Giáo trình Lí luận văn học - Lê Lưu Oanh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Lí luận văn học - Lê Lưu Oanh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_li_luan_van_hoc_le_luu_oanh.pdf
Nội dung text: Giáo trình Lí luận văn học - Lê Lưu Oanh
- Lê Lưu Oanh - Phạm Đăng Dư LÍ LUẬN VĂN HỌC Trường Đại học sư phạm Hà Nội
- Giáo trình Lí luận Văn học dành cho ngành cử nhân giáo dục tiểu học hệ chính quy, tại chức từ xa Trường Đại học sư phạm Hà Nội Lê Lưu Oanh (chủ biên), Phạm Đăng Dư Sách điện tử (bản in một mặt v2011.8.3), dựa trên bản in của Nhà xuất bản Đại học sư phạm Hà Nội - 2008. 2
- Lời nói đầu Công tác đào tạo đội ngũ giáo viên bậc tiểu học có trình độ cử nhân Đại học sư phạm ngày càng có vị trí quan trọng trong hệ thống đào tạo của Trường Đại học sư phạm Hà Nội. Việc biên soạn cuốn giáo trình Lí luận Văn học của nhóm biên soạn chúng tôi nhằm giúp các bạn sinh viên hệ đào tạo chính quy tại khoa Giáo dục Tiểu học và các bạn học viên là giáo viên tiểu học theo học hệ đào tạo tại chức, từ xa, chuyên tu có thêm hiểu biết và nắm vững những kiến thức cơ bản về bộ môn Lí luận Văn học để từ đó có thể giảng dạy tốt môn Văn học ở bậc tiểu học. Nội dung cơ bản của cuốn giáo trình này dựa trên cơ sở những giáo trình Lí luận Văn học do GS. Phương Lựu và GS. Trần Đình Sử làm chủ biên, hiện đang được sử dụng giảng dạy cho sinh viên hệ chính quy của khoa Ngữ văn - Trường ĐHSP Hà Nội. Chúng tôi đã biên soạn lại cho phù hợp với chương trình đào tạo cử nhân ngành Giáo dục Tiểu học. Do đó, giáo trình được kết cấu gồm 4 phần chính sau đây: 1. Bản chất thẩm mĩ của văn học 2. Bản chất xã hội của văn học 3. Tác phẩm văn học 4. Loại thể văn học Mỗi phần gồm có nhiều chương. Trong từng chương, ngoài việc trình bày nội dung còn có phần Hướng dẫn học tập để các bạn sinh viên và học viên nắm vững những kiến thức cơ bản; phần Hệ thống câu hỏi và Bài tập thực hành để các bạn có thể vận dụng những kiến thức đó. Chúng tôi hy vọng nếu người học thực hiện nghiêm túc quy trình này việc học sẽ đạt kết quả tốt. Nhóm biên soạn chúng tôi đã cố gắng rất nhiều trong việc cập nhật kiến thức và hướng dẫn người học. Song vì trình độ có hạn nên giáo trình này không thể tránh khỏi những sai sót. Chúng tôi rất mong các thầy cô giáo, các bạn sinh viên sư phạm cả nước cũng như bạn đọc gần xa nhiệt tình chỉ giáo. Xin được trân trọng cảm ơn! Nhóm biên soạn Phạm Đăng Dư và Lê Lưu Oanh 3
- Mục lục I Bản chất thẩm mĩ của văn học 7 1 Văn học - hình thái ý thức thẩm mĩ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8 1.1 Đặc trưng đối tượng và nội dung của văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . 8 1.2 Hình tượng văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 14 1.3 Hướng dẫn học tập . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 20 2 Văn học - nghệ thuật ngôn từ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 23 2.1 Ngôn từ - chất liệu của văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 23 2.2 Những đặc điểm của văn học với tư cách là nghệ thuật ngôn từ . . . . . . . 25 2.3 Hướng dẫn học tập . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 29 3 Tính đa chức năng của văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 32 3.1 Chức năng thẩm mĩ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 32 3.2 Chức năng nhận thức . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 35 3.3 Chức năng khêu gợi tư tưởng, tình cảm (chức năng giáo dục) . . . . . . . . 37 3.4 Chức năng giao tiếp và giải trí . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 38 3.5 Vị trí của văn học trong cuộc sống hiện đại . . . . . . . . . . . . . . . . . . 39 3.6 Hướng dẫn học tập . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 40 4 Các phạm trù thẩm mĩ cơ bản . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 43 4.1 Cái đẹp . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 43 4.2 Cái bi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 48 4.3 Cái hài . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 51 4.4 Hướng dẫn học tập . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 53 5 Nhà văn - chủ thể thẩm mĩ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 55 5.1 Tài năng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 55 5.2 Quá trình sáng tạo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 62 5.3 Hướng dẫn học tập . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 67 4
- Mục lục II Bản chất xã hội của văn học 70 6 Nguồn gốc và bản chất xã hội của văn học . . . . . . . . . . . . . . . . 71 6.1 Nguồn gốc của văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 71 6.2 Bản chất xã hội của văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 74 6.3 Hướng dẫn học tập . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 78 7 Hiện thực trong văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 80 7.1 Hiện thực và vấn đề tính chân thật của văn học . . . . . . . . . . . . . . . 80 7.2 Vai trò nghệ sĩ trong nhận thức hiện thực . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 82 7.3 Hiện thực trong văn học - hiện thực thứ hai được sáng tạo lại . . . . . . . . 84 7.4 Hướng dẫn học tập . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 85 8 Tính khuynh hướng của văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 89 8.1 Tính giai cấp trong văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 89 8.2 Tính nhân dân trong văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 93 8.3 Tính dân tộc và tính nhân loại trong văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . 96 8.4 Hướng dẫn học tập . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 100 III Tác phẩm văn học 103 9 Tác phẩm văn học là chỉnh thể trung tâm của văn học . . . . . . . . . . 104 9.1 Tác phẩm văn học là một chỉnh thể . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 104 9.2 Nội dung và hình thức của tác phẩm văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . 107 9.3 Hướng dẫn học tập . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 112 10 Đề tài, chủ đề, tư tưởng và cảm hứng của tác phẩm văn học . . . . . . 116 10.1 Đề tài và chủ đề – những phương diện khách quan của nội dung tác phẩm . 116 10.2 Tư tưởng và cảm hứng – những phương diện chủ quan của nội dung tác phẩm119 10.3 Ý nghĩa của tác phẩm văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 122 10.4 Hướng dẫn học tập . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 122 11 Nhân vật trong tác phẩm văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 126 11.1 Nhân vật văn học và vai trò của nhân vật trong tác phẩm . . . . . . . . . . 126 11.2 Các loại hình nhân vật văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 127 11.3 Các phương thức và thủ pháp nghệ thuật thể hiện nhân vật . . . . . . . . . 131 11.4 Hướng dẫn học tập . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 132 12 Kết cấu của tác phẩm văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 134 12.1 Khái niệm . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 134 12.2 Các cấp độ kết cấu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 138 12.3 Hướng dẫn học tập . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 146 13 Lời văn trong tác phẩm văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 149 13.1 Lời văn trong tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật . . . . . . . 149 5
- Mục lục 13.2 Các phương tiện tổ chức nên lời văn nghệ thuật . . . . . . . . . . . . . . . . 151 13.3 Các thành phần của lời văn trong tác phẩm văn học . . . . . . . . . . . . . 155 13.4 Hướng dẫn học tập . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 156 IV Loại thể văn học 159 14 Tác phẩm tự sự . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 160 14.1 Đặc điểm chung của tác phẩm tự sự . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 160 14.2 Các thể loại tự sự cơ bản . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 164 14.3 Hướng dẫn học tập . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 174 15 Tác phẩm trữ tình . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 176 15.1 Đặc điểm chung của tác phẩm trữ tình . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 176 15.2 Một số đặc điểm về nghệ thuật thơ trữ tình . . . . . . . . . . . . . . . . . . 179 15.3 Hướng dẫn học tập . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 184 16 Kịch bản văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 187 16.1 Đặc điểm của kịch bản văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 187 16.2 Phân loại kịch . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 193 16.3 Vài nét về sự phát triển của kịch ở Việt Nam . . . . . . . . . . . . . . . . . 195 16.4 Hướng dẫn học tập . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 196 17 Kí văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 197 17.1 Đặc trưng của kí văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 197 17.2 Phân loại kí . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 202 17.3 Hướng dẫn học tập . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 208 6
- Phần I Bản chất thẩm mĩ của văn học 7
- Chương 1 Văn học - hình thái ý thức thẩm mĩ Văn học là một hình thái ý thức xã hội, bắt nguồn từ đời sống, phản ánh đời sống, bày tỏ một quan điểm, một cách nhìn, một tình cảm đối với đời sống. Nhưng văn học nói riêng cũng như nghệ thuật nói chung, không giống các hình thái ý thức xã hội khác bởi có những đặc thù riêng mang tính thẩm mĩ về đối tượng, nội dung và phương thức thể hiện. 1.1 Đặc trưng đối tượng và nội dung của văn học 1.1.1 Đối tượng của văn học Nội dung là yếu tố đầu tiên quy định sự khác nhau của văn học so với các hình thái ý thức xã hội khác như chính trị, đạo đức, tôn giáo, lịch sử, địa lí, sinh học Nội dung, trước hết là cái được nhận thức, chiếm lĩnh từ đối tượng. Vậy đối tượng của văn học là gì? Mĩ học duy tâm khách quan từ thời Platông đến Hêghen đều cho rằng đối tượng của nghệ thuật chính là biểu hiện của thế giới thần linh, của những linh cảm thần thánh, của ý niệm tuyệt đối - một thế giới sản sinh trước loài người. Nghĩa là, mọi đối tượng của nghệ thuật cũng như của văn học đều là thế giới của thần linh, của những điều huyền bí, cao cả. Văn học nghệ thuật suy cho cùng là sự hồi tưởng và miêu tả thế giới ấy, một thế giới không thuộc phạm vi đời sống hiện thực. Quan điểm này đã đề cao và thần thánh hóa đối tượng của văn học nghệ thuật. Cho nên không lạ gì khi chúng ta bắt gặp hầu hết đối tượng phản ánh của văn học, nghệ thuật thời cổ chính là các câu chuyện về các vị thần linh: từ người khổng lồ Khoa Phụ đuổi bắt mặt trời, Nữ Oa vá trời trong thần thoại Trung Quốc, đến các vị thần trên đỉnh Olempơ và con cháu của của các vị thần đó như Hécquyn, Asin trong văn học Hi Lạp cổ đại, rồi Thánh Gióng, Sơn Tinh, Thủy Tinh, Lạc Long Quân và Âu Cơ của người Việt. 8
- 1.1. Đặc trưng đối tượng và nội dung của văn học Mĩ học duy tâm chủ quan lại cho rằng, đối tượng nghệ thuật chính là những cảm giác chủ quan, là cái tôi bề sâu trong bản chất con người của nghệ sĩ, không liên quan gì đến đời sống hiện thực. Đây là một quan điểm đầy mâu thuẫn, bởi mọi cảm giác của con người bao giờ cũng chính là sự phản ánh của thế giới hiện thực. Còn các nhà mĩ học duy vật từ xưa đến nay đều khẳng định, đối tượng của nghệ thuật chính là toàn bộ đời sống hiện thực khách quan. Tsécnưsépxki đã nói: Phạm vi của nghệ thuật gồm tất cả những gì có trong hiện thực (trong thiên nhiên và trong xã hội) làm cho con người quan tâm1. Quan điểm này đã đưa đối tượng của nghệ thuật về gần gũi với hiện thực đời sống. Thực ra, từ thời xa xưa, con người đã biết văn học nghệ thuật bắt nguồn từ đời sống. Ở Trung Quốc, thuyết cảm vật đã chỉ rõ: mùa xuân, mùa thu, các mùa thay thế nhau, làm cảnh vật biến đổi, tâm hồn cũng thay đổi theo. Còn theo các thuyết thi ngôn chí, thi duyên tình: văn chương tạo nên do con người có cảnh ngộ trong lòng mình muốn bộc lộ, mà cảnh ngộ đó cũng là do tác động của đời sống tạo nên. Như vậy, có thể nói, đối tượng của văn học, nghệ thuật là toàn bộ đời sống xã hội và tự nhiên. Tsécnưsépxki từng nói: “Cái đẹp là cuộc sống” vì lí do đó. Nhưng phạm vi này vô cùng rộng. Bởi lẽ, nếu nói đối tượng của văn học là đời sống thì chưa tách biệt với đối tượng của các ngành khoa học và các hình thái ý thức xã hội khác như lịch sử, địa lí, hóa học, y học, chính trị, đạo đức Văn học phải có cách nhận thức và thể hiện đối tượng khác biệt. Nếu như đối tượng của triết học là những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức; đối tượng của lịch sử là các sự kiện lịch sử, sự thay thế nhau của các chế độ; đối tượng của đạo đức học là các chuẩn mực đạo đức trong mối quan hệ người với người thì đối tượng của văn học là toàn bộ đời sống hiện thực, nhưng chỉ là hiện thực có ý nghĩa đối với đời sống tâm hồn, tình cảm con người. Tức là, dù văn học có miêu tả thế giới bên ngoài như thiên nhiên, lịch sử, chiến tranh, hòa bình , văn học cũng chỉ chú ý tới quan hệ của chúng đối với con người. Văn học, nghệ thuật nhìn thấy trong các hiện tượng đời sống những ý nghĩa “quan hệ người kết tinh trong sự vật”2. Thế giới khách quan trong văn học là thế giới được kết cấu trong các mối liên hệ với con người. Người ta gặp tất cả các hình thức đời sống trong văn học, từ những hiện tượng tự nhiên “mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông”, tiếng sấm rền vang, giọt mưa rơi tí tách, tiếng sóng ào ạt xô bờ, một tiếng chim ban mai đến những biến cố lịch sử lớn lao. Nhưng cái văn học chú ý là kết quả, ý nghĩa của tất cả những hiện tượng đời sống đó đối với con người. Văn học không nhìn thiên nhiên như một nhà sinh học, một nhà khí tượng học, mà thấy ở đó tâm trạng, số phận, vận mệnh con người: tiếng chim ban mai là âm thanh của niềm vui sống, đám mây trắng vô tận là hình ảnh của sự hư vô, cái hư ảo, phù du của kiếp người. Ngay cả các hiện tượng lịch sử cũng được văn học nhìn nhận dưới góc độ khác biệt. Sau những những biến cố dữ dội của cách mạng Nga tháng Hai và tháng Mười năm 1917, Rôtsin đã nói với Katia: “Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, cách mạng sẽ thôi gào thét, chỉ còn tấm lòng em dịu dàng ngàn đời bất diệt” (Con đường đau khổ - A. Tônxtôi). Khi nhìn thấy ngôi sao chổi trên bầu trời Matxcơva năm 1812, trong lòng Pie Bêdukhốp tràn ngập những tình cảm cao thượng và mới mẻ (Chiến tranh và hòa bình - L. Tônxtôi). Điều văn học quan 1Tsécnưsépki. Quan hệ thẩm mĩ của nghệ thuật đối với hiện thực, tập 2, Nxb Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, Matxcơva, 1949, trang 64 (tiếng Nga). Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử Lí luận văn học. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004, trang 124 2Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử. Lí luận văn học (sách đã dẫn), trang 125 9
- 1.1. Đặc trưng đối tượng và nội dung của văn học tâm là tác động của những biến cố lịch sử, của tự nhiên, của thế giới xung quanh tới tâm hồn con người chứ không phải bản thân những biến cố ấy. Như vậy, đối tượng của văn học là hiện thực mang ý nghĩa người. Văn học không miêu tả thế giới trong ý nghĩa chung nhất của sự vật. Điều mà văn học chú ý chính là một “quan hệ người kết tinh trong sự vật”: dòng sông là nơi lưu giữ những kỉ niệm tuổi thơ, đầm sen là nơi gặp gỡ, giao duyên, con đê làng là ranh giới của hồn quê và văn minh thị thành Đó chính là những giá trị nhân sinh thể hiện trong sự vật. Có thể nói, đối tượng của văn học nói riêng, nghệ thuật nói chung, là toàn bộ thế giới hiện thực có ý nghĩa đối với sự sống con người, mang tư tưởng, tình cảm, khát vọng của con người. “Nghệ thuật được tác thành bởi con người. Nó là sự biểu đạt của con người trước thế giới tự nhiên và đời sống” (Bách khoa toàn thư Comtorp’s). Trong toàn bộ thế giới hiện thực đó, con người với toàn bộ các quan hệ của nó là đối tượng trung tâm của văn học. Toàn bộ thế giới khi được tái hiện trong tác phẩm đều được tái hiện dưới con mắt một con người cụ thể. Đó có thể là người kể chuyện, là nhân vật hoặc nhân vật trữ tình Con người trong văn học trở thành những trung tâm giá trị, trung tâm đánh giá, trung tâm kết tinh các kinh nghiệm quan hệ giữa con người và thế giới. Khi lấy con người làm hệ quy chiếu, làm trung tâm miêu tả, văn học có một điểm tựa nhìn ra thế giới, bởi văn học nhìn thế giới qua lăng kính của những con người có cá tính riêng. Do đó, miêu tả con người là phương thức miêu tả toàn thế giới3. Văn học không miêu tả con người như một nhà triết học, chính trị học, đạo đức học, y học, giải phẫu học , mà thấy đó là con người có lịch sử cá nhân, có tính cách, có tình cảm, có số phận với những quan hệ cụ thể, cá biệt. Khi nhà thơ Tố Hữu viết về Bác Hồ: Cha đã đi đày đau nỗi riêng, Còn nghe dưới gót nặng dây xiềng, Mẹ nằm dưới đất hay chăng hỡi, Xin sáng lòng con ngọn lửa thiêng (Theo chân Bác) ta thấy hiện lên hình ảnh Bác Hồ không phải như một nhà chính trị trừu tượng mà là một con người có tâm hồn, tình cảm và số phận riêng. Con người trong văn học còn tiêu biểu cho những quan hệ xã hội nhất định, vì vậy, con người được miêu tả vừa như những kiểu quan hệ xã hội kết tinh trong những tính cách (tham lam, keo kiệt, hiền lành, trung hậu ), vừa cả thế giới tâm hồn, tư tưởng của chính họ. Có thể nói, toàn bộ lịch sử văn học của nhân loại chính là lịch sử tâm hồn con người. Vì thế, con người trong văn học không giống với con người là đối tượng của các ngành khoa học khác như lịch sử, đạo đức, sinh học, y học Điều đó khẳng định tính không thể thiếu được của văn học trong lịch sử ý thức nhân loại. Bên cạnh con người là đối tượng chính, văn học còn hướng tới đời sống trong toàn bộ tính phong phú và muôn vẻ của các biểu hiện thẩm mĩ của nó. Đó là toàn bộ đời sống trong tính cụ thể, sinh động, toàn vẹn, với mọi âm thanh, màu sắc, mùi vị vô cùng sinh động và gợi cảm. Văn học cũng như nghệ thuật luôn hướng tới cái đẹp của đời sống, đặc biệt là cái đẹp về hình thức của sự vật: ánh chiều tà đỏ ối, một lá ngô đồng rụng, giọt sương mai long lanh. Nhưng tất cả cái đẹp này của cuộc sống cũng đều được tái hiện dưới con mắt của một con người cụ thể với những kinh nghiệm, ấn tượng và sự tinh tế. Có những bài thơ chỉ như bức tranh thiên nhiên, thiếu vắng con người: Lạc hà dữ cô lộ tề phi, 3Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử. Lí luận văn học (sách đã dẫn), trang 126 10
- 1.1. Đặc trưng đối tượng và nội dung của văn học Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc (Ráng chiều vạc lẻ cùng bay, Nước thu cùng với trời thu một màu) (Vương Bột) Nhưng bức tranh thực sự vẫn bộc lộ gián tiếp về cái nhìn của con người về tự nhiên, một tự nhiên giàu màu sắc và nhịp điệu, giàu sức sống và sức biểu hiện, làm thư thái tâm hồn con người. Đúng như Hêghen nhận xét “Đối tượng của thơ không phải là mặt trời, núi non, phong cảnh mà là những hứng thú về tinh thần”4, hoặc “Thiên nhiên là mẫu mực vĩnh hằng của nghệ thuật, và trong thiên nhiên thì đẹp đẽ và cao quý nhất vẫn là con người” (Biêlinxki)5. Vì vậy, có thể khẳng định, đối tượng của văn học là toàn bộ thế giới mà đời sống của con người là trung tâm. M. Gorki nhận xét “Văn học là nhân học” chính vì những lí do đó. 1.1.2 Nội dung của văn học Nội dung của văn học thống nhất với đối tượng của nó. Nội dung văn học cũng chính là con người với những quan hệ của nó ở một bình diện phức tạp hơn: Nội dung văn học là toàn bộ đời sống đã được ý thức, cảm xúc, đánh giá và phán xét phù hợp với một tư tưởng về đời sống, một cảm hứng và một lí tưởng thẩm mĩ và xã hội nhất định. Đó là một nội dung hòa quyện giữa hai mặt khách quan và chủ quan, vừa có phần khái quát, tái hiện đời sống khách quan vừa có phần bắt nguồn từ nhận thức, cảm hứng và lí tưởng của nghệ sĩ. Nội dung khách quan của văn học là toàn bộ đời sống hiện thực được tái hiện, từ các vấn đề lịch sử, con người, phong tục, đạo đức, xã hội, từ các chi tiết hiện thực đời sống nhỏ nhặt đến những biến cố xã hội lớn lao. Song như Lênin đã phát biểu về L. Tônxtôi “Nếu trước mắt chúng ta là một nghệ sĩ thực sự vĩ đại, thì chí ít trong tác phẩm của anh ta cũng phản ánh được vài ba khía cạnh căn bản của cuộc cách mạng”6. Điều đó có nghĩa là nội dung của đời sống khi đi vào tác phẩm văn học còn phải phản ánh được những chiều rộng, chiều sâu hiện thực và tầm cao tư tưởng của thời đại mình. Theo Lênin, Tônxtôi sở dĩ vĩ đại, bởi ông đã chỉ ra được sự bất bình, phẫn nộ của hàng triệu nông dân Nga khi bắt đầu cuộc cách mạng tư sản Nga. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã phơi bày một bức tranh hiện thực đầy rẫy những bất công, oan trái của xã hội phong kiến, mà thậm chí màn đoàn viên cũng là “bản cáo trạng cuối cùng” theo lời đánh giá của Xuân Diệu. Các nghệ sĩ lớn mọi thời đại đều là những người đứng giữa trung tâm của các vấn đề rộng lớn của hiện thực. Từ Khuất Nguyên đến Đỗ Phủ, từ Thi Nại Am đến Tào Tuyết Cần, từ Secxpia đến Bairơn, Đichken, Tháccơrây, Bandắc, Huygô, Đôtxtôiépxki, Puskin, Tônxtôi, Gôgôn, Gorki, Hêminguê, Sôlôkhốp, Macket không ai đứng bên lề các cơn bão táp của lịch sử và số phận của nhân dân. Các tác phẩm của họ đều đề cập đến số phận rộng khắp của nhân dân trên các vấn đề trung tâm của thời đại mình: niềm khao khát tự do, hạnh phúc, sự bạo ngược của cường quyền, quá trình làm giàu của tư sản và sự bần cùng hóa con người, các cuộc chiến tranh giành quyền bính của các tập đoàn phong kiến, các cuộc khởi nghĩa của nông dân, số phận con người trong dòng thác lịch sử cách mạng 4Hêghen. Mĩ học, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội, 1999, trang 484 5Biêlinxki. Nhận định về văn học Nga năm 1847, Tư liệu khoa Ngữ văn ĐHSPHN, 2000, trang 38 6Lênin. Bàn về Văn hóa Văn học, Nxb Văn học, Hà Nội, 1979, trang 249 11
- 1.1. Đặc trưng đối tượng và nội dung của văn học Bên cạnh đó, còn có những nội dung khách quan không mang những tầm vóc hiện thực lớn lao song ít nhiều đều chứa đựng ý nghĩa nhân sinh. Cứ tưởng rằng thế giới trong tác phẩm của Sêkhốp nằm bên lề những con đường lớn của lịch sử, những xung đột phức tạp của thời đại, nhưng nó lại đụng chạm đến lịch sử ở bề sâu tâm hồn và đời sống, qua những nỗi chán chường, sự đơn điệu, cuộc đời ngưng đọng7. Thơ ca trữ tình, từ những bài ca dân gian giản dị, mộc mạc đến những bài thơ tâm tình đều có những ý nghĩa nhân sinh đặc biệt: niềm yêu cuộc đời, nỗi xót xa thân phận, niềm mơ ước và khát vọng về hạnh phúc, tình cảm thiết tha nồng thắm về tình mẹ con, nghĩa vợ chồng Tất cả những nội dung đó đều góp phần bộc lộ thế giới tinh thần vô cùng phong phú của con người. Văn học phản ánh nội dung ý thức xã hội của thời đại mình. Văn học là sự vật thể hóa, ngưng kết hóa đời sống lịch sử với cấu trúc tâm lí thẩm mĩ của con người thuộc các thời đại là như thế. Không chỉ miêu tả đời sống khách quan (nội dung mang tính khách quan, gắn liền với đối tượng), trong văn học còn thể hiện những tình cảm xã hội, ước mơ, khát vọng, cảm hứng, lí tưởng thẩm mĩ, những chân lí được thể nghiệm, những thiên hướng đánh giá của chính tác giả. Toàn bộ đời sống hiện thực đi vào tác phẩm đã hóa thành nỗi niềm, khát vọng. Đọc Truyện Kiều, ta đâu chỉ thấy bộ mặt đời sống hiện thực xã hội phong kiến mà còn cảm nhận “tấm lòng sáu cõi, rộng nghìn đời” của Nguyễn Du thấm từng con chữ. Người xưa nói “viết như máu chảy đầu ngọn bút” chính là nói đến phần nội dung đầy cảm xúc chủ quan mãnh liệt này của chính bản thân con người sáng tác. Như vậy, nội dung chủ quan của văn học là hiện thực được nhìn nhận dưới con mắt nghệ sĩ, được khái quát theo kiểu nghệ thuật, được phơi bày dưới ánh sáng một thế giới quan, một lí tưởng thẩm mĩ và những thiên hướng tình cảm nhất định. Nội dung chủ quan có những khi được phát biểu trực tiếp, nhưng phần lớn ẩn đằng sau cách miêu tả hiện thực đời sống. Trong cấu trúc chủ quan của các yếu tố nội dung, yếu tố tình cảm là quan trọng nhất. Tình cảm, là thái độ, là phản ứng của con người đối với hiện thực. Đó là sự nhạy cảm và chiều sâu của những rung động tâm hồn, là sự phong phú của của các cung bậc cảm xúc, là sự mãnh liệt, say mê của lí tưởng, là sự phẫn nộ của con tim và khối óc Tình cảm, do đó, vừa là đối tượng mô tả, vừa là nội dung biểu hiện của nghệ thuật nói chung, là động cơ sáng tạo, làm cho cảm xúc, ý nghĩ, tư tưởng trở thành bức tranh, lời thơ, nốt nhạc, pho tượng. Tình cảm được thể hiện qua nhiệt tình, qua trực giác, qua cảm xúc thấm đẫm câu văn, lời thơ: Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu Hán, Phá vòng vây bạn với Kim ô (Chim trong lồng - Nguyễn Hữu Cầu), Gìn vàng giữ ngọc cho hay, Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời (Truyện Kiều - Nguyễn Du). Có những câu ca dao, lời lẽ rất đơn giản, nhưng vẫn là tác phẩm văn học bởi sức nặng của tình cảm chứa đựng trong đó: Chiều chiều ra đứng ngõ sau, ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều. Không có yếu tố tình cảm không thể có tác phẩm văn học. Tình cảm trong văn học là tình cảm mang tính xã hội. Đó là loại tình cảm dù là của cá nhân nhưng vẫn hướng tới mẫu số chung trong tình cảm nhân loại: tình yêu quê hương, niềm thương cha nhớ mẹ, lòng chung thuỷ, khát vọng tự do, hạnh phúc, chí khí bất khuất trước cường quyền Chính những tình cảm như vậy mới có khả năng chia sẻ và “lây lan 7Pôxpêlốp. Những vấn đề phát triển lịch sử văn học, Nxb Giáo dục, Matxcơva, 1971, trang 25 (tiếng Nga) 12
- 1.1. Đặc trưng đối tượng và nội dung của văn học tình cảm” (L. Tônxtôi), làm cho văn học không chỉ là tiếng nói riêng của một người mà trở thành tiếng nói chung của mọi người, thể hiện sâu sắc dấu ấn tinh thần thời đại và dân tộc. Tình cảm trong văn học còn thấm đượm màu sắc thẩm mĩ: đó là những tình cảm hướng tới những giá trị thẩm mĩ. Thơ ca cổ điển hướng tới cái đẹp hài hòa, tĩnh lặng; thơ ca lãng mạn thiên về hai thái cực: rực rỡ và u buồn; thơ ca cách mạng chiêm ngưỡng vẻ đẹp anh hùng, cao cả như những tiêu chuẩn của lí tưởng thẩm mĩ từng thời đại. Tuy nhiên, nghệ thuật không chỉ là tiếng nói tình cảm. Biêlinxki cho rằng, bản thân tình cảm chưa tạo thành thi ca. Bên cạnh tình cảm, nghệ thuật còn mang sức mạnh của tư tưởng và nó dùng tiếng nói của tình cảm để thể hiện quan niệm, lí tưởng thẩm mĩ của nghệ sĩ. Nghệ thuật bởi vậy không chỉ là tiếng nói tâm sự, giãi bày mà còn là tiếng nói của những tình cảm lớn, những tư tưởng lớn. Giá trị của tác phẩm còn nằm ở tầm tư tưởng của nó. Những nghệ sĩ lớn bao giờ cũng là nhà tư tưởng lớn. Qua tác phẩm, người nghệ sĩ thể hiện nguyện vọng, tư tưởng, tâm tư, yêu cầu xã hội. Tính cấp bách, chiều sâu, tầm cỡ và khuynh hướng xã hội - lịch sử của những tư tưởng và vấn đề được nêu ra xác định giá trị tác phẩm. Giá trị của những tác phẩm như Chiến tranh và hòa bình (L. Tônxtôi), Con gái viên đại úy (Puskin), Hội chợ phù hoa (Tháccơrây), Tấn trò đời (Bandắc), Con đường đau khổ (A. Tônxtôi), Chuông nguyện hồn ai (Hêminguê) nằm ở nội dung tư tưởng của những tác phẩm đó. Nhưng, tư tưởng tác phẩm không đơn thuần khô khan, thuần lí mà phải biến thành khát vọng, cảm hứng, thấm đượm tình cảm. Tư tưởng về nhân đạo trước hết phải gắn liền với nỗi đau về số phận con người, lòng thông cảm sâu xa (Truyện Kiều - Nguyễn Du), niềm tự hào về sức mạnh và khả năng con người (Hămlét - Sếchxpia). Tư tưởng về tự do thường gắn liền với nỗi đau về sự ràng buộc, về những giới hạn của con người (thơ Puskin). Tất nhiên, cũng có tác phẩm nghệ thuật mà ta thấy ở đó chủ yếu là kinh nghiệm, tư tưởng, như những câu tục ngữ, những loại thơ triết lí (thơ hai ku chẳng hạn), nhưng về cơ bản, những loại nghệ thuật đó cũng không tách rời được tình cảm ở phương thức biểu đạt, ở động cơ sáng tạo Tác phẩm văn học luôn mang khát vọng thiết tha muốn thể hiện một quan niệm về chân lí đời sống (chân lí về cái đẹp, cái thật, thể hiện trong các hiện tượng tự nhiên, trong tính cách và phẩm chất con người, trong các quan hệ người với người ). Đó là những chân lí đời sống mà nghệ sĩ đã thể nghiệm và muốn thuyết phục mọi người thấu hiểu. Trong thiên truyện Số phận con người của Sôlôkhốp là chân lí: lòng nhân ái có thể giúp con người vượt lên trên số phận bất hạnh. Trong cảnh sống khốn cùng vì đói khát, con người vẫn khát khao hạnh phúc và có quyền được hạnh phúc là chân lí của tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân. Gắn liền với khẳng định chân lí là cảm hứng mãnh liệt, một trạng thái tình cảm mạnh mẽ, khẳng định phủ định một điều gì đó. Cảm hứng tự do trong những câu chuyện thời kì sáng tác đầu tay của M. Gorki được thể hiện với hình ảnh chàng trai Đancô giơ cao trái tim mình làm ngọn đuốc tỏa ánh sáng dẫn đường cho mọi người đến với tự do, với cô gái Rátđa thà bị người yêu giết chết chứ không muốn chàng từ bỏ giấc mơ tự do của mình. Tất cả những nhiệt tình khẳng định đó biểu hiện thành một khuynh hướng tư tưởng nhất định, phù hợp với những xu hướng tư tưởng đang tồn tại trong đời sống. Thực ra, trong văn học, hai nội dung khách quan và chủ quan này không hề tách bạch, mà xuyên thấm trong hình tượng. Khi chúng ta chiêm ngưỡng một hình tượng nghệ thuật, 13
- 1.2. Hình tượng văn học trong đó đã bao hàm sự phản ánh, đánh giá, cũng nhưng sự lí giải đời sống một cách trọn vẹn. Tóm lại, nội dung của văn học là cuộc sống được ý thức về mặt tư tuởng và giá trị, gắn liền với tình cảm, với một quan niệm về chân lí đời sống, với cảm hứng thẩm mĩ và thiên hướng đánh giá. Nhận thức nội dung của văn học, ý thức được những ưu thế riêng của văn học, cho phép khẳng định, văn học có thể đáp ứng những nhu cầu xã hội phổ biến mà các hình thái ý thức xã hội khác không đáp ứng được. 1.2 Hình tượng văn học 1.2.1 Khái niệm Văn học nhận thức đời sống, thể hiện tư tưởng tình cảm, khát vọng và mơ ước của con người thông qua hình tượng nghệ thuật. Hình tượng chính là phương thức phản ánh thế giới của văn học. Khái niệm hình tượng có những cội nguồn khác nhau. Trong tiếng la tinh, imago có nghĩa là chân dung, hình ảnh. Trong tiếng Nga, obraz có nghĩa là sự là sự lột tả theo mẫu nào đó. Trong tiếng Hán, tượng có nghĩa là hình vẽ để biểu đạt. Kinh Dịch, thiên Hệ từ truyện có câu: Thánh nhân lập tượng để tận ý (nghĩa là thánh nhân làm ra hình tượng để nói hết ý mình). Trong lí luận văn học cổ Trung Quốc, hình tượng thường được gọi là ý tượng hoặc đơn giản là tượng. Theo L. I. Timôphêép, hình tượng là bức tranh về đời sống con người vừa cụ thể vừa khái quát, được sáng tạo bằng hư cấu và giàu ý nghĩa thẩm mĩ 8. Đây là định nghĩa quen thuộc và phổ biến nhất. Tuy nhiên không nên hiểu đơn giản hình tượng chỉ là những bức tranh đời sống, những hình ảnh (tượng). Vì thế, ở đây cần phân biệt hai khái niệm hình ảnh và hình tượng. Hình ảnh chính là những bức tranh đời sống mà chúng ta gặp trong tác phẩm: cây đa, giếng nước, con đò, và cả con người Nhưng tất cả mới chỉ là hình ảnh khi chúng chỉ mang ý nghĩa biểu vật cho chính nó. Thí dụ, cây tre chỉ cây tre, giếng nước chỉ giếng nước. Nhưng nếu những hình ảnh đó đã mang những ý nghĩa khác ngoài nó, những ý nghĩa mới, kết tinh, chứa đựng tư tưởng tình cảm của con người, tức những ý nghĩa nhân sinh, khi đó hình ảnh mới trở thành hình tượng. Các nhà mĩ học phương Tây cho rằng hình tượng có chức năng biểu ý, còn người Trung Hoa thường dùng khái niệm ý tượng (hình ảnh có ý) là vì thế. Cây tre trong bài thơ Tre Việt Nam (Nguyễn Duy) là hình tượng bởi ngoài nghĩa cụ thể, nó còn mang ý nghĩa khái quát về con người Việt Nam bất khuất, kiên cường, bền bỉ trong khó khăn, vất vả, đói nghèo. Cô Tấm (Tấm Cám) là hình tượng, bởi vì nhân vật đó đã thể hiện ước mơ về hạnh phúc, công lí của người xưa. Bên cạnh đó, văn học chuyển những cảm thụ và nhận thức đời sống không chỉ bằng những lời lẽ đơn thuần mà chủ yếu bằng những đối tượng cảm tính. Theo Lưu Hi Tái: Tinh thần của núi không bút nào tả được, phải lấy sương khói mà tả, tinh thần của mùa xuân không tả được, lấy cây cỏ mà tả9. Đó chính là việc phải dùng tới những hình thức đời sống như hình ảnh thiên nhiên, đồ vật, con người để chuyển tải tư tưởng và cảm xúc. 8L. I. Timôphêép. Nguyên lí lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Matxcơva, 1976, trang 60 9Dẫn theo Lưu An Hải, Tôn Văn Hiến. Lí luận văn học, Nxb ĐHSP Hoa Trung, Vũ Hán, 2002, Nguyễn Ngọc Minh dịch, trang 54 14
- 1.2. Hình tượng văn học Mọi hình thức của đời sống khi đã chứa đựng những ý nghĩa nhân sinh mới mẻ, giàu tính thẩm mĩ, chứa đựng tư tưởng và tình cảm của con người sẽ trở thành hình tượng. Cho nên, hình tượng vừa cụ thể vừa khái quát, vừa khách quan vừa chủ quan, vừa vật chất vừa tinh thần là vì thế. Bởi lẽ, văn học xây dựng hình tượng vừa để khái quát hiện thực, cắt nghĩa, lí giải đời sống, vừa thể hiện tư tưởng, tình cảm dưới ánh sáng của một lí tưởng thẩm mĩ nhất định. Như vậy, có thể hiểu, hình tượng là phương thức phản ánh thế giới đặc thù của văn học bằng những hình thức đời sống, được sáng tạo bằng hư cấu và tưởng tượng, vừa cụ thể vừa khái quát, mang tính điển hình, giàu ý nghĩa thẩm mĩ, thể hiện tư tưởng và tình cảm con người. 1.2.2 Đặc trưng của hình tượng 1.2.2.1 Hình tượng là một khách thể mang tính tinh thần Nghệ sĩ sáng tạo ra hình tượng, những khách thể đời sống tồn tại trong tác phẩm. Gọi hình tượng là những khách thể, bởi vì trước hết nó là những hình thức đời sống được nhà văn tưởng tượng sáng tạo để trình bày về một hiện thực đời sống nhất định. Ai cũng có thể nhìn các hình tượng ấy như một cái bên gì bên ngoài, như một khách thể. Khách thể đó khi đã được ra đời, có một cuộc sống độc lập riêng, không phụ thuộc vào ý muốn người sáng tạo. Gọi hình tượng là một thế giới tinh thần vì nó chỉ tồn tại trong cảm nhận, chứ không phải là một thế giới vật chất để ta có thể nhìn, sờ, nắn được. Cái hiện thực tinh thần đó được gìn giữ và truyền đạt trong những phương tiện vật chất nhất định (âm thanh, hình khối, màu sắc). Con người không chỉ sống trong thế giới vật chất mà còn sống trong thế giới tinh thần do các thế hệ trước truyền lại và do thực tiễn dời sống không ngừng tạo ra. Lạc Long Quân, Âu Cơ, vua Hùng, Thánh Gióng đều đang tồn tại như những khách thể tinh thần trong tâm hồn người Việt. Những gì tinh túy nhất trong hiện thực đều được tinh thần hóa để trở thành những khách thể tinh thần như vậy10. Hình tượng còn được sáng tạo là để thỏa mãn những khát vọng tinh thần của con người, những khát vọng mà hiện thực cuộc đời không mang đến được. Thỏa mãn về ước mơ công lí: cái ác bị trừng phạt, oan khuất được đền bù, kẻ hiền gặp lành. Thỏa mãn về ước mơ: nồi cơm ăn hết lại đầy là ước mơ của những người quá cực nhọc vất vả vì miếng ăn ; chàng trai, cô gái nghèo xấu xí bỗng chốc hóa thành đẹp đẽ, khỏe mạnh, giàu có là ước mơ của những con người vất vả, nghèo hèn, đầy tủi nhục Hình tượng văn học mang ý nghĩa đối với đời sống tinh thần con người. Cái vầng trăng ai xẻ làm đôi trong Truyện Kiều tô đậm thêm tâm trạng cô đơn, và chính vì thế càng làm dấy lên nỗi khát khao hạnh phúc của con người. Truyện cổ tích Trầu Cau đâu chỉ là chuyện phong tục mà là chuyện tình nghĩa anh em, vợ chồng gắn bó thắm thiết keo sơn. Hình tượng mang tính tinh thần còn vì nó được xây dựng bởi hư cấu và tưởng tượng, bởi nó chỉ tồn tại trong thế giới tinh thần, trong trí tưởng tượng của con người. Tuy nhiên kể cả khi nhà văn sáng tạo theo một nguyên mẫu nào đó, thì nguyên mẫu ấy cũng đã đuợc lắp ghép, tái tạo, lựa chọn theo một góc nhìn và ý tưởng nhà văn muốn tô đậm. Do mang tính tinh thần nên thế giới của hình tượng là một thế giới khác, đó là một thế giới có không gian, 10Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử. Lí luận văn học (sách đã dẫn), trang 139 15
- 1.2. Hình tượng văn học thời gian, nhịp điệu với những quy luật và giá trị riêng. Ở cuộc đời thật, đã mấy cô Tấm trở thành hoàng hậu, mấy chàng trai nghèo đuợc lên ngôi vua? Nhưng trong văn học, con người đã thực hiện được ước mơ đổi đời đó của mình. 1.2.2.2 Hình tượng mang tính tạo hình và biểu hiện Tạo hình là làm cho khách thể tinh thần vốn vô hình có được một tồn tại cụ thể, cảm tính bề ngoài. Nó bao gồm việc tạo cho hình tượng một không gian, thời gian, những sự kiện và những quan hệ, tạo dựng được môi trường và những con người có ngoại hình, nội tâm, hành động, ngôn ngữ. Hình tượng vốn là một khách thể tinh thần nên phải có cái hình mới tồn tại. Theo Lưu Hiệp: có cái hình xuất hiện thì cái đẹp mới nảy sinh (Văn tâm điêu long). Còn Hêghen cũng khẳng định, hình ảnh chính là sự khách thể hóa những rung động nội tại để con người nhìn thấy bộ mặt tinh thần của chính mình qua ngoại vật (Mĩ học). Ví như, tư tưởng về chủ quyền quốc gia: Sông núi nước Nam vua Nam ở (Lí Thường Kiệt), hay cảm xúc về sự mất mát: Ai đem con sáo sang sông, Để cho con sáo sổ lồng bay đi (ca dao). Như vậy, tạo hình chính là để cho sự vật và cả những cái trừu tượng như một tư tưởng, hoặc mơ hồ như một cảm xúc cũng hiện lên rõ rệt. Tạo hình không đòi hỏi trình bày mọi chi tiết của đối tượng. Nó chỉ chọn lọc những chi tiết ít ỏi nhất nhưng giàu màu sắc biểu hiện, tiêu biểu nhất cho một cuộc sống, một tình huống, một tính cách. Giá trị và ý nghĩa của tạo hình là thể hiện chỉnh thể. Sêkhốp từng nói, chỉ một mảnh chai vỡ lấp loáng thể hiện được cảnh sắc một đêm trăng. Nguyễn Tuân thích chi tiết tiếng ếch trên sông làm sống dậy một niềm hoài cổ của Tú Xương trong bài Sông lấp. Nói cách khác, chính là thể hiện được tính toàn vẹn của chỉnh thể với cái thần, khí của sự vật. Có như vậy, tạo hình mới thành công. Người xưa thường nói đến quan hệ giữa hình và thần, hình và khí tức với cái tinh thần, cái vận động nội tại, cái khí chất, phong thái riêng của sự vật đó. Quan niệm hình thần chỉ ngoại hình và khí chất tinh thần của sự vật gắn chật với nhau trong một sự vật. Xưa Lưu Ân đời Hán trong sách Hoài Nam tử đã từng nhận xét có người vẽ Tây Thi đẹp mà không có duyên, họa mắt Mạnh Bôn to mà không đáng sợ, để nói những bức vẽ không có hồn. Hình vẽ trở thành hình tượng khi nó truyền được cái thần, cái khí của khách thể tinh thần11. Biểu hiện là phẩm chất tất yếu của tạo hình. Biểu hiện là khả năng bộc lộ cái bên trong, cái bản chất của sự vật, hé mở những nỗi niềm sâu kín của tâm hồn. Biểu hiện giúp hình tượng được cảm nhận một cách toàn vẹn, nhất là thể hiện được khuynh hướng, tư tưởng, tình cảm của con người, của tác giả trước các hiện tượng đời sống. Tạo hình và biểu hiện của hình tượng được bộc lộ qua chi tiết, tình tiết (những thành phần nhỏ nhất của hình tượng), một hình ảnh, một cảm xúc, một âm thanh, một màu sắc, một quan hệ. Chúng liên kết với nhau, tạo thành một hình tượng toàn vẹn, hiện lên rõ nét trong tâm trí người đọc. Chẳng hạn, cánh buồm lẻ loi đơn độc tan biến vào bầu không cùng dòng sông cuồn cuộn chảy ngang trời đã diễn tả được nỗi buồn và sự cô đơn của con người trong cảnh biệt li trong thơ Lí Bạch. Hêghen gọi các chi tiết trong tác phẩm là những ‘con mắt’, qua đó chẳng những thấy được thế giới nghệ thuật mà còn thấy được ‘một tâm hồn 11Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử. Lí luận văn học (sách đã dẫn), trang 140 16
- 1.2. Hình tượng văn học tự do trong cái vô hạn’ của tác giả12. Như vậy, tạo hình là để biểu hiện, và muốn biểu hiện phải nhờ tạo hình. Cơ sở của tạo hình là sự tương đồng của hình tượng so với cái được miêu tả. Cơ sở của biểu hiện là sự khác biệt, là cái không bình thường, cái bất thường. Trong câu ca: Thân em như tấm lụa đào, Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai, cái tương đồng ở đây là sự so sánh làm nổi bật vẻ đẹp phẩm chất của cô gái, nhưng cũng nói được tính không xác định của số phận cô. Một cô gái có những phẩm chất tốt đẹp lẽ ra phải có số phận tương ứng. Nhưng thực sự, số phận cô lại phụ thuộc vào sự ngẫu nhiên nào đó. Đó là cái bất thường. Chính điều này tạo nên sự xót xa trong lời than về số phận. Đây chính là nội dung biểu hiện của hình tượng. Sự kết hợp tạo hình và biểu hiện làm cho hình tượng có một hình thức độc đáo. Đó là một thể thống nhất giữa thực và hư, trực tiếp và gián tiếp, ổn định và biến hóa, mang đầy nội dung cuộc sống, tư tưởng và cảm xúc. 1.2.2.3 Tính quy ước và sáng tạo của hình tượng Hình tượng văn học, về bản chất, là một loại kí hiệu. Kí hiệu là phương tiện gìn giữ và truyền đạt kinh nghiệm: chẳng hạn như từ ngữ, còi báo động, tín hiệu đèn xanh đèn đỏ trong giao thông. Kí hiệu có khi chỉ là một hình vẽ, một màu sắc, một từ ngữ, nhưng nó mang một nội dung có tính quy ước hợp lí của lôgic đời sống để mọi nguời có thể nhận biết được. Hình tượng khi được vật chất hóa bằng từ ngữ, bằng các chi tiết tạo hình và biểu hiện cũng mang tính kí hiệu. Thí dụ, Sen tàn, cúc lại nở hoa là hình tượng kí hiệu của mùa thu. Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông là kí hiệu của mùa hè. Khi hình tượng được coi là một kí hiệu nghĩa là nó có những nội dung hợp lôgic, mang tính truyền thống, ổn định, mà mọi người có thể hiểu và chia sẻ được. Hình tượng văn học còn là những kí hiệu mang tính thẩm mĩ, bởi vì nó không chỉ diễn tả nội dung thực tại ổn định mà bao giờ cũng chỉ ra cái mới, phát hiện cái độc đáo mang cá tính nghệ sĩ13. Cũng là những hình tượng mang kí hiệu của mùa thu, nhưng Nguyễn Du viết: Long lanh đáy nước in trời, Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng, còn theo Vương Duy: Ngô đồng nhất diệp lạc, Thiên hạ cộng tri thu. Cùng một hiện tượng, nhưng mỗi nghệ sĩ lại chọn những kí hiệu khác nhau. Hình tượng luôn thể hiện, khái quát một tư tưởng, một thái độ, một quan niệm của chủ thể về cuộc đời. Để biểu hiện ý nghĩa khái quát ấy, hình tượng phải có một hình thức chủ quan đặc biệt, ghi dấu cách cảm nhận và thể hiện thế giới độc đáo, riêng biệt, không lặp lại của từng tác giả. Ví như, cùng là diễn tả cái buồn chán, tội nghiệp của những kiếp sống vô danh, vô nghĩa, sống như chưa hề được sống, Thạch Lam đã dùng hình ảnh bóng đêm và niềm khao khát ánh sáng của hai chị em trong Hai đứa trẻ, còn trong Tỏa nhị kiều, Xuân Diệu lại miêu tả sự quẩn quanh, xám xịt, lỡ cỡ của cuộc đời hai cô gái trẻ và hình ảnh hai hạt cơm nguội chính là một hình ảnh khái quát về kiếp sống vô nghĩa đó. Mỗi hình tượng, vừa là sự tái hiện một hiện tượng thực tại, vừa mã hóa một nội dung cảm xúc do hiện tượng gợi lên trong những tình huống xã hội nhất định. Bông sen gợi sự trong trắng, thơm đẹp nơi ao bùn, không gian cao xa gợi sự hùng vĩ, ngưỡng mộ. Vì vậy, 12Hêghen. Mĩ học, tập 1, Matxcơva, 1968, trang 163, (tiếng Nga) 13Xem Khrapchencô. Bản chất của kí hiệu thẩm mĩ, Sách Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực và con người, Matxcơva, 1978, trang 262-293, (tiếng Nga) 17
- 1.2. Hình tượng văn học khi Tố Hữu viết: Tôi lại về quê Bác, làng Sen, Ơi hoa sen đẹp của bùn đen thì ai cũng hiểu. Còn như khi nhà thơ viết: Hỡi những chàng trai cô gái yêu, Trên những đèo mây, những tầng núi đá, nếu bỏ qua cái đẹp cao cả, hào hùng trong các yếu tố đèo mây, tầng núi thì đã bỏ mất cái cao xa, lung linh vời vợi của hình tượng14. Như vậy là, trong các chi tiết tạo hình luôn có sự mã hóa các tư tưởng, cảm xúc xã hội, thẩm mĩ. Mỗi thời kì văn học dân tộc, đều có cách mã hóa khác nhau tạo thành ngôn ngữ nghệ thuật riêng của từng thời kì. Chẳng hạn, nếu như trong văn học dân gian Việt Nam, thuyền tượng trưng cho cuộc đời lênh đênh, trôi dạt, vô định, thì ở phương Tây xưa, thuyền lại tượng trưng cho sự phiêu du của linh hồn sang thế giới bên kia. Từ đó ta thấy nguồn gốc phương Tây của hình ảnh thuyền hồn trong bài 14 tháng 7 của Tố Hữu hoặc trong câu thơ của Huy Cận: Hiu hiu gió đẩy thuyền lên biển trời, Chở hồn lên tận chơi vơi. Như vậy, hình tượng có sự vận động qua lịch sử, các kí hiệu thẩm mĩ có khác nhau qua từng thời kì. Muốn hiểu hình tượng nghệ thuật, đòi hỏi phải có sự giải mã các kí hiệu nghệ thuật, kí hiệu thẩm mĩ 15. Nhưng bản chất của kí hiệu lại có xu hướng cố định hóa, trở thành công thức, dễ rơi vào sáo mòn. Vì vậy kí hiệu phải luôn được đổi mới, cắt nghĩa mới, sáng tạo kí hiệu mới. Một trong những cách làm cho hình tượng luôn mới là cấu trúc lại các kí hiệu thẩm mĩ quen thuộc, làm cho nó có thêm những ý nghĩa mới. Cũng hình tượng thuyền và bến như trong ca dao xưa, nhưng trong bài thơ Lòng anh làm bến thu của Chế Lan Viên: Buổi sáng em xa chi, Cho chiều mùa thu đến, Để lòng anh hóa bến, Nghe thuyền em ra đi, chúng lại mang những ý nghĩa mới mẻ về vị trí, phẩm chất, biểu tượng. 1.2.2.4 Hình tượng chứa đựng tình cảm xã hội và lí tưởng thẩm mĩ Hình tượng không phải là sự sao chép nguyên xi đời sống hiện thực mà còn mang sẵn quan niệm, đánh giá về thế giới, chứa đựng một tư tưởng nhân sinh. Nỗi khát khao bắt Nữ thần Mặt trời về làm vợ (Đăm San) chính là nỗi khát khao chinh phục tự nhiên, là sự khẳng định sức mạnh, ý chí của con người thuở xa xưa. Hình ảnh bi đát, thê thảm của đám tang lão Gôriô (Lão Gôriô - Ban dắc) hiện lên như lời tố cáo của tác giả về thực chất các quan hệ người và người trong xã hội tư sản. Như vậy, hình tượng văn học vừa thể hiện quan niệm, tư tưởng vừa thể hiện thái độ, tình cảm của nhà văn. Tình cảm xã hội là tình cảm của một con người riêng biệt nhưng đã được ý thức trên cấp độ xã hội và được soi sáng bằng một lí tưởng xã hội nhất định. Nó không chỉ là những dấu ấn, những rung động cá nhân riêng lẻ mà còn mang tính phổ quát bởi mọi vận động của đời sống xã hội đều đi qua số phận của cá nhân. Tình cảm xã hội trong văn học cao hơn tình cảm bình thường bởi nó hướng tới những tình cảm chung, bởi cội nguồn của nó là nhu cầu tinh thần, là lí tưởng, ước mơ. Cái nuối tiếc trong bài ca Trèo lên cây bưởi hái hoa, không chỉ là cái nuối tiếc về sự đã trót ràng buộc, mà cao hơn là ý thức cay đắng về số phận, từ đó dấy lên một khát vọng tình yêu, khát khao được chia sẻ, đồng vọng trong những tâm hồn khác. Không chỉ là tình cảm xót thương của một người chú đối với đứa cháu nhỏ (Lượm) đã hi sinh, nhà thơ Tố Hữu còn khẳng định sự bất diệt của một tuổi thơ trong sáng đã hiến 14Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử. Lí luận văn học (sách đã dẫn), trang 142 15Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử. Lí luận văn học (sách đã dẫn), trang 143 18
- 1.2. Hình tượng văn học dâng đời mình cho tự do của dân tộc. Tư tưởng này mang dấu ấn của tâm thức của mọi người Việt nói chung: những con người đã hi sinh vì Tổ quốc sẽ còn sống mãi với non sông. Tình cảm xã hội thường đi đôi với lí tưởng thẩm mĩ tức những khát vọng cao cả nhất, tích cực nhất, nhân tính nhất của con nguời về cái tốt, cái đẹp, cái hoàn thiện trong các lĩnh vực khác nhau. Do đó, các hình tượng nghệ thuật thường mang những giá trị kết tinh lí tưởng thẩm mĩ không chỉ của tác giả mà còn của một thời đại, một dân tộc. Hình tượng nguời anh hùng, từ con người mang kích thước phi thường như ông Gióng đến những anh bộ đội bình dị: Mái chèo một chiếc xuồng con, Mà sông nước dậy sóng cồn đại dương (Tố Hữu) là kết tinh của quan niệm về người anh hùng, một hình mẫu đẹp trong tâm thức dân tộc Việt Nam, một dân tộc hàng nghìn năm sống trong ngọn lửa chống ngoại xâm. 1.2.2.5 Tính nghệ thuật của hình tượng Hình tượng mang tính thẩm mĩ, nói cách khác là mang tính nghệ thuật, bởi vì nó được sáng tạo là để thưởng thức và thoả mãn về mặt thẩm mĩ. Người ta đọc một câu thơ, một câu chuyện, thường thích thú vì những hình ảnh đẹp, những vần thơ réo rắt, những cốt truyện li kì, hấp dẫn, những nhân vật có hình thức và tính cách quyến rũ Sức hấp dẫn của hình tượng là một dấu hiệu quan trọng. Điđơrô nói với nghệ sĩ: “Trước hết, anh phải làm cho tôi cảm động, kinh hoàng, tê mê, anh phải làm cho tôi sợ hãi, run rẩy, rơi lệ hay căm hờn”16. Sức hấp dẫn đầu tiên được tạo thành từ sự sinh động, giống như thật của hình tượng. Gorki đã từng đưa trang sách lên soi qua ánh sáng để xem có đúng là có những con người ở đằng sau trang sách thật không là vì vậy. Nhưng tính sinh động không chỉ đơn giản là giống như thật, mà còn ở sự mới mẻ, lạ kì trong cảm nhận về thế giới chỉ thuộc một hình tượng nào đó. Khi viết về Bác Hồ: Ta lẫn Bác với bầu trời và giọt lệ, Với hương mộc trong đêm và lộc nõn trên cành, Chế Lan Viên đã thể hiện một cái nhìn lạ hóa đối tượng. Nhân vật và sự kiện sinh động thường có những biến hóa bất ngờ không lường trước được. Con chim đến ăn khế tự nhiên lại nói: ăn một quả, trả cục vàng. Miếng trầu têm cánh phượng không ngờ lại là dấu hiệu giúp Vua nhận ra cô Tấm, vợ mình. Anh Tràng chỉ định hát ghẹo mấy cô gái cho vui không ngờ nhặt được vợ. Chí Phèo định đi giết con khọm già nhà nó, bỗng quay sang nhà Bá Kiến đòi làm người lương thiện!. Chính những biến hóa vô cùng ấy đã làm cho hình tượng có sức lôi cuốn đặc biệt. Hình tượng còn hấp dẫn bởi những chân lí đời sống được phát biểu dưới những hình thức độc đáo: Khi ta ở chỉ là nơi đất ở, Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn (Chế Lan Viên); Gió đưa cây cải về trời, Rau răm ở lại chịu lời đắng cay (ca dao). Nhưng chân lí đời sống trong hình tượng luôn được thể hiện bằng cái nhìn mang tính chủ quan mãnh liệt. Vì vậy, ta hay bắt gặp những lời than, câu hỏi, những trạng thái sững sờ, đột ngột, choáng ngợp của chủ thể trước cuộc đời: Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc, Em có chồng anh tiếc lắm thay! (ca dao); Non cao những ngóng cùng trông, Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày (Tản Đà). Nếu thiếu đi những biểu hiện chủ quan thì những hình tượng đó chắc bớt đi nhiều tính sinh động, biểu hiện của những chủ thể đang cảm xúc trước cuộc đời. Như vậy, hình tượng là một phương thức chiếm lĩnh đời sống đặc thù của văn học. Trong hình tượng, có sự thống nhất của cái cá biệt và khái quát, tình cảm và lí trí, tái hiện và biểu 16Điđơrô. Bàn về hội hoạ. Sách Tây phương văn luận tập, tập 1, Thượng Hải, 1964, trang 387 (tiếng Trung). Dẫn theo Lí luận văn học (sách đã dẫn), trang 145 19
- 1.3. Hướng dẫn học tập hiện, truyền thống và sáng tạo, thể hiện tính muôn màu của thế giới và sức mạnh chủ thể của người sáng tạo. Những đặc trưng riêng biệt về đối tượng, nội dung, phương thức phản ánh hiện thực đã phân biệt văn học là một hình thái ý thức thẩm mĩ đặc thù. Với những nét riêng ấy, việc tiếp nhận văn học đòi hỏi có những phương pháp, cách thức, và con đường riêng. 1.3 Hướng dẫn học tập Kiến thức cơ bản cần nắm vững 1. Đặc trưng đối tượng và nội dung của văn học trong sự so sánh với các hình thái ý thức xã hội khác: ∙ Đặc trưng đối tượng Mĩ học duy vật khẳng định đối tượng văn học là toàn bộ thế giới khách quan. Nhưng thế giới khách quan ấy được văn học chiếm lĩnh, nhìn nhận ở góc độ khác với các ngành khoa học khác: Văn học chú ý các “kinh nghiệm quan hệ” (I. Bôrep). Đó chính là ý nghĩa quan hệ người kết tinh trong các sự vật và hiện tượng của thế giới hiện thực được miêu tả. Do đó, con người trở thành trung tâm của các quan hệ đời sống được miêu tả. Ở đây cần phân biệt con người với tư cách là đối tượng của văn học với con người là đối tượng của các ngành khoa học khác. Rất nhiều ngành khoa học lấy đối tượng của khoa học là con người. Nhưng con người với tư cách là đối tượng của văn học khác với con người là đối tượng của các ngành khoa học khác. Nếu sinh học, y học chú ý con người ở khía cạnh sinh học (trao đổi chất, sinh trưởng, phát triển, cấu tạo cơ thể), y học (giải phẫu, chức năng các cơ quan trong cơ thể liên quan đến sự sống, tuổi thọ, sức khỏe của con người), triết học tìm hiểu con người ở khía cạnh chung nhất: bản chất xã hội, bản chất cá nhân, ý thức xã hội, tư tưởng, quan điểm thì văn học chiếm lĩnh con người dưới một góc độ riêng biệt: Thứ nhất, con người trong văn học được tái hiện trong những quan hệ xã hội, bộc lộ qua những tính cách cụ thể như anh hùng, hèn nhát, trung thực, giả dối, tham lam, keo kiệt, nhân hậu, hiền lành những tính cách ấy được tái hiện trong những hoàn cảnh, môi trường cụ thể, trong cuộc đời và số phận riêng biệt, cá lẻ. Nếu như đạo đức học quan tâm tới thói tham lam ích kỉ của con người như là những nét đạo đức phi chuẩn mực nói chung thì văn học cũng chú ý tới sự keo kiệt của con người thông qua một cuộc đời, một số phận, một tình huống cá biệt (Đến chết vẫn còn hà tiện, Ăn cá gỗ, Lão hà tiện) với những ý nghĩ, việc làm, tình cảm của họ. Thứ hai, con người trong văn học được tái hiện trong tính toàn vẹn, cảm tính và sinh động. Ví dụ như hình ảnh chị Trần Thị Lí chẳng hạn. Báo chí đã từng nêu tấm gương anh dũng, kiên trinh, sắt son của chị đối với cách mạng, dù chị đã phải trải qua bao tra tấn tù đày, như là hình ảnh những con người anh hùng trong sự nghiệp giải phóng 20
- 1.3. Hướng dẫn học tập dân tộc, sự nghiệp chính trị của dân tộc. Còn đối với nhà thơ Tố Hữu, người nghệ sĩ, tấm gương anh hùng ấy được tái hiện trong từng chi tiết đời sống cụ thể, sinh động, vừa thực, vừa hư: Em là ai, cô gái hay nàng tiên? Em có tuổi hay không có tuổi, Mái tóc em đây hay là mây là suối, Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm giông, Thịt da em hay là sắt là đồng? Thứ ba, con người trong văn học không được nhìn nhận một cách khách quan tuyệt đối như trong các ngành khoa học khác, mà được miêu tả dưới một quan niệm về đời sống, một lí tưởng, một tình cảm thẩm mĩ nhất định, một cảm hứng mãnh liệt của nhà văn. Con người trong văn học do đó còn được trình bày theo những quy luật thẩm mĩ nhất định. Ví như hình tượng những nhân vật tạo dựng thế giới đều mang nét dáng kì vĩ: Nữ Oa, Lạc Long Quân, Thần Trụ Trời ). Hơn nữa các nhân vật còn được tái hiện trong mối cảm tình (phủ nhận và khẳng định) của tác giả. Đây là một điều mà các ngành khoa học khác hoàn toàn tối kị. ∙ Đặc trưng nội dung Nội dung của văn học cũng chính là cuộc sống, nhưng là cuộc sống đã được ý thức, được chọn lọc, đánh giá theo một tư tưởng, quan điểm, cảm hứng về đời sống và thẩm mĩ nhất định. 2. Hình tượng nghệ thuật là một phương thức biểu đạt nhận thức, tư tưởng, tình cảm một cách đặc thù của nghệ thuật. Nó vừa mang tính cảm tính của những hình thức đời sống, nhưng cũng vừa mang tính tinh thần, có khả năng vừa dựng lại những bức tranh sinh động của đời sống nhưng cũng vừa chuyển tải được tư tưởng và tình cảm của con người. Câu hỏi 1. Đặc trưng đối tượng và nội dung của văn học có gì khác so với các ngành khoa học khác? 2. Bằng kiến thức lí luận văn học về đối tượng và nội dung của văn học, hãy giải thích câu nói của M. Gorki “Văn học là nhân học”. 3. Hình tượng nghệ thuật là gì? Các đặc trưng cơ bản của hình tượng? Bài tập 1. Phân tích và chứng minh nhận định: “Lấy con người làm đối tượng miêu tả chủ yếu, văn học có được một điểm tựa để nhìn ra thế giới”. Gợi ý: Ý nghĩa của nhận định: khẳng định con người là trung tâm của đời sống hiện thực được phản ánh trong văn học. “Điểm tựa” của văn học khi nhìn ra thế giới chính là con người, bởi trong tác phẩm, dù là miêu tả thế giới khách quan hay thế giới chủ quan, thế giới ấy phải được nhìn nhận dưới con mắt của một con người, tức là một nhân vật cụ thể (nhân vật, người kể chuyện, nhân vật trữ tình). Không có một tác phẩm nào lại vắng bóng nhân vật. Con người trong văn học là những trung tâm giá trị, trung tâm đánh giả và trung tâm kết tinh quan hệ. Chẳng hạn, dưới con mắt người trần thuật, cuộc đời và các nhân vật trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng đều là “vô nghĩa lí”. Cuộc đời là trò chơi quái đản của Hoàng Thiên (Thần quyền), luôn bày 21
- 1.3. Hướng dẫn học tập đặt những ngẫu nhiên, may rủi khôn lường để định đoạt số phận con người, còn con người thì thấp kém về đời sống tinh thần, nhợt nhạt về mặt nhân tính. Bằng một con mắt rất riêng, Bích Khê đã tạo dựng trong thơ mình một thế giới mộng ảo mà mọi yếu tố của cuộc đời đều thăng hoa trở thành chiêm bao cùng một cõi trời huyền diệu, bí ẩn với mộng tiên, mộng rừng trăng, mộng cầm ca, mộng quỳnh giao, mộng như ngà, mộng nở hoa, mộng rất xanh, và những đêm kim sa, đêm ngời ngọc châu, đêm vàng, đêm tơ, đêm nhung Nếu mỗi con người, mỗi nhân vật là một trung tâm quan hệ, trung tâm đánh giá thì khả năng tiếp cận thế giới của văn học là vô hạn. 2. Tìm hiểu giá trị thẩm mĩ và tư tưởng của hình tượng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng (Thế Lữ), hình tượng con sông trong Nhớ con sông quê hương (Tế Hanh) Tài liệu tham khảo 1. Trần Đình Sử. Về phạm trù hình tượng nghệ thuật, Sách Lí luận và phê bình, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000 2. Anđrêmốp. Hình tượng nghệ thuật, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1962 22
- Chương 2 Văn học - nghệ thuật ngôn từ 2.1 Ngôn từ - chất liệu của văn học Văn học không chỉ là một loại hình ý thức xã hội mà còn là một loại hình nghệ thuật. Mỗi loại hình nghệ thuật có vai trò và vị trí riêng trong đời sống tình cảm của con người. Xét đến cùng đặc trưng của mỗi loại hình nghệ thuật đều bắt nguồn từ chất liệu của nó. Ví dụ chất liệu của hội hoạ là màu sắc, đường nét, của vũ đạo là hình thể động tác, của âm nhạc là âm thanh, tiết tấu, v.v Chất liệu của văn học là ngôn từ. Tìm hiểu văn học như nghệ thuật ngôn từ là tìm hiểu đặc thù riêng của văn học trong mối tương quan với các loại hình nghệ thuật khác. 2.1.1 Từ nghệ thuật nguyên hợp đến nghệ thuật ngôn từ Văn học dùng ngôn từ làm chất liệu riêng từ khi nào? Từ thời nguyên thuỷ, văn học không tách rời với múa nhảy, âm nhạc, ma thuật. Dần dần xuất hiện văn học dân gian truyền miệng với các thể loại như ca dao, thần thoại, truyện cổ tích. Khi có chữ viết xuất hiện mới bắt đầu có văn học viết. Văn học viết lúc đầu chủ yếu là ghi chép các sự kiện lịch sử, các văn kiện nhà nước như thư từ, văn thư, sau đó dần dần các tác phẩm văn học nghệ thuật thuần túy mới xuất hiện. Trải qua quá trình lịch sử, những sáng tác nghệ thuật dùng ngôn từ làm chất liệu xây dựng hình tượng tách dần ra trở thành một loại hình độc lập: Văn học. Khi văn học phát triển đầy đủ, thoát khỏi tình trạng văn, sử, triết bất phân, người ta mới có nhu cầu dùng từ văn học để chỉ riêng loại văn mang tính nghệ thuật. Do văn học là sản phẩm của lịch sử như thế cho nên khi nói tới đặc trưng, bản chất của văn học là ta nói tới trạng thái của văn học trong giai đoạn phát triển hoàn thiện nhất của nó. 23
- 2.1. Ngôn từ - chất liệu của văn học 2.1.2 Ngôn từ - chất liệu xây dựng hình tượng văn học Bất cứ hình tượng nghệ thuật nào cũng gắn liền với một chất liệu cụ thể. Khác với hội hoạ, âm nhạc, điêu khắc xây dựng hình tượng bằng màu sắc, hình khối, âm thanh , văn học xây dựng hình tượng bằng chất liệu ngôn từ. Vậy các khả năng nghệ thuật của ngôn từ như thế nào? Trước hết cần hiểu khái niệm ngôn từ. Khoa học hiện đại phân biệt ngôn ngữ (tiếng) và lời nói (phát ngôn nói và viết). Nếu ngôn ngữ là tổng thể tất cả các đơn vị, phương tiện, các kết hợp mà lời nói sử dụng (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, các phương thức tu từ), thì lời nói là hình thức tồn tại cụ thể, sinh động, đa dạng, muôn màu muôn vẻ của ngôn ngữ1. Ngôn từ ở đây được dùng với nghĩa là những lời văn, lời nói mang tính nghệ thuật. Chất liệu ngôn từ có đặc điểm trước hết là tính hình tượng. Văn học có khả năng gợi lên một thế giới sinh động với mọi sắc màu, hương vị, âm thanh, nhịp điệu và sự vận động của nó. Khi đọc một bài thơ, một thiên truyện, ta bắt gặp những cảm xúc, những con người và cảnh vật hiện lên một cách cụ thể, sinh động. Chẳng hạn, đọc Tre Việt Nam của Nguyễn Duy, Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài, ta bắt gặp những hình ảnh thiên nhiên và con vật như ta đã thường gặp ở ngoài đời, nhưng lại mang đậm những ý vị nhân sinh. Hơn nữa, bằng ngôn từ, chúng ta tiếp xúc trực tiếp với một thế giới cảm xúc, ấn tượng, tưởng tượng vốn rất khó nắm bắt. Để tả nỗi sầu, có người dùng núi: Nỗi buồn sầu chất như núi, mờ mịt không thể dời đi (Đỗ Thiếu Lăng); có người dùng dòng nước: Hỏi anh có bao nhiêu nỗi buồn, cuồn cuộn như sông xuân chảy về đông (Lí Hậu Chủ); có người dùng biển sâu: Hãy đo lượng nước biển đông, để xem buồn nỗi nông sâu thế nào (Lí Kỳ). Sự sâu sắc và tinh tế của cảm xúc đã được chuyển tải trong những hình ảnh ngôn từ sinh động, mới mẻ. Tính hình tượng của ngôn từ còn xuất phát từ chỗ lời văn trong tác phẩm là lời của các hình tượng. Đó là người kể chuyện, nhân vật trong tác phẩm tự sự, nhân vật trong tác phẩm trữ tình Với mỗi một nhân vật như vậy thì lời ăn tiếng nói của họ đã góp phần tái hiện chân dung một con người cụ thể với mọi đặc điểm về giới tính, lứa tuổi, học vấn, cá tính Đây là khả năng cá thể hóa chủ thể phát ngôn. Ví dụ, đọc các sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân ta nhận ra hình tượng người kể chuyện - một nhà văn đa phong cách có ngôn ngữ dồi dào, nhờ đó mà bao giờ cũng mô tả cảnh vật và con người một cách tỉ mỉ, tường tận. Đọc thơ của Xuân Diệu, ta nhận biết hình tượng nhân vật trữ tình với sự đam mê, say đắm, hòa nhập để tận hưởng vẻ đẹp của cuộc sống bằng tất cả các giác quan qua những từ ngữ tha thiết, rạo rực. Qua những lời nói của Bá Kiến khi Chí Phèo vừa ở tù về đến ăn vạ ta thấy Bá Kiến quả là một tên địa chủ cáo già biết “mềm nắn, rắn buông”. Mối quan hệ giữa hình tượng và chất liệu ngôn từ không phải là sự kết hợp bề ngoài mà là sự thâm nhập xuyên thấm vào nhau, là phương thức tồn tại của hình tượng. Tính hình tượng còn thể hiện trực tiếp qua khả năng tạo hình và biểu cảm của ngôn từ miêu tả trực tiếp đời sống như các từ tượng thanh, tượng hình (ào ào, long lanh, chúm chím, vi vu, xào xạc ), các từ diễn tả sự vận động của thế giới (cười tủm tỉm, mắt lóng lánh, gió lướt thướt), các từ miêu tả trực tiếp tâm trạng hoặc gián tiếp qua các biện pháp tu từ. Ngôn từ nghệ thuật còn được tổ chức một cách đặc biệt để xây dựng một thế giới hình tượng trọn vẹn, hoàn chỉnh, giàu ý nghĩa khái quát. Ta bắt gặp trong tác phẩm rất nhiều 1Theo Phương Lựu, Trần Đình Sử. Lí luận văn học (sách đã dẫn), trang 183 24
- 2.2. Những đặc điểm của văn học với tư cách là nghệ thuật ngôn từ các biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, lặp lại, đối lập Ví dụ trong mối tương quan: bền vững - đổi thay, cũ - mới, bến - đò, xưa - nay mà câu ca dao: Cây đa bậc cũ lở rồi Đò đưa bến khác bạn ngồi chờ ai không chỉ nói chuyện cây đa, chuyện đò, chuyện bến mà còn mang ý nghĩa diễn tả niềm đau đớn, xót xa của con người trước sự bội bạc trong tình yêu. Như vậy mọi sự mô tả thế giới và biểu đạt tư tưởng tình cảm của con người đều có thể thể hiện qua chất liệu ngôn từ. Với khả năng đó, văn học có khả năng vạn năng trong việc nhận thức và phản ánh thế giới. 2.2 Những đặc điểm của văn học với tư cách là nghệ thuật ngôn từ Dùng chất liệu là ngôn từ, văn học có ý nghĩa quan trọng trong việc phát huy thế mạnh của mình trong việc phản ánh hiện thực và tư tưởng, tình cảm của con người. Việc tìm hiểu những đặc điểm nghệ thuật của văn học với tư cách là nghệ thuật ngôn từ nhằm phân biệt những ưu thế riêng của văn học so với các loại hình nghệ thuật khác. 2.2.1 Tính chất phi vật thể của hình tượng văn học Nếu đứng trước một phòng tranh, nhìn từng bức tranh, mắt ta thấy mỗi bức tranh ấy vẽ cảnh gì, vẽ ai với những đường nét, màu sắc sinh động. Nếu đứng trước một tượng đài, ta nhìn thấy tượng đài thể hiện vị anh hùng nào, nhân vật lịch sử ở thời đại nào. Những điều ấy tác động trực tiếp và gây ấn tượng xác thực mạnh mẽ với người xem. Được xây dựng bằng chất liệu ngôn từ, hình tượng văn học là một loại hình tượng gián tiếp chỉ có thể hiện lên qua sự hình dung, tái tạo, qua trí tưởng tượng của người đọc. Hình tượng văn học tác động vào trí tuệ và sự liên tưởng của người đọc. Không ai nhìn thấy hình tượng văn học bằng mắt thường. Nó chỉ bộc lộ qua cái “nhìn” bên trong thầm kín. Đó là tính chất tinh thần hay tính phi vật thể của hình tượng văn học. Tuy nhiên không nên nghĩ rằng hình tượng văn học thiếu khả năng gây ấn tượng mạnh mẽ. Chính vì mang tính gián tiếp như vậy nên hình tượng văn học lại mở ra những khả năng mà các loại hình nghệ thuật khác khó diễn tả được. Vì chất liệu ngôn từ là “kho vô tận về âm thanh, bức tranh, khái niệm” (Biêlinxki), cho nên văn học có khả năng hình dung bất cứ sự vật nào trong thế giới vô hình và hữu hình, trừu tượng và cụ thể. Hình tượng văn học chẳng những có thể tái hiện những điều mắt thấy và nhận biết bằng cái nhìn thị giác như hội hoạ, điêu khắc, điện ảnh mà còn tái hiện cả những điều cảm thấy bằng khứu giác, thính giác, xúc giác. Nếu các nghệ thuật tạo hình khác chỉ biểu hiện những hiện tượng đó một cách gián tiếp, thì văn học lại có thể diễn tả rất cụ thể: Nắng thơm rơm mới đường quê gặt mùa (Tố Hữu), Đã nghe rét mướt luồn trong gió (Xuân Diệu). Với chất liệu là ngôn từ, hình tượng văn học có thể diễn tả được mọi sắc thái tình cảm vốn trừu tượng, mơ hồ của con người. Chẳng hạn như những câu thơ của Xuân Diệu nói về niềm khát khao giao cảm với đời - một khát khao vô hình nhưng qua lời thơ người đọc tưởng như nhìn thấy tình cảm ấy một cách cụ thể: Không gian như có dây tơ, Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu hoặc là Con đường nho nhỏ, gió xiêu xiêu, Lả lả cành hoang nắng trở 25
- 2.2. Những đặc điểm của văn học với tư cách là nghệ thuật ngôn từ chiều Một nỗi nhớ vô hình được hiện hình rõ nét: Vầng trăng ai xẻ làm đôi, Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường (Nguyễn Du). Ngôn từ có thể đưa con người thâm nhập vào bề sâu của thế giới bằng cách sử dụng những chuyển đổi, tương thông cảm giác. Lí Thương Ẩn viết Tiếng hát như châu ngọc, ý nói âm thanh đẹp đẽ, trong vắt, tròn trịa, sáng láng tạo thành những ấn tượng thính giác kèm thị giác. Thanh Thảo, trong trường ca Những người đi tới biển, đã sử dụng ngôn từ chuyển đổi cảm giác rất nhiều như để diễn tả trạng thái choáng ngợp về những vẻ đẹp phong phú, tinh vi của cuộc đời: Gió chướng xanh đến nỗi mình ngợp thở; Hoa phượng vĩ chói lọi tiếng kèn đồng mùa hạ; Một tiếng chim bên đường trong veo giọt nước. Bằng ngôn từ, cái hư, cái vô hình giúp diễn tả cái thật một cách hữu hiệu. Hình tượng văn học có khi không hiện lên một cách trực tiếp mà gián tiếp thông qua những liên tưởng, ví von, ẩn dụ, tượng trưng Trong các kết cấu ẩn dụ: Gìn vàng giữ ngọc cho hay, Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời (Nguyễn Du), Thuyền về có nhớ bến chăng, Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền (ca dao), ý nghĩa của hình tượng được tạo nên bởi các quan hệ trong các sự vật được miêu tả. Thậm chí, nhiều khi, chỉ thông qua miêu tả những tác động gián tiếp, điều cần miêu tả cũng hiện lên rõ rệt. Bức chân dung Thúy Kiều, theo nhiều nhận định, đó là một bức chân dung rất đỗi hư ảo, thiếu tính trực tiếp: Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Các đoạn tả phong cảnh, chân dung, sắc đẹp, tiếng hát, tiếng đàn trong văn học thường được miêu tả theo kiểu đó. 2.2.2 Thời gian và không gian trong văn học Không gian và thời gian là phương thức tồn tại của bản thân hình tượng. Đặc thù gián tiếp của hình tượng văn học đã đưa đến chỗ mạnh của việc sử dụng hai phương thức này. So với các loại hình nghệ thuật khác, văn học thuộc loại hình nghệ thuật thời gian. Trong tác phẩm văn học, hình tượng cứ hiện dần lên theo thời gian. Việt Bắc, quê hương của cách mạng hiện dần lên qua hình ảnh thiên nhiên bốn mùa, con người miền núi, sinh hoạt chiến khu. Bên cạnh đó, cảm xúc của con nguời sắp xa Việt Bắc cũng trải dài với nhiều cung bậc: bâng khuâng, bồn chồn, nhớ nhung, yêu thương, tự hào, tin tưởng, thề thốt, hẹn hò (Việt Bắc - Tố Hữu). Cũng vì thế, văn học có khả năng thể hiện các quá trình đời sống một cách linh hoạt. Thời gian trong văn học có những nhịp điệu, sắc độ riêng để phản ánh hiện thực. Văn học có thể kéo dài thời gian bằng cách miêu tả rất tỉ mỉ mọi diễn biến tâm trạng, mọi diễn biến hành động của nhân vật của các sự kiện. Trong một ngày trên con đường đưa bạn mình về nơi yên nghỉ cuối cùng, nhân vật Eđigây đã nghĩ về cả cuộc đời mình và bạn trong cơn bão táp của lịch sử nước Nga. Cái ngày đó Eđigây cảm thấy dài bằng cả trăm năm (Aimatốp - Và một ngày dài hơn thế kỉ ). Ngược lại, nhà văn có thể làm cho thời gian trôi nhanh đi bằng cách dồn nén làm cho khoảng một thời gian dài chỉ qua một dòng trần thuật ngắn. Ví dụ trong Truyện Kiều khi tả cảnh mùa hạ đã qua, mùa thu đã tới Nguyễn Du chỉ mô tả bằng câu thơ có sáu chữ: Sen tàn, cúc lại nở hoa. Trong bài thơ Mẹ Tơm, nhà thơ Tố Hữu thể hiện tâm trạng của mình trước sự thay đổi lớn lao đến ngỡ ngàng sau mười chín năm xa cách quê người mẹ anh hùng bằng những dòng thơ ngắn gọn: Nhà ai ngói mới tường vôi trắng, Thơm phức mùi tôm nặng mấy nong, Ngồn ngộn sân phơi khoai dát nắng, Giếng vườn ai vậy nước khơi trong. 26
- 2.2. Những đặc điểm của văn học với tư cách là nghệ thuật ngôn từ Thời gian trong văn học có thể trôi nhanh hay chậm, yên ả, đều đều hay thay đổi đột ngột, gấp gáp, đầy biến động, có thể có những liên hệ giữa quá khứ, hiện tại, tương lai. Thời gian có thể được trần thuật cùng chiều với thời gian tự nhiên, nhưng cũng có thể đi ngược từ hiện tại trở về quá khứ, như thời gian hồi tưởng trong Đi tìm thời gian đã mất (M. Proust), Người tình (M. Duras), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh). Các lớp thời gian có khi đan bện, xoắn xít với nhau. Cũng có lúc giũa quá khứ và hiện tại, tương lai có mối liên hệ thời gian, cùng đồng hiện trong một thời điểm. Trong đoạn Thúy Kiều trao duyên, giữa thời điểm hiện tại, Thúy Kiều tự nhìn thấy mình trong tương lai, một tương lai không còn là người sống nũa, mà chỉ là hồn ma đang ở chín suối, đang theo gió đi về. Đấy là sự đồng hiện thời gian. Thời gian vật lí trôi qua tuần tự theo các mùa, thời tiết: Sen tàn cúc lại nở hoa. Thời gian tâm lí lúc nhanh lúc chậm tùy thuộc trạng thái tâm hồn và cuộc sống đặc thù của nhân vật: Sầu đong càng lắc càng đầy, Ba thu dồn lại một ngày dài ghê. Điều đó tạo nên sự vận động và tính quá trình đa dạng của hình tượng văn học mà các loại hình nghệ thuật khác khó đạt đến được. Chính nhờ ngôn từ mà hình tượng văn học có những hình thức thời gian đặc biệt để văn học có thể chiếm lĩnh đời sống trên một tầm sâu rộng mà hội hoạ và điêu khắc khó bề đạt được. Không gian trong văn học cũng có những nét đặc thù. Không gian chính là môi trường tồn tại của con người: dòng sông, cánh đồng, ngọn núi, đèo xa, biển cả Với mỗi không gian tồn tại, con người có một phong thái sống riêng biệt. Sự đối lập không gian biển cả và con người đã khẳng định nhận khát vọng chinh phục tự nhiên bền bỉ, mãnh liệt của con người (Ông già và biển cả - Hêmingwê). Bên cạnh đó, không gian còn là nơi xác định chiều kích tâm hồn người. Với những con người có cuộc sống mòn đi, mục ra, gỉ đi không có lối thoát thì không gian sống chỉ là những căn nhà không có cửa sổ (Sống mòn - Nam Cao). Còn đối với con người có một tầm vóc tinh thần lớn lao thì không gian diễn đạt thế giới tinh thần cũng phù hợp. Khi nhà thơ Tố Hữu so sánh Bác Hồ với một loạt các hình ảnh: đỉnh non cao, dòng sông chảy nặng phù sa, trời xanh, biển rộng, ruộng đồng nước non, hồn muôn trượng , ta có thể thấy chiều cao, chiều rộng của thế giới tinh thần lãnh tụ. Đó chính là những giới hạn khác của không gian, như không gian lịch sử, không gian tâm tưởng, không gian tinh thần Trong điêu khắc cũng như hội hoạ, không gian được người nghệ sĩ miêu tả là không gian tĩnh, còn không gian trong văn học là một không gian có sự vận động, biến đổi. Trong bài thơ Mẹ Tơm của Tố Hữu, ta được chứng kiến một không gian sống động: Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa, Một buổi trưa nắng dài bãi cát, Gió lộng xôn xao sóng biển đu đưa, Mát rượi lòng ta ngân nga tiếng hát. Hoặc con mắt của nhà văn có thể dễ dàng đưa người đọc di chuyển từ không gian này sang không gian khác. Đọc câu thơ: Khi sao phong gấm rủ là, Giờ sao tan tác như hoa giữa đường trong Truyện Kiều - tác giả đã cho ta thấy hai đoạn đời khác biệt dữ dội của Thúy Kiều. Trong Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài, không gian di chuyển của Dế mèn thật linh hoạt. Không gian trong văn học không hề bị một giới hạn nào. Trong loại văn học kì ảo, con người có thể đi từ thế giới này sang thế giới khác một cách dễ dàng. Đặc sắc này làm cho văn học phản ánh đời sống trong sự toàn vẹn, đầy đặn của nó. Một đặc điểm nổi bật của thời gian và không gian văn học là tính quan niệm của chúng. 27
- 2.2. Những đặc điểm của văn học với tư cách là nghệ thuật ngôn từ Bởi lẽ, không gian, thời gian không chỉ là môi trường, là quá trình tồn tại của nhân vật mà còn là sự cảm nhận của chính chủ thể hoạt động ấy về thế giới. Thời gian trong truyện cổ tích luôn mang tính khép kín: tính cách con người là bất biến, người ta có thể trẻ mãi không già, thời gian không làm ảnh hưởng tới hạnh phúc mà con người đạt được. Với thơ cổ điển, thời gian mang tính tuần hoàn, vĩnh viễn. Trong Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã miêu tả cuộc sống của Mị từ khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra là cuộc sống của một kẻ nô lệ. Cuộc sống ấy gắn liền với căn buồng tối tăm, chật hẹp, tù túng. Còn để diễn tả cảnh mùa thu mới - mùa thu đất nước đã dành được độc lập, dân tộc ta đã được sống cuộc sống tự do, nhà thơ Nguyễn Đình Thi dựng lên một không gian rộng lớn, khoáng đạt, đa chiều: Mùa thu nay khác rồi Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi Gió thổi rừng tre phấp phới Mùa thu thay áo mới Trong biếc nói cười thiết tha Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm mát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ rực phù sa Tóm lại, không gian và thời gian trong văn học rất tiêu biểu cho khả năng chiếm lĩnh đời sống vừa rộng, vừa sâu về nhiều mặt của nghệ thuật ngôn từ. 2.2.3 Khả năng phản ánh ngôn ngữ và tư tưởng của hình tượng văn học Điểm độc đáo nhất của văn học, khác hẳn các ngành nghệ thuật khác, là ở chỗ nó phản ánh được mọi hoạt động ngôn từ của con người. Con người trong văn học là người biết nói năng, suy nghĩ bằng ngôn từ. Người ta cho rằng: ngôn từ chẳng những là phương tiện miêu tả, mà còn là đối tượng miêu tả của văn học. Hoạt động lời nói, suy nghĩ là một mặt cơ bản của đời sống xã hội của con người. Qua văn học ta có thể nghe thấy tiếng nói của mọi tầng lớp người ở các thời đại khác nhau. Văn bản trong tác phẩm văn học gồm nhiều lời nói: ngôn từ trần thuật, người kể chuyện, nhân vật tự sự, nhân vật trữ tình. Mỗi lời nói đều mang dấu ấn của một con người với những tính cách riêng. Đọc Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, ta bắt gặp lời của Huấn Cao nói với viên quản ngục khi ông ta đến thăm mình: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Lời nói của nhân vật Huấn Cao đã góp phần thể hiện tính cách của một con người hiên ngang, bất khuất. Trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, khi nhân vật cố Hồng mở miệng ra là Khổ lắm, biết rồi, nói mãi! người đọc hiểu được nét độc đáo trong tính cách của ông ta. Khi văn học bắt đầu phân biệt ngôn từ của người kể chuyện và nhân vật, đó là dấu hiệu của sự phát triển về tư duy nghệ thuật. Gắn liền với hoạt động lời nói là hoạt động tư duy. Tư duy là một gương mặt đích thực của con người. Các nghệ thuật không sử dụng ngôn từ, có thể tư duy về con người, nhưng không thể dựng lại con người đang tư duy. Ví dụ khi Sở Khanh nói với Thúy Kiều: Nàng đà biết đến ta chăng, Bể trầm luân, lấp cho bằng mới thôi! chính là lúc hắn khoác lác, lừa gạt 28
- 2.3. Hướng dẫn học tập sự nhẹ dạ của Thúy Kiều. Dĩ nhiên văn học xưa nay không chỉ tập trung miêu tả tư duy, nhưng phương diện này lại là một thế mạnh hiển nhiên của văn học. Chỉ một bài Tùng cũng cho ta biết bao điều thầm kín mà Nguyễn Trãi gửi gắm vào cây tùng. Trong bài thơ Kính gửi cụ Nguyễn Du, khi đánh giá số phận của Thúy Kiều và cũng là cuộc đời của Nguyễn Du, nhà thơ Tố Hữu bày tỏ sự suy ngẫm của mình qua những lời thơ: Hỡi lòng tê tái thương yêu, Giữa dòng trong đục cánh bèo lênh đênh, Ngổn ngang bên nghĩa, bên tình Trời đêm đâu biết gửi mình nơi nao? Ngẩn ngơ trông ngọn cờ đào, Đành như thân gái sóng xao Tiền Đường. Như vậy bằng hình tượng ngôn từ, các tác giả có thể khắc hoạ chân dung tư tưởng của mỗi con người. Khác với các loại hình nghệ thuật khác, văn học có khả năng miêu tả tư tưởng và các xung đột tư tưởng, nên tính tư tưởng của tác phẩm văn học sắc bén hơn. Không những văn học mang tính khuynh hướng tư tưởng rõ rệt mà còn có khả năng thâm nhập sâu xa vào dòng ý thức, dòng tình cảm của con người. Nghệ thuật miêu tả tâm lí của Tônxtôi đạt đến trình độ phép biện chứng tâm hồn chính vì đã miêu tả được sự vận động tất yếu của dòng cảm xúc và ý nghĩ của nhân vật. Nói về khả năng của văn học trong việc phản ánh một cuộc sống, Hêghen cho rằng văn học là: Nghệ thuật có khả năng diễn đạt và phát biểu bất cứ nội dung nào dưới bất cứ hình thức nào2. Điểm mạnh của văn học so với các loại hình nghệ thuật khác là ở chỗ, văn học có thể phản ánh được mọi phương diện của đời sống, vừa quy mô, rộng lớn, vừa cụ thể, cá biệt. Chính vì vậy, Gôgôn đã từng nói: Dân ca Nga - đó là lịch sử tâm hồn Nga. Còn theo Biêlinxki, Épghênhi Ônêghin (Puskin) là bộ Bách khoa toàn thư của cuộc sống Nga. Như vậy có thể khẳng định rằng, văn học là loại hình nghệ thuật hữu hiệu và mang tính vạn năng nhất trong việc thể hiện đời sống. 2.3 Hướng dẫn học tập Kiến thức cơ bản cần nắm vững Mục 1: ∙ Cần nắm vững khi nào văn học mới tách khỏi nghệ thuật dân gian nguyên hợp ∙ Với việc lấy ngôn từ làm chất liệu, chỗ mạnh của văn học là gì so với các ngành nghệ thuật khác? – So sánh văn học với hội hoạ – So sánh văn học với điêu khắc – So sánh văn học với vũ đạo ∙ Tại sao nói tính hình tượng của ngôn từ xuất phát từ chỗ lời văn trong tác phẩm là lời của các hình tượng như nhân vật người kể chuyện, nhân vật trong các tác phẩm tự sự, nhân vật trong các tác phẩm trữ tình? (Lấy ví dụ để chứng minh). 2Hêghen. Mĩ học, T3, Matxcơva, 1971, trang 350 (tiếng Nga) 29
- 2.3. Hướng dẫn học tập ∙ Giải thích vì sao trong điều kiện các phương tiện nghe nhìn phát triển như hiện nay, văn học vẫn có vị trí trong đời sống tinh thần của nhân dân mà không gì có thể thay thế được. Mục 2: Hiểu các đặc trưng của nghệ thuật ngôn từ 1. Đặc trưng thứ nhất ∙ So sánh văn học với các loại hình nghệ thuật sử dụng các chất liệu hữu hình để thấy rõ tính phi vật thể của hình tượng văn học? ∙ Đọc bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan và xem bức tranh của người hoạ sĩ vẽ cảnh này bạn thấy có gì đặc biệt? 2. Đặc trưng thứ hai ∙ Cần nắm được chỗ mạnh của văn học so với các loại hình nghệ thuật khác trong việc phản ánh đời sống. ∙ Đọc bài thơ Từ ấy của nhà thơ Tố Hữu bạn nhận thức được những tình cảm và tâm nguyện gì của tác giả? ∙ Trong bài thơ Núi Đôi của Vũ Cao có câu: Em sẽ là hoa trên đỉnh núi Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm Câu thơ này tác giả muốn khẳng định điều gì về người con gái anh hùng ở vùng quê Núi Đôi thời kháng chiến chống Pháp? Hội hoạ có vẽ được cảnh này không? Vì sao? 3. Đặc trưng thứ ba ∙ Tại sao nói văn học tái hiện quá trình đời sống trong thời gian? Thời gian trong văn học có gì đặc biệt? Bạn hãy cho một vài ví dụ trong một tác phẩm văn học nào đó mà bạn đã đọc? ∙ Hãy nêu những nét đặc sắc riêng về không gian, thời gian của văn học? Bạn hãy so sánh vấn đề này với các ngành nghệ thuật khác? Lấy một vài ví dụ để chứng minh? Câu hỏi 1. Văn học không giống các loại hình nghệ thuật khác ở những điểm nào? 2. Khả năng nghệ thuật của ngôn từ với tư cách là chất liệu xây dựng hình tượng văn học? 3. Xây dựng hình tượng bằng chất liệu ngôn từ hình tượng văn học có đặc trưng gì? 4. Vì sao trong điều kiện các phương tiện nghe nhìn phát triển với nhiều thành tựu rực rỡ như hiện nay, văn học vẫn có vị trí quan trọng không thể thay thế được trong đời sống? 30
- 2.3. Hướng dẫn học tập Bài tập 1. Bài thơ Hạt gạo làng ta (Trần Đăng Khoa. Sách Tiếng Việt, lớp 5, tập 2) có những từ ngữ nào được tác giả sử dụng làm bạn xúc động và hiểu được giá trị của hạt gạo? 2. Đọc bài thơ Thu vịnh của Nguyễn Khuyến bạn thấy những hình ảnh nào của bài thơ mà người hoạ sĩ có thể vẽ được và hình ảnh nào không vẽ được? Vì sao? 3. Mở đầu khổ thơ thứ 2 trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của nhà thơ Hàn Mặc Tử, ta bắt gặp câu thơ: Gió theo lối gió mây đường mây. Câu thơ này tả gì? Qua câu thơ ấy, bạn hiểu được điều gì trong tâm trạng mà tác giả muốn thể hiện? Tài liệu tham khảo 1. Hồ Chí Minh. Về công tác văn hóa nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971 2. Trần Đình Sử. Về các phạm trù hình tượng nghệ thuật, Sách Lí luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000 3. Phương Lựu, Trần Đình Sử. Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004 31
- Chương 3 Tính đa chức năng của văn học Chức năng văn học là vai trò, vị trí của văn học trong đời sống xã hội, là tác dụng và ý nghĩa xã hội của văn học đối với đời sống tinh thần của con người. Văn học là hiện tượng đa chức năng. Chức năng thẩm mĩ, chức năng nhận thức và chức năng khơi gợi tư tưởng, tình cảm, niền tin, hoàn thiện nhân cách là những chức năng cơ bản. Trong đó, chức năng thẩm mĩ là chức năng đặc thù tương ứng với đặc trưng, bản chất của văn học nghệ thuật. Ngoài ra, có thể nói tới các chức năng văn học khác như chức năng dự báo, chức năng thông tin, giao tiếp, chức năng giải trí Các chức năng văn học gắn bó hữu cơ không tách rời nhau. Sự gắn bó giữa các chức năng làm cho văn học có tác động sâu xa, bền bỉ, có sức sống mãnh liệt, lâu dài trong đời sống tinh thần của con người. 3.1 Chức năng thẩm mĩ Chức năng thẩm mĩ là khả năng của văn học làm thỏa mãn khoái cảm thẩm mĩ, từ đó xây dựng, bồi đắp tình cảm thẩm mĩ và ý thức thẩm mĩ cho con người. 3.1.1 Thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ Văn học nghệ thuật có khả năng làm thỏa mãn khoái cảm thẩm mĩ (aesthetic - còn gọi là mĩ cảm) của con người, tức là sự vui sướng, phấn khích, vui vẻ, dễ chịu, hấp dẫn khi tiếp xúc với tác phẩm nghệ thuật. Khoái cảm thẩm mĩ bắt nguồn từ sự thoả mãn về mặt tinh thần, tức là nhận thức được những giá trị thẩm mĩ trong đời sống. Trước hết, đó là những giá trị hướng tới cái đẹp. Sáng tạo cái đẹp là một mục đích và nhu cầu của con người trong nhiều lĩnh vực. Nhưng đối với nghệ thuật và văn học, đây là yêu cầu tiên quyết, là chức năng quan trọng nhất. Trong nghệ thuật, cái đẹp không chỉ nằm trong yếu tố hình thức mà còn trong các yếu tố nội dung. 32
- 3.1. Chức năng thẩm mĩ Khoái cảm thẩm mĩ đầu tiên được gợi đến khi được tiếp xúc với những vẻ đẹp mang tính nội dung của đời sống đã được kết tinh và nâng cao trong tác phẩm nghệ thuật. Đó có thể là vẻ đẹp của thiên nhiên bốn mùa: Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô; Long lanh đáy nước in trời, Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng; Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông (Nguyễn Du). Cảnh vừa thực vừa hư ảo: Ai đi Châu Mộc chiều sương ấy, Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ, Có nhớ dáng người trên độc mộc, Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa (Quang Dũng). Có những vẻ đẹp gắn với cái hùng tráng: Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống (Quang Dũng) hoặc rất tinh tế: Tóc buồn nghiêng xuống lệ ngàn hàng (Xuân Diệu) Bên cạnh vẻ đẹp của thiên nhiên là vẻ đẹp của con người: Một yêu tóc bỏ đuôi gà, Hai yêu ăn nói mặn mà có duyên (ca dao); Vai năm tấc rộng thân mười thước cao (Nguyễn Du). Bên cạnh đó, còn có vẻ đẹp về tình người, về khí phách, về tâm hồn, về những quan hệ người. Bên cạnh cái đẹp, còn có những nội dung tạo mĩ cảm khác như cái bi, cái hùng, cái cao cả, và cả cái tầm thường, cái xấu, cái gớm ghiếc như là những phản đề của cái đẹp. Khoái cảm thẩm mĩ còn được xuất phát từ việc thưởng thức những vẻ đẹp khác nhau của các yếu tố hình thức: hình ảnh, ngôn từ, kết cấu Các yếu tố đó thể hiện sự tinh tế của những nhận thức về thế giới. Những câu thơ réo rắt, uyển chuyển, những hình ảnh rực rỡ, mĩ lệ, những vần điệu ngọt ngào, những cốt truyện hấp dẫn, những nhân vật đặc biệt đều tạo nên khoái cảm thẩm mĩ. Tuy nhiên, nếu chỉ chú ý tới những vẻ đẹp hình thức, quá say sưa với các trò chơi ngôn từ, mà không chú ý tới nội dung thì dễ rơi vào chủ nghĩa duy mĩ, hình thức chủ nghĩa. Và khi bản thân hình tượng trở nên rỗng nội dung, thì đó lại là tự hủy diệt ý nghĩa thẩm mĩ chân chính của hình tượng. Giá trị thẩm mĩ còn bộc lộ qua những điều sâu sắc, mới lạ, có ý nghĩa nhân sinh độc đáo, mang giá trị tinh thần cao. Ví như, cùng những bài thơ mang tên Quê hương, mang nặng tình cảm quê hương, nhưng ở mỗi tác giả lại có những khám phá những ý nghĩa nhân sinh riêng biệt. Quê hương của Tế Hanh là kỉ niệm về khung cảnh làng chài ven biển, là nhịp sống lao động gian khổ mà hùng tráng. Quê hương của Giang Nam là kỉ niệm tuổi thơ nghịch ngợm và bóng dáng cô hàng xóm mắt đen tròn thương thương quá đi thôi. Còn kỉ niệm quê hương của Đỗ Trung Quân hướng tới bài học làm người: nếu ai không có cội nguồn trong hành trang tinh thần của mình, người đó không xứng đáng làm người. Đó là những giá trị tinh thần độc đáo của hình tượng quê hương trong nhận thức của từng nhà thơ. Khoái cảm thẩm mĩ còn được tạo nên từ sự miêu tả chân thực đời sống. Miêu tả thật đúng, chính xác những nét tính cách, những phẩm chất của con người, dù có thể xấu xa nhưng cũng tạo nên sự hấp dẫn. Bởi đó chính là bản chất và tính đa dạng của cuộc sống đã hiện hình qua những nhân vật đó. Anh Hoàng trong Đôi mắt của Nam Cao từng thích nhân vật Tào Tháo đến nỗi phải chửi Tiên sư thằng Tào Tháo! chẳng qua vì thấy Tào Tháo khôn ranh, mưu mẹo, tài đối nhân xử thế quá, y như thật vậy. Khoái cảm thẩm mĩ còn bắt nguồn từ việc thỏa mãn những ước mơ của con người. Với hư cấu, tưởng tượng, văn học có thể làm con người hả hê vì trong văn học người ta có thể bay tới các vì sao, có thể đi xuống thủy cung, có thể sống trường sinh bất tử. Trong văn học, con người có thể sống nhiều cuộc đời, có thể giãi bày những oan khuất, người tốt được đền bù, kẻ ác bị trừng phạt, công lí được thi hành, phù hợp với niềm tin và mơ ước của số đông. 33
- 3.1. Chức năng thẩm mĩ Khoái cảm thẩm mĩ là một trạng thái mang tính tinh thần. Ta có thể yêu mến, kính phục, ngưỡng mộ, đau đớn, xót thương. Tất cả những trạng thái rung động đó về cơ bản đều hướng tới những giá trị cao quý. Vì vậy, sống với tác phẩm văn học là sự hưởng thụ cao đẹp của tâm hồn. 3.1.2 Hình thành thị hiếu và lí tưởng thẩm mĩ Việc thường xuyên tiếp xúc với cái đẹp trong văn học sẽ giúp chúng ta trở nên sắc bén và tinh tế hơn khi nhận biết các vẻ đẹp trong đời sống. Thị hiếu thẩm mĩ là sự tập trung chú ý và khoái cảm của cá nhân hoặc cộng đồng vào một loại đối tượng gây mĩ cảm. Thị hiếu thẩm mĩ tạo thành một hệ thống quan niệm tương đối ổn định về những giá trị thẩm mĩ, khác nhau trong đời sống như cái đẹp, cái bi, cái hùng Thị hiếu phụ thuộc rất nhiều vào dân tộc, lứa tuổi, giai cấp, giới tính, kinh nghiệm sống, văn hóa, tâm sinh lí cá nhân. Văn học còn giúp hình thành lí tưởng thẩm mĩ cho con người. Lí tưởng thẩm mĩ là tiêu chuẩn cao nhất về cái đẹp mà con người hướng tới. Lí tưởng trong tập Từ ấy của nhà thơ Tố Hữu chính là tương lai tươi sáng của dân tộc, mà vì nó người chiến sĩ cách mạng không hề sợ hi sinh gian khổ, tra tấn, tù đày. Tác động của văn học tới việc hình thành lí tưởng thẩm mĩ có nhiều dạng thái khác nhau. Thường là lí tưởng thẩm mĩ thể hiện qua hình tượng nhân vật chính diện. Các hình tượng Asin, Hécto, Uylítxơ (Hômerơ) thể hiện lí tưởng anh hùng thời cổ đại; Hămlét, Ôtenlô, Rômêô, Giuliét (Sêchxpia) thể hiện lí tưởng thẩm mĩ thời Phục hưng. Các anh hùng thời đại mình bao giờ cũng mang trong mình lí tưởng của thời đại về phẩm chất anh hùng, trí tuệ, chất nhân văn, đấu tranh vì công lí xã hội. Những nhân vật chính diện thường là hóa thân của những lí tưởng thẩm mĩ thời đại và dân tộc. Vậy còn trong những truyện không có nhân vật chính diện thì sao, đặc biệt là trong văn học hiện đại? ở những tác phẩm như thế này, phải nhìn thấy nhiệt tình của nhà văn đặt vào vấn đề gì. Ngay như cả việc phê phán, chế giễu cái xấu, cái thấp hèn cũng là một cách gián tiếp cho thấy mong mỏi của nhà văn. Nhà văn phải đứng trên đỉnh cao của lí tưởng thẩm mĩ để phản ánh những mặt xấu xa của đời sống. Lí tưởng thẩm mĩ sẽ thể hiện ở việc nhà văn lên án ai, bênh vực, xót thương những kẻ nào. 3.1.3 Tính lịch sử của nội dung thẩm mĩ Nội dung hay giá trị thẩm mĩ cũng có tính lịch sử của nó. Mỗi một thời, văn học lại có đặc thù riêng biệt về các giá trị thẩm mĩ. Mỗi một khuynh hướng, một thời đại, một dân tộc, một cá tính sáng tạo đều đưa ra những tiêu chuẩn thẩm mĩ của mình. Ví như vẻ đẹp của văn thơ cổ điển thiên về hình tượng mĩ lệ, hài hòa, cân đối, thanh cao, tao nhã, thế giới mang tính phi cá thể và siêu cảm giác, hình ảnh ước lệ, tượng trưng và biểu tượng cao, hàm súc, gắn với hội họa qua những bút pháp như họa vân hiển nguyệt (vẽ mây nảy trăng), điểm xuyết chấm phá, gợi nhiều hơn tả, vẻ đẹp con người là vẻ đẹp của khí phách cao cả, thanh cao Vẻ đẹp của văn thơ lãng mạn chú ý những vẻ đẹp mờ ảo, xa xôi, huyền diệu, mang tính cảm giác và cá thể cao, thiên về sự đối lập, thế giới phân cực, một bên là những ánh sáng rực rỡ, nhưng một bên nghiêng về cực u buồn, tối tăm, con người vừa mang những khát vọng cao cả vừa buồn bã, bất lực buồn chán, cái bi đi liền với cái hùng tráng, cái đẹp gắn với âm nhạc Vẻ đẹp của thơ hiện thực gắn liền với những chi tiết chân thực của đời 34
- 3.2. Chức năng nhận thức sống. Thơ cách mạng 1945-1975 có sức hấp dẫn nhờ những chi tiết chân thực, gần gũi với đời sống bình dị hàng ngày và cuộc sống chiến đấu: hơi ấm ổ rơm, tiếng nhạc la, vầng trăng và quầng lửa, hoa súng tím hồ Tây Bên cạnh đó là thiên hướng vươn tới cái cao cả, cái hùng tráng. Những đặc điểm này đã khu biệt vẻ đẹp thẩm mĩ của từng thời đại. Như vậy, chức năng thẩm mĩ xuất phát từ mĩ cảm, hình thức cao nhất của cảm xúc bởi nhu cầu về cái đẹp là nhu cầu mang tính lí tưởng, cao hơn nhu cầu vật chất, thuộc về bản chất con người. 3.2 Chức năng nhận thức 3.2.1 Văn học cung cấp tri thức bách khoa về cuộc sống Chức năng nhận thức là chức năng đáp ứng nhu cầu hiểu biết của con người về thế giới. Hiện thực cuộc sống vô cùng phong phú với những kiến thức về địa lí, lịch sử, phong tục, tôn giáo, đạo đức, văn hóa của một dân tộc hoặc một thời đại. Thần thoại chính là những giải thích và giả thuyết của con người về vũ trụ và thế giới. Những bức tranh thiên nhiên chính là đặc thù địa lí của từng quốc gia: khu rừng già ẩm ướt ở Nam Mỹ, cánh đồng mùa đông tuyết phủ, cánh rừng bạch dương thơm nức ở Nga, sen hồng mùa hạ, cúc vàng mùa thu Việt Nam. Rồi những phong tục buộc dây, ăn cốm mùa thu hoặc những trận đánh lịch sử như Oatéclô, Bôrôđinô, Điện Biên Phủ đều được miêu tả trong văn học. Nhưng nội dung nhận thức cơ bản nhất vẫn là đời sống tâm tư tình cảm và số phận con người thông qua những bức tranh thiên nhiên, phong tục và lịch sử đó. Gắn với đời sống con người là các vấn đề của đời sống vật chất và tinh thần con người: vấn đề tự do, độc lập, khát vọng hạnh phúc, khẳng định cá tính, quyền lực, rồi chuyện miếng ăn, cái đói Về ý nghĩa xã hội, văn học có khả năng dự cảm về tương lai xã hội, phát triển năng lực nhận thức thế giới của con người về chiều rộng, chiều sâu của những vấn đề đời sống, có khả năng trình bày tính tư tưởng của xã hội. Lênin từng đánh giá cao các tác phẩm của L. Tônxtôi ở chỗ, ông đã vạch nên sự bất bình của hàng triệu con người Nga đối với chế độ Sa hoàng, tiến tới nhu cầu cần phải xây dựng một xã hội mới, nhân đạo hơn, có khả năng mưu cầu hạnh phúc cho mọi người. Cho nên có người cho rằng, văn học có chức năng dự báo, đặc biệt vào thời kì có những biến động lịch sử lớn, vì lí do đó. 3.2.2 Nhận thức cái khái quát qua cái cụ thể, cái mới lạ trong cái quen thuộc, làm cho con người có khả năng tự nhận thức Mục đích cuối cùng của nhận thức là hướng tới những khái quát lớn, khám phá bản chất, quy luật của các hiện tượng. Tác phẩm chân chính mỗi thời đại phải đặt ra những vấn đề cơ bản của thời đại mình, giúp người đọc nhận biết những trạng thái nhân sinh đang hiện tồn1. Lênin nói, nếu trước chúng ta là một nghệ sĩ thực sự vĩ đại, thì chí ít anh ta phải phản ánh trong tác phẩm của mình, ít ra là vài ba khía cạnh chủ yếu của cách mạng (nghĩa là, nghệ sĩ đó phải đề cập đến được ít nhiều những vấn đề lớn của xã hội, của dân tộc). Do phản ánh được bản chất và quy luật của đời sống hiện thực, các kiệt tác văn học bao giờ 1Trần Đình Sử. Lí luận văn học, Hệ Cao đẳng, tập 1, Nxb ĐHSP, Hà Nội, 2003, trang 212 35
- 3.2. Chức năng nhận thức cũng có sức hấp dẫn mang tính thời đại. Những câu thơ của Thanh Thảo đã khái quát được niềm tin và lí lẽ giản dị mà cao cả của người lính thời chống Mĩ: Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình, (Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc), Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc!. Nhận thức khái quát chính là tri thức cơ bản con người cần đạt tới trong tiến trình tiếp nhận văn học. Nhưng nhận thức khái quát đó phải được nhận thức thông qua những hình tượng cụ thể. Bằng những cơn gió lạnh đầu mùa thổi về mà người ta biết đến nỗi cơ cực của những kiếp nghèo khổ và giá trị của sự cảm thông, xẻ chia. Qua những ánh sáng vụt sáng trên những chuyến tàu đêm cuối cùng mà người ta biết đến những mơ ước khát khao về một thế giới tràn ngập ánh sáng của những cuộc đời tối tăm hòa lẫn vào cát bụi (Thạch Lam). Hình tượng văn học còn giúp ta phát hiện bao điều mới lạ, sâu xa, chí lí trong những cái bình thường, thân quen, giản dị ta vẫn gặp hàng ngày. Ví như một vẻ đẹp của hương cốm mùa thu và con đường tĩnh lặng, vẻ đẹp của một ngõ nhỏ Hà Nội: Sương giăng mờ trên ngõ Tạm Sương, Ngõ rất cụt mà lòng xa thẳm, Ngõ bảy thước mà lòng muôn dặm, Thương một đời đâu phải tạm thương (Chơi chữ về ngõ Tạm Thương (tức Tạm Sương) - Chế Lan Viên). Đặc biệt hình tượng văn học giúp nhận thức các giá trị tinh thần kết tinh trong thế giới đối tượng. Văn học không nhận thức đối tượng như những bản thể tự nó mà nhận thức các quan hệ xã hội của con người kết tinh trong đó. Cây cầu là nơi hò hẹn, bến đò là nơi li biệt, vầng trăng hay ngọn gió đều chứa đựng tình cảm của con người. Vì vậy, nhận thức đối tượng trong văn học là nhận thức về ý nghĩa người trong đối tượng. Bên cạnh đó, trong văn học luôn chứa đựng những khát vọng tinh thần của con người. Con người trong văn học luôn tự trả lời: ta là ai? ta sống để làm gì? vì sao ta phải sống trong tủi nhục đọa đầy? có cách nào thoát khỏi cảnh sống khốn khổ này? làm sao để sống cho đúng nghĩa là con người? Đó là những câu hỏi mà văn học cổ kim đông tây đều khát khao trả lời. Đọc Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo, thơ Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, chúng ta đều thấy vụt lên những câu hỏi đó, cho thấy giá trị của con người. Vợ nhặt (Kim Lân) là những khát khao hạnh phúc ngay cả trong nạn đói thê thảm. Văn học cách mạng cho thấy con người vượt qua cái chết một cách nhẹ nhàng vì đã hiến dâng đời mình cho Tổ quốc. Văn học giúp con người hiểu được giá trị của mình, sống cuộc đời sâu sắc, có ý thức mãnh liệt về giá trị, và năng lực để phấn đấu và sáng tạo2. 3.2.3 Tính lịch sử của nội dung nhận thức Nội dung nhận thức trong văn học mỗi thời kì có đặc thù khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện xã hội - lịch sử, nhu cầu và thị hiếu, chuẩn mực đạo lí thời đại. Thần thoại thường giải thích việc hình thành thế giới và các hiện tượng tự nhiên. Văn học dân gian chủ yếu nói đến cuộc sống và mơ ước của người lao động. Văn học cổ điển chú ý những quan hệ cơ bản của chế độ phong kiến, cổ vũ những tấm gương mang chuẩn mực của đạo đức phong kiến. Nội dung của chủ nghĩa hiện thực đòi hỏi sự chân thực, phê phán nghiêm ngặt. Chủ nghĩa lãng mạn chú ý nội tâm, trữ tình. Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa chú ý con người trong những cơn bão táp của lịch sử. Vì vậy, khi chú ý tới nội dung nhận thức trong văn học, cần phải hiểu nội dung đó trong mối quan hệ với những điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa cụ thể. 2Trần Đình Sử. Lí luận văn học (sách đã dẫn), trang 215 36
- 3.3. Chức năng khêu gợi tư tưởng, tình cảm (chức năng giáo dục) 3.3 Chức năng khêu gợi tư tưởng, tình cảm (chức năng giáo dục) ∙ Văn học khêu gợi tư tưởng tình cảm, nuôi dưỡng tâm hồn Chức năng giáo dục là chức năng giúp xây dựng một thái độ, một tình cảm nhất định đối với cuộc sống. Tác phẩm văn học bao giờ cũng phản ánh hiện thực trong tính khuynh hướng tư tưởng và tình cảm, bao giờ cũng toát lên nhiệt tình khẳng định hay phủ định, khát khao nhìn thấy lẽ phải, chân lí ở đời được thực hiện, cho nên văn học còn thức tỉnh con người lương tri, dạy biết yêu, biết căm giận, biết chia sẻ, xót thương Nghĩa là văn học có tác động tích cực tới đời sống tư tưởng, tình cảm con người. Văn học giúp hình thành thế giới quan và các quan điểm chính trị, xã hội. Đã từng có cả một thế hệ thanh niên Việt Nam thời Pháp thuộc và cả thời Mĩ ngụy sau này say sưa truyền tay, chép bí mật những bài thơ của Tố Hữu, coi đó là sự hướng tới lí tưởng giải phóng dân tộc. Nhiều chiến sĩ thời kì chống Mĩ ra trận mang trong ba lô những cuốn sách như Ruồi Trâu, Thép đã tôi thế đấy, Chiến tranh và hòa bình, bởi những lí tưởng cao cả của các nhân vật trong đó sẽ giúp những người chiến sĩ đó sống kiên cường hơn trong những thử thách khốc liệt của chiến tranh. Văn học còn góp phần hình thành những quan điểm đạo đức. Mọi vẻ đẹp rực rỡ nhất của văn học nhân loại đều tập trung vào những phẩm chất cao quý của các nhân vật. Từ các hình tượng như con cò trong ca dao, chàng Thạch Sanh, cô Tấm trong truyện cổ tích, Thúy Kiều, Kiều Nguyệt Nga đến hình tượng chị Sứ, mẹ Suốt, mẹ Tơm, anh giải phóng quân trong thơ văn hiện đại, những hình tượng đó ảnh hưởng mạnh mẽ tới quan niệm đạo đức của các thế hệ người Việt Nam. Khả năng hướng thiện của văn học chủ yếu thể hiện ở sức mạnh tác động tới tình cảm, tâm hồn của con người, ở khả năng khơi gợi những tình cảm đạo đức. Tônxtôi đã nói, nghệ thuật có khả năng làm lây lan tình cảm và cùng thể nghiệm chúng. Luận điểm của Tônxtôi nhấn mạnh văn học không chỉ kể và tả lại sự việc mà còn lôi cuốn con người vào mạch tình cảm đó, làm cho họ không thể dửng dưng. Những giọt nước mắt xúc động, thương cảm, đau đớn cùng với nhân vật, với những câu chuyện cổ tích của Anđécxen như Bầy chim thiên nga, Cô bé bán diêm chính ở chỗ này. Đây chính là cơ sở để nuôi dưỡng lòng nhân ái. Những tác phẩm văn học ưu tú luôn khơi dậy khả năng đồng cảm, làm cho con người biết vui buồn trước những nỗi buồn vui của đời người. Văn học dạy ta biết yêu biết ghét, biết khinh bỉ sự phản trắc, cái tẹp nhẹp, tầm thường, cái lười biếng, độc ác gian tham. Văn học khơi dậy niềm tin vào sự tất thắng của cái thiện, niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai, dạy cho người ta biết xả thân vì nghĩa lớn, khát khao đóng góp cho cuộc sống ngày càng đẹp hơn3. ∙ Văn học giúp con người tự hoàn thiện nhân cách Văn học giúp tác động, cải tạo phẩm chất người (đạo đức, cách ứng xử, suy nghĩ phù hợp với lẽ phải, với tình thương, lòng nhân ái, làm cho con người hiểu nhau, sống tốt hơn, có ý nghĩa hơn, hướng tới sự hoàn thiện. Văn học giúp con người thanh lọc tình cảm, biết thế nào là đẹp đẽ, cao thượng 3Trần Đình Sử. Lí luận văn học (sách đã dẫn), trang 216-217 37
- 3.4. Chức năng giao tiếp và giải trí Văn học còn giúp rèn luyện và phát triển những giác quan thẩm mĩ, khả năng nhận biết cái đẹp trong đời sống và trong nghệ thuật. Không ai bắt ta phải tiếp xúc với tác phẩm văn học, cũng như không bắt ta phải làm theo những điều tác phẩm kêu gọi, nhưng sự tiếp xúc với những điều hay lẽ phải trong tác phẩm trước hết nâng cao tâm hồn, nhận thức, và sẽ giúp ta nhận thức một số vấn đề về cách ứng xử trong cuộc sống, hình thành quan niệm tư tưởng và đạo đức, biết yêu thương và trân trọng con người. Đó chính là khả năng nhân đạo hóa con người của văn học. 3.4 Chức năng giao tiếp và giải trí Nói đến giao tiếp là nói đến sự giao lưu trao đổi. Trong cuộc sống, việc giao tiếp diễn ra thường xuyên với nhiều hình thức. Văn học thực hiện nhiệm vụ giao tiếp theo cách riêng. Trong tác phẩm văn học, nhà văn không chỉ chuyển tải những thông tin thông thường, mà những thông tin ấy chứa đựng nội dung tư tưởng, tình cảm và mang tính khuynh hướng xã hội đậm nét. Vì vậy văn học giúp con người hiểu biết về nhau, đưa con người xích lại gần nhau. Chức năng giao tiếp trong văn học không phải là sự thông báo một chiều từ người nói, người viết, tới người đọc, người nghe mà dường như còn có sự trao đổi, đối thoại, tác động qua lại giữa nhà văn và người đọc. Trong bài thơ Thu vịnh của Nguyễn Khuyến, ngoài sự cảm nhận cảnh thu đẹp của tác giả còn thể hiện một tâm trạng khắc khoải: Nhân hứng cũng vừa toan cất bút Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Đọc bài thơ Xúc cảnh của Nguyễn Đình Chiểu người đọc có sự giao tiếp cùng tác giả về tình cảnh của đất nước trước họa xâm lược của thực dân Pháp và thái độ vô trách nhiệm của triều đình trong cảnh nước mất, nhà tan: Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông Chúa xuân đâu hỡi có hay không Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng Bờ cõi xưa đà chia đất khác Nắng sương nay há đội trời chung. Với chức năng giao tiếp của mình, văn học đã mang tiếng nói của dân tộc này đến với dân tộc khác làm cho các dân tộc hiểu biết nhau hơn. Ở mãi Tây bán cầu nhân dân Cuba anh em hiểu sâu sắc hơn về tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam qua tác phẩm Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, qua Hòn đất của Anh Đức Khi cầm bút sáng tác chính là lúc nhà văn muốn trình bày, muốn chia sẻ với bạn đọc những suy tư, những nỗi niềm để tâm hồn thanh thoát. Người đọc văn học cũng là để thư giãn sau những giờ phút lao động căng thẳng. Do đó, trong chức năng giao tiếp của văn học có chứa đựng cả chức năng giải trí. Giải trí là một nhu cầu phổ biến cho mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp trong xã hội. Xã hội càng phát triển nhu cầu giải trí càng lớn. Để đáp ứng nhu cầu này có rất nhiều phương tiện 38