủ, để trẻ khó ngủ đi nhanh vào giấc ngủ hơn. Khi trẻ đã nằm ổn định, cô có thể hát ru hoặc cho trẻ nghe nhạc dân ca để trẻ vào giấc ngủ nhanh, ngủ ngon giấc. Khi trẻ ngủ cô luôn có mặt ở phòng ngủ để giữ yên tĩnh cho trẻ ngủ, nhắc nhở trẻ ít ngủ không nói chuyện, không đi lại trong phòng để khỏi làm ảnh hưởng đến giấc ngủ của các bạn. Đến giờ dậy, cô mở dần cửa cho trẻ dạy theo trình tự giấc ngủ của trẻ. Trẻ nào thức trước cho dậy làm vệ sinh trước. Sau khi đa số trẻ đã dậy, có thể cho trẻ hát bài “ Dậy đi thôi” đế đánh thức các bạn khác dậy. Tránh đánh thức trẻ một cách đột ngột và mở cửa ngay một lúc vì nếu trời lạnh trẻ dễ bị cảm lạnh. Khi dậy cô nhắc trẻ thu dọn chỗ ngủ, đi vệ sinh. 3.1.2.2.7. Vận động nhẹ, ăn quà chiều Khi trẻ ngủ dậy, cô cho trẻ vận động nhẹ hoặc chơi trò chơi vận động để mau tỉnh. Sau đó cho trẻ ngồi vào chỗ để ăn quà chiều. 3.1.2.2.8. Sinh hoạt chiều * Hoạt động tự chọn Thời điểm này giáo viên tự lên kế hoạch cho phù hợp với tình hình của lớp mình. Nội dung sinh hoạt chiều gồm: + Hướng dẫn trò chơi mới (trò chơi có luật) + Ôn trò chơi cũ + Ôn tập kiến thức đã học + Tổ chức trẻ lao động Mỗi buổi chiều chi rnên đưa ra một số nội dung hoạt động, không nên ôn dồn làm trẻ mệt. Thời gian còn lại nên cho trẻ chơi với đồ chơi, hoặc trò chơi theo ý thích. Lưu ý hằng tuần chỉ dành một buổi chiều hướng dẫn trò chơi mới ( học tập hoặc vận động). Chiều thứ 6 nên tổ chức cho trẻ lao động ( lớp lớn). Cô cũng có thể tổ chức hoạt động tự chọn cho trẻ ngoài trời. * Nêu gương bé ngoan Hằng ngày trong sinh hoạt cô dùng hình thức nêu gương bé ngoan để kịp thời động viên những hành vi tốt của trẻ, kích thích trẻ hào hứng tham gia vào các hoạt động. Thường nêu gương bé ngoan ở ba thời điểm: sau giờ học, sau buổi chơi sáng toạ, sau sinh hoạt chiều. Cô có thể dùng các hình thức khác để động viên, khen thưởng kịp thời những hành vi tốt của trẻ như dùng lời khen, cử chỉ âu yếm hay tặng vật phẩm nhỏ (lá cờ, bông hoa, ) để trẻ dính vào bảng bé ngoan. Khi khen không nên nói chung chung, cháu A ngoan, cháu B chưa ngoan mà phải nói rõ “ Ngoan vì sao?”, “ Không ngoan vì sao?” để trẻ có thể điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp. Với lớp lớn cô tổ chức nêu gương cuối ngày. Trong giờ nêu gương cô gợi cho trẻ nhắc lại tiêu chuẩn thi đua, rồi cho trẻ tự 78
  12. nhận, tự nêu lên những ưu điểm của mình. Sau đó có thể cho các bạn trong tổ, lớp nhận xét lẫn nhau. Hướng cho trẻ nhận xét vào những điểm tốt của bạn là chính, không nên biến giờ nêu gương thành giờ “ tố cáo” nhau. Vì thế, khi cô nhận xét hoặc nghe những lời nhận xét của trẻ phải thật chính xác công bằng, như vậy mới tạo được long tin ở trẻ và có ý nghĩa giáo dục. Cuối tuần, cô tặng phiếu ngoan cho trẻ. Đối với lớp lớn cô cho trẻ nhận xét để tặng phiếu bé ngoan. 3.1.2.2.9. Trả trẻ Trước khi trả trẻ về với gia đình cô cho trẻ vệ sinh các nhân: lau mặt, chải đầu, sửa sang quần áo ngay ngắn gọn gàng. Trong khi chờ bố mẹ đến đón cô nên cho trẻ chơi với những đồ chơi dễ lấy, dễ chơi, các trò chơi dân gian nhẹ nhàng hoặc cô kể chuyện, đọc thơ cho trẻ em nghe nhằm gây cho trẻ sự quyến luyến với cô với lớp. Khi phụ huynh đến đón, cô giao đến tận tay phụ huynh (tuyệt đối không giao cho người lạ mặt, trẻ em dưới 10 tuổi) để đảm bảo an toàn cho trẻ. Trong những trường hợp cần thiết có thể trao nhanh với phụ huynh về tình hình của trẻ trong ngày để phối hợp với hợp với gia đình trong việc chăm sóc giáo dục trẻ. Tuyệt đối cô không được bỏ mặc trẻ, lo đi làm vệ sinh lớp học để chuẩn bị ra về. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Phân tích các nguyên tắc tổ chức chế độ sinh hoạt cho trẻ lứa tuổi mầm non. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng sự quán triệt các nguyên tắc này ở một số trường mầm non trên địa bàn. 2. Làm rõ cơ sở khoa học của việc xây dựng chế độ sinh hoạt hàng ngày cho trẻ ở trường mầm non. 3. Vai trò của giáo viên trong vấn đề tổ chức chế độ sinh hoạt hang ngày của trẻ ở trường mầm non? 4. Trình bày những nội dung cơ bản của chế độ sinh hoạt hàng ngày cho trẻ ở trường mầm non (các giai đoạn độ tuổi). 5. Nêu một số yêu cầu khi tổ chức chế độ sinh hoạt hàng ngày cho trẻ ở trường mầm non. Liên hệ thực tế. 3.2. Tổ chức hoạt động với đồ vật, đồ chơi 3.2.1. Hoạt động với đồ vật và ý nghĩa của nó đối với trẻ mầm non Ngay từ thời kỳ hài nhi, trẻ đã thực hiện những hành động khá phức tạp đối với đồ vật, nhưng những hành động đó chỉ là vu vơ, tình cờ chứ chưa nhằm vào việc khám phá chức năng và phương thức sử dụng đồ vật. Sang tuổi ấu nhi, đồ vật lúc này không đơn thuần là cái để nghịch, để chơi mà chứa đựng trong nó chức năng nhất định và phương thức sử dụng nó. Nhờ sự hướng dẫn của người lớn, đứa trẻ đã hướng hoạt động của mình vào việc nắm chức năng và phương thức sử dụng đồ vật. Cứ như vậy, trẻ lĩnh hội được kinh nghiệm xã hội – lịch sử được ẩn tàng trong thế giới đồ vật, làm cho đời sống tâm lí của trẻ 79
  13. phát triển mạnh mẽ. Hoạt động với đồ vật trở thành hoạt động chủ đạo của tuổi ấu nhi nói riêng và trẻ nhà trẻ nói chung. Nhờ có hoạt động với đồ vật mà chức năng của đồ vật lần đầu tiên được bộc lộ ra trước đứa trẻ và đồ vật xung quanh trở thành đối tượng thu hút sự chú ý của trẻ, khiến trẻ hăng hái tìm kiếm, tháo lắp cái nọ cái kia Vì vậy mà tâm lí của trẻ phát triển mạnh, đặc biệt là trí tuệ. Thông qua hoạt động với đồ vật mà các giác quan của trẻ, đặc biệt là thị giác, thính giác và xúc giác phát triển, khả năng phối hợp thị giác và thính giác của trẻ ngày càng tốt hơn. Sự phong phú về màu sắc, hình dạng, kích thước, âm thanh của đồ vật, đồ chơi là đối tượng thu hút sự chú ý của trẻ, kích thích trẻ gần gũi, ngắm nghía, sờ mó, thao tác với đồ vật. Được sự hướng dẫn của người lớn, những chuẩn cảm giác ở trẻ được hình thành trong quá trình hoạt động với đồ vật. Thông qua hoạt động với đồ vật, trẻ biết được tên gọi của đồ vật, biết được đặc điểm, tính chất (màu sắc, hình dạng, kích thước, mùi vị ) và công dụng của đồ vật (dùng để làm gì) Điều đặc biệt quan trọng hơn cả là thông qua quá trình hoạt động với đồ vật, trẻ nắm được phương thức hoạt động với đồ vật theo kiểu người. Lúc đầu, có thể trẻ còn hành động lung tung như gõ thìa vào mâm cơm, ném cốc bát xuống nền nhà , ngay lập tức sau đó trẻ tỏ vẻ bối rối, sợ hãi vì nó hiểu rằng như vậy đã phạm đến quy tắc đối xử với đồ vật mà mọi người phải tuân theo. Ở giai đoạn này, nếu được tập luyện thường xuyên, trẻ sẽ biết cách sử dụng một số loại công cụ và trẻ có khả năng thực hiện cả những động tác phức tạp. Thông qua thế giới đồ vật dưới sự giúp đỡ của người lớn, đứa trẻ chiếm lĩnh được “cái” và “cách”, có nghĩa là trẻ chiếm lĩnh được những kinh nghiệm lịch sử xã hội loài người chứa đựng trong thế giới đồ vật. Trên cơ sở đó, trẻ biết so sánh, phân biệt đồ vật này với đồ vật khác, biết khái quát những đồ vật cùng loại tức là tư duy của trẻ được phát triển. Mặt khác, nhờ sự phong phú, đa dạng về màu sắc, hình dạng, kích thước, âm thanh và đặc biệt là sự khám phá ra chức năng và phương thức sử dụng đồ vật làm cho xúc cảm nói chung và xúc cảm trí tuệ được hình thành. Thông qua hoạt động với đồ vật, khả năng định hướng với môi trường xung quanh của trẻ được mở rộng, đồng thời ngôn ngữ của trẻ cũng được phát triển. Vì thế có thể nói, hoạt động với đồ vật đã tạo ra những nét tâm lí mới đặc trưng cho trẻ ở độ tuổi ấu nhi. Hoạt động với đồ vật còn có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển vận động, đặc biệt là sự khéo léo, linh hoạt của bàn tay, ngón tay. Trong quá trình hoạt động với đồ vật, trẻ có được các biểu tượng về thế giới đồ vật xung quanh cùng với các kĩ năng thao tác với đồ vật đó. Khi chơi các giác quan của trẻ được luyện tập và phát triển, hình thành và phát triển quá trình tư duy và óc tưởng tượng, khi chơi trẻ sử dụng một số kĩ năng và bắt chước một số hành động thường ngày của người lớn – điều này rất cần cho trẻ 80
  14. nhập vai chơi trong trò chơi đóng vai theo chủ đề ở giai đoạn mẫu giáo. Có thể nói hoạt động với đồ vật là tiền đề cho trò chơi đóng vai ở tuổi mẫu giáo. Như vậy, hoạt động với đồ vật là hoạt động cơ bản, có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển thể chất và tinh thần cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ. 3.2.2. Hướng dẫn tổ chức hoạt động với đồ vật cho trẻ ở trường mầm non 3.2.2.1. Một số yêu cầu khi tổ chức hoạt động với đồ vật cho trẻ Khi cho trẻ hoạt động với đồ vật cần tuân thủ một số yêu cầu sau: - Không nên cấm đoán trẻ chơi với đồ chơi không gây nguy hiểm, để cho trẻ tự do hành động với đồ vật theo nhu cầu và hứng thú của trẻ, không áp đặt theo ý muốn chủ quan của người lớn và hướng dẫn trẻ các thao tác với đồ vật. Cần tôn trọng trẻ, coi trẻ là chủ thể, là trung tâm trong hoạt động với đồ vật. Không nên rút ngắn thời gian hoạt động của trẻ hoặc đưa ra quá nhiều sự lựa chọn cùng một lúc cho trẻ. Không được yêu cầu quá cao so với sự phát triển của trẻ nếu trẻ chưa sẵn sàng. Quan sát trẻ trong lúc trẻ chơ để nắm được tốc độ phát triển, khả năng thực của trẻ sau đó mới đưa ra thêm tình huống, nhiệm vụ khi cần thiết đối với trẻ nói chung va từng cá nhân trẻ nói riêng. - Cần phải xây dựng môi trường hoạt động với đồ vật, đồ chơi đa dạng, phong phú, hấp dẫn với trẻ. Tận dụng nguyên vật liệu sẵn có trong thiên nhiên, của địa phương + Tạo cho trẻ có không gian để hoạt động thuận tiện, an toàn, vệ sinh + Đồ chơi phải đa dạng, phong phú về mằu sắc, đảm bảo những yêu cầu về vệ sinh, không gây nguy hiểm cho trẻ + Cần lưu ý tới các loại đồ chơi xếp hình, lắp ráp, trò chơi dân gian + Đồ chơi phải bày biện, sắp xếp trong trạng thái “mở”, vừa tầm tay với của trẻ để trẻ dễ lấy và dễ cất vào nơi quy định + Không nên bày quá nhiều đồ chơi gây sự phân tâm ở trẻ, cần thường xuyên thay đổi đồ chơi, trò chơi tránh nhàm chán cho trẻ - Cô là người tổ chức, hướng dẫn, tạo điều kiện, cơ hội cho trẻ được hoạt động với đồ vật, đồ chơi + Dạy cho trẻ biết thao tác với đồ vật, đồ chơi. Cô cần làm mẫu cho trẻ kết hợp với lời nói rõ ràng, mạch lạc sau đó cho trẻ thực hành theo mẫu của cô. Nếu trẻ chưa có khả năng làm cô giúp trẻ từng động tác + Trẻ 15 tháng trở lên, cần dạy trẻ biết cách sử dụng một số đồ dùng quen thuộc: cầm cốc uống nước, cầm thìa xúc cơm, cầm bát thông qua một số trò chơi đơn giản như cho em bé ăn bột, uống nước + Dạy trẻ biết bảo quản đồ chơi, không quăng ném đồ chơi, rèn cho trẻ thói quen cất dọn đồ chơi mỗi khi chơi xong + Sau khi trẻ đã biết cách sử dụng đồ vật, cần cho trẻ được tự học, tự chơi, cô chỉ cần theo dõi, đưa thêm các điều kiện mới, tạo tình huống để trẻ tìm cách giải quyết vấn đề + Khi hướng dẫn trẻ hoạt động không nên nôn nóng, vội vàng làm thay khi thấy trẻ còn lóng ngóng, vụng về khi sử dụng các công cụ. Giáo viên cần 81
  15. tinh tế khi hướng dẫn, phải nhận ra khi nào đứa trẻ không đủ sức giải quyết vấn đề và tìm cách giúp đỡ kịp thời khi trẻ cần sự trợ giúp. 3.2.2.2. Phương pháp tổ chức hướng dẫn trẻ hoạt động với đồ vật ở trường mầm non Khi tổ chức hướng dẫn trẻ hoạt động với đồ vật ở trường mầm non thường sử dụng kết hợp các nhóm phương pháp sau: - Phương pháp trực quan: giai đoạn này trẻ lĩnh hội tri thức thông qua các giác quan. Vì vậy cần đưa ra nhiều đồ vật, đồ chơi kích thích các giác quan của trẻ nhằm giúp trẻ tích cực thao tác với đồ vật, đồ chơi. Người lớn cần chơi với đồ vật, đồ chơi trước, làm mẫu cho trẻ quan sát và bắt chước. Cần kết hợp với lời nói, cử chỉ điệu bộ, nét mặt khi hướng dẫn trẻ thao tác với đồ vật, đồ chơi. - Phương pháp thực hành, luyện tập: Trẻ thích được thực hành, thao tác, hành động với đồ vật đồ chơi nhiều lần. Lúc đầu là những thao tác đơn giản, ngộ nghĩnh, sau phức tạp hơn, khó hơn khi trẻ nắm được thông tin, sử dụng cơ thể và phản ứng với môi trường xung quanh. Hãy để cho trẻ được luyện tập, thực hành hoạt động với đồ vật ở mọi lúc, mọi nơi, cho trẻ được thử sức và cô giúp đỡ khi cần thiết. - Tạo tình huống: để cuốn hút trẻ vào hoạt động với đồ vật, cô giáo cần tạo ra những tình huống cụ thể, đơn giản và hấp dẫn, khéo léo đề ra nhiệm vụ để trẻ tự giải quyết. - Phương pháp dùng lời: Trẻ học qua ngôn ngữ, hãy nói chuyện với trẻ trong khi chơi, giải thích cho trẻ các hoạt động đang làm và lí do tại sao. Việc giải thích mục đích, cách thao tác, cách chơi với đồ vật, đồ chơi là một thói quen rất tốt cho trẻ. Trẻ rất thích trò chơi ngôn ngữ, vì thế hãy đưa ngôn ngữ vào như một phần trong hoạt động chơi với đồ vật của trẻ. - Phương pháp động viên, khuyến khích: việc khen ngợi, khuyến khích trẻ trong hoạt động với đồ vật giúp trẻ thêm tự tin và mong muốn làm tốt hơn, cố gắng hơn nữa để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra. - Đánh giá sản phẩm của trẻ: cô cần nhận xét, đánh giá các sản phẩm của trẻ tạo ra nhằm hình thành ở trẻ niềm vui từ những sản phẩm đó và cố gắng tạo ra nhiều sản phẩm hơn nữa. 3.2.2.3. Tiến trình tổ chức hướng dẫn hoạt động với đồ vật cho trẻ ở trường mầm non 3.2.2.3.1. Chuẩn bị cho trẻ hoạt động với đồ vật - Lập kế hoạch tổ chức hoạt động với đồ vật cho trẻ: kế hoạch tổ chức hoạt động với đồ vật cho trẻ ấu nhi chính là những dự kiến, ý tưởng về nội dung, cách tiến hành và hình thức tổ chức hoạt động này trong một khoảng thời gian nhất định. Có nhiều loại kế hoạch tổ chức hoạt động với đồ vật cho trẻ ấu nhi ở trường mầm non: kế hoạch trong ngày, kế hoạch trong tuần, kế hoạch theo cả chủ đề lớn. 82
  16. Việc lập kế hoạch giúp cho giáo viên chủ động từ đó góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục trẻ ấu nhi ở trường mầm non. Ví dụ lập một bản kế hoạch: Hình thức: Hoạt động với đồ vật có chủ đích / Hoạt động tự do với đồ vật Độ tuổi: Chủ đề: I. Mục tiêu giáo dục - Kiến thức - Kỹ năng - Thái độ II. Lựa chọn nội dung hoạt động với đồ vật / Nội dung hoạt động tự do với đồ vật III. Chuẩn bị môi trường hoạt động với đồ vật / Chuẩn bị môi trường hoạt động tự do với đồ vật - Không gian (địa điểm hoạt động) / Tạo góc cho trẻ hoạt động - Chuẩn bị đồ vật, đồ chơi - Sắp xếp, bày biện đồ vật, đồ chơi, vật liệu chơi - Phương tiện kỹ thuật (nếu có) - Chuẩn bị tâm thế cho trẻ IV. Dự kiến các phương pháp, biện pháp sẽ sử dụng V. Tiến hành hoạt động Hoạt động của cô Hoạt động của trẻ - Chuẩn bị môi trường hoạt động với đồ vật cho trẻ Môi trường hoạt động với đồ vật của trẻ ấu nhi chính là toàn bộ không gian trong lớp học và các mối quan hệ giữa cô với trẻ, giữa trẻ với trẻ. Chuẩn bị môi trường hoạt động với đồ vật cho trẻ ấu nhi ở trường mầm non cần chú ý: + Tạo không gian cho trẻ (tạo các góc, các khu vực hoạt động với đồ vật) + Chuẩn bị, sắp xếp, bố trí đồ vật, đồ chơi tại các góc, khu vực hoạt động + Tạo dựng mối quan hệ thân tình giữa giáo viên với trẻ, giữa trẻ với trẻ 3.2.2.3.2. Tiến hành thực hiện hoạt động với đồ vật cho trẻ ấu nhi Vận dụng kết hợp linh hoạt các phương pháp, biện pháp hướng dẫn trẻ ấu nhi hoạt động với đồ vật dưới nhiều hình thức hoạt động khác nhau (hoạt động tự do, hoạt động hướng dẫn có chủ đích, hoạt động theo nhóm nhỏ, nhóm vừa, cả tập thể lớp, hoạt động trong phòng, ngoài sân ) nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của trẻ, giúp trẻ lĩnh hội được “cái” và “cách”. 3.2.2.3.3. Đánh giá kết quả hoạt động với đồ vật của trẻ Khi đánh giá kết quả hoạt động với đồ vật, giáo viên cần đánh giá về nhận thức, kỹ năng, thái độ của trẻ trong quá trình hoạt động với đồ vật. 83
  17. Sử dụng các phương pháp như quan sát kết hợp với ghi chép, chụp ảnh, quay băng hình về quá trình trẻ hoạt động với đồ vật, đàm thoại cùng trẻ, phân tích sản phẩm của trẻ, đưa ra các bài tập, các tình huống để thu thập thông tin. Đánh giá kết quả hoạt động với đồ vật của trẻ một cách thường xuyên trong từng ngày và cả một giai đoạn. So sánh kết quả đánh giá thu được với những mục tiêu đã đặt ra để từ đó có sự điều chỉnh phù hợp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động với đồ vật của trẻ ấu nhi ở giai đoạn tiếp theo. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Phân tích ý nghĩa của hoạt động với đồ vật đối với trẻ lứa tuổi nhà trẻ. 2. Trình bày các hình thức tổ chức hoạt động với đồ vật cho trẻ em lứa tuổi nhà trẻ. 3. Nêu những đặc thù cho việc tổ chức hoạt động với đồ vật cho trẻ em theo các độ tuổi. 4. So sánh hình thức tổ chức hoạt động với đồ vật có sự hướng dẫn chủ đích của giáo viên và hoạt động tự do với đồ vật cho trẻ ấu nhi ở trường mầm non. 5. Vai trò của giáo viên trong việc tổ chức hoạt động với đồ vật cho trẻ ở trường mầm non? 6. Lập kế hoạch tổ chức hoạt động với đồ vật cho trẻ ấu nhi ở trường mầm non. (Tự chọn chủ đề) 3.3. Tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ mẫu giáo 3.3.1. Ý nghĩa của hoạt động vui chơi đối với sự phát triển của trẻ mẫu giáo Chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo. Hoạt động vui chơi nếu được tổ chức tốt thì có vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho trẻ mẫu giáo, trò chơi trở thành phương tiện giáo dục toàn diện và chuẩn bị cho trẻ đến trường phổ thông. Khi bàn về vai trò, vị trí của hoạt động vui chơi đối với sự phát triển và giáo dục trẻ mẫu giáo, N.K.Crúpxcaia cho rằng: “Đối với trẻ em trước tuổi học thì trò chơi có một ý nghĩa cực kì quan trọng, trò chơi đối với trẻ là học tập, là lao động động và là một hình thức giáo dục nghiêm túc”. A.S. Macarencô thì cho rằng: “ Trò chơi có một ý nghĩa quan trọng trong đời sống của trẻ em, có một ý nghĩa giống như ý nghĩa của hoạt động, công tác và sự phục vụ của người lớn vậy. Trong khi chơi trẻ như thế nào thì sau này khi lớn lên trong công tác phần lớn trẻ sẽ như thế ấy. Do đó, việc giáo dục những nhà hoạt động tương lai bắt đầu trước tiên từ trò chơi”. Chơi là phương tiện giáo dục và phát triển toàn diện cho trẻ mẫu giáo. Điều này được thể hiện ở các mặt sau sau đây: 3.3.1.1. Chơi là phương tiện giáo dục và phát triển trí tuệ - Hoạt động vui chơi góp phần củng cố, chính xác hoá và làm giàu vốn tri thức của trẻ về cuộc sống xung quanh. Nội dung chính của các trò chơi là cuộc sống xung quanh trẻ. Nhờ có trò chơi mà trẻ hiểu sâu sắc hơn cuộc sống xung quanh. Tất cả những gì mà trẻ 84
  18. lĩnh hội trước lúc chơi thông qua các hoạt động khác nhau sẽ được làm chính xác, phong phú hơn trong quá trình chơi nhờ sự phát triển về dự định chơi, nhờ sự cụ thể hoá các động tác trò chơi, vào các vai trong trò chơi Thông qua trò chơi, những tri thức nắm được trước kia bắt đầu tham gia vào những mối liên hệ mới và trẻ tập điều khiển, tập vận dụng những tri thức ấy. - Hoạt động vui chơi không chỉ có tác dụng củng cố những biểu tượng đã có ở trẻ mà còn là một hình thức hoạt động nhận thức tích cực, độc đáo. Trong quá trình chơi, đôi khi các biểu tượng của trẻ về con người, các hành động và mối quan hệ tương hỗ của họ chưa đủ để thể hiện vai chơi, từ đó nảy sinh nhu cầu có tri thức mới (thể hiện ở những câu hỏi của trẻ). Trẻ muốn biết nhiều hơn để tái tạo các hành động và quan hệ của người lớn đúng hơn, giống hơn. Rõ ràng trong trò chơi, không phải trẻ chỉ vận dụng những hiểu biết đã có để khái quát hoá thành kiến thức của mình mà chính trò chơi còn thúc đẩy trẻ vươn tới lĩnh hội những kiến thức mới. Trò chơi trực tiếp tác động để phát triển nhu cầu ham hiểu biết của trẻ (nhu cầu nhận thức), một cơ sở quan trọng để giáo dục trí tuệ. - Hoạt động vui chơi góp phần phát triển các quá trình tâm lý nhận thức của trẻ như tư duy, trí nhớ, chú ý, đặc biệt là tưởng tượng và ngôn ngữ. Các quá trình tâm lý trên vừa là thành phần của hoạt động trò chơi, đồng thời chúng lại được phát triển trực tiếp nhất trong hoạt động này. 3.3.1.2. Chơi là phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo Việc xác lập trong trò chơi một thái độ đối với điều mình thể hiện chứng tỏ rằng trò chơi không những là phương tiện nhận thức và giáo dục trí tuệ mà còn là phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ. - Trong trò chơi trẻ tích cực nắm vững qui tắc đạo đức, chuẩn mực hành vi của con người, nắm vững thái độ của con người đối với lao động, nắm được quan hệ tương hỗ giữa con người với con người, góp phần hình thành hành vi xã hội của bản thân trẻ, hình thành thái độ của trẻ đối với cuộc sống và đối với nhau. Cũng trong trò chơi trẻ hiểu cụ thể hơn điều tốt, điều xấu, khuyết khích trẻ bắt chước việc làm, hành vi đạo đức tốt phù hợp với khuynh hướng đạo đức xã hội. - Trong khi chơi, thông qua vai chơi hấp dẫn, trẻ dễ dàng hướng tới cái đẹp trong hành vi của các bạn mình, dễ tiếp thu cái đẹp trong quan hệ giữa người với người. Khi đóng các vai chơi, trẻ dễ dàng phục tùng các qui tắc đạo đức ẩn kín sau các vai đó. Ví dụ: Khi đóng vai bác sỹ, trẻ phải thực hiện những qui tắc như bác sỹ phải ân cần, chu đáo, thận trọng, ôn hoà, nhẹ nhàng khi khám cho bệnh nhân. Dần dần sau nhiều lần đóng vai bác sỹ và thực hiện qui tắc đó đã hình thành ở trẻ một số phẩm chất tốt như đối xử nhẹ nhàng với bạn bè, thân thiện ân cần với các em nhỏ Như vậy, các qui tắc đạo đức ứng xử bên ngoài đã trở thành các phẩm chất đạo đức bên trong của trẻ thông qua vai chơi bác sỹ, và biểu tượng đạo đức như lòng nhân ái, sự tốt bụng, ân cần chăm sóc người khác được cụ thể hoá qua các hành động của bác sỹ đối với bệnh nhân, làm cho sự ngăn cách biểu tượng đạo đức và hành động không còn nữa. 85
  19. Có thể nói rằng vui chơi là một mắt xích nối liền giữa trẻ với qui tắc đạo đức, vì nó giúp cho quá trình hình thành phẩm chất đạo đức diễn ra dễ dàng hơn. - Trong trò chơi, thông qua trò chơi cô giáo giúp trẻ hình thành và rèn luyện các phẩm chất đạo đức quí ở trẻ như lòng nhân ái, tốt bụng, ân cần với người khác, tính thật thà, lòng dũng cảm, tính kiên nhẫn, tinh thần chịu đựng gian khổ. Tuổi mẫu giáo là thời điểm thuận lợi nhất để giáo dục lòng nhân ái, vì ở tuổi này trái tim trẻ rất nhạy cảm, tâm hồn trẻ dễ xúc động, dễ dàng đồng cảm với nỗi khổ đau của người khác. Sự đồng cảm này của trẻ có thể được củng cố và phát triển thành lòng nhân ái nếu nó được trải nghiệm nhiều lần. Không có một hoạt động nào ở trẻ mẫu giáo lại có thể giúp trẻ bộc lộ xúc cảm, thái độ của mình như ở trò chơi, đặc biệt là trò chơi đóng vai theo chủ đề. Trẻ xúc động, sung sướng hay đau khổ theo vai mình đóng, chúng trải nghiệm số phận nhân vật của mình (khi trẻ đóng vai mẹ có con bị ốm, trẻ tỏ ra buồn rầu lo lắng, xót xa như thật). Như vậy qua các vai chơi trẻ biết đặt mình vào vị trí của người khác và đối xử với người khác như đối xử với bản thân mình, từ đó trẻ biết yêu thương người khác. - Qua trò chơi, các nét tính cách của trẻ bộc lộ rõ, giúp giáo viên kịp thời phát hiện, uốn nắn, giáo dục để hình thành những nét tính cách tốt. Vì vậy, khi bàn về vai trò của hoạt động vui chơi đối với sự phát triển nhân cách của trẻ, L.V. Vưgôtxki cho rằng: “Trong trò chơi trẻ nên người”, còn D.V. Encônhin nhấn mạnh: “ Trò chơi là trường học về hành vi, là trường học về đạo đức trong hành động”. 3.3.1.3. Chơi là phương tiện giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo -Trò chơi dưới sự hướng dẫn của giáo viên góp phần đẩy mạnh sự phát triển thể lực chung của trẻ. Khi chơi tinh thần của trẻ phấn khởi, thoải mái, hoạt bát, đây chính là yếu tố quan trọng đẩy mạnh sự phát triển thể lực và tinh thần của trẻ. - Khi trẻ tham gia vào trò chơi, các cơ quan trong cơ thể được vận động, thức đẩy quá trình trao đổi chất, tăng cường hô hấp và tuần hoàn, góp phần tăng cường sức khoẻ của trẻ. Đặc biệt là những trò chơi vận động góp phần phát triển vận động cơ bản, phát triển tố chất như nhanh, mạnh, bền bỉ ở trẻ. 3.3.1.4. Chơi là phương tiện giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo Trẻ cảm thụ được cái đẹp trước hết là ở đồ chơi (màu sắc, kích thước hài hoà, hình dáng), cái đẹp trong hành vi, cư xử, lời nói đẹp trong các vai chơi. Mặt khác trong các trò chơi xây dựng, lắp ghép trẻ tự mình tạo ra cái đẹp, phát triển tình cảm thẩm mỹ cho trẻ. 3.3.1.5. Chơi là phương tiện giáo dục lao động cho trẻ mẫu giáo Trong trò chơi, đặc biệt là trò chơi sáng tạo hình thành một số kỹ năng lao động đơn giản ở trẻ: kỹ năng sử dụng một số đồ chơi, một số vật liệu tạo nên sản phẩm. - Trò chơi dưới sự hướng dẫn của giáo viên, chuẩn bị những phẩm chất cần thiết cho người lao động trong tương lai như tính mục đích, tính tổ chức, 86
  20. tính sáng tạo, kiên trì, vượt khó Ngoài ra, những tình cảm tích cực trong quá trình chơi có ý nghĩa quan trọng để giáo dục lòng yêu lao động và thói quen lao động. Vì vậy N.K.Crúpxkaia đã cho rằng: “trò chơi- đó chính là lao động, là một hình thức giáo dục nghiêm túc”. Tóm lại, hoạt động vui chơi là phương tiện quan trọng nhất để giáo dục toàn diện cho trẻ mẫu giáo. Trong trò chơi, nhân cách của trẻ được hình thành và phát triển. Đồng thời, trong trò chơi các phẩm chất tâm lý cần thiết cho hoạt động học tập và lao động sau này cũng được hình thành. 3.3.2. Tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ Mầm non 3.3.2.1. Trò chơi đóng vai theo chủ đề 3.3.2.1.1. Khái niệm: trò chơi đóng vai theo chủ đề là loại trò chơi cơ bản, đặc trưng cho trẻ mẫu giáo. Trong loại trò chơi này, trẻ thường đóng một vai chơi nào đó để tái tạo những ấn tượng, những cảm xúc mà trẻ thu nhận được ở môi trường xung quanh với sự tham gia tích cực của trí tưởng tượng. 3.3.2.1.2. Đặc trưng của trò chơi đóng vai theo chủ đề - Trò chơi đóng vai theo chủ đề là do trẻ tự nghĩ ra (trẻ tự nghĩ ra chủ đề chơi, chọn bạn chơi, phân vai chơi, tìm đồ chơi thay thế để tiến hành chơi), trẻ luôn đứng ở vị trí của chủ thể để hành động. - Trò chơi đóng vai theo chủ đề mang tính tự nguyện, tính sáng tạo, tính tự lập cao hơn so với một số trò chơi khác. - Mỗi trò chơi đóng vai theo chủ đề có các thành phần cấu trúc như sau: + Chủ đề chơi: Là thành phần cơ bản của trò chơi, nhờ có chủ đề chơi chung nên khi tham gia vào trò chơi trẻ không những biết vị trí của mình mà còn biết cả vị trí của từng bạn và hiểu được mối quan hệ giữa bạn như thế nào trong trò chơi chung. Chủ đề chơi thường xuất phát từ các lĩnh vực của đời sống gần gũi với trẻ. Ví dụ: mẫu giáo bé thường thích các chủ đề như “gia đình”, “nấu ăn”; đến các lớp nhỡ và lớn trẻ đã biết nhiều lĩnh vực hoạt động của người lớn nên chủ đề chơi đa dạng và phong phú hơn như “bác sỹ khám bệnh”, “ cửa hàng” Vì vậy trẻ càng được tiếp xúc nhiều, được quan sát nhiều thực tế cuộc sống thì chủ đề chơi càng phong phú, đa dạng. + Vai chơi: Trẻ nhập vai, ướm thử vào vị trí của người lớn, tạo lại quan hệ xã hội của người lớn, tái tạo lại lao động của người lớn qua một số ngành nghề quen thuộc, gần gũi. Đặc điểm vai chơi: ở mẫu giáo bé, trẻ thường hay đóng cùng loại vai (ví dụ: tất cả trẻ gái thích đóng vai mẹ, còn trẻ trai thích đóng vai bố hoặc vai chú lái xe, chúng thường thực hiện các hành động chơi giống nhau). Đến lớp nhỡ và lớp lớn, sự phụ thuộc vào các vai chơi rất rõ. Chẳng hạn không thể chơi vai bác sỹ nếu không có vai bệnh nhân, bán hàng phải có người mua. + Nội dung chơi: Trong trò chơi, trẻ tái tạo các hành động và các quan hệ xã hội giữa người với người. Kinh nghiệm sống của trẻ càng phong phú thì nội dung chơi được mở rộng bấy nhiêu. + Luật chơi: Luật chơi gắn với vai chơi và nó không qui định hành vi của trẻ “từ bên ngoài” mà do nhu cầu của đứa trẻ khi thực hiện một vai chơi nào đó 87
  21. để cho giống như thật. Do vậy mà với luật chơi trong trò chơi phân vai theo chủ đề trẻ cảm thấy không bị áp đặt, là một sự cần thiết” từ bên trong” gắn với mong muốn đóng tốt vai chơi giống hơn, tái tạo đúng hơn, đầy đủ hơn cuộc sống của người lớn. Luật chơi ở đây không được xác định trước mà được ẩn dấu sau các vai chơi. Ở lớp bé luật chơi thường hướng vào cách thức hành động (bác sỹ có biết khám bệnh không, y tá có biết tiêm thuốc không). Còn ở lớp lớn hơn thì luật chơi thường hướng vào việc tái tạo đúng các quan hệ qua lại và các chuẩn mực đạo đức xã hội (bác sỹ khám bệnh có cẩn thận không, có ôn hoà với bệnh nhân không). Tất cả các thành phần này liên quan mật thiết với nhau, bổ sung và chi phối lẫn nhau. Nếu thiếu một trong các thành phần trên thì không còn là trò chơi đóng vai theo chủ đề nữa. 3.3.2.1.3. Ý nghĩa của trò chơi đóng vai theo chủ đề Trò chơi đóng vai theo chủ đề có ý nghĩa đặc biệt đối với trẻ mẫu giáo, trong khi chơi trẻ từng bước học làm người. - Trong trò chơi trẻ tái tạo lại các mối quan hệ xã hội của người lớn, cách giao tiếp, ứng xử giữa con người với con người trong xã hội. Do đó, thông qua các vai chơi mà trẻ học được cách ứng xử tốt đẹp giữa con người với con người, hình thành các hành vi xã hội cho trẻ. Trong trò chơi giúp trẻ hình thành “cái tôi” của mình, trẻ xác định được vai trò, vị trí của mình trong tập thể, phân biệt mình với các bạn khác và biết nhận xét, đánh giá bạn và đánh giá chính bản thâm mình. Nếu không có loại trò chơi này, việc học làm người lớn của trẻ sẽ rất khó khăn. - Mặt khác, trong trò chơi trẻ tái tạo lại lao động của người lớn qua một số ngành nghề quen thuộc, gần gũi. Qua đó trẻ dần dần nắm được một số kĩ năng lao động giản đơn và có cảm tình với nghề nghiệp của họ, giúp trẻ thêm kính trọng người lao động. Như vậy, trò chơi đóng vai theo chủ đề chuẩn bị cho trẻ đến với lao động sau này. Như vậy, trò chơi đóng vai theo chủ đề là trò chơi tiêu biểu, đặc trưng của trẻ mẫu giáo, nó góp phần giải quyết mâu thuận giữa nhu cầu bắt chước người lớn và khả năng chưa cho phép của trẻ, tạo động lực phát triển các mặt tâm lí, xã hội của trẻ mẫu giáo. 3.3.2.1.4. Sự phát triển của trò chơi đóng vai theo chủ đề - Ở lứa tuổi nhà trẻ, trò chơi thao tác với đồ vật, đồ chơi là chủ yếu. Đến cuối tuổi nhà trẻ bắt đầu xuất hiện trò chơi mô phỏng, trẻ bắt chước một số hành động của người lớn như giặt quần áo, bế con, cho con ăn, ru con ngủ Tất cả các hành động mô phỏng này được diễn ra trong hoàn cảnh tưởng tượng nhờ các đồ chơi thay thế. Đây làgiai đoạn chuẩn bị cho sự ra đời của trò chơi đóng vai ở lứa tuổi mẫu giáo. - Vào tuổi mẫu giáo bé (3 tuổi), trò chơi đóng vai theo chủ đề xuất hiện. Ở giai đoạn đầu tiên có khi trẻ chơi có vai, có khi không có vai. Trẻ bước đầu 88
  22. đã biết đóng vai và hành động phù hợp với vai chơi. Trẻ chưa thể chơi lâu với một vai nào mà thường bị lôi cuốn bởi các đồ chơi hấp dẫn. Vì vậy, trong một buổi chơi trẻ thường đóng một số vai. Hình thức chơi ở giai đoạn này vẫn là chơi cá nhân hoặc chơi bên cạnh như ở giai đoạn trước. - Vào cuối năm thứ ba, trò chơi đóng vai theo chủ đề của trẻ có bước tiến nhảy vọt, trẻ đã biết xác định vai bằng lời (là mẹ, là bác sĩ v.v ) và hành động tương ứng với vai chơi. Cùng với nhập vai, trẻ biết chuyển hành động chơi từ vật này sang vật khác, biết sử dụng vật thay thế trong khi chơi. Nội dung chơi vẫn là những hành động với đồ vật gắn liền với việc trải nghiệm tình cảm của vai chơi (ví dụ mẹ nấu bột cho con, mẹ ru con ngủ, bác sĩ khám bệnh cho búp bê ). Trẻ chủ yếu là chơi cạnh nhau, các hành động chơi của trẻ không phụ thuộc vào nhau, trẻ chưa biết thoả thuận cùng chơi. Tuy nhiên, ở lứa tuổi này bắt đầu xuất hiện nhóm chơi nhỏ (từ 1-2 trẻ), nhưng còn rất lỏng lẻo, dễ tan vỡ bởi sự thu hút của các nhóm chơi khác hoặc bởi sự hấp dẫn của đồ chơi. - Đến lứa tuổi mẫu giáo nhỡ các nhóm chơi nhỏ (2-3 trẻ) dần dần được củng cố và mở rộng thành những nhóm chơi đông hơn (4,5 trẻ), nhóm chơi ổn định và bền vững hơn. Các thành viên trong nhóm đã biết thoả thuận cùng nhau, biết thiết lập các mối quan hệ trong khi chơi. Nội dung chơi cũng phong phú hơn và chủ đề chơi cũng được mở rộng hơn. Trẻ không chỉ biết thể hiện vai qua các hành động với đồ vật, đồ chơi mà trẻ còn phản ánh đời sống tình cảm của vai chơi, phản ánh mối quan hệ xã hội của vai mà mình nhận, đặc biệt là trẻ thể hiện được một số tiêu chuẩn đạo đức đặc trưng của vai chơi. - Đến cuối tuổi mẫu giáo nhỡ thì một số nhóm chơi đã biết liên kết và phối hợp cùng nhau theo một chủ đề chung. Ở lứa tuổi này, trò chơi đóng vai theo chủ đề đã bắt đầu hoàn thiện. Trẻ biết tự điều khiển trò chơi của mình. - Vào tuổi mẫu giáo lớn các nhóm chơi ổn định và bền vững trên cơ sở các nhóm chơi từ lớp nhỡ chuyển lên, dần dần xuất hiện nhiều trò chơi tập thể với thời gian lâu hơn, số lượng vai chơi đông hơn, nội dung chơi đa dạng và phong phú hơn. Trẻ tự tổ chức và điều khiển trò chơi không cần có sự hỗ trợ trực tiếp của người lớn, tự phân vai chơi, tự chọn “thủ lĩnh” điều khiển trò chơi. Trong khi chơi, trẻ tích cực trao đổi, cùng nhau thoả thuận, bàn bạc về dự định chơi, bổ sung phương tiện chơi, dự kiến đưa thêm trò chơi mới Giữa các nhóm chơi có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phối hợp cùng nhau hướng theo một chủ đề chơi chung dưới sự điều khiển của “thủ lĩnh”. Trong quá trình chơi trẻ biết nhận xét và đánh giá các bạn khác cũng như biết nhận xét về bản thân mình. Đây là giai đoạn phát triển cao nhất của trò chơi đóng vai theo chủ đề. Lúc này tính tự nguyện, tính độc lập và sáng tạo của trẻ trong khi chơi được thể hiện rõ nét hơn bất cứ giai đoạn nào trước đó. 3.3.2.1.5. Tổ chức, hướng dẫn trò chơi đóng vai theo chủ đề a. Phương pháp chung: Tổ chức, hướng dẫn trò chơi cho trẻ mẫu giáo luôn gắn với lứa tuổi (bé, nhỡ, lớn), mỗi lứa tuổi lại gắn với 3 giai đoạn phát triển và 89
  23. thông thường việc hướng dẫn trò chơi đóng vai theo chủ đề được tiến hành theo 3 bước sau: Bước 1: Thoả thuận trước khi chơi. - Với trường hợp chủ đề chơi mới thì việc thoả thuận trước khi chơi nhằm: + Chọn chủ đề chơi (chơi gì?) + Phân các nhóm chơi + Xác định nội dung trò chơi và phân vai chơi. - Nếu trò chơi cũ thì trẻ đã chơi rồi thì thoả thuận trước khi chơi chủ yếu hướng vào việc: + Luân đổi vai chơi + Làm giàu nội dung chơi: bằng cách đưa thêm các nhóm chơi mới. Thoả thuận trước khi chơi là một hình thức để điều chỉnh các nhóm chơi. Một trong những chức năng quan trọng nhất của việc thoả thuận trước khi chơi là thay đổi cấu trúc nhóm chơi nhỏ, sao cho mỗi trẻ đều có một vị trí thuận lợi trong nhóm chơi mà không mất đi tính chất tự nguyện, tự tin và tự lực của trẻ. Cô giáo phải luôn luôn chú ý đến các nhóm chơi, nắm được cá tính, đặc điểm và năng lực của từng trẻ một. Bước 2: Tiến hành chơi. Cô giáo theo dõi và hướng dẫn cho trẻ chơi, bảo đảm nguyên tác hứng thú, tự nguyện và bảo đảm tính phát triển của trò chơi. Cụ thể: + Lúc đầu cô giáo đóng một vai chơi cụ thể cùng chơi với trẻ, dạy trẻ các thao tác chơi, phản ánh hành động giống như hành động của vai đó. Ví dụ: đóng vai mẹ thì phải biết nấu ăn, cho con ăn, ru con ngủ; bác sĩ thì phải biết khám bệnh + Khi trẻ biết tự điều khiển trò chơi thì cô không đóng vai chơi nữa mà chỉ giúp trẻ bằng các câu hỏi gợi ý khi trẻ gặp khó khăn. + Dạy trẻ biết chơi cùng nhau và chơi theo nhóm, giải quyết các mâu thuẫn của trẻ trong quá trình chơi. Bước 3: Nhận xét sau khi chơi: - Chủ yếu là hướng vào điểm tốt để động viên và khuyến khích trẻ. Cô mở rộng nội dung chơi và nhận xét vai chơi( ví dụ: hôm nay bạn Thuỷ làm cô giáo rất giỏi, đã cho các bạn học toán, tập thể dục, ngày mai bạn Thuỷ sẽ cho các bạn ăn cơm, ngủ, dạo chơi nữa ). Đặc biệt lưu ý khi nhận xét tránh tình trạng làm mất hứng thú chơi của trẻ. - Nhận xét sau khi chơi chỉ đạt kết quả khi không tách rời khỏi nội dung chơi,vai chơi, luật chơi cũng như không tách rời khỏi toàn bộ quá trình chơi. - Hình thức nhận xét ở độ tuổi khác nhau cũng khác nhau. Ví dụ: + Đối với trẻ mẫu giáo bé nhận xét chỉ có tính chất xác nhận. Nhận xét cũng như thoả thuận trước khi chơi được tiến hành ngay trong quá trình chơi, không tách thành các khâu riêng biệt. Cô cùng chơi với trẻ như người bạn, nếu thấy trẻ có biểu hiện tốt, cô động viên khuyến khích trẻ. 90
  24. + Đối với trẻ 4-5 tuổi: Trẻ đã có kỹ năng chơi, biết thoả thuận trước khi chơi theo nhóm, do đó nhận xét sau khi chơi cũng được tiến hành theo nhóm chơi và theo các yêu cầu đã đề ra khi thỏa thuận. Cô giáo tham gia cùng trẻ nhận xét, nhận xét được tách ra thành khâu riêng sau khi chơi và chủ yếu hướng vào nhận xét vị trí của từng trẻ trong nhóm chơi. + Đối với trẻ 5 - 6 tuổi: Trẻ đã biết chơi thành tập thể, biết tự thoả thuận với nhau trước khi chơi, tự tổ chức, điều khiển trò chơi và trẻ cũng tự tổ chức, nhận xét sau khi chơi. Khi nhận xét hành vi của trẻ, thái độ của cô rất quan trọng vì dựa vào đó các quan hệ qua lại giữa trẻ trong trò chơi tiếp theo sẽ tốt lên hướng nào. Cần lưu ý rằng việc thoả thuận trước khi chơi, tiến hành chơi cũng như nhận xét sau khi chơi ở các độ tuổi, thậm chí ở các giai đoạn phát triển trò chơi hoàn toàn khác nhau về hình thức cũng như nội dung. b. Phương pháp tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề cho từng độ tuổi. Do qui luật phát triển tâm lý của trẻ mẫu giáo và qui luật tiến triển của trò chơi nên việc hướng dẫn trò chơi đóng vai theo chủ đề ở các lứa tuổi (mẫu giáo bé, mẫu giáo nhỡ, mẫu giáo lớn) có sự khác nhau. Trong mỗi nhóm lứa tuổi, trò chơi được tổ chức theo 3 mức độ phát triển của 3 giai đoạn. Đối với trẻ mẫu giáo bé (3-4 tuổi) * Yêu cầu: - Biết sử dụng đồ chơi đúng ý nghĩa, không quăng ném đồ chơi, lấy cất đồ chơi đúng nơi qui định. - Biết vai chơi của mình, biết phản ánh một vài hành động đặc trưng của vai chơi; không tranh giành đồ chơi của bạn, không cản trở bạn chơi. - Chơi lâu với vai chơi đã nhận, phản ánh một vài hành động với vai chơi; biết cùng chơi với nhau trong nhóm nhỏ 2-3 trẻ và bước đầu thể hiện được mối quan hệ qua lại với nhau trong trò chơi. * Tổ chức, hướng dẫn: Dựa vào 3 giai đoạn phản ánh 3 mức độ phát triển của trò chơi. Giai đoạn 1: Đặc trưng của giai đoạn này là các cháu nhà trẻ chuyển lên và chủ yếu là các hành động đối với đồ vật, đồ chơi ( trẻ thường chơi một mình với đồ chơi hay một đồ vật nào đó, cầm nắm, phá tung đồ chơi như tháo chân tay búp bê, tháo các bộ phận của ôtô ). - Cô giáo đóng vai trò là người bạn lớn cùng chơi với trẻ, dạy trẻ biết cách chơi với đồ chơi đúng ý nghĩa của nó (chơi búp bê thì phải biết bế búp bê, cho búp bê ăn, chơi ôtô phải đẩy cho nó chạy ). Ví dụ: khi trẻ chơi búp bê, cô cũng bế một con búp bê ngồi cùng trẻ, vừa bế vừa giải thích: Mẹ bế con ngay ngắn lên còn ăn bột nhé, bột còn nóng, cô làm động tác thổi bột cho nguội rồi làm động tác đút cho búp bê ăn Cô làm như vậy là hình thức làm mẫu, trẻ làm theo cô mà không mất đi sự hứng thú. - Việc thoả thuận trước khi chơi và nhận xét sau khi chơi chưa tách ra thành các thời điểm riêng biệt mà được tiến hành trong quá trình cô chơi cùng 91
  25. trẻ. Cô và trẻ cùng chơi, động viên trẻ khi trẻ có biểu hiện tốt. Nhận xét của cô chủ yếu hướng vào việc thực hiện các hành động với đồ chơi. - Trong giai đoạn này, mâu thuẫn chủ yếu là tranh giành đồ chơi. Mỗi trẻ muốn có một đồ chơi riêng vì trẻ chưa biết chơi thành nhóm. Vì vậy cần phải có nhiều đồ chơi cùng loại để tránh tình trạng trẻ tranh giành đồ chơi lẫn nhau. Khi trẻ biết chơi theo đúng nghĩa của nó thì trò chơi của trẻ sẽ phát triển đến giai đoạn cao hơn, từ các hành động với đồ vật chuyển sang các hành động theo vai chơi. Giai đoạn 2: Đặc trưng của giai đoạn này là xuất hiện các hành động vai. Trò chơi ở đây không đơn thuần là chơi búp bê, chơi ôtô nữa, mà khi hỏi trẻ: “cháu chơi gì thế”? thì trẻ trả lời: “cháu là mẹ”; “cháu là chú lái xe (tức là trẻ đóng các vai trên. Cô giáo là người bạn lớn cùng chơi với trẻ, giúp trẻ nhận vai chơi, chọn chỗ chơi và dạy trẻ các hành động phù hợp với vai chơi. Thông thường trẻ chỉ phản ảnh lại những hành động gây ấn tượng chứ chưa phản ánh các hành động vai theo trật tự nhất định (ví dụ: lái xe chỉ cầm vô lăng quay và kêu bim bim; mẹ chỉ bế con cho ăn, đi chơi ). Vì vậy cô giáo cùng chơi với trẻ để giúp trẻ thực hiện một số hành động phù hợp với vai chơi. - Ở giai đoạn này dần dần các hành động vai đã gắn với các luật chơi đơn giản ẩn sau các vai chơi, vì luật chơi đó làm cho các trò chơi giống thật hơn. - Việc thoả thuận trước khi chơi chủ yếu vẫn tiến hành riêng lẻ với từng trẻ, giúp trẻ nhận vai chơi, biết hành động theo các luật chơi đơn giản. Nhận xét sau khi chơi vẫn mang tính chất xác nhận, động viên những trẻ đã biết nhận vai chơi, biết hành động theo thứ tự vai chơi và đặc biệt chú ý động viên các nhóm chơi mới hình thành chưa bền vững. Khi trẻ biết phản ánh các hành động tuần tự của một vai chơi nào đó thì trò chơi riêng lẻ cá nhân không làm thoả mãn nhu cầu của chúng nữa và xuất hiện nhóm chơi 2-3 trẻ với nhau. Giai đoạn 3: Đặc trưng của giai đoạn này là hành động vai theo nhóm 2- 3 trẻ trên cơ sở thiện cảm và hứng thú chung đối với trò chơi (2-3 trẻ thích chơi trò chơi gia đình: 1 cháu đóng vai bố, 1 cháu đóng vai mẹ, 1 cháu đóng vai con). Các nhóm chơi này có nội dung đơn giản, mang tính chất tình huống, không cố định, ý đồ chơi hay bị thay đổi, thậm chí quên cả vai chơi, bỏ nhóm chơi của mình chạy sang chơi chỗ khác vì thích trò chơi đó hơn. Nhóm chơi dễ tan vỡ, hành động vai còn đơn giản, thường chỉ liên hệ trong phạm vi hai trẻ. - Cô giáo vẫn đóng vai trò người bạn lớn cùng chơi với trẻ để hướng trẻ vào nhóm chơi, khuyến khích trẻ chơi với nhau để hình thành các mối quan hệ qua lại, giúp trẻ biết chơi cùng nhau trong nhóm, không tranh giành đồ chơi. - Việc thoả thuận trước khi chơi được tiến hành trong các nhóm chơi nhỏ, hướng vào việc phân vai, tập đưa ra ý đồ chơi chung. - Nhận xét sau khi chơi chủ yếu hướng vào việc thực hiện vai chơi trong nhóm như thế nào, động viên các cháu biết chơi thành nhóm, bộc lộ thái độ thiện cảm với bạn và biết nhường nhịn nhau. 92
  26. Tóm lại: đến cuối lớp mẫu giáo bé, trò chơi đóng vai theo chủ đề được hình thành, xuất hiện các nhóm chơi nhỏ và bước đầu các nhóm chơi này biết đưa ra ý đồ chơi chung. Bên cạnh các nhóm chơi nhỏ còn có một số trẻ có nhu cầu chơi riêng lẽ. Cô giáo đóng vai trò người bạn lớn cùng chơi với trẻ để hướng dẫn trẻ chơi. Đối với trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi). * Yêu cầu: - Trẻ biết chơi theo nhóm nhỏ, phân vai chơi, cùng chơi với nhau, phối hợp hành động chơi rong một nhóm chơi. Không tranh giành, quẳng ném đồ chơi. - Biết thể hiện vai chơi một cách tự lập. Thể hiện các hành động chơi phù hợp với vai đã nhận. - Biết cùng chơi với nhau: thoả thuận, phân vai chơi trong nhóm chơi, thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các nhóm chơi với nhau, biết nhường nhịn, giúp đỡ bạn. * Tổ chức, hướng dẫn: Cũng như mẫu giáo bé, trò chơi đóng vai theo chủ đề được phát triển dần theo 3 mức độ của 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: Đặc trưng của giai đoạn này là xuất hiện nhiều nhóm chơi nhỏ nhưng không bền vững, dễ tan vỡ. Đến lớp mẫu giáo nhỡ, trẻ thể hiện vai chơi chi tiết, tỷ mỷ hơn, biết tự lập hơn, bắt đầu có sáng kiến. Có nhiều nhóm chơi như “mẹ con”, “cô giáo”, “bác sỹ” - Cô giáo vẫn cùng chơi với trẻ, tham gia trực tiếp vào trò chơi để củng cố các nhóm chơi, giúp trẻ biết thoả thuận trước khi chơi. Khi thoả thuận, cần hướng trẻ vào các chuẩn mực đạo đức cần thiết của vai chơi, hướng vào các quan hệ bạn bè, thiện cảm, nhường nhịn, đoàn kết. - Nhận xét sau khi chơi được tiến hành theo nhóm, xem bạn sắm vai theo đúng yêu cầu không, có biết chơi cùng nhau theo nhóm không. Giai đoạn 2: Đặc trưng của giai đoạn này là các nhóm chơi có chủ đề chơi bền vững hơn, thời gian chơi lâu hơn, tự lực hơn, có nhiều sáng kiến hơn. Cô giáo cùng chơi với trẻ trong nhóm để giúp chúng thống nhất hành động chơi, hoàn thiện dần kỹ năng chơi, biết lắng nghe ý kiến của các bạn và biết trao đổi, thoả thuận với nhau để đưa ra chủ đề chơi, phân vai chơi. Giai đoạn 3: Đặc trưng của giai đoạn này là các nhóm chơi tiếp tục được củng cố và bền vững hơn (các cháu chơi trong nhóm có quan hệ chặt chẽ với nhau; cùng đưa ra chủ đề chơi, đồ chơi và phương tiện thay thế), trẻ phản ánh hoạt động của người lớn chi tiết, tỷ mỷ và giống thật hơn. Đến giai đoạn này cô không tham gia trực tiếp vào trò chơi nữa vì các cháu đã biết chơi với nhau, bắt đầu biết điều khiển trò chơi. Cô giáo chỉ có nhiệm vụ cùng với trẻ mở rộng và làm phong phú thêm nội dung trò chơi, kích thích sự sáng tạo của trẻ và góp ý kiến khi trẻ gặp khó khăn. - Nhận xét sau khi chơi được tiến hành với cả lớp theo yêu cầu và nhiệm vụ đã đặt ra ở từng nhóm khi thoả thuận chơi. Cô hướng dẫn trẻ kiểm tra lẫn nhau và tự kiểm tra. 93
  27. Tóm lại: Ở lớp mẫu giáo nhỡ, trẻ đã biết chơi cùng nhau rtheo nhóm từ 2-3 trẻ trở lên, nhóm chơi bền vững hơn, số lượng trong nhóm cũng đông dần lên. Trẻ đã biết chơi tự lực hơn, biết đưa ra chủ đề chơi và phân vai chơi. Cô giáo là bạn cùng chơi ở giai đoạn đầu, còn đến giai đoạn cuối, cô chỉ tham gia giúp đỡ khi các cháu gặp khó khăn. Cuối năm lớp mẫu giáo nhỡ, chuẩn bị lên mẫu giáo lớn, trẻ chơi tự lập hơn và chơi thành tập thể. Đối với trẻ mẫu giáo lớn (5-6 tuổi) * Yêu cầu - Trẻ hứng thú, tự nguyện khi chơi, biết chơi trong tập thể, phục tùng những qui định của tập thể, biết tự tổ chức những trò chơi đã biết. - Biết tự thảo luận để chọn trò chơi, nhóm chơi, phân vai chơi và chọn người điều khiển trò chơi. - Biết sử dụng nhiều đồ chơi và dùng các vật thay thế. - Biết tự nhận xét hành vi, thái độ của mình cũng như của bạn trong trò chơi. * Tổ chức, hướng dẫn: Giai đoạn 1: Đặc trưng là các tập thể chơi nhỏ được hình thành trên cơ sở các nhóm chơi bền vững ở lớp nhỡ. - Cô giáo không tham gia vào trò chơi nữa mà chỉ theo dõi quá trình tiến triển của trò chơi để giúp đỡ và gợi ý nội dung chơi khi cần, đặc biệt giúp đỡ trẻ thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các nhóm chơi. Cô hướng dẫn trẻ thực hiện các luật chơi, thái độ biểu lộ trong khi chơi - Trong nhóm chơi, trẻ tự thảo luận về chủ đề chơi, nội dung chơi, phân vai chơi. Khi trẻ gặp khó khăn, cô khéo léo gợi ý để đưa trẻ vào tình huống phù hợp với những hành vi tốt của vai chơi, tuyệt đối không bắt trẻ làm theo ý của mình. - Trẻ tự nhận xét sau khi chơi, nhiều trẻ tham gia vào nhận xét, đánh giá các bạn và mình thông qua vai chơi, cô giáo hướng dẫn trẻ nhận xét theo các vai chơi. Giai đoạn 2: Đặc trưng của giai đoạn này là một vài tập thể chơi nhỏ đã bắt đầu hợp nhất với nhau hướng vào chủ đề chơi chung. Đến giai đoạn này trẻ tự lập kế hoạch trước khi chơi, cô giáo với tư cách là “ cố vấn” quan sát, theo dõi trò chơi diễn ra ở các tập thể nhỏ, bằng các câu hỏi gợi ý giúp các nhóm chơi nhỏ liên kết lại với nhau, giúp trẻ hoàn thiện kỹ năng chơi. Giai đoạn 3: Đặc trưng ở giai đoạn này là tất cả các tập thể chơi nhỏ liên kết chặt chẽ với nhau theo chủ đề chơi chung. - Trẻ tự lập kế hoạch trước khi chơi (chọn chủ đề chơi, nhóm chơi, phân vai chơi, tự chọn “ thủ lĩnh” để tổ chức trò chơi). - Cô giáo theo dõi việc giữ gìn luật chơi, giúp trẻ thực hiện kế hoạch chơi đã đưa ra, cô giáo vẫn đóng vai “quan sát viên” để giúp các cháu khi cần. 94
  28. - Nhận xét sau khi chơi được tiến hành theo cả lớp do trẻ điều khiển, hướng vào việc đánh giá đạo đức, hành vi, thái độ, quan hệ của nhóm trong khi chơi, dựa vào các tiêu chuẩn yêu cầu đưa ra ở phần thoả thuận chơi. Tóm lại: ở lớp mẫu giáo lớn, trẻ đã tự điều khiển, tổ chức trò chơi, cô giáo chỉ là người quan sát viên gợi ý, hướng dẫn, giải quyết xung đột trong quá trình chơi của trẻ. Ở đây trò chơi đã trở thành một hoạt động tập thể có chủ đề. Đây là giai đoạn phát triển cao của trò chơi đóng vai theo chủ đề. 3.3.2.2. Trò chơi xây dựng- lắp ghép. 3.3.2.2.1. Khái niệm: Trò chơi xây dựng, lắp ghép là một loại trò chơi sáng tạo, bằng các vật liệu xây dựng trong trò chơi trẻ không chỉ tái tạo các hoạt động, các quan hệ xã hội của người lớn mà còn tái tạo cả các vật thể với tư cách là đối tượng hoạt động của con người. Đó là các công trình xây dựng đa dạng (cầu, cống, nhà, rạp hát, cửa hàng ) hoặc các phương tiện giao thông. 3.3.2.2.2. Đặc điểm - Trò chơi xây dựng, lắp ghép là hoạt động có sản phẩm, có sáng tạo. Trò chơi này chỉ được thực hiện thông qua vật liệu (không có vật liệu thì không thực hiện được trò chơi). - Trò chơi xây dựng được coi như là biến dạng của trò chơi đóng vai theo chủ đề (hoạt động có sản phẩm và sáng tạo). Trong chừng mực nào đó thì trò chơi xây dựng luôn gắn với trò chơi phân vai theo chủ đề. - Trò chơi xây dựng- lắp ghép mang rõ tính thực hành, thực tiễn, nó chứa đựng các yếu tố của hoạt động tạo hình. Vì vậy, nhiều khi trò chơi của trẻ được tiến hành theo mẫu và sự sáng tạo của trẻ cũng được phát triển từ các khuôn mẫu xây dựng, lắp ghép cơ bản. 3.3.2.2.3. Ý nghĩa của trò chơi xây dựng- lắp ghép Trò chơi XD – LG có ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục trẻ. - Khi sử dụng các vật liệu khác nhau, trẻ phát triển quá trình cảm giác, có biểu tượng về màu sắc, hình dáng, kích thước, hình thành các kỹ năng định hướng không gian, làm giàu vốn từ bằng cách gọi tên các phẩm chất của các vật thể như cao thấp, rộng, hẹp. - Việc xây dựng đòi hỏi trẻ phải quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, hình thành ở trẻ kỹ năng biết hành động phối hợp với nhau. - Góp phần phát triển sự khéo léo, linh hoạt của bàn tay, ngón tay, phát triển năng lực tạo hình của trẻ. - Những công trình xây dựng hợp lý có tác dụng GD thẩm mỹ cho trẻ. 3.3.2.2.4. Phương pháp hướng dẫn trò chơi xây dựng - lắp ghép Đối với trẻ mẫu giáo bé (3-4 tuổi) a. Yêu cầu: + Biết sử dụng các vật liệu xây dựng khác nhau để xếp những công trình đơn giản theo mẫu và nói được tên sản phẩm + Biết chọn một loại vật liệu trong các vật liệu khác nhau để xây dựng và gọi tên công trình. 95
  29. + Đến cuối mẫu giáo bé, trẻ biết phối hợp 2-3 trẻ với nhau để xây dựng một công trình lớn hơn theo một chủ đề chung. b.Tổ chức, hướng dẫn + Ở lớp mẫu giáo bé, trò chơi xây dựng- lắp ghép thường không có chủ đề rõ ràng mà trẻ thường bị các vật liệu lôi cuốn (chủ yếu trẻ muốn làm quen với vật liệu xây dựng, chọn một số vật liệu rồi xây lên một cái gì đó rồi lại phá đi). Ở giai đoạn này cô không nên cản trở trẻ mà cần lưu ý khi trẻ ném hoặc phá các vật liệu. + Khi trẻ đã được làm quen với vật liệu, cô giáo cùng chơi với trẻ để hướng dẫn trẻ, làm mẫu cho trẻ lắp ghép những đồ vật đơn giản trong gia đình như bàn, ghế, giường cho búp bê, chuồng lợn, hàng rào Mỗi trẻ nên có một hộp đồ chơi vì ở giai đoạn này trẻ thường chơi một mình. Cô giáo làm mẫu, giới thiệu trình tự các thao tác để trẻ cùng làm, cả các thao tác chọn vật liệu về kích thước, màu sắc Khi trẻ đã biết xếp những hình đơn lẽ thì cô giáo gợi ý cho trẻ xây dựng thành chủ đề nhỏ. Ví dụ: Xếp nhà cho búp bê: gồm nhà, đường đi, hàng rào, dần dần phát triển thành các chủ đề lớn hơn, có nhiều công trình đơn lẻ gộp lại. Trong một buổi chơi, cô giáo có thể hướng dẫn trẻ xây nhiều công trình đơn lẻ bằng các vật liệu khác nhau và cứ như vậy, vốn kinh nghiệm của trẻ sẽ tăng lên, tạo điều kiện cho trẻ tham gia vào trò chơi có chủ đề sau này. Đối với trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi) a. Yêu cầu: + Trẻ biết sử dụng các đồ chơi xây dựng để tạo thành các công trình đơn giản: nhà, đường đi, ôtô, cầu Không tranh giành đồ chơi hoặc phá công trình của bạn. + Trẻ biết xây dựng công trình có nhiều bộ phận, biết phối hợp các công trình đơn lẻ thành chủ đề chơi: công viên, trường học , trẻ biết phối hợp với nhau, giúp đỡ nhau khi chơi. + Biết phân loại đồ chơi để tạo ra những công trình phức tạp: nhà cao tầng, ôtô, cần cẩu; biết bố cục công trình hợp lý và đẹp. b.Tổ chức, hướng dẫn: Trong quá trình xây dựng, trẻ mẫu giáo nhỡ đã bắt đầu chú ý đến sản phẩm cuối cùng. Vì vậy khi chơi trẻ luôn tìm cách đạt được mục đích của mình. Trẻ đã có một số kỹ năng xây dựng, lắp ghép và vốn hiểu biết cũng phong phú hơn. Trò chơi xây dựng được tiến hành theo chủ đề và các thao tác xây dựng, lắp ghép cũng phức tạp hơn. Trẻ đã biết chơi thành nhóm nhỏ 3-4 trẻ xây dựng trường “mẫu giáo”, “ công viên”. Trong quá trình xây dựng cô giáo nên hướng dẫn trẻ tìm nguyên vật liệu phù hợp về kích thước, màu sắc, độ lớn để tạo ra sản phẩm chắc và đẹp. Trong quá trình trẻ chơi, cô quan sát, theo dõi và và kịp thời đưa ra gợi ý phù hợp, không bắt trẻ chơi theo ý của cô, kịp thời khuyến khích những sáng tạo của trẻ, gợi ý trẻ biết phối hợp hành động chơi trong nhóm nhỏ. Việc thoả thuận trước lúc chơi và nhận xét sau khi chơi cần có sự giúp đỡ của cô giáo. 96
  30. Đối với trẻ mẫu giáo lớn (5-6 tuổi) a. Yêu cầu: + Biết lắp ghép những “công trình” phức tạp bằng bằng các vật liệu khác nhau, biết bố cục công trình hợp lý và sáng tạo. + Biết sử dụng các đồ chơi, đồ dùng trong lớp vào các công trình phức tạp; phối hợp các công trình xây dựng vào trò chơi đóng vai theo chủ đề. b. Tổ chức, hướng dẫn - Ở lớp mẫu giáo lớn, trò chơi xây dựng lắp ghép tập thể được hình thành (trẻ biết lập kế hoạch xây dựng, chọn chủ đề, phân công và chọn vật liệu). ở lứa tuổi này, trẻ đã có kí năng xây dựng nhất định, kinh nghiệm phong phú, trí tưởng tượng phát triển, trẻ có khả năng chơi độc lập và sáng tạo, tự tổ chức chơi với nhau. Vì vậy, cô không cần tham gia trực tiếp vào quá trình chơi của trẻ nữa mà đóng vai vai quan sát viên, cố vấn theo dõi tiến trình chơi của trẻ, từ đó chọn cách tác động cho phù hợp. - Ở lứa tuổi này cô cần hướng dẫn trẻ sử dụng công trình xây dựng lắp ghép của mình vào mục đích chơi của trò chơi đóng vai theo chủ đề. - Yêu cầu vật liệu xây dựng cho giai đoạn này phải đa dạng, có nhiều chi tiết phụ để giúp trẻ có thể sáng tạo ra những công trình phong phú. Đặc biệt là hướng dẫn trẻ bố cục công trình thoáng, đẹp. Đồ chơi phải là những khối rời, không nên tạo thành các sản phẩm có sẵn mà phải để trẻ tự xây, lắp và chọn đồ chơi một cách sáng tạo. - Nhận xét sau khi chơi: Cô giáo hướng trẻ vào kết quả của công trình về bố cục, kĩ năng và sự sáng tạo của trẻ. 3.3.2.3. Trò chơi đóng kịch 3.3.2.3.1. Khái niệm: Là loại trò chơi trong đó trẻ đóng vai các nhân vật trong các tác phẩm văn học (chủ yếu là truyện cổ tích, truyện thần thoại, ngụ ngôn ). Bằng trí tưởng tượng, bằng tâm hồn nghệ sĩ của mình, trẻ tái hiện các hình tượng nhân vật yêu quí của mình qua cử chỉ, điệu bộ, sắc thái, nét mặt và qua lời nói. 3.3.2.3.2. Đặc điểm của trò chơi đóng kịch - Trò chơi đóng kịch có chủ đề chơi, vai chơi, nội dung chơi và hoàn cảnh tưởng tượng. Đặc điểm này khiến nó gần gũi các trò chơi đóng vai theo chủ đề. - Nội dung chơi, vai chơi, hành vi, lời nói của nhân vật được xác định trước theo nội dung của tác phẩm văn học. Đây là điểm làm cho trò chơi đóng kịch gần gũi với các trò chơi có luật. - Trò chơi đóng kịch mang tính chất sáng tạo nghệ thuật cao, nó thường tái hiện lại những hình tượng và hành động của các nhân vật một cách sáng tạo. Vai chơi trong loại trò chơi này có thể là người, có thể là các con vật với những phẩm chất, tính cách nổi bật như: hiền hoặc ác, nhanh hoặc chậm, khiêm tốn hoặc kiêu căng 3.3.2.3.3. Ý nghĩa của trò chơi đóng kịch 97
  31. - Trong trò chơi đóng kịch, trẻ được nhập vai và trải nghiệm đời sống tình cảm của các vai, qua đó giúp trẻ hiểu được chân, thiện, mĩ, bồi dưỡng cho trẻ tình cảm hướng thiện, giáo dục lòng nhân ái cho trẻ. - Phát triển ngôn ngữ cho trẻ: giúp trẻ mở rộng vốn từ (đặc biệt là ngôn ngữ dân gian), nắm được phương thức thể hiện ngôn ngữ, lĩnh hội được sự phong phú của tiếng mẹ đẻ. - Trò chơi đóng kịch còn là phương tiện phát triển trí tưởng tượng sáng tạo và phát triển tâm hồn nghệ sĩ cho trẻ, góp phần làm phong phú đới sống tinh thần của trẻ mẫu giáo. 3.3.2.3.4. Tổ chức, hướng dẫn trò chơi đóng kịch - Trước tiên cô cần lựa chọn được tác phẩm văn học phù hợp với đặc điểm nhận thức của trẻ, tác phẩm có sức cuốn hút mạnh mẽ, khêu gợi xúc cảm, làm cho trẻ rung động thực sự trước tác phẩm, trước nhân vật. - Sau khi đã chọn được tác phẩm, cô giáo đọc cho trẻ nghe, cùng trẻ kể lại cốt truyện, nhấn mạnh tính cách của từng nhân vật trong truyện. Từ đó khêu gợi hứng thú của trẻ đến trò chơi. - Chuẩn bị chỗ chơi (sân khấu), đạo cụ, đồ chơi cần thiết cho màn diễn. Cô và trẻ thoả thuận về quá trình chơi, phân vai chơi. - Tiến hành chơi: lúc đầu cô đảm nhiệm vai chính, thông qua vai của mình chỉ cho trẻ cách truyền đạt nội dung, biểu diễn vai của mình bằng cử chỉ, điệu bộ, lời nói của nhân vật Sau đó cô rút lui ra ngoài để cho trẻ tự chơi, chú ý quan sát theo dõi để có thể dạy trẻ kĩ năng truyền đạt câu câu chuyện, mô tả và tái hiện hình tượng. Tuy nhiên, không nên hướng dẫn quá chi tiết vì như vậy sẽ hạn chế khả năng sáng tạo của trẻ khi chơi. Cô cần tạo điều kiện để tất cả các trẻ lần lượt được tham gia trò chơi. - Đối với trò chơi đóng kịch cần chú ý nhiều hơn đến việc làm đạo cụ, hoá trang vì những cái này sẽ giúp khắc hoạ rõ thêm hình ảnh của các nhân vật. Cô giáo thường xuyên chú ý duy trì cho trẻ có cảm xúc tốt đẹp và có ấn tượng lành mạnh về tác phẩm mà trẻ đóng kịch. Kết thúc trò chơi, cô giáo nhắc nhở trẻ thu dọn “sân khấu”, tạo cho trẻ có tâm trạng vui vẻ, cảm xúc tốt đẹp về trò chơi vừa chơi xong. 3.3.2.4. Trò chơi học tập: 3.3.2.4.1. Khái niệm: Là loại trò chơi có luật tiêu biểu, thông qua các trò chơi này nhằm giải quyết các nhiệm vụ trí tuệ cho trẻ mẫu giáo. 3.3.2.4.2. Đặc điểm: - Trò chơi học tập là do người lớn nghĩ ra, nó có nguồn gốc trong kho tàng giáo dục dân gian.Tuy động cơ vẫn nằm trong quá trình chơi, nhưng trò chơi học tập gián tiếp giải quyết các nhiệm vụ trí tuệ . Trò chơi học tập vì vậy được sử dụng vừa là phương tiện dạy học, vừa là hình thức tổ chức dạy học cho trẻ mẫu giáo. - Trẻ tham gia vào trò chơi học tập trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện, vị trí của trẻ trong trò chơi như nhau được xác định từ luật chơi. 98
  32. - Trong trò chơi học tập, sự thống nhất giữa hành vi thật và hành vi chơi rõ ràng hơn ở các trò chơi khác (ví dụ: trong trò chơi đóng vai theo chủ đề động cơ hành động của trẻ có thể núp sau vai chơi, còn ở trò chơi học tập thì khác, hành vi xấu của trẻ lập tức phá huỷ cuộc chơi và điều đó các trẻ cùng chơi sẽ nhận thấy ngay). - Mỗi trò chơi học tập gồm 3 phần: + Nội dung chơi: Đây chính là nhiệm vụ học tập, nó có tính chất như một bài toán mà trẻ phải giải dựa trên những điều kiện đã cho. Nội dung chơi là thành phần cơ bản của trò chơi học tập, nó gây sự hứng thú, kích thích tính tò mò của trẻ nhờ các tình huống có vấn đề. + Hành động chơi: là hệ thống các thao tác mà trẻ thực hiện trong quá trình chơi để giải quyết các nhiệm vụ học tập. Các hành động chơi phức tạp dần theo sự phát triển của trẻ. Chẳng hạn, thao tác chơi của trẻ mẫu giáo bé rất đơn giản, dừng lại ở mức độ di chuyển, sắp xếp lại, so sánh, phân loại dựa vào những dấu hiệu bề ngoài như màu sắc, hình dạng, kích thước Đến tuổi mẫu giáo nhỡ và mẫu giáo lớn, thao tác chơi phức tạp hơn, đòi hỏi sự liên hệ giữa các trẻ với nhau khi thực hiện nhiệm vụ chơi, đòi hỏi phải có tính liên tục và tuần tự. Nhiều trò chơi đòi hỏi phải suy nghĩ kĩ trước khi làm động tác chơi. + Luật chơi: Mỗi trò chơi học tập đều có luật chơi do nội dung chơi qui định. Luật chơi có vai trò quan trọng, nó xác định tính chất, phương pháp hành động, tổ chức, điều khiển hành vi cùng mối quan hệ giữa các trẻ trong khi chơi. Luật chơi là tiêu chuẩn khách quan để đánh giá khả năng của mọi trẻ. - Trò chơi học tập bao giờ cũng có một kết qủa nhất định, đó là lúc kết thúc trò chơi trẻ hoàn thành một nhiệm vụ nhận thức nào đó. 3.3.2.4.3. Ý nghĩa của trò chơi học tập đối với trẻ mẫu giáo - Trò chơi học tập là một phương tiện quan trọng để giáo dục và phát triển trí tuệ cho trẻ mẫu giáo: + Trò chơi học tập tác động trực tiếp đến việc củng cố và phát triển các quá trình nhận thức như cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng, ngôn ngữ cho trẻ. + Trò chơi học tập còn là phương tiện phát triển các năng lực hoạt động trí tuệ cho trẻ như tính định hướng, tính linh hoạt, tính độc lập , tính sáng tạo + Nhờ trò chơi học tập mà trẻ tiếp thu được một số tính chất của đồ vật như màu sắc, hình dạng, kích thước, định hướng được trong không gian, âm thanh. +Trong một chừng mực nào đó, trò chơi học tập vừa là phương pháp, phương tiện dạy học, vừa là hình thức tổ chức dạy học Nó được sử dụng trong các tiết học nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của trẻ mẫu giáo. - Trò chơi học tập còn có tác dụng giáo dục một số phẩm chất đạo đức cho trẻ như tính thật thà, tính tự lực, tính tổ chức Luật chơi trực tiếp điều khiển 99
  33. hành vi của trẻ. Trong các trò chơi học tập tập thể trẻ còn học được cách giao tiếp với nhau. 3.3.2.4.4. Các loại trò chơi học tập và việc tổ chức hướng dẫn a. Các loại trò chơi học tập Trò chơi học tập bao gồm các loại: - Trò chơi học tập với đồ vật và tranh in - Trò chơi lô tô - Trò chơi học tập bằng lời - Trò chơi âm nhạc b. Tổ chức, hướng dẫn Việc hướng dẫn trò chơi học tập cho trẻ mẫu giáo thường được tiến hành theo các bước sau: Bước 1: Lựa chọn trò chơi Trước hết cô giáo cần lựa chọn trò chơi cho phù hợp với mục đích sử dụng: dùng trong các tiết học nhằm củng cố tri thức cho trẻ hay dùng trong giờ chơi tự do? Trò chơi nào cho cá nhân trẻ, nhóm trẻ hay toàn lớp? Tuỳ từng nhiệm vụ giấo dục – phát triển mà giáo viên lựa chọn trò chơi cho phù hợp với trẻ. Bước 2: Giải thích, hướng dẫn trò chơi Cô gây hứng thú của trẻ đến trò chơi, sau đó phổ biến nội dung chơi, luật chơi và cách tiến hành chơi. Việc hướng dẫn trò chơi cần phù hợp với đặc điểm nhận thức của trẻ ở từng độ tuổi. - Đối với trẻ mẫu giáo bé, cô cần giải thích luật chơi, nhiệm vụ chơi, bằng ngôn ngữ ngắn gọn, rõ ràng, giàu hình ảnh, cô vừa giải thích vừa làm mẫu từng động tác để minh hoạ. - Đối với trẻ mẫu giáo nhỡ: khi hướng dẫn chơi cô giáo phải xác định rõ yêu cầu và nhiệm vụ mà trẻ phải giải quyết trong khi chơi, có thể hướng dẫn bằng lời, sau đó đề nghị trẻ nhắc lại luật chơi và làm thử động tác chơi. - Đối với trẻ mẫu giáo lớn: cô không nên giới thiệu tỉ mỉ luật chơi mà chỉ nên đặt ra câu hỏi để trẻ tìm cách chơi. Bước 3: Tiến hành chơi Cô cần chú ý để trẻ chơi thoải mái, khuyến khích những trẻ rụt rè, thường xuyên lôi cuốn những trẻ nói kém tham gia các trò chơi thích hợp, đồng thời chú ý đến khả năng trí tuệ của cá nhân trẻ. - Nếu trò chơi mới thì sau khi hướng dẫn trò chơi, cô tổ chức cho trẻ chơi theo từng nhóm, cô theo dõi trẻ chơi. Đối với những trò chơi có hành động chơi và luật chơi phức tạp thì cô có thể chơi cùng trẻ 1-2 lần đầu, sau đó để trẻ 100
  34. tự chơi. Đối với trẻ mẫu giáo bé, cô nên cùng chơi với trẻ để gây hứng thú cho trẻ và hướng dẫn trẻ chơi. - Nếu trò chơi đã cũ, thì sau khi yêu cầu trẻ nhớ lại nội dung chơi, luật chơi, cô phân nhóm để trẻ tiến hành chơi. Cô theo dõi trẻ chơi có đúng luật không, nếu trẻ chơi thực hiện sai luật thì cô không nên dừng ngay cuộc chơi của trẻ mà cứ để trẻ chơi xong một lượt và gợi ý các bạn nhận xét, trên cơ sở đó giúp trẻ nhớ lại luật chơi để thực hiện đúng. Đối với những trò chơi có tính tập thể cô nên tổ chức dưới hình thức thi đua giữa các trẻ hoặc giữa các tập thể trẻ với nhau để tăng thêm sự thú chơi cho trẻ, kích thích trẻ làm theo yêu cầu và nhanh nhẹn, chính xác hơn khi thực hiện trò chơi. Bước 4: Nhận xét sau khi chơi - Căn cứ vào luật chơi, nội dung chơi cô đánh giá khả năng chơi của trẻ. Ngoài ra cần nhận xét về thái độ của trẻ khi tham gia trò chơi. Tuỳ vào trẻ ở từng độ tuổi mà cô lựa chọn hình thức nhận xét cho phù hợp. Đồng thời cần tạo điều kiện cho trẻ tự nhận xét, đánh giá mình và các bạn. 3.3.2.4.5. Một số yêu cầu khi tổ chức trò chơi học tập - Trò chơi học tập phải hấp dẫn để kích thích tính tính tích cực và tính tự lập của trẻ. Trò chơi phải phù hợp với vốn hiểu biết và năng lực nhận thức của trẻ ở từng độ tuổi, nội dung chơi, luật chơi, hành động chơi phải được phức tạp dần theo sự phát triển của trẻ. - Cần lựa chọn các trò chơi học tập đa dạng khác nhau để luyện tập, để chơi nhằm gây hứng thú cho trẻ. - Các trò chơi học tập được sử dụng trên tiết học phải phù hợp và phục vụ cho nội dung học. - Các trò chơi học tập ngoài giờ học cần theo một hệ thống nhất định và cô phải chú ý hướng dẫn trẻ chơi. - Cần chuẩn bị đầy đủ các loại đồ chơi học tập phục vụ thiết thực cho trò chơi. 3.3.2.5. Trò chơi vận động 3.3.2.5.1. Khái niệm: Trò chơi vận động là những trò chơi nhằm rèn luyện và phát triển các kỹ năng vận động và các tố chất thể lực của trẻ mẫu giáo. Khi tham gia trò chơi này, trẻ giải quyết nhiệm vụ vận động như một nhiệm vụ thực hành dưới hình thức chơi vui vẻ. 3.3.2.5.2. Đặc điểm: - Trò chơi do người lớn nghĩ ra với nhiệm vụ, hành động chơi và luật chơi có sẵn (cũng có thể là do nhân dân từ bao đời truyền lại). 101
  35. - Mỗi trò chơi vận động có 3 thành phần liên quan chặt chẽ với nhau: + Nội dung chơi (nhiệm vụ vận động): Đây là thành phần cơ bản của trò chơi. Các nhiệm vụ này thường được thể hiện dưới một hình tượng nào đó như: “mào”, “chuột”, “rồng”, “rắn”, “gà”, “quạ” Vì vậy, nội dung chơi thường gây hứng thú cho trẻ. + Hành động chơi: Đó chính là những động tác vận động khi chơi. + Luật chơi: Là những qui định mà trẻ phải tuân theo khi chơi. - Trò chơi vận động thường có lời ca, tiếng hát (có vần, có nhịp) kèm theo để trẻ thực hiện đúng động tác và tăng thêm tính sinh động, hấp dẫn của quá trình chơi. 3.3.2.5.3. Ý nghĩa của trò chơi vận động Trò chơi vận động là phương tiện quan trọng để giáo dục thể lực cho trẻ mẫu giáo. Thể hiện: - Rèn luyện và hoàn thiện các vận động cơ bản cho trẻ như chạy, nhảy, bò trườn , phát triển các phẩm chất vận động cho trẻ - Tạo cho trẻ niềm vui sướng, những xúc cảm lành mạnh, nâng cao năng lực hoạt động của hệ thần kinh. - Là phương tiện rất tốt để chống lại sự mệt mỏi, căng thẳng của trẻ trong hoạt động học tập, qua đó tăng cường khả năng tập trung của trẻ. - Trò chơi vận động còn giúp trẻ hình thành một số phẩm chất đạo đức như tính kiên trì, tính tập thể 3.3.2.5.4. Phân loại trò chơi vận động a. Theo nguồn gốc của trò chơi - Trò chơi dân gian (do nhân dân nghĩ ra) - Trò chơi có tác giả b. Theo cấu trúc của trò chơi -Trò chơi vận động có chủ đề - Trò chơi vận động không có chủ đề (Còn gọi là trò chơi với những dụng cụ thể thao). c. Theo tính chất tổ chức trò chơi - Chia theo nhóm chơi - Không chia theo nhóm chơi - Theo các dạng vận động cơ bản: như nhảy lò cò, chơi chạy thi v.v 3.3.2.5.5. Hướng dẫn trò chơi vận động Việc tổ chức trò chơi vận động có thể tiến hành theo các bước sau: Bước 1: Lựa chọn trò chơi Khi lựa chọn trò chơi cần chú ý đến tính chất của vận động, tính hợp lí và dễ hiểu của luật chơi và nội dung chơi. Đồng thời cần chuẩn bị cơ sở vật chất để trẻ chơi (nơi chơi, đồ chơi, dụng cụ luyện tập). Bước 2: Giới thiệu trò chơi Cần tạo cho trẻ tâm thế vào trò chơi bằng cách giới thiệu trò chơi một cách sinh động, hấp dẫn. Có thể sử dụng bài hát, bài thơ, câu đố khi giới thiệu 102
  36. trò chơi nhằm gây hứng thú cho trẻ. Sau đó cô phổ biến nội dung chơi, luật chơi. Đối với trẻ mẫu giáo bé, nhỡ cô phải giải thích cụ thể kết hợp với làm mẫu. Còn đối với trẻ mẫu giáo lớn để cho trẻ tự làm. Bước 3: Theo dõi quá trình chơi Đối với trẻ mẫu giáo bé cô cùng chơi với trẻ 1-2 lần đầu để giúp trẻ nắm được luật chơi, cách chơi. Cô luôn theo dõi, kiểm tra xem trẻ có tuân thủ luật chơi hay không (nhất là lớp mẫu giáo bé), thái độ của trẻ đối với bạn, với đồ chơi. Cô cần chú ý và tạo ra các yếu tố chơi mang tính chất thi đua nhằm giúp trẻ cố gắng hơn nữa và tạo ra niềm vui cho trẻ. Tuy nhiên, không để trẻ vận động quá nhiều hoặc vận động không đồng đều, đảm bảo có sự luân phiên các vận động trong lúc chơi. Bước 4: Nhận xét chơi Đối với trẻ mẫu giáo bé và nhỡ, cô nhận xét trong quá trình trẻ chơi, chủ yếu là động viên, khuyến khích trẻ. Kết thúc trò chơi nhẹ nhàng, chuyển sang hoạt động tĩnh. Riêng lớp lớn thì cô có thể nhận xét buổi chơi, đồng thời tập cho trẻ tự nhận xét bản thân mình và các bạn căn cứ vào nội dung chơi, luật chơi, thái độ của trẻ trong khi chơi. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Phân tích nguồn gốc, bản chất của hoạt động vui chơi của trẻ mẫu giáo. 2. Phân tích vai trò, ý nghĩa của hoạt động vui chơi đối với sự phát triển nhân cách của trẻ mẫu giáo. 3. Chứng minh trò chơi đóng vai theo chủ đề là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo. 4. Phân tích phương châm “Trẻ mẫu giáo học mà chơi, chơi mà học”. 5. So sánh trò chơi đóng vai theo chủ đề với trò chơi xây dựng – lắp ghép. 6. Trình bày cách thức tổ chức, hướng dẫn các loại trò chơi cho trẻ mẫu giáo. 7. Lập kế hoạch tổ chức một buổi chơi cho trẻ ở các độ tuổi (bé, nhỡ, lớn). 3.4. Tổ chức hoạt động dạy học ở mầm non 3.4.1. Quá trình dạy học mầm non 3.4.1.1. Dạy học ở mẫu giáo và ý nghĩa của nó 3.4.1.1.1. Khái niệm về quá trình dạy học mầm non Dạy học ở trường mẫu giáo là quá trình được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống nhằm trang bị cho trẻ một hệ thống tri thức sơ đẳng thế giới xung quanh, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo tưng ứng, phát triển các năng lực nhận thức, góp phần hình thành nhân cách cho trẻ. 3.4.1.1.2. Ý nghĩa của dạy học ở mầm non Dạy học ở mầm non có những ý nghĩa sau đây: - Dạy học là con đường cơ bản, quan trọng giúp cho trẻ trong một thời gian ngắn có thể lĩnh hội một khối lượng tri thức văn hoá chung nhất, đã được lựa chọn, hệ thống hoá cho phù hợp với trình độ phát triển của trẻ. 103
  37. - Dạy học là con đường quan trọng bậc nhất giúp trẻ phát triển một cách có hệ thống năng lực hoạt động trí tuệ nói chung, đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo. - Dạy học ở mầm non không những cung cấp cho trẻ một khối lượng tri thức sơ đẳng, cần thiết, góp phần phát triển năng lực nhận thức và tư duy của trẻ mà còn hình thành ở trẻ những kỹ năng học tập cần thiết. Đây là điều quan trọng để trẻ học tập có kết quả ở trường phổ thông. - Dạy học là con đường, phương tiện thúc đẩy các mặt giáo dục khác như thể dục, đức dục, giáo dục lao động, giáo dục thẩm mỹ, đặc biệt là góp phần hình thành cho trẻ những phẩm chất đạo đức. Như vậy, dạy học là con đường, là phương tiện rất quan trọng để hình thành và phát triển toàndiện nhân cách cho trẻ mầm non. 3.4.1.2. Cấu trúc của quá trình dạy học mầm non Xét theo quan điểm hẹ thống, quá trình dạy học là một chỉnh thể, có cấu trúc gồm nhiều thành tố, mỗi thành tố có vị trí xác định, có chức năng riêng và chúng có mối quan hệ mật thiết, biện chứng với nhau. Mỗi thành tố vận động theo qui luật riêng và đồng thời tuân theo qui luật chung của toàn hệ thống. Qúa trình dạy học mầm non bao gồm các thành tố cấu trúc sau: - Mục đích, nhiệm vụ dạy học: Mục đích là cái chính cần đạt, từ mục đích mà xác địch nhiệm vụ dạy học. Hoạt động dạy học ở trường mầm non hướng vào mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp một. - Nội dung dạy học: Hệ thống những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà trẻ cần nắm vững. Đó là những tri thức văn hoá chung nhất biểu hiện dưới dạng những biểu tượng gần gũi, dễ hiểu đối với trẻ em. Nội dung dạy cho trẻ mầm non được qui định trong " Chương trình giáo dục mầm non " do Bộ GD - ĐT ban hành. - Phương pháp dạy học: Là cách thức hoạt động phối hợp giữa cô và trẻ nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học đã đề ra. - Giáo viên: Là chủ thể của hoạt động dạy học, là người tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập cho trẻ. Giáo viên là người giữ vai trò chủ đạo trong quá trình dạy học mầm non. - Trẻ mầm non: Vừa là chủ thể vừa đối tượng của hoạt động dạy học. Trẻ giữ vai trò chủ động, tích cực trong quá trình dạy học nhằm tiếp thu những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mà cô truyền thụ. - Kết quả dạy học: phản ánh một cách tập trung nhất ở trình độ nhận thức, ở mức độ lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ năng của trẻ. Các thành tố trên đây có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau và đều chịu sự chi phối của môi trường kinh tế- xã hội, khoa học và công nghệ. 3.4.1.3. Đặc điểm của quá trình dạy học mầm non 104
  38. Do đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ em lứa tuổi mầm non, quá trình dạy học ở mầm non có đặc điểm khác với quá trình dạy học ở trường phổ thông cả về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy hoc. * Về nội dung dạy học: - Ở trường phổ thông: Trang bị cho học sinh những cơ sở của tri thức khoa học, các môn học tương ứng với các khoa học về tự nhiên- xã hội, tư duy, cách thức hoạt động - Ở trường mầm non: Cung cấp cho trẻ những tri thức xác thực về khoa học, nhưng rất sơ đảng về các sự vât, hiện tượng xung quanh. Đó là những tri thức văn hoá chung nhất biểu hiện dưới dạng những biểu tượng gần gũi, dễ hiểu đối với trẻ em. Số lượng tri thức, kỷ năng, kỷ xảo cần cung cấp cho trẻ không đáng kể so với phổ thông. * Về phương pháp dạy học: - Ở trường phổ thông: Các phương pháp trực quan được sử dụng rộng rãi, tuy nhiên cũng cần nhiều phương pháp dạy học dùng lời khác vì tư duy trừu tượng của trẻ đã phát triển hơn. - Ở trường mầm non: Các phương pháp trưc quan, trò chơi được sử dụng rộng rãi hơn; việc lĩnh hội tài liệu mới phải được diễn ra trong quá trình hoạt động của trẻ: trong các thao tác thực hành với đồ vật, trong các trò chơi, các hoạt động tạo ra sản phẩm; phải sử dụng nhiều thủ thuật, biện pháp dạy học khác nhau, luôn thay đổi, sinh động hấp dẫn phù hợp với tâm lý của trẻ. * Về hình thức tổ chức dạy học: - Ở trường phổ thông: cấu trúc các bước lên lớp được chia nhỏ, mỗi tiết học 35 phút, mỗi ngaỳ từ 4-5 tiết. - Ở trường mầm non: Cũng chia thành tiết học, song tiết học khác với phổ thông về thời gian, cấu trúc, mức độ, yêu cầu đề ra cho trẻ. Cấu trúc tiết học ít được chia nhỏ, không tách biệt và kết hợp với nhau thành một thể thống nhất, liên tục. Trong tiết học không có bước kiểm tra riêng, không cho điểm, không giao nhiệm vụ về nhà. Theo tinh thần đổi mới giáo dục mầm non, hoạt động dạy học ở mầm non được tổ chức theo hướng tiếp cận tích hợp các nội dung học. Các nội dung học này không phân chia theo các “bộ môn”, không phân bố cụ thể vào các tiết học như ở phổ thông mà theo những chủ đề có chứa đựng những tri thức sơ đẳng của đời sống văn hoá- xã hội và tự nhiên. Tuy nhiên dạy học ở trường mầm non cũng phải bảo đảm một chương trình có hệ thống với những yêu cầu chung về tri thức và kỷ năng mà trẻ phải lĩnh hội. 3.4.1.4. Bản chất của quá trình dạy học mầm non 3.4.1.4.1. Những cơ sở để xác định bản chất của quá trình dạy học * Mối quan hệ giữa nhận thức và dạy học Để tồn tại và phát triển, con người phải thường xuyên nhận thức thế giới khách quan xung quanh mình, dần dần tích luỹ được hệ thống tri thức về tự nhiên – xã hội, tư duy. Hệ thống tri thức này được truyền lại cho thế hệ sau 105
  39. thông qua con đường dạy học và không ngừng được mở rộng và sâu sắc hơn. Như vậy, trong xã hội diễn ra đồng thời hoạt động của nhận thức của loài người và hoạt động dạy học cho thế hệ trẻ. Trong đó, hoạt động nhận thức của loài người đi trước hoạt động dạy học. Hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học có tính độc đáo riêng. Nó được diễn ra trong điều kiện sư phạm nhất định. * Mối quan hệ giữa dạy và học, thầy và trò. Quá trình dạy học là một hệ thống bao gồm các nhân tố khác nhau. Trong đó nhân tố thầy- trò là nhân tố trung tâm, đặc trưng cho tính chất hai mặt của quá trình dạy học. Vì không có hai nhân tố này thì các yếu tố khác của quá trình sẽ không phát huy được tác dụng của mình. Hoạt động dạy của giáo viên xét cho cùng là nhằm thúc đẩy hoạt động nhận thức của trẻ. - Giáo viên và hoạt động dạy giữ vai trò chủ đạo trong quá trình dạy học cho trẻ mầm non, là người tổ chức quá trình hoạt động của trẻ để thông qua các hoạt động đó trẻ lĩnh hội tri thức, kỷ năng, kỷ xảo. Với vai trò này, người giáo viên phải xác định mục tiêu, nhiệm vụ, lựa chọn nội dung, phương pháp, phương tiện, các biện pháp, các hình thức tổ chức dạy học, dự kiến các tình huống sư phạm nảy sinh. Mặt khác, trẻ mầm non chưa đọc được sách, cho nên dạy học ở mầm non mang tính chất "truyền khẩu". Điều này đòi hỏi ngôn ngữ của giáo viên phải truyền cảm, mạch lạc, dễ hiểu. Hoạt động dạy của giáo viên chủ yếu là nhằm tổ chức hoạt động nhận thức của trẻ. - Trong quá trình dạy học ở mầm non, trẻ vừa là đối tượng điều khiển- khách thể của hoạt động dạy học, vừa là chủ thể nhận thức. Học tập là hoạt động độc lập của trẻ nhằm lĩnh hội tri thức, kỷ năng, kỷ xảo và phương thức hành động, diễn ra dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Kết quả dạy học phản ánh tập trung ở kết quả nhận thức của trẻ. Vì vậy, quá trình dạy học về bản chất là quá trình nhận thức của trẻ. 3.4.1.4.2.Đặc điểm quá trình nhận thức của trẻ mầm non Quá trình nhận thức của trẻ mẫu giáo về cơ bản cũng diễn ra theo qui luật nhận thức chung của loài người: - Cũng là quá trình phản ánh thế giới khách quan vào ý thức của trẻ - Cũng dựa trên sự huy động các thao tác tư duy. - Cũng làm cho vốn sống của trẻ phong phú thêm. Tuy nhiên quá trình nhận thức của trẻ có những đặc điểm riêng: - Ở trẻ mầm non nhận thức cảm tính là chủ yếu, (quá trình nhận thức của trẻ còn nặng tính trực quan). - Hoạt động nhận thức của trẻ được diễn ra trong quá trình dạy học với những điều kiện sư phạm nhất định (có nội dung chương trình được lựa chọn, sắp xếp cho phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của trẻ ở từng độ tuổi, có phương pháp dạy học khoa học). - Quá trình nhận thức của trẻ phải có tính giáo dục. - Quá trình nhận thức của trẻ mầm non bao gồm các thành phần: 106