Gia Định tam gia

pdf 7 trang ngocly 3410
Bạn đang xem tài liệu "Gia Định tam gia", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgia_dinh_tam_gia.pdf

Nội dung text: Gia Định tam gia

  1. GIA ĐỊNH TAM GIA Gia Định tam gia là danh hiệu người đời chế cáo, giữ việc biên soạn sổ sách, rồi tặng cho ba vị quan văn của Nguyễn lần lượt trải qua Điền tuấn quan (trông Phúc Ánh là: coi việc khai khẩn), Đông cung thị giảng (dạy cho Nguyễn Phúc Cảnh), Hữu • Lê Quang Định tham tri Bộ Hình. • Ngô Nhân Tịnh • Trịnh Hoài Đức Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi, lấy niên hiệu là Gia Long, ông được thăng Thượng thư Bộ Binh, làm chánh sứ cùng với Lê Chính Lộ, Nguyễn Gia LÊ QUANG ĐỊNH Cát sang nhà Thanh (Trung Quốc), cầu phong cho nhà vua. Lê Quang Định (1759[1] - 1813), tự: Tri [2] Năm 1806, ông được cử biên soạn Chỉ, hiệu: Tấn Trai , Chỉ Sơn; là văn Hoàng Việt nhất thống địa dư chí gồm thần đầu đời Nguyễn, là nhà thơ có [3] 10 quyển, là bộ địa chí đầu tiên của nhà tiếng trong nhóm Sơn Hội ở Gia Định Nguyễn. và Bình Dương thi xã. Ông cùng Trịnh Hoài Đức (1765-1825) và Ngô Nhân Năm 1810, giữ chức Thượng thư Bộ Hộ Tịnh (?-1813) được người đương thời kiêm coi Khâm Thiên Giám (tức đài xưng tụng là Gia Định tam gia của đất quan sát thiên văn). sau đó ông còn Gia Định xưa. đảm nhận việc kiểm tra dân số, lập sổ dinh điền và chia hạng ruộng đất. Thân thế & sự nghiệp Năm Gia Long thứ 12 (1813), Lê Quang [4] Lê Quang Định, người làng Mậu Tài, Định mất, hưởng dương 53 tuổi. . Về huyện Phú Vang, phủ Thừa Thiên (nay sau, ông được vua Tự Đức (1829-1833) là tỉnh Thừa Thiên - Huế). Thuở nhỏ, đưa vào thờ ở miếu Trung hưng công nhà nghèo, cha là một viên quan nhỏ thần. mất sớm, nên ông phải theo anh vào làm ăn ở huyện Bình Dương, tỉnh Gia Nhà thơ Định. Vốn thông minh, hiếu học, Lê Lê Quang Định là nhà thơ có tiếng trong Quang Định được một thầy thuốc là nhóm Bình Dương thi xã và nhóm Sơn Hoàng Đức Thành gả con gái và tận Hội ở Gia Định. tình giúp đỡ. Ông theo học Võ Trường Toản (?-1792), kết bạn với Ngô Nhân Sáng tác của ông gồm: Tịnh, Trịnh Hoài Đức, cùng nhau lập • Hoa nguyên thi thảo: bằng chữ "Bình Dương thi xã”. Hán, 1 quyển, gồm 74 bài, hầu hết là thơ đề vịnh, cảm hoài và thù tạc. Quan nhà Nguyễn Trong đó có một số bài sáng tác ở Năm Mậu thân (1788), khi Nguyễn Phúc Việt Nam, còn phần lớn được viết Ánh (1762-1820) chiếm lại Gia Định và lúc đi sứ sang Trung quốc bằng cho mở khoa thi, ông và Trịnh Hoài Đức đường thủy. trúng tuyển, được cử làm Hàn lâm viện 1 | T r a n g
  2. • Hoàng Việt nhất thống địa dư chí: Bất tương hoàn bội họa hồng nhan. gồm 10 quyển, chép đủ đường sá, Dịch nghĩa: sông núi, thổ sản, phong tục từ Lạng sơn đến Hà Tiên Bộ sách được Đề bức tranh mỹ nhân bơi chèo triều Nguyễn đánh giá rất cao, đồng thời trở thành công cụ tra cứu chủ Vẻ tốt đẹp thiên nhiên đ ã làm cho người yếu cho các công trình địa chí tiếp ta thèm thuồng, có thể ăn được. theo [5]. Người đẹp bơi chèo lại càng thêm ưa mắt. • Gia Định tam gia thi: gồm một số Giải lưng thướt tha như làn gió nhẹ lướt bài thơ, in chung với thơ của Trịnh nhành dương liễu, Hoài Đức và Ngô Nhân Tịnh. Phấn mặt mát lạnh như màu sương nhạt điểm hoa phù dung. Nhận xét Nét xuân sắc hơi buồn, dáng rất ẻo lả Lê Quang Định là người thông minh, Làn thu ba nửa lộ, bóng như lờ mờ. cẩn thận, kín đáo, giản dị, nổi tiếng thơ Chỉ giận người thợ vẽ hạ bút còn thiên văn, viết chữ đẹp và có tài về hội họa. lệch, Không đem ngọa hoàn, ngọc bội mà vẽ Sách Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 3 cho người hồng nhan.[8] viết: Tài thơ của ông từng được các văn Chú thích nhân mặc khách Việt Nam, Trung Quốc, 1. Ghi theo các sách: Tìm hiểu kho Triều Tiên tán thưởng. Tài hội họa cùng sách Hán Nôm tập I, Hỏi đáp Sài nghệ thuật văn chương được thấy rõ Gòn - TP. HCM tập 3, Từ điển nhân qua thi phẩm Hoa nguyên thi thảo vật lịch sử Việt Nam, Từ điển văn Toàn tập chỉ có 9 bài tuyệt cú, còn bao học Việt nam (bộ mới). Thành ngữ nhiêu là thơ ngũ ngôn và thất ngôn luật điển tích danh nhân từ điển tập I của (sở trường của ông). Tứ thơ trong thi tập G.S Trịnh Vân Thanh ghi 1760 (tác hào sảng, phóng khoáng, bút pháp hồn giả tự xuất bản, Sài Gòn, 1966, tr. hậu, giản phác, không dụng công để 666) trau chuốt ngôn từ, nhưng thành tựu 2. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, nghệ thuật rất trong sáng. Từ điển văn học Việt nam (bộ mới) Sở trường hội họa đã tạo thơ ông mang đều ghi Cấn Trai. Gia Định xưa ghi tính “thi trung hữu họa”. Trấn Trai. Tập thơ này đã được Lê Lương Thuận, 3. Gọi là nhóm Sơn Hội, vì tên các hội Hàn lâm viện chế cáo đề tựa năm 1807 viên đều có chữ Sơn, như Chỉ Sơn và phần lớn đều có lời bình của Ngô Thì Trịnh Hoài Đức, Nhữ Sơn Ngô Nhân Vị [6] và Nguyễn Du [7] Tịnh, Kỳ Sơn Diệp Minh Phụng, Bác Sơn Hoàng Ngọc Uẩn v.v Để hoạt Trích thơ động tích cực hơn nữa về mặt văn hóa, các hội viên trong nhóm Sơn Đề mỹ nhân dao lỗ đồ Hội mở thêm thi xã Bình Dương (ghi Thiên nhiên tú mị dĩ kham xan theo Huỳnh Minh, Gia Định xưa, Nxb Dao lỗ giai nhân cánh khả quan. VHTT, 2006, tr. 312. Địa chí văn hóa Dương liễu phong khinh yêu đới trụy, TP. HCM phần Lịch sử, Nxb TP. Phù dung sương đạm kiểm chi hàn. HCM, 1987, tr. 193 thì cho biết thi xã Vi hàm xuân muộn kiều vô lực, Bình Dương và Sơn Hội chỉ là một). Bán lộ thu tình ảnh dục lan. Việc xuất hiện của Sơn hội và Bình Khước hận đan thanh thiên trước bút, Dương thi xã, cho thấy đầu những 2 | T r a n g
  3. năm 80 của thế kỷ 18, lực lượng tri • Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế thức ở Gia Định bắt đầu có những giới, 2004, tr. 829-830. sinh hoạt văn hóa - xã hội độc lập. • Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 3, Trần Văn học Hán Nôm ở Gia định chính Nam Tiến chủ biên, Nxb Trẻ, 2007, thức ra đời từ đó. tr. 303. • Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, 4. Theo Huỳnh Minh: Năm 1813, ông Nguyễn Q. Thắng & Nguyễn Bá Thế, cáo bệnh về quê và mất sau đó ít Nxb KHXH, tr. 369. lâu. (Gia Định xưa, tr. 115-117) • Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập 3, 5. Ở Thư viện Viện Sử học (Hà Nội) Huỳnh Lý chủ biên, Nxb Văn học, 1978, tr.581. • Huỳnh Minh, Gia Định xưa, Nxb VHTT, 2006, tr. 115. • Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam [1] NGÔ NHÂN TỊNH còn lưu giữ bản chép tay, mỗi quyển chép làm 1 tập. Ký hiệu: HV.528. Ngô Nhân Tịnh (? - 1813[1]), còn được Năm 2005, Nxb Thuận Hóa và gọi là Ngô Nhơn Tịnh hay Ngô Nhân Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tĩnh, tự Nhữ Sơn, hiệu Thập Anh; là Tây đã xuất bản. Sách do Phan quan nhà Nguyễn và là nhà thơ có tiếng Đăng dịch, giới thiệu & chú giải, dày trong nhóm Bình Dương thi xã. 1.850 trang, khổ 19cm x 27cm. Ông cùng Trịnh Hoài Đức (1765-1825) 6. Ngô Thì Vị, còn được gọi là Ngô Thì và Lê Quang Định (1759-1813) được Hương (1774-1821), là nhà thơ và là người đương thời xưng tụng là Gia Định con út của Ngô Thì Sĩ. tam gia của đất Gia Định xưa. 7. Theo Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 3, Trần Nam Tiến chủ biên, Nxb Trẻ, Thân thế & sự nghiệp 2007, tr. 303. Ảnh Đình Minh Hương Gia Thạnh, nơi 8. Chép theo Hợp tuyển thơ văn Việt Bình Dương thi xã xướng họa. Nam, tập 3, Huỳnh Lý chủ biên, Nxb Ngô Nhân Tịnh vốn là người Minh Vă n học, 1978, tr.581 Hương, quê gốc ở Quảng Đông (Trung Tài liệu tham khảo Quốc). Khi nhà Thanh vào Trung Quốc, tiên tổ ông sang Gia Định lập nghiệp. • Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Ông sinh tại Gia Định và là học trò giỏi Hán Nôm tập I, Nxb Văn hóa, Hà của Võ Trường Toản (?-1792). Nội, 1984, tr.355. • Hỏi đáp về Sài Gòn-TP.HCM tập 3, Dốc sức vì nhà Nguyễn TS. Quách Thu Nguyệt chủ biên, Không rõ năm Ngô Nhân Tịnh ra giúp Nxb Trẻ, 2006, tr. 26-27. Nguyễn Phúc Ánh (1762-1820), chỉ biết • Thành ngữ điển tích từ điển của ở trong khoảng những năm đầu dựng Diên Hương, Nxb Đồng Tháp, 1992, nghiệp và ông được lãnh chức Thị độc tr. 186. Viện hàn lâm. 3 | T r a n g
  4. Năm 1789, ông làm Hữu tham tri Bộ Năm 1936, vì nhà cầm quyền cần nơi Binh, được cử đi sứ sang nhà Thanh xây cất nhà ga, nên đã ra lệnh lấy hài (Trung Quốc) để dò xét tình thế và truy cốt của ông, cải táng ở một chổ khác. [3] tìm tin tức của vua Lê Chiêu Thống Cống hiến cho văn học (1766-1793). Ngô Nhân Tịnh là người học rộng, giỏi Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi, văn chương, thích ngâm vịnh. Ông cùng lấy niên hiệu là Gia Long, ông làm Giáp với hai người bạn thân thiết là Lê Quang phó sứ theo Trịnh Hoài Đức và Hoàng Định và Trịnh Hoài Đức, sáng lập “Bình Ngọc Uẩn sang Trung Quốc lần hai, để Dương thi xã” nổi danh một thời. trình quốc thư và nộp trả ấn sách mà nhà Thanh đã phong cho nhà Tây Sơn. Tác phẩm của ông hiện còn: Năm 1807, ông sung Chánh sứ cùng • Thập Anh đường văn tập: gồm 187 với Phó sứ Trần Công Đàn sang Chân bài kinh nghĩa, lấy đề tài từ Kinh thi Lạp (Campuchia), đem sắc ấn đến và Kinh thư, dùng làm mẫu cho thành La Bích phong Nặ c Ông Chân những người đi thi tham khảo. làm vua ở nước này. • Thập Anh đường thi tập: gồm 81 bài Năm 1811, ông ra làm Hiệp trấn Nghệ thơ chữ Hán làm trong thời gian đi An. Năm sau, thăng Thượng thư Bộ sứ, lúc làm quan và khi xướng họa Công kiêm Hiệp tổng trấn Gia Định, phụ với bạn bè. tá cho Tả quân Lê Văn Duyệt (1764- • Nhất thống dư địa chí: do Lê Quang 1832). Định soạn, Ngô Nhân Tịnh nhuận Năm 1813, ông cùng Lê Văn Duyệt đem chính. binh đưa Nặc Ông Chân về nước Chân • Gia Định tam gia thi tập: gồm một số Lạp. Cùng năm này, sau khi đi hội đàm bài thơ, in chung với thơ của Trịnh cùng Xiêm La (Thái Lan) bàn việc Chân Hoài Đức và Lê quang Định. Lạp, ông bị người cùng triều vu tội tham ô, ăn của đút lót của Chân Lạp và Xiêm Sách Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 3 còn La, nên không còn được vua Gia Long cho biết: Ông là đồng tác giả Hoan tin tưởng như trước. Không thể giải bày, Châu phong thổ ký. Đây là sáng kiến dần dà nỗi uất ức khiến ông phát sinh của Ngô Nhân Tịnh khi ông làm Hiệp bệnh nặng rồi mất cùng năm này, an trấn Nghệ An. Sách do ông viết lời bạt táng tại xã Chí Hòa, Gia Định (nay thuộc và tựa vào năm 1811. Nội dung sách thành phố Hồ Chí Minh). viết về danh thắng, núi sông, cổ tích, phong tục, nhân vật của trấn Nghệ An. Theo Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 3 và Đây được xem là một trong các tác Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển phẩm về địa phương chí sớm nhất của thì sau khi mất ông được phong Kim Tử đất Hoan Châu xưa (tức Nghệ An ngày vinh lộc đại phu, Thượng Khanh, tước nay). Tịnh Viễn Hầu, thụy là Trác Gian [2] Nhận xét Riêng Từ điển văn học (bộ mới) cho biết sau khi ông mất, Trịnh Hoài Đức có tâu Từ điển văn học (bộ mới) viết: xin được truy tặng nhưng vua Gia Long Ngô Nhân Tịnh làm quan thanh liêm, không cho. Năm Minh Mạng thứ nhất giản dị, nghiêm khắc đuổi kẻ sâu mọt, (1820), chỉ được cấp phu coi mộ. Đến từng dâng sớ tâu bày những nỗi thống năm Tự Đức thứ năm (1852) mới được khổ của người dân và xin hoãn thuế, phụ thờ vào miếu Trung hưng công được vua chuẩn y. thần. 4 | T r a n g
  5. Tính ông khảng khái, quang minh, rộng Trượng phu thùy khẳng vị thân mưu. rãi, không xu nịnh, vì thế hay bị dèm Phiến tâm vị đạt môn trùng toản, pha Nhất sự vô thành lệ ám lưu. Cục tích tiền đồ thiên địa trách, Về thơ, thì: Đế hôn đồ vọng bão kỳ du. Thơ đi sứ của Ngô Nhân Tịnh đau đáu Dịch nghĩa: nỗi niềm thương nhớ nước Việt Nam (Họa Trịnh Cấn Trai thứ lạp Ông tam Cùng hai bạn Trần Tuấn, Hà Bình thập vận, kỳ tam, Khách trung dạ vũ, chơi thuyền trên sông Xích hạ, có bài Khách trung thất tịch, Khách trung ngẫu tạp vịnh. thành ). Nhưng khi về nước, ông ngỡ Gió thổi cỏ bồng, nước trôi cành gãy, ngàng nhận ra mình cũng chỉ là một vị man mác thay cái cảnh phiêu lưu, “khách” xa lạ trên chính nơi “chôn nhau Trùm đầu (bằng) cái mũ phương nam, cắt rún” của mình. Nhất là ở giai đoạn mà vẫn đeo sầu ở nơi quan san muôn cuối đời, ông phải sống trong sự nghi dặm. ngờ của vua và của một số người (Tiên Tráng sĩ bền gan cần phải đền bồi nợ thành lữ thứ). nước, Là một vị công thần bị bỏ rơi như Ngô Trượng phu lập chí nào nghĩ đến việc Nhân Tịnh, ông chỉ còn biết ẩn mình gửi riêng mình. gắm nỗi niềm vào rượu và Ly tao Cửa vua mấy lần khóa thâm nghiêm, (Thuyết tình ái). Mang nặng nỗi niềm tấm lòng thành chưa thấu tới tâm sự của một vị trượng phu “muốn Nước mắt biết bao phen sùi sụt, một đền nợ nước” nhưng “tấm lòng chưa việc gì cũng chẳng làm xong. thấu đến cửa vua”, nên ông luôn tự ví Cúi mình chùn bước trên đường đi, trời mình như Khuất Nguyên, Hàn Tín (Lưu đất sao mà chật hẹp, biệt Tiên thành chư hữu; Đồng Trần Đầy dạ biết bao mưu kế, nhưng chỉ biết Tuấn, Hà Bình Xích hạ chu trung tạp để mắt trông về nơi đế khuyết, xiết nỗi vịnh). mong chờ. [5]. Thơ ông xót xa, u uẩn nhưng không Chú thích chất chứa oán hờn, khinh bạc. Với lời lẽ 1. Ghi theo Từ điển văn học bộ mới, trung hậu, thấy trải lẽ xuất xử của kẻ sĩ Thành ngữ điển tích từ điển, Hỏi đáp ở đời. Những vần thơ nhiều trăn trở ấy về Sài Gòn-TP. HCM tập 3. Riêng đã tạo nên sức rung động rất lớn. Ông sách Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 3, thật xứng với lời khen của Nguyễn Du Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (1766-1820): và web Từ điển bách khoa toàn thư Văn chương ông hay như tám nhà cổ Việt Nam đều ghi Ngô Nhân Tĩnh văn lớn làm tăng vẻ đẹp hai nước mất năm 1816 (các nguồn dùng để Mưa móc theo sau xe ông thấm nhuần tra cứu đều ghi ở mục tài liệu). cả châu Hoan. 2. Hỏi đáp về Sài Gòn-TP.HCM tập 3 ghi Trác Giang. Trịnh Vân Thanh (Tống Ngô Nhữ Sơn công xuất trấn (sách nêu ở mục tài liệu) ghi Túc Nghệ An)[4]. Gian. Trích thơ 3. Trịnh Vân Thanh không cho biết nơi chôn cất mới. Đồng Trần Tuấn, Hà Bình Xích hạ chu 4. Từ điển văn học bộ mới (Nxb Thế trung tạp vịnh. giới, 2004, tr 1072) Phiêu bồng, đoạn ngạnh cộng du du, 5. Chép theo Hợp tuyển thơ văn Việt Không đới nam quan vạn lý sầu. Nam, tập 3, Huỳnh Lý chủ biên, Nxb Tráng sĩ tự năng thù quốc trái, Văn học, 1978, tr.591 5 | T r a n g
  6. Tài liệu (Dùng để tham khảo & đối Hòa). Thân sinh ông là Trịnh Khánh là chiếu) người học rộng tài cao. Ông mất lúc Trịnh Hoài Đức mới 10 tuổi, sau đó mẹ • Hỏi đáp lịch sử Việt Nam, tập 3, ông dời nhà về dinh Phiên Trấn (Gia Trần Nam Tiến chủ biên, Nxb Trẻ, Định) cho ông theo học cụ Võ Trường 2007, tr. 306. Toản. Cũng tại đây ông kết bạn với Lê • Từ điển văn học bộ mới (Nxb Thế Quang Định và Ngô Nhơn Tịnh để sau giới, 2004, tr 1072) này thành lập "Bình Dương thi xã", và • Thành ngữ điển tích từ điển của ba ông sau này được mệnh danh là Diên Hương (Nxb Đồng Tháp, 1992, "Gia Định tam gia". tr. 232) • Hỏi đáp Sài Gòn- TP. HCM, tập 3, Năm 1788 khi chúa Nguyễn Phúc Ánh TS. Quách Thu Nguyệt chủ biên, mở kỳ thi tại Gia Định, ba ông ra ứng thi Nxb Trẻ, 2006, tr, 26-27. và đều đỗ đạt. Trịnh Hoài Đức được bổ • Thành ngữ điển tích danh nhân từ làm Hàn Lâm Viện Chế Cáo, rồi được điển, tập 2, GS Trịnh Vân Thanh sung chức Điền Tuấn Quang, trông coi biên soạn, Nxb Hồn thiêng, Sài Gòn, việc khai khẩn đất ở Gia Định. 1966, tr. 789. Năm 1793 ông được lãnh chức Đông • Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Cung Thị Giảng, rồi phò Đông Cung Nguyễn Quang Thắng và Nguyễn Cảnh ra giữ thành Diên Khánh. Năm Bá Thế, Nxb KHXH, 1992, tr.460. sau ông được thăng làm ký lục dinh • Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập 3, Trấn Ninh, đến năm 1801 thăng Tham Huỳnh Lý chủ biên, Nxb Văn học, tri bộ Hộ. Ngay năm sau đó, 1802, ông 1978, tr.593-591. được thăng chức Thượng thư bộ Hộ rồi • Từ điển bách khoa toàn thư Việt sung làm Chánh sứ cùng với Binh bộ Nam [1]. Tham tri Ngô Nhân Tịnh và Hình bộ Tham tri Hoàng Ngọc Uẩn sang sứ Trung Quốc. Năm 1808 ông được bổ làm Hiệp trấn TRỊNH HOÀI ĐỨC Gia Định thành, phụ tá cho Nguyễn Văn Nhân lúc đấy là Tổng trấn Gia Định thành. Năm 1812 ông được bổ nhiệm Trịnh Hoài Đức (1765-1825), tự Chỉ làm Lễ bộ Thượng thư, kiêm quản Sơn, hiệu Cấn Trai, là một nhà thơ, nhà Khâm thiên giám, năm 1813 lại đổi làm văn và là một sử gia nổi tiếng của Việt Lại bộ Thượng thư. Năm 1816 ông lại Nam trong thế kỷ 18. Quyển Gia Định được bổ nhiệm làm Hiệp Tổng trấn Gia thành thông chí của ông cho đến nay Định thành lần thứ hai. vẫn được xem là một trong những sử liệu quan trọng nhất cho các nhà nghiên Mùa hè năm 1820 vua Minh Mạng triệu cứu sử học và địa lý của miền Nam Việt ông về kinh làm Lại bộ thượng thư kiêm Nam. Ông cũng là một công thần của Binh bộ Thượng thư, sung chức Phó triều Nguyễn, đã giúp cho vua Gia Long Tổng tài Quốc sử giám, thăng Hiệp biện rất nhiều về các phương diện ngoại Học sĩ. Ông đã từ chối ba lượt nhưng giao, chính trị và kinh tế. vua Minh Mạng vẫn tỏ lòng ưu ái nên sau đó ông phải vâng mạng. Cuộc đời Năm 1825, mùa đông, ông mất, thọ 61 Ông nội của Trịnh Hoài Đức làm quan tuổi. Vua bãi triều 3 ngày, truy tặng dưới triều Minh. Sau khi triều Minh sụp Thiếu bảo Cần chánh điện Đại học sĩ, đổ ông đưa cả gia đình sang Việt Nam phái hoàng tử Miên Hoằng đưa về an cư ngụ tại dinh Trấn Biên (nay là Biên táng tại dinh Trấn Biên thể theo nguyện 6 | T r a n g
  7. vọng của ông trước khi mất. Khi linh Bộ Gia Định thành thông chí là một cữu về tới Gia Định, Tổng trấn Lê Văn công trình có giá trị cao về lịch sử, địa lý Duyệt đã đích thân tới phúng điếu và và văn hóa của miền Nam bộ. Nội dung đưa tới huyệt tại dinh Trấn Biên tức tỉnh tập sách ghi chép đầy đủ và tỉ mỉ về núi Biên Hòa ngày nay. sông, khí hậu, việc thành lập các trấn, thành trì, cũng như về phong tục tập Đến đời vua Tự Đức, nhà vua truyền liệt quán, tính cách và sinh hoạt của người thờ ông trong miếu Trung Hưng Công dân Nam bộ. Thần và đền Hiền Lương. Ngôi mộ của Trịnh Hoài Đức và phu Tham khảo nhân được xếp vào di tích di tích Văn hóa - lịch sử quốc gia nằm trong khu mộ • Gia Định xưa, Huỳnh Minh, 1967, của nhà họ Trịnh. Ngoài phần mộ của NXB Thanh Niên in lại năm 2001 ông và phu nhân, còn lại là phần mộ • Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim, của con cháu, cận thần, mộ ngựa, mộ NXB Văn hóa Thông tin in lại năm yểm Các bia đá được dựng quay về 2002 hướng Tây-Nam, trên có khắc chữ Hán. Các ngôi mộ được xây theo kiểu kiến Liên kết ngoài trúc giống hình voi phục, mặt bằng là một khối hình chữ nhật. • Trịnh Hoài Đức - Danh nhân làm rạng danh xứ Đồng Nai Tác phẩm • Trịnh Hoài Đức - Nhà biên khảo Văn thơ của ông và Lê Quang Định, hàng đầu về vùng đất Nam bộ Ngô Nhân Tĩnh in chung trong một bộ Gia Định tam gia thi tập. Ngoài ra ông để lại các bộ sách Lịch đại kỷ nguyên, Nguồn: Khang Tế Lục, Cấn trai thi tập, Bắc sử thi tập, Minh bột di hoán văn thảo và Gia Định thành thông chí. 7 | T r a n g