Dạy trẻ thế giới xung quanh - Glenn Doman

pdf 129 trang ngocly 3400
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Dạy trẻ thế giới xung quanh - Glenn Doman", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfday_tre_the_gioi_xung_quanh_glenn_doman.pdf

Nội dung text: Dạy trẻ thế giới xung quanh - Glenn Doman

  1. Glenn Doman, Janet Doman Tác giả sách cha mẹ bán chạy nhất tại Mỹ THP»Hrt«OOK« | f i ] VHA XDÍT I ^ * h.rju. .Rĩll Ĩ-ẰQ DCHM - IẢ B<X
  2. Dành tặng đội ngủ cán bộ cao cả của Viện Nghiên cứu Thành tựu Tiềm năng Con người, nhũng người đã vắt kiệt sức lực, nhận đồng lương ít ỏi, nhưng đã lao động hết mình, vói thế giới của những trẻ em đáng yêu nhất. Đôi lời cùng các bậc phụ huynh Các bậc phụ huynh từ mọi lục địa trên Trái Đất (trừ châu Nam Cực, tôi không tin ở đó có trẻ con) đã tói Viện Nghiên cứu Thành tựu Tiềm năng Con người ở Philadelphia để tham dự khóa học bảy ngày mang tên Tăng cưòrig trí thông minh của trẻ. Đã có hàng nghìn cha mẹ chọn tham gia khóa học kể từ năm 1975. Cuốn sách này hoàn toàn được rút ra từ những bài giảng trong khóa học đố. Mặc dù cuốn sách này được viết bỏi ba tác giả, nhưng không phải cả ba ngưòi viết tất cả các chưcmg. Phần lem các chương là do giảng viên cao cấp Glenn Doman, người thành lập Viện, viết. Các chương khác được viết bởi Janet Doman, giám đốc Viện và Susan, giám đốc Phân viện Trí tuệ Vượt trội. Lý do của việc này là trong mỗi trường họp, tác giả viết chương đó từ chính các bài giảng của mình, những bài giảng họ đã quá quen thuộc nhờ giảng dạy hàng trăm lần cho hàng nghìn bậc phụ huynh. Thêm một điều nữa. Đê tiết kiệm, tránh mất thòi gian cho việc nói rõ cha hay mẹ và các bé trai hay các bé gái, chúng tôi sử dụng chung từ "mẹ" đê chỉ mẹ hoặc cha và sử dụng chung từ "cậu bé" đê chỉ bé trai hay bé gái. Vậy là công bằng. Giờ bạn có thê bắt đầu tìm hiểu xem vì sao dạy cho con bạn kiến thức phổ thông lại thật thú vị và tuyệt vời; đồng thời bạn cũng sẽ học được cách thực hiện việc đó đê nó trở nên thú vị và hiệu quả hơn.
  3. Các dữ kiện là nền tảng của hiểu / Trẻ nhỏ thích học hon là ăn hay chod. Bạn có thể dạy bé bất cứ điêu gì mà bạn có thể diễn đạt một cách thẳng thắn, xác thực - và các dữ kiện là nên tảng của hiểu biết. TRÍCH TỪ KHÓA HỌC “Tăng cưòng trí thông minh của trẻ” Thật vậy, hàng trăm trong số hàng ngàn cha mẹ đã dạy cho con mình đọc kể từ khi cuốn sách Dạy trẻ biết đọc sóm xuất bản vào năm 1964. Họ bắt đầu khi con họ mói được vài tháng, 1 tuổi hay 2, 3, 4 tuổi. Thật vậy, rất nhiều cha mẹ đã viết thư cho chúng tôi để thông báo về những kết quả rực rỡ mà họ thu đưực. Những bức thư này là bằng chứng xác thực chứng minh rằng trẻ nhỏ có thể đọc, thích đọc và hoàn toàn hiểu những gì mình đọc đưực. Trẻ nhỏ có thể học bất cứ điều gì mà bạn diễn đạt cho chúng một cách chính xác và các bé không phân biệt đó là kiến thức phổ thông, các từ để đọc, Toán hay những điều vô nghĩa. Các bé muốn biết về những điều tuyệt vòi - đọc, Toán học, tất cả các vị tổng thống Mĩ, các quốc gia châu Âu, nghệ thuật hội họa thế giói, tiếng hót của các loài chim, các loài rắn trên thế giói, các vị vua và hoàng hậu, những bản nhạc nổi tiếng thế giói, các biển hiệu giao thông, khủng long, các loài hoa, hay bất cứ điều gì trong hàng triệu những điều kỳ diệu có thể học hỏi trên Trái Đất. Các bé tiếp nhận cả những điều vô nghĩa nếu đó là tất cả những gì các bé có thể tiếp cận.
  4. Trẻ nhỏ học từng phút mỗi ngày và chúng ta hàng ngày vẫn đang dạy chúng - dù chúng ta có ý thức đưực điều đó hay không, vấn đề là nếu dạy các bé trong khi chúng ta không ý thức đưực điều đó thì rất nguy hiểm. Chúng ta có thể vô tình dạy cho chúng những điều mình không hề có ý định dạy, những điều không đáng học - hoặc ít nhất là không đáng học bằng những điều mà các bé đáng lẽ có thê học và học nhanh hon, dễ dàng hon. Tôi không dám nói vói các bậc phụ huynh đâu là thị hiếu tốt hay xấu - tôi là ai mà dám nói vói các bậc cha mẹ điều đó? Nhung sau khi sống bên cạnh hon hai mưoi ngàn gia đình và đã nghiên cứu về trẻ nhỏ từ lúc mói sinh ra ở hon một trăm quốc gia (từ những vùng lạc hậu nhất như trong các khu rùng, sa mạc và vùng đất hoang Bắc cực cho tói những trung tâm văn minh nhất trên thế giói) và học được những sự thật tuyệt vòi về trẻ em trong quá trình đó - tôi cảm thấy mình phải có trách nhiệm nói vói tất cả các bậc cha mẹ rằng họ có thể đặt tiêu chuẩn chất lưựng vào đầu óc trẻ dễ dàng như đặt vào đó những điều rác rưởi. Thật ra là còn dễ hon. Dạy cho trẻ về những bức tranh tuyệt vòi của thế giói dễ hon là dạy cho chúng về phim hoạt hình. Dạy cho trẻ bản nhạc tuyệt vòi của thế giói dễ hon là dạy cho chúng nhũng vần điệu đon giản. Nhung tôi đã đi hoi quá đà mất rồi. Bạn có thể dạy một đứa trẻ bất cứ điều gì bạn diễn đạt cho nó một cách thẳng thắn và xác thực. Và các dữ kiện là điều quan trọng nhất trong toàn bộ công việc đó. Và mặc dù bộ não nặng chưa tói I,5kg có khả năng gấp hàng nghìn lần so vói bất kỳ bộ máy tính nào, nhung bộ não và máy tính lại có rất nhiều điểm chung. Máy tính, giống như bộ não, dựa hoàn toàn trên cơ sở các dữ liệu nó lưu trữ trong bộ nhớ. Ớ máy vi tính, mỗi dữ kiện đó được gọi là một Bit thông tin (đoạn thông tin). Đối vói con người, chúng tôi quyết định gọi nhũng dữ kiện đó là những "Bit” thông minh. Ớ máy vi tính, cũng như ở não của trẻ nhỏ, những kiến thức mói có thê
  5. phát sinh từ những dữ kiện đó bị giói hạn bỏi số lưựng các dữ kiện đưực lưu trữ. Ớ máy vi tính, tập họp các dữ kiện lưu trữ được gọi là Cơ sở dữ liệu. Vói bộ não của con người, chúng tôi quyết định gọi những dữ kiện đó là Cơ sở kiến thức. Và trẻ nhỏ học những dữ liệu - hay những "bit” thông minh đó - vói tốc độ mà người lón thua xa. Tự bản thân các dữ kiện có tạo nên trí tuệ không? Không, tất nhiên là không rồi. Nhưng chúng có thể tạo nên cơ sở để trí tuệ được hình thành. Không có dữ kiện thì không có trí tuệ. Vói một số các dữ kiện khổng lồ, chúng ta có cơ sở cho một trí tuệ trung bình. Và vói trẻ nhỏ, học các dữ liệu dễ như ăn cháo và lại rất vui nữa. Trẻ càng nhỏ thì càng dễ dạy cho bé các dữ kiện. Dạy cho trẻ 5 tuổi dễ hơn 6 tuổi, 4 tuổi dễ hơn 5 tuổi, 3 tuổi dễ hơn 4 tuổi, 2 tuổi dễ hơn 3 tuổi, 1 tuổi dễ hơn 2 tuổi, và dễ nhất là trước 1 tuổi. Tất cả những điều bạn cần biết là chính xác thì làm thế nào để thực hiện việc đó và vì sao bạn lại làm việc đó. Hãy nói về một vài đứa trẻ mà hầu như ngày nào ta cũng gặp, về những dữ kiện mà chúng đã học được, cách chúng kết họp những dữ kiện này lại vói nhau để dẫn đến một kết luận mói mẻ, cách chúng sử dụng mối quan hệ qua lại giữa những dữ kiện đó để trở nên cực kỳ sáng tạo và những đứa trẻ đó hiện nay ra sao. Trước tiên, hãy gặp gỡ các bé đó. Các em cũng nằm trong số những người mà tôi yêu quý. Đó là những đứa trẻ là học viên của Phân viện Evan Thomas.
  6. Các em tói từ hai nhóm. Nhóm đầu tiên gồm các trẻ thuộc Chương trình Phát triển sớm vói độ tuổi từ sơ sinh tói 5 tuổi. Những em này hoàn toàn được mẹ dạy dỗ. Mẹ các em tói Viện một tuần một lần, mỗi lần bốn tiếng để học cách dạy các em. Sau đó họ về nhà và vói sự giúp đỡ của chồng mình, họ thực hành việc dạy con và trở lại vào tuần tiếp theo. Nhóm thứ hai là các học viên của chương trình vào ngày 1 tháng 12 năm 1983 gồm: Marlowe Doman 3,5 tuần tuôi Shana McCarty 8 tháng tuối Yuuki Nakayachi 9 tliáng tuổi Nicholas Coventry 15 ứiáng tuổi David Burchheld 19 tháng tuối Neal Gauger 20 ứiáng tuối Zacharv Leivinski 24 ứiáng tuổi Gillette Myers 26 tliáng tuối Christv Gerard 32 ứiáng tuổi Frederick Brown 35 ứiáng tuối Christopher Coventry 3 tuôi Christopher Bames 3 tuối Qiristopher Cmuiingham 3 tuối Paul McCarty 3 tuối Micheal diBattista 4 tuối Alison Myers 4 tuối Chloe Coventry 5 tuôi John Brown 5 tuối Adiiana Caputo 5 tuối Erin Burchíield 5 tuôi
  7. Hầu hết những trẻ này được đăng ký từ trước khi sinh (thường là vì các em có anh hay chị thuộc chương trình này) hay trong năm đầu đòi. Một vài em vừa mói tham gia chương trình như: Ryan Rossitto 3 tuổi Trong số các em đã tham gia trên một năm, rất nhiều em đã được mẹ dạy tại nhà từ trước. Một số em là con của cán bộ Viện, như Marlowe Doman, Yuuki Nakayachi, Nicolas, Christopher và Chole Coventry. Bản thân tất cả các trẻ nhỏ đều thực sự là cán bộ Viện vì các em, cùng vói cha mẹ mình, là đại diện cho những phụ huynh tham gia vào các khóa học của Viện. Các em nhỏ dưới 2 tuổi thể hiện cách các em được cha mẹ dạy dỗ và các trẻ từ 2 tuổi trở lên thể hiện điều các em học được. Các em đã học được điều gì? Ô, những điều các em học, và học một cách hứng thú, háo hức, là các dữ kiện - những dữ kiện mà chúng tôi gọi là các "bit” thông minh. Tập họp lại vói nhau, những "bit" thông minh này hình thành nên tri thức bách khoa. Các dữ kiện, để thực sự là dữ kiện, phải có những tính chất sau: Chúng phải đúng sự thật (không phải chỉ là các ý kiến); phải chính xác (tuyệt đối rõ nét, không ước định); phải độc lập (dữ kiện riêng lẻ); không được mơ hồ (được gọi tên chính xác) và phải đủ lớn để nhìn thấy được rõ ràng hay đủ to để nghe được rành mạch. Ví dụ về một số dữ kiện: • Một bức chân dung của Washington là một dữ kiện. • Một bức tranh như bức Mona Lỉsa là một dữ kiện. • Bản phác thảo bang Pennsylvania là một dữ kiện. • Bức ảnh một con rắn hổ mang là một dữ kiện. • Một từ, được nói ra hoặc viết ra, là một dữ kiện. Mùi gas là một dữ kiện.
  8. • Một nốt nhạc, đưực thể hiện dưói dạng âm thanh hay viết, là một dữ kiện. Những con số thực, đưực nói hay in, là các dữ kiện. Và hàng trăm, hàng ngàn những điều khác cũng vậy. Nếu chúng đưực thể hiện đon lẻ và đáp ứng đưực tất cả những yêu cầu mà chúng tôi vừa miêu tả, thì mỗi dữ kiện đó là m ộ t"bit" thông minh. Những bà mẹ của Chưong trình Phát triển sớm bắt đầu chưong trình ngay khi đứa trẻ đưực sinh ra, càng sớm càng tốt, truyền đạt những dữ kiện này cho con mình bằng những phưong pháp sẽ đưực đề cập tói trong những chưong sau. Họ làm điều đó vói rất nhiều sự hài lòng, nhiệt tình và những đứa trẻ đáp lại vói độ hài lòng và nhiệt tình giống y hệt như cách cha mẹ chúng thể hiện trong khi truyền đạt. Làm như vậy sẽ mang lại kết quả gì? Xin thưa, khoảng hai năm (trước ngày sinh nhật lần thứ ba của các bé) tất cả những trẻ đã bắt đầu từ năm 1 tuổi hoặc nhỏ hon đều có những đặc điểm sau đây. 1. Nhận biết đưực hon bốn nghìn "bit" bằng mắt. (Vì hiển nhiên là các em biết những điều đó cả bằng mắt và bằng tai, như vậy nghĩa là tám nghìn "bỉt" thông minh). 2. Đọc đưực ít nhất là bốn nghìn từ bằng hai loại ngôn ngữ hoặc hon. (Vì hiển nhiên là các em biết những từ đó cả bằng mắt và tai, như vậy nghĩa là tám nghìn "bit" thông minh). 3. Có thể đọc rất nhiều sách. 4. Đã bắt đầu choi đàn violon. 5. Có thể làm phép tính số học. 6. Biết nhũng bức tranh nổi tiếng thế giói và nhũng kiệt tác nghệ thuật khác. 7. Quen thuộc vói địa lý thế giói.
  9. 8. Nhận biết những bản nhạc nổi tiếng thế giói. (Các em đã đưực nghe băng nhạc từ khi còn ở trong bụng mẹ). 9. Biết viết. 10. Có thể nói và hiểu câu bằng ít nhất một loại ngôn ngữ. 11. Có thể làm đưực rất nhiều việc như boi lội, lặn và tập thể dục. 12. Các em là những em bé ngọt ngào, chu đáo và vô cùng đáng yêu, những đứa trẻ vô cùng tò mò và nghĩ rằng học tập quả là một trò choi tuyệt vòi nhất mà cuộc sống ban tặng. Các em sở hữu sự tổng họp của hàng ngàn dữ kiện và có khao khát cháy bỏng đưực học tất cả các dữ kiện trên thế giói. Các em sẽ không bao giờ học đưực tất cả những điều cần biết trên thế giói, nhưng các em sẽ muốn cố gắng đạt được điều đó. Các em tin rằng thế giói là một noi tuyệt diệu và con người thật vĩ đại.
  10. Xin được giới thiệu với bạn một sô người tôi rất ỵêu quý Gần như một phép màu khỉ cảcphưomg pháp giảo dục hiện đạỉ chưa bóp chết hoàn toàn sự tò mò học hỏi thiêng liêng; vì cái mầm nhỏ bé mong manh này, ngoài sự kích thích ra, còn căn tự do; không có tự do chắc chắn nó sẽ thui chột, Quả là một sai Vâm trầm trọng khỉ nghĩ rằng niêm vui thích đưực nhìn tận mắt và tìm tòi lại có thể đưực thôi thúc bằng cách ép buộc hay ý thức trách nhiệm, - ALBERT EINSTEIN X in đưực giói thiệu với bạn một số người mà tôi rất yêu quý trên toàn thế giói. Sự thật là tôi rất muốn bạn gặp tất cả những người mà tôi yêu mến. Họ sẽ làm bạn tràn ngập niềm hy vọng. Nhưng giói hạn của cuốn sách không cho phép điều đó, vì vậy cho phép tôi chọn lọc một số rất ít trong vô vàn các em nhỏ. Khi đưực 5 tuổi, những em nhỏ đó như thế nào? Bước vào tuổi thứ năm, các em là những đứa trẻ xuất sắc và đã sẵn sàng vào trường Quốc tế (nếu các em và cha mẹ các em muốn như vậy). Vào thòi điểm đó, tất cả các em đều có những tính chất sau: Các em đọc thành thạo và đã đọc hàng trăm, thậm chí hàng ngàn cuốn sách. Một trong những thòi điểm tự hào nhất của đòi tôi là khi một đoàn truyền hình ghé thăm và hỏi Heather McCarty (một trong những bé tôi yêu mến), lúc đó mói đưực 4 tuổi, liệu bé có đọc đưực không. Sau một thoáng cân nhắc để đảm bảo mình hiểu câu hỏi, Heather nói: "Cháu có thể đọc bất cứ cái gì".
  11. Sau một thoáng cân nhắc đê đảm bảo mình hiểu câu trả lòi, ngưòi đạo diễn cầm một cuốn sách trên chiếc bàn gần đó lên và hỏi xem cô bé đã đọc cuốn sách đó bao giờ chưa. Heather trả lòi em chưa đọc bao giờ. Đó chính là một cuốn sách của tôi - Dạy trẻ biết đọc sóm. Ông đạo diễn lật qua cuốn sách và đề nghị cô bé đọc đoạn cuối cùng. Heather đọc đoạn đó. Trẻ nhỏ đã bắt đầu đọc và phát triển kỉêh thức của mình và dù cuốn sách này chỉ giúp được cho một em nhỏ biết đọc s&m hơn hay tốt hơn thì nó củng sẽ xứng đảng với nỗ lực bỏ ra. Ai có thê nói được rằng một em nhỏ vượt trội nữa sẽ có ý nghĩa thế nào vói thế giói? Ai là người có thê nói được cuối cùng thì tổng số lợi ích mà nhân loại có được nhờ làn sóng ngầm thầm lặng vốn đã bắt đầu hình thành, cuộc cách mạng mềm này, sẽ là bao nhiêu. Heather đọc đoạn đó trước máy quay nhẹ nhàng, rõ ràng và tự tin. Rồi cô bé mỉm cười mãn nguyện. Ông đạo diễn hắng giọng và hỏi: "Heather, cháu hiểu đoạn đó chứ?” "Có ạ", Heather nói, "chỉ có điều cháu không chắc 'làn sóng ngầm' nghĩa là gì". Tôi đã không thực sự xem đưực đoạn cuối đó vì còn mắc xì mũi. Tôi thường phải xì mũi khi những đứa trẻ xinh đẹp làm những việc như thế này. Các em có mười nghìn "bỉt" thông minh (Shakespeare viết tất cả các vở kịch của mình sử dụng tổng cộng dưói mười nghìn từ). Các em cảm nhận được (khám phá ra) những mối quan hệ giữa các "bỉt" thông minh theo nhũng cách rất ấn tượng. Ví dụ, hầu hết bọn trẻ đều rất giỏi xướng âm (thực chất là mối quan hệ giữa các "bỉt" thông minh đưực gọi là các nốt đon) và chúng có thể nghe những bản nhạc cổ điển chưa từng đưực nghe và nói đưực vói bạn ai là ngưòi viết bản nhạc đó. Một người khác trong số những người tôi vô cùng yêu quý là Colleen
  12. Brown. Colleen biết hàng nghìn kiệt tác hội họa từ của da Vinci đến Picasso và Wyeth. Tôi nhớ một ngày, trước khi Colleen đưực 5 tuổi, cùng vói mẹ, cô bé đã thể hiện những "bit" thông minh của mình cho các bậc phụ huynh tham gia khóa học Tăng cường trí thông minh của trẻ thấy. Bà Brown đã mang tói 50 tác phẩm hội họa nổi tiếng trong số hàng ngàn bức mà bà có. Colleen đã nói tên những bức tranh đó một cách vui vẻ và dễ dàng. Sau khi cô bé nêu tên bức cuối cùng, bà Brown đưa cho bé năm bức vẽ bé chưa nhìn thấy bao giờ và Colleen đã xác định được ngưòi vẽ. Tất cả các phụ huynh đều rất ấn tưựng, họ càng ấn tưựng hon khi thấy năm bức vẽ - mỗi bức của một danh họa khác nhau, là tranh đen trắng. Ai cũng thấy là tôi đã không quá sức ấn tưựng bởi vì tôi còn đang bận xì mũi. Đó là điều xảy ra khi bọn trẻ, những em có hàng nghìn "bit" thông minh, bắt đầu khám phá (không cần ai giúp đỡ) ra mối quan hệ giữa những "bỉt" thông minh đó. Các em không chỉ có khả năng làm Toán (như đa số người lớn) mà các em còn có thể hiểu đưực Toán (đa số ngưòi lớn không như vậy). Các em choi đàn violon tốt. Các em viết sách. Các em viết hay. Các em tự minh họa sách của mình. Các em nói ngôn ngữ mẹ đẻ trôi chảy và rành mạch cùng ít nhất một ngoại ngữ vói trình độ từ dùng đưực đến trôi chảy. Các em đọc chữ kanji - chữ Hán dùng trong tiếng Nhật (thứ ngôn ngữ mang tính học thuật của Nhật Bản) và nhiều em đọc đưực nhiều chữ kanji hon trẻ em Nhật Bản lớn hon các em từ 3 tói 6 tuổi. Các em làm đưực rất nhiều điều khác một cách tuyệt vòi, ví dụ như múa ba lê và tập những môn thể thao Olympic. Quan trọng hon cả, các em là những đứa trẻ đáng yêu nhất, cuốn hút
  13. nhất mà tôi từng gặp. Đó là những em nhỏ thật sống động và thú vị, tài năng đến độ thật dễ quên mất rằng thực ra các em mói chỉ lên 5. Khi Marc Mihai Dimancescu, đưực 5 tuổi, em đã choi đàn violon cho một đoàn khách tói thăm. Em đã choi thật tuyệt vòi, cũng như mọi việc khác em làm. Khi em choi xong, một phóng viên hỏi em vừa choi đoạn nhạc nào. "Điệu gavôt ạ", Marc Mihai nói. "Ai là tác giả?", phóng viên hỏi. "Lully", Marc Mihai trả lòi. "Cháu đánh vần từ đó thế nào?" phóng viên hỏi, cúi xuống để có thể nghe tiếng Marc Mihai nhỏ bé. "L-U-L-L-Y", cậu bé Marc Mihai dõng dạc. Tôi lại thấy mắt mình ngân ngấn nước, nhưng đó là vì tôi đã cười rất to. Anh phóng viên nói cám OTL rồi đi ra, nhưng anh ta đã không hiểu vì sao tôi lại cười ngặt nghẽo như vậy. Vài tuần trước, chính tờ báo của anh phóng viên đó đã đăng trên trang nhất một bài báo nói rằng hon 30% trẻ em trong độ tuổi từ 7 đến 11 tuổi không biết đọc và rằng rất nhiều học sinh tốt nghiệp trung học không đọc đưực chính bằng tốt nghiệp của mình hoặc nhãn mác dán trên các lọ. Tôi nghĩ sự đối lập đó - một mặt thì thật đáng buồn - nhưng mặt khác thì lại thật thú vị và tuyệt vòi. Những đứa trẻ làm đưực những điều này là những ai? Có phải các em xuất phát là những em nhỏ thiên tài được sinh thành bởi những bậc cha mẹ thiên tài? Không hề. Nếu bất cứ ai nghĩ rằng mình có thể xác định đứa trẻ nào là thiên tài từ trước khi các em đưực sinh ra thì tôi chưa bao giờ đưực gặp gỡ hay nghe
  14. nói tói người đó. Các em đó có phải là những đứa trẻ 5 tuổi như mọi đứa trẻ khác không? Không, tất nhiên là không. Những trẻ 5 tuổi khác có làm đưực bất cứ việc gì, chưa nói là tất cả, trong những việc kể trên không? Các em chắc chắn là không ở mức trung bình - nhưng tất cả trẻ em đều có thể đưực như các em và nên đưực như các em. Buckminster Fuller là một thiên tài - và là một ngưòi bạn của chúng tôi. Bucky thích nói rằng tất cả trẻ em sinh ra đều đã là thiên tài và chúng ta đã dùng sáu năm đầu đòi của bé để hủy hoại khả năng đó. Tôi xin đưực nói thêm rằng sáu năm đầu đòi đó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng bởi vi tói 6 tuổi, chúng ta đã hình thành nền tảng cơ bản cho con người sau này của mình. Có phải những đứa trẻ này không phải là kết quả do di truyền của những cha mẹ thiên tài? À, các em quả thực là sản phẩm chưa đạt chất lưựng của cha mẹ mình, nhưng không phải là sản phẩm di truyền trừ thực tế là cha mẹ các em trao cho các em món quà cuộc sống và món quà gen di truyền bình thường của nhân loại. Nhưng cha mẹ nào cũng trao cho con cái mình hai món quà này. Vậy cha mẹ của những em nhỏ này là ai? À, họ có một vài điểm chung. Trước hết họ chủ yếu là những người có trình độ, điều kiện kinh tế và địa vị xã hội ở mức trung bình. Họ bao gồm từ những người công nhân cho tói những chuyên gia như bác sĩ, luật sư và doanh nhân. Mẹ của các em gồm cả từ những người tốt nghiệp phổ thông tói những người tốt nghiệp đại học, đến cả những người có bằng thạc sỹ hay trình độ sau đại học tương đương. Có rất ít người thực sự giàu có trong các chương trình của Viện. Và
  15. cũng có rất ít người thực sự nghèo. Đó là điều đáng buồn cho cả hai thái cực đó. Những người giàu, bất hạnh thay, lại có một ý thức sai lầm về sự bảo đảm cho con cái mình. Hầu hết họ tin rằng sự giàu có sẽ đảm bảo cho con họ thành công và hạnh phúc. Một số ít người nhận thức đưực tốt hon. Những người rất nghèo, bất hạnh thay, lại có một ý thức sai lầm về sự bấp bênh cho con cái mình. Họ tin rằng con cái họ thực sự bẩm sinh đã thấp kém. Nhiều người nghèo nhận thức đưực tốt hon nhung không thực sự biết phải hành động thế nào. Vì vậy, số đông ngưòi ở tầng lóp trung bình, những người trao cho con mình cơ hội đạt được tiềm năng gần như vô hạn và món quà vô giá mà gen nhân loại đem lại, có những đặc điểm chung sau: 1. Họ rất yêu con của mình (cũng như đa số các bậc cha mẹ). 2. Họ tôn trọng con của mình cũng như tiềm năng trác tuyệt bẩm sinh của các bé. 3. Họ say mê con mình vô cùng. 4. Họ dành cho con nhiều thòi gian và năng lượng hơn hầu hết các gia đình khác. 5. Họ không cảm thấy đó là sự hy sinh bản thân, mà coi đó là một đặc quyền cao cả. 6. Họ nghĩ rằng dạy con thú vị hơn là đi chơi bovrìing^1) hay xem phim. 7. Họ yêu thích con hơn là mấy chương trình truyền hình ăn khách. Điều đó liệu có đồng nghĩa vói việc họ không quan tâm tói tình hình chính trị thế giói, nền kinh tế, rạp hát, thể thao, nghệ thuật, âm nhạc, văn chương và những điều thú vị khác trong cuộc sống hay không? Không hề. Họ còn yêu thích những điều đó hơn những người bình thường khác.
  16. Họ là những con người sống động, vui tưoi, hiểu biết, hạnh phúc, giỏi giang, những người ít bận tâm tói những lo toan của thế giói và quan tâm nhiều hon tói việc làm điều gì đó để cải thiện thế giói bằng cách nuôi dạy những trẻ em hạnh phúc hon, giỏi giang hon. Nhung bạn tìm đâu ra đưực những người mẹ có thê đọc và viết tiếng Nhật, dạy hội họa, lịch sử, địa lý, choi đàn violon, truyền cho con cái kiến thức phổ thông về vô số điều và biết biểu diễn thể dục Olympic? Và đó là tôi mói chỉ điểm qua một vài năng lực. Không một người mẹ nào của những em nhỏ này biết choi violon, biết đưực hết kiến thức phổ thông, biết biểu diễn thể dục hay nói dù chỉ một từ tiếng Nhật khi họ mói bắt đầu chưong trình, trừ mẹ Barbara Coventry, giáo viên violon ở trường Quốc tế; mẹ Patty Gerard, giáo viên thể dục Olympic; và mẹ Miki Nakayachi, giáo viên tiếng Nhật ở trường Quốc tế. Quan điểm của các bậc phụ huynh này có một ý nghĩa rất thực tế. Đó là một trong những lý do chính vì sao họ lại dành thòi gian dạy dỗ con cái mình. Đê dạy con, một vài cha mẹ đã học tập vói sự giúp đỡ từ những cuốn sách của Viện mà họ mua hay mượn đưực từ thư viện công cộng. Một vài ngưòi chỉ làm có vậy. Quay trở lại vói các em nhỏ. Điều gì xảy ra vói những em nhỏ tuyệt diệu và đáng yêu đó khi các em đưực 5 tuổi? Một vài điều. Một vài em tói trường, từ các trường công cho tói những trường tư rất cao cấp, và ở đó hầu hết các em đều đạt đưực học bổng toàn phần và học vưựt một hoặc hai lóp. Như vậy các em có bị các bạn khác và giáo viên coi là những con mọt sách lập dị không? Ngược lại. Trong mắt các bạn khác, các em trở thành những người lãnh đạo bẩm sinh của nhóm vì những lý do đon giản và hiển nhiên là các em đáng yêu, đáng tin cậy và có trí tưởng tưựng vô cùng phong phú. Các em trong lóp
  17. không ghét những bạn tưoi vui, đáng tin cậy mà các em không ưa những bạn khôn vặt, to mồm, bất an. Là bạn thì bạn sẽ chọn cho mình loại người nào để kết bạn? Trong mắt các giáo viên thì các em quả là những học sinh đáng mơ ước. Các em không cần hoặc chỉ cần một chút hỗ trợ, các em giúp đỡ những bạn nhỏ khác và để cho giáo viên thêm chút thòi gian quan tâm tói những bạn không thể đọc hay làm Toán - các em này là vấn đề của cả lóp, mọi giáo viên dù ít kinh nghiệm nhất cũng biết điều đó. Cuốn sách này hướng tói những bậc phụ huynh, muốn dành một chút thòi gian trong ngày, hoặc một tiếng một ngày hay cả ngày, để đóng một vai trò cá nhân và thiết thực trong việc dạy dỗ chính con cái của mình. Bạn có thể trao cho con mình kiến thức quý báu và chia sẻ niềm vui khôn xiết trong 15 phút mỗi ngày. Bạn sẽ tìm được niềm hạnh phúc chân thành nhất khi làm điều đó. Một trong những việc bạn có thể làm được vói một chút đầu tư thòi gian là dạy đứa con nhỏ của bạn về tự nhiên. Vì việc bé biết về 50 loại chim phổ biến, 50 loại cây, 50 loại hoa, 50 loại cây bụi, 50 loại động vật, 50 loại côn trùng và 50 loại rắn sẽ mang lại cho bé một cuộc sống vô cùng thú vị. Điều đó còn giúp con bạn thật đáng ngưỡng mộ trong mắt bạn bè ở các độ tuổi 5,15, 50 và 70 vì rất ít người biết về những sinh vật và cây cỏ trong địa phương mà họ sinh sống. Thật là quá kỳ lạ vì các trường hiếm khi dạy nghiên cứu về tự nhiên. Một lựi thế khác là chính trong lúc dạy cho con các tấm thẻ chứa các "bỉt" thông minh về thiên nhiên, bạn cũng sẽ học được nhiều điều và trở nên yêu thích thế giói quanh bạn nhiều hơn. Bạn sẽ không học nhiều hoặc nhanh được như đứa con 2 tuổi của bạn, nhưng trong quá trình dạy bé, bạn sẽ học được rất nhiều điều mà bạn không biết. Cuốn sách này giải quyết cách dạy cho trẻ tri thức phổ thông. Để làm được như vậy, bạn phải hiểu được hai điều. Điều đầu tiên là vì sao bạn nên làm việc đó.
  18. Thứ hai là bạn nên làm việc đó như thể nào. Điều đầu tiên còn quan trọng hon điều thứ hai, thế nên chúng ta hãy bắt đầu vói câu hỏi vì sao bạn nên làm việc đó. Bạn nên làm việc đó vì nó là cơ sở cho mọi khả năng hiểu biết mà khả năng hiểu biết là đặc quyền từ lúc sinh ra.
  19. Khả nảng hiểu biết là "đặc quyền từ lúc sinh ra” M ỗ i đứa trẻ sinh ra vốn đã sẵn có quyền đưực thông minh xuất chúng. Đó không phải là quyền do Chính phủ, luật pháp trao cho mà đó là Quyền lực Tối thượng mà chính Tự nhiên, hay Đấng sáng tạo ban tặng cho một đứa trẻ. Đặt bên cạnh quyền đưực thông minh hiểu biết, tất cả các quyền khác đều bị lu mờ, trở thành không đáng kể và chỉ có thể thực hiện trong một giói hạn nhất định. Mà mức độ của giói hạn đó tưong ứng mức độ giói hạn của trí tuệ. Tất cả các tạo vật khác trên Trái Đất, dù xinh đẹp và có khả năng phi thường đến đâu, đều là nhũng chuyên gia trong lĩnh vực của mình. Con ngưòi không thê (nếu không có sức sáng tạo tài tình) bay như đại bàng, boi như cá mập, leo trèo như khỉ, chạy như báo, nhào lộn như chim ruồi, hay thậm chí đào đất như chuột chũi. Những sinh vật này, giống như mọi loài khác, tồn tại nhờ khả năng đặc biệt của mình. Những khả năng đặc biệt đó mang trong mình sự giói hạn của chính chúng. Các sinh vật kém hon con người tồn tại nhờ leo trèo nhanh nhẹn và dễ dàng trên cây để chạy trốn kẻ thù, chúng làm điều đó một cách xuất sắc, giói hạn của chúng nằm chính ở đó. Nếu thay đổi khí hậu khiến cây cối biến mất, thì những sinh vật tồn tại nhờ leo cây cũng sẽ tuyệt diệt. Khủng long đã thích ứng rất tuyệt vòi vói môi trường sống của chúng và khi môi trường đó biến mất, khủng long cũng biến mất theo; hàng nghìn sinh vật khác sống dựa trên khả năng đặc biệt của mình cũng vậy. Mặt khác, nhờ vào trí tuệ, con người lại hiểu biết rất rộng. Con người là sinh vật duy nhất trong bốn tỉ năm lịch sử Trái Đất có sẵn trong mình hạt giống của sự diệt vong cũng như niềm hạnh phúc cho chính mình. Họ lựa
  20. chọn thái cực nào cũng là do sản phẩm trí tuệ của chính họ. Mọi đứa trẻ đưực sinh ra vói quyền có khả năng hiểu biết do tự nhiên ban tặng. Hon 200 năm trước, chỉ cách Viện Nghiên cứu Thành tựu Tiềm năng Con người tám dặm theo đường chim bay, một nhóm người kiệt xuất đã ngồi lại và tạo ra một bước ngoặt lịch sử. Họ đã mơ một giấc mơ. Họ đã thảo một văn bản rất ngắn, một thứ tiếng Anh tuyệt đỉnh không chỉ do những điều siêu phàm mà văn bản đó nhắc tói, mà còn do cách thể hiện trang nhã, giản đơn của nó. Chúng tôi coi những chân lý này là hiên nhiên; Rằng tất cả mọi người đều bình đẳng; Rằng họ đều được Đấng sáng tạo ban cho một số quyền không ai xâm phạm được; Rằng những quyền đó là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Những chữ được in nghiêng tất nhiên là do tôi. Tôi không hề mơ đến chuyện cố gắng cải thiện văn bản vĩ đại ấy, mà chỉ muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nội dung trong đó. Mặc dù đã thuộc lòng từ hồi 8 tuổi nhưng ngay cả đến giờ tôi vẫn không thể cầm được nước mắt tuôn rơi khi nói hay viết một phần văn bản đó. Tôi vẫn luôn ấp ủ niềm tin rằng những người khổng lồ viết nên nó đã coi quyền ưu tiên trư&c nhất - quyền có khả năng hiểu biết - là điều đương nhiên, không cần được nhắc tói. Vì không có trí tuệ sẽ không có cuộc sống, tự do, hay mưu cầu hạnh phúc đích thực. Một trí tuệ hạn chế sẽ chỉ có những cách sống, cách tự do và cách mưu cầu hạnh phúc hạn chế. Một trí tuệ trung bình sẽ có những cách sống, cách tự do và mưu cầu hạnh phúc trung bình.
  21. Một trí tuệ vô biên (cũng là đặc quyền từ lúc sinh ra của mọi đứa trẻ) sẽ có những cách sống, cách tự do và cách mưu cầu hạnh phúc không giói hạn. 165 năm sau, một lần nữa, trong một khoảnh khắc giữa những sự kiện gây chấn động, Franklin Roosevelt^) đã đưực truyền cảm hứng để đề xuất vói Quốc hội trong bài Diễn văn liên bang thường niên của mình rằng: 1. Chúng ta hướng tói một thế giói đưực thiết lập trên bốn quyền tự do chính yếu của con người. 2. Đầu tiên là Tự do Ngôn luận - ở mọi noi trên thế giói. 3. Thứ hai là Tự do Tín ngưỡng theo cách riêng của mỗi ngưòi - ở mọi noi trên thế giói. 4. Thứ ba là Tự do Thoát khỏi đói nghèo - ở mọi noi trên thế giói. 5. Thứ tư là Tự do Thoát khỏi sự hãi - ở bất kỳ đâu trên thế giói. Tôi cũng vẫn ấp ủ suy nghĩ rằng Tổng thống Roosevelt, giống như các vị Quốc Phụ(2), cũng đã coi quyền ưu tiên trước nhất - quyền có khả năng hiểu biết - là điều đưong nhiên, không cần đưực nhắc tói. Vì không có quyền đưực hiểu biết thì quyền tự do ngôn luận, tự do tôn thờ, tự do thoát khỏi nghèo đói, tự do thoát khỏi sợ hãi đều chỉ là những điều khôi hài và sáo rỗng. Quyền bất khả xâm phạm nhất trong tất cả các quyền cho mọi đứa trẻ mói chào đòi là quyền được hiểu biết. Đó là quyền bẩm sinh, nó đã đưực cấy vào trong gen của Nhân loại. Đó là đặc quyền từ khi mói sinh ra của con người. Tất cả trẻ em đều biết điều đó - ngay từ lúc sinh ra. Tất cả trẻ em đều đòi hỏi phải đưực cực kỳ hiểu biết. Tất cả trẻ em đều có thể trở nên cực kỳ hiểu biết. Tất cả trẻ em đều có cư hội trở nên cực kỳ hiểu biết.
  22. Tất cả trẻ em đều nên trở nên cực kỳ hiểu biết. Lần cuối cùng chúng tôi gặp ông, vị thiên tài quá cố Buckminster Fuller, ngưòi mà những người bạn ở Viện vô cùng thương tiếc, đã nói một câu mà tôi đã trích dẫn. Câu nói nó xứng đáng được nhắc lại lần nữa. "Tất cả trẻ em sinh ra đều đã là thiên tài và chúng ta dùng sáu năm đầu đòi của các bé để hủy hoại điều đó". Amen! Trẻ em thích học hơn ăn. Trẻ em thích học hơn chơi rất nhiều. Học chính là một kỹ năng sống còn. Học là con đường thu nhận kiến thức. Chỉ có kiến thức thôi thì chưa phải là có trí tuệ. Tuy thế, kiến thức là nền tảng của mọi trí tuệ. Không có kiến thức thì không có trí tuệ. Cuốn sách này nói cho bạn cách trao cho con mình khối lượng kiến thức khổng lồ một cách nhanh chóng, dễ dàng và dễ chịu. Trẻ có nền tảng kiến thức càng rộng, nền tảng cho trí tuệ của trẻ càng lớn. Chúng tôi có nhớ nói vói bạn điều này chưa nhỉ? Rằng: Mọi đứa trẻ được sinh ra, ngay vào giây phút chào đời, đã có tiềm năng trí tuệ cao hơn cả lượng trí tuệ mà Leonardo da Vinci đã từng vận dụng. Nếu chúng tôi đã nhắc tói câu này trước đây, hãy tin rằng chúng tôi sẽ còn nhắc lại nó nhiều lần nữa. Vậy thì trí tuệ là gì?
  23. Trí thông minh có ba chân Thực ra thì trí thông minh là gì? Những người ở Viện đã dành nhiều năm nghiên cứu câu hỏi đó giữa hàng ngàn trẻ em và người lớn tại hon một trăm quốc gia, vói những địa phưong và con người từ văn minh nhất cho tói lạc hậu nhất. Thực tế, chúng tôi đã nghiên cứu hàng trăm định nghĩa đưực các từ điển, các loại bách khoa toàn thư, các nhóm và các cá nhân đưa ra. Theo chúng tôi, những định nghĩa đó bao gồm cả từ vô nghĩa đến thú vị. Chúng tôi không thấy thỏa mẫn vói một định nghĩa nào cả. Mặc dù luôn gắn bó vói việc tăng cường trí thông minh của trẻ trong gần 40 năm, nhưng cho tói nay, chúng tôi cũng chưa bao giờ định nghĩa về nó. Chúng tôi đã miêu tả nó, minh họa nó, thảo luận về nó rất lâu, mổ xẻ nó, đo lường nó chính xác và quan trọng nhất là chúng tôi đã tăng cưòng nó, nhưng chúng tôi chưa bao giờ thực sự định nghĩa nó. Trong chưong này, lần đầu tiên, chúng tôi sẽ đưa ra định nghĩa về nó. Có phải chúng tôi thực sự đã nâng trí thông minh của các em từ o lên tói (trung bình) 100 hay hon thế không? Chúng tôi có thể đưa ra bằng chứng rõ ràng chứng minh chúng tôi đã thực hiện được điều đó trên thực tế. Nếu thế giói nhìn nhận một đứa trẻ là một ngưòi có IQ bằng o và đối xử vói bé như một ngưòi có IQ bằng o, kết quả là chẳng tác động gì tói bé hết, liệu bé có tiếp tục thể hiện, hành động và bị nhìn nhận là một ngưòi ngốc nghếch không? Nếu bấy giờ thế giói đồng ý rằng trí thông minh của bé ở mức trung bình hay trên trung bình, liệu chúng tôi có thể không tuyên bố rằng mình đã tăng chỉ số thông minh
  24. của bé lên 100 điểm hoặc hon không? Điều này không chỉ xảy ra một lần, mà là rất nhiều lần. Chúng tôi cũng có thể lập luận chắc chắn rằng không phải là chúng tôi đã nâng mức thông minh của bé lên 100 điểm hoặc hon. Có lẽ là chúng tôi đã không hề nâng lên chút nào. Có lẽ bé đã bị chẩn đoán nhầm. Có lẽ, do ban đầu chưa biết nói và chưa thể hành động, bé không có cách nào sử dụng hay biểu hiện đưực trí thông minh của mình ra bên ngoài, vì thế bé bị coi là ngốc nghếch. Cũng là công bằng khi đặt ra câu hỏi: Nếu Leonardo bị làm cho tê liệt và không nói đưực nên không thể biểu hiện trí thông minh của mình, liệu ông có không bị coi là ngốc nghếch không? Có lẽ ngay cả nếu chỉ hoi bị nhìn nhận là người ngốc nghếch thì ông cũng đã không thể đạt đưực bất cứ điều gì trong đòi. Điều này làm dấy lên hai câu hỏi cơ bản về trí thông minh, chính xác hơn là về việc kiểm tra trí thông minh. Liệu chúng ta có nên chia trí thông minh thành hai loại hay không? Loại thứ nhất là Trí thông minh chức năng (cách một đứa trẻ hành động hay không thể hành động trước một tình huống bị thay đổi), và thứ hai, Trí thông minh tiềm tàng (cách thức bé có thể hoạt động nếu có được cơ hội trọn vẹn để làm điều đó). Công việc của chúng tôi vói những trẻ em bị tổn thương và các bé khỏe mạnh cũng như các trẻ sơ sinh chứng minh rằng ở tất cả trẻ em đều có một khoảng cách cực lớn giữa Trí thông minh chức năng và Trí thông minh tiềm tàng. Câu hỏi thứ hai được đặt ra là về hiệu lực của các bài kiểm tra trí thông minh hay thậm chí là liệu những bài kiểm tra đó có hữu ích hay không. Các bài kiểm tra đó, trên thực tế, lại thường có hại. Mặc dù đúng là những người có khả năng thường rất hay ghi được điểm số cao trong các bài kiểm tra trí thông minh, không có nghĩa là tất cả những người có điểm số cao trong các bài kiểm tra này thể hiện được khả năng tốt trong cuộc sống. Hãy chỉ cho chúng tôi một người đã sống tích cực, thành công - người đã chinh phục được những điều vĩ đại cho thế giói nhưng lại không có điểm số cao trong các bài kiểm tra trí thông minh, và vói chúng tôi, người đó chính là một ví dụ hoàn hảo cho những điều không ổn trong việc kiểm tra trí thông minh. Trí thông minh không có nhiều, thậm chí không hề liên quan gì tói các bài kiểm tra mà liên quan trực tiếp tói những điều đạt được.
  25. Vậy làm sao chúng ta nhận ra đưực những thiên tài và ai là thiên tài mà bạn yêu thích? Là Leonardo? Shakespeare? Newton? Beethoven? Edison? Rembrandt? Jefferson? Churchill? Bach? Gainesborough? Einstein? Michelangelo? w.s. Gilbert? Arthur Sullivan? Socrates? Không ai trong những người này từng trải qua một bài kiểm tra trí thông minh nào. Các bài kiểm tra trí thông minh đưực đưa ra trong thòi gian cuộc Thế chiến thứ nhất như một cách thức dự đoán thành tích. Có lúc chúng đoán đúng, có lúc không. Vậy làm sao chúng ta nhận ra những thiên tài? Chúng ta đã nhận ra họ chỉ trên một cơ sở duy nhất mà thôi. Đó là những thành tựu của họ. Nếu chúng ta có thể đưa cho Leonardo một bài kiểm tra IQ và nếu ông ghi được 98 điểm thì liệu Mona Lisa có còn xinh đẹp không? Nếu Thomas Edison chỉ ghi được 110 điểm, liệu có chuyện bóng đèn điện sẽ chỉ sáng le lói hay không? Nếu Newton ghi được 87 điểm trong bài kiểm tra IQ của mình, liệu những trái táo có vì thế mà rơi ngược lên trên không? Trí thông minh chẳng là gì ngoài sự khác biệt trong khả năng của một người vói những người có khả năng trung bình (trung bình là 100 điểm). Điều này khá khó nhận thấy và đo lường ở người lớn song lại khá dễ để nhận thấy và đo lường ở trẻ em dưới 6 tuổi. Có chính xác sáu điều đặc trưng cho con người. Sáu chức năng đó là các chức năng của vỏ não người. Giữa các loài sinh vật, chỉ có loài người có vỏ não người ở não, chỉ có con người có thể thực hiện sáu chức năng thuộc trách nhiệm của vỏ não người. Sáu chức năng đó là: 1. Khả năng đi, chạy, nhảy vói dáng đứng thẳng, sử dụng cánh tay và cẳng chân trong chuyển động theo chiều ngang. 2. Khả năng nói những ngôn ngữ trừu tượng, tượng hình, thông dụng mà chúng ta đã sáng tạo ra (tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha, )
  26. 3- Khả năng đặt ngón cái và ngón trỏ để cầm bút viết ra thứ ngôn ngữ trừu tượng, tượng hình, thông dụng mà chúng ta đã sáng tạo ra đó. Ba chức năng đầu tiên của vỏ não ngưòi độc nhất này về bản chất là vận động cơ học và hoàn toàn phụ thuộc vào ba chức năng có bản chất là cảm giác sau: 4. Khả năng nhìn để đọc được thứ ngôn ngữ trừu tượng, tượng hình, thông dụng mà chúng ta đã sáng tạo ra. 5. Khả năng nghe để hiểu được thứ ngôn ngữ trừu tượng, tưựng hình, thông dụng mà chúng ta đã sáng tạo ra. 6. Khả năng cảm nhận và nhận ra những vật thể phức tạp chỉ bằng cách chạm vào. Rồi lại có sáu năng lực đặc biệt của vỏ não người, những năng lực gắn liền vói con người. Chúng đều là các chức năng duy chỉ có ở vỏ não người. Đó chính là: • Năng lực Vận động của con người • Năng lực Ngôn ngữ của con người • Năng lực Thao tác của con người • Năng lực Nhìn của con người • Năng lực Nghe của con người • Năng lực Tiếp xúc, chạm của con người Những chức năng này đều hoạt động được hoàn chỉnh ở những đứa trẻ trung bình trong xã hội khi được tầm 6 tuổi. Vì thế, một đứa trẻ 6 tuổi sẽ được kỳ vọng có thể biết đi, biết nói, biết viết, biết đọc, hiểu được ngôn ngữ của mình bằng tai và gọi tên được các đồ vật quen thuộc bằng cách cảm nhận. Tất nhiên, bé sẽ tiếp tục nhân những chức năng này lên trong quá trình trưởng thành nhưng những điều này sẽ chỉ là phép nhân thêm vào, như bé
  27. tăng khả năng đọc, hiểu biết và vận động của mình, chứ không phải là những thành tựu mói. Một đứa trẻ 6 tuổi thể hiện những chức năng này hoàn toàn giống như bạn bè đồng lứa thì sẽ tói trường đưực cùng các bạn (và sẽ có chỉ số thông minh chính xác là 100). Một đứa trẻ không thể làm những điều này cùng vói bạn bè mình thì sẽ không thê tói trường vói các bạn. (Nếu bé không hoàn thiện đưực những kỹ năng này cho tói khi đưực 12 tuổi thì bé sẽ có chỉ số thông minh là 50). Một đứa trẻ làm đưực những điều này sớm hon các bạn đồng lứa rất nhiều sẽ thuộc nhóm vưựt trội. (Nếu bé hoàn thiện đưực tất cả các kỹ năng này chính xác ở 3 tuổi thì bé sẽ có chỉ số thông minh là 200). Bỏi vì có sáu chức năng ở con ngưòi, nên kéo theo đó sẽ là sáu loại trí thông minh loài người. Đó là: 1. Trí thông minh Vận động 2. Trí thông minh Ngôn ngữ 3. Trí thông minh Thao tác 4. Trí thông minh Thị giác 5. Trí thông minh Thính giác 6. Trí thông minh Xúc giác Cuốn sách này không đề cập tói tất cả các loại hình thông minh đó mà chỉ nói tói loại hình mà hầu hết mọi người thường nhắc tói khi nói về trí thông minh, đó là trí thông minh trí tuệ. Trí thông minh là một chiếc ghế ba chân. Người ta đạt đưực nó thông qua: • Khả năng đọc • Khả năng thu nhận tri thức phổ thông
  28. • Khả năng làm Toán Vì thế, về cơ bản nó liên quan tói: • Trí thông minh Thị giác • Trí thông minh Thính giác • Trí thông minh Ngôn ngữ Bất cứ một đứa trẻ 3 tuổi trung bình nào cũng có thể được giúp để đạt được trình độ của một trẻ 6 tuổi trung bình. Đối vói những bậc cha mẹ muốn làm được như vậy, điều này có thể, thậm chí chắc chắn, thì đây sẽ là một trải nghiệm cực kì hạnh phúc và thú vị. Mục đích của cuốn sách này là dạy cho các phụ huynh cách truyền cho con hàng nghìn, thậm chí hàng chục nghìn dữ kiện rõ ràng, chính xác, riêng biệt và cụ thể, những dữ kiện đúng sự thật, đẹp đẽ và luôn luôn hấp dẫn. Một đứa trẻ khi được 3 tuổi đã có một ngân hàng kiến thức khổng lồ sẽ được nhìn nhận là cực kỳ thông minh. Nếu đứa trẻ tiếp tục làm đầy ngân hàng kiến thức đó, thì lên 6 tuổi (là lúc khả năng nhận thêm thông tin mà không cần phải cố gắng chút nào đã không còn nữa) bé sẽ được nhìn nhận là cực kỳ thông minh và sẽ có được nền tảng cần thiết cho khả năng và trí thông minh rất cao khi trưởng thành. Chỉ số thông minh cao có ý nghĩa thế nào vói bé? Giờ chúng ta sẽ định nghĩa trí thông minh dưới ánh sáng của những gì mình đã biết. Trí thông minh là mức khả năng mà một người có được - đê thấy sự khác biệt giữa những điều đang là vói những điều có thể là và kéo những điều đó lại gần nhau hcm hết sức có thể. • Đó là điều Leonardo đã làm. • Đó là điều Shakespeare đã làm. Đó là điều Jefferson đã làm.
  29. Đó là điều Rembrandt đã làm. Đó là điều Edison đã làm. Đó là điều Gilbert và Sullivan đã làm. Đó là điều tất cả các thiên tài đã làm. Đó là điều Những đứa trẻ thòi kỳ Phục hưng của Viện Evan Thomas đang trong quá trình thực hiện. Cuối cùng, điều đó đã làm chúng tôi thấy thỏa mãn!
  30. Cách dạỵ trẻ thẻ "bit" thông minh Có biết bao nhiêu điêu tôn tại trong thếgỉód này. Tôỉ chắc chắn rằng chúng ta ai củng có co* hội đê trử nên hạnh phúc như nhũng ông hoàng. - ROBERT LOUIS STEVENSON Nhà văn ngưòi Scotỉand, tác giả cuốn sách nổi tiếng Đảo giấu vàng V ề mặt tri giác, sự thu nhận kiến thức chính là mục tiêu của cuộc sống. Kiến thức chính là khỏi nguồn của mọi thứ như khoa học, nghệ thuật, âm nhạc, ngôn ngữ, văn học và tất cả những điều có ý nghĩa đối vói loài người. Kiến thức có đưực dựa trên nền tảng thông tin và thông tin chỉ có thể đưực thu thập từ những dữ kiện. Những dữ kiện đó chính là những mẩu thông tin. Khi những dữ kiện đó đưực truyền tải tói con trẻ theo cách thức phù họp, chúng sẽ trở thành các "bit" thông minh theo cả hai nghĩa: Làm phát triển trí não của trẻ và trở thành nền tảng của tất cả những tri thức trong tưong lai. Chưong này sẽ dẫn dắt các bậc cha mẹ và con trẻ đến vói "bit" thông minh và từ đó đến vói tất cả tri thức. Nhìn bề ngoài, đối tưựng độc giả mà chưong này có vẻ hướng tói là những người mẹ chuyên nghiệp toàn thòi giand) vì việc mà những người mẹ này có thể làm là không có giói hạn. Đây hoàn toàn không phải là một lòi đe dọa đối vói những người mẹ chỉ dành ít thòi gian bên con của mình. Chỉ đon giản là, vói những người mẹ này, chưong trình dạy con của họ sẽ diễn ra trong khoảng thòi gian dài hon mà thôi. Chẳng phải là rất tuyệt vòi nếu có nhiều thứ để chúng ta học hỏi trong suốt cuộc đòi hay sao? Sẽ thật đáng buồn nếu điều ngược lại xảy ra. Chưong trình kiến thức phổ thông nên đưực bắt đầu càng sóm càng tốt và có thể tiến hành song song vói chưong trình dạy đọc. Hai chưong trình này chiếm vị trí quan trọng nhất trong tất cả các chưong trình. Chúng
  31. không chỉ là những chương trình thú vị nhất mà còn đem lại cho đứa trẻ những cảm giác thỏa mãn nhất trong suốt cuộc đòi, bởi chúng là những kiến thức về nghệ thuật, âm nhạc, thiên nhiên, sinh học, lịch sử và tất cả những điều hấp dẫn khác mà cuộc sống mang lại. Các bà mẹ nên dạy con các chương trình thẻ "Bit" và chương trình đọc trước khi dạy con Toán học. Chương này bao gồm nội dung sau: • "Bit" thông minh là gì? • Các Mục phân loại trí tuệ là gì? • Sử dụng thẻ "bit" thông minh để dạy trẻ như thế nào? “BIT” THÔNG MINH LÀ GÌ? Một "bit" thông minh tương ứng vói một mẩu thông tin. Nó được tạo nên bằng cách sử dụng những bức vẽ và những minh họa chính xác hoặc là những bức ảnh chất lượng tốt. Chắc chắn nó phải đảm bảo những đặc điểm mấu chốt sau: Chính xác, riêng lẻ, cụ thể và mói mẻ, đồng thòi cũng phải to và rõ ràng. Tính chính xác Khi chúng tôi nói đến tính chính xác, nó nhằm chỉ sự vật mang chi tiết chính xác và phù họp. Nó phải chính xác hết mức con người có thể làm. Nếu "bit" thông minh là một bức chân dung của George Washington, nó phải thật sự là một bức chân dung chất lượng tốt. Tính riêng lẻ Tính riêng lẻ mà chúng tôi đề cập là để chỉ một thứ. Chỉ nên có duy nhất một đối tượng trong mỗi"òữ” thông minh. Nếu như "bit" thông minh là chân dung của Washington thì trong đó không được có bất kỳ một nhân vật nào khác. Tính cụ thể Tính cụ thê ở đây muốn nói tói những thứ có tên đặc thù và có ý nghĩa
  32. chắc chắn. Bởi vậy, mỗi "bỉt” thông minh được gắn một nhãn mà chỉ có thể hiểu theo một cách duy nhất. Nếu đó là một bức chân dung của Washington, nó phải được gắn cái tên chính xác là "George Washington" chứ không phải là "một vị tổng thống". Sự món mẻ Sự mói mẻ là những thứ mà bé chưa hề biết đến. Bức tranh ở cuối chưong này có tựa đề Quang cảnh buổi ký kết Hiển pháp Hoa Kỳ và George Washington là một trong số những nhân vật nổi bật nhất. Nếu như bức tranh này của tác giả Horward Chandler Christy đưực sử dụng như một "bit" thông minh mang tên "George Washington" thì nó sẽ trở thành một "bit" thông minh không chính xác, bởi vì nó không thỏa mãn được yêu cầu. 1. Cái tên đó không chính xác, bởi vì bức tranh này không phải là chân dung của George Washington; nó là bức tranh về việc ký kết hiến pháp. 2. Đó là cái tên không đặc thù, vì đây không phải là bức họa về riêng một nhân vật (George Washington) mà là về rất nhiều người. 3. Nó sẽ không đảm bảo tính cụ thể, bởi nó sẽ tạo cảm giác mơ hồ và bé hoàn toàn có cơ sở để tin rằng "George Washington" là một nhóm người ngồi rải rác trong một căn phòng. Bức họa này sẽ là một thẻ thông tin hoàn hảo nếu được gắn cái tên thuộc Mục "Những sự kiện lịch sử nổi tiếng.” Bức chân dung theo sau nó phản ánh chính xác một "bit" thông minh. Bức họa đạt tiêu chuẩn chính xác bởi chân dung đó được tái hiện rất chi tiết và rõ ràng, và đó đúng là hình ảnh của George Washington. Nó có tính riêng lẻ vì chỉ truyền tải một chủ đề. Nó cụ thể bởi sự thật đó chính là George Washington và sẽ được gắn đúng tên như vậy ở mặt sau của tấm thẻ. Bởi vậy, bất cứ mảnh thông tin nào được dự định dùng làm "bit" thông minh cho con của bạn cũng phải đảm bảo đủ sáu tiêu chuẩn sau:
  33. 1. Phải có nội dung chính xác 2. Chỉ mô tả duy nhất một đối tưựng, không đưực có phần nền dễ gây nhầm lẫn 3. Phải có một cái tên đặc trưng 4. Phải mói mẻ 5. Phải đủ lớn 6. Phải rõ ràng Nếu thiếu bất kỳ tiêu chuẩn nào trong sáu tiêu chuẩn trên, tấm thẻ đó sẽ không đưực gọi là một thẻ "bit" thông minh và nó sẽ không đưực sử dụng trong chưong trình này. Còn nếu nó thỏa mãn tất cả các tiêu chuẩn trên, nó sẽ là tấm thẻ "bit” thông minh phù họp và các con của bạn sẽ có thể dễ dàng tiếp nhận khi nó đưực sử dụng trong quá trình tiến hành chưong trình này. Hãy chắc chắn là bạn đã hiểu thế nào là một tấm thẻ "bit" thông minh trước khi bắt đầu tập họp và tổ chức chưong trình giảng dạy của mình. Một "bit" thông minh đưực định nghĩa rất rõ ràng là bất kỳ mẩu thông tin nào đưực truyền tải một cách chính xác, riêng lẻ, và cụ thể. Đó chính là nền tảng co* bản của tri thức. Sự kết họp những cấu trúc này vói nhau tạo nên các Mục phân loại của thẻ "bỉt" thông minh. Một Mục là một nhóm gồm ít nhất 10 thẻ "bit" thông minh có mối liên hệ trực tiếp vói nhau. Ví dụ "các loài côn trùng" là một Mục phân loại. CÁC LOÀI CÔN TRỪNG 1. Bọ rùa cánh cứng hai chấm 2. Bọ que khổng lồ 3. Chuồn chuồn 4. Ruồi
  34. 5- Châu chấu 6. Kiến 7. Mối 8. Ve sầu 9. Bướm vua 10. Ong nghệ Mục phân loại côn trùng này có thể đưực mở rộng trong phạm vi các loài côn trùng sống từ thòi tiền sử tói ngày nay hoặc có thể chốt danh sách & 30 loài. Nói tóm lại, mỗi Mục phân loại phải có ít nhất 10 thẻ "bit" thông minh và chỉ đưực giói hạn bởi số lưựng thành phần hay các yếu tố tồn tại trong nhóm đó. Ví dụ, năm 2011, số lưựng tổng thống Mĩ là 43 vị. Mục phân loại các vị tổng thống Mĩ sẽ đưực mở rộng chỉ khi có các vị tổng thống mói đưực bầu. TẠI SAO NHỮNG THẺ “BIT” THÔNG MINH LẠI CÓ LIÊN QUAN VỚI NHAU? Những chi tiết sắp xếp tưởng chừng như đon giản này lại có ảnh hưởng hết sức quan trọng đối vói trẻ nhỏ. Nếu chúng ta đưa cho trẻ nhỏ 10 tấm thẻ "bit" thông minh không có mối liên hệ gì vói nhau nhưng mỗi tấm lại đảm bảo tính chính xác, riêng lẻ, cụ thể và mói mẻ thì có nghĩa là ta đã cung cấp cho trẻ 10 mảnh kiến thức tuyệt vòi. Đó quả là một điều tuyệt diệu, và đứa trẻ sẽ lưu giữ đưực 10 sự kiện này mãi mãi. Nếu sử dụng đúng phưong pháp, bạn có thể chỉ ra cho một đứa trẻ nhỏ cả 10 tấm thẻ đó chỉ trong vòng 10 giây. Đứa trẻ vốn dĩ không thể tập trung chú ý đưực đến 30 giây. Điều này quả thực là rất tuyệt vòi! Khi bạn sử dụng 10 giây của bạn theo cách thức đó chừng ba đến bốn lần, trẻ sẽ lưu giữ thông tin đó trong suốt cuộc đòi. Bạn sẽ thấy điều đó nếu thỉnh thoảng bạn gựi nhắc lại thông
  35. tin này. Tuy nhiên, cũng vói 10 giây đó, chúng ta cũng có thể đưa ra cho trẻ 10 tấm thẻ "bỉt" thông minh có mối liên hệ vói nhau. Việc này sẽ cung cấp cho trẻ ít nhất ba triệu sáu trăm ngàn mối liên hệ(2) mà bé sẽ sở hữu trong suốt cuộc đòi. Điều này mói thực sự là thú vị và hết sức phi thường. Vâng thưa các độc giả thân mến, đó chính là lí do vì sao mà chúng ta sử dụng các Mục phân loại của thẻ "bit" thông minh. Chúng ta gọi những tấm thẻ "bit" thông minh có mối liên quan vói nhau này là: Các Mục tri thức. LựA CHỌN CÁC MỤC Chúng tôi quyết định phân chia những kiến thức sẵn có thành 10 loại: 1. Sinh học 2. Lịch sử 3. Địa lý 4. Âm nhạc 5. Nghệ thuật 6. Toán học 7. Giải phẫu sinh lý người 8. Khoa học chung 9. Ngôn ngữ 10. Văn học Rõ ràng là chúng ta hoàn toàn có khả năng phân chia tất cả các thông tin thành năm, thậm chí một trăm loại. Lí do mà chúng ta lựa chọn những cách phân chia này sẽ rõ ràng hon khi chúng ta tiếp tục tiến trình. Bạn nên đặt ra mục tiêu cung cấp cho con nền tảng kiến thức rộng lón
  36. nhất trong khả năng của mình. Sẽ là rất khôn ngoan nếu bạn lựa chọn một phân loại từ 10 loại kiến thức trên để bắt đầu. Dưới đây là một vài ví dụ: Mảng kỉèti thức: Sinh học Mục: Côn trùng "B it" thông minh: Bọ rùa cánh cứng hai châín (Bao gốm những bức Bọ que không lổ tranh của những Chuồn chuổn con côn trùng) Ruồi Châu chấu Kiêh Mối Ve sẩu Bưóm vua Ong nghệ
  37. Mảng kỉẽh thức: Lịch sử Mục: Những nhà phát minh vì đại "Bit" thông minh: Thomas Edison (Bao gốm ảnh của Alexander Graham Bell nhưng nhà phát minh) Guglielmo Marconi lames Watt Benịamin Franklin Ịohannnes Gutenberg George Washington Carver Anh em nhà Wright Samuel Morse Eli Whitney
  38. Màng kiến thức: Địa lý Mục: Các quôc gia thuộc châu Mì "Bit" thông mirửi: Canada (Bao gốm nlìừng Mĩ phác họa vê hình dạng Mexico của các quôc gia) Guatemala Honduras Belize E1 Salvador Costa Rica Nicaragua Panama
  39. Mảng kiên thức: Ảm nhạc Mục: Các loại nhạc cụ "B it" thông minh: Đàn dương cấm (Bao gốm hinh ảnh Đàn violon của các loại nhạc cụ) Đàn guitar Sáo Trông Kèn Harmonica Kèn Trumpet Kèn Saxophone Kèn đổng Đàn Organ
  40. Mảng kiên thức: Nghệ thuật Mục: Những tác phấm nghệ ứiuật vĩ đại ’'Bit" thông minh: Mona Lisa (Bao gốm các bản sao Núi Sainte-Victoừe của những bức tranh này) Hoa hưóng ditong Aristotle Chiêm ngưòng bitc tượng bán thân của Homer Gia đình thần thánh Chủ Tho Erasmus của Rotterdam Thị trán Medici Đám cưói của Stephen Beckingham và Maiy Cox
  41. Mảng kiếri thức: Giải phẫu sinh lý người Mục: Nhừng cơ quan của cơ thẻ người "Bit" thông minh: Nào bộ (Bao gổm nhùng Phổi bức vè của các Dạ dày cơ quan cơ thê) Gan Thận Tuyến tụv Tim Ruột Buổng trứng Tinh hoàn
  42. Mảng kiến thức: Toán học Mục: Hình học "Bit" thông minh: Hình lập phương (Bao gốm Hình tứ giác các hình vẽ minh họa) Hình bát giác Hình khôi 12 mặt Hình khôi 20 mặt Hình cẩu Hình trụ Hình nón Hình chóp Hình lăng trụ xiên
  43. Màng kiẽri thức: Khoa học chung Mục: Nlùrng phát minh vì đại "Bít" thông minh: Máy in cùa Gutenberg (Bao gốm hình ảnh Kính thiên văn của các phát minh) Động cơ hơi nước Máy tia hột bông Máy dệt sợi Máy điện báo Máy chừ Máy gặt Thang máy Điện thoại
  44. Màng kiẽh thức: Ngôn ngừ Mục: Thực phẩm "Bit" thông minh: Quà táo (Bao gốm các bức hình có 10 Quà dâu tây cái tên đitợc viết bằng các ngôn ngừ khác nhau ò mặt Quã chuôi sau của tấm the) Trứng Bánh mỳ Củ cà 1'ôt Cây bắp cải Củ hành tây Gạo Quả cam
  45. Màng kiẽri thức: Ván học Mục: Các tác giả văn học thiểu nhi "Bit" thông minh: William Blake (Bao gốm chân dung Ogden Nash hoặc ánh) Henry w. Longfellow William M. Thackeray Edward Lear ĩohn Keats Percy Byshe Shelly Sứ Walter Scott Aesop Chương trình phát triển và nuôi dưỡng trí tuệ cho trẻ cần bao quát được nhiều vấn đề. Chúng ta càng dạy trẻ nhiều Mục phân loại, trẻ sẽ càng có tầm nhìn rộng lớn hơn về thế giói. Mục đích của chúng tôi không phải là hướng trẻ theo hướng này hay hướng khác mà là hoàn toàn ngược lại, chúng tôi mong muốn cung cấp cho trẻ một hình mẫu về toàn thể thế giói. Và sau đó, quyết định đi theo hướng đi nào là phụ thuộc vào chính bản thân trẻ. Tuy nhiên, những lựa chọn này sẽ dựa trên nền tảng của một kiến thức rộng chứ không phải trên nền tảng của sự thiếu hiểu biết. Không giống như hầu hết người lớn chúng ta - luôn có xu hướng loại bỏ rất nhiều lĩnh vực rộng lớn vì thiếu năng lực - trẻ sẽ lựa chọn nhiều lĩnh vực dựa trên năng lực rộng lớn của mình. CÁCH Sử DỤNG THẺ “BIT” THÔNG MINH ĐẺ DẠYTRẺ Phần này được viết ra vói mục đích hỗ trự các bạn sử dụng thẻ "bit" thông minh để dạy con mình. Mặc dù những thông tin này rất hữu ích,
  46. nhưng yếu tố quan trọng nhất và có giá trị nhất trong chưong trình giảng dạy lại nằm chính bên trong bản thân bạn. Đó chính là tình yêu thưong và sự trân trọng mà bạn thể hiện trong quá trình giảng dạy. Những thông tin kỹ thuật này chỉ có tác dụng đảm bảo rằng mối quan hệ thân thiết giữa bạn và bé sẽ dần lớn mạnh và phát triển trong tiến trình dạy. Bạn đừng tỏ ra lo lắng về bản chất tự nhiên thực sự của những tấm thẻ, dần dần bạn sẽ biết tất cả những điều bạn cần biết về nó. Chỉ cần biết rằng, một tấm thẻ đạt yêu cầu cần phải được gắn trên một cái tấm nhựa cứng, một mặt là hình ảnh, còn mặt đối diện vói bạn là tên của bức ảnh. Đầu tiên bạn chọn Mục kiến thức mà bạn muốn cung cấp cho trẻ. Hãy nhớ rằng, Mục đó phải bao gồm 10 thẻ "bit” thông minh. MỘT BUỔI HỌC Chọn vị trí phù họp để bạn và con đối diện vói nhau một cách thoải mái. Khoảng cách giữa tấm thẻ và trẻ là khoảng 45cm. Bạn bắt đầu bằng cách nói đầy hứng khỏi, "Mẹ sẽ cho con xem một số loài côn trùng nhé!" Và sau đó nhanh tay lật mặt trước (có hình ảnh) của tấm thẻ ra và nói, "Con côn trùng này là con bọ rùa hai chấm"; "Con côn trùng này là con bọ que khổng lồ"; "Con côn trùng này là con chuồn chuồn." Nhờ lật tấm thẻ sau cùng ra phía trước, bạn có thể liếc nhanh tên của từng loại côn trùng. Khi bạn đưa hình ảnh đó ra trước mặt bé, bạn nói ngay cho bé tên loài côn trùng đó. Bạn lần lượt đưa ra cho bé 10 tấm thẻ một cách đầy nhiệt tình, hứng khỏi và mục tiêu của bạn là phải làm càng nhanh càng tốt. Thòi gian tối đa là 10 đến 15 giây, không hon, có nghĩa là bạn có một giây để chỉ cho trẻ mỗi tấm thẻ và năm giây để lấy thẻ. Kỹ năng của bạn sẽ nhanh chóng trở nên thành thục như người chia bài ở Las Vegas vậy. Sau vài ngày đầu giói thiệu cho trẻ một Mục mói, bạn sử dụng cách nói, "Con côn trùng này là ," nhưng sau đó, bạn chỉ cần nói "bọ rùa hai chấm," "bọ que khổng lồ," "chuồn chuồn," vói tốc độ càng nhanh càng tốt. Trẻ sẽ bắt kịp rất nhanh vói quy luật đó. Bạn cần chắc chắn rằng tất cả các tấm thẻ đều đưực xoay đúng chiều và mặt có ghi tên phải quay về phía bạn trước khi bạn bắt đầu dạy trẻ, bởi vì
  47. như vậy sẽ tiết kiệm đưực thòi gian sắp xếp lại các tấm thẻ. Bạn cũng nên đảo vị trí các tấm thẻ sau mỗi buổi học để lần sau các tấm thẻ không đưực đưa ra theo trật tự cũ nữa. Khi dạy trẻ đọc, bạn cần loại bỏ hết những tác động có thê gây xao nhãng từ môi trường xung quanh. Điều này thực sự đặc biệt quan trọng khi lần đầu tiên bạn dạy cho trẻ những điều mói mẻ. Vì thế, khi bạn bắt đầu sử dụng chưong trình thẻ "bit" thông minh, bạn nên đặc biệt chú ý tạo ra một không gian yên tĩnh. Tần su ấ t Việc giãn cách các buổi dạy trẻ "bit" thông minh trong suốt một ngày là rất quan trọng, vì vậy, bạn sẽ thực sự thực hiện nhiều buổi học ngắn chứ không phải là các buổi học liên tiếp nhau, như vậy chẳng khác gì một buổi học dài. Hãy đan xen chúng vói phần dạy đọc hoặc sau khi bạn hoàn thành một buổi học, hãy chuyển sang một việc gì đó khác. Nếu con bạn đòi học thêm nữa (thường thì bé sẽ đòi như vậy), bạn hãy nói: "Tất nhiên rồi, ngay sau khi chúng ta dọn bàn ăn nhé!" Bé sẽ thấy háo hức về điều đó. Bạn phải là người đảm bảo rằng bé không bao giờ học vói thẻ quá nhiều bằng cách dừng lại sau mỗi buổi và luôn giữ lòi hứa rằng lát nữa sẽ lại mang thẻ ra. Tốt nhất bạn nên dạy trẻ vào buổi sáng hoặc buổi tối vì thòi gian này trẻ dễ thu nhận kiến thức. Buổi chiều thì không phải thòi gian thuận lọi, nhưng buổi tối thì sẽ thuận lựi. Tóm lại, trong bất kỳ trường họp nào, bạn cũng nên chọn thòi điểm mà con trẻ đang tỉnh táo, hoạt bát và chú ý tránh tuyệt đối những lúc chúng thấy không đưực như vậy. C irò n g độ Bạn nên chú ý cao độ để đảm bảo rằng tấm thẻ "bit” thông minh phải to, rõ ràng và phải đưực đóng khung vừa vặn. Có như vậy trẻ mói có thể dễ dàng nhìn được tấm thẻ và bạn thì không cần phải lo lắng về chuyện đó. Hãy nhớ, khoảng cách giữa bạn và trẻ là 45cm. Bạn hãy chú ý đừng để tay mình che khuất bất cứ phần nào của tấm thẻ. Không gian noi bạn dạy trẻ phải đủ ánh sáng và không có những vật trẻ có thể nhìn thấy, nghe thấy hay cầm lên choi nghịch. Một khía cạnh khác của cường độ là âm lưựng giọng nói của bạn. Khi bạn bắt đầu, trẻ càng nhỏ thì giọng của bạn càng phải to và rõ ràng. Theo
  48. bản năng, các bà mẹ thường sử dụng âm lưựng to hon khi họ nói chuyện cùng con mình. Khi bạn kết họp cường độ lón hon này vói bầu nhiệt huyết tự nhiên trong bạn, thì chẳng còn có nghi ngờ gì về việc con bạn sẽ tiếp nhận đưực thông tin cả. Thòd lirọng Tốc độ mà bạn thực hiện mỗi buổi dạy có vai trò cực kỳ quan trọng đối vói thành công cuối cùng. Bạn phải đưa ra các tấm thẻ "bit" thông minh rất, rất, rất nhanh. Ngay cả người lớn, những người tiếp nhận thông tin mói chậm hon những đứa trẻ, hầu như cũng không thu đưực điều gì nếu nhìn chằm chằm vào tấm thẻ. Điều này đưực minh chứng rất rõ ràng trong suốt Chiến tranh thế giói thứ hai. Vói tốc độ chóng mặt của các máy bay trực thăng thòi đó (khoảng hon 200 dặm một giờ), việc quan sát và quyết định xem liệu đó là trực thăng của địch hay của ta để tiêu diệt là vấn đề hết sức quan trọng đối vói mạng sống của nhũng người lính, thủy thủ, lính thủy đánh bộ và lực lưựng không quân trên tuyến đầu của mặt trận. Khi lực lưựng quân sự dán những bức ảnh về các loại máy bay ở khắp noi đê các chiến sỹ nhận biết, hầu hết trong số họ thấy rất khó khăn để nhận diện. Và họ rút ra đưực rằng, nếu họ nhìn các bức tranh trong thòi gian càng ngắn thì khả năng nhận diện của họ lại càng nhanh. Hầu hết người lớn đều làm mọi thứ thật chậm để trẻ có thể theo kịp. Nhưng phưong châm của bạn nên là "càng nhanh càng tốt." Bạn chỉ nên sử dụng tối đa một giây cho mỗi tấm thẻ "bit" thông minh. Và bạn cũng chỉ nên cho trẻ học ít hon số thẻ trẻ muốn bạn dạy. Nếu bạn biết rằng trẻ thích đưực học 15 tấm thẻ, bạn sẽ chỉ cho trẻ học 10 tấm; và nếu trẻ chỉ có thể học đưực 10 tấm thẻ, bạn chỉ nên dạy trẻ năm tấm mà thôi. Những bà mẹ thông minh sẽ tự tạo ra cho mình những tấm thẻ thật lớn và dán ở những noi nào mà họ có thể liếc thấy nhiều lần trong ngày, cho đến khi nó in sâu vào trí nhử. Tấm thẻ đó có thể là, "Luôn luôn dừng lại trước khi con muốn mình dừng!" Nếu như bạn tuân theo những quy tắc đó, bạn sẽ không bao giờ lạm dụng thòi gian quý báu cũng như khả năng tập
  49. trung chú ý của trẻ. Trẻ có khả năng chú ý vô cùng tuyệt vòi, vì vậy bạn hãy chắc chắn rằng bạn thu hút đưực trẻ vói những bài học ngắn, nhanh, có kế hoạch tốt và đầy nhiệt huyết. CÁC BUỔI HỌC CHO MỘT NGÀY Bạn hãy bắt đầu bằng việc giói thiệu năm mục khác nhau, mỗi mục bao gồm 10 tấm thẻ "bit" thông minh. Bạn phải chắc chắn rằng bạn đã dạy đủ mỗi mục ba lần trước khi kết thúc một ngày. Khi đã cảm thấy tự tin hon, mỗi ngày bạn hãy thêm vào một mục cho đến khi bạn có thể dạy trẻ 10 mục khác nhau. Một lần nữa, hãy nhớ rằng, mỗi mục đưực dạy 10 giây một lần, ba lần một ngày. THÊM NHỮNG THÔNG TIN MỚI VÀ LOẠI BỎ NHỮNG THÔNG TIN c ũ Khi đã tiến tói giai đoạn dạy trẻ 10 mục mỗi ngày, 10 ngày sau, bạn hãy bắt đầu việc mỗi ngày loại bỏ một tấm thẻ từ mỗi mục. Hãy lưu những tấm thẻ mà bạn loại ra vào một chỗ để sau này sử dụng và thêm một tấm thẻ mói thay thế tấm thẻ loại ra ở mỗi mục. Kê từ thòi điểm này, mỗi ngày bạn tiếp tục thêm vào mỗi mục một tấm thẻ hoặc có thể thêm cả 10 tấm thẻ mói. Đó là số lượng tối thiểu chứ không phải tối đa. Nếu bạn có khả năng thêm các tấm thẻ vói tốc độ nhanh hon, chắc chắn con bạn vẫn tiếp thu đưực như thường. Chúng tôi đưa ra số lưựng tối thiểu ở đây vì việc này còn phụ thuộc vào khoảng thòi gian bạn cần để tìm hiểu và cắt dán các tấm thẻ chứ không hề phản ánh khả năng tiếp thu của não bộ trẻ nhỏ. Vói tất cả các ý nghĩa hay mục đích thì bộ não của trẻ là không có giới hạn. Khi đã sử dụng hết các tấm thẻ trong mỗi mục, bạn chỉ cần thay thế nó bằng một mục gồm 10 tấm thẻ hoàn toàn mói. Sau đó, khi bạn tìm đưực đủ số thẻ mói thuộc mục đã bị thay thế, bạn hoàn toàn có thể giói thiệu lại mục đó cho trẻ. Trong thòi gian tìm kiếm thẻ mói, bạn hãy lưu giữ cẩn thận những thẻ cũ vì sau này, bạn sẽ còn cần đến chúng. TUỔI THỌ CỦA MỘT TẤM THẺ “BIT” THÔNG
  50. MINH Mỗi người mẹ nên hiểu rất rõ chương trình dạy con của mình. Ví dụ, người mẹ nào cũng cần phải biết chính xác họ cần dạy con những tấm thẻ "bỉt" thông minh bao nhiêu lần trước khi tấm thẻ đó trở nên cũ kỹ đối vói trẻ. Bạn cần phải biết rõ điều này bởi vì những tấm thẻ luôn cần được thay đổi. Ví dụ bạn hãy trả lòi câu hỏi, trong chương trình giảng dạy được lên kế hoạch sẵn ở trên đây, trẻ sẽ được quan sát tấm thẻ bao nhiêu lần trước khi tấm thẻ đó bị loại? Nếu đê ý theo dõi, bạn sẽ nhận ra rằng vòng đòi của mỗi tấm thẻ là 30 lần, vì mỗi tấm thẻ mói sẽ được đưa ra dạy trẻ ba lần mỗi ngày trong thòi gian 10 ngày. Tuy nhiên, nếu bạn thực hiện chương trình này vói nguồn năng lượng và nhiệt huyết dồi dào, bạn sẽ nhanh chóng phát hiện thấy rằng 30 lần trong 10 ngày là quá mức cần thiết cho con của bạn. Tại sao ư? Bởi vì bạn đã thực hiện chương trình này thành công và kết quả là trẻ chỉ cần quan sát một thứ mói 15 lần trong vòng năm ngày. Đây quả thực là một thay đổi đáng kể trong tần suất! Tuy nhiên, để đạt được đến trình độ này, ít nhất bạn cũng cần áp dụng chương trình trên trong vòng vài tháng. Bạn cần luôn luôn đặt ra cho mình câu hỏi: "Mình có cần thay đổi thòi gian tồn tại của thông tin khi nhận ra rằng con mình đã nhận thức hình ảnh tốt hơn không?" Nếu bạn và bé đều đang cảm thấy hài lòng về chính mình, thì sớm hay muộn bạn cũng sẽ nhận ra là trẻ có nhu cầu thu nhận thông tin mói khi đã nắm rõ các thông tin cũ. Đôi khi điều này cũng trở thành vấn đề vói các bà mẹ, nhưng sau đó, họ thấy rằng mình đã đạt được mục đích bởi lần đầu tiên, đứa trẻ đã có khả năng học hỏi rất nhanh và không mệt mỏi. Bộ não của bé phát triển rất nhanh qua từng ngày. Nhưng, làm cách nào để bạn có thể tạo ra những tấm thẻ "bỉt" thông minh?
  51. George Washington - Bức ảnh ở bảo tàng nghệ thuật New York
  52. Cách tạo ra những tấm thẻ "bit" thông minh CHẤT LƯỢNG Tạo ra những tấm thẻ "bit" thông minh đẹp tại nhà không hề khó. Thực tế mà nói, chất lượng của tấm thẻ phải đẹp vì nó sẽ đưực sử dụng như những vật quý giá dành cho một đối tượng quý giá hon - đó là con của bạn. Bạn nên chuẩn bị nhũng tấm thẻ vói một ưu tiên trước nhất trong đầu - đó là chất lưựng. Đây không phải là một trò choi đáng yêu giữa bạn và bé, và cũng không phải là việc phun kem lên bánh, nó là quá trình đưa trẻ đến vói tri thức của thế giói. Tấm thẻ "bỉt" thông minh của bạn phải thể hiện được sự tôn trọng của bạn đối vói nhũng bài học mà bạn định dạy trẻ và vói những điều mà trẻ chuẩn bị đưực học. Không có gì quý giá hon tri thức. Một thứ vô cùng giá trị mà bị làm cho rẻ rúng còn tồi tệ hon cả nhũng thứ rẻ tiền có vỏ bọc bên ngoài đẹp đẽ. Các tấm thẻ "bit" thông minh của bạn phải đưực coi là những gia sản quý giá được truyền lại cho con cháu, đưực bảo tồn và lưu giữ cho đòi sau nữa. VẬT LIỆU Bạn sẽ cần đến nhũng vật liệu sau, đa số chúng đều có sẵn: 1. Tấm thẻ "bit” thông minh thô (nhũng bức ảnh hay bức vẽ) 2. Bảng đa năng (bảng viết ghim từ tính) 3. "Bút thần kỳ" màu đen hoặc bút ngòi to không thấm nước 4. Keo dán cao su 5. Giấy dán tường trong hoặc tấm formica (không bắt buộc)
  53. Tấm thẻ ”bỉt" thông minh thô Một lần nữa, bạn sẽ muốn một tấm thẻ thô chính xác, riêng lẻ, cụ thê và mói mẻ. Ban đầu, chúng nhất định phải chính xác và phải mói, còn về tính riêng lẻ và cụ thể thì bạn có thể tạo ra cho chúng về sau. Thực tế là bạn sẽ sóm trở thành một chuyên gia trong việc xác định tấm thẻ thô đó có tiềm năng hay không. Nếu như bạn có một bức tranh tiềm năng nhung nó lại có nền rối rắm, bạn chỉ cần cắt nguyên phần bạn cần và loại bỏ phần rối rắm đó đi. Hoặc nếu bức tranh đó có hẳn một nhóm các vật thể khác nhau, bạn hãy cắt riêng chúng ra và biến chúng thành những tấm thẻ riêng biệt. Bạn cũng cần cắt bỏ những dòng chữ bên dưới hay xung quanh hoặc nếu tấm thẻ thô có tựa đề chung chung, mơ hồ hay dễ gây nhầm lẫn, bạn cần phải tìm cho nó một cái tên rõ ràng và hoàn chỉnh nhất. Ví dụ, cái tên "bọ cánh cứng" quá chung chung. Bạn cần cái tên rõ ràng hơn như là "bọ rùa hai chấm." Và cuối cùng, trước khi bỏ đi những phần không cần thiết, bạn cần lưu lại tất cả những thông tin có liên quan đến tấm thẻ thô của mình. Bởi vì bạn sẽ dùng đến chúng khi bạn dạy trẻ, bạn hãy đặt chúng ở một nơi dễ tìm. Bảng đa năng Chúng tôi khuyên bạn nên dán những tấm thẻ vào những mảnh bìa các tông trắng hai mặt. Bảng này còn có các dạng tương tự như "bảng dán áp phích", "bảng mục lục", "bảng mô tả," , tên gọi đó phụ thuộc vào thành phần cấu tạo và chất lượng của vật liệu. Giấy thì không đủ cứng để dùng làm thẻ. Một cách kiểm tra chất lượng bìa các tông là khi bạn cầm nó bằng một tay, nó không bị cong vẹo. Dù là vật liệu nào thì nó cũng phải đủ khỏe để sử dụng đi sử dụng lại nhiều lần (đặc biệt là nếu bạn có ý định có thêm em bé nữa trong tương lai). Trong trường họp tấm bảng trắng không tạo được độ tương phản vói tấm thẻ bạn đã chuẩn bị, hãy sử dụng bảng dán áp phích màu đen hoặc một màu nào đó phù họp để làm tăng độ tương phản. Đê công việc được thuận lọi hơn, bạn nên cắt bìa các tông trước. Nếu bạn mua chúng từ cửa hàng văn phòng phẩm hay nhà máy giấy thì bạn nên nhờ họ cắt. Kích cỡ của tấm bìa là 28 X 28cm. Bút đảnh dấu màu đen, không thấm nu*&c
  54. Bạn sẽ cần cây bút ngòi to, mực đen để viết chữ vào mặt sau của tấm thẻ "bỉt" thông minh. Loại bút này có rất nhiều tên, nhưng cái tên được sử biết đến nhiều nhất là "Bút thần kỳ." Nó không thấm nước và sử dụng loại mực son dầu. Bạn nên đóng nắp bút lại khi không sử dụng để tránh hiện tượng khô dầu và để xa tầm tay của trẻ. Keo dán cao su Chúng tôi phát hiện ra rằng keo dán cao su là chất liệu tuyệt vòi để gắn những tấm thẻ thô lên bìa các tông. Bạn chỉ cần thoa một lóp mỏng keo dán lên tấm thẻ và lên tấm bìa. Khi bề mặt của cả hai đã đủ khô, bạn đính tấm thẻ vào bìa là xong. Nếu muốn chúng dính chặt hon, bạn có thể đặt một tờ giấy trắng lên trên tấm thẻ và lấy tay chà xát quanh bề mặt. F o rm ica Một tấm thẻ "bit" thông minh lý tưởng thường được ép plastic. Formica giúp làm cho tấm thẻ trở nên chắc chắn, không bị hỏng, không bị in hình dấu vân tay hay bị bám bụi. Khi bạn lưu tâm đến thòi gian và sự tập trung mà bạn bỏ ra để làm mỗi tấm thẻ, trong bạn sẽ xuất hiện mong muốn đưực gìn giữ nó tốt nhất có thể, để dành cho đứa con tiếp theo trong tưong lai hoặc để dành tặng cho gia đình có con nhỏ khác. Hầu hết các gia đình không thể chi trả khoản phí để làm những tấm thẻ ép plastic bằng máy. Tuy vậy, những cuộn giấy dán tường to bản hữu dụng thì hoàn toàn nằm trong khả năng chi trả. Đối vói bất kỳ ai muốn cán mỏng tấm thẻ của họ thì đây là một vật dụng dễ kiếm để làm việc đó. Bạn có thể mua giấy dán tường ở các cửa hàng đồ gia dụng hoặc cửa hàng son noi có bán đồ dùng trong nhà bếp và kệ ngăn kéo sách. GẮN CHÚNG LẠI VỚI NHAU Giờ thì bạn đã biết đưực tất cả các vật liệu mà bạn cần để tạo nên một tấm thẻ "bit" thông minh thật đẹp. Đã đến lúc bạn thiết lập một "dây chuyền sản xuất" để có đưực sản phẩm tốt nhất. Đầu tiên, hãy chuẩn bị một bức ảnh. Bạn phải chắc chắn rằng bạn nhận diện đưực nó trước khi gắn nó vào tấm bìa các tông và bạn đã lưu tất cả những thông tin có liên quan đến nó.
  55. Thứ hai, nếu như tấm thẻ không đảm bảo tính riêng lẻ, bạn phải cắt bỏ hết các phần nền đến khi chỉ còn một vật thể trên tấm bìa. Tiếp theo (bước này thường bị bỏ qua bởi những người thiếu kinh nghiệm và chóng chán), hãy viết tên vào mặt còn lại của tấm bìa trước khi đóng khung xung quanh. Điều này sẽ giúp bạn tránh khỏi việc bỏ đi sản phẩm nếu bạn lỡ ghi nhầm tên. Bạn phải dùng loại bút ngòi to sử dụng loại mực đen bền màu để ghi lại những đặc điểm của vật thể ở mặt sau của tấm thẻ. Cỡ chữ phải là 2,5cm trở lên, cỡ chữ càng to càng tốt. Sau cùng, hãy dùng keo dán cao su để gắn tấm thẻ thô và bìa các tông có tên tương ứng lại vói nhau. Bạn chỉ nên thoa một lóp mỏng keo dán, đặc biệt là nếu tấm thẻ đã có chữ viết ở mặt sau, bởi vì, nếu thoa quá nhiều có thể làm dây mực vào phần khung và như thế thành quả tỉ mẩn của bạn sẽ bị phá hỏng. Giờ thì bạn đã có một công cụ giảng dạy vững chắc vói chất lưựng tuyệt hảo rồi. Trong trường họp muốn lưu giữ nó trong nhiều năm, bạn hãy làm thêm một bước là cán mỏng nó như mô tả bên trên. SẮP XẾP Những tấm thẻ "bit" thông minh luôn đưực sắp xếp theo các mục. Bạn sẽ thấy mỗi mục đều có khỏi điểm rất rộng. Ví dụ, 10 mục ban đầu là các loài côn trùng, những nhà phát minh vĩ đại, những tác phẩm nghệ thuật vĩ đại, những phát minh vĩ đại, những từ chỉ thực phẩm bằng ngoại ngữ và các tác giả văn học thiếu nhi. 18 tháng sau, nếu bạn nhìn vào một chương trình tưong tự, bạn sẽ thấy sự gia tăng về độ phức tạp trong tổ chức thông tin. "Các loài côn trùng" đưực thay thế bằng loài "đục gỗ" hay loài "biết bay". Sự sắp xếp lại cơ cấu tổ chức chung của thư viện thẻ "bỉt" thông minh sẽ phản ánh khả năng tiến bộ của trẻ trong việc liên hệ và kết nối mục này vói mục khác. Mỗi mục phải có ít nhất 10 tấm thẻ "bit” thông minh, không giói hạn số lượng tối đa. số lưựng thẻ ở mỗi mục phụ thuộc vào sự sẵn sàng, mối quan tâm và sự nhiệt tình của trẻ. Khi bạn sử dụng xong tấm thẻ nào, bạn cũng nên lưu giữ nó cẩn thận để sau này còn dùng đến.
  56. TÓM TẮT 1. Nắm bắt định nghĩa về tấm thẻ "bit" thông minh 2. Tìm kiếm thật nhiều dữ liệu thô 3. Sắp xếp dữ liệu thành các loại tri thức 4. Cắt bứt dữ liệu thô không cần thiết 5. Lưu trữ thông tin dữ liệu để dùng trong chưong trình dạy kiến thức phổ thông trong tưong lai 6. Định dạng kích cỡ của bảng dán áp phích là 28 X 28cm 7. Dùng bút đánh dấu màu đen để viết tên ở mặt sau tấm thẻ 8. Thoa một lóp keo lên mẩu tranh 9. Gắn tấm thẻ thô vào bìa các tông kích thước 28 X 28cm 10. Gắn giấy dán tường trong hoặc ép plastic cả hai mặt của tấm thẻ 11. Tạo ra hồ sơ lưu trữ những tấm thẻ cũ CÁCH THỨC TÌM KIẾM CÁC “BIT” THÔNG MINH Ngoài những tấm thẻ được bán sẵn trên thị trường, các bà mẹ cũng đã tạo ra hàng trăm nghìn tấm tại nhà dành cho các con của họ. Nguồn cung cấp dữ liệu tốt nhất để tạo ra những tấm thẻ làm bằng tay là từ những cuốn sách, tạp chí, bản đồ, áp phích quảng cáo, thẻ giảng dạy và những tấm thẻ từ viện bảo tàng. Thể loại sách tốt nhất là sách in màu toàn bộ thuộc dạng "Bộ sách kho tàng " Kho tàng các loài chim, các loài hoa, các loài côn trùng và động vật có vú là những nguồn dữ liệu tuyệt vòi. Những loại sách này sẽ cung cấp cho bạn đầy đủ thông tin về từng mục mà bạn cần. Mục đích xuất bản loại sách này là hướng dẫn và giói thiệu nên chất lượng hình ảnh và minh họa cực kỳ tốt. Các cuốn tạp chí cũng cung cấp nguồn dữ liệu quý giá để tạo nên tấm
  57. thẻ "bit" thông minh. Tuy nhiên, không phải chỉ có một loại tạp chí có thể giúp bạn. Nếu bạn muốn dạy trẻ về cuộc sống hoang dã thì có rất nhiều loại tạp chí về lĩnh vực này sẽ cung cấp cho bạn nhiều thông tin đắt giá. Bản đồ các quốc gia, các bang, các châu lục thực tế lại không hữu ích khi bạn cần tạo ra những tấm thẻ địa lý. Bởi vì nhiều mục có thể có liên quan tói địa lý nên bản đồ trở thành nguồn dữ liệu cho các mẹ khi thiết kế một mục kiến thức có liên quan. Tất cả các loại áp phích quảng cáo đều mang đến nguồn dữ liệu thông tin tuyệt vòi. Các co* quan chính phủ thường dán áp phích trên các khu vực thông tin và những áp phích này có thể góp phần làm nên những tấm thẻ rất đẹp. Đa số các bảo tàng đều cung cấp nguồn dữ liệu thô rất tốt. Những bản sao của các tác phẩm nghệ thuật, các tác phẩm điêu khắc, các mô hình kiến trúc luôn có sẵn ở noi này. Ngoài ra, các bảo tàng khoa học cũng là địa điểm tiềm năng. Không có gì giói hạn nguồn dinh dưỡng dành cho trí não, trái tim và tâm hồn của trẻ ngoài sự khéo léo của bản thân bạn và giói hạn tri thức của con người. Chúc bạn vui vẻ, hạnh phúc.
  58. Tổ chức kiến thức Khi các cán bộ của Viện Nghiên cứu Thành tựu Tiềm năng Con người sáng tạo ra chưong trình tăng cường trí thông minh của trẻ, một yêu cầu quan trọng đặt ra cho họ là phải tổ chức thông tin làm sao để thuận lựi cho việc dạy trẻ; đồng thòi các bậc cha mẹ - những người không phải là chuyên gia trong tất cả các lĩnh vực kiến thức cũng có thể hiểu được. Chưong này của cuốn sách sẽ cung cấp cho chúng ta cách thức tổ chức thông tin sao cho phù họp vói những mục đích đó. Chúng ta đã bắt đầu bằng việc phân chia tất cả các kiến thức thành 10 mảng chung, tiếp tục chia nhỏ chúng như sau: Các mãng kiến thức (Mttời) Mục (Hàng nghìn) Các bộ thẻ (Hàng chục nghìn) The "bỉt" thông mình (Mồi bộ mười the) Chư ong trình dạy (Mồi thẻ mười lần) Độ lớn của thông tin (Mồi chương trình một đon vị) Chúng ta sẽ bắt đầu vói Các mảng kiến thức. CÁC MẢNG KIÊN THỨC
  59. Thú nhất: Sinh học Thứ hai: Lịch sử Thứ ba: Địa lý Thứ tư: Âm nhạc Thứ năm: Nghệ thuật Thứ sáu: Toán học Thứ bảy: Giải phẫu sinh lý người Thứ tám: Khoa học chung Thứ chín: Ngôn ngừ Thứ mười: Vàn học Mỗi mảng kiến thức này lại đưực chia ra thành các nhóm nhỏ hơn được gọi là các Mục. CÁC M ự c Mỗi mục bao gồm những tấm thẻ "bit” thông minh có mối quan hệ chặt chẽ vói nhau. Có hàng ngàn mục trong mỗi mảng kiến thức. Ví dụ như: Các loại chim, các loài bò sát, các loài động vật có vú và các loài cá - đều là các mục trong mỗi mảng kiến thức. Đê thuận tiện cho các bậc cha mẹ khi giảng dạy hay sử dụng các vật liệu, các mục được chia nhỏ thành các Bộ. Vậy các bộ được tạo ra như thế nào? CÁC BỘ THẺ Mỗi bộ thường bao gồm 10 tấm thẻ, mỗi tấm thẻ có phần hình ảnh chứa thông tin ở mặt trước và có tên chính xác ở mặt sau (10 thẻ vói kích cỡ 28 X 28cm là số lượng phù họp đê các bà mẹ dễ dàng sử dụng trong khi dạy trẻ).
  60. Dưói đây là ví dụ một bộ gồm 10 thẻ "bỉt" thông minh thuộc mục "Các loại côn trùng": 1. Bọ rùa hai chấm 2. Bọ que khổng lồ 3. Chuồn chuồn 4. Ruồi 5. Châu chấu 6. Kiến 7. Mối 8. Ve sầu 9. Bướm vua 10. Ong nghệ Chỉ có rất ít bộ có số thẻ ít hem 10. (Chỉ có bảy châu lục; bởi vậy, mục "Các châu lục" trong phần kiến thức địa lý chỉ có bảy tấm thẻ "bit" thông minh.) Một ví dụ khác nữa là mục "Các bang của Mĩ". Mục này chỉ có năm bộ, mỗi một bộ bao gồm 10 bang - cách phân chia như vậy là để đảm bảo bao trùm cả 50 bang. Bởi vậy, mỗi bộ trong một mục thường có 10 tấm thẻ "bit" thông minh (rất hiếm trường họp có ít hom 10 thẻ, như đã đề cập ở trên). Nói một cách ngắn gọn, một "Bit" thông minh đưực định nghĩa như sau: TẤM THẺ “BIT” THÔNG MINH Một tấm thẻ "bit" thông minh là một dữ kiện được thể hiện ở dạng mô tả, đưực gắn vào một bảng dán chất lưựng cao và đưực dùng để dạy trẻ.
  61. Kích cỡ của bảng dán đó là 28 X 28cm và nó phải đủ cứng để bức tranh không bị gập cong khi đưa ra cho trẻ quan sát. Bản thân mỗi "bỉt" thông minh đưực gắn lên bảng là một bức vẽ chính xác hay một bức ảnh của vật thể, ví dụ như bức họa nàng Mona Lỉsa của danh họa Leonardo da Vinci chẳng hạn. Bản sao này phải chính xác, riêng lẻ và cụ thể. Nó phải có đặc điểm sau: 1. Chính xác 2. Chỉ có một vật thể đưực mô tả 3. Có một cái tên đặc trưng 4. Kích cỡ đ ủ lớn (thường là 28 X 28cm) 5. Rõ ràng Nếu như "bit" thông minh này là một phần trong thư viện gia đình và đưực sử dụng không chỉ để dạy cho những đứa trẻ - thành viên mói trong gia đình - mà còn cho cả con cháu đòi sau nữa thì chúng nên được bọc một lóp nhựa cán mỏng bên ngoài để có thể lưu giữ được lâu dài. Những tấm thẻ càng đẹp thì việc dạy cho trẻ nhỏ càng hiệu quả và tri thức đó càng có giá trị. Những gia đình thực hiện thành công chưong trình dạy trẻ này đã thừa nhận quan điểm liên quan đến những tấm thẻ "bit" thông minh của các cán bộ trong Viện. Khi những tấm thẻ này đưực tìm kiếm trong sự háo hức, đưực đóng khung và lưu giữ cẩn thận, chúng sẽ trở thành một thư viện lớn chứa những thông tin chuẩn xác và đẹp nữa. Chúng thực sự là cuốn từ điển bách khoa dành cho trẻ nhỏ và là nền tảng cho nguồn tri thức khổng lồ trong tưong lai. Những mẩu tri thức quý giá này thực sự đưực các cán bộ của viện cũng như các bậc cha mẹ cực kỳ trân trọng, bởi vì đây là kết quả từ công việc khó khăn mà các cán bộ của viện đã đảm nhiệm và sau đó là quá trình kiên trì áp dụng của các bậc cha mẹ để tạo ra hàng chục nghìn những tấm thẻ "bit"
  62. thông minh. Từ kết quả thành công rõ ràng của việc sử dụng những tấm thẻ "bit" thông minh để dạy trẻ, các cán bộ Viện và các bậc cha mẹ càng trở nên tôn sùng chúng. Nếu như "tôn sùng" là từ quá mạnh để nói về những mẩu tri thức này, chúng tôi xin làm rõ hon rằng từ này chính là dành cho những cuốn sách tuyệt vòi vói những bìa sách tuyệt đẹp; hay là dành cho những tác phẩm nghệ thuật đáng giá như bức họa nàng Mona Lisa hoặc là sự tôn sùng dành cho việc học tập hay tôn sùng chân lý. Mỗi "bit" thông minh đều có liên quan tói Những chưong trình truyền tải kiến thức. NHỮNG CHƯƠNG TRÌNH THÔNG MINH Một chưong trình thông minh đưực tạo ra từ một dữ kiện đon lẻ có liên quan tói một "bit" thông minh. 10 chưong trình như vậy đưực sắp xếp theo một trình tự đặc biệt và đưực biết đến như là Độ IÓTL của thông tin. ĐỘ LỚN CỬA THÔNG TIN Mỗi dữ kiện đưực gọi là một Chưong trình thông minh. Những dữ kiện này đưực sắp xếp theo mức độ phức tạp vói tên gọi là Độ lớn của thông tin. Những chưong trình này đưực bắt đầu vói dữ kiện nhỏ, đon giản đầu tiên và sau đó phát triển phức tạp dần lên cho đến mức độ phức tạp nhất là mức 10. Có 10 mức độ cho mỗi tấm thẻ "bit" thông minh. Ví dụ, loài chim cắt Mĩ là một "bit" thông minh trong mục các loài chim và thuộc mảng kiến thức sinh học. Sự kiện ở mức độ đầu tiên trong chưong trình thông minh về loài chim này là: "Loài chim cắt Mĩ sinh sống và săn mồi ở cả thành phố và nông thôn." Dữ kiện ở mức độ thứ 10 là sự phân loại khoa học về loài chim này, bao gồm lóp (sinh học), hàng, họ, giống, loài.
  63. Giữa các chương trình thông minh nằm trong một mục thuộc một mảng kiến thức có vô vàn mối liên hệ. Ví dụ, khi trẻ học tói mức thứ 10 trong chương trình thông minh về các loài động vật có vú, các loài chim, các loài bò sát, các loài cá, các loài côn trùng và động vật lưỡng cư thì trẻ cũng đồng thòi được học về ngành sinh vật học, lóp, hàng, họ, giống và loài. Nhờ vậy, trẻ biết được rằng động vật có vú, các loài chim, bò sát, cá và động vật lưỡng cư đều thuộc ngành động vật có xương sống; còn côn trùng thì thuộc ngành động vật chân đốt. Kết quả là trẻ nhỏ sẽ học được cách phân loại trên cơ sở khoa học của các loài sinh vật một cách vô thức. Trẻ sẽ chỉ đơn giản nghĩ rằng mình đang cùng mẹ tận hưởng một thòi gian tuyệt vòi, và đương nhiên, đó đúng là khoảng thòi gian đẹp. Cùng lúc đó, các bé cũng được học về sự phân tầng động vật - điều mà rất ít người lớn biết. Phần này của cuốn sách liệt kê ra 10 mục trong mỗi mảng kiến thức, như vậy là có tổng số một trăm mục. Chắc chắn một điều là, khi các bậc cha mẹ sử dụng một trăm mẫu này, họ có thể tạo ra một trăm, thậm chí một nghìn mục khác mà không phải tổn hao quá nhiều sức lực. Đó chính là lí do vì sao chúng tôi liệt kê ra các ví dụ ở đây. Màng kiến thức: S inh học Mục: 1 . Động vật có vú -> Các loài chim 3. Các loài bò sát 4. Động vật lường cư 5. Các loài cá 6. Các loài giáp xác 7. Các loài côn trùng 8 . Các loài hoa 9. Các loài cây 10. Các loài thực vật và cây bụi
  64. Mảng kiếh thức: Lịch sử Mục: 1 . Các nhà lành đạo vì đại 2. Các nhà phát minh vì đại 3. Các nhà khoa học vì đại 4. Các nhà thám hiếm vĩ đại 5. Nhừng vị tống thòng Mì 6. Các cuộc chiến nối tiêng 7. Các triều đại Anh 8. Người da đò Mi 9. Nhừng vị Quốc phụ của nước Mì 10. Người tiến sử
  65. Mảng kiên thức: Địa lý Mục: 1. Các châu lục và đại dương 2. Các quôc gia thuộc cháu Mì 3. Các nước châu Ãu 4. Các nước châu R ú 5. Các nước châu A 6. Các bang của Mì 7. Qưôc kỳ của các nước trên thẻ giới 8. Tín hiệu giao thông và các biếu tượng (của Mì) 9. Các ngọn núi 10. Nhừng dòng sông lớn trên thẻ giói Mảng kiẽh thức: Am nhạc Mục: 1. Các loại nhạc cụ 2. Các nổt nhạc 3. Các biêu tượng ám nhạc 4. Các nhà soạn nhạc vĩ đại 5. Các quàng nhạc 6. Các bản hợp ảm 7. Nhùng ca sỹ nôi tiêng 8. Nhùng người biêu diền vĩ đại 9. Các loại nhạc cụ cô 10. Các đoán khúc
  66. Màng kiên thức: Nghệ thuật Mục: 1. Những nghệ thuật gia vì đại 2. Các tác phẩm nghệ thuật của Van Gogh 3. Các tác phẩm nghệ thuật của Picasso 4. Các tác phẩm nghệ thuật của Da Vinci 5. Các tác phẩm nghệ thuật của Cezanna 6. Các tác phấm nghệ thuật của Rembranđt 7. Các tác phẩm nghệ thuật của Michelangelo 8. Các tác phấm nghệ thuật của Dủrer 9. Các tác phấm nghệ thuật của Botticelli 10. Các tác phẩm nghệ thuật của Holbein
  67. Mảng kiên thức: Toán học Mục: 1 . Các khôi hình học 2. Các góc 3. Các phép tính toán và đo htòng 4. Những biếu tượng toán học 5. Các khôi hình học lập thê 6. Các chừ sô' La Mà 7. Các đon vị đo lường 8. Những nhà toán học vì đại 9. Tọa độ hình học 10. Các thé chấm (sô' có thật) Mảng kiẽti thức: Giải phâu sinh lý Mục: 1. Các co quan trong co thẻ 2 Các khớp xương 3. Các cơ 4. Các phấn của tế bào 5. Hệ tiêu hóa 6. Hệ tuấn hoàn 7. Răng 8. Hệ thấn kinh 9. Hệ sinh sân nữ 10. Hệ sinh sán nam
  68. Màng kiẽri thức: Khoa học tông hợp Mục: 1. Các hành tinh *ì Các chòm sao 3. Các nguyên tỏ'hóa học 4. Các loại khoáng chất 5. Các loại xe gan máy 6. Các loại tàu điện 7. Các loại máy bay 8. Các loại tàu thuyền 9. Các phát minh 10. Các công cụ Màng kiên thức: Ngôn ngữ Mục: 1. Thực phẩm 2. Vật dụng sinh hoạt 3. Các loài vật nuôi 4. Thiên nhiên 5. Các hành động 6. Những từ trái nghía 7. Đổ may mặc 8. Thành viên trong gia đình 9. Các loại phương tiện giao thông 10. Hàng xóm láng giêng
  69. M àn g k iê n thức: Ván học M ụ c: 1. Các tác giã vàn học thiếu nhi cô điên Các tác giã văn học thiếu nhi 3. Các tác giã văn học Mì 4. Các nhà tho Mì 5. Các nhân vật trong kịch của Shakespeare 6. Các tác giã văn học Anh /• Các thi sì người Anh 8. Nhùng người biếu diễn vì đại 9. Các nhà triết học vì đại 10. Các nhà ứio nối tiêng th ế giói Chúng tôi đã liệt kê ra một trăm mục kiến thức. Nếu tạo ra các bộ thẻ trong mỗi mục này, chúng ta sẽ có một ngàn "bit" thông minh (vì mỗi bộ có 10 "bit" thông minh liên quan vói nhau). Và bởi vì mỗi một "bit" nằm trong tổng số 10 "bit” thông minh (10 mức độ) có liên hệ tói một chưong trình thông minh, vậy là chúng ta đang làm việc vói mười ngàn dữ kiện. Nếu tính cả các "bit" thông minh, chúng ta thực sự sẽ có đưực con số mười một ngàn. Từ tầm quan trọng của lưựng kiến thức to lớn có đưực từ mỗi bộ thẻ của mỗi mục (trong tổng số một trăm) có thể thấy rằng, việc đưa ra các ví dụ điển hình về cách thức tạo ra một chưong trình thông minh cũng như các ví dụ về cách thức quy định mức độ của thông tin là một hành động rất sáng suốt.
  70. Quá trình sáng tạo ra Chương trình Thông minh Khi đã thiết lập đưực mạng lưới thẻ "bỉt" thông minh rộng lớn, các bạn hãy mở rộng Chương trình Thông minh của mình. Khi bạn đã dạy trẻ được một ngàn mẩu tri thức, bạn nên bắt đầu tạo ra Chương trình Thông minh. Mục tri thức thì thiết lập nên bề rộng của kiến thức trong một lĩnh vực, còn các Chương trình Thông minh thì tạo ra những mức độ tri thức tăng dần trong mục đó. Mỗi Chương trình mói trong một mục sẽ thêm vào một mức độ cao hơn, bắt đầu từ thông tin đơn giản nhất và kết thúc bằng thông tin phức tạp nhất. Hãy xem ví dụ sau:
  71. Mảng kiên thức: Sinh học Mục: Các loài côn trùng "Bit" thông minh: Ve định kỳ Mức độ thứ nhất: Khi có nhiếu con ve đập cánh, âm thanh phát ra nghe giỏng như tiếng nhạc. Mức độ thứ hai: Nhùng con ve trưởng thành không ăn gì cả, nhưng ò giai đoạn nhộng, chúng ưôíng nhựa từ rễ cây. Mức độ thứ ba: Nhộng ve sông ở trong đất tử 13 tói 17 nám trưóc khi lên mặt đât và trỏ thành côn trùng có cánh. Mức độ thứ tư: Khi con ve trưởng thành chui ra khỏi mặt đất, chủng lột bò lóp vó nhộng đi. Mức độ thứ năm: Lóp xác nhộng của chủng có thê tìm thấy trên các cây hoặc trên các bê mặt cứng.
  72. Mức độ thứ sáu: Loài ve này sông chủ yếu ỏ khu vực phía đông nước Mĩ. Mức độ thứ háy: Một con ve sầu có chiếu dài lên tói 3cm. Mức độ thứ tám: Con ve trưởng thành đẻ trứng sau khi lẻn mặt đât được ba ngày. Mức độ thứ chín: Tên khoa học của loài này có nghía là "d ế th á n kỳ" và thứ hạng khoa học của loài này là "mười bày". Mức độ thứ mười: Lớp: Côn trùng Bộ: Có cánh Họ: Ve sầu Giông: Magicicada Loài: Magicicada septetĩđeám Hãy hình dung đến cảnh đứa con mói 2 tuổi của bạn có thể biết đưực hàng ngàn thông tin và còn nắm bắt đưực sự phân loại theo cách của Linnaeus! Tôi tin một điều rằng, ngài Carolus Linnaeus (1707- 1778) - người đầu tiên mang thứ tự phân loại khoa học đến vói sinh học - sẽ rất tự hào khi biết được rằng có hàng trăm đứa trẻ mói 2 tuổi (có thể đã có hàng ngàn và tương lai sẽ có hàng chục ngàn trẻ) nhận biết và hiểu đưực công trình mà ông là ngưòi tiên phong. Điều này chắc chắn sẽ làm ông vô cùng vui sướng. Có rất ít người trưởng thành biết đưực khái niệm lơ mơ về sự tồn tại của ngành, lóp, thứ tự, giống và loài sinh học; họ cũng chẳng quan tâm là có những gì trong các tầng phân loại đó. Đa số trẻ nhỏ đều rất hứng khỏi khi biết được tên khoa học đầy đủ của loài gấu xám Bắc Mĩ dữ tợn là Ursus Horribilis. Đặc biệt là trẻ rất thích khi
  73. bố mẹ đưa ra tấm thẻ có hình của chúng kết họp vói bộ mặt hung dữ và chất giọng đầy đe dọa khi nói rằng loại gấu đó là thuộc loài URSUS HORRIBILIS. Rõ ràng là các mức độ của thông tin sẽ tiếp tục phát triển và chỉ bị giói hạn bởi trình độ kiến thức trong một lĩnh vực nào đó của con người ở thòi điểm hiện tại mà thôi. Khi bắt đầu các Chưong trình Thông minh, bạn nên nhắm vào việc thiết lập phạm vi kiến thức trong các mục mà bạn sử dụng chứ không phải chỉ đon thuần hoàn thiện các mức độ của mỗi tấm thẻ riêng lẻ hoặc mỗi mục. Ban đầu, bạn tập trung vào việc thực hiện một Chưong trình Thông minh ở mức độ đầu tiên đối vói tất cả các thẻ mà bạn đã loại ra & tất cả các mục. Hoàn thành xong bước này, bạn sẽ bắt đầu xây dựng các mức độ khó hon ở tất cả các mục. Vói mức độ tăng dần như thế, các thông tin trong mỗi Mục sẽ bắt đầu có nhiều điểm trùng nhau. Kết quả là bạn đã có một chưong trình vói hệ thống kiến thức to lón mà trong đó không có thông tin mói nào lại không có liên quan tói các thông tin khác. Vào thòi điểm tiến đến giai đoạn này, bạn sẽ nhận ra rằng bạn càng dạy trẻ nhiều bao nhiêu thì khả năng tiếp thu của trẻ càng tăng bấy nhiêu. Và đây quả là giai đoạn tuyệt vòi đối vói cả bạn và trẻ. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KHÁC CỬA CHƯƠNG TRÌNH THÔNG MINH 1 . Một Chưong trình Thông minh phải có tính chính xác. Nó là một dữ kiện, chứ không phải là một quan điểm hay một giả định. Ví dụ, "George Washington là vị tổng thống đầu tiên của nước Mĩ” là một Chưong trình Thông minh; nhưng "ơachary Taylor là một vị tổng thống tồi" thì lại không phải, vì đây là một quan điểm. 2 . Một Chưong trình Thông minh phải rõ ràng. Ngôn từ phải đưực dùng một cách rõ ràng và trực tiếp để tránh bất kỳ sự hiểu sai nào. Ví dụ "Báo gepa là loài động vật có vú nhanh nhất trên Trái Đất" là một lòi phát biểu rõ ràng và không ai có thể hiểu sai đưực.
  74. bố mẹ đưa ra tấm thẻ có hình của chúng kết họp vói bộ mặt hung dữ và chất giọng đầy đe dọa khi nói rằng loại gấu đó là thuộc loài URSUS HORRIBILIS. Rõ ràng là các mức độ của thông tin sẽ tiếp tục phát triển và chỉ bị giói hạn bởi trình độ kiến thức trong một lĩnh vực nào đó của con người ở thòi điểm hiện tại mà thôi. Khi bắt đầu các Chưong trình Thông minh, bạn nên nhắm vào việc thiết lập phạm vi kiến thức trong các mục mà bạn sử dụng chứ không phải chỉ đon thuần hoàn thiện các mức độ của mỗi tấm thẻ riêng lẻ hoặc mỗi mục. Ban đầu, bạn tập trung vào việc thực hiện một Chưong trình Thông minh ở mức độ đầu tiên đối vói tất cả các thẻ mà bạn đã loại ra & tất cả các mục. Hoàn thành xong bước này, bạn sẽ bắt đầu xây dựng các mức độ khó hon ở tất cả các mục. Vói mức độ tăng dần như thế, các thông tin trong mỗi Mục sẽ bắt đầu có nhiều điểm trùng nhau. Kết quả là bạn đã có một chưong trình vói hệ thống kiến thức to lón mà trong đó không có thông tin mói nào lại không có liên quan tói các thông tin khác. Vào thòi điểm tiến đến giai đoạn này, bạn sẽ nhận ra rằng bạn càng dạy trẻ nhiều bao nhiêu thì khả năng tiếp thu của trẻ càng tăng bấy nhiêu. Và đây quả là giai đoạn tuyệt vòi đối vói cả bạn và trẻ. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KHÁC CỬA CHƯƠNG TRÌNH THÔNG MINH 1 . Một Chưong trình Thông minh phải có tính chính xác. Nó là một dữ kiện, chứ không phải là một quan điểm hay một giả định. Ví dụ, "George Washington là vị tổng thống đầu tiên của nước Mĩ” là một Chưong trình Thông minh; nhưng "ơachary Taylor là một vị tổng thống tồi" thì lại không phải, vì đây là một quan điểm. 2 . Một Chưong trình Thông minh phải rõ ràng. Ngôn từ phải đưực dùng một cách rõ ràng và trực tiếp để tránh bất kỳ sự hiểu sai nào. Ví dụ "Báo gepa là loài động vật có vú nhanh nhất trên Trái Đất" là một lòi phát biểu rõ ràng và không ai có thể hiểu sai đưực.
  75. Các Chương trình Thông minh có thể đưực sử dụng để gắn kết các mục bị loại lại vói nhau. Ví dụ, vói thông tin "George Washington đưực sinh ra ở Virginia", nếu trẻ đã biết George Washington và cũng đã biết bang Virginia thì thông tin này quả là tuyệt vì nó đã kết họp chặt chẽ hai mục dường như chẳng có gì liên quan đến nhau. Khi cả bạn và trẻ khám phá ra nhiều cách hon nữa để liên kết các mục vói nhau thì sự húng khỏi tìm tòi những mối quan hệ mói sẽ càng trở nên hấp dẫn. Chưong trình Thông minh phải có tính thân thuộc. Câu nói "Bach đưực coi là ngưòi thầy của dòng nhạc fagu" (thể loại âm nhạc phức điệu) là hoàn toàn đúng, nhung nếu coi đây là chưong trình đầu tiên về Bach thì nó lại mang tính riêng tư nhiều hon. Nếu bắt đầu bằng câu "Bach có 23 đứa con" thì bạn sẽ tiến gần hon và nhanh hon đến vói những điều bạn muốn. Bạn có thể dễ dàng quay trở lại và đưa ra các thông tin phức tạp hon về người đàn ông có 23 đứa con. Nói tóm lại, bạn cần thông tin ở mức độ ban đầu đê mở ra những cánh cửa tri thức cho trẻ. Để khiến trẻ có ý muốn khám phá những cánh cửa đó, chưong trình giảng dạy ban đầu của bạn phải dựa trên những dữ liệu mà trẻ đã thân thuộc. Và sau đó, bạn có thể bổ sung những mảng dữ liệu khó hon mà không gặp bất kỳ trở ngại nào. Chưong trình Thông minh còn phải thú vị nữa. Sự thật là thành phố Philadelphia có diện tích là "x" mét vuông, nhưng thông tin đó cũng chẳng có nghĩa lý gì nếu như không phải bạn đang thực hiện một Chưong trình Toán học và nội dung chủ chốt mà bạn muốn hướng tói là mét vuông. Sẽ thật thú vị biết bao nếu trẻ biết rằng "Philadelphia là quê hương của Chuông Tự do" (hoặc " là quê hương của các học viện). Nếu bạn thấy một dữ liệu là khô khan và vô nghĩa, khả năng lớn là trẻ cũng sẽ cảm nhận như vậy. Tốt nhất bạn nên tìm những thông tin khiến bạn hứng thú, bởi đó cũng là những thông tin trẻ quan tâm. Chương trình Thông minh phải mang tính hài hước khi cần thiết. Yếu tố hài hước thường không được đánh giá cao trong tất cả các công cụ giảng dạy. Thông tin "Tchaikovsky đã dùng tay trái để giữ cằm và tay phải đê điều khiển dàn nhạc vì ông sợ cái đầu của ông sẽ rơi xuống" lại chứng tỏ có tác động mạnh hơn tói những em nhỏ trong Viện Evan Thomas hơn hầu hết tất cả các Chương trình Thông minh khác. Thế giói của chúng ta có đầy rẫy những sự kiện thú vị, bạn hãy tận dụng chúng.
  76. CÁCH TÌM KIẾM CHƯƠNG TRÌNH THÔNG MINH Noi đầu tiên để thu thập thông tin về những "bit" thông minh bạn đã loại ra chính là từ nguồn dữ liệu mà ban đầu bạn đã tìm thấy nó. Một vài ông bố, bà mẹ thông thái đã kịp lưu bản sao của những thông tin ở phía sau các tấm thẻ vào một hồ sơ dữ liệu trước khi đóng khung tấm thẻ đó. Bạn cũng sẽ cần một cuốn từ điển bách khoa bằng giấy hoặc từ điển bách khoa điện tử. Những cuốn từ điển tổng họp rất hữu dụng trong mỗi phần chương trình của bạn. Bạn hãy đến thư viện nơi bạn sinh sống nếu như không đủ tiền mua một cuốn. Bất kỳ khi nào bạn cảm thấy không chắc chắn về thông tin nào đó, hãy lập tức tra cứu chúng trong từ điển. Đừng bao giờ dạy trẻ những thứ mà bạn nghĩ là đúng, hãy luôn luôn kiểm tra độ chính xác của chúng. CÁCH CHUẨN BỊ MỘT CHƯƠNG TRÌNH THÔNG MINH CÓ bốn cách để trình bày các Chương trình Thông minh. Cách dễ nhất là viết ra chương trình mà bạn dự định lên những tờ giấy nhớ cỡ 13 X 20cm. Trên mỗi tờ phiếu, bạn hãy viết ra năm chương trình (Sau này bạn sẽ đọc chúng cho trẻ nghe). Một cách khác nữa là viết lên những tấm thẻ học câu. Bạn cũng sẽ đọc những câu đó cho bé nghe, điều khác biệt là bé sẽ nhìn thấy các từ mà bạn đọc lên. Còn một cách nữa để giói thiệu cho trẻ về các Chương trình Thông minh, đó là tự tạo ra một cuốn sách thật đẹp từ năm đến 10 trang vói mỗi trang là một chương trình. Đầu tiên bạn đọc sách cho trẻ nghe, sau đó trẻ sẽ tự đọc chúng. Kích cỡ của cuốn sách phụ thuộc vào khả năng đọc của trẻ ở thòi điểm đó. Cách thứ tư là in thông tin vào ngay mặt sau của tấm thẻ "bit" thông minh theo thứ tự tăng dần về mức độ, từ mức độ đầu tiên đến mức độ cao nhất (có thể in ngay dưới tên của mỗi tấm thẻ). Các bậc cha mẹ hoàn toàn có thể làm được điều này. Những tấm thẻ được tạo ra từ học viện cũng có 10 Chương trình Thông minh được in ở mặt sau của mỗi tấm thẻ.
  77. CÁCH THỨC GIẢNG DẠY CHƯƠNG TRÌNH THÔNG MINH Một buổi Mỗi buổi dạy chỉ nên bao gồm tối đa năm chưong trình (mỗi chưong trình cung cấp năm thông tin). Thòi gian để đọc mỗi chưong trình thường dài hon việc sử dụng các tấm thẻ, chính vì vậy, mỗi buổi dạy chỉ nên có ít thông tin để đảm bảo độ ngắn gọn. Nếu ý định của bạn chỉ là nói cho trẻ biết về các chưong trình, hãy sử dụng hệ thống giấy ghi nhớ để tiến hành việc giảng dạy. Khi cung cấp cho trẻ một vài thông tin mói, sẽ rất thú vị nếu bạn tìm lại năm tấm thẻ cũ và đưa ra thật nhanh cho trẻ thấy. Ví dụ: Bạn lấy ra các tấm thẻ "bỉt" thông minh về các loài côn trùng, vừa đưa ra cho trẻ và vừa nói: Bọ rùa hai chấm - "Bọ rùa hai chấm ăn thịt các loài côn trùng khác, trong đó có nhiều loài là vật nuôi trong nhà.” Bọ que khổng lồ - "Nếu phưong pháp ngụy trang để tự bảo vệ thất bại, bọ que khổng lồ sẽ thải ra một chất lỏng có mùi hôi thối để xua đuổi những kẻ săn mồi.” Chuồn chuồn - "Ớ giai đoạn ấu trùng, chuồn chuồn sống ở dưói nước; chúng ăn các loài nòng nọc, cá nhỏ và những côn trùng sống ở dưới nước.” Ruồi - "Những con ruồi trưởng thành sống chủ yếu dựa vào những chất lỏng có vị ngọt hoặc những chất thối rữa.” Châu chấu - "Loài châu chấu tồn tại nhờ cỏ, cây trồng, thực vật và hoa quả.” Buổi dạy này sẽ kéo dài trong vòng 10 đến 15 giây. Nếu muốn sử dụng các câu viết sẵn thay vì các tấm thẻ có hình ảnh, hãy đưa chúng ra khi bạn đọc. Nếu thích dùng sách, bạn hãy ngồi cạnh trẻ và đọc cùng vói trẻ. Dù lựa chọn cách nào, bạn cũng nên tiến hành thật nhanh và phải thật thú vị.
  78. Các buổi trong một ngày Thật thú vị khi sử dụng năm mục khác nhau, mỗi mục có năm Chương trình Thông minh. Mỗi ngày bạn dùng mỗi mục ba lần. Bạn có thể bổ sung thêm số mục theo ý muốn. THÊM VÀO NHỮNG CHƯƠNG TRÌNH MỚI VÀ BỎ ĐI NHỮNG CHƯƠNG TRÌNH c ũ Sau năm ngày, bạn hãy bỏ đi tất cả những chương trình mà bạn vừa sử dụng và thay thế vào đó năm chương trình mói thuộc mỗi mục. Điều này có nghĩa là một chương trình mói sẽ được sử dụng mỗi ngày ba lần trong suốt năm ngày (tổng số 15 lần) trước khi được xếp vào loại chương trình cũ. Bạn sẽ thêm vào tối thiểu 25 chương trình mói sau năm ngày. Nếu bạn nhận thấy rằng trẻ tiếp thu nhanh hơn, bạn hãy loại bỏ chương trình cũ sớm hơn và thêm vào những chương trình mói. Khi đã dùng hết các chương trình tốt trong một mục nào đó, hãy bỏ chúng đi và bắt đầu làm việc lại với một chương trình đã bị loại trước đó. CÁC MỨC ĐỘ CỬA THÔNG TIN Khi bạn hoàn thành các chương trình ở mức độ đầu tiên, bạn sẽ bắt đầu sử dụng mức độ thứ hai. Mỗi mức độ sau yêu cầu phải có kiến thức cơ bản rộng hơn mức độ trước nó. Bỏi vậy, chương trình đầu tiên của bạn sẽ bao gồm những thông tin mói nhưng vẫn nằm trong phạm vi quen thuộc. Trong những chương trình ban đầu, bạn sẽ chỉ sử dụng những từ ngữ quen thuộc. Dần dần, vốn từ đó sẽ trở nên càng ngày càng phức tạp hơn. Bằng cách này, trẻ không những có một nền tảng kiến thức vững chắc mà trong đầu còn luôn mong muốn tiếp nhận những thông tin mói hơn. Bản thân bạn chính là người chịu trách nhiệm tạo ra các bước tiến trong việc kết họp thông tin mói phù họp vói phạm trù mà trẻ có thể hiểu và thấy thích thú. Quả thực, sự cân bằng giữa hai yếu tố này chính là nền tảng cho tất cả các phương pháp giảng dạy tốt. TÓM TẮT
  79. Đến thòi điểm này, bạn cần nắm rõ một điều là bạn có thể dạy trẻ hầu như bất kỳ điều gì mà bạn có khả năng diễn đạt một cách chân thật và thực tế. Bạn có thể truyền đạt cho trẻ tất cả những chủ đề mà bạn biết và thấy trân trọng. Bạn cũng hoàn toàn có khả năng dạy bé về những chủ đề mà bạn đã rất muốn học nhưng lại chưa có cơ hội. Ngay cả những chủ đề mà trước đây bạn không thật sự giỏi, bạn cũng vẫn có thể dạy cho bé. Thực tế, các bà mẹ đã từng sử dụng thẻ "bit" thông minh để dạy trẻ trong suốt 11 năm hoặc hơn cũng nhận ra rằng thái độ của họ về tri thức và việc học tập hoàn toàn thay đổi. Đối vói những bà mẹ này, thế giói giống như con hàu trong tay họ vậy, không có một chủ đề nào có thê gây khó khăn cho họ cả. Có thể họ không biết được tất cả các thông tin trên thế giói, nhưng họ lại có những sáng kiến tuyệt vòi đê có được các thông tin họ cần. Họ có khả năng liên kết vói thế giói. Chúng ta sẽ còn phải tiếp tục kinh ngạc trước khả năng tưởng tượng không giói hạn của các ông bố, bà mẹ chuyên nghiệp. Chúng ta hoàn toàn có thể kết luận rằng không có cặp bà mẹ nào thực hiện cùng một Chương trình Thông minh cả. Mỗi một chương trình dành cho một đứa trẻ là sự phản ánh độc nhất về sự sáng tạo, óc tưởng tượng và tài phát minh của người mẹ. Cũng tương tự như khả năng của trẻ nhỏ, tài sáng chế của người mẹ là vô hạn. Mỗi bà mẹ tham gia vào hành trình này đều có chung mong muốn là phát triển khả năng của con mình. Họ làm việc này vói năng lực và sức mạnh lớn đến mức họ hầu như không có thòi gian để đánh giá những thay đổi đang diễn ra trong khả năng và quan điểm của chính họ. Mãi cho đến một ngày, họ nhận ra họ vô cùng hạnh phúc khi chuẩn bị dạy cho con của mình những phép tính hay là môn vật lý hạt nhân; và thấy mình được tiếp sức bởi chính sự can đảm của bản thân. Họ có thoáng chút sửng sốt, nhưng cảm xúc này không kéo dài. "Mình vẫn luôn thầm cảm nhận là mình có thể học được bất cứ điều gì," họ nói điều đó vói chính bản thân mình và lại tiếp tục công việc dạy dỗ con cái. Khả năng học tập của chúng ta thậm chí còn không thể tốt bằng một phần so vói trẻ nhỏ, cả kết quả học tập cũng vậy. Tuy vậy, chúng ta lại có niềm vui sướng và vinh dự vì được tiếp nhận những học trò tuyệt vòi và nhẹ nhàng nâng chúng lên trên đôi vai của mình. Các bậc cha mẹ chuyên
  80. nghiệp của chúng ta có bờ vai thật rộng lớn và tầm nhìn mà họ mang lại cho những đứa trẻ của chúng ta cũng thật khoáng đạt.
  81. Cách tạo ra các Chương trình Thông minh Viện thường tuân theo các hướng dẫn có tổ chức mà họ đã thiết lập để tạo ra các tấm thẻ "bit" thông minh, các mục và cả các Chưong trình Thông minh; nhưng chính mỗi bậc cha mẹ lại là người sắp xếp hệ thống truyền đạt các chưong trình và các mức độ của thông tin. Dưới đây là một số ví dụ về Chưong trình Thông minh để các bậc phụ huynh tham khảo. Dựa trên những ví dụ này, các bạn có thể tạo ra Chưong trình Thông minh phù họp vói con mình. Chúng ta đều biết rằng việc sử dụng những nguồn dữ liệu xác thực có sẵn như là một tài liệu tham khảo để tạo ra các Chưong trình Thông minh là một lựa chọn sáng suốt. Nếu thư viện cá nhân trong gia đình không có đủ những tác phẩm giá trị về các chủ đề giảng dạy, thì thư viện công cộng ở địa phưong chính là noi cung cấp nguồn dữ liệu hàng đầu. Ớ đây chúng tôi đưa ra ở mỗi mảng kiến thức một "bit" thông minh khác nhau. Và bạn hoàn toàn có thê linh hoạt chọn những "bỉt" thông minh khác phù họp vói con mình. Nếu chủ đề dạy là Chưong trình Thông minh về loài Đại bàng đầu bạc thuộc: Mảng kiến thức Sinh học Mục Các loài chim Bộ Các loài chim sán mổi "Bit" thông minh Đại bàng đầu bạc Bạn có thể tìm nguồn dữ liệu tuyệt vòi để viết một Chưong trình Thông minh ở một trong số các cuốn sách của về các loài chim. Bạn sẽ nhanh